Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

lương hoàng sám



TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
LƯƠNG HOÀNG SÁM
HT.THÍCH TRÍ TỊNH  giảo chính
Dịch giả:  TT..VIÊN GIÁC
--- o0o ---
Nguồn
www.quangduc.com 
Chuyển sang ebook 11 – 8 - 2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org

Mục Lục
LỜI GIỚI THIỆU
THAY LỜI TỰA
SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?
NGHI THỨC TỤNG NIỆM
TỤNG CHÚ ÐẠI BI
QUYỂN THỨ NHỨT
CHƯƠNG THỨ NHẤT : QUY Y TAM BẢO
CHƯƠNG THỨ HAI : DỨT NGHI NGỜ
CHƯƠNG THỨ BA : SÁM  HỐI
QUYỂN THỨ HAI
CHƯƠNG THỨ TƯ : PHÁT BỒ ÐỀ TÂM
CHƯƠNG THỨ NĂM : PHÁT  NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ SÁU : PHÁT TÂM HỒI HƯỚNG
QUYỂN THỨ BA
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
QUYỂN THỨ TƯ
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
CHƯƠNG THỨ TÁM : RA KHỎI ĐỊA NGỤC
QUYỂN THỨ NĂM
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
QUYỂN THỨ SÁU
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
QUYỂN THỨ BẢY
CHƯƠNG THỨ MƯỜI : TỰ VUI MỪNG
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT : TƯỞNG NHỚ ƠN TAM BẢO
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI :CHỦ SÁM LỄ TẠ ĐẠI CHÚNG
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA : TỔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN : LỄ PHẬT THẾ CÁC CÕI TRỜI
CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TIÊN CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TRỜI
QUYỂN THỨ TÁM
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY :LỄ PHẬT THẾ A TU LA VÀ HẾT THẢY THIỆN
THẦN
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM : CÒN THIẾU
CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ MA VƯƠNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHO NHƠN ĐẠO, QUỐC VƯƠNG
V.V...
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ QUYẾN THUỘC CỦA QUỐC
CHỦ
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ CÁC ĐỜI TRƯỚC
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN : LỄ PHẬT THẾ SƯ TRƯỞNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM : LỄ PHẬT THẾ MƯỜI PHƯƠNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ TỨ CHÚNG QUÁ KHỨ
QUYỂN THỨ CHÍN
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM : LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG
ĐỊA NGỤC KHÔI HÀ, ĐỊA NGỤC THIẾT HOÀN V.V...
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG
NHỮNG ĐỊA NGỤC UỐNG NƯỚC ĐỒNG SÔI, ĐIẠ NGỤC HẦM HỐ V.V.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC ĐỊA
NGỤC, ĐAO BINH, ĐỒNG PHỦ V.V...
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC
ĐỊA NGỤC HỎA THÀNH ĐAO SƠN V.V...
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG
NGÃ QUỈ
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG
SÚC SANH
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN : VÌ SÁU ĐƯỜNG CHÚNG SANH MÀ PHÁT
NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM : CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ NGƯỜI LÀM CÔNG QUẢ Ở
CHÙA
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY : PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG THẾ CHO CHÚNG SANH
QUYỂN THỨ MƯỜI
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM : BỒ TÁT HỒI HƯỚNG
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN : PHÁT NGUYỆN
PHÁT NGUYỆN VỀ NHÃN CĂN (con mắt).
THỨ LẠI PHÁT VỀ NHĨ CĂN (lỗ tai)
KẾ ĐẾN NGUYỆN VỀ TỈ CĂN (lỗ mũi)
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THIỆT CĂN  (lưỡi)
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THÂN CĂN
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ Ý CĂN
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ KHẨU NGHIỆP CHƯ HẠNH PHÁP MÔN
PHẦN CHÚC LỤY
TÁN PHẬT CHÚ NGUYỆN


--- o0o ---

LỜI GIỚI THIỆU

Phàm  là người sanh  trong cõi Dục này,  trừ các bực đã hoàn  toàn giác ngộ,
thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.

Các tội lỗi dã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất
nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.

Phật dạy:

“Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà
được giải thoát”.

Cũng  như,  nếu  không  nhờ  bộ  Lương  Hoàng  Sám  nầy  thì,  bà  Hy  Thị  là
Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.

Vì  thế  nên bộ Lương Hoàng Sám  nầy  có một  hiệu  lực mạnh mẽ,  làm  cho
người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.

Cảm thấy sự phiên dịch của Ðại đức Thích Viên Giác rất dày công phu, nên
tôi xin có vài lời giới thiệu đến toàn thể các Phật tử xa gần và hy vọng rằng,
bộ Lương Hoàng Sám này được phổ biến mười phương và sẽ đem lại sự lợi
lạc chung cho tất cả; nếu ai có tín tâm thật hành theo. 

Cẩn chí

Trị sự Trưởng G.H.T.G.N.V.

THÍCH THIỆN HÒA

--- o0o --- THAY LỜI TỰA

Theo  lời  tựa  trong  chánh  văn  thì  bộ LƯƠNG HOÀNG SÁM  này  do Hòa
thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Ðế bên Tầu.

Nguyên Vua Lương Võ Ðế,  có một bà Hoàng  hậu  yêu quý  nhất  tên  là Hy
Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị
ganh  tị  các  cung phi, độc  ác  với mọi  người  và  hủy báng Tam Bảo. Trong
Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.

Sau  bà  nhuốm  bệnh  nặng,  các  lương  y  đều  thúc  thủ,  bà  phải  từ  trần. Một
hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch. Vua Lương Võ Ðế
nghe tiếng người kêu van thảm thiết.

Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Ðế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng
không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng
nghiêm mật  thế này  lại vào đây được?” – Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính  là
Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãn xà. Ngày đêm
đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không
thể chịu được.

Nhớ  lại  tình  cầm  sắc  xưa  kia  nên  thiếp  đến  đây mong  nhờ Hoàng  đế  tìm
phương  cứu  thiếp. Nói  rồi  biến mất. Nghe  xong, Vua  Lương Võ Ðế  như
thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể
lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.

Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung  thỉnh Hòa thượng Chí Công
lo việc này. Vua lương Võ Ðế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao
tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, ngài liền triệu
tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này và lập Ðàn tràng làm lễ sám hối cho
Hoàng hậu Hy Thị.

Nhà Vua  chí  tâm,  thân  hành  lễ  bái. Vài  hôm  đầu,  người  ta  nghe  có  mùi
hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.

Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ
Ðế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng ngưởi,
tỏ lòng cám ơn Hòa thượng Hoàng đế.
 Hy Thị  cho biết bà đã  thoát nạn  và đã  sanh  lên Ðao Lợi Thiên Cung,  nhờ
công đức sám hối.

Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thạnh hành.

Bản chánh bằng Hán văn  trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và  lời sám đều
rút trong Tam Tạng Thánh giáo Ðại thừa.

Năm 1948 – 1950, Bồ tát giới Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc
việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 2 tập.

Năm 1952,  lúc còn  tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế,  tôi bắt đầu dịch
nghĩa bộ này ra tiếng Việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.

Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn
muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.

Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong giúp hàng sơ cơ một
phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương về Lạc
Quốc.

Tôi  nguyện  xin  nhờ  công đức phiên dịch  này  làm  cho  người  tu hành  ngày
càng  tinh  tiến, nghiệp chướng chóng  tiêu  trừ,  thân  tâm  thường an  lạc và sở
cầu được như nguyện.

Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng,
người  tùy  hỷ,  đều  được  lợi  lạc,  thoát  khổ  não,  và  nguyện  xin  cho  tất  cả
chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối. 

--- o0o ---
SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?

-    Kinh dạy:

-    Sám là sám kỳ tiền khiên. - Hối là hối kỳ hậu quá.

-    Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.
 - Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao
giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.

Chữ Phạn gọi là Sám ma; Tàu dịch là hối quá; ghép cả hai chữ lại mà đọc là
Sám hối.

Sám hối cũng có sự sám và là sám.

Sự  sám  tức  là  thiết  lập Ðàn  tràng,  trang  nghiêm  Phật  tượng,  cúng  dường
hương hoa, ân cần đảnh  lễ, thành khẩn nguyện cầu  tam nghiệp như nhất, tỏ
bầy  tội  lỗi. Cầu  xin chư Phật,  chư đại Bồ  tát phóng  hào quang, dùng  thần
lực,  gia  hộ  cho  kẻ  tu  hành mau  tiêu  trừ  nghiệp  chướng,  chóng  thoát  oan
khiên, sạch hết tội lỗi.

 Lý sám là sám hối tự tâm

 Tội thành do tâm tạo

 Tội diệt phải do tâm sám;

 Tâm không thì tội cũng không,

 Tội diệt thì tâm cũng diệt.

Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân
thật sám hối.

Sau khi lạy một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch
vọng  tưởng, quán  lý vô sanh, phải biết  tội do nhơn duyên mà  thành,  thì  tội
cũng do nhơn duyên  mà diệt. Nhơn duyên là những điều kiện tạo nên tội và
phương pháp sám hối.

Tội  vốn  không  thật  có. Vì  không  thật  có,  nên  chúng  ta  có  thể  chuyển  tội
thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.

Khi  xướng một  câu  danh  hiệu  Phật,  chúng  ta  cần  phải  thật  hiểu  nghĩa  lý
danh hiệu ấy. Hiểu để  tu  tập, để  làm  theo những đức  tánh cao đẹp của chư
Phật.
 Ví như chúng  ta xướng câu. “Nam mô Phổ Quang Phật”,  thì  ít  ra chúng  ta
cũng phải hiểu sơ như thế này:

Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức
tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).

Ngoài  ra chúng  ta cũng cần  tìm hiểu  thêm bản  tâm của chúng  ta. Tâm của
chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.

NAM MÔ.- Nghĩa là quy y, kính lễ, v.v...

PHỔ.- Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời
gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại Phổ có nghĩa hàm
súc những đức  tánh  từ bi hỷ xả với  tất cả mọi  loài, mọi vật, mọi chốn, mọi
nơi.

Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo
tiếng gọi của cõi  lòng, không tiêu cực mà  tích cực, không  ích kỷ mà vị tha,
không sân hận mà từ bi, không xan tham mà bố thí, không tật đố mà hỷ xả,
không ngu si mà trí huệ. 

QUANG- Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba
đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhơn và khổ quả của chúng sanh đã gây
tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết
hết.

Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở
theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.

PHẬT- Là đấng giác ngộ hoàn  toàn,  ta đang kính  lễ. Phật cũng  tức  là  tâm
sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra
ngoài thời gian.

Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật,

Vậy  từ nay  trở đi  ta phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức
hạnh như Phật, không tạo tội nữa.

Ðại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.
 Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do sự sám hối sẽ lưu lộ ra; nào
là từ bi hỷ xả, trí huệ, phước đức hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc
sức ta thọ dụng.

Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn  bôn
ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỉ mị tà thần.

Người  chánh  kiến  chỉ  biết  quy  y,  lễ  bái,  tôn  thờ  đức  Phật ở  tự  tâm,  nghe
tiếng nói của cõi lòng.

Lễ một đức Phật  tức  là  lễ hết  thảy mười phương chư Phật. Ðem  tâm  từ bi
bình  đẳng,  sự  lý  viên  dung,  trùng  trùng  vô  ngại  mà  bái  sám  thì  lo  gì  tội
không diệt, phước không sanh.

Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ
được  thần  lực  của Tam  bảo  gia  hộ mà  tiêu  trừ  nghiệp  chướng,  như  trong
chánh văn đã thuật rõ.

Phật dạy:

 “Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn”

Phật dạy:

“Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát”.

Nhờ  sám  hối  nên  vua A Xà Thế phạm  tội ngũ  nghịch  (giết  cha)  liền được
giải thoát.

 Ông Trương thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối
hận.

Có một  điều  đáng  chú  ý  nhất  là  thân  nghiệp  và  khẩu  nghiệp  thô  tháo  bên
ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp, vi tế bên trong, rất khó diệt. Ðến quả vị Phật
mới hết tham, sân, si.

Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chóng
trừ diệt được ba độc.
 Ngài Phổ Hiển Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải
phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.

Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám
hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.

Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị đại Bồ tát  lúc  lập đạo tràng an cư
từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.

Trong  kinh Bảo Tích, Phật  dạy:  “Hàng  ngày  nên  đảnh  lễ  danh  hiệu  35  vị
Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.

Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.

Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là
một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.

Không  sám  hối  rất có  hại: Nghiệp  chướng không  tiêu  trừ;  tội  lỗi  còn mãi,
oan khiên nhiều kiếp theo hoài.

Ngài Ngộ Ðạt quốc sư mười đời  làm cao  tăng mà Triệu Thố vẫn còn  theo
báo mãi.

Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo,
đều bị trở ngại, tu chứng bất thành.

Kinh sách dùng để  sám hối có  rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên
Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh sám, Chuẩn Ðề sám và Dược Sư sám v.v...

Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này  lể rõ tội nhơn khổ quả, nghe đến ai cũng
phải  lạnh mình khiếp sợ mà phát  tâm cải ác  tùng  thiện ngay. Bộ này  lại có
công  năng diệt  trừ  tiền khiên, oan  trái  nhiều kiếp,  nhiếu đời, đọc đến phải
cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhắm mục đích đền trả bốn ơn, cứu
thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi
trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện, hồi hướng.

Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng sám, dù không muốn phát đại tâm
cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải hợ Tam đồ.
 Những người tu Tịnh Ðộ phát tâm Bồ đề thường nên tu theo pháp sám này,
để mau về Cực Lạc.

Có  thể nói bộ Lương Hoàng Sám này  là “bửu bối”  riêng của những người
cầu vô thượng đạo, phát bồ đề tâm vậy.

Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn.

Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:

 Sám vừa cử lên

 Tội lỗi tiêu liền;

 Giải được oan trái,

 Trừ được tai ương;

 Thoát khỏi khổ nạn,

 Phước đức vô biên.

 Sanh lên Ðạo lợi, 

 Hoặc về Tây phương.

Văn Thủy Sám cũng nói: “Lúc nghiệp báo đến, tội nhơn không thể rúc vào
núi đá,  lặn xuống đáy nước, bay  lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy
chỉ có nhờ phương pháp sám hối mả thoát được tai nạn mau chóng hơn hết,
độc nhất vô nhị”.

Sám hối  lợi cho mình,  lợi cho người, cho  tất cả  tam đồ,  lục đạo pháp giới
chúng sanh.

Công  đức  sám  hối  nói  không  cùng  nghĩ  không  tận.  Tôi  chỉ  xin  đốt  nén
hương lòng cầu xin Tam bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người
ấn tống đồng phát Bồ đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức. 
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT 
 Trong  lúc phiên dịch văn này,  tôi không có hy vọng gì cao xa hơn  là giúp
cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành  thiết thực để về Tây phương Cực
Lạc.

Do  đó,  đầu  quyển  thứ  nhất  có  nghi  thức  khai  kinh  thông  thường  dễ  tụng.
Cuối  quyển  thứ mười  có  nghi  thức Tịnh  độ,  cầu  sanh An  dưỡng  làm  tiêu
chuẩn hồi hướng.

Sau hết tôi xin chân thành cảm  tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ
giáo cho tôi những khiếm  khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn toàn hơn.

Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam bảo, đức
Quán Thế Âm Bồ tát, đức Vô Biên Thân Bồ  tát, và chư vị Hộ pháp đã mật
hùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tượng tôi không làm được.

Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Ðại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi
tu hành. Ni chúng bộ V.N. đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện
nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.

Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo. 

DỊCH GIẢ:  TỲ KHEO  THÍCH VIÊN GIÁC

Viết xong tại Tu viên Giác Hải

Ðiện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả

Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh tý 2504 (1960)

 
--- o0o ---
NGHI THỨC TỤNG NIỆM

 
KỆ KHAI CHUÔNG
 

Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ,
 Trí huệ lớn Giác đạo sanh.

Lìa địa ngục khỏi hầm lửa,

Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
 

Án dà ra đế da ta bà ha  (3lần)
 
KỆ NIỆM HƯƠNG

Hương giới, hương định cùng hương huệ.

Hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến;

Ðài mây sáng chói trùm cõi pháp,

Cúng dường trước mười phương ngôi Tam Bảo.

Nguyện các hương hoa này,

Trải khắp đến mười phương;

Không lường trong cảnh Tịnh,

Không lường hương trang nghiêm;    
Ðầy đủ hạnh Bồ tát,

Thành tựu hương Như Lai.

Nam mô Hương cúng dường Bồ tát.  (3lần)

 
KỆ PHÁT NGUYỆN
 
   Chúng sanh không ngằn thệ nguyện độ,

   Phiền não không cùng thệ nguyện đoạn;

   Pháp môn không lường thệ nguyện học, 
   Phật đạo cao tột thệ nguyện thành.

   Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,

   Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn;

   Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,

   Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành.  (3lần) 

Ðệ  tử  tên  .  .  .  .  .   pháp danh  .  .  .  .  . chí  tâm khẩn nguyện, chuyên  trì  lễ bái
Lương Hoàng Từ Bi Sám pháp, cầu sanh Tịnh độ, hiện tiền một lòng chẳng
rối, tỏ ngộ Vô sanh, ngày khắc mạng tròn báo đủ, sanh về cõi Phật. Trên đài
sen báu, hầu Phật nghe Pháp, bạn cùng Bồ tát, vui cảnh Lạc Bang, mau  lên
quả vị Bất thối, trở lại Ta Bà, hóa độ chúng sanh, làm nên đạo cả.

Nam mô Chứng Minh sư Bồ tát.  (3lần) 

 
KỆ KHEN PHẬT

Ðấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng;

Thầy dạy khắp trời người,

Cha lành chung bốn loài;

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ.

Xưng dương cùng tán thán.

Ức kiếp không cùng tận.

 
QUÁN TƯỞNG  

Năng lễ sở lễ tánh không tịch

Cảm ứng đạo giao năng tư nghì

Ngã thử đạo tràng như đế châu

Thập phương chư Phật ảnh hiện trung

Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền

Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ.  (1xá)

 
ÐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ:

Nam mô  tận  hư không, biến  pháp  giới, quá,  hiện,  vị  lai,  thập phương  chư
Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh tăng, thường trụ Tam bảo. (1lạy) 

Chí tâm đảnh lễ:

Nam mô Ta bà Giáo chủ Ðiều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa
Giáo chủ Di Lặc tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư lợi Bồ tát. Ðại Hạnh Phổ Hiền
Bồ tát, Linh Sơn hội Thượng Phật Bồ tát.(1lạy) 

Chí tâm đảnh lễ:

Nam mô Lạc bang Giáo chủ Ðại  từ bi phụ  tiếp dẫn Ðạo  sư A Di Ðà Phật,
Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại hải chúng
Bồ tát.(1lạy)

 
DƯƠNG CHI

Cành Dương nước tịnh,

Rải khắp ba ngàn. 
Tánh không tánh đức,

Lợi lạc trần gian

Cõi pháp rộng thinh,

Tiêu diệt tai nàn.

Ngạ quỉ vui an. 

Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát ma ha tát.(3lần)

 
--- o0o ---
TỤNG CHÚ ÐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật, Bồ tát. (3lần)

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.

Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế thước bác ra
da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn
ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết  lật đỏa y mông a  lị da, bà lô
kiết đế  thất Phật ra  lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn  trì hê  lị ma ha bàn đa sa
mế, tát bà a tha đậu du bằng a  thệ dựng, tát bà tát đa na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, Di hê lỵ, ma ha bồ đề
tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, lỵ đà dựng. Cu lô cu lô, yết
mông độ  lô độ lô, phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni,
Thất Phật ra da. Giá ra giá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất
na thất na.

A ra sâm Phật ra xá  lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô  lô hô  lô ma ra,
hô lô hô lô hê lỵ, Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà
dạ, bồ đà dạ, di đế lỵ dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na ta bà ha,
tất đà dạ ta bà ha, ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ ta
bà ha, Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha, Tất ra tăng a mục khê da ta
bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba
đà ma yết  tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn  trì bàn già ra dạ ta bà ha. Ma bà  lợi
thắng yết ra dạ ta bà ha. 
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lỵ da, bà lô kiết đế, Thước bàn
ra dạ ta bà ha.

Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da ta bà ha.(3lần)

      Ðại từ đại bi mẫn chúng sanh,

      Ðại hỷ đại xả tế hàm thức,

      Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm.

      Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.

      Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo.(3lần)

      Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật

      Nam mô Thi Khí Phật

      Nam mô Tỳ Xá Phù Phật

      Nam mô Câu Lưu Tôn Phật

      Nam mô Câu Na Hàm Mâu ni Phật

      Nam mô Ca Diếp Phật

      Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

      Nam mô Di Lặc Tôn Phật. 


BÀI KỆ KHAI KINH:

      Pháp vi diệu thâm sâu cao tột,

      Trăm ngàn muôn ức kiếp gặp đâu.

      Con nay thấy nghe được thọ trì, 
      Nguyện hiểu Như Lai nghĩa chơn thật,

      Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo.(3lần)

--- o0o ---

QUYỂN THỨ NHỨT
 
SÁM PHÁP TỪ BI ÐẠO TRÀNG

Từ bi Ðạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy.

Nhơn vì cảm thấy Ðức Phật Di Lặc, dủ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời
vị lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế, đúng như sự thật, không dám đổi
thay.

Nay vâng lời dạy bảo của Ðấng Từ Bi ấy là vì muốn hộ trì Tam bảo: làm cho
ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự đại và người tăng thượng mạn ([1])
phải  tự  chiết  phục;  khiến  người  chưa  trồng  căn  lành  phải  trồng  căn  lành;
người đã trồng rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến người hay chấp lấy
chỗ  sở  đắc  ([2])  đắm  trước  tà  kiến  ([3]),  phải  phát  tâm  xả  bỏ  chấp  trước;
khiến người ưa  tiểu  thừa ([4]) không nghi đại  thừa ([5]); người ưa đại  thừa
sanh tâm hoan hỷ tiểu thừa.

Vả lại, pháp sám từ bi nầy lớn hơn tất cả các việc lành khác. Pháp nầy là chỗ
quy y của hết  thảy chúng sanh; như mặt  trời sáng ban ngày; như mặt  trăng
chiếu ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là
chơn thiện tri thức của người tu hành, đồng đi đến đạo tràng.

Pháp  sám  nầy  thân  thích  hơn  huyết  nhục; đời đời  theo  nhau, dầu đến  chết
cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp sám nầy là Từ Bi Ðạo Tràng.

Hôm nay Ðại chúng ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo tràng, lập ra Pháp sám
nầy đều phát đại tâm, vì có mười hai nhơn duyên lớn.

Những gì là mười hai?

1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường ([6]) chúng sanh không có hạn lượng. 
2.- Hai là chuyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng.

3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến chúng sanh thọ cấm
giới của  

Phật, không sanh tâm hủy phạm.

4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối
với các bậc

tôn trưởng không sanh tâm kiêu mạn.

5.- Năm  là nguyện nhờ  thần  lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh,
sanh ra nơi nào   

cũng không khởi tâm giận hờn.

6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh đối
với sắc thân

người khác, không khởi tâm ghen ghét.

7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối
với các

pháp trong thân, ngoài thân, không sanh tâm keo rít, mến tiếc.

8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, hễ
làm được

phước  thiện gì, đều không phải vì mình mà  làm, chỉ vì những người không
có ai ủng

hộ, không có ai giúp đỡ mà làm.

9.- Chín  là  nguyện  nhờ  thần  lực  của Pháp  sám  nầy, khiến  các  chúng  sanh
không vì mình

mà tu pháp tứ nhiếp ([7]) mà chỉ vì hết thảy chúng sanh. 
10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh,
thấy người

cô độc tù tội, tật bệnh thì sanh tâm cứu giúp, cho họ an vui.

11.- Mười một  là  nguyện  nhờ  thần  lực  của Pháp  sám  nầy,  khiến  người  tu
hành, thấy có

chúng sanh nào đáng chiết phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ.

12.- Mười  hai  là  nguyện  nhờ  thần  lực  của Pháp  sám  nầy, khiến  các  chúng
sanh, sanh ra

nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự phát tâm bồ đề hôm nay,  làm cho tâm bồ
đề tương

tục mãi mãi không bị gián đoạn.

Ngưỡng mong Ðại chúng hoặc phàm hoặc thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình
trong Ðạo Tràng nầy, đồng gia tâm phù hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ
tử chúng con tên . . . . sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành tựu,
tâm đồng  tâm  chư Phật,  nguyện đồng  nguyện  chư Phật. Chúng  sanh  trong
bốn loài ([8]), sáu đường do đó mà được mãn bồ đề nguyện.

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ NHẤT : QUY Y TAM BẢO

Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp  trong Ðạo  tràng mọi người đều nên sanh
tâm giác ngộ; biết đời  là vô thường, thân không sống  lâu, trẻ mạnh rồi phải
già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà không tự giữ gìn tịnh hạnh.

Vạn vật cũng vô thường thảy đều tiêu diệt. Trên trời dưới đất, không có vật
gì tồn tại mãi mãi. Lúc còn trẻ, nhan sắc tốt đẹp, da thịt mịn màng, thơm tho
trong  sạch. Nhưng  thân  nầy  cũng  vô  thường. Người  sống  có  hợp  có  tan.
Sanh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ khử khổ ấy cho ta. Tai họa
thình lình đưa đến biết đâu mà tránh, không thể thoát được. Sang, hèn, giàu,
nghèo,  thảy  đều  nhơn  vậy  mà  chết.  Chết  rồi  thân  thể  sình  chương,  thối không  chịu  nổi. Vậy  luyến  tiếc  thân  nầy  nào  có  ích  gì. Nếu  không  lo  tu
nghiệp lành thù thắng, thì do đâu mà thoát ly sanh tử.

Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .  tự nghĩ  rằng: Hình  tợ sương mai, mạng như nắng
chiều: đời sống mong manh; chưa biết chết  lúc nào. Lại  thêm nghèo  thiếu,
không có phước đức đáng xưng; không có  trí  tuệ sáng suốt, không có hiểu
biết như đại nhơn thần thánh;  lời nói không  tốt đẹp, không trung hòa, nhơn
nghĩa, hạnh kiểm tiến thối không có lễ độ, tôn ty. Nếu  lầm  lập chí như vậy,
càng thêm mệt nhọc cho sự tu hành.

Ngưỡng mong Ðại chúng sanh  lòng hổ thẹn, sợ hãi. Pháp hội nầy  lập có kỳ
hạn, nếu không lo sám hối sau luyến tiếc, hối hận cũng không thể được.

Từ nay trở đi nguyện phải nỗ lực, sớm tối chuyên tâm, phụng sự cúng dường
càng thêm tinh tấn . Chỉ có việc ấy là khoan khoái, cần làm hơn hết.

Ngưỡng mong Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, nên phải ân cần, thận
trọng, phát  tâm dõng mãnh,  tâm không buông  lung,  tâm an  trú,  tâm quảng
đại,  tâm  thù  thắng,  tâm đại  từ bi,  tâm  lạc  thiện,  tâm  hoan  hỷ,  tâm báo ơn,
tâm tế độ, tâm giữ gìn hết thảy chúng sanh; tâm cứu hộ hết thảy chúng sanh,
tâm đồng  tâm Bồ Tát;  tâm đồng  tâm  chư Phật!  nhất  tâm  nhất  ý,  chí  thành
đảnh lễ Tam Bảo.

Nguyện  xin  thay  thế quốc  vương, đế  chúa,  thổ địa,  nhơn dân,  thế  cho  cha
mẹ, sư trưởng thượng, trung, hạ tòa, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ
thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long
thần bát bộ([9]), và hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận, trong mười phương,
có tâm linh, có thần thức, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên khô, hoặc ở giữa hư
không; nguyện  thế cho hết  thảy chúng sanh ấy mà quy y mười phương  tận
hư không giới hết thảy chư Phật.   (1lạy)

- Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.   (1lạy)

-  Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy hiền Thánh Tăng.   (1lạy)

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp  trong đạo tràng nên biết vì cớ gì mà phải
quy y Tam Bảo.

 Vì các Ðức Phật, các vị Bồ tát, có lòng đại từ vô lượng độ thoát thế gian, có
lòng đại bi vô lượng, an ủy thế gian, thương hết thảy chúng sanh như con đỏ. 
Lòng đại từ đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng cầu việc lành lợi ích
cho  tất cả:  thề dập  tắt  lửa  tham sân si cho  tất cả, giáo hóa khiến cho  tất cả
đều  được  quả  vô  thượng  bồ  đề. Nếu  chúng  sanh  không  chứng  quả  bồ  đề.
Phật thề không thành chánh giác, vì duyên cớ ấy nên đại chúng cần phải quy
y Tam Bảo.

Vả lại các đức Phật thương xót chúng sanh quá hơn cha mẹ thương con.

Trong kinh dạy rằng: “Cha mẹ  thương con chỉ một đời. Phật  thương chúng
sanh  tâm không cùng  tận. Lại nữa cha mẹ  thấy con vong ân bội nghĩa,  thì
sanh  lòng giận hờn,  tình  thương giảm xuống. Phật và Bồ  tát  thương chúng
sanh,  lòng  không  như  vậy.  Thấy  chúng  sanh  bội  nghịch  lòng  thương  của
Phật và Bồ tát càng tăng lên mãi.

Các Ngài  còn  vào  trong  địa  ngục  hỏa  luân,  địa  ngục  vô  gián mà  chịu  vô
lượng khổ, thế cho chúng sanh.

Vì thế nên biết rằng chư Phật và Bồ  tát thương xót chúng sanh hơn cha mẹ
thương con. Vậy mà chúng sanh vì vô minh ([10]) che lấp trí huệ, phiền não
che  lấp  tâm  tánh, đối với Phật và Bồ  tát không biết quay đầu  lại mà quy y,
không biết ngưỡng mộ. Thuyết pháp giáo hóa, chúng  sanh cũng không  tin,
không chịu mà còn thô lỗ, phỉ báng, chưa từng phát tâm niệm ơn chư Phật.

Vì chúng sanh không tin nên đọa vào đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sanh;
khắp trong ba đường ác ấy, chịu vô lượng khổ.

Tội  hết  được  ra,  tạm  sanh  làm  người,  tai mắt  không  đủ,  thân  thể  xấu  xa,
không tu thiền định, không tu trí huệ.

Chúng sanh có những quả báo chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng biết tội không tin nặng hơn
các tội, khiến người tu hành lâu không thấy Phật.

Hôm nay đại chúng  tự phải cùng nhau khẳng khái  tu hành, chiết ý  tỏa  tình
sanh  tâm  tăng  thượng,  khởi  lòng  hổ  thẹn,  cúi  đầu  cầu  xin  sám  hối  tội  cũ.
Nghiệp lụy hết rồi, trong ngoài thanh tịnh, sau mới vận tâm quay về đức tín,
phát  lòng tin  tưởng Tam Bảo. Nếu không khởi tâm như vậy, vận tưởng như
vậy, sợ lòng tin phải cách tuyệt, chướng ngại khó thông. Một khi đã mất nẻo xu hướng, thì mờ mịt không biết về đâu! Vậy thì chúng con không thể không
tin mà phải đầu thành đảnh lễ quy y Tam Bảo, không dám nghi ngờ.

Ðệ tử chúng con tên . . . nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới
mong hiểu biết,  rất  lấy  làm hổ  thẹn. Những  tội đã  làm nguyện xin  trừ diệt.
Những tội chưa làm không dám làm nữa.

Từ nay  trở đi, cho đến ngày  thành Phật, khởi  lòng  tin kiên cố, không dám
thối lui.

Xả thân nầy hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào ngã quỷ, hoặc sanh vào
súc sanh, hoặc sanh  làm người, hoặc sanh  làm trời, ở trong ba cõi, hoặc thọ
nam  thân, hoặc  thọ nữ  thân, hoặc  thọ phi nam phi nữ  thân v.v.  .  . hoặc  lớn
hoặc nhỏ, hoặc  lên hoặc xuống chịu đủ khổ não, không thể chịu nổi, chúng
con xin thề: không vì khổ ấy mà thối mất lòng tin ngày nay.

Thà  chịu  bao  nhiêu  khổ  lụy  trong muôn  ngàn  ức  kiếp,  chúng  con  xin  thề:
không vì khổ mà thối mất lòng tin hôm nay.

Nguyện  xin  chư  Phật,  chư  đại Bồ  tát,  đồng  gia  tâm  cứu  hộ,  đồng  gia  tâm
nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . tín tâm được kiên cố, đồng như tâm
của chư Phật, đồng như nguyện của chư Phật, tà ma ngoại đạo không thể phá
hoại tín tâm của chúng con.

Chúng con cùng nhau chí tâm, một  lòng tha  thiết, đầu thành đảnh  lễ, quy y
mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật.

Quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy Tôn Pháp.

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng hãy lắng lòng mà nghe.

Than ôi! Cõi Trời, cõi người đều huyễn hoặc, thế giới là giả dối.

Do vì huyễn hoặc, không chơn thật, nên kết quả cũng không chơn thật. Giả
dối mong manh nên biến hóa vô cùng.
 Kết quả không chơn, sở dĩ phải chìm đắm mãi trong vòng sanh tử. Biến hóa
không cùng, sở dĩ phải trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sanh
đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.

Kinh Bi Hoa dạy rằng: “Các vị Bồ tát thành Phật đều có bổn nguyện”.

Ðức Thích  Tôn  không  hiện  thân  sống  ở  đời  lâu  dài,  thọ mạng Ngài  ngắn
ngủi  là vì  thương chúng sanh ở cõi nầy, sống yểu uổng  trong nháy mắt  rồi
chết, như biến hóa, chìm mãi trong biển khổ không ra được. Vì thế nên Phật
ở cõi nầy cứu chúng sanh tệ ác, phải tạm dùng  lời cứng rắn khổ khắc, thiết
tha mà dạy bảo.

Ngài ở trong biển khổ, cứu độ chúng sanh, chưa từng khi nào không lưu tâm
đến sự hoằng hóa,  tế độ,  lợi  ích cho chúng sanh, bằng cách ứng dụng  thiện
pháp làm phương tiện.

Sở dĩ kinh Tam muội dạy rằng: “Tâm chư Phật  là tâm đại từ bi; chỗ tâm  từ
bi của Phật soi đến là chỗ chúng sanh đau khổ”.

Phật thấy chúng sanh chịu khổ não như tên bắn vào lòng Phật, như phá tròng
mắt Phật. Thấy rồi thương xót, tâm không tạm yên. Cho nên Phật muốn diệt
khổ ngay cho chúng sanh được an vui.

Lại  nữa,  trí  huệ  của  chư Phật  là  trí  huệ bình đẳng,  nên Phật  hóa độ  chúng
sanh cũng bình đẳng. Như đức Thích Tôn ai cũng xưng Ngài  là Ðấng Bình
đẳng. Ngài dõng mãnh, chịu khổ độ  thoát chúng sanh, cho nên biết ân đức
Bổn sư rất nặng.

Ngài hay ở trong khổ não thuyết pháp, lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Ngày
nay chúng sanh không được giải thoát  là về trước kia không nghe được âm
thanh vi diệu của Phật  thuyết pháp; về  sau không  thấy được Phật niết bàn.
Chúng sanh vì nghiệp chướng ngăn che nên xa cách lòng thương của Phật.

Bây giờ chúng con hãy cùng nhau sanh tâm thương tiếc. Vì thương tiếc nên
thiện  tâm nồng hậu, ở  trong đau khổ chúng con nhớ ơn chư Phật  , kêu cầu
thảm  thiết, ảo não khóc  lóc, chí  thành đảnh  lễ, năm vóc  sát đất, nguyện vì
quốc vương và quyến thuộc của quốc vương, thổ địa nhơn dân, phụ mẫu, sư
trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên . . . . chư tiên, thông minh,
chánh trực, thiên địa hư không, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì
chú,  ngũ phương  long  vương,  long  thần bát bộ,  cùng khắp  hết  thảy  chúng sanh  vô  cùng  vô  tận  trong mười  phương mà  quy  y mười  phương  tận  hư
không giới hết thảy chư Phật.   (1lạy)

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.   (1lạy)

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.   (1lạy) 

 (Toàn thể đều quỳ chắp tay tâm niệm và tiếp tụng) : 

Chư Phật đại thánh tôn,

Thấu rõ hết thảy pháp,

Ðạo sư của Trời người

Cho nên nguyện quy y.

-  Tôn pháp tánh thường trú,

Thanh tịnh tu đa la ([11])

Hay trừ bệnh thân tâm,

Cho nên nguyện quy y.

-  Ðại địa chư Bồ tát ([12])

Vô trước tứ sa môn ([13])

Hay cứu hết thảy khổ

Cho nên nguyện quy y.

- Tam Bảo cứu thế gian

Vì sáu đường chúng sanh,

Con nay xin đảnh lễ,

Quy y thế tất cả. 
- Từ bi che hết thảy

Khiến đồng được an vui.

Thương xót cả muôn loài

Chúng con đồng quy y.

(Mọi người đều đảnh lễ sát đất và tự niệm rằng) :

Nguyện xin hết thảy mười phương Tam Bảo đem từ bi  lực, bổn thệ nguyện
lực,  bất  tư  nghị  lực,  vô  lượng  tự  tại  lực,  độ  thoát  chúng  sanh  lực,  phú  hộ
chúng  sanh  lực,  an  ủy  chúng  sanh  lực. Ðem  những  năng  lực  ấy khiến  các
chúng sanh đều giác ngộ, chúng con tên . .  . ngày nay vì các chúng sanh ấy
mà quy y Tam bảo.

Chúng con xin nhờ công đức nầy có năng  lực khiến các chúng sanh ấy đều
được mãn nguyện.

Nếu các chúng sanh ấy hoặc ở  trong  loài  trời,  loài  tiên  thì được hết nghiệp
hữu lậu. ([14])

Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài a tu la thì khiến họ xả bỏ tánh kiêu mạn.

Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài người thì khiến cho hết khổ đau.

Nếu các chúng sanh ấy ở trong các loài địa ngục, ngã quỷ, súc sanh thì khiến
cho liền được giải thoát.

Lại nữa, ngày nay người nào nghe được danh hiệu của Tam bảo, và người
không nghe được cũng đều nhờ được thần lực của Phật mà được giải thoát,
hoàn  toàn  thành  tựu  vô  thượng  bồ  đề,  đồng  với  các  đại Bồ Tát  thành  bậc
chánh giác.

 
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ HAI : DỨT NGHI NGỜ
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng lắng lòng mà nghe. Luận
rằng:   nhơn quả ảnh hưởng,  lẫn nhau cảm ứng  tương sanh  ([15]) nhau; đạo
lý tự nhiên như vậy không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp ([16]) của chúng
sanh, mỗi người một khác không giống nhau, nên quả báo cũng không giống
nhau; hoặc  tinh  thô, hoặc sang hèn, hoặc  thiện hoặc ác sai khác muôn vàn.
Ðã có sai khác thì không rõ nguyên nhơn sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ
nên  sanh  ra  nghi  ngờ,  lầm  lạc. Hoặc  nói  người  tinh  tấn  tu  hành,  giữ  giới
trong sạch, đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm. Người hàng thịt (đồ tể),
đáng lẽ chết sớm sao lại sống lâu. Người thanh liêm đáng lẽ được giàu sang,
sao  lại  thấy  nghèo  thiếu. Người  tham  lam  trộm  cướp, đáng  lẽ  nghèo  thiếu
khốn khổ, sao lại giàu có phong lưu!

Nghi  ngờ  sai  lầm  như  vậy  ai  cũng  có  nghĩ  đến  không  tránh  khỏi.  Do  vì
không  rõ  việc  của mình  đã  làm  từ bao  kiếp  trước,  hột  giống  của mình  đã
gieo không thuần, nên ngày nay đem lại kết quả bất nhất như vậy.

Kinh Bát nhã dạy rằng: “Nếu người nào đọc tụng kinh nầy, bị kẻ khác khinh
chê,  là  vì  người  ấy  đời  trước  có  tội  nghiệp  nặng,  đáng  đọa  vào  đường  ác.
Ngày nay nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiệu diệt. 

Bởi chúng sanh không hết lòng thâm tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ.
Chúng sanh bị vô minh cho hoặc, cho lấp tâm tánh nên luống sanh tâm nghi
ngờ điên đảo như vậy.

Chúng sanh  lại cũng không  tin: còn ở  trong ba cõi  là khổ,  ra khỏi ba cõi  là
vui. Những người thường say đắm thế gian đều cho đời là vui.

Chúng ta thử hỏi:

Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm biết vui ấy lại có tâm biết khổ.

Ăn uống quá độ  liền sanh tật bệnh: ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau
đớn, khó chịu.

Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều. Lạnh được áo mỏng thì bạc ơn người
cho, lòng nghĩ nông nổi.

Nắng được áo kép,  lông chiên, khổ não càng nhiều. Nếu y phục  là vui, cớ
sao lại sanh khổ não. 
Nếu cho gia đình quyến  thuộc  là vui,  lẽ  ra cùng nhau vui mãi, hoan  lạc ca
cười không dứt, cớ sao  thoặc vậy vô  thường, qua đời  trong nháy mắt! Vừa
có đó  liền không đó. Sớm  cón  tối mất, kêu  trời vang đất, can  trường đoạn
đoạn! Chúng sanh  lại cũng không  tự biết mình  từ đâu đến đây? Chết  rồi đi
đâu. Người còn khóc kẻ mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa nhau, thẳng
đến sơn cùng, chắp tay vĩnh biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao? Những
điều như vậy, sầu khổ vô lượng, chúng sanh mê chấp cho đó là vui.

Trái lại, gây nhơn vui xuất thế, chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.

Thấy người trai giới tương dưa, nuôi thân qua buổi, không mặc lục là, quen
bận phấn  tảo ([17]) ăn mặc nâu sồng, chúng sanh đều cho các việc ấy  là  tự
ép xác, khốn khổ, không biết làm như thế là gây nhơn giải thoát, gieo giống
an vui.

Hoặc  thấy người bố  thí  trì giới, nhẫn nhục,  tinh  tấn, kinh hành  lễ bái,  tụng
tập  chuyên  cần,  chúng  sanh đều  cho  là khổ; không biết  làm  như vậy  là  tu
tâm xuất thế, để được an vui.

Thoảng hoặc thấy có người tật bệnh mà chết, liền sanh tâm nghi rằng: người
ấy bắt buộc thân tâm nầy  làm việc quá độ, trọn ngày không được tạm nghỉ.
Sức lực con người không thể nào kham nổi. Nếu người tu hành không siêng
năng khó nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân mạng với việc làm vô ích như
vậy.

Hoặc  có  người  chấp  chặt  lý  thuyết  của  mình,  tự  cho  mình  là  đúng,  chứ
không biết suy quả  tầm nhơn,  luống sanh  tâm mê chấp,  luống  làm việc  sai
lầm.

Nếu may gặp được Thiện tri thức thì có thể hết mê lầm. Nếu không may. gặp
phải bạn ác thầy tà thì si mê càng lắm.

Nhơn  vì  nghi  ngờ mê  hoặc  nên  đọa  vào  ba  đường  ác,  ở  trong  ấy,  ăn  năn
không kịp.

Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên hiểu rõ.

Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng nhơn duyên.
 Vả chăng hột giống nghi ngờ  lầm  lạc ấy,  tu hành  thoát  ra khỏi ba cõi  luân
hồi còn chưa hết, huống gì  thân phàm phu nầy  làm sao  trừ ngay cho được.
Ðời nầy không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.

Ðại chúng cùng nhau vừa mới tu tập, đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên
căn cứ vào  lời Phật dạy, đúng pháp mà  tu, không nên nghi ngờ,  từ chối sự
mệt nhọc.

Chư Phật thánh nhơn, sở dĩ ra được khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia,
là nhờ công tích thiện, nên được quả giải thoát vô ngại tự tại.

Chúng con ngày nay chưa  lìa khỏi sanh  tử, nghĩ cũng  tự đáng  thương;  làm
sao còn ham muốn ở trong đời ác trược nầy nữa. Nay đây may được tứ đại
chưa suy dồi; ngũ phước còn thạnh, tới lui thong thả, động chuyển tự do mà
không nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa. Ðời trước đã không thấy đạo; đời nầy
cũng luống qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm sao tế độ chúng sanh.

Xem  lại  tự  tâm,  thật  cũng  đau  lòng. Ngày  nay  đại  chúng  chỉ  nên  khuyên
nhau nỗ  lực xiêng tu, không nên nói rằng, phải có tin tức chứng ngộ gì mới
chịu tu tập; vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai mà làm xong được. Nếu
cứ chờ tin tức, như vậy một mai rồi lại một mai thì biết bao giờ chứng quả.

Nay  hoặc  có  người  nhơn  tụng  kinh,  ngồi  thiền,  siêng  tu  khổ  hạnh,  hơi  có
chút tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng, khổ hạnh quá nhiều nên sanh
bệnh hoạn. Người nói như thế là vì họ không tự biết. Nếu họ không làm như
vậy thì cũng đã chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước đức mới mong sống
đến hôm nay.

Vả lại, bốn đại tăng giảm tật bệnh là thường, cho đến già chết còn không thể
tránh. Sanh ở  thế gian nầy chung cuộc  rồi ai cũng  tận số. Nếu muốn được
đạo, phải y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc đạo thì không có lẽ ấy.

Chúng sanh vì trái  lời Phật nên xơay chuyển trong ba đường, chịu đủ thống
khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh
tấn, như cứu  lửa cháy đầu, thì đâu đến nỗi một đời  luống qua, không có  lợi
ích gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha  thiết, đầu thành đảnh  lễ như Thái
sơn đổ, nguyện vì những người sau đây mà đảnh lễ thế cho họ.

Kể  từ khi  có  tâm  thức cho đến  ngày  nay,  cha mẹ  nhiều đời,  bà  con  nhiều
kiếp, Hòa thượng, A xà  lê, đồng đàn tôn chứng, thượng trung hạ tòa, tín thí đàn  việt,  thiện  ác  tri  thức,  chư  thiên,  chư  tiên,  hộ  thế  tứ  thiên  vương  chủ
thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ khắp
đến 10 phương vô cùng vô tận, hết thảy chúng sanh mà quy y Thế gian đại
từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Duy Vệ Phật

Nam mô Thi Khí Phật

Nam  mô Tùy Diếp Phật

Nam mô Câu  lưu Tôn Phật

Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật

Nam mô Ca Diếp  Phật

Nam mô Thích Ca mâu ni Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin Tam bảo dùng sức Từ bi, đồng gia  tâm nhiếp  thọ; dùng sức  thần  thông
che  chở  cứu  vớt  chúng  con;  khiến  chúng  con  từ  nay  trở  đi  cho  đến  ngày
thành đạo, tứ vô lượng tâm ([18]) lục ba la mật ([19]) thường được hiện tiền,
tứ vô ngại  trí ([20]),  lục thần  thông  lực ([21]), được như ý tự tại; tu đạo Bồ
tát, vào trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành bậc chánh giác.

Ngày  nay Ðại  chúng đồng  nghiệp  trong đạo  tràng  lại khéo  nhiếp  tâm,  suy
nghĩ cho kỹ:

Ðã được cùng nhau sanh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều ấy làm
nẻo xu hướng đối với các pháp trong thân ngoài thân chớ cho trở ngại.
 Nếu không biết  rõ việc  làm  hay  tự mình  không  thể  làm  thì  lúc  thấy  người
làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến khích, chắp tay tán thán công đức của
người, không nên sanh tâm trở ngại, khiến người tu hành phải thối chí.

Nếu người không thối chí họ cứ tinh tấn như thường việc người không giảm,
chỉ mình bị  tổn phước,  luống  gây  thị phi, đối  với bản  thân  nào  có  ích  gì?
Nếu đối với việc lành mình không trở ngại thì có thể gọi là hợp đạo, hữu lực
đại nhơn. Nếu đời nầy mình hay trở ngại việc phước thiện của người thì đời
sau làm sao thông đạt được Phật đạo.

Cứ  lý mà  suy,  tổn hại ấy  rất nặng. Trở ngại  thiện căn của người,  tội ấy  rất
lớn.

Như kinh hộ khẩu dạy rằng:

“Có một ngã quỷ thân hình xấu ác, thấy phải rùng mình, không ai không sợ.
Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn. Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi,
máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi thối bay ra, không ai có thể đến gần.
Miệng khạc  ra  lửa,  thân phần  lửa đốt, cất  tiếng kêu khóc,  tuông chạy cùng
khắp.

Bấy giờ có ngài Mãn Túc La hán hỏi Ngã quỷ rằng:

“Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà nay chịu khổ như thế?”

Ngã quỷ đáp rằng:

Tôi ngày xưa đã từng làm sa môn, tham đắm sự nuôi sống, xan tham không
bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác.

Nếu  thấy người giữ giới  tinh  tấn  lại  liền mắng nhiếc,  liếc mắt háy nguýt, ỷ
mình giàu mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra vô lượng tội ác căn bản.
Ngày nay nhớ  lại, hối hận cũng không  ích gì. Thà cầm dao bén  tự cắt  lưỡi
mình, kiếp nầy sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ
báng việc làm của người.

“Nguyện xin ngài  trở về đường  thế, đem hình  trạng xấu ác của  tôi  răn dạy
các  thầy Tỳ kheo và các Phật  tử, khéo giữ gìn  lỗ miệng, chớ buông  lời nói
ác. Dầu thấy người giữ giới hay không giữ giới cũng nên tuyên dương công
đức của người. 
Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp, trọn ngày thâu đêm chịu đủ điều đau khổ.
Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục”.

Bấy giờ Ngã quỉ nói  lời ấy rồi, cất  tiếng kêu khóc,  tự gieo mình xuống đất
như núi Thái Sơn sụp đổ.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi.

Chỉ  vì  lỗi  của miệng mà mang  tội  nhiều  kiếp,  luống  nữa  là  còn bao  nhiêu
điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác mà chịu khổ điều do nghiệp ác của
mình đã  làm. Nếu không gây nhơn  thì  tại  làm sao  lại có chịu quả. Ðã gây
nhơn  quyết  định  phải  chịu  trả  quả.  Tội  phước  không  xa, mình  làm mình
chịu, như bóng theo hình, không thể rời nhau. Do vô minh mà sanh thì cũng
do  vô  minh mà  diệt. Ðời  này  đời  sau,  bao  giờ  cũng  vậy,  chưa  từng  thấy
người tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại, người hay
tinh tấn giữ gìn tu hành, được phước đức vô lượng.

Ngày nay Ðại chúng đều nên biết hổ thẹn rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ.
Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới nữa thì được các đức Phật khen ngợi.
Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ nói thành hay không
thành, lâu hay không lâu. Dầu cho họ chỉ làm lành trong một niệm, một thời,
một khắc, một ngày, một  tháng, nửa năm, hy một năm cũng đã hơn người
không làm.

Sở dĩ kinh Pháp Hoa dạy rằng:”Hoặc có người  tâm  tán  loạn vào  trong  tháp
miếu,  xưng  một  câu  Nam  mô  Phật,  người  ấy  cũng  đã  thành  Phật  đạo”.
Huống nữa có người phát tâm rộng lớn, siêng làm phước thiện. Nếu chúng ta
không tùy hỷ thì thánh nhơn rất thương xót.


Chúng con tên . . . tự nghĩ mình từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay lẽ ra cũng
đã có vô lượng ác tâm trở ngại việc lành tốt đẹp của người. Vì sao mà biết?
Nếu không  như vậy,  cớ  sao ngày  nay việc  lành  của  chúng  con phần  nhiều
hay bị trở ngại. Thiền định không hay tập, trí thức không hay tu. Vừa mới lễ
bái  liền nói khổ  lắm. Vừa cầm đến kinhliền sanh nhàm chán. Trọn ngày chỉ
ưa khó nhọc  làm các nghiệp ác khiến cho  thân này không được giải  thoát,
như  tầm  kéo  kén,  tự  ràng,  tự  buộc,  như  phù  du  vào  lửa,  tự  thiêu  tự  đốt.
Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên, chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề hạnh, chướng ngại như vậy đều do ác tâm, Phỉ báng
việc thiện của người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối
tội ấy.

Nguyện  xin  xhư  Phật  chư Ðại  Bồ  tát,  đem  lòng  từ  bi,  đồng  gia  thần  lực
khiến đệ tử tên . .. những điều sám hối đều được trừ diệt, những điều hối đều
được thanh tịnh. Vô  lượng chướng ngại , Vô  lượng  tội nghiệp đều nhờ sám
hối này mà được sạch hết.

Mọi người cùng nhau nhất  tâm  thống  thiết năm vóc sát đất, quy y  thế gian
Ðại Từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Thiện Ðức Phật

Nam mô Vô Ưu Ðức Phật

Nam mô Chiên Ðàn Ðức Phật

Nam mô Bảo Thí Phật

Nam mô Vô Lượng Minh Phật

Nam mô Hoa Ðức Phật

Nam mô Tưởng Ðức Phật.

Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật

Nam mô Quảng Chúng Ðức Phật

Nam mô Minh Ðức Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
 Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại xin quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.

(Cùng nhau quỳ gối chắp tay, tâm niệm và tụng niệm):

Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo,
thọ  lấy báo  thân nầy vì  tham bốn món cúng dường chưa  từng xả bỏ. Tham
sân  tật  đố,  ba  độc  hừng  hẫy  sanh  ra  các  ác  nghiệp. Thấy  người  bố  thí,  trì
giới, tự mình không thể  làm, không hay tùy hỷ. Thấy người nhẫn nhục tinh
tấn,  tự mình  không  thể  làm.  Không  hay  tùy  hỷ.  Thấy  người  tọa  thiền,  tu
nghiệp  trí  huệ,  tự mình  không  thể  làm,  không  hay  tùy  hỷ. Những  tội  như
vậy, vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thấy người làm lành, tu các công
đức không hay  tùy hỷ, đi đứng nằm ngồi,  trong bốn oai nghi ấy không biết
hổ thẹn, không nghĩ vô thường, không biết xả thân này phải vào địa ngục.

Ðối với sắc thân người khác, khởi ra điều ác. Chướng ngại người xây dựng
và cúng dường Tam bảo, chướng ngại người tu tập hết thảy công đức.

Tội  chướng  như  vậy  vô  lượng  vô  biên  ngày  nay  sám  hối,  nguyện  xin  trừ
diệt.

Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay không tin Tam bảo là chỗ quy y,
chướng ngại người xuất gia, chướng ngại người trì giới, chướng ngại người
bố  thí, chướng ngại người nhẫn nhục, chướng ngại người  tinh  tấn, chướng
ngại ngưởi  tọa  thiền, chướng ngại người  tụng kinh, chướng ngại người  làm
chay, chướng ngại người tạo tượng, chướng ngại người cúng dường, chướng
ngại người khổ hạnh, chướng ngại người hành đạo, cho đến mảy may việc
thiện  của  người  chúng  con  cũng  chướng  ngại. Không  tin  xuất  gia  là  pháp
viễn ly, không tin nhẫn nhục  là hạnh An lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ
đề, không biết xa  lìa vọng  tưởng  là  tâm xuất  thế. Vì những  tội ấy cho nên
ngày nay sanh ra nơi nào cũng gặp nhiều chướng ngại. Tội chướng như vậy,
vô lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Ðại Bồ tát mới thấy hết biết hết.

Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ
thẹn , tỏ bày sám hối, tất cả tội nhơn, khổ quả, nguyện xin  trừ diệt. Từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo tu đạo Bồ tát, không biết nhàm chán. Tài thí,
pháp thí không cùng, không  tận, trí huệ phương tiện  làm gì cũng được. Hết
thảy người thấy, người nghe đều được giải thoát.

Chúng con cùng nhau chí  tâm, đầu  thành đảnh  lễ, năm vóc  sát đất nguyện
xin mười phương hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát hết thảy Hiền Thánh, dủ
lòng từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy chúng sanh trong sáu đường,
nhờ sức sám hối nầy mà đoạn trừ được hết thảy tội khổ, xa lìa được hết thảy
duyên điên đảo, không sanh ác  tâm, xả nghiệp bốn  thú  ([22]) phát sanh  trí
huệ,  tu đạo Bồ đề không  thôi  không  nghỉ; hạnh  nnguyện  chóng  viên mãn,
mau lên ngôi Thập địa, vào tâm kim cang thành đẳng chánh giác.  

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA : SÁM  HỐI

Ngày  nay Ðại  chúng đồng  ngiệp  trong  đạo  tràng  lắng  tai  nghe kỹ  lời kinh
dạy sau đây:

“Còn phàm phu thì gọi là buộc. Ðã chứng quả Thánh thì gọi là giải”.

Buộc  tức  là kết quả  ác  của  hành động bạo  ác  của ba  nghiệp  ác đã  gây  ra.
Giải tức là quả báo lành vô ngại giải thoát của ba nghiệp lành đã gây ra.

Hết  thảy Thánh nhơn đều để  lòng nơi đạo giải  thoát, và nhờ  thần  thông  trí
huệ, vô lượng pháp môn, nên Thanh nhơn thấy hết thảy nghiệp báo thiện hay
ác của tất cả chúng sanh.

Các Ngài hay dùng một thân hiện ra vô lượng thân, hay dùng một hình hiện
ra vô lượng hình; có thể rút ngắn một kiếp làm một ngày; có thể kéo dài một
ngày làm một kiếp. Muốn đình thọ mạng thì vĩnh viễn không diệt độ; muốn
thị hiện vô thường thì nhập niết bàn; thần thông trí huệ, vào ra tự tại, bay đi
tùy ý, ngồi nằm trên không. Ði đứng dưới nước như ở trên khô, không  thấy
nguy hiểm. Lấy cảnh vắng lặng , viên tịch niết bàn làm chỗ nghỉ ngơi thông
đạt vạn pháp, có không điều rõ biết, biện tài thành tựu, trí huệ vô ngại.

Những  pháp  lành  ấy  không  phải  từ  trong  nghiệp  ác mà  ra,  không  phải  từ
trong tham sân tật đố mà ra; không phải từ trong ngu si tà kiến mà ra; không
phải từ trong  lười biếng mà ra, không phải từ  trong kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các pháp lành ấy chỉ trừ trong sự thận trọng không làm ác mà ra; các
pháp lành ấy đều do các nghiệp lành mà ra.

Không nơi nào có người tu các nghiệp lành, vâng lời Phật dạy mà mắc phải
ác báo, bần cùng xấu xa tàn tật, bệnh hoạn, không được tự do, thấp hèn bị kẻ
khác khinh chê, lời nói không ai tin dùng bao giờ.

Nay đem thân tôi để làm chứng (lời tác giả). Nếu có người nào vâng lời Phật
dạy, tu các công đức, không ích kỷ hại nhơn mà bị quả báo xấu ác thì thà để
tôi bị đọa vào a tỳ địa ngục chịu thống khổ, chớ để cho người  làm  lành kia
chịu quả báo xấu ác thì phi lý.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng muốn bỏ phàm làm Thánh
thì nên y  lời Phật dạy, như  lý mà tu hành. Không nên từ chối một việc khổ
nhỏ mà sanh tâm lười biếng nên tự nỗ lực cố gắng sám hối cho tiêu tội lỗi.

Trong kinh Phật dạy: “Tội do nhơn duyên mà sanh thì cũng do nhơn duyên
mà diệt”.

Ðang còn thân phàm thì gặp cảnh sanh mê tâm. Vậy ngoài phương pháp sám
hối ra, không có phương pháp nào hơn nữa để mong giải thoát.

Ngày nay Ðại chúng phải cùng nhau phát khởi tâm dõng mãnh, phát khởi ý
sam hối.

Sức mạnh của pháp sám hối không thể nghĩ bàn. Vì sao mà biết? – Vì vua A
xa Thế phạm đại tội ngũ nghịch ([23]), nhưng sau vua biết sanh tâm hổ thẹn,
tự trách, tự ăn năn, nên tội nặng thành nhẹ.

Vả lại pháp sám hối nầy khiến người tu hành được an vui. Nếu có người nào
tự mình hay định thời khóa, nỗ lực hết lòng, khấu đầu lễ bái, sám hối, quy y
cho đến khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm được mười phương Phật thì
không có lý.

Ác nghiệp và quả báo  theo nhau, ảnh hưởng  lẫn nhau, không sai mảy may,
cho nên phải hết lòng sợ hãi, cố gắng chịu khổ mà sám hối.

Mọi người đều nên một lòng tha thiết gieo mình xuống đất như núi Thái sơn
sụp đổ, tâm niệm miệng nói lời nầy: để cầu thỉnh mười phương chư Phật gia
tâm thương xót. 
Nguyện  xin  chư  Phật  cứu  chúng  con  ra  khỏi  khổ  ách;  dủ  lòng  đại  bi  che
khắp  tất cả. Phóng hào quang  thanh  tịnh,  soi khắp mười phương; diệt sạch
mê mờ và trừ si ám. Nghĩ đến chúng con và các chúng sanh đang bị đọa đầy,
trong địa ngục đau khổ. Xin Phật đến đây, cứu vớt chúng con. Ban bố hạnh
phúc cho chúng con được thoát khổ.

Chúng  con  nhất  tâm  đầu  thành  đảnh  lễ, Ðấng Ðại  từ bi  nghe  tên  liền  cứu
khổ. Nay chúng con nhất tâm quy y Ðấng Thế gian Ðại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích ca Mâu Ni Phật

Nam mô Kim cang bất hoại Phật

Nam mô Bảo Quang Phật

Nam mô Long Tôn vương Phật

Nam mô Tinh Tấn Quân Phật

Nam mô Tinh Tấn hỷ Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật

Nam mô Hiện vô Ngu Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Phật.

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Ly Cấu Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
 Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo,
nguyện xin Tam bảo quyết định đến đây cứu vớt chúng con, đang bị đọa đày
bởi  tham sân si,  làm đau khổ, nguyện cho chúng con được an vui và được
đại Niết bàn; nguyện xin  lấy nước đại bi tẩy trừ tội  lỗi cho chúng con được
thanh tịnh mau chứng quả bồ đề. Bốn loài chúng sanh trong sáu đường, nếu
có một chúng sanh nào mắc phải  tội  lỗi, đều được nhờ Tam bảo mà  thanh
tịnh; đều được  thành  tựu quả vô  thượng bồ đề,  thành bậc chánh giác, hoàn
toàn giải thoát.

Ðại chúng cùng nhau một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng
nói lời nầy:

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bị vô minh che
lấp tâm tánh, bị ái nhiễm ràng buộc, nên tinh  thần sa vào  lưới ngu si, loanh
quanh ba  cõi,  cùng khắp  sáu  đường,  chìm đắm bể khổ, không  có  ngày  ra;
không  thể biết được nghiệp đời  trước của mình, không  thể hiểu được nhơn
duyên  đã  qua. Hoặc mình  tự  phá  tính mạng  và  phá  tính mạng  của  người.
Mình tự phá phạm hạnh và phá phạm hạnh của người. Mình tự phá tịnh giới
và phá tịnh giới của người.

Tội ác như vậy vô  lượng vô biên, ngày nay hổ thẹn sám hối nguyện xin trừ
diệt.

Ðệt  tử  chúng  con  tên  .  .  .    lại  chí  thành  đảnh  lễ  sát  đất,  cầu  xin  sám  hối,
những tội lỗi từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân khẩu ý tạo ra mười
ác nghiệp.

Thân sát đạo, dâm, miệng nói  láo, nói  lời  thêu dệt, nói  lời hai  lưỡi, nói  lời
độc ác, ý  tham sân si. Mình  tự  làm mười điều ác dạy người  làm mười điều
ác,  khen  ngợi  người  làm  mười  điều  ác.  Như  vậy  trong  một  khoảnh  khắc
trong một niệm tâm, khởi ra bốn mươi điều ác.

Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí tâm đảnh lễ sat đất, cầu xin sám hối những
tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay. 
Nương nơi sáu căn rồi phát ra sáu thức, chấp lấy sáu  trần. Mắt đắm sắc, tai
ưa  tiếng, mũi  trước  hương,  lưỡi ưa  vị,  thân  ưa  trơn  láng, mịn màng,  ý  ưa
pháp trần. Sáu căn ấy sanh ra bao nhiêu tội nghiệp, mở cửa cho tám vạn bốn
ngàn trần lao. Tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin
trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ, cầu xin sám hối những tội từ
vô  thỉ  trở  lại cho đến ngày nay, do  thân, khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình,
như chỉ biết có  thân mình, không biết có  thân người, chỉ biết có mình khổ,
không biết có người khổ, chỉ biết có mình cầu an vui, không biết có người
cầu  an  vui,  chỉ  biết  có mình  cầu  giải  thoát,  không  biết  có  người  cầu  giải
thoát. Chỉ  biết  có  gia  đình mình,  có  quyến  thuộc mình,  không  biết  có  gia
đình người, có quyến thuộc người, chỉ biết thân mình hơi ngứa một chút, hơi
đau một chút đã chịu không nổi, thế mà khi làm cho thân người khác đau thì
sợ họ không đau,  ít đau, không  thấm  thía, chỉ biết sợ khổ một chút nơi đời
hiện  tại mà không biết  sợ khổ  vô  lượng  kiếp  nơi đời  vị  lai. Bởi  vì  làm  ác
chết rồi phải đọa vào địa ngục, chịu đủ thống khổ, cho đến không biết sợ khổ
vô lượng trong đời ngã quỉ, trong đường súc sanh, trong đường a tu la.

Cõi người và cõi  trời cũng có vô  lượng  thống khổ mà không  tự biết, chỉ vì
tâm không bình đẳng,  có phân bỉ  ngã,  có  niệm  oán  thân,  làm  cho oán  thù
tràn khắp lục đạo.

Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do tâm điên đảo, nên thường xa lìa bạn lành
(thiện tri thức) gần gũi bạn ác, trái nghịch bát chánh đạo, tu theo bát tà đạo,
phi  pháp  nói  chánh  pháp,  chánh  pháp  nói  phi  pháp,  bất  thiện  nói  là  thiện,
thiện nói  là bất  thiện, dựng cờ kiêu mạn, giăng buồm ngu si,  theo dòng vô
minh vào biển sanh tử.

Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay vì tham sân si khởi ra bốn điên đảo ([24]) tạo
nên năm tội nghịch  làm đủ mười ác, ba độc hừng hẫy, tám khổ càng nhiều,
gieo  giống  địa  ngục  bát  hàn,  bát  nhiệt;  gieo  giống  84.000  ngăn  cách  địa
ngục,  gieo  giống  súc  sanh,  gieo  giống  ngã  quỷ,  gieo  giống  sanh  già  bệnh chết, ư bi khổ não ở cõi trời cõi người để chịu quả báo đau khổ, không thể kể
xiết, không thể chịu được, không thể thấy được, không thể nghe được.

Những  tội ác như vậy, vô  lượng vô biên, bgày nay sám hối, nguyện xin  trừ
diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì ba độc tham sân si ở trong ba cõi, trải
khắp hai mươi  lăm  loài ([25]) khởi  ra các  tội ác, cùng khắp mọi nơi,  thuận
chiều gió nghiệp mà . . .  không tự biết. Hoặc chướng ngại người trì giới, tu
định, tu huệ, tu các công đức, tu các thần thông. Những tội chướng như vậy
vô  lượng vô biên, chướng bồ đề  tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề
hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô  thỉ kiếp  trở  lại  cho đến  ngày  nay,  vì  tâm  tham  sân  si, phát khởi  ra  sáu
thức ([26]), duyên theo sáu trần ([27]), gây tội cho chúng sanh. Hoặc đối với
chúng sanh mà khởi tội; hoặc đối với phi chúng sanh mà khởi tội, hoặc đối
với người vô lậu ([28]) mà khởi tội, hoặc đối với pháp vô lậu ([29]) mà khởi
tội.

Những  tội ác như vậy vô  lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin  trừ
diệt.

Lại nữa, chúng con vì tâm ngu si mà khởi hạnh điên đảo, tin theo thầy tà, thọ
lời tà giáo, chấp đoạn ([30]) chấp thường ([31]) trước ngã ([32]), trước kiến
([33]) làm theo si mê, khởi ra vô lượng tội lỗi.

Những nhơn duyên ấy chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ
đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, thân ba nghiệp ác, miệng bốn nghiệp ác,
ý ba nghiệp ác, vô thỉ vô minh trú địa phiền não, hằng sa thượng phiền não ,
chỉ thượng phiền não, quán thượng phiền não, tứ trú địa phiền não, tam độc
([34]),  tứ  thủ  ([35]),  ngũ  cái  ([36]),  lục  thọ  ([37]),  thất  lậu  ([38]),  bát  cấu
([39]), cửu kiết ([40]), thập sử ([41]). Những phiền não ấy vô lượng vô biên,
hay chướng bồ đề  tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt. Ðệ từ chúng con tên . . .  lại chí thành
đảnh  lễ cầu xin sám hối những  tội  từ vô  thỉ kiếp  trở  lại cho đến ngày nay, không hay  tu  tâm  từ bi, không hay  tu  tâm hỷ xả, không hay  tu  tâm bố  thí,
không  hay  tu  tâm  trì  giới, không  hay  tu  tâm  nhẫn  nhục, không  hay  tu  tâm
tinh tấn, không hay tu tâm thiến định, không hay tu tâm trí huệ, không hay tu
hết thảy pháp, trợ bồ đề.

Vì thế nên không có phương tiện, không có trí huệ,  làm chướng ngại bồ đề
tâm, chướng ngại bồ đề nguyện, chướng ngại bồ đề hạnh, ngày nay sám hối,
nguyện xin trừ diệt.

Ðệt tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, vì tội nghiệp nên cứ xoay vừng trong ba cõi,
trải khắp sáu đường, thọ thân bốn loài, hoặc nam hoặc nữ, hoặc phi nam phi
nữ, cùng khắp mọi nơi  tạo vô  lượng  tội. Hoặc  làm chúng sanh  thân hình  to
lớn  ăn  nuốt  lẫn  nhau;  hoặc  làm  chúng  sanh  thân  hình  bé  nhỏ  ăn  nuốt  lẫn
nhau. Những  tội  sát hại  như vậy vô  lượng vô biên  hay  chướng bồ đề  tâm,
hay  chướng  bồ  đề  nguyện,  hay  chướng  bồ  đề  hạnh.  Ngày  nay  sám  hối
nguyện xin trừ diệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .  lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
khi có  tâm  thức  trở  lại cho đến ngày nay, ở  trong sáu đường,  thọ  thân bốn
loài. Ở trong bốn loài ấy tạo ra vô lượng vô biên tội ác.

Những  tội  ác  như vậy,  chỉ  có  hết  thảy  chi Phật  chư đại Bồ  tát  trong mười
phương mới thấy hết biết hết. Tội lượng nhiều ít hoặc khinh hoặc trọng như
chư Phật và Bồ  tát đã thấy đã biết. Ngày nay chí thành, cúi đầu đảnh  lễ, hổ
thẹn cầu xin sám hối.

Những  tội  đã  làm,  nguyện  tiêu  diệt  hết,  những  tội  chưa  làm,  không  dám
phạm.

Ngày  nay  chúng  con  nguyện  xin  hết  thảy  chư Phật  trong mười phương dủ
lòng đại từ cho đệ tử chúng con tên . . .  thành tâm sám hối, nguyện xin đem
nước  đại  bi  rửa  sạch  tội  lỗi  sai  lầm  cho  chúng  con  được  hoàn  toan  thanh
tịnh, thẳng đến đạo tràng không bị chướng ngại nữa.

Lại nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật dùng bất tư nghị lực, bổn thệ
nguyện lực, độ thoát chúng sanh lực, phù hộ chúng sanh lực, khiến đệ tử tên
. . .  ngày nay khởi thệ nguyện, phát tâm bồ đề.
 Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật kiến lập đạo tâm được kiên cố, hoàn
toàn không trở lại sa đọa nữa.

Những lời thệ nguyện của chúng con cũng đồng như lời thệ nguyện của chư
Phật,  chư  đại Bồ  tát  đã  thật  hành  thệ  nguyện. Nguyện  xin  hết  thảy mười
phương chu Phật, chư đại Bồ tát đồng dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ
cho chúng con  tên  .  .  .   được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Hết  thảy
chúng sanh cũng đều được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. 

QUYỂN THỨ NHỨT

--- HẾT ---

CHÚ THÍCH

[1] Tăng  thượng mạn: Chưa  chứng  quả Thánh mà  lầm  tưởng  là  đã  chứng
quả Thánh.

[2] Chỗ sở đắc: Chấp  lấy chỗ mình đã chứng, đã ngộ, đã hiểu biết, đã  làm
xong.

[3] Tà kiến: Nhận  thức sai  lầm  ta vạy; không tin  tội phước, không tin nhơn
quả, không tin luân hồi v.v...

[4] Tiểu  thừa: Cỗ xe nhỏ: có ý chỉ cho giáo  lý  thấp kém của người  trí  thức
còn kém tu theo giáo lý nầy chỉ trừ ngã chấp, không trừ được Pháp chấp, chỉ
chứng đến quả A la hán là cùng. Chỉ độ cho mình, không độ cho người, Như
cỗ xe nhỏ chỉ chở một người, đi không xa, chở không nhiều, dằn dẹp không
được những đá to lớn, chỉ ép cát sạn thôi.

[5] Ðại  thừa: Cỗ  xe  lớn: Chỉ  cho  giáo  lý  cao  siêu  vi  diệu,  trừ  hết Ngã  và
Pháp  chứng  đến  quả  Phật,  độ  hết  chúng  sanh. Như  cỗ  xe  lớn,  chở  nhiều
người đi xa, dằn dẹp hết các đá lớn, đá nhỏ.

[6] Sáu đường hay lục đạo:

1.- Ðịa ngục,

2.- Ngã quỉ;
 3.- Súc sanh,

4.- A tu la,

5.- Người,

6.- Trời;

    6 loài này cứ  loanh quanh trong vòng  luân hồi,  lên xuống, ra vào, mãi bị
sanh tử.

[7] Tứ nhiếp pháp: Bốn phương pháp dùng thâu nhiếp chúng sanh:

1.- Bố thí,

2.- Ái ngữ,

3.- Lợi hành

4.- Ðồng sự.

8 Tứ sanh: 4 loài chúng sanh 

[9]  Bát bộ: Tám bộ:

 1.- Thiên: Các vị trời.

2.- Long: Các vị rồng.

3.- Dạ xoa: Quỉ thần bay trên hư không

4.- Càn thát bà: Thần đánh nhạc trời, chỉ sống với mùi hương thơm

5.- A tu la: Quỉ thần gần như các vị trời mà không phải trời, vì không có đức
độ mà ưa    tranh đấu.

6.- Ca lầu la: Loài kim sí điểu (chim cánh vàng).

7.- Khẩn na la: Thần âm nhạc múa hát của Ðế Thích.
 8.- Ma hầu la dà: Thần rắn mãng xà.

Tám bộ nầy thường ủng hộ Phật pháp. 

[10] Vô minh: Không sáng: Tức  là món căn bản phiền não, đến địa vị Phật
mới hết.

[11] Tu đa la: Tàu dịch là Khế Kinh: lời Phật dạy hợp lý, hợp tình nên gọi là
Khế Khinh.

[12] Ðại địa Bồ tát: Bồ tát đông vô số.

[13] Vô  trước  tứ Sa môn: Các vị  tu đã hoàn đến A  la hán. 4  thánh quả của
tiểu thừa.

[14] Hết  nghiệp Hữu  lậu: Không  còn một  giống  sanh  tử,  hành  động  cũng
không còn lọt vào    sanh tử nữa.

[15] Cảm  ứng  tương  sanh: Cảm  ứng  sanh  nhau. Nhơn  thành  quả,  quả  lại
sanh nhơn, không bao giờ cùng.

[16] Hạnh nghiệp: Nghiệp lành nghiệp dữ đã làm ra.

[17] Phấn  tảo: Áo do nhiều miếng vải cũ rách người  ta bỏ,  lượm giặt sạch,
may lại mà bận, tu khổ hạnh đầu đà hay mặc áo nầy.

[18] Tứ vô lượng tâm: Từ bi, hỷ xả.

[19] Lục Ba la mật: Tàu dịch là Lục độ: sáu pháp tu để đến bờ giải thoát bên
kia.

1.- Bố thí,

2.- Trì giới,

3.- Nhẫn nhục,

4.- Tinh tấn,

5.- Thiền định, 
6.- Trí huệ.

[20] Tứ vô ngại trí: Cũng gọi trí Vô ngại biện. - Bốn trí vô ngại của Phật:

1.- Pháp vô ngại: Thông hiểu giáp pháp nên nói cách vô ngại.

2.- Ngĩa vô ngại: Thông hiểu nghĩa lý cao siêu nói cách vô ngại.

3.- Từ vô ngại: Thông suốt ngôn  từ của  tất cả chúng sanh nên nói cách vô
ngại.

4.- Lạc thuyết vô ngại: Hoan hỷ nói pháp cách vô ngại.

[21] Lục thông: Sáu phép thần thông:

1.- Thiên nhãn thông: Mắt thấy thông suốt như mắt các vị  trời, không có gì
trở ngại, thế giới như vi trần cũng thấy hết.

2.- Thiên nhĩ thông: Tai nghe cách thông suốt, không có gì trở ngại.

3.- Túc mạng  thông: Rõ  biết  các  kiếp  trước  của mình  và  của  c`húng  sanh
không có gì trở  ngại.

4.- Tha tâm thông: Rõ biết được tâm chúng sanh, không có gì trở ngại.

5.- Thần thông túc: Bay đi khắp vô số thế giới không có gì trở ngại.

6.- Lậu tận thông: Tất cả phiền não đều sạch hết, không có gì trở ngại.

[22] Bốn thú: hay 4 ác thú: Tức 4 đường ác: Ðịa ngục, ngã quỉ, súc sanh, a tu
la. 

[23] Năm tội ngịch: Giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hóa hiệp của chúng
Tăng, làm cho thân Phật ra máu (phá chùa, phá pháp, phá tượng v.v...) 

[24] Bốn điên đảo: 4  lối chấp đối các pháp sanh  tử  là vô  thường,  là khổ,  là
vô ngã, bất tịnh mà phàm phu lại cho là thường, là vui là ngã, là tịnh.
 Còn đối với cảnh Niết bàn  là  thường, vui, ngã,  tịnh; hàng Tiểu  thừa cho  là
vô thường, không vui, vô ngã, bất tịnh.

Ðoạn hữu vi, chứng vô vi là Nhị thừa. Ðoạn cả hữu vi, cả vô vi là Bồ tát.

[25] 25  loài: Cũng gọi  là 25 cõi. Nói hẹp  thì có 3 cõi, 9 cõi; nói  rộng  là 25
loài, 4 châu, 4 ác thú và 6 cõi Trời Dục giới là 14 loài. Cộng với Sắc giới 4
cõi  thiền  thiên  và  cõi Trời Phạm  thiên,  cõi  trời Vô  tưởng    và  cõi  trời Ngũ
tịnh cư là 21. Cộng với 4 cõi trời không thiên của Vô sắc giới là 25.

Phạm  thiên, Vô  tưởng và Tịnh cư đều ở  trong cõi Sắc giới  tứ  thiền. Ngoại
đạo chấp Phạm thiên sanh ra vạn vật; Vô tưởng thì chấp là Niết bàn, Tịnh cư
cho là chơn giải thoát. – Vì ngoại đạo vọng chấp như thế nên kể riêng ra cho
biết đó là tà chấp.

[26] Sáu thức: Sáu cái biết của tai, mắt, mũi, thân và ý.

[27] Sáu trần: Sáu cảnh đối sáu thức: tiếng, sắc, hương, vị, xúc, pháp.

[28] Người Vô lậu: Người đã chứng quả, không còn sanh tử nữa.

[29] Pháp Vô  lậu: Pháp  thanh  tịnh giải  thoát, không phải pháp sanh  tử hữu
lậu.

[30] Chấp đoạn: chết là hết.

[31] Chấp  thường: Chấp còn mãi không  thay đổi, sau khi chết, không  luân
hồi.

[32] Trước ngã: Chấp ta, chấp thân ta, ta khác với người ta chứng quả v.v...

[33] Trước  kiến: Chấp  lấy  sự  hiểu  biết  riêng  của mình  theo    năm món  tà
kiến, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, tộng ra cho đến
62 kiến.

[34] Tam độc: 1- Tham: đối với cảnh thuận ham muốn không nhàm; 2- Sân:
đối với cảnh nghịch sanh ngụy,  lòng giận giữ; 3- Si: si mê, không biện biệt
được chơn. Ba món này hay phá hoại thiện tâm xuất thế nên gọi là tam độc.
 [35] Tứ thủ: 1- Dục thủ: sự tham muốn chấp trước cảnh ngũ trần ở cõi Dục;
2- Kiền thủ: đối với thân ngũ ấm này vọng chấp cho là thật (thân kiến), hoặc
chấp  đoạn,  chấp  thường  (biên  kiến);  3- Giới  thủ:  giữ  những  giới  pháp  sai
lầm;  4- Ngã  ngữ  thủ;  tùy  theo  ngôn  ngữ giả  thuyết khởi  ra chấp  ngã,  theo
chỗ chấp đó mà cố giữ lấy.

[36] Ngũ cái: 1- Tham dục cái; 2- Sân nhuế cái; 3- Thùy miên cái: tâm hôn
trầm không làm chi được; 4- Trạo hối cái: trong tâm có sự ăn năn xao động;
5- Nghi cái: đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy,
tâm du dự không quyết đoán.

[37] Lục thọ: Chỉ cho sự thọ lãnh của sáu căn đối sáu trần.

[38] Thất  lậu: 1- Kiến  lậu; mắt trông thấy sắc không rõ sắc với tánh  là bình
đẳng cứ đắm vào phần sắc tướng mà sanh  tâm phân biệt, nhận cảnh tốt xấu
mà sanh tâm yêu ghét. 2- Chư căn lậu: không những nhãn căn mà cả các căn
khác cũng  thế. 3- Vong  lậu: quên điều  lành, dong  ruổi  theo điều ác; 4- Ác
lậu: đối với nghịch cảnh sanh tâm ghét bỏ; 5- Thân cận  lậu: không tuân  lời
thầy dạy, gần gũi bạn ác; 6- Ái lậu; gặp cảnh thuận thì ham mê mải miết; 7-
Niệm lậu: không hiểu chân tâm vô niệm, cứ dong ruổi theo vọng niệm.

[39]  Bát  cấu:  Cấu  là  dơ  bẩn,  đối  với  Tam  bảo  chẳng  những  không  tín
ngưỡng tán thán lại còn phỉ báng. Ấy là ba cấu ở ba nghiệp; 4- Bất hiếu với
cha mẹ; 5- Không kính  thờ  sư  trưởng; 6- Không cứu giúp kẻ bần cùng; 7-
Không  săn  sóc  người  đau  ốm;  8- Không  thương  xót  chúng  sinh. Ba  điều
trước là kính điền, hai điều kế là ân điền, ba điều sau là bi điền. 8 điều này là
phước điền cả. Ðã không chăm nom ruộng phước ấy mà lại còn không cung
kính, không biết ơn, không  thương xót cho nên nói rằng vì  tâm cấu mà  tạo
tất cả tội.

[40] Cửu kiết: 1- Ái kiết: say đắm cảnh ngũ dục không  rời; 2- Nhuết kiết:
giận giữ bất bình đối với nghịch cảnh; 3- Mạn kiết: kiêu căng ngạo nghễ; 4
Vô minh  kiết:  ngu  si mở  ám  đối  với  lẽ  chân  chánh;  5- Kiến  kiết:  tà  kiến
không tin nhơn quả; 6- Thủ kiết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh
và giới pháp sai lầm làm lắm điều ác. 7- Nghi kiết: dụ dự không tin chơn lý,
không tu hành theo hạnh chơn chánh; 8- Tật kiết: ghen ghét những bậc hiền
đức; 9- Xan kiết: keo bẩn không chịu bố thí lại làm nhiều điều ác. Chín điều
này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh  tử vì nó khiến chúng sanh gây
nhiều tội lỗi.
 [41] Thập sử: Mười phiền não: tức là ngũ độn sử và ngũ lợi sử. Ngũ độn sử:
1- Tham dục sử; 2- Sân nhuế sử; 3- Vô minh sử; 4- Mạn sử; 5- Nghi sử, Ngũ
lợi  sử  1- Thân kiến  sử; 2- Biên kiến  sử;  3- Tà kiến  sử; 4- Kiến  thủ  sử;  5-
Giới thủ sử. Ngũ độn sử do ái trước mà có, Ngũ  lợi sử do sự nhận thức sai
lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não.

--- o0o ---

QUYỂN THỨ HAI
CHƯƠNG THỨ TƯ : PHÁT BỒ ÐỀ TÂM

Ngày  nay Ðại  chúng  đồng  nghiệp  trong Ðạo  tràng  đã  cùng  nhau  rửa  sạch
tâm ô uế rồi, thập ác, ([1]) trọng chướng ([2]) không còn, nghiệp lụy dã hết,
trong ngoài đều thanh tịnh.

Thứ  lại xin học các vị Bồ  tát  tu hành  trực đạo, công đức  trí huệ do đó mà
sanh. Bởi vậy, chư Phật  thường khen ngợi sự phát  tâm  là đạo  tràng, vì hay
thành tựu được đạo quả vậy.

Nguyện xin đại chúng đều nên kiên  tâm  trì chí, chớ  tưởng sống  lâu mà đợi
ngày lậu tận ([3]) chớ luống qua, sau ăn năn không kịp.

Bây giờ dà cùng nhau gặp thời buổi tốt, ngày đêm chớ để phiền não che lấp
tâm tánh, phải nên nỗ lực phát tâm bồ đề.

Tâm bồ đề tức là tâm Phật công đức trí huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn. 

Phát tâm một niệm còn được công đức như vậy huống gì phát tâm luôn luôn.

Giả  sử  lịch  kiếp  tu  hành  vô  lượng  phước  đức,  làm  đủ  hết  thảy  việc  làm,
không bằng một niệm phát tâm bồ đề trong muôn một. Toàn số thí dụ cũng
không thể so lường được công đức, phát tâm bồ đề.

Lại như có người chỉ làm việc phước đức chớ không phát tâm vô thượng bồ
đề; người ấy cũng như kẻ cầy ruộng không gieo giống. Mầm mống đã không
gieo thì làm sao có lúa thóc.
 Vì  lý do ấy nên phải phát  tâm bồ đề  làm  nhơn duyên cho việc chứng quả;
trước là báo ơn chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài.

Sở dĩ Phật khen ngợi các thiện tử rằng:

“Lành  thay! Lành  thay! Như  lời  các  ngươi  nói  là  vì muốn  lợi  ích  cho  hết
thảy chúng sanh”.

Phát tâm Bồ đề là cách cúng dường lớn hơn tất cả.

Phát tâm bồ đề, không phải là chỉ phát qua một phen mà phải phát luôn luôn;
làm cho  tâm bồ đề  tương  tục rộng  lớn mãi mãi. Vì  thế  trong kinh Phật dạy
rằng:

“Ở nơi chỗ na do tha hằng hà sa số đức Phật phát đại thiện nguyện”.

Vậy nên biết số phát tâm ấy là vô lượng.

Lại nữa tâm bồ đề chỉ gặp thiện tri thức  liền phát, vị tất phải gặp Phật xuất
thế.

Như Ngài Văn Thù Sư  lợi Bồ  tát,  lúc đầu hướng về bồ đề  là nhờ gặp được
nữ nhân mà phát.

Nhưng phát sơ  tâm huệ  thức không phải kẻ phàm dung,  tâm chí hạ  liệt mà
phát được. Phải  là người có  thật  tâm khát ngưỡng Ðại  thừa,  tham cầu Phật
pháp,  y  ỷ  các  kinh,  xem  thường  thế  sự,  oán  thân  bình  đẳng,  lục  đạo  như
nhau. Nguyện  cho  hết  thảy  chúng  sanh  nhờ  sự  phát  tâm  ấy mà  được  giải
thoát, đều đồng  tín giải. Nên biết sự phát  tâm không phải  là việc nói chơi,
người tầm thường mà phát tâm được.

Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng đã phát bồ đề tâm thì quyết
phải quán tưởng. Trước hết tưởng đến thân nhơn. Trong lúc trì niệm, chuyên
tâm  tưởng đến  cha mẹ,  sư  trưởng  của mình;  rồi  niệm  tưởng đến  địa  ngục,
ngã quỉ, súc  sanh; Lại niệm  tưởng đến chư Thiên, chư Tiên, hết  thảy  thiện
thần.

Lại nghĩ đến nhơn đạo, hết thảy nhơn  loại, có người đang chịu khổ  làm sao
mà cứu.
 Thấy rồi lại tưởng, nên nghĩ thế nầy: Chỉ có cách phát tâm rộng lớn, tâm bồ
đề mới có  thể cứu được. Nếu  tưởng đến một người  thành  rồi  thì nên  tưởng
đến hai người. Hai người thành rồi thì tưởng đến ba người. Ba người thành
rồi thì tưởng đầy một nhà. Một nhà thành rồi thì tưởng đến một do tuần. Một
do tuần thành rồi thì tưởng đến đầy cõi diêm phù đề. Diêm phù đề thành rồi
thì tưởng đến cả bốn châu thiên hạ.

Quán tưởng như vậy lần lần rộng khắp mười phương thế giới.

Thấy chúng sanh ở phương Ðông là cha mình.

Chúng sanh ở phương Tây là mẹ mình,

Chúng sanh ở phương Nam là anh mình,

Chúng sanh ở phương Bắc là em mình,

Chúng sanh ở phương dưới là chị em mình.

Chúng sanh ở phương trên là sư trưởng mình.

Chúng sanh ở bốn phương góc ([4]) kia là sa môn, bà la môn.

Thấy rồi nghĩ rằng:

“Nếu lúc nào những người ấy chịu khổ, tưởng ta phải đến nơi các người ấy
mà thoa bóp thân thể cho họ, thề diệt hết đau khổ cho họ được giải thoát, rồi
ta  sẽ  nói  pháp  cho  họ  nghe,  bằng  cách  tán  thán  công  đức  của Phật, Pháp,
Tăng.

Tán thán rồi, sanh lòng vui mừng, thấy họ an vui như ta không khác.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp  trong Ðạo tràng phát Bồ đề tâm đều phải
làm như vậy; ở  trong đau khổ mà độ chúng sanh. Mọi người đều phải nhất
tâm thống thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói, phát lời thệ nguyện
như thế nầy:

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, trong khoản
thời gian ấy, sanh ở chỗ nào, cũng thường gặp được thiện tri thức, phát tâm
vô  thượng bồ đề. Nếu chúng con đọa  trong ba đường ác, hay  lâm phải  tám nạn ([5]) thường khiến chúng con nhớ tưởng phát tâm bồ đề; làm cho tâm bồ
đề tương tục không gián đoạn.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên phát tâm dõng mãnh,
tâm  ân  trọng,  tâm bồ đề;  nhất  tâm  yha  thiết, đầu  thành  đảnh  lễ quy  y Thế
gian Ðại Từ Bi Phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật  

Nam mô Dõng Thí Phật

Nam mô Thanh Tịnh Phật

Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật

Nam mô Ta lưu na Phật

Nam mô Thủy Thiên Phật

Nam mô Kiên Ðức Phật

Nam mô Chiên đàn công đức Phật

Nam mô Vô lượng Cúc quang Phật

Nam mô Quang đức Phật

Nam mô Vô Ưu Ðức Phật

Nam mô Na La Diên Phật

Nam mô Công đức Hoa Phật

Nam mô Kiên dõng tinh tấn Bồ tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát 
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Ðệ tử chúng con tên . . .  ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm
Bồ đề, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tu đạo Bồ  tát, thề không thối
lui; hằng sanh  tâm độ  thoát chúng sanh, hằng sanh  tâm an  lập chúng sanh,
hằng sanh tâm che chở chúng sanh; chúng sanh không thành Phật, chúng con
xin thề không chịu chứng quả niết bàn trước chúng sanh.

 Nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật chư Ðại Bồ tát, hết thảy thánh
hiền, hiện tiền chứng minh cho chúng con, khiến chúng con tên . . .  hết thảy
hạnh nguyện đều được viên mãn.

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp  trong Ðạo  tràng, dầu  trải qua nhiều kiếp
làm  nhiều  điều  thiện mới  được  phước  báu ở  cõi  người,  cõi  trời,  chứ  chưa
chứng được quả xuất thế; chết rồi hết phước, trở lại đọa vào đường ác. Thân
hình tan rã, tự mình chưa khỏi khổ não, chưa khỏi bức bách.

Nếu không lập thệ nguyện rộng lớn, không phát tâm bồ đề thì phước đâu mà
trang nghiêm Pháp thân để xa lìa được khổ não.

Ngày nay cùng nhau nhất tâm nhất ý . . .  tưởng nhớ chư Phật, khởi lòng tin
kiên cố, phát tâm đại bồ đề.

Công đức phát tâm rất rộng lớn sâu xa, không thể so lường. Chư Phật và Bồ
tát nói cũng không  thể hết. Thiện  lực như vậy, vô  lượng vô biên không  thể
nghĩ bàn.

Thế  nên  chúng  con  đâu  được  không  hết  lòng  chuyên  tâm  chú  ý  mà  phát
quảng đại bồ đề tâm.

Kinh Ðại Tập dạy rằng:

“Ví như trong một cái nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, cùng có thể
phá  tan mờ ám. Vậy nên chớ cho một niệm phát tâm  là nhỏ,  là không quan
trọng, mà không nỗ lực.
 Ðại  chúng  cùng  nhau  quỳ  gối  chắp  tay  nhất  tâm  tưởng  nhớ  đến  hết  thảy
mười phương Tam bảo tâm niệm miệng nói lời nầy:

“Ðệ  tử  chúng  con  tên  .  .  .   nay đối  trước  hết  thảy mười phương  chư Phật,
trước  hết  thảy  mười  phương  tôn  pháp,  trước  hết  thảy mười  phương  Hiền
Thánh , lòng ngay dạ thẳng, khởi tâm ân cần, trịnh  trọng, tâm không buông
lung,  tâm an  trú,  tâm ưa điều  thiện,  tâm độ  thoát hết  thảy,  tâm che chở hết
thảy, tâm như tâm Phật, tâm phát tâm bồ đề.

Ðệ tử chúng con tên . .  .    từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật tâm không
đắm  trước  cõi  trời,  cõi  người,  tâm  không  cầu  chứng  tiểu  quả  thanh  văn,
duyên giác mà chỉ phát tâm đại thừa, phát tâm cầu được nhất thế chủng trí,
tâm cầu thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.

Nguyện xin mười phương  tận hư không giới hết  thảy chư Phật, Ðịa địa Bồ
tát,  hết  thảy  thánh  hiền,  đem  sức  bổn  nguyện  hiện  tiền  chứng  giám  cho
chúng con, đem sức  từ bi, gia  tâm hộ  trợ, nhiếp  thọ chúng con, cho chúng
con tên . . .  ngày nay phát tâm, tại chỗ sở sanh, kiên cố không thối lui.

Nếu chúng con bị đọa vào ba đường ác, hoặc  lâm phải  tám nạn, ở  trong ba
cõi, chịu đủ thân hình, chịu đủ khổ sở không thể chịu được. Chúng con xin
thề, không vì khổ ấy mà  thối mất  tâm bồ đề ngày nay. Thà chúng con chịu
vào  trong Ðại  hỏa  luân,  vô  gián  địa  ngục,  chịu  các  thống  khổ;  chúng  con
không vì khổ mà thối mất tâm đại bồ đề ngày nay.

Tâm  ấy,  nguyện  ấy  đồng  với  tâm  của  chư Phật, đồng  với  nguyện  của  chư
Phật.

Lại xin chí thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con tên . . .  từ nay trở đi cho đến
ngày thành Phật không bỏ hai pháp sau đây:

- Một là biết tự tánh các pháp vốn không.

- Hai là độ thoát hết thảy mười phương chúng sanh”.

Cùng nhau chí thành nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, tâm niệm miệng nói:

Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .   không vì mình mà cầu vô  thượng bồ đề, chính vì
muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, cho nên cầu vô thượng bồ đề. Từ nay trở
đi cho đến ngày thành Ðạo, chúng con sẽ nâng đỡ hết thảy vô lượng vô biên chúng  sanh; chúng  con  sanh  lòng đại bi,  cùng  tận đời  vị  lai đối  với  tất  cả 
chúng  sanh.  Nếu  có  chúng  sanh  nào  bị  các  ách  nạn,  trọng  tội,  trong  ba
đường, sáu nẻo, chúng con  tên  .  .  .    thề không  lánh khổ mà  lại đem  thân ra
cứu hộ, làm cho các chúng sanh ấy được an ổn.

Nguyện xin mười phương cùng tận hư không giới, hết thảy Tam bảo chứng
minh cho chúng con.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật 

Nam mô Liên Hoa Quang Phật

Nam mô Du Hý Thần thông Phật

Nam mô Tài Công đức Phật

 Nam mô Ðức Niệm Phật 

Nam mô Thiện danh xưng công đức Phật

Nam mô Hồng diệm đế tràng vương Phật

Nam mô Thiện du bộ công đức Phật

Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật

Nam mô Bảo Liên Hoa thiện trụ Ta La Thọ Vương Phật

Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật

Nam mô Thiện Du Bộ Phật

Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Ðức Phật

Nam mô Khí Ấm Cái Phật

Nam mô Tịch Căn Bồ tát
 Nam mô Vô Biên thân Bồ tát

Nam mô Quán thế Âm Bồ tát

Nguyện xin chư Phật, đem đại từ bi lực, hiện tiền chứng giám cho chúng con
tên  .  .  .   ngày nay phát  tâm bồ đề,  tu đạo bồ  tát,  tại chỗ sở sanh,  thành  tựu
được hết thảy điều thệ nguyện.

Chúng con đi đến đâu hết  thảy chúng sanh đều được giải  thoát. Chúng con
lại xin đầu thành đảnh lễ hết thảy mười phương Tam bảo.

Chúng con tên . . .  không vì tự thân mà cầu đạo vô thượng bồ đề. Chỉ vì hết
thảy chúng sanh trong mười phương mà cầu chứng quả vô thượng bồ đề.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành phật nếu có chúng sanh nào ngu si, ám độn
không  biết  chánh  pháp  sanh  tâm  tà  kiến  và  có  chúng  sanh  nào  tuy  tu  đạo
hạnh mà không  thông đạt pháp  tướng. Những chúng sanh như vậy cho đến
cùng  tận đời vị  lai, chúng con  tên  .  .  .   xin  thệ nguyện nhờ Phật  lực, Pháp
lực, Hiền Thánh  lực và bao nhiêu phương  tiện khác, khiến các chúng sanh
ấy đều được nhờ Phật lực hoàn toàn đầy đủ thành tựu nhất thế chủng trí.

Chúng con cùng nhau chí  tâm, một  lòng  tha  thiết, đầu  thành đảnh  lễ quy y
mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Phổ Quang Phật

Nam mô Phổ Minh Phật

Nam mô Phổ Tịnh Phật

Nam mô Ða ma la bạt chiên Ðàn Hương Phật

Nam mô Chiên đàn Quang Phật

Nam mô Ma ni tràng Phật
 Nam mô Hoan Hỉ tạng ma ni Bảo Tích Phật

Nam mô Nhất thế thế gian nhạo kiến thượng đại tinh tấn Phật

Nam mô Ma ni Tràng Ðăng Quang Phật

Nam mô Huệ Cự chiếu Phật

Nam mô Hải Ðức Quang minh Phật

Nam mô Kim cang Lao cường Phổ tán Kim quang Phật

Nam mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng mãnh Phật

Nam mô Ðại Bi Quang Phật

Nam mô Từ Lực Vương Phật

Nam mô Từ Tạng Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô biên Thâm Bồ tát

Nam mô Quán thế Âm Bồ tát

Nguyện xin chư Phật chư đại bồ tát đem đại từ bi lực, đại trí huệ lực, bất tư
nghị  lực,  vô  lượng  tự  tại  lực,  hàng phục  tứ ma  ([6])  lực, đoạn  trừ  ngũ  cái
([7])  lực,  diệt  trừ  phiền  não  lực,  vô  lượng  thanh  tịnh  nghiệp  trần  lực,  vô
lượng khai phát quán trí lực, vô lượng khai phát vô lậu huệ lực, vô lượng vô
biên    thần  thông  lực,  vô  lượng  độ  thoát  chúng  sanh  lực,  vô  lượng  phú  hộ
chúng sanh  lực, vô  lượng an ổn chúng sanh  lực, vô  lượng đoạn trừ khổ não
lực, vô  lượng giải  thoát địa ngục  lực, vô  lượng  tế độ ngã quỉ  lực, vô  lượng
cứu  bạt  súc  sanh  lực,  vô  lượng  nhiếp  hóa  a  tu  la  lực,  vô  lượng  nhiếp  thọ
nhơn đạo  lực, vô  lượng  tận chư  thiên chư  tiên  lậu  lực cụ  túc  trang nghiêm
thập địa lực.

Cụ túc trang nghiêm tịnh độ lực, 
Cụ túc trang nghiêm đạo tràng lực,

Cụ túc trang nghiêm Phật quả công đức lực,

Cụ túc trang nghiêm Phật quả tri huệ lực,

Cụ túc trang nghiêm Pháp thân lực,

Cụ túc trang nghiêm vô lượng bồ đề lực

Cụ túc trang nghiêm đại niết bàn lực.

Vô lượng vô tận công đức lực,

Nguyện xin mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật, chư đại Bồ
tát,  đem  những  năng  lực  vô  lượng  vô  biên  tự  tại  không  thể  nghĩ  bàn  ấy,
không  trái  với  thề  xưa, không  trái  với  nguyện  xưa mà bố  thí cho  hết  thảy
chúng sanh trong bốn  loài sáu đường cùng khắp mười phương và cho tất cả
chúng sanh đồng đang phát tâm hôm nay.

Quyết định khiến cho  tất cả chúng sanh ấy hoàn  toàn đầy đủ các công đức
lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề nguyện  lực, hoàn toàn  thành tựu bồ đề hạnh
lực.

Ngày nay hết thảy chúng sanh trong mười phương cùng tận đời vị  lai, hoặc
ẩn, hoặc hiện, hoặc oán, hoặc  thân, hoặc không phải oán,  thân ở  trong bốn
loài sáu đường có duyên hay vô duyên với Phật pháp, hết thảy đều nhờ pháp
sám nầy hằng được thanh tịnh. Các chúng sanh ấy ở nơi nào cũng đồng được
như  sở  nguyện; một  lòng  kiên  cố,  tâm  không  thối  chuyển;  đồng  như  chư
Phật, đồng thành chánh giác; cho đến những chúng sanh đời sau, dầu trái với
lời  nguyện  nầy  cũng  đều  khiến  các  chúng  sanh  ấy  được  vào  trong  bể  đại
nguyện  liền được đầy đủ, hoàn  thành  tựu công đức,  trí huệ các chúng sanh
ấy  đồng  với  chư Bồ  tát,  viên mãn  hạnh  thập  địa  ([8])  hoàn  toàn  nhất  thế
chủng trí ([9]) trang nghiêm vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.


--- o0o --- CHƯƠNG THỨ NĂM : PHÁT  NGUYỆN

Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, đã được cùng nhau phát
đại bồ đề tâm rồi, vui mừng vô lượng. Bây giờ nên phát đại nguyện như sau
nầy và nhất tâm tha thiết đầu thành đảnh lễ qui y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ:

 Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Chiên đàn khốt trang nghiêm thắng Phật

Nam mô Hiền thiện Thủ Phật

Nam mô Thiện ý Phật

Nam mô Quảng trang nghiêm vương Phật

Nam mô Kim Hoa Quang Phật

Nam mô Bảo cái chiếu không Tự Tại Lực Vương Phật

Nam mô Hư không Bảo Hoa Quang Phật

Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật

Nam mô Phổ hiện sắc thân Quang Phật

Nam  mô Bất động trí Quang Phật

Nam mô Hàng Phục chúng ma vương Phật.

Nam mô Tài Quang minh Phật

Nam mô Trí Huệ Thắng Phật

Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật

Nam mô Dược Vương Bồ tát
 Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nguyện xin Tam bảo đem sức bất khả tư nghị lực gia tâm che chở cho chúng
con tên . . . .  có những thệ nguyện gì, đều được thành tựu. Chúng con sanh
ra ở đâu thường cũng không quên mất các lời nguyện hôm nay, và được viên
mãn vô thượng bồ đề, thành đẳng chánh giác,

Chúng con  tên . .  .   từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi
nơi thường tưởng nhớ sự phát tâm bồ đề, khiến tâm bồ đề tương tục không
đoạn.

Ðệ tử chúng con tên .  .  .   từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi nơi thường được phụng sự vô  lượng vô biên hết thảy đức Phật, thường
được cúng dường chư Phật, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi  nơi  thường  được  hộ  trì  hết  thảy  kinh  điển  đại  thừa  phương  đẳng,  lễ
phẩm cúng dường kinh điển, đều được đầy đủ.

Ðệ tử chúng con tên . . .   từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, thường gặp được hết thảy mười phương vô lượng vô biên chư vị Bồ
tát, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.

Ðệ tử chúng con tên . . .   từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi  nơi  thường  gặp  được  hết  thảy  mười  phương  vô  lượng  vô  biên  hiền
thánh; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi  thường được phụng dưỡng báo bổ ơn sâu của cha mẹ, muốn dâng
cúng gì cũng không thiếu.

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, cũng thường gặp được hết thảy chư vị Hòa thượng A xà lê và muốn
dâng cúng gì cũng có đầy đủ tùy tâm sở nguyện.
 Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .    từ nay  trở đi, nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng
khắp mọi nơi thường được cung phụng và gặp gỡ hết thảy vị quốc chủ có đại
thế  lực cùng với chúng con hưng hiển Tam bảo,  làm cho Phật Pháp không
đoạn tuyệt.

Ðệ tử chúng con tên . . .   từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi nơi thường được trang nghiêm cõi nước của chư Phật các cõi ấy không
có những danh từ tam ác, bát nạn.

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi  nơi,  bốn  vô  ngại  trí,  sáu  sức  thần  thông  hằng  được  hiện  tiền,  thường
không quên mất, dùng để giáo hóa hết thảy chúng sanh.

Chúng con cùng nhau nhất  tâm  thống  thiết năm vóc  sát đất, đảnh  lễ quy  y
thế gian Ðại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thế Tịnh quang Phật

Nam mô Thiện tịch nguyệt âm diệu tôn trí vương Phật

Nam mô Long chưởng thượng Tôn vương Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang Phật

Nam mô Nhật nguyệt châu quang Phật

Nam mô Huệ tràng thắng vương Phật

Nam mô Sư tử hống tự tại lực vương Phật

Nam mô Diệu âm thắng Phật

Nam mô Thường quang tràng Phật

Nam mô Quang Thế Ðăng Phật
 Nam mô Huệ oai đăng vương Phật

Nam mô Pháp Thắng vương Phật

Nam mô Tu Di Quang Phật

Nam mô Tu ma na hoa quang Phật

Nam mô Ưu Ðàm bát la Hoa Thù thắng Vương Phật

Nam mô Ðại Huệ Lực Vương Phật

Nam mô A Súc Tỳ hoan hỷ Quang Phật

Nam mô Vô Lượng âm thanh vương Phật

Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật

Nam mô Ðại Thông quang Phật

Nam mô Tài Quang Phật

Nam mô Kim Hải Quang Phật

Nam mô Nhất thế Pháp tràng mãn vương Phật

Nam mô Ðại Thế chí Bồ tát

Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin nhờ sức oai đức  từ bi của chư Phật, chư đại Bồ  tát và hết  thảy
Hiền  Thánh  Tăng  khiến  chúng  con  tên  .  .  .    sanh  ra  nơi  nào  những  thệ
nguyện đã phát ra, đều được tùy tâm tự tại.
 Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi lại nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng
khắp mọi nơi, nếu có chúng sanh nào thấy sắc thân của chúng con liền được
giải  thoát. Nếu chúng con vào Ðịa ngục, hết  thảy Ðịa ngục đều biến  thành
Tịnh độ; hết thảy khổ não biến thành an vui. Khiến các chúng sanh sáu căn
thanh  tịnh,  thân  tâm  an  lạc,  vui  như ở đệ Tam  thuyền,  dứt  sạch  nghi  ngờ,
phát sơ vô lậu huệ.

Ðệ tử chúng con tên . . .   từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi  nơi,  nếu  có  chúng  sanh  nào  nghe  được  âm  thanh  của  chúng  con,  tâm
liền được an ổn, diệt trừ tội cấu, được đà la ni ([10]) giải thoát tam muội, đầy
đủ đại nhẫn, biện tài vô cùng, vào Pháp vân địa, thành bậc Chánh giác.

Ðệ tử chúng con tên . . .  từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi hết thảy chúng sanh nghe được tên chúng con thảy đều hoan hỷ, như
được việc chưa từng có.

Nếu chúng con đến tam đồ thì tam đồ dứt hết khổ não; nếu chúng con ở các
cõi trời cõi người thì các cõi ấy dứt hết các pháp hữu lậu, đến đâu cũng được
tự do, không có gì ràng buộc, thảy đều được giải thoát.

Ðệ tử chúng con tên . . .   từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, đối với hết  thảy chúng sanh, không có  tâm   cho và  lấy, không có
tưởng oán và thân; đoạn trừ tham, sâm, si là ba gốc độc ác; lìa ngã và ngã sở,
tin ưa pháp đại thừa, Ðồng tu hạnh từ bi, hòa hiệp với hết thảy như các thánh
chúng. 

Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .   ngày nay  trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng
khắp mọi  nơi,  đối  với  hết  thảy  chúng  sanh  tâm  thường  bình  đẳng  như  hư
không,  khen  chê không động  lòng; oán  thân  như nhau, đi  sâu  vào  tâm địa
rộng  lớn, học  trí huệ chư Phật, xem chúng sanh đều như La hầu La đầy đủ
nghiệp  thập  trú, xa  lìa  tâm chấp có, xả bỏ  tâm chấp không,  thường  tu  theo
trung đạo.

Cùng nhau chí tâm một lòng tha thiết. đầu thành đảnh lễ, quy y thế gian Ðại
từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
 Nam mô Bảo Hải Phật

Nam mô Bảo Anh Phật

Nam mô Bảo Thành Phật

Nam mô Bảo Quang Phật

Nam mô Bảo Tràng Phan Phật

Nam mô Bảo Quang Minh Phật

Nam mô A Súc Phật

Nam mô Ðại Quang minh Phật

Nam mô Vô lượng âm Phật

Nam mô Ðại danh xưng Phật

Nam mô Ðắc đại an ổn Phật

Nam mô Chánh âm thanh Phật

Nam mô Vô hạn Tịnh Phật

Nam mô Nguyệt âm Phật

Nam mô Vô lượng danh Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang Phật

Nam mô Vô cấu quang Phật

Nam mô Tịnh quang Phật

Nam mô Kim cang Tạng Phật

Nam mô Hư không Tạng Bồ tát
 Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Chúng con tên .  .  .  nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát nguyện sám
hối hôm nay, mà bốn loài chúng sanh trong sáu đường, từ nay trở đi cho đến
ngày thành Phật tu đạo Bồ tát không biết mỏi mệt, nhàm chán; tài thí không
cùng, pháp  thí không tận, trí huệ phương tiện  làm gì cũng được;  tùy căn cơ
của chúng sanh, cho uống thuốc pháp, người thấy người nghe, đều được giải
thoát.

Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .    lại nguyện xin  từ nay  trở đi cho đến ngày  thành
Phật,  tu đạo Bồ  tát, không bị các chướng nạn  trở ngại. Chúng con đến đâu
cũng  thường kiến  lập đạo  tràng,  làm các đại Phật sự;  tâm được  tự  tại, pháp
được  tự  tại, hay vào được hết  thảy các môn  thiền định, mở cửa  tổng  trì,  rõ
bày  Phật  quả, ở  pháp  vân  địa,  rưới  nước  cam  lồ,  trừ bốn ma  oán  cho  các
chúng sanh; khiến các chúng sanh được pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu.

Ðệ tử chúng con tên . . .  xin có bao nhiêu thệ nguyện nguyện nào cũng như
nguyện của người ở phương chư Phật, chư Ðại Bồ tát đã phát ra trong lúc tu
hành, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.

Ðệ  tử chúng con  tên  .  .  .   xin đều được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.
Nguyện  cho  hết  thảy  chúng  sanh  đều  theo  đó,  đều  được  như  sở  nguyện.
Nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, hết thảy chư Bồ tát và hết thảy
Thánh Hiền đều đem sức từ bi, hiện tiền chứng giám cho chúng con.

Lại  nguyện  xin cho  chúng  sanh  thảy  thiên  chủ,  hết  thảy  tiên  chủ,  hết  thảy
thiện thần, hết thảy  long thần đem  từ thiện căn  lực, vì ủng hộ Tam Bảo mà
hiện tiền chứng giám cho chúng con khiến chúng con hết thảy hạnh nguyện
đều được viên mãn, tùy theo ý muốn.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ SÁU : PHÁT TÂM HỒI HƯỚNG
 Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã phát bồ đề tâm rồi, đã
phát đại thệ nguyện rồi, bây giờ lại nên phát tâm hồi hướng.
  Cùng nhau chí thành đảnh lễ, nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, quy y Thế
gian Ðại Từ Bi Phụ.

 Nam mô Di Lặc Phật,

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Nhật Quang Phật

Nam mô Vô lượng Bảo Phật

Nam mô Liên Hoa Tối Tôn Phật

Nam mô Thân Tôn Phật

Nam mô Kim Quang Phật

Nam mô Phạm tự tại vương Phật

Nam mô Kim Quang minh Phật

Nam mô Kim Hải Phật

Nam mô Long tự tại vương Phật

Nam mô Thọ vương Phật

Nam mô Nhất thế Hoa Phật

Nam mô Hương tự tại vương Phật

Nam mô Hương tự tại vương Phật

Nam mô Dõng mãnh chấp trì lao trượng khí xả chiến đấu Phật

Nam mô Nội phong châu quang Phật

Nam mô Vô lượng Hương Quang minh Phật

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát 
Nam mô Diệu Âm Bồ tát

Nam mô Vô Biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo,
nguyện xin Tam bảo, đem sức từ bi hiện tiền chứng giám cho chúng con.

Chúng con tên . . .  quá khứ đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, hiện tại đang
khởi  ra bao nhiêu  thiện nghiệp, và vị  lai sẽ khởi ra bao nhiêu  thiện nghiệp,
hoặc  nhiều  hoặc  ít,  hoặc  khinh  hoặc  trọng,  thảy  đều  hồi  hướng  cho  tất  cả
chúng sanh, trong bốn loài, sáu đường, làm cho các chúng sanh ấy đều được
đại đạo  tâm, không hướng về nhị  thừa, không hướng về ba cõi, cùng nhau
hướng về vô thượng bồ đề.

Lại nguyện xin cho tất cả chúng sanh ấy đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp,
hoặc quá khứ, hoặc hiện  tại, hoặc vị  lai đều không hướng về nhị  thừa, đều
không hướng về ba cõi, mà cùng nhau hướng về vô thượng bồ đề.

Ngày  nay đại  chúng đồng  nghiệp  trong Ðạo  tràng  đã  cùng phát  tâm bồ đề
rồi, đã phát đại thệ nguyện rồi đã phát tâm hồi hướng rồi rộng lớn như pháp
tánh, cứu cánh như hư không.

Hết  thảy chư Phật, chư Ðại Bồ  tát cùng chư vị thánh hiền quá khứ, hiện tại
và  vị  lai đều  chứng minh  cho  chúng  con. Chúng  con  lại  chí  thành đảnh  lễ
Tam bảo.(1lạy)

Chúng con tên . . .  phát tâm, phát nguyện việc ấy đã rồi, vui mừng vô lượng.
Nay chúng con  lại chí  tâm đầu  thành đảnh  lễ  thế cho: quốc chủ, nhân dân,
phụ mẫu,  sư  trưởng bà  con  nhiều đời, quyến  thuộc nhiều kiếp,  thiện  ác  tri
thức, chư  thiên chư  tiên, hộ  thế  tứ vương, chủ  thiện phạt ác,  thủ hộ  trì chú,
nhũ phương long vương, long thần, bát bộ hết thảy linh kỳ, quá khứ, hiện tại
cùng  vị  lai  hết  thảy  người  oán  kẻ  thân  và  không  phải  oán  thân,  hết  thảy
chúng sanh trong bốn loài, sáu đường mà quy y thế gian Ðại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật 
Nam mô Sư Tử Hưởng Phật

Nam mô Ðại cường tinh tấn Dõng Lực Phật

Nam mô Quá khứ kiến trú Phật

Nam mô Cổ âm vương Phật

Nam mô Nhật nguyệt anh Phật

Nam mô Siêu xuất chúng Hoa Phật 

Nam mô Thế đăng minh Phật

Nam mô Hưu đa dị Ninh Phật

Nam mô Bảo Luân Phật

Nam mô Thường diệt độ Phật

Nam mô Tịnh giác Phật  

Nam mô Vô lượng bảo hoa minh Phật

Nam mô Tu Di Bộ Phật

Nam mô Bảo Liên Hoa Phật

Nam mô Nhất thế chúng bảo phổ tập Phật

Nam mô Pháp luân chúng bảo phổ tập phong doanh Phật

Nam mô Thọ vương phong trường Phật

Nam mô Vi nhiễu đặc tôn Ðức Tịnh Phật

Nam mô Vô cấu Quang Phật

Nam mô Nhật Quang Phật  
VÀ  QUY  Y  KÍNH  LỄ

Quá khứ vô số kiếp chư Phật. Ðại Sư Hải Ðức Như Lai.

Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô sanh pháp thân Bồ tát.

Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô lậu sắc thân Bồ tát

Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới phát tâm Bồ tát.

Kính lễ hưng chánh pháp Mã Minh đại sư Bồ tát,

Kính lễ hưng Tượng pháp, Long Thị Ðại Sư Bồ tát

Kính lễ mười phương tận hư không giới vô biên thân Bồ tát.

Kính lễ mười phương tận hư không giới cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
tát.


--- o0o ---
TÁN  THÁN  PHẬT  VÀ  CHÚ  NIỆM.

Ðại  Thánh  Thế  Tôn.

Uy  nghiêm  rực  rỡ

Thần  trí  nhiệm  mầu,

Lớn  hơn  các  Thánh

Thân  khắp  lục  đạo

Thể cùng mười phương

Ðảnh  có  nhục  kế,

Tráng  tỏa  hào  quang
 Mặt  như  trăng  tròn

Thân  vàng  sắc  đẹp,

Nghi  dung  đĩnh  đạt

Ði  đứng khoan  thai,

Oai  vang  pháp  giới,

Ma  quân  kinh  hoàng.

Tam  đạt ([11]) sáng  tỏa

Chúng  tà  tiềm  tàng.

Thấy  ác  liền  cứu

Tế  khổ  tư  lương ([12])

Ðộ thoát  sanh tử, 

Tế  khổ  tư lương  ([13]) 

Nên hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật Thế Tôn,
độ chúng vô lượng diệt khổ sanh tử.

Chúng con nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát tâm này mà quốc chủ
hiện tại và gia thân quyến thuộc của Người từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật quên mình vì đạo như:

Tát  đà  bà  luân  Bồ  tát

Ðại  Bi  diệt  tội  như:

Hư  Không  Tạng  Bồ  tát

Hay  ở  xa  nghe  pháp  như:
 Lưu  ly  quang  Bồ  tát

Hay  khéo  giải  đáp  vấn  nạn  như:

Vô  câu  Tạng  Bồ  tát.

Lại nguyện xin cho đệ tử chúng con tên . . .  thân sanh phụ mẫu, nhiều kiếp
bà con, xa gần nội ngoại, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, biến thân  ra
giữa hư không thế giới như Ngài:

 Vô  Biên  thân  Bồ  tát

 Có  đủ  mười  công  đức  như:

 Ngài  Cao  quý  Ðức  Vương  Bồ  tát.  

 Nghe  pháp  sanh  tâm  vui  mừng  như: 

Ngài  Vô  Úy  Bồ  tát.

       Lại nguyện xin các Hòa Thượng, A Xà Lê, những bà con đồng tu đồng
học, thượng, trung hạ tọa, hết thảy tri thức của chúng con, từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, mọi người đều được phép vô úy như:

Ngài  Sư  Tử  Vương  Bồ  tát

Giáo  Hóa  đuợc  ảnh  hưởng  lớn  như:

Ngài  Bảo  Tính  Bồ  tát.

Nghe  tiếng  liền  cứu  khổ  như:

Ngài  Quán  Thế  Âm  Bồ  tát.

Hay  khéo  thưa  thỉnh  giáo  pháp  như:

Ngài  Ðại  Ca  Diếp  Bồ  tát.
 Lại nguyện xin những người xuất gia, tại gia, tín thí đàn việt thiện ác tri thức
và quyến thuộc của các người ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi
mở ngay được nguy ách, như Ngài Cứu Thoát Bồ tát.

Tướng  mạo  trang  nghiêm  như:

Ngài  Văn  thù  Bồ  tát.

Hay  xả  nghiệp  chướng  như:

Ngài  Khí  ấm  Cái  Bồ  tát.

Hiếu  tối  hậu  cúng  như:

Ngài  Thuần  Ðà  Bồ  tát.

Lại  nguyện  xin  chư  Thiên,  chư Tiên Hộ  thế  tứ  vương,  thông minh  chánh
trực, Thiên  địa Hư không,  chủ  thiện  phạt  ác, Thủ  hộ  trì  chú,  ngũ  phương
Long vương, Long Thần Bát bộ, U hiển Linh kỳ và bà con quyến thuộc của
các vị ấy,  từ nay  trở đi cho đến ngày  thành Phật, có  lòng Ðại  từ che khắp
chúng sanh như Ngài A Dật Ða Bồ tát.

Tinh  tấn  Hộ  pháp  như

Ngài  Bất  Hưu  Bồ  tát.

ở xa mà chứng minh cho sự đọc tụng như:

Ngài  Phổ  Hiền  Bồ  tát.

Vì Phật pháp mà thiêu thân như:

Ngài  Dược  Vương  Bồ  tát.

Lại  nguyện  xin  hết  thảy  chúng  sanh  và  quyến  thuộc  của  các  chúng  sanh,
hoặc oán, hoặc thân hay không phải oán thân trong bốn loài, sáu đường cùng
khắp  mười  phương  từ  nay  trở  đi  cho  đến  ngày  thành  đạo,  tâm  không  ái
nhiễm như Ngài Ly Ý Nữ Bồ tát.

Nói lời nhiệm mầu khôn khéo như lời của 
Thắng  man  Phu  Nhơn.

Tu hành tinh tấn như đức Thích Ca văn.

Có thiện nguyện lớn như Phật vô lượng Thọ.

Có oai thần như các Thiên Vương.

Bất khả tư nghị như Ngài Duy ma Cật.

Thành tựu hết thảy chúng sanh, trang nghiêm hết thảy Phật độ.

Nguyện xin mười phương tận hư không giới vô lượng vô biên chư Phật, chư
Ðại Bồ  tát,  và  hết  thảy Hiền Thánh đều đem  lòng  từ bi, đồng  gia  tâm  che
chở  phù  hộ  cứu  vớt  chúng  con,  và  chúng  sanh,  cho  chúng  con  được mãn
nguyện, tín tâm được kiên cố, phước đức ngày một cao dày, có từ tâm, nuôi
dưỡng chúng sanh như nuôi đứa con một.

Khiến các chúng sanh ấy được bốn vô lượng tâm (9) sáu ba la mật (10) thập
thọ tu thiền (11) tam nguyện đầy đủ (12) móng tâm liền được thấy Phật như
bà Thắng man Phu nhơn. Hềt  thảy hạnh nguyện hoàn  toàn  thành  tựu, đồng
như chư Phật, đồng đến Ðạo Tràng, thành bậc Chánh giác.

QUYỂN   NHÌ

--- HẾT---
 
[1] Thập ác.- 10 ác:

   Thân  3: Sát, đạo, dâm.

   Miệng4: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu.

   Ý   3: Tham sân si.

[2]  Trọng  chướng.  –  Chướng  ngại  rất  nặng:  chỉ  cho  vô  minh  phiền  não,
nghiệp hoặc tạo ra các tội  thập ác ngũ nghịch v.v... chướng ngại không cho
giải thoát.
 [3] Lậu tận: hết các pháp hữu lậu được giải thoát.

[4] Phương góc: Bốn góc xéo: đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc.

[5] Tám  nạn.  –  1) Ðịa  ngục,  .  –  2) Ngã  quỉ  –  3)  Súc  sanh  .  –  4) Cõi  trời
trường thọ – 5) Bắc Cu  lô châu – 6) Ðui điếc, câm, ngọng – 7) Thế trí biện
thông  –  8)  Sanh  ra  trước  Phật  hay  sau  Phật. Tám  chỗ  nầy  không  có  Phật
pháp, là tai nạn của sự giải thoát.

[6] Tứ ma. . – 1) Phiền não ma: Ma, tham sân si v.v... não hại thân tâm – 2)
Ngũ ấm ma: Những sắc thọ, tưởng hành thức là ma não hai thân tâm, 3) Tử
ma: Ma chết, hay cướp mạng sống – 4) Thiên ma: Ma trên cõi trời Tha hóa
tự tại hay phá thiện pháp não hại người tu thiện.

[7] Ngũ cái: Năm thứ ngăn che tâm tánh – 1) Tham muốn – 2) Giận hờn – 3)
Ngủ nghỉ gọi là “thụy ma” – 4) Xao động, phàn nàn trong tâm, gọi  là “điệu
hối” – 5) Nghi ngờ lời Phật.

[8] Thập Ðịa: 1)Hoan hỷ Ðịa, ─ 2) Ly cấu Ðịa, ─ 3) Phát quang Ðịa, ─ 4)
Diệm huệ Ðịa, ─ 5) Nan thắng Ðịa, ─ 6) Hiện tiền Ðịa, ─ 7) Viễn hành Ðịa,
─ 8) Bất động Ðịa, ─ 9) Thiện Huệ Ðịa, ─ 10) Pháp vân Ðịa.

1.─ Hoan hỷ địa: Bồ  tát  thấy chúng sanh vì si mê  tà kiến, đọa  lạc nên phát
tâm từ bi tu hạnh hỷ xả, bỏ cả thân tâm, không tiếc của cải nên cảm quả báo
hoan hỷ.

2.─ Ly cấu địa: Bồ tát thấy chúng sanh  tạo mười nghiệp ác, đọa vào đường
tà nên phát tâm tu thập thiện, xả bỏ cấu uế.

3. ─ Phát quang địa: Bồ tát thấy chúng sanh si mê tâm  tánh nên phát bồ đề
tâm, như pháp mà tu hành nên trí huệ phát ra sáng suốt.

4. ─ Diệm huệ: Bồ tát thấy chúng sanh bị phiền não dày xéo nên phát tâm tu
37 phẩm trợ đạo, nên phát ra Diêm huệ.

5. ─ Nan thắng địa: Bồ tát thấy chúng sanh các hạ thừa say đắm cảnh hữu dư
niết bàn, vừa vắng lặng, độc thiện kỳ thân, nên phát từ tâm tu bình đẳng gia
hạnh ngộ được chơn đế và tục đế, được trí không sai biệt.
 6. ─ Hiện tiền địa: Bồ tát thấy chúng sinh bị sa đọa luân hồi nên phát tâm tu
hạnh bình đẳng lợi sanh nên cảm phát ra trí huệ hiện tiền.

7. ─ Viễn hành địa: Bồ tát vì phát thệ nguyện độ sanh, nên từ bi gia công tu
tập tất cả những “pháp bồ đề phần” ngộ được tam muội: không, vô tướng, vô
nguyện. Ba địa nầy tu về giả quán nhiều hơn, thiên về bên ngoài nên gọi  là
tri kiến.

8. ─ Bất động địa: Bồ tát không bỏ thệ nguyện, không chấp trước về tâm, ý,
thức  nên  chứng  được  vô  sanh  pháp  nhẫn,  tất  cả  phiền  não  không  còn  lay
động.

Nhưng đến địa vị nầy chư Phật  luôn  luôn kỉnh  tỉnh Bồ  tát phải nhớ  lại bổn
thệ nguyện độ sanh, nếu không thì Bồ tát cũng an trú bất động vào nội  tâm
không, không ra độ sanh.

9. ─ Thiện huệ địa: Bồ tát dùng vô  lượng  trí huệ quán sát đúng như sự thật
hết  thảy cảnh giới của chúng sanh, được  trí huệ vô ngại, khéo  thuyết pháp
giáo hóa, lợi ích vô lượng cho chúng sanh.

10. ─  Pháp  vân  địa: Bồ  tát  do  vô  lượng  trí  huệ  quán  sát  và  hiểu  biết  tận
tường tất cả các pháp tam muội hiện tiền, chứng được đạo quả như Phật thân
như mây lành phủ khắp lên tất cả chúng sanh, trong hằng sa vô số vô lượng
vô biên thế giới.

Từ địa  thứ  tám  trở đi, đã  chuyển được  thức hành  trì  rồi  nên quán  sát bình
đẳng, không giả nhất như, gọi là “Song Chiếu”.

Chữ Ðịa  có  nghĩa  là  Bồ  tát  dùng  công  đức  trí  huệ  tu  tâm  luyện  tánh  kết
thành quả địa, nương dựa vào đó mà tiến lên quả Phật.

Thập địa nấy trong kinh Hoa Nghiêm có dạy rõ.

[9] Nhất  thế chủng  trí: Trí huệ của Phật, khác với: Ðạo chủng  trí  là  trí của
Bồ tát và khác với nhất thế trí là trí của Thanh văn. Nhưng đứng về phương
diện tổng quát mà nói thì, Nhất thế trí cũng là trí của Phật.

[10] Ðà  la ni: Tàu dịch  là  tổng  trì:  tổng nhất  thế pháp  trì nhất  thế nghĩa:  là
nói pháp môn nầy tóm thâu hết thảy pháp và nghĩa.
 [11] Tam đạt: tức Tam minh của A la Hán, nơi Phật gọi là tam đạt.

1.- Thiên nhãn biết suốt nhơn quả đời vị lai,

2.- Túc mạng: biết suốt nhơn quả dời quá khứ.

3.- Lậu Tận: biết suốt nhơn quả đời hiện  tại, nên đoạn hết phiền não  trong
hiện tại.

     Biết rõ ràng gọi là minh.

     Biết rõ rồi đoạn tận gọi là đạt. 

[12] Tế  khổ  tư  lương:  lấy  việc  cứu  khổ  làm  tư  lương  (lương  thực) đi  vào
Niết Bàn.

[13] Từ hàng: chiếc thuyền từ.

--- o0o ---

QUYỂN THỨ BA
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO

Ngày nay Đại chúng  đồng nghiệp trong Đạo tràng trước đã thuật rõ tội báo
của ác nghiệp. Vì hoạn  lụy của ác báo cho nên trái với nghiệp thù thắng tốt
đẹp. Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sanh ra
ở nhơn gian để chịu  trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như  thế đều do
nhơn duyên tức đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân nầy chịu thân khác để
chịu trả quả báo mãi mãi không thôi.

Bởi thế chư Phật và chư Đại Bồ tát dùng sức thần thông thiên nhãn, thấy hết
thảy chúng sanh  trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp báo mà đọa
vào các chỗ khổ. Thấy chúng sanh từ cõi trời vô sắc giới do tâm đắm trước
thiền định. Thoạt vậy mạng chung, hết phước đọa xuống cõi trời dục giới.Vì
hết phước nên cũng có khi đọa  làm cầm  thú. Những chúng sanh ở cõi  trời
sắc  giới,  khi  hết  phước  cũng  phải  sa  đọa  như  vậy.  Từ  chỗ  thanh  tịnh  đọa
xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh vì ở chỗ không thanh tịnh nên trở lại thọ lấy dục lạc. Chúng sanh ở sáu cõi trời dục giới khi hết phước đọa xuống
địa ngục chịu vô lượng khổ.

Chư Phật và Bồ  tát  lại  thấy chúng sanh ở  trong nhơn đạo, nhờ  sức  tu  thập
thiện  được  sanh  làm  người. Ngay  trong  thân  người  cũng  có  lắm  khổ  khi
mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.

Lại  thấy  chúng  sanh  trong đường  súc  sanh  chịu  lắm khổ  não, bị đánh đập
xua đuổi, chở nặng, đi xa, đau đớn khốn khổ, trày vai trợt cổ, sắt nóng thiêu
thân.

Lại  thấy chúng sanh  trong đường ngã quỉ  thường bị đói khát khổ sở, bị  lửa
thiêu thân như ở thời mạt kiếp. Nếu không nhờ một mảy căn lành để cứu vớt
thì vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước thì được sanh lên
làm người nhưng thân hình ốm yếu, nhiều tật bệnh và sống yểu chết non.

Vậy Đại chúng nên biết  thiện ác như hai bánh xe  theo nhau chưa  từng  tạm
nghỉ  thì quả báo cũng do đó mà  liên  tiếp không  thôi, xoay vần như sợi dây
xích chuyền nối mãi mãi.

Sang  hèn  giàu  nghèo đều  tùy  hạnh  nghiệp  của mỗi  người mà  chịu  trả  quả
báo.

Không phải sang hèn như vậy mà không có nguyên nhơn, không lẽ vô cớ mà
có quả báo sang hèn như vậy, thì rất phi lý.

Trong kinh Phật dạy rằng:

- Làm người, giàu sang, quốc vương, trưởng giả  là do cái nhơn đời trước lễ
bái phụng sự Tam bảo mà ra.

- Làm người giàu có to lớn là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.

- Làm người sống lâu là do cái nhơn đời trước không sát sanh mà ra.

- Làm người đoan chánh là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.

- Làm người siêng tu là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.
 - Làm người có tài ba sáng suốt, hiểu rộng thấy xa  là do cái nhơn đời trước
tu trí huệ mà ra.

- Làm người có âm thanh trong trẻo là do cái nhơn đời trước ca vịnh tán thán
Tam bảo mà ra.

- Làm người sạch sẽ không tật bệnh là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.

- Làm người thân hình cao lớn tốt đẹp là do cái nhơn đời trước kính nhường
người mà ra.

- Làm người  thân hình  thấp hèn nhỏ bé  là do cái nhơn đời  trước khinh khi
người mà ra.

- Làm người thân hình xấu xa là do cái nhơn đời trước hay giận hờn mà ra.

- Làm  người  vô  tri, không  hiểu biết gì  hết  là do  cái  nhơn đời  trước không
học hỏi mà ra.

-  Làm  người  ngu  xuẩn  đần  độn  là  do  cái  nhơn  đời  trước  không  dạy  bảo
người mà ra.

- Làm người câm ngọng là do cái nhơn đời trước hay hủy báng người mà ra.

- Làm người hay bị kẻ khác sai khiến là do cái nhơn đời trước mắc nợ người
không trả mà ta.

-  Làm  người  da  đen  xấu  xí  là  do  cái  nhơn  đời  trước  che  ánh  sáng  quang
minh của Phật mà ra.

- Làm người sinh vào nước lõa hình là do cái nhơn đời trước ăn mặc quần áo
mỏng manh suồng sã, cho mình là hơn người mà ra.

- Làm người sanh vào nước móng ngựa là do cái nhơn đời trước đi giầy dép
tưởng mình là hơn người, dành đi trước mà ra.

- Làm người sanh vào nước xuyên ngực là do cái nhơn đời trước bố thí làm
phước, rồi sanh tâm hối hận tiếc của mà ra.
 - Làm người sanh trong loài hưu nai là do cái nhơn đời trước dọa nạt người,
làm người khiếp sợ mà ra.

- Làm người sanh  trong  loài  rồng  là do cái nhơn đời  trước ưa dỡn cợt múa
nhảy mà ra.

- Làm người thân hình sinh  lở ghẻ dữ  là do cái nhơn đời trước ưa đánh đập
chúng sanh mà ra.

- Làm người được người thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ là do cái nhơn đời
trước mình thấy người cũng sanh tâm hoan hỷ.

- Làm người hay bị quan bắt giam cầm là do cái nhơn đời trước hay bắt giam
cầm chúng sanh trong lồng trong chậu mà ra.

- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn động tâm người
khác, sau sẽ đọa trong loài chó trập tai.

- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà không để ý nghe cho hiểu sau sẽ đọa
trong loài lừa dài tai.

- Làm người tham ăn một mình, keo rít, bỏn xẻn, sau sẽ đọa loài quỉ đói. Hết
kiếp quỉ đói sanh ra làm người bần cùng đói khát.

- Làm người đem đồ ăn dở cho kẻ khác, sau sanh làm heo lợn loài bọ hung.

- Làm người hay cướp giựt của kẻ khác, sau đọa làm dê, bị kẻ khác lột da ăn
thịt.

- Làm người ưa trộm cướp của kẻ khác, sau đọa làm trâu ngựa, bị người sai
khiến.

- Làm người ưa nói vọng ngữ,  tuyên  truyến điều xấu của kẻ khác, sau đọa
địa ngục, bị quỉ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, kéo dài lưỡi ra cho trâu cày.
Tội hết  rồi, người ấy sanh  làm chim cù dục, chim cú, người nghe  tiếng nó
kêu, ai cũng sợ hãi, cho là yêu quái, đều nguyền rủa cho nó chết.

- Làm người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phất sí (nước phẩn sôi
trào). Tội hết rồi người ấy sanh vào loài tinh tinh. Hết nghiệp tinh tinh, được
sanh làm người, ngoan độn, ngu si, không ai đếm sỉa đến. 
- Làm người tham lường sức mạnh của kẻ khác, sau sẽ đọa làm voi.

Than ôi! Ở địa vị giàu sang, làm người trên trước mà đánh đập kẻ dưới. Kẻ
dưới không biết  thưa kiện với ai. Những người như  thế, chết vào địa ngục,
kể cả ngàn vạn năm, chịu quả báo đau khổ.

Từ địa ngục ra, lại đọa làm trâu, bị xâu xỏ mũi miệng dắt thuyền kéo xe, roi
gậy to lớn đánh đập khổ sở, để đền lại nợ oan trái ngày xưa.

Lại nữa, người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà đầu thai ra.

Người xan tham keo kiết, không tự xét mình là từ trong loài chó mà đầu thai
ra.

Những người gầm gừ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.

- Người có tánh táo bạo, nóng nảy, không hay nhẫn nhục là từ trong loài khỉ,
vượn, hầu mà đầu thai ra.

- Người có thân hình tanh hôi là từ trong loài cá trạnh mà đầu thai ra.

- Người có tâm thâm hiểm, độc ác là từ trong loài rắn độc mà đầu thai ra.

- Người không có từ tâm tàn nhẫn, bạo hại, là từ trong  loài hổ báo, sài  lang
mà đầu thai ra.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng,  đã  sanh  ra  làm  người
trong thế gian bị nhiều bệnh, chết sớm, biết bao thống khổ không thể kể xiết,
như thế là do ba nghiệp gây ra, nên khiến người “tu hành” phải mắc lấy quả
báo trong ba đường dữ.

Sở dĩ có ba đường dữ là vì có tham sân si. Vả lại cũng vì có ba độc tham sân
si ấy mà người tự thiêu đốt lấy mình, miệng thường nói ác, tâm thường nghĩ
ác, thân thường làm ác.

Do các điều ác ấy làm cho thân người thường chịu các khổ não, không cùng
tận. Đến khi mạng chung, hồn côi bơ vơ. Mình  làm mình chịu, cha mẹ vợ
con không thể cứu được.
 Thoạt  vậy  trong  nháy  mắt,  đến  chốn  Diêm  vương,  ngưu  đầu,  ngục  tốt  ở
trong địa ngục không kể  tôn  ti, chỉ xét sổ  tội phước, kiểm điểm nặng nhẹ,
thiện ác nhiều  ít, trong  lúc sanh tiền đã  làm thế nào thì thần  thức tự thú  tội,
không dám che giấu. Do vì nhơn duyên ấy nên phải theo nghiệp mà chịu trả
quả báo, đến chỗ khổ hay vui  là do mình  làm mình chịu mờ mờ mịt mịt  ly
biệt lâu dài, đường ai nấy đi, không bao giờ gặp nhau trở lại.

Vả  lại,  các  vị  thiên  thần  ghi  chép  thiện  ác  của  người không  thiếu  sot mảy
may. Người  thiện  làm  lành được phước  thêm  tuổi,  người  ác  làm dữ,  giảm
thọ  thêm khổ. Cứ  xoay  vần  như vậy, mãi mãi  rồi  lại đọa  làm quỉ đói. Hết
kiếp quỉ đói,  thoát  ra  làm  súc  sanh. Tội khổ  vô  lượng không  thể  chịu  nổi,
không bao giờ cùng.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên phải tự tỉnh ngộ
mà sanh tâm hổ thẹn.

Trong  kinh  Phật  dạy  rằng:  “Làm  lành  gặp  lành,  làm  dữ  gặp  dữ”. Nhưng
trong đời ngũ trược ác thế, chúng ta không nên làm ác; làm lành không mất
quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa.

Chớ cho khinh thoát lập ra pháp sám nầy.

Kinh dạy  rằng:  “Chớ khinh điều  thiện  nhỏ  cho  là không phước,  giọt  nước
tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to”.

Không  chứa  thiện  nhỏ  lấy  gì có phước  to để  thành Thánh  thành Phật,  chớ
khinh ác nhỏ mà nói là không có tội. Ác nhỏ chứa lại lâu ngày cũng đủ mất
thân.

Đại chúng nên biết: Lành dữ họa phước đều do tâm tạo. Nếu không tạo nhơn
thì không có kết quả. “Ương họa chứa  lại,  tội  thành  to  lớn”. Chúng  ta mắt
thịt không thể thấy. Đó là lời Phật dạy ai dám không tin.

Chúng con đã cùng nhau vô phước, sanh vào đời mạt pháp, nếu không siêng
năng học  tập  tu hành, không  tự sức mình  làm  lành đến phút cuối cùng,  tắt
thở, khi ấy ăn năn đã muộn. Tuy vậy bây giờ đã cùng nhau thấy biết hết thảy
tội lỗi như trong kinh đức Phật đã dạy: Người đã biết tội mình há  lại không
biết bỏ ác theo lành hay sao?
 Đời nay nếu không dụng  tâm xả  thân cầu đạo quyết phải đọa địa ngục. Vì
sao mà biết?

Vì trong lúc làm tội ôm lòng độc ác, mạnh mẽ nóng nảy, giận hờn, gắt gao,
sâu sắc. Như giận một người nào quyết muốn cho người ấy chết. Nếu ghét
một  người  nào,  không  ưa  thấy  điều  tốt  của  người  ấy. Nếu  hủy  báng một
người nào, quyết khiến cho người ấy lâm cảnh vào cảnh khổ. Nếu đánh một
người nào, quyết khiến cho người ấy đau đớn thấu trời thấu đất.

Khi giận hờn tàn bạo tai hại thì không kể tôn ti thượng hạ, dùng lời xấu hổ,
mắng nhiếc đủ điều; có khi  la vang như sấm dậy, mắt như  lửa đổ. Còn khi
làm  phước  thì  thiện  tâm  rất  yếu ớt. Lúc  đầu muốn  làm  nhiều,  sau  lần  lần
giảm ít lại.

Lúc đầu muốn kinh doanh cho mau chóng, sau lại thả lỏng buông trôi.

Tâm  đã  không  chí  quyết  ngày  tháng  trôi  qua,  lần  lượt  tới  lui  cho  đến  khi
quên mất  việc  thiện  là  xong. Xét  như  thế  thì  biết  lúc  làm  tội  tâm  lực  rất
mãnh liệt cường thạnh; lúc làm phước thì chí ý bạc nhược yếu hèn.

Nay đem cái nhơn làm phước yếu hèn ấy mà cầu xa lìa quả báo làm ác mãnh
liệt cương cường kia thì không thể được.

Kinh dạy rằng: “Sám hối thì tội gì cũng tiêu diệt hết”.

Nhưng than ôi! Đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát
đất như núi Thái sơn sụp đổ, không tiếc thân mạng mới mong diệt được tội.

Vì diệt được tội nên phải ân cần, thành khẩn cùng nhau xét mình từ khi sanh
ra cho đến  ngày  nay đã  gây  ra bao  nhiêu  tội  lỗi. Phải  tự  xét  trách như  thế
mới không tiếc thân mạng, chịu khó nhọc mà sám hối.

Nếu  tạm  thời  nhiễu Phật  liền  sanh  tâm mỏi mệt,  chán  nản,  tạm  thời  lễ bái
liền  nói  sức  lực  không  kham;  hoặc  tạm  thời  ngồi  ngay  tỉnh  niệm,  liền  nói
nên phải có tin tức chứng ngộ gì. Hoặc nói không nên làm cho thân thể quá
mỏi mệt, phải cần dưỡng, không được làm khổ thân.

Vừa nằm  xuống  ngủ  liền mê man  như chết, không bao  giờ  tưởng  nhớ đến
việc ta phải lễ Phật quét tháp, quét chùa làm những việc khó làm.
 Vả chăng, kinh có dạy rõ ràng:

“Chưa từng có một mảy may thiện nào từ sự giải đãi lười biếng mà sanh ra;
chưa từng có một chút phước nào từ sự kiêu mạn, tự do tự đắc mà được”.

Đệ tử chúng con tên . . .   tuy được làm thân người, nhưng tâm hay trái đạo,
vì sao mà biết? Vì từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối
đến sáng. Cho đến không có một thời giờ một khắc, một niệm, một khoảnh
nào  mà  chúng  con  để  tâm  nhớ  tưởng  Tam  bảo,  nghĩ  nhớ  lý  tứ  đế,  cũng
không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn cha mẹ, không có một chút tâm
nào nghĩ nhớ báo ơn Sư trưởng; Không có một chút tâm nào muốn bố thí, trì
giới, nhẫn nhục,  tinh  tấn, không có một chút  tâm nào muốn học  thiền định,
muốn tu trí huệ.

Nay thử đem kiểm điểm lại các pháp thanh bạch thì chúng con không có một
pháp nào đáng kể.

Trái  lại những phiền não trọng chướng thì không biết bao nhiêu mà kể, đầy
tai đầy mắt.

Nếu không kiểm soát như thế thì chúng con cũng tự hào rằng: công đức của
chúng  ta  rất  nhiều. Nếu  có  làm được  chút  việc  thiện  gì  thì  nói  ta  hay  làm
người  khác  không  hay  làm;  ta  hay  tu  người  khác  không  hay  tu;  ý  chí  cao
ngạo, xem như “mục hạ vô nhơn”, quanh mình không còn ai nữa.

Xét lại mà nghĩ, thật là đáng xấu hổ.

Nay đối  trước Đại chúng, chúng con xin  sám hối các  tội  lỗi ấy, mong Đại
chúng hoan hỷ bố thí cho, tương lai không còn chướng ngại nữa.

Đại  chúng  cũng  nên  tự  rửa  sạch  thân  tâm. Theo  sự  trình bày quả  báo  như
trước đã thuật đủ thì không thể tự khoan dung mà không cầu xả bỏ tội lỗi.

Đại chúng chớ nói ta không có các tội ấy, ta đã vô tội, cần gì sám hối. Nếu
Đại  chúng  có  nghĩ  như  thế,  nguyện  xin  từ  bỏ  ngay  tâm  niệm  ấy  đi.  Phải
chăng bao nhiêu lầm lỗi vi tế đã kết thành tội lớn đại.

Thoạt vậy giận, hờn, sân  tâm  liền khởi  tập  thành  tánh quen, khó có  thể sửa
đổi mau chóng, không thể buông tâm phóng ý mà không ngăn ngừa.
 Nếu hay đè nén nhẫn nhịn thì phiền não có thể trừ. Người nào giải đãi  lười
biếng, buông lung thì không thể tế độ được.

Đệ  tử  chúng  con  tên  .  .  .    ngày  nay mong  nhờ  sức  từ bi  hộ  niệm  của  chư
Phật,  chư  đại Bồ  tát  sức  bổn  thệ  nguyện  lực mà  nói  kinh:  ‘TỘI NGHIỆP,
BÁO ỨNG, ĐỊA NGỤC’ nên chúng con hết lòng lắng nghe.

“Ta nghe Đức A Nan thuật lại như thế nầy: Một hôm Phật ở tại thành Vương
xá,  trong núi Kỳ xà quật, cùng với chư Đại Bồ  tát ma ha  tát, các vị Thanh
văn và quyến thuộc của các Ngài đông đủ; cũng có các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên, quỉ thần, thảy đều đến dự hội đông đủ”.

Lúc bấy giờ có Ngài Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn hôm nay có đủ chúng sanh ở các đường địa ngục, ngã
quỉ,  súc  sanh,  sang, hèn,  giàu,  nghèo không biết bao  nhiêu  chủng  loại  .  .  .
Phảm có chúng sanh nào nghe được Phật  thuyết pháp  thì cũng như con  thơ
gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có đèn. Thế Tôn thuyết
pháp lợi ích cho chúng sanh cũng như thế ấy”.

Lúc bấy  giờ Phật  thấy  thời  cơ đã đến;  biết các vị Bồ  tát  khuyến mời Phật
thuyết pháp  rất ân cần; Phật  liền phóng đạo hào quang  trắng giữa hai chặn
mày,  soi khắp mười phương vô  lượng  thế giới, địa ngục không còn,  thống
khổ cũng hết.

Lúc bấy giờ hết thảy chúng sanh đang chịu tội, tìm ánh sáng quang minh của
Phật mà tới; Nhiễu quanh Phật bảy vòng nhất tâm lạy Phật khuyến mời Phật
thuyết pháp,  rộng  giáo  hóa  chúng  sanh, khiến  chúng  sanh mong  nhờ  nghe
pháp mà được giải thoát.

Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong    Đạo  tràng  cũng  nên  chí  thành
khuyến  mời  chư  Phật  thuyết  pháp  như  vậy;  nguyện  cho  chúng  sanh  đều
được giải thoát.

Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đảnh lễ Thế tôn, năm vóc
sát  đất  như  núi Thái  sơn  đổ mả  khuyến  thỉnh mười  phương  tận  hư không
giới hết thảy chư Phật thuyết pháp. Nguyện Phật đem sức từ bi, cứu các khổ
não cho chúng sanh được an vui.

Lại xin khuyến thỉnh quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ: 
Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Thiên Phật

Nam mô Bất thối chuyển Luân thành thủ Phật

Nam mô Đại hưng quang vương Phật
Nam mô Pháp chủng Tôn Phật

Nam mô Nhật Nguyệt đăng minh Phật

Nam mô Tu Di Phật

Nam mô Đại Tu Di Phật

Nam mô Siêu Xuất Tu Di Phật

Nam mô Dụ như Tu Di Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Vi nhiễu Hương Huân Phật

Nam mô Tịnh quang Phật

Nam mô Pháp Tối Phật

Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật

Nam mô Đại Tập Phật

Nam mô Hương Quang Minh Phật

Nam mô Đại Quang Minh Phật

Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật
 Nam mô Sư Tử Du Hý Bố Tát

Nam mô Sư Tử Phấn tấn Bồ Tát

Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam mô Phật Đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin Tam bảo cứu hộ hết thảy chúng sanh; diệt trừ hết thảy khổ não,
khiến  các  chúng  sanh  liền  được  giải  thoát,  bỏ  ác  theo  lành,  không  làm  ác
nữa; Từ nay trở đi không còn đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh nữa; thân khẩu
ý  đều  thanh  tịnh;  không  nghĩ  đến  việc  ác  của  người;  xa  lìa  các  nghiệp
chướng; được các nghiệp  thanh  tịnh; hết  thảy  tà ma không  thể  lay chuyển;
thường  tu bốn món vô  lượng  tâm  ([1]);  tinh  tiến dõng mãnh,  trồng các căn
lành vô lượng vô biên; xả thân nầy thọ thân khác đều được thường sanh nơi
phước  địa;  nhớ  ba  đường  khổ,  phát  tâm  bồ  đề  tu  đạo  Bồ  tát  không  thôi
không dứt. Lục độ ([2]) tứ đẳng ([3]) thường được hiện tiền. Tam minh ([4])
lục  thông,  thường  được  như ý  tự  tại. Ra  vào  cảnh  giới  của  chư Phật,  chơi
dỡn tự do cùng các vị Bồ tát thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên sanh tâm sợ hãi, sanh
tâm từ bi nhất tâm nhất ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn phóng đạo bạch hào tướng quang ở giữa hai chặn
mày  soi  sáng khắp  hết  thảy  chúng  sanh  trong  sáu đường. Khi  ấy Ngài Tín
Tướng Bồ  tát vì  thương sót hết  thảy chúng sanh,  liền  từ  tòa ngồi đứng dậy
đến trước Phật quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
 “Bạch đức Thế Tôn! Nay có chúng sanh bị các ngục tốt cắt chặt bằm chém
thân thể từ đầu đến chân. Chúng sanh ấy bị chặt và chết ngất thì có gió xảo
phong  thổi sống  lại. Sống  rồi  lại bị chặt,  chịu khổ báo như  thế vô cùng vô
tận không bao giờ ngừng là vì tội gì vậy”.

Phtậ bảo: “Những chúng sanh ấy ở các đời trước không tin Tam bảo, không
biết  cúng dường bất  hiếu  với cha mẹ,  sanh  tâm  ác  nghịch;  làm  nghề  hàng
thịt, cắt chặt chúng sanh, vì các nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.

– Lại có chúng sanh, thân thể sần sượng tê cứng cả người, mày râu rụng hết,
toàn  thân bầm đỏ, bạn với chim muông, vắng vẻ bóng người bà con xa bỏ,
không ai muốn  thấy. Ác báo như  thế  là bệnh phong hủi. Vì nhơn duyên gì
mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: “Vì đời  trước người ấy không  tin Tam bảo, bất hiếu với cha mẹ,
phá tháp hủy chùa, bóc lột người tu hành, chém bắn Thánh Hiền, tổn thương
Sư  trưởng,  chưa  từng  biết  quấy;  vong  ơn  bội  nghĩa,  hành  động  như  cẩu
khuyển (chó)  làm xấu người  trên, không kể  thân sơ, không biết hổ  thẹn, vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.

– Lại có chúng sanh thân hình dài lớn, tai điếc, chân không có, quắn quại, bò
lết mà đi, chỉ ăn đất cát mà sống; bị các sâu trùng nhỏ nhiệm cắn rức; ngày
đêm chịu khổ vô cùng không gián đoạn; vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật dạy: “Vì đời  trước  làm người chỉ biết có mình, không  tin  lời hay,  lời
lành của kẻ khác. Bất hiếu với cha mẹ, trái ý phản nghịch, hoặc làm địa chủ
hay  làm quan  to,  trấn nhậm bốn phương, hoặc  làm châu  trưởng cai  tri đốc
suất dân chúng mà cậy oai ỷ thế, xâm đoạt của người cách vô lý, không đạo
đức,  làm cho dân chúng cùng khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải  tội như
vậy.”

– Lại có chúng sanh đui cả hai mắt, không thấy biết gì, hoặc bị cây đè, hoặc
sa hầm hố mà chết, chết  rồi sống  lại; sống  lại  rồi chết, cứ như  thế mãi. Vì
nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?

Phật đáp: “Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng của Phật, may bít
mắt  người,  giam  nhốt  chúng  sanh,  lấy  bao  lấy  đẫy  bao  đầu  chúng  sanh,
không cho trông thấy. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất dáng sợ hãi.

Chúng con cũng có thể đã làm những tội như thế. Nhưng vì vô minh che lấp
tâm tánh nên không tự nhớ biết đó mà thôi.

Những tội như vậy vô lượng vô biên đến đời sau sẽ chịu khổ báo.

Ngày nay chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như
núi Thái sụp đổ, cầu xin sám hối, hổ  thẹn ăn năn, cải đổi  tâm  tánh. Những
tội đã  làm  rồi  nhờ  sám  hối mà  trừ diệt. Những  tội  chưa  làm,  từ  nay  thanh
tịnh. Nguyện xin quy y hết thảy mười phương chư Phật.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Khai quang minh Phật

Nam mô Nguyệt đăng quang Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang Phật

Nam mô Nhật nguyệt Quang minh Phật

Nam mô Đạo hảo Quang minh Phật

Nam mô Tập âm Phật

Nam mô Tối oai nghi Phật

Nam mô Quang minh tôn Phật

Nam mô Liên hoa quân Phật

Nam mô Liên hoa hưởng Phật

Nam mô Đa Bảo Phật

Nam mô Sư tử hống Phật 
Nam mô Sư tử âm vương Phật

Nam mô Tinh tấn quân Phật

Nam mô Kim cang dõng dược Phật

Nam mô Độ nhất thế thuyền tuyệt chúng nghi Phật

Nam mô Bảo đại thị tùng Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Địa Lực Trì dõng Phật

Nam mô Tối dõng dược Phật

Nam mô Sư tử tác Bồ tát

Nam mô Khí ấm cái Bồ tát

Nam mô Tịch Căn Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Phật đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo  ,
nguyện xin Tam bảo dũ  lòng đại từ đại bi, gia hộ cứu vớt, khiến các chúng
sanh  liền được giải  thoát. Vì các chúng  sanh mà diệt  trừ những nghiệp địa
ngục,  ngã quỉ,  súc  sanh, khiến  các  chúng  sanh  rốt  ráo  không  chịu các quả báo dữ nữa, khiến các chúng sanh bỏ khổ  trong ba đường ác, đồng đến chỗ
trí huệ, đều được yên ổn, hoàn toàn an vui.

Nguyện xin Tam bảo đem ánh sáng đại quang minh diệt trừ mê mờ rất si ám
cho  chúng  sanh;  phân  biệt  rộng  rãi,  giải  thích  rõ  ràng  pháp  môn  vi  diệu,
thậm  thâm  nhiệm mầu  cho  chúng  sanh  nghe,  khiến  chúng  sanh  đều  được
chứng quả vô thượng Bồ đề, thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nên chí thành nhất tâm
mà nghe, suy nghĩ cho kỹ:

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn:

Lại  có  chúng  sanh  ngọng  lịu ấm  á, miệng không  thể  nói, dầu  có  nói cũng
không rõ ràng. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời  trước  người  ấy phỉ  báng Tam  bảo khinh  hủy Thánh đạo,
bàn  luận việc xấu  tốt của người,  tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ
lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như
vậy.

– Lại có chúng sanh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt
được. Nếu có đồ ăn, đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải
tội ấy?

 Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội,
sắm các thức ăn ngon, người ấy riêng lấy mà ăn, hoặc lấy mè muối, gạo cơm
ra chỗ khuất mà ăn. Lại thêm keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường
ôm lòng độc ác, cho người uống thuốc độc, nghẹt thở không thông. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại  có  chúng  sanh  thường  bị  ngục  tốt  thiêu  đốt,  dội  nước  sắt  nóng  vào
thân, đóng đinh sắt vào  thân; đóng rồi tự nhiên hỏa bốc  thiêu cháy thân thể
thảy đều phỏng đỏ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật  đáp: Vì  đời  trước  làm  thầy  châm,  lể,  tổn  thương  thân  thể  của  người.
Châm chích không lành, gạt người lấy của, làm cho người đau khổ. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
 – Lại  có  chúng  sanh  thường ở  trong  cái  vạc  (cái  chảo  nấu) nước  sôi  ngưu
đầu  ngục  tốt,  tay  cầm  xoa  sắt, móc  bỏ  vào  vạc  nấu  chín  rục,  rồi  thổi  cho
sống lại. Sống lại rồi nấu nữa. Vì nhơn duyên gì nên mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời  trước người ấy  làm nghề hàng  thịt, giết chúng sanh,  trụng
nước sôi, nhổ sạch lông, giết hại rất nhiều không thể kể xiết. Vì nhơn duyên
ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi.

Chúng con không biết ở trong đường ác nào đã từng làm vô lượng tội nghiệp
như thế. Đời sau quyết phải mắc quả báo ác nghiệt ấy. Ngay trong đời hiện
tại chúng con cũng có  thể mắc phải quả báo ác nghiệt ấy. Ấm cúng, ngọng
lịu, miệng không  thể  nói, hoặc bụng  lớn  cổ nhỏ, không  thể  ăn  nuốt, mạng
sống vô thường. Ngày nay tuy an vui ngày mai thế nào không thể biết được.

Thình lình gặp phải quả báo đến, không thể thoát được.

Mọi người đều nên hiểu rõ ý ấy, nhất tâm chánh niệm, chớ tư tưởng gì nữa,
chỉ một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy
chúng  sanh ở khắp  trong bốn  loài  sáu đường,  ngày  nay đang  chịu khổ, đã
chịu khổ, hay sẽ chịu khổ mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tự tại vương Phật

Nam mô Vô lượng âm Phật

Nam mô Định Quang minh Phật

Nam mô Bảo Quang minh Phật

Nam mô Bảo Cái chiếu không Phật

Nam mô Diệu Bảo Phật
 Nam mô Đế Tràng Phật

Nam mô Phạm Tràng Phật

Nam mô A Di Đà Phật

Nam mô Thù Thắng Phật

Nam mô Tập Âm Phật

Nam mô Kim cang bộ Tinh tấn Phật

Nam mô Tự tại vương Thần thông Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Tịnh nguyệt tràng xưng quang Phật

Nam mô Diệu Lạc Phật

Nam mô Vô lượng tràng phan Phật

Nam mô Vô lượng phan Phật

Nam mô Đại quang Phổ chiếu Phật

Nam mô Bảo Tràng Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Phật đà

Nam mô Đạt mạ
 Nam mô Tăng già.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin chư Phật, chư Bồ tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sanh
đang chịu khổ, dùng sức  thần  thông diệt  trừ ác nghiệp cho các chúng sanh,
hoàn toàn không đọa trở lại trong ba đường khổ, đến được chỗ an vui thanh
tịnh, sanh ra chỗ nào cũng được thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng
tận. Xả  thân  thọ  thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ  tát  thành
đẳng chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng  lại gia  tâm  lực,  lắng  tai
nghe kỹ.

Tín Tướng Bồ tát lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh ở
trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng chạy đến
thì cửa  liền  tự đóng, chạy khắp đông  tây  cũng không  ra được, bị  lửa  thiêu
sạch. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người thiêu đốt rừng núi, phá vỡ bờ đê, chiên rán
các  thứ  trứng  gà vịt  làm  cho  chúng  sanh  bị  thiêu, bị đốt mà  chết  nên phải
mắc tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết sơn bị gió lạnh thổi, da thịt nức nở,
cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không thể chịu
nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật  đáp: Người  ấy  đời  trước  làm  giặc,  đón  đường  bóc  lột  áo  quần  người
khác để tự tư dưỡng; mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác làm cho
họ phải chết  lạnh và  lột da xẻ  thịt  trâu dê,  làm cho chúng sanh đau khổ vô
lượng. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh thường ở trên núi dao, rừng kiếm,  rờ đụng vào đâu  thì
liền bị cắt đứt đó, thân thể  tay chân đều bị chặt nát, đau đớn khổ sở, không
thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp; Vì người ấy đời trước làm nghề sát sanh, phanh thây xẻ thịt chúng
sanh, cắt xẻo bóc  lột, cốt nhục chia  lìa, đầu mình  tan  rã,  treo  lên  trên cao,
cân  lường  mà  bán,  hoặc  treo  sống  mà  bán  đau  đớn  vô  cùng  chúng  sanh
không  thể  chịu  nổi. Vì  nhơn  duyên  gì  ác  nghiệp  ấy  nên mắc  phải  tội  như
vậy. 
– Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhơn duyên gì mắc
phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn chim bắn
thú,  hoặc  bắn  bể  đầu,  hoặc  bẫy  đứt  chân,  nhổ  sống  lông  cánh,  làm  chúng
sanh đau khổ vô cùng không  thể chịu nổi. Vì nhơn duyên ấy nên phải mắc
tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu
thành đảnh  lễ, nguyện vì hết  thảy chúng sanh  trong mười phương, hoặc đã
chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi
Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tịnh Quang Phật

Nam mô Bảo Vương Phật

Nam mô Thọ căn Hoa vương Phật

Nam mô Duy Vệ trang nghiêm Phật

Nam mô Khai Hóa Bồ tát Phật

Nam mô Kiên vô khủng cụ Phật

Nam mô Thừa nhất độ Phật

Nam mô Đức nội phong nghiêm vương Phật

Nam mô Kim cang Kiên cường tiêu phục hoại tán Phật

Nam mô Bảo Hỏa Phật

Nam mô Bảo nguyệt quang minh Phật 
Nam mô Hiền Tối Phật

Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ Phật

Nam mô Hoại ma la võng độc bộ Phật

Nam mô Sư tử Hống lực Phật

Nam mô Bi Tinh tấn Phật

Nam mô Kim bảo quang minh Phật

Nam mô Vô lượng tôn phong Phật

Nam mô Vô lượng Tôn ly cấu vương Phật

Nam mô Đức Thủ Phật

Nam mô Dược vương Bồ tát

Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo,
nguyện  xin Tam  bảo  đem  lòng  đại  từ,  đại  bi  cứu  hộ  hết  thảy  chúng  sanh
trong mười phương khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải
thoát; chúng sanh sẽ chịu khổ hoàn  toàn, đoạn trừ phiền não, rốt ráo không
sa đọa trỉ lại trong ba đường ác nữa.

Từ nay  trở đi cho đến ngày  thành Phật  trừ sạch ba nghiệp chướng diệt hết
năm  sợ  hãi;  hoàn  toàn  đầy  đủ  công  đức  trang  nghiêm;  nhiếp  hóa  hết  thảy
chúng sanh hướng về vô thượng đạo, thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:
 Tín Tướng Bồ tát bạch Phật. Bạch đức Thế Tôn: Lại có chúng sanh què trệt,
lưng  cong,  tay  chân  co  quắp, không  thể  cầm  nắm  , không  thể đi đứng. Vì
nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời  trước  làm người độc ác, để binh khí giữa đường, đặt súng
đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác nghiệp ấy nên mắc
phải tội như vậy.

– Lại có chúng sanh bị các ngục  tốt  trói buộc  thân  thể, gông cùm khổ ách,
không thể thoát được. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật  đáp: Vì  đời  trước  người  ấy  chài  lưới  chúng  sanh,  buộc  nhốt  lục  súc,
hoặc làm chủ tể, quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét,
giam oan ngưởi vô tội, lương thiện, oán hận không biết kêu ai.

– Lại  có  chúng  sanh  hoặc điên,  hoặc  si,  hoặc  cuồng,  hoặc  sợ, không  phân
biệt được tốt xấu. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, loạn trí loạn tâm, phạm
ba mươi sáu  lỗi nên đọa  làm người ngu si, cũng như người say không phân
biệt được  tốt xấu,  thượng hạ  tôn  ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải  tội như
vậy.

– Lại có chúng sanh thân  lùn, hình nhỏ, âm  tạng rất  lớn, thả xuống thì thân
đau, phải vắc ra sau  lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhơn
duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật đáp: Vì đời trước buôn bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật
báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận thước tấc). Vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy
rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu
thành đảnh  lễ,  nguyện  vì  hết  thảy  chúng  sanh đã  chịu khổ,  hết  thảy  chúng
sanh sẽ phải chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha mẹ, sư trưởng, tín
thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp trong
mười phương mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật
 Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Vô số Tinh tấn hương phong Phật

Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật

Nam mô Vô Ngu Phong Phật

Nam mô Nguyệt anh phong Phật

Nam mô Vô Dị quang phong Phật

Nam mô Nghịch không quang minh Phật

Nam mô Tối thanh tịnh vô lượng tràng Phật

Nam mô Hiếu đế trú duy vương Phật

Nam mô Thành tựu nhất thế chư sát phong Phật

Nam mô Tịnh Huệ Đức Phong Phật

Nam mô Tịnh Luân Phan Phật

Nam mô Lưu Ly quang tối phong Phật

Nam mô Bảo Đức Bộ Phật

Nam mô Tối thanh tịnh đức bảo trú Phật

Nam mô Độ bảo quang minh thắng Phật

Nam mô Vô lượng Tàm quý kim tối phong Phật

Nam mô Văn Thù Sư lợi Bồ tát

Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
 Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Đệ tử chúng con tên . . .  ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực,
nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đành lễ quy y cầu xin sám hối.

Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật, chư
Bồ tát, liền được giải thoát.

Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, rốt
ráo không đọa  trở  lại  trong các đường ác, xa  lìa  tám nạn khổ; bẩm  thọ  tám
phước  sanh; được các căn  lành,  thành  tựu bình đẳng, đầy đủ  trí huệ,  thành
tựu biện tài, thanh tịnh tự tại, cùng với chư Phật thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng nên biết dụng  tâm,  lắng
lòng mà nghe, Tín Tướng Bồ  tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn,  lại có
chúng  sanh, hình  trạng  rất xấu,  thân đen như mực, hai  tai  lại xanh, hai vai
nổi  lên,  mặt  phẳng,  mũi  dẹp,  mắt  đỏ  vàng  ngầu,  răng  nướu  sua  sún,  hơi
miệng tanh hôi, vế ngắn và ủng thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp;
xương sườn, xương sống nổi lên, tốn vải; ăn nhiều; ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ
nhơ nhớp; bệnh  thủy  thủng, càn  tiêu, phung hủi ung  thư, bao nhiêu điều ác
độc hung dữ đều dồn vào  thân. Dầu muốn thân cận người không để ý. Nếu
người khác  làm tội, vô cớ mình cũng  liên can mang họa. Hằng không được
thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát không biết Thánh Hiền. Ra vào nơi
đau khổ, không bao giờ cùng. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?

Phật  dạy: Vì  đời  trước  làm  con  bất  hiếu  với  cha mẹ;  làm  tôi  không  trung
chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không
biết kính kẻ  trên, không  thành  thật, không  thủ  tín  với bạn bè, không  nhơn
nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong sự
xử đoán, không có độ  lượng mà  lòng dạ đảo điên, sát hại quân  thần; khinh
khi  tôn  trưởng, bán nước buôn dân, phá  thành phá  lũy, cướp giựt  trộm cắp,
ác nghiệp vô lượng.

Lại khen mình chê người, xâm  lấn già nua,  lấn hiếp cô độc; báng bổ người
hiền, khinh mạn sư trưởng; khi dối kẻ hà tiện.

Tóm  lại  là phạm  hết  thảy  tội. Vì  nhơn duyên  ấy  nên mắc phải  ác báo,  tội
nghiệp như vậy. 
Lúc bấy giờ những người bị  tội nghe Phật dạy như vậy, khóc  lóc động địa,
nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: Nguyện xin Thế Tôn sống mãi
ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng con mong được giải thoát.

Phật đáp: Nếu ta ở mãi ở đời, những người bạc phước; không trồng căn lành.
Họ bảo ta còn sống mà không  lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô  lượng
tội ác, sau ăn năn không kịp.

Thiện nam tử ôi! Ví như con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ
đến  sự  gặp  mẹ  là  khó.  Lúc  nào  mẹ  đi  vắng,  con  mới  liền  sanh  tâm  nhớ
tưởng, khao khát luyến mẹ. Lúc ấy mẹ trở lại con mới vui mừng.

Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy Ta biết chúng sanh không tìm cầu sự
thật, thường trú chơn tâm, cho nên ta nhập Niết bàn.

Lúc bấy giờ Phật đối trước những chúng sanh đang chịu tội đó mà nói bài kệ
rằng:

Nước chảy không thường đầy,

Lửa mạnh không thường đốt,

Mặt trời mọc rồi lặn,

Mặt trăng tròn rồi khuyết,

Sự tôn trọng giàu sang,

Càng vô thường hơn nữa,

Nghĩ lại phải siêng năng,

Đảnh lễ ngôi Tam bảo.

Lúc bấy giờ Phật nói lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầu mà
bạch Phật rằng: Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà xa lìa được
những tội khổ ấy?
 Phật dạy: Nầy, thiện nam tử! Phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ; phụng sự
sư trưởng, quy y Tam bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không có
thân sơ, không khinh người già nua, cô quả; không khinh kẻ nghèo hèn; ủng
hộ người như giúp đỡ mình, không có tâm ác đối với người.

Nếu các người hay  tu hành được như vậy  thời cũng đã  là báo được ơn chư
Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa. Phật dạy kinh nầy rồi
các vị đại Bồ tát liền được quả vô thượng bồ đề. Các hàng Thanh văn Duyên
giác  liền chứng được  lục  thông,  tam minh và  tám pháp giải  thoát. Còn các
đại chúng khác đều được pháp nhãn tịnh. ([5])

Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh nầy thì không đọa vào ba đường ác,
và không mắc phải tám nạn, địa ngục trống rỗng, thống khổ không còn.

Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn, kinh nầy gọi là kinh gì? Bồ tát ma ha tát phải phụng trì
bằng cách nào?”

Phật bảo Tín Tướng Bồ  tát: “Thiện nam  tử, kinh nầy gọi  là Báo ứng Giáo
hóa Địa ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công
đức vô lượng”.

Bấy giờ Đại chúng nghe Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng
lời làm theo.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  nghe  lời Phật  dạy  như
vậy, rất đáng sợ hãi, sanh tâm từ bi, nương nhờ thần lực của Phật, tu đạo Bồ
tát nhớ địa ngục khổ, phát tâm Bồ đề, vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu
khổ, ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngã
quỉ, hết  thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường súc sanh; rộng ra cho
đến hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương hiện đang chịu khổ ở trong
sáu  đường;  nhất  tâm  nhất  ý,  vì  những  chúng  sanh  ấy mà  sám  hối,  khiến
chúng sanh được giải thoát.

Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển họa thành phước, thì ở
trong mỗi mỗi địa ngục, đại chúng đều có tội phần.
 Cùng nhau chí  tâm nghĩ đến cha mẹ, sư  trưởng, bà con  thân  thích,  sẽ chịu
khổ báo về sau và cũng nghĩ đến  tự  thân đại chúng hiện  tại và vị  lai cũng
phải chịu khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau nhất tâm tha
thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng, nguyện xin một
niệm  cảm  thấu  mười  phương  Phật;  một  lạy  đoạn  trừ  vô  lượng  tội  khổ.
Những chúng sanh đã chịu khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực,
Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu
đường chúng sanh nào chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực
làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn đoạn  trừ sáu đường đau khổ. Từ nay
trở đi  rốt  ráo không đọa  trở  lại  trong các đường ác;  trừ ba nghiệp chướng,
tùy  ý  vãng  sanh  diệt  trừ  năm  điều  sợ  hãi,  tự  tại  giải  thoát  siêng  tu  đạo
nghiệp, không  thôi không  nghỉ. Diệu hạnh  trang  nghiêm quá Pháp  vân địa
([6]), vào Kim cang tâm ([7]), thành đẳng chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng  lại nhất  tâm  lưu ý,  lắng
lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ:

Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỉ bạch với Ngài Mục Liên rằng:

“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhơn
duyên gì mắc phải tội ấy?”

Ngài Mục Liên  đáp:  “Đời  trước  ngươi  làm  học  trò  nhà  hàng  thịt,  khi  giết
trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói buộc mà lôi kéo. Vì nhơn duyên ấy
nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội báo mới nụ hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.

– Lại có một con quỉ  khác bạch Ngài Mục Liên  rằng: “Thân  hình  tôi  như
một khối  thịt, không  có  tay  chân,  tai, mắt, mũi,  lưỡi  v.v... Thân  thường bị
trùng rúc chim mổ, cắn rức mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi. Vì
nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”

 Ngài Mục Liên đáp: “Đời  trước ngươi cho người uống  thuốc độc đọa  thai,
phá  sản khiến  chúng  sanh mạng  sống  không  hoàn  toàn. Vì  nhơn  duyên  ấy
nên mắc phải tội như vậy?”

 – Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Bụng tôi thật lớn, yết hầu
như kim. Cùng năm mãn kiếp không hề ăn uống. Vì nhơn duyên gì mà mắc
phải tội ấy?”
  Ngài Mục Liên  đáp:  “Đời  trước  ngươi  làm  chủ  hàng  xóm,  tự ỷ mình  hào
quý,  say  sưa  tung  hoành,  khinh  khi  kẻ  khác,  cướp  giựt  thức  ăn  uống  của
người làm cho đói khát, khốn khổ hết thảy nhơn dân. Vì nhơn duyên ấy nên
mắc  phải  tội  như  vậy. Đó  là  quả  báo  mới  đơm  hoa,  nó  sẽ  kết  quả  ở  địa
ngục”.

– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, có hai
vành sắt ở dưới hai nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”

Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy
hai cái, kẹp dưới hai nách. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó
là tội mới đơm hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.

– Lại có một con quỉ, bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi thường  lấy đồ tự bao
bọc đầu lại, sợ người đến giết, sanh tâm sợ hãi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”

Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm ngoại sắc, thường sợ người
thấy,  hoặc  sợ  chồng  con  người  bắt  được,  trói  trăn,  đánh  chết,  thường  ôm
lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội nầy. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ kết quả
ở địa ngục”.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  nghe  lời  kinh  dạy,  đâu
được không sợ hãi.

Từ vô  thỉ  trở  lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã  làm vô  lượng  tội ác
như  thế. Những  tội ấy đều do vì không có  tâm  từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu,  tổn
hại chúng sanh, cho đến tội trộm cắp của người, mê đọa, sa đọa, nịnh hót bài
báng người hiền lành, gây biết bao tội lỗi.

Những tội báo như vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba
đường dữ.

Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay
thế cho hết  thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo  trong sáu
đường, đang chịu khổ trong sáu đường mà cầu xin sám hối.

Cũng  nguyện  xin  thay  thế  vì  cha mẹ,  sư  trường  và  hết  thảy  bà  con  quyến
thuộc mà cầu xin sám hối và cũng tự vị bản thân mà cầu xin sám hối. Những
tội đã làm, nguyện xin trừ diệt hết. Những tội chưa làm, không dám làm nữa.
 Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật

Nam mô Tịnh Bảo Hưng Phong Phật

Nam mô Điện đăng Phan vương Phật

Nam mô Pháp không đăng Phật

Nam mô Nhất thế chúng đức thành Phật

Nam mô Hiền phan Tràng vương Phật

Nam mô Nhất Thế Bảo Trí Sắc trì Phật

Nam mô Đoạn nghi Bạt dục trừ minh Phật

Nam mô Ý vô khủng cụ oai mao bất thọ Phật

Nam mô Sư tử Phật

Nam mô Danh xưng Viễn vặn Phật

Nam mô Pháp danh Hiệu Phật

Nam mô Phụng Pháp Phật

Nam mô Pháp Tràng Phật

Nam mô Tu Di Đăng quang minh Phật

Nam mô Bảo Tạng trang nghiêm Phật

Nam mô Chiên Đàn ma ni quang Phật
 Nam mô Kim Hải Tự Tại vương Phật

Nam mô Đại bi quang minh vương Phật

Nam mô Ưu bát la liên hoa thắng Phật

Nam mô Liên Hoa Tu trang nghiêm vương Phật

Nam mô Kim cang kiên cường Tự tại vương Phật

Nam mô Thù thắng Nguyệt vương Phật

Nam mô Nhật nguyệt quang vương Phật

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo,
nguyện xin Tam bảo dủ  lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện
đang chịu khổ, và sẽ chịu khổ trong sáu đường, khiến các chúng sanh ấy liền
được giải thoát, đem sức thần thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục,
khiến  các  chúng  sanh  ấy  từ nay  trở đi  cho đến  ngày  thành Phật  hoàn  toàn
không đọa  trở  lại  trong đường ác, xả  thân khổ báo, được  thân kim cang,  tứ
vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; tứ vô ngại biện, sáu sức
thần thông như ý tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến
khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.

 
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
Quyển Thứ Ba

–  HẾT –
[1]) 4 Vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả. 
[2]) Lục độ: tức sáu phép ba la mật.

[3]) tứ vô lượng tâm.

[4]) Tam minh: Thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh.

[5] Pháp nhãn tịnh: thấy được chơn đế lý cách rõ ràng.

[6] Pháp vân địa: địa thứ 10 xem ở quyển 2.

[7] Kim cang tâm: Đại tâm của Bồ tát kiên cố như ngọc kim cang không có
gì phá hoại được.

--- o0o ---
QUYỂN THỨ TƯ
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
(tiếp theo)

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại phải chí thành đảnh lễ,
nhất tâm lắng nghe.

Lúc bấy giờ Phật ở  thành Vương Xá,  trong vườn  trúc Ca  lan đà, Ngài Mục
Kiền Liên từ thiền định đứng dậy đi dạo trên bờ sông Hằng thấy các ngã quỉ
chịu tội không đồng nhau.

Khi  ấy  các  ngã  quỉ  đồng  sanh  lòng  cung  kính  đến  hỏi Ngài Mục Liên  về
nhơn duyên đời trước. Một ngã quỉ hỏi rằng: “Tôi một đời lại đây, thường bị
đói khát, muốn vào nhà xí, lấy phẩn mà ăn; trên nhà xí đã có con đại quỉ lấy
gậy đánh  tôi;  tôi không đến gần nhà xí được. Vì cớ gì mà  tôi mắc phải  tội
ấy?”

Ngài Mục Liên đáp rằng: Đời  trước  lúc  làm người, ngươi  làm chủ chùa, có
khách Tỳ kheo đến xin ăn. Ngươi keo kiết không đãi khách ăn. Chờ khách đi
rồi ngươi mới cho các thầy thường ở trong chùa ăn.

Vì ngươi vô đạo,  tham  tiếc của chúng; do nhơn duyên ấy nên mắc phải  tội
như vậy. 
Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở địa ngục.

– Lại có một ngã quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, trên vai
có cái bình đồng lớn, đựng đầy nước sôi. Tôi tự lấy gáo múc xối từ trên đầu
xuống,  đau  khổ  vô  cùng,  không  thể  chịu  được. Tôi  vì  tội  gì mà  phải  như
thế?”

Ngài Mục Liên đáp rằng:

Lúc làm người, ngươi làm duy na trong chùa, xem việc trong Đại chúng. Có
một bình sữa, ngươi dấu chỗ kín; đúng giờ không đem chia cho chúng đợi
khách đi  rồi, mới đem  chia  cho  các  người  trong  chùa. Sữa  là  vật  chiêu đề
([1]),  thuộc của chúng  tăng  trong mười phương, mọi người đều có phần vì
ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng. Do nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như
vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.

– Lại có quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời trở lại đây, thường nuốt
những hàn sắt nóng. Vì những tội gì mà phải như vậy?”

Ngài Mục Liên đáp rằng:

Lúc làm người ngươi làm một vị Sa di nhỏ, lấy nước trong sạch quấy đường
phèn cho chúng. Đường phèn cứng  rắn, ngươi sanh  tâm  trộm cắp, đập nhỏ
lấy chút ít. Đại chúng chưa uống, ngươi đã uống trộm trước một hớp. Do vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải  tội như vậy. Đó  là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa
ngục.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  nghe  những  việc Ngài
Mục Liên đã nghe đã thấy, rất đáng sợ hãi.

Chúng con có thể làm những tội ấy. Vì vô minh ngăn che chúng con không
tự nhớ biết. Giả sử như chúng con đã  tạo vô  lượng  tội nghiệp như vậy, đời
sau quyết phải  thọ  lãnh quả báo đau khổ ấy. Vậy nên bây giờ phải chí  tâm
tha  thiết, đầu  thành đảnh  lễ hổ  thẹn cầu xin sám hối. Nguyện  trừ diệt sạch
những tội  lỗi ấy và nguyện xin sám hối thế cho hết thảy ngã quỉ khắp mười
phương tận hư không giới.

Lại nguyện xin sám hối thế cho các cha mẹ và các sư trưởng nguyện xin sám
hối thế cho các bậc đồng đàn tôn chứng: thượng trung hạ tòa. 
Nguyện xin sám hối thế cho tất cả thiện ác tri thức rộng ra cho đến khắp cả
mười phương  tận không giới, vô cùng vô  tận hết  thảy chúng sanh  trong  tứ
sanh lục đạo.

Những tội đã  làm, nhơn nay sám hối mà được trừ diệt. Những  tội chưa  làm
thề không dám làm.

Nguyện xin mười phương chư Phật chứng biết cho chúng con.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Câu Lưu Tôn Phật

Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật

Nam mô Ca Diếp Phật

Nam mô Sư Tử Phật

Nam mô Minh Viêm Phật

Nam mô Mâu Ni Phật

Nam mô Diệu Hoa Phật

Nam mô Hoa Thị Phật

Nam mô Thiện Túc Phật

Nam mô Đạo sư Phật

Nam mô Đại Tý Phật

Nam mô Đại Lực Phật

Nam mô Túc Vương Phật
 Nam mô Tu Dược Phật

Nam mô Danh tướng Phật

Nam mô Đại minh Phật

Nam mô Viêm Kiên Phật

Nam mô Chiếu Diệu Phật

Nam mô Nhật Tạng Phật

Nam mô Nguyệt thị Phật

Nam mô Chúng Viêm Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Sư tử Du Hý Phật

Nam mô Sư tử Phấn tấn Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Nam mô Phật đà

Nam mô Đạt mạ

Nam mô Tăng già

Lại quy y như mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo dủ lòng đại
từ bi cứu vớt hết  thảy chúng sanh khắp mười phương hiện đương chịu khổ
trong đường ngã quỉ.

 Lại nguyện xin cứu vớt hết thảt chúng sanh khắp mười phương hiện đương
chịu  khổ  vô  lượng  trong  đường  địa  ngục;  trong  đường  súc  sanh  và  trong nhân  loại;  làm  cho  các  chúng  sanh  ấy  liền được  giải  thoát  đoạn ba  nghiệp
chướng ([2]) trừ năm sợ hãi ([3]) chứng tám giải thoát ([4]) dùng bốn hoằng
thệ  ([5]) độ  thoát  chúng  sanh đảnh  lễ Thế Tôn,  thưa  thỉnh  giáo  lý  vi diệu;
không rời đương xứ sạch hết hữu lậu, tùy tâm tự tại, dạo khắp cõi Phật, hạnh
nguyện viên mãn, chóng thành chánh giác.

Ngày  nay Đại  chúng đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng,  lại  chí  thành  lắng  lòng
mà nghe.

Lúc  bấy  giờ Phật ở  thành Vương  xá,  phía  đông  nam  có một  hồ  nước  bao
nhiêu tiểu dãi ô uế đều thẩy vào hồ ấy, hôi thúi không thể đến gần được. Có
một con  trùng  lớn sanh ở  trong hồ ấy. Thân dài mấy  trượng; không có  tay
chân, quằn quãi lăn lóc, hằng ngàn người đến xem. Ngài A Nan thấy vậy về
bạch  Phật.  Phật  và Đại  chúng  cùng  nhau  đến  hồ  ấy  xem. Đại  chúng  nghĩ
rằng:

“Nay đây đức Như Lai sẽ nói rõ đầu đuôi việc con trùng ấy cho mọi người
nghe”.

Phật bảo Đại chúng: “Sau khi đức Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, có năm
trăm  thầy Tỳ  kheo  đi  qua một  ngôi  chùa. Lúc  ghé  vào  chùa,  chủ  chùa  rất
hoan hỷ vui mừng, mời Đại chúng ở  lại để cúng đường. Ông hết  lòng  thết
đãi không tiếc món gì”.

Sau đó có năm  trăm người đi buôn vào biển  lấy ngọc,  lúc về cũng ghé  lại
chùa. Các người ấy  thấy 500 Tỳ kheo  tu hành  tinh  tấn  liền hân hoan, phát
tâm cúng dường, mới cùng nhau nghĩ  rằng: “Phước điền khó gặp chúng  ta
nên cúng dường lễ mọn”.

Mỗi người cúng một viên ngọc; cộng được năm  trăm ma ni châu, đem gửi
chủ chùa. Sau đó chủ chùa sanh tâm không tốt, lập mưu muốn đoạt lấy một
mình, không đem ra cúng dường chúng tăng.

Đại  chúng  mới  hỏi: Ngọc  châu  của  khách  buôn  bố  thí  nên  đem  ra  cúng
dường Đại chúng?

Chủ chùa đáp  rằng: “Ngọc châu ấy cúng cho  ta, nếu các người muốn đoạt,
thì có phẩn uế cho các ngươi. Nếu các ngươi không đi ngay bây giờ,  ta sẽ
chặt tay chân các người quăng vào hầm phẩn”.
 Đại chúng nghĩ thương người ấy quá ngu si, bèn làm thinh bỏ đi.

Vì  tội ác ấy nên nay chủ chùa kia phải  làm  thân  trùng nầy; sau sẽ vào địa
ngục chịu vô lượng đau khổ.

– Lại nữa, khi ấy Phật ở  thành Vương xá,  thấy một chúng sanh có cái  lưỡi
rất dài lớn. Có đinh sắt đóng vào lưỡi lửa phát cháy hừng hực, chịu đau khổ
suốt ngày đêm.

Ngài Mục Liên bèn hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như vậy?

Phật đáp:

Người ấy xưa kia từng làm chủ chùa, hay mắng nhiếc, xua đuổi các thầy Tỳ
kheo; ở  lâu  trong chùa hay khách  tăng mới đến cũng vậy và không cho ăn
uống, không bình đẳng cúng dường. Vì nhơn duyên ấy nên nay mắc phải tội
như vậy.

– Lại có một chúng sanh thân thể dài lón, trên đầu có cái vạc nước đồng sôi,
bốc  lửa cháy hừng hực, nước đồng sôi chảy tràn ra  tứ phía, chảy khắp  thân
thể, chúng sanh ấy nương hư không mà đi mãi không nghỉ.

Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như thế

Phật đáp

Người ấy đời xưa  làm Tri sự ở chùa, Đàn việt cúng dầu  thắp, Tri sự không
chia cho khách tăng. Đợi các thày khách tăng đi rồi sau đó mới chia cho các
thày thường ở trong chùa.

Vì nhơn duyên ấy nên nay người ấy mắc phải tội như vậy.

– Lại có một chúng sanh bị các hoàn sắt cháy đỏ hừng hực, từ trên đầu mà
vào, từ dưới chân mà ra; nương hư không mà đi người ấy đau khổ vô cùng,
không thề chịu được.

Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như vậy?

Phật đáp rằng:
 Người  ấy  đời  trước  làm  ông  Sa  di  có  trộm  bảy  trái me  ([6])  trong  vườn
chúng  tăng. Sau khi chết rồi, Sa di ấy đã chịu vô  lượng khổ trong địa ngục.
Nay nghiệp báo chưa hết, hãy còn dư ươn, nên phải chịu khổ như vậy.

– Lại  có một con  cá  lớn, một  thân  trăm đầu, mỗi đầu một khác, bị  sa vào
lưới người.

Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ tâm Tam muội” gọi con cá ấy. Cá ấy
tức thời ứng khẩu trả lời.

Thế Tôn hỏi cá:

– Mẹ ngươi ở đâu?

– Mẹ tôi làm con trùng rúc trong nhà xí!

Phật bảo các tỳ kheo: Lúc Phật Ca Diếp ra đời, con cá  lớn nầy  làm vị Tam
tạng Tỳ kheo;  vì ác khẩu  nên  chịu quả báo  nhiều  đầu. Mẹ  nó  bấy  giờ  thọ
hưởng lợi dưỡng  của nó, nên đọa làm con trùng rúc trong cầu tiêu.

 Phật dạy  tiếp rằng: – Mắc phải báo ấy đều do chúng sanh ác khẩu, nói  lời
thô tháo cứng xẳng, tuyên truyền bỉ thử, làm cho hai bên tranh đấu  loạn  lạc
lẫn nhau. Chết rồi vào địa ngục, bị ngục tốt đốt đỏ cái bề sắt (?) trong ngoài
nóng đỏ như nước đồng sôi để nung cái lưỡi người có tội. Quỉ lại đốt đỏ móc
sắt, móc có ba lưỡi sắt bén như mũi nhọn để đoạn cái lưỡi của tội nhơn. Lại
kéo dài cái lưỡi ra như trâu kéo cày.

Lại đốt đỏ cái chày sắt dộng vào yết hầu, trải qua ngàn vạn kiếp. Tội hết mới
ra khỏi địa ngục, làm loài chim muông.

Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nào đàm luận việc vua chúa, chánh trị, cha mẹ
và sư trưởng, thì tội lại còn nặng hơn.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo tràng nghe Phật dạy  lời ấy, rất
đáng sợ hãi. Bấy giờ Đại chúng đã  thấy rõ ràng:  thiện ác hai đường không
sai, tội phước và quả báo chắc thật, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa.

Vậy nên hết lòng hổ thẹn, siêng năng tu hành, cầu xin sám hối. Đại chúng đã
cùng nhau xem kinh, đã đồng thấy những việc như trên, nếu không cố gắng,
lười biếng muốn thối lui thì việc tu hành không do đâu có kết quả. 
Ví như người nghèo thiếu lòng thèm khát các vị cao lương mà thật tế không
có một vị nào rốt cuộc cũng không có ích gì cho sự thèm khát khổ não kia.

Cho nên biết rằng: người nào muốn cầu có pháp môn nhiệm mầu thù thắng,
muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, người ấy không thể nói suông rằng: tôi
chỉ  tu  tâm mà được. Người ấy cần phải có  tâm mà cũng cần phải  thật hành
bằng sự  tướng nữa mới được. Cần phải có sự có  lý. Sự  lý đi đôi công việc
mới có kết quả hoàn toàn, thành tựu viên mãn.

Vậy nên Đại chúng phải nỗ lực tinh tấn tu hành cầu xin sám hối. Cùng nhau
chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh  lễ Tam bảo. Nguyện xin thay  thế hết  thảy
chúng sanh trong đường địa ngục, đường ngã quỉ, đường súc sanh và đường
nhơn loại mà cầu xin sám hối.

Lại nguyện vì cha mẹ, sư trưởng thiện ác tri thức và cùng hết thảy bà con mà
cầu xin sám hối. Những  tội đã  làm  rồi nguyện xin  trừ diệt. Những  tội chưa
làm thề không dám làm.

Nhất tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đề Sa Phật

Nam mô Minh Diệu Phật

Nam mô Trì man Phật

Nam mô Công đức minh Phật

Nam mô Thị Nghĩa Phật

Nam mô Đăng Diệu Phật

Nam mô Hưng Thịnh Phật

Nam mô Dược Sư Phật 
Nam mô Thiện Nhu Phật

Nam mô Bạch Hào Phật

Nam mô Kiên cố Phật

Nam mô Phước oai đức Phật

Nam mô Bất khả hoại Phật

Nam mô Đức Tướng Phật

Nam mô La Hầu Phật

Nam mô Chúng chủ Phật

Nam mô Phạm Thanh Phật

Nam mô Kiên Tế Phật

Nam mô Bất Cao Phật

Nam mô Tác Minh Phật

Nam mô Đại Sơn Phật

Nam mô Kim Cang Phật

Nam mô Tương chúng Phật

Nam mô Vô úy Phật

Nam mô Trân Bảo Phật

Nam mô Sư tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư tử Tác Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát 
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương,  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng đại từ bi lực, đại trí huệ lực, vô lượng tự tại thần
lực không  thề tư nghị; độ  thoát nhất thế chúng sanh  lực, trong  lục đạo, diệt
trừ hết thảy đau khổ cho chúng sanh trong lục đạo; khiến các chúng sanh ấy
đoạn trừ hết tội nghiệp trong ba đường ác; rót ráo không tạo năm tội nghịch;
không tạo mười ác nghiệp nữa. Từ nay trở đi các chúng sanh ấy không sanh
vào chỗ khổ báo, được sanh về Tịnh độ; bỏ mạng sống khổ báo được mạng
sống  trí huệ; bỏ  thân khổ báo được  thân kim cang; bỏ khổ ác  thú được vui
Niết bàn; nhớ khổ trong ác thú, phát tâm Bồ đề. Bốn vô lượng tâm, sáu ba la
mật thường được hiện tiền. Bốn vô ngại biện, sáu sức thần thông được tự tại
như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, và thắng tấn tu hành đến
khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ TÁM : RA KHỎI ĐỊA NGỤC

Ngày nay Đại chúng  trong đồng nghiệp Đạo  tràng nên biết rằng: Vạn pháp
không đồng, công dụng bất nhất, như sáng và tối đối đãi nhau. Tuy nhiên chỉ
có thiện và ác là gồm thâu tất cả.

Làm  thiện được quả báo  tốt đẹp ở các cõi  trời, cõi người. Làm ác  thời mắc
quả báo xấu xa, đau khổ kiệt liệt trong ba đường ác.

Đó  là hai sự  thật rõ ràng  trên đời, không phải giả dối. Nhưng người ngu si
lầm  lạc phần nhiều sanh  tâm nghi ngờ; hoặc cho cõi  trời  là chuyện bịa đặt;
địa  ngục  là  lời  nói  dối,  không  có.  Những  người  ấy  không  biết  suy  nhơn
nghiệm quả; không biết xét quả tìm nhơn. Người không biết phân biệt nhơn
quả  thì  cứ  chấp  lấy  sự  hiểu  biết  sai  lầm  của  thế  gian. Không  những  chấp
không, chấp có mà còn  làm thơ  làm bài để biếm xích. Tâm họ  trái với điều
thiện  lợi mà không hề  tự biết sai  lầm. Giả như có người chỉ bảo cho  thì họ
càng  chấp  chặt  lấy  thiên  kiến;  sai  lầm  còn  kiên  cố  hơn  nữa. Những  người
như  thế  là họ  tự gieo đầu vào đường ác. Trong nháy mắt  liền  thẳng xuống
địa ngục,  từ  thân hiếu  tử không  thể cứu được. Họ đi vào hầm  lửa, vạc dầu
trước hơn ai hết. Họ đi  thiêu  thân  trong  lửa nóng vạc dầu sôi mà không  tự
biết. Thân tâm tan nát, tinh thần thống khổ, khi ấy ăn năn không kịp.
 Ngày nay Đại chúng trong Đạo tràng thấy rõ thiện ác nương nhau như bóng
theo hình, như vang theo tiếng.

Tội  phước  hai  đường  tuy  khác  nhau  nhưng  cũng  phải  đợi  kỳ  trã  quả  báo
nghiêm nhặt, mong sau mọi người đều sáng suốt  tin  tưởng không sanh  tâm
nghi ngờ.

Sao gọi là địa ngục?

Kinh dạy rằng:

Trong  tam  thiên đại  thiên  thế giới, ở giữa khoảng hai núi Thiết vi. chỗ  tối
tăm nhất gọi  là Địa ngục. Thành bằng sắt, dài rộng một ngàn sáu  trăm vạn
dặm. Trong thành chia ra tám vạn bốn ngàn ngăn. Dưới lấy sắt làm đất, trên
lấy  sắt  làm  lưới. Lửa đốt  thành  ấy  trong  ngoải  cháy  đỏ  chảy  ra  nước. Lửa
trên cháy suốt xuống dưới, lửa dưới cháy suốt bốc lên trên.

Tên riêng của mỗi ngục là:

Ngục  nhóm  họp

Ngục  tối  tăm

Ngục  xe  dao

Ngục  rừng  kiếm

Ngục  máy  sắt

Ngục  rừng  gai

Ngục  võng  sắt

Ngục  hang  sắt

Ngục  hoàn  sắt

Ngục  đá  nhọn

Ngục  hầm  than 
Ngục  rừng  cháy.

Ngục  hổ  lang

Ngục  kêu  la.

Ngục  nước  sôi

Ngục  than  nóng

Ngục  núi  dao

Ngục  rừng  kiếm

Ngục  đá  mài lửa

Ngục  thành  lửa.

Ngục  cột  trụ  đồng

Ngục  giường  sắt

Ngục  xe  lửa.

Ngục  bánh  xe  lửa

Ngục  uống  nước  đồng sôi

Ngục  khạc  ra  lửa

Ngục  hết  sức  nóng

Ngục  hết  sức  lạnh,

Ngục  rút  lưỡi,

Ngục  đóng  đinh  vào  thân

Ngục  trâu  cày 
Ngục  chém  chặt

Ngục  đao  binh

Ngục  mổ  xẻ

Ngục  sông  tro.

Ngục  tiểu  dãi  trào  lên

Ngục  giá  lạnh

Ngục  bùn  lầy

Ngục  ngu  si

Ngục  khóc  lóc

Ngục  đui  điếc

Ngục  câm  ngọng

Ngọng  lưỡi  câu  sắt

Ngục  mổ  sắt  nhọn.

Lại có những đại tiểu tiện nê lê a tỳ địa ngục.

Phật bảo đức A Nan:

Sao gọi là A tỳ địa ngục?

–  A : nghĩa là vô

– Tỳ : nghĩa là già

– A  : nghĩa là vô

– Tỳ : nghĩa là cứu. 
Nói chung lại A Tỳ nghĩa là vô già, vô cứu: không ngăn dứt, không cứu vớt
được.

Lại nữa:

– A là không gián đoạn.

– Tỳ là không lay động.

– A là hết sức nóng nhiệt.

– Tỳ là hết sức khổ não.

– A là không an nhàn.

– Tỳ là không an trú.

Tóm  lại: A  tỳ nghĩa  là hết sức hành hạ, không  tạm nghỉ, không gián đoạn,
không  lay  chuyển;  hết  sức  khổ  não,  như  nung  như  nấu,  không  an  nhàn,
không chấm dứt, cứ hành phạt mãi mãi nên gọi là A tỳ.

Lại nữa:

– A là đại diện: là lửa dữ.

– Tỳ là mãnh liệt, là nóng dữ.

Lửa dữ nhập tâm, gọi là a tỳ địa ngục.

Phật dạy Ngài A Nan: Địa ngục A  tỳ dài  rộng bằng nhau ba mươi hai vạn
dặm. Bảy  lớp  thành sắt, bảy  lớp  lưới sắt bao bọc ngục a  tỳ. Dưới có mười
tám ngăn, xung quanh có bảy lớp thành, đều có đặt rừng dao.

Trong bảy  lớp  thành  lại có  rừng gươm. Dưới mười  tám ngăn, ngăn có  tám
vạn bốn ngàn  lớp. Bốn góc đều có bốn đại đồng cẩu,  thân dài  lớn đến một
vạn sáu ngàn  (16.000) dặm, mắt như điện chớp,  răng như cây gươm, nanh
như núi dao, lưỡi như mũi sắt nhọn toàn thân chân lông phun lửa dữ, hơi bay
như khói, hơi thúi khó chịu, thế gian không có vật gì thúi bằng.
 Lại có mười tám ngục tốt đầu như đầu  la sát miệng như miệng dạ xoa. Chó
có sáu mươi bốn con mắt, mắt tung ra xa những hoàn sắt nóng: như xe chạy
xa mười dặm. Răng  phía  trên  cao một  trăm  sáu mươi dặm. Trên đầu  răng
tuông ra lửa dữ, đốt cháy xe sắt phía trước, làm cho bánh xe kia mỗi lỗ lưỡi
tròn hóa  làm một ức con dao  lửa , kiếm kích sắc bén; những  lưỡi nhọn đều
từ trong  lửa dữ ấy lưu xuất. Lửa ra như suối chảy đốt cháy ngục thành a tỳ.
Thành cháy đỏ như nước đồng sôi.

Bọn  ngục  tốt  kia  đẩu  có  tám  đầu  trâu, mỗi mỗi  đầu  đều  có mười  tám  cái
sừng. Trên đẩu mỗi sừng tuông ra một đống lửa lớn. Đống lửa lớn lại hóa ra
bánh xe dao lớn. Như bao nhiêu bánh xe, mỗi mỗi bánh xe thứ lớp theo nhau
chạy trong lửa dữ ghê gớm, đầy cả a tỳ địa ngục.

Ở  dưới  đất  thì  có  chó  đại  đồng  cẩu  hà miệng  le  lưỡi.  Lưỡi  như  đòn  xóc
nhọn; le ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy cả a tỳ địa ngục.

Ở trong bảy lớp thành có bảy lớp cờ. Ở đầu mỗi cờ lửa tuôn ra như suối trào
vọt, nước sắt chảy cả a tỳ địa ngục.

Bốn  cửa  thành  ngục  a  tỳ, ở  trên mỗi  ngưỡng  cửa  có mười  tám  chảo  nước
đồng sôi trào ra rồi chảy tràn đầy cả thành a tỳ.

Trong mỗi  ngăn. Địa  ngục  lại  có  tám  vạn  bốn  ngàn  rắn mãn  xà  sắt,  phun
độc,  phun  lửa  thân  hình  lớn  đầy  thành,  kêu  la  như  sấm  dậy,  mưa  xuống
những hoàn sắt nóng lớn đầy cả thành a tỳ.

Nỗi  khổ  trong  thành  kể  đến  tám  vạn  ức  thiên. Bao  nhiêu  thống  khổ  trong
những thống khổ đều tích tụ ở trong thành nầy.

Lại có năm trăm ức con trùng ở trong thành, mỗi con trùng có tám vạn bốn
ngàn mỏ nhọn. Đầu mỗi mỏ nhọn có  lửa  tuôn như mưa xối, đầy cả thành a
tỳ.

Mỗi khi trùng ấy rơi xuống thì lửa dữ trong thành a tỳ bốc ngọn lên dữ dội,
hừng  hực  sáng  choang.  Lửa mạnh  ấy  chiếu  đến  ba  trăm  ba mươi  sáu  vạn
dặm.  Từ  a  tỳ  ngục  xông  lên  biển  cả  dưới  núi  ốc  tiêu  nước  biển  cả  giọt
xuống, mỗi giọt  lớn bằng trục bánh xe to, thành ra những mũi nhọn sắt lớn,
đầy cả thành a tỳ.
 Phật bảo Ngài A Nan: Như chúng sanh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu
giòng bà con, người ấy khi mạng chung chó sắt hả miệng, hóa làm mười tám
bánh xe, giống như xe vàng, có bảo cái che trên. Hết thảy mũi  lửa nhọn kia
hóa  làm ngọc nữ. Người có tội kia xa trông  thấy, sanh tâm vui mừng. Nghĩ
rằng: “Ta muốn đến đó chơi, Ta muốn đến đó chơi”. Khi đến rồi, thì bị gió
phong đao xẻ thân, lạnh quá chừng. Tội nhơn lại nghĩ: Há được lửa tốt, ngồi
trên xe đốt lên mà hơ! Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây phút lại thấy
mình ngồi trên xe vàng ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc nữ cầm búa sắt
chém thân. Dưới thân  lửa bốc hừng hực, mau như chớp nhoáng, trong nháy
mắt lại rơi vào a tỳ địa ngục.

Từ ngăn trên, chớp mắt đọa xuống ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng
cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt tủy. Ngục tốt la sát cầm xoa sắt lớn
xoa đầu bắt đứng dậy;  lửa  cháy  khắp  thân,  cháy  luôn  thành  a  tỳ. Lưới  sắt
tuông mưa dao. Dao theo lỗ chân lông vào trong thân thể, hóa làm vua Diêm
Vương. Vua  lớn  tiếng  bảo  rằng:  “Kẻ  ngu  si,  giống  ngục  tốt  kia,  ngươi  ở
dương  thế, bất hiếu  với  cha mẹ,  tà mạng  không đạo đức nên phải đọa  vào
chỗ nầy, gọi là a tỳ Địa ngục. Ngươi là người không biết ơn, không hổ thẹn.
Ngươi chịu khổ não như thế có sướng không?” Nói rồi, biến mất.

Bấy giờ ngục tốt  lại đuổi tội nhơn từ ngăn dưới  lên ngăn trên. Phải  trải qua
tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua khỏi  lớp  lưới sắt cuối cùng một ngày
một đêm mới khắp a  tỳ địa ngục. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng sáu
chục  tiểu  kiếp  ([7]) ở  dương  gian. Tội  nhơn  sống  như  vậy  trong  địa  ngục
một đại kiếp ([8]).

Người phạm  tội  ngũ  nghịch không  biết  hổ  thẹn  nên  gây  tội  ấy. Vì  tội  ngũ
nghịch nên lúc lâm chung có mười tám thứ phong đao như xe lửa sắt cắt xẻ
thân thể. Tội nhơn vì nóng bức nên nói thế này: “Nếu ta có các thứ hoa sắc
đẹp ấy, cây đại thọ mát mẻ kia, ở đó dạo chơi há không vui sao!”

Nghĩ như thế rồi thì có tám vạn bốn ngàn rừng ác kiếm hóa làm cây báu, hoa
quả  tốt  tươi, sắp bày  ra  trước mắt  lửa nóng hừng hực hóa  làm hoa  sen nơi
gốc cây kia. Tội nhơn thấy vậy liền nghĩ thầm: “Ta đã mãn nguyện”.

Trong  nháy mắt,  tội  nhơn  liền  ngồi  trên  hoa  sen. Trong  khoảnh  khắc,  các
trùng mỏ nhọn,  từ  trong hoa  lửa sanh ra rúc ráy cốt  tủy,  thấu suốt  tâm can.
Tội nhơn phải vịn cây đứng dậy. Các nhành cây hóa thành lưỡi kiếm, róc thịt
chẻ xương, vô lượng rừng đao từ không trung rơi xuống. Những lò hổng xe
lửa mười tám điều đau khổ nhất thời đưa đến. 
Những  cảnh  tượng  nầy  hiện  ra  thì  tội  nhơn  bị  hãm  xuống  địa  ngục  từng
dưới; rồi từ từng dưới lên từng trên. Thân hình lột hết như hoa nở. Trải khắp
ngăn dưới, rồi lên ngăn trên, bị lửa mạnh thiêu đốt dữ dội.       

Đến  ngăn  trên    rồi,  thân  hình  tràn  khắp  ngăn  ấy,  bị  khổ  não  nung  nấu  vô
cùng. Tội nhơn phải trợn mắt le lưỡi. Vì phạm tội ngũ nghịch, nên bị vạn ức
đồng sôi, trăm ngàn đao luân, từ trên không rơi xuống, vào trên đầu, ra dưới
chân;  đau  khổ  còn  gấp  bội  hơn  trước  nữa một  trăm  , một  ngàn  vạn  phần.
Người phạm đủ năm nghịch tội phải chịu tội đủ năm kiếp .

Lại nữa nếu người nào phá cấm giới của Phật, luống ăn dùng của tín thí, phỉ
báng Tam  bảo,  tà  kiến,  không  biết  nhơn  quả,  không  học  trí  huệ Bát  nhã,
khinh  chê mười  phương  Phật,  trộm  cắp  của  pháp,  làm  việc  ô  uế  bất  tịnh
hạnh, không hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo các điều ác, người ấy khi sắp lâm
chung, tội báo bị phong đao xẻ thân, nằm ngửa bất tỉnh, như bị đánh đập.

Tư  tưởng hoang mang, si mê  lầm  lẫn. Thấy nhà cửa và con cái nam nữ, và
lớn nhỏ, cùng tất cả sự vật của mình đều bất tịnh. Tiểu dãi hôi thối, tràn đầy
thân thể. Bấy giờ người ấy nghĩ rằng:

“Sao đây không có thành quách và núi rừng tốt đẹp, để ta dạo chơi mà lại ở
giữa đám bất tịnh ô uế nầy ư?”

Nghĩ như thế rồi, liền bị ngục tối la sát lấy cái xoa sắt lớn đánh ngục a tỳ, và
các rừng đao hóa  làm cây báu, và ao hồ mát mẻ,  lửa dữ hóa  làm hoa sen  lá
vàng;  những  con  trùng  sắt mỏ  nhọn  hóa  làm  chim  phù  nhan. Những  tiếng
thống khổ trong địa ngục như âm thanh ca vịnh.

Tội nhơn trông thấy tốt đẹp như vậy liền nghĩ rằng: “Ta mau đến đó mà dạo
chơi”. Nghĩ  xong  kiền  thấy mình  ngồi  trên  hoa  sen  lửa. Các  trùng  sắt mỏ
nhọn từ các lỗ chân lông trong thân rúc ra, cắn rức thân thể. Trăm ngàn bánh
xe  sắt  từ  trên đánh  vào  thân;  hằng  hà  sa  số xoa  sắt, khiêu múc  tròng mắt.
Chó đồng cẩu trong địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt dành nhau cấu xé thân
hình  tội  nhơn,  lấy  trái  tim mà  ăn. Trong  nháy mắt,  thân  thể đã  thành  cánh
hoa sắt,  tràn khắp mười  tám ngăn ngục, mỗi mỗi hoa có  tám vạn bốn ngàn
lá, mỗi mỗi  lá, đầu mình  tay  chân  chi  tiết đều ở  trong một ngăn; địa  ngục
không lớn thân nầy không nhỏ cho nên biến khắp địa ngục.
 Những  tội nhơn nầy đọa vào địa ngục ấy  tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Ngục
nầy tiêu diệt rồi  lại vào trong mười tám ngăn ngục khác, chịu khổ như trên.
A tỳ ngục nầy về phương Nam cũng có 18 ngăn; phương Tây cũng có mười
tám ngăn, phương Bắc cũng   có mười tám ngăn.

Hủy báng các kinh Phương đẳng Đại  thừa  tạo đủ năm  tội nghịch; phá hoại
Hiển Thánh, đoạn các căn lành. Những người như vậy chịu đủ tội  lỗi. Thân
lớn khắp A tỳ địa ngục; tứ chi trải khắp cả mười tám ngăn A tỳ địa ngục nầy
chỉ  thiêu đốt  những  chúng  sanh  tạo  giống địa  ngục  như  trên. Khi  kiếp địa
ngục  sắp  hết  thì  thấy  cửa  địa  ngục  phương Đông  liền mở. Tội  nhơn  nhìn
thấy ngoài cửa ấy có dòng nước trong chảy mát mẻ; có rừng cây hoa quả tốt
tươi hiện ra những tội nhơn ở ngăn dưới nhìn thấy thì mắt tạm bớt đổ lửa. Từ
ngăn  dưới  vươn mình  lên  quằn  quại  bò  đi,  tuột  cả  thân  hình mà  chạy  lên
ngăn trên, tay vịn bánh xe đao. Bấy giờ trên không trung mưa xuống những
hoàn sắt nóng. Tội nhơn chạy đến cửa phương Đông. Vừa đến cổng thì ngục
tốt la sa tay cầm xoa sắt đâm ngược vào tròng mắt của tội nhơn.

Chó đồng cẩu nhai ngầu trái tim; tội nhơn phải chết ngất. Chết rồi sống  lại,
thấy cửa phương Nam mở như cửa phương trước kia không khác.

Cửa  phương  Tây,  phương Bắc  cũng  đều  như  vậy.  Trải  qua  thời  gian  nửa
kiếp, tội nhơn phải chết trong A tỳ địa ngục.

 Chết  rồi  sống  lại  sanh  vào địa  ngục  giá  lạnh  rồi  chết  trong địa ngục  hàng
băng này. Chết rồi lại sống; sống rồi lại sanh vào địa ngục hắc ám, một trăm,
một ngản vạn năm mắt không trông thấy, thân làm con đại trùng, quằn quại
bỏ đi; các căn ([9]) ám độn, không hiểu biết gì phải quấy lại bị một trăm một
ngàn hổ lang lôi kéo dành ăn. Chết rồi lại sanh vào loài súc sanh, năm ngán
vạn  năm  làm  thân  chim muông. Khổ  sở như  thế  cho đến khi  hết  tội, được
sanh  làm  người. Nhưng  lại  phải  đui,  điếc,  ngọng,  lịu,  phung  hủi,  ung  thư,
bần cùng hạ tiện. Bao nhiêu suy đồi khổ sở mình phải tự rước lấy. Làm thân
hèn hạ như vậy năm  trăm  lần sống  thác. Lại sanh vào  loài quỉ đói. Ở  trong
ngã quỉ gặp được thiện tri thức các vị đại Bồ tát quở trách nói rằng:

“Người ở trong vô  lượng đời về trước đã tạo ra vô  lượng tội, phỉ báng Tam
bảo,  không  tin  nhơn  quả  nên  đọa  trong A  tỳ  địa  ngục  chịu  nhiều  khổ  não
không thể kể xiết. Nay ngươi nên phát tâm từ bi”.

Bấy giờ các ngã quỉ nghe lời ấy rồi liền xưng Nam mô Phật.
 Nhờ sức hồng ân của chư Phật,  liền được mạng chung, sanh  lên cõi  trởi  tứ
thiên. Sanh lên đó rồi , ăn năn tự trách, phát tâm Bồ đề.

Tâm  quang  của  các  chư  Phật  không  bỏ  những  người  phát  tâm  nầy,  thâu
nhiếp những người phát  tâm như vậy và  thương mến như La Hầu La. Dạy
bảo tránh xa địa ngục, không cho thân xa đọa như quý tròng con mắt.

Phật bảo Đại vương: “Muốn biết hào quang chư Phật thường chiếu nơi nào
thì hãy xem hào quang ấy thường chiếu những nơi chúng sanh đau khổ như
vậy không gián đoạn, không người cứu vớt. Tâm Phật thường biết nơi đâu?
Thường biết những nơi chúng sanh chịu hành phạt cực hình, cực ác như vậy.
Vậy đem  tâm Phật mà  trau dồi  tâm mình,  trải qua nhiều số kiếp, khiến các
người ác kia phát tâm Bồ đề”.

Hôm  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  nghe Phật Thế Tôn  nói
các thống khổ như trên thì gia tâm giữ ý, chớ sanh lòng buông lung. Nếu Đại
chúng không siêng năng lập phương tiện tu hành Bồ tát đạo thì ở trong mỗi
địa ngục đều vô tội phần.

Ngày nay Đại chúng nên vì hết  thảy chúng sanh hiện đang chịu  thống khổ
trong A tỳ đaị ngục, vì hết thảy chúng sanh sẽ chịu thống khổ trong A tỳ địa
ngục, và rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện chịu, và sẽ chịu vô cùng
vô tận thống khổ trong hết thảy địa ngục ở mười phương mà đầu thảnh đảnh
lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ: 

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Quá khứ thất Phật

Nam mô Thập phương thập Phật

Nam mô Tam Thập Ngũ Phật

Nam mô Ngũ Thập Tam Phật

Nam mô Bách Thất Thập Phật

Nam mô Trang nghiêm kiếp thiên Phật 
Nam mô Hiền kiếp thiên Phật

Nam mô Tinh tú kiếp thiên Phật

Nam mô Thập phương Bồ tát Ma ha tát

Nam mô Thập Nhị Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô biên thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại xin quy y mười phương tận hư không giới vô lượng hình tượng:

Tượng vàng và tượng chiên đàn của vua Ưu Điển.

Tượng đồng của vua A Dục.

Tượng đá của Ngô Trung.

Tượng ngọc của Sư tử.

Tượng vàng, tượng bạc, lượng  lưu  ly,  tượng san hô, tượng hổ phách, tượng
xa  cừ,  tượng  mã  não,  tượng  trân  châu,  tượng  ma  ni,  tượng  vàng  từ  ma
thương sắc diêm phù đàn ở trong các quốc độ.

Lại quy y hết thảy các tháp thở tóc của mười phương Phật:

Quy y hết thảy các tháp thờ hàm răng.

Quy y hết thảy các tháp thờ răng.

Quy y hết thảy các tháp thờ móng tay.

Quy y hết thảy các tháp thờ xương trên đảnh.

Quy y hết thảy các tháp thờ xá lợi trong thân. 
Quy y hết thảy các tháp thờ cà sa.

Quy y hết thảy các tháp thờ muổng, bình bát.

Quy y hết thảy các tháp thờ bình tắm rửa.

Quy y hết thảy các tháp thờ tích trượng.

Quy y hết thảy các nơi làm Phật sự như vậy.(1 lạy)

Lại quy y nơi tháp Phật giáng sanh, quy y tháp Phật đắc đạo:

Quy y tháp Phật chuyển pháp luân.

Quy y tháp Phật nhập Niết bàn.

Quy y tháp trên trời, tháp ở nhân gian và tất cả bảo tháp ở trong cung Long
Vương.(1lạy)

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật:

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.

Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.  (1 lạy) 

Nguyện xin Tam bảo đồng đem từ bi lực an ủi chúng sanh lực, vô lượng đại
tự  tại  lực,  vô  lượng đại  thần  lực,  thâu  nhiếp  thọ  lãnh  chúng  con  ngày  nay
sám hối thế cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong A tỳ đại địa ngục,
sám  hối  thế  rộng  ra  cho  đến  hết  thảy  chúng  sanh  trong  tất  cả  địa  ngục  ở
mười phương, nhiều không thể kể xiết; sám hối thế cho cha mẹ, sư trưởng và
tất cả bà con quyến thuộc nguyện xin Tam bảo dùng nước đại bi tẩy trừ tội
lỗi cho hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong A tỳ địa ngục và trong
những địa ngục khác, khiến chúng sanh được thanh tịnh.

Nguyện xin Tam bảo tẩy trừ tội lỗi cho chúng sanh, hiện đồng sám hối trong
Đạo tràng hôm nay; tẩy trừ tội lỗi cho tất cả cha mẹ sư trưởng, cho hết thảy
bà con quyến thuộc của chúng con, khiến tội lỗi được thanh tịnh.
 Lại xin  tẩy  trừ  tội  lỗi cho  tất cả chúng sanh  trong sáu đường, khiến chúng
sanh thẳng đến Đạo tràng hoàn  toàn thanh tịnh. Từ nay  trở đi cho đến ngày
thành Phật chúng sanh đều đoạn  trừ được hết khổ não  trong a  tỳ địa ngục.
Rộng ra nữa  là đoạn trừ hết thảy thống khổ nhiều không  thể nói, không thể
nói trong các địa ngục, ở mười phương tận hư không giới. Chúng sanh ấy rốt
ráo không còn đọa  trở  lại  trong ba đường  ác,  rốt  ráo không còn đọa  trở  lại
trong các địa ngục. Rốt ráo không còn tạo trở lại mười ác nghiệp ; không còn
tạo  trở  lại năm  tội nghịch để chịu khổ não. Tất cả các  tội, nguyện đều  tiêu
diệt, bỏ sống địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí
huệ, bỏ  thân địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết
bàn;  nhớ  khổ  địa  ngục,  phát  tâm Bồ  đề,  tứ  đẳng  lục  độ  thường  được  hiện
tiền;  tứ biện  lục  thông đều được  tự  tại như ý; đầy đủ  trí huệ,  tu đạo Bồ  tát,
dõng mãnh  tinh  tấn, không  thôi không  nghỉ,  tu  hành mãi  lên  cho đến mãn
hạnh thập địa vào tâm kim cang, thành đẳng chánh giác để trở lại đời nầy, độ
thoát hết thảy chúng sanh trong mười phương.

Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng còn có các địa ngục khác,
chịu khổ  rất phức  tạp, không  thể  ghi chép. Danh  hiệu  như vậy, khổ  sở vô
cùng. Đại chúng dở xem trong kinh sẽ thấy rõ việc ấy.

Trong kinh Phật dạy  rằng: “Một niệm  ác  của vua Diêm Vương sanh  ra đủ
các việc  trong địa ngục. Tự  thân Diêm Vương chịu khổ cũng không  thể kể
xiết”.

Diêm La Đại vương xưa kia  là vị Tỳ sa quốc vương, nhơn vì cùng với Duy
Đà thủy chúa chiến đấu thất bại, bèn lập thệ nguyện: “Nguyện ta đời sau làm
chủ ngục trị tội nhơn vậy”.

Mười tám vị đại thần và trăm vạn tùy tùng đồng phát nguyện như vậy.

Tỳ sa vương ấy nay là Diêm la vương, mười tám vị đại thần kia, nay là mười
tám ngục vương vậy. 

Trăm vạn chúng tùy tùng nay là ngưu đầu ngục tốt vậy.

Bọn quan thuộc nầy đều lệ thuộc Bắc phương tỳ sa môn thiên vương.

Kinh Trường A Hàm chép:
 “Chỗ ở  của Diêm La Đại  vương  tại Diêm  phù  đề  trong  núi Kim  cang,  về
phương Nam Vương cung dài  rộng sáu ngàn do  tuần”  ([10]). Kinh Đại địa
ngục dạy rằng: “Thành quách cung vua Diêm vương, ở trong địa ngục rộng
dài ba vạn dặm; dùng sắt và đồng mà xây dựng”.


Ngày đêm ba  thời  có  chảo  đồng  lớn đựng đầy  nước đồng  sôi,  tự nhiên  để
phía  trước  vua. Có  ngục  tốt  to  lớn  nằm  trên  giường  sắt  nóng  của  vua,  lấy
móc sắt đánh miệng vua,  rót nước đồng sôi vào miệng vua. Từ yết hầu  trở
xuống đều cháy tiêu tan. Các Đại thần kia cũng phải chịu tội như vậy.

Mười tám ngục vương ấy tên là:

1.- Ca Diên giữ ngục Nê lê.

2.- Khuất Tôn giữ ngục Đạo sơn.

3.- Phí Thọ giữ ngục Phí sa.

4.- Phí Khúc giữ ngục Phất sí.

5.- Ca Thế giữ ngục Hắc nhĩ.

6.- Hạp Sai giữ ngục Hỏa xa.

7.- Than Vị giữ ngục Hoạch than.

8.- Thích Ca Nhiên giữ ngục Thiết sàng.

9.- Ác Sanh giữ ngục Hạp sơn

10.- Thân Ngâm giữ ngục Hàn băng.

11.- Tỳ Ca giữ ngục Bác bì.

12.- Diêu Đầu giữ ngục Súc sanh.

13.- Đề Bạt giữ ngục Đao binh.

14.- Di Đại giữ ngục Thiết ma. 
15.- Duyệt Đầu giữ ngục Khôi hà.

16.- Xuyên Cốt giữ ngục Thiết sách.

17.- Danh Thân giữ ngục Thơ trùng.

18.- Quán Thân giữ ngục Dương đồng.

Những ngục như vậy đều có vô  lượng địa ngục khác  làm quyến  thuộc; mỗi
ngục đều có chủ ngục. Ngưu đầu ngục tốt tánh tình bạo ngược không có một
mảy từ tâm . Thấy chúng sanh chịu ác báo như vậy chỉ sợ chúng sanh không
khổ mà thôi. Nếu hỏi ngục tốt:

“Chúng sanh chịu khổ như vậy  rất đáng  thương xót,  sao các ngươi  thường
cứ ôm lòng độc ác khốc liệt, không chút thương tâm?”

Ngục tốt liền đáp:

Những người chịu khổ ấy tội ác như thế nầy: “Bất hiếu với cha mẹ, bài báng
Phật  Pháp,  Tăng,  chê  bai  Thánh  Hiền,  nhục  mạ  lục  thân,  khinh  mạn  sư
trưởng, hủy hoại  tất cả, nói  lời độc ác, nói lời hai  lưỡi nịnh hót, tật đố, chia
rẽ  tình  cốt  nhục  của  người  ,  giận  hờn  nóng  nẩy,  sát  hại  tham  dục,  dối  gạt
khinh  khi,  tà mạng,  tà  cầu,  lại  do  vì  tà  kiến,  giải  đãi  buông  lung  gây  kết
nhiều thù oán”.

Những người như vậy, đến đây chịu khổ rồi, mỗi khi được thoát ra chúng tôi
thường  khuyên  bảo  rằng:  “Ở  đây  cực  khổ  lắm,  không  thể  chịu  được. Các
người nay được ra rồi chớ nên tạo tội mà phải trở vào đây nữa.”

Nhưng các tội nhơn ấy không chịu chừa bỏ ăn năn, ngày nay ra rồi thoạt vậy
lại vào. Lần lựa luân hồi, không biết thống khổ, làm cho chúng tôi phải mỏi
mệt  vì  các  chúng  sanh  ấy.  Kiếp  nầy  kiếp  khác,  cứ  đối  đầu  nhau  mãi. Vì
duyên cớ ấy ấy nên chúng  tôi đối với  tội nhơn không có chút  thương  tâm,
mà còn cố ý làm cho khổ sở thêm nữa.

Chúng tôi mong họ biết khổ, biết hổ, biết thẹn, không trở lại đây nữa.

Chúng  tôi  xem  các  chúng  sanh  ấy  thật  là  chỉ  khổ  mà  không  chịu  tránh,
không chí quyết làm lành để vào Niết bàn. 
Họ đã là vật vô tri, không biết tránh khổ tìm vui, sở dĩ họ phải chịu đau khổ
hơn ở nhơn gian, thì làm sao chúng tôi có thể dung thứ ma sanh tâm thương
được.

Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng hãy đem việc  lao ngục ở
thế gian mà so sánh thì có thể biết ngay; tin chắc rằng việc nầy không phải là
luống dối.

Giả sử có người ba phen đến cửa ngục tuy bà con thân tộc nhưng thấy người
ấy cứ vào ra cửa ngục mãi cũng đã chán ngán, không có  lòng buồn thương,
luống gì ngưu đầu ngục tốt thấy các chúng sanh đã ra  lại vào để chịu thống
khổ mãi mãi.

Vậy đã thoát khỏi địa ngục rồi thì nên tu tâm dưỡng tánh, cải cách tập quán.
Nếu không chừa bỏ thì nhiều kiếp chìm trong biển khổ. Đã vào trong ấy rồi,
cứ thứ lớp mà qua, hết khổ nầy đến khổ khác, không bao giờ dừng nghỉ.

Vì vậy nên oán thù ba đời, nhơn quả theo nhau, hai vừng thiện ác chưa từng
tạm nghỉ. Việc báo ứng trình bày rõ ràng rất dễ trông thấy. Làm ác gặp khổ,
lấy ác trả ác, ở trong địa ngục cùng năm mãn kiếp, chịu thống khổ đủ điều.
Hết tội địa ngục lại làm súc sanh. Hết tội súc sanh lại làm quỉ đói; trải qua vô
lượng sanh tử, vô lượng thống khổ.

Như thế Đại chúng há có thể không lo tu hành Bồ tát đạo cho kịp thời sao?

Chúng  con  ngày  nay,  nhất đầu  thành đảnh  lễ Tam bảo  nguyện  vì  hết  thảy
chúng sanh trong đường địa ngục, ngục vương, đại thần, ngưu đầu, ngục tốt
và  quyến  thuộc  của  chúng  khắp  mười  phương,  nguyện  vì  hết  thảy  chúng
sanh trong đường ngã quỉ vương, ngã quỉ thần v.v... và quyến thuộc của ngã
quỉ ở khắp mười phương;  nguyện  vì  hết  thảy  chúng  sanh  trong đường  súc
sanh,  súc  sanh  thần  v.v...  và  quyến  thuộc  của  chúng  sanh  khắp  mười
phương;  rộng  ra nguyện vì hết  thảy chúng sanh vô cùng vô  tận  trong mười
phương mà cầu xin sám hối, cải vãng tu lai, không làm ác nữa. Những tội đã
làm  nguyện  xin  diệt  trừ,  những  tội  đã  làm  nguyện  xin  diệt  trừ,  những  tội
chưa làm thề không dám làm.

Nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dùng bất khả tư nghị tự tại
thần  lực gia  tâm cứu hộ  thương xót nhiếp  thọ, khiến  tất cả chúng sanh  tức
thời giải thoát. 
Nguyện xin quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Hoa Nhật Phật

Nam mô Quân Lực Phật

Nam mô Hoa Quang Phật

Nam mô Nhơn ái Phật

Nam mô Đại oai đức Phật

Nam mô Phạm vương Phật

Nam mô Vô lượng minh Phật

Nam mô Long đức Phật

Nam mô Kiên Bộ Phật

Nam mô Bất Hư Kiến Phật

Nam mô Tinh Tấn Đức Phật

Nam mô Thiện Thủ Phật

Nam mô Hoan Hỷ Phật

Nam mô Bất Thối Phật

Nam mô Sư Tử Tướng Phật

Nam mô Thắng Trí Phật

Nam mô Pháp Thị Phật 
Nam mô Hỷ Vương Phật

Nam mô Sa Ngự Phật

Nam mô Ái Tác Phật

Nam mô Đức Tý Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Quán Thị Phật

Nam mô Vân Âm Phật

Nam mô Thiện Tư Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biến Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo
dủ  lòng  Từ  bi,  tự  tại  thần  lực  cứu  vớt  chúng  sanh  trong  đường  địa  ngục,
ngục vương, đại thần và quyến thuộc của các vị ấy cùng mười tám địa ngục.

Mười tám ngăn địa ngục nầy đều có mhiều địa ngục khác làm quyến thuộc.

Nguyện  xin Tam  bảo  cứu  vớt  hết  thảy  ngưu  đầu  ngục  tốt  và  tất  cả  chúng
sanh chịu khổ trong đường địa ngục, khiến các chúng sanh ấy đều được giải
thoát. Tội nhơn khổ quả đồng thời tiêu diệt. Từ nay trở đi, rốt ráo vĩnh viễn
đoạn trừ hết nghiệp địa ngục, rốt ráo không đọa trong ba đường ác, bỏ sống
địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí huệ, bỏ thân
địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục được vui Niết bàn. Nhớ khổ địa ngục, phát tâm bồ đề; tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền. Tứ biện lục
thông như ý tự tại.

Dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tiến lên cho đến mãn hạnh thập
địa,  trở  lại độ  thoát  hết  thảy  chúng  sanh,  đồng  nhập kim  cang,  thành đẳng
chánh giác. 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ TƯ


--- HẾT---

[1] Chiêu đề: Của thuộc 10 phương Tăng, do người thí, chỉ có nguyện cúng
chung  cho  chúng  Tăng  ở  khắp  10  phương,  ai  gặp  thì  dùng. Cất mà  dùng
riêng  là  sai  với bản  nguyện  của  thí chủ. Nếu  thí chủ  chỉ  nguyện  cúng  cho
chúng hiện tiền ở trong chùa, thì chúng hiện diện ở đó có quyền xử dụng.

[2]  Ba  chướng:  1-  Phiền  não  chướng.  2-  Nghiệp  chướng.  3-  Khổ  báo
chướng. Vì phiền não  tham, sân, si  thúc đẩy nên  tạo nghiệp, do  tạo nghiệp
nên bị quả báo đau khổ.

[3] Năm sợ hãi: Bồ tát sơ học phát tâm có năm món sợ:

1- Sợ không sống: nên có của không thể thí hết vật sở hữu. 2- Sợ tiếng xấu:
Vì sợ xấu nên không thể chung sống với chúng sanh mà tu (hòa quang đồng
trần). 3- Sợ  chết: Tuy phát  tâm  rộng  lớn  nhưng  sợ  chết,  nên không  thể  xả
thân.  4- Sợ  đọa  ác  đạo: Vì  sợ  chết  đọa  đường  ác  nên  đối  trị  các  pháp  bất
thiện không dám làm để lợi ích chúng sanh. 5- Sợ oai đức của Đại chúng: Vì
sợ có đông người hay sợ người có oai đức nên đối cảnh ấy không dám  làm
như Sư tử hống để lợi ích chánh pháp.

[4] Tám giải  thoát: 1- Tưởng nội sắc  thân mà quán ngoại sắc giải  thoát. 2-
Tưởng nội vô sắc thân mà quán ngoại sắc giải thoát. 3- Tịnh giải thoát thân
tác chứng cụ  túc  trú giải  thoát. 4- Không vô biện xứ giải  thoát. 5- Thức vô
biên xứ giải thoát. 6- Vô sở hữu xứ giải thoát. 7- Phi tưởng, phi phi tưởng xứ
giải thoát. 8- Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trú giải thoát.
 [5] Bốn  hoằng  thệ:  1- Chúng  sanh  không  số  lượng,  thệ  nguyện  độ  hết.  2-
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch. 3- Pháp môn không kể
xiết, thệ nguyện đều tu học. 4- Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện đều viên
thành.

[6] Bảy trái me: Có người nghi bảy trái me không đáng gì, mà đọa địa ngục
nên không tin. Họ không biết bảy trái me hay bảy  lượng vàng cũng do một
tâm  ăn  trộm. Me, vàng khác  nhưng  cái  tâm  ăn  trộm  chỉ một, nên  tâm  làm
chủ động si ám nên đọa địa ngục là chỗ tối tăm.

[7] Tiểu kiếp Người sống  từ  tám vạn  tuổi, cứ 100 năm giảm xuống 1  tuổi,
giảm xuống đến 10 tuổi, rồi cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, tăng đến 8 vạn tuổi.
Một  lần  tăng, một  lần giảm như vậy gọi  là một  tiểu kiếp. 20  lần  tăng giảm
như vậy gọi là một trung kiếp. Bốn trung kiếp hay 80 lần tăng giảm của một
vòng thành, trụ, hoại và không thỉ gọi là một đại kiếp.

[8] Đại kiếp Bằng 80 tiểu kiếp bằng 4 trung kiếp; (1 trung kiếp bằng 20 tiểu
kiếp. Đại kiếp bằng một vòng thành, trụ, hoại và không.

[9] Các căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.

[10] Do  tuần: (Yojma)  theo kinh chép mỗi do  tuần có 16 dặm, mỗi dặm có
576  thước  tây. Như  thế mỡi  do  tuần  hơn  chín  cây  số, đây  là  tiểu do  tuần,
trung  do  tuần  40  dặm.  1  đại  do  tuần  60  dặm.  (Xem  kinh  Tâm Địa Quán,
trang 134 của Đại đức Tâm Châu dịch).

--- o0o ---
QUYỂN THỨ NĂM
 
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hiểu rõ tất cả chúng sanh
đều có oán thù với nhau.

Vì sao mà biềt?

Vì không có oán thù thì không có ác đạo. Nay ác đạo không dứt, ba đường
còn mãi, nên biết oán thù không bao giờ cùng tận . 
Kinh dạy rằng:

“Hết thảy chúng sanh đều có tâm. Vì có tâm nên đều được làm Phật”.

Nhưng chúng sanh tâm tưởng điên đảo, tham đắm thế gian, không biết lối ra,
cứ vun trồng gốc khổ não, bồi đắp cội oán thù. Sở dĩ phải luân hồi ba cõi qua
lại sáu đường, xả thân lại thọ thân không bao giờ cùng tận.

Vì sao vậy?

Vì vậy hết thảy chúng sanh từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, mê muội mãi
mãi,  vô minh che  lấp,  nước  ái nhận  chìm, nên khởi  ra ba độc  căn, khởi  ra
bốn điên  đảo. Từ ba  độc  căn  ấy  sanh  ra mười phiền  não  ([1]). Y  nơi  thân
kiến khởi ra ngũ kiến ([2]). Y nơi ngũ kiến khởi ra sáu mươi hai kiến ([3]).
Y nơi  thân, khẩu, ý khởi ra mười hạnh ác. Thân, sát, đạo, dâm miệng vọng
ngôn, ỷ ngữ lưỡng thiệt, ác khẩu, ý tham, sân, si.

Tự mình  làm mười điều ác, dạy người  làm mười điều ác, khen ngợi người
làm mười điều ác. Như vậy, y nơi thân, khẩu, ý khởi ra bốn chục điều ác.

Lại y nơi sáu căn tham đắm sáu trần hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn
bốn ngàn  trần  lao xâm nhập. Trong khoảng một niệm khởi  ra sáu mươi hai
kiến chấp. Trong khoảng một niệm  tạo đủ bốn chục điều ác. Trong khoảng
một niệm mở cửa cho  tám vạn bốn ngàn  trần  lao, huống nữa  trong khoảng
một ngày thì khởi ra biết bao tội ác; huống nữa trong khoảng một tháng khởi
ta  biết  bao  tội  ác;  huống  nữa một  năm  khởi  ra  biết  bao  tội  ác;  huống  nữa
chung thân lịch kiếp khởi ra biết bao tội ác.

Tội ác như vậy, vô lượng vô biên oán thù theo nhau không bao giờ cùng tận.

Nhưng chúng sanh đồng sanh với ngu si, vô minh che lấp trí huệ, phiền não
che lấp tâm tánh, chúng sanh không tự hiểu biết.

Tư  tưởng  điên  đảo  không  tin  lời  kinh,  không  tin  lời  Phật,  không  biết  giải
oan, không tông giải thoát.

Chúng  sanh  tự  reo mình  vào  đường  ác,  như  phủ  du  tự  reo mình  vào  đèn
sáng, nhiều kiếp mê muội, chịu vô lượng khổ.
 Giả sử nghiệp báo hết rồi, được trở lại làm người, thì người ác như thế, trọn
không  cải  cách,  nên Thánh  nhân phải  sanh  tâm  thương  sót. Như vậy  cũng
chỉ vì chúng sanh có oán thù với nhau mà ra.

Chúng con nay đã phát  tâm Bồ đề,  tu Bồ  tát đạo  thấy Bồ  tát Ma ha  tát,  lấy
việc cứu khổ làm tư lương, lấy việc giải oan kết làm yếu hạnh. Bồ tát không
xả bỏ chúng sanh mà lấy việc cứu khổ, chịu khổ thế cho chúng sanh làm nền
tảng.

Chúng con ngày nay cũng phải như vậy; phải khởi tâm dõng mãnh, khởi tâm
từ bi,  tâm đồng  như  tâm Phật,  nương  nhờ Phật  lực, dựng phan Đạo  tràng,
đánh trống cam lồ, cầm cung trí huệ, nắm tên kiên cố, nguyện vì hết thảy tứ
sanh lục đạo oán thù ba đời, cha mẹ, sư trưởng, lục thân quyến thuộc mà cởi
mở oán thù.

Những oán thù đã kiết đều xả bỏ, những oán thù chưa kiết, rốt ráo không kết
nữa.

Nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, dùng từ bi lực, dùng bổn nguyện lực, dùng
thần  thông  lực,  đồng  gia  tâm  che  chở,  chiết  phục,  nhiếp  thọ,  làm  cho  vô
lượng oán thù ba đời từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi mở sạch hết,
không còn kết oán thù trở lại, hết thảy khổ não hoàn toàn đoạn trừ.

Cùng nhau chí tâm, một  lòng tha thiết, đầu  thành đảnh  lễ Tam bảo, nguyện
xin  thế cho hết  thảy chúng sanh  trong bốn  loài sáu đường; oán  thù ba đời;
nguyện  xin  thế  cho  cha mẹ,  sư  trưởng  và  hết  thảy bà  con quyến  thuộc mà
quy y Thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Ý Phật

Nam mô Ly Cấu Phật

Nam mô Nguyệt Tướng Phật

Nam mô Đại Danh Phật
 Nam mô Châu Kế Phật  

Nam mô Oai Mãnh Phật

Nam mô Sư Tử Bộ Phật

Nam mô Đức Thọ Phật

Nam mô Hoan Thích Phật

Nam mô Huệ Tụ Phật

Nam mô An Trú Phật

Nam mô Hữu Ý Phật

Nam mô Ương Già Đà Phật

Nam mô Vô Lượng Ý Phật

Nam mô Diệu Sắc Phật

Nam mô Đa Trí Phật

Nam mô Quang Minh Phật

Nam mô Kiên Giới Phật

Nam mô Cát Tường Phật

Nam mô Bảo Tướng Phật

Nam mô Liên Hoa Phật

Nam mô Na La Diên Phật

Nam mô An Lạc Phật

Nam mô Trí Tích Phật
 Nam mô Đức Kỉnh Phật

Nam mô Kiên Dõng tinh tấn Bồ tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Tất cả oán thù như vậy nay ở trong lục đạo, những người đã chịu trả oán rồi,
nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy
điều được giải thoát. Hoặc có chúng sanh nào ở trong  lục đạo đang chịu trả
oán, hoặc chưa chịu trả oán, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh
lực,  khiến  các  chúng  sanh  ấy  hoàn  toàn  không  trở  lại  trong  các  đường  ác
nữa, hoàn toàn không có ác tâm đến với nhau nữa, hoàn toàn không làm độc
hại khổ sở nhau nữa; tất cả đều xả bỏ, không còn phân biệt oán thân nữa. Tất
cả  tội  lỗi đều được  tiêu  trừ. Tất cả oán  thù đều được giải  thoát, cùng nhau
đồng tâm, hoà hiệp như nước với sữa, tất cả đều được hoan hỷ như ở Sơ địa
([4]). Thọ mạng vô cùng, thân tâm an lạc mãi, tùy ý sanh lên Thiên cung hay
vãng sanh về Tịnh độ. Tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, không còn nghe
tiếng oán thù đấu tranh nữa.

Thân  không  bị  sự  biến  diệt  xâm  lăng,  tâm  không  bị  ngoại  trần  mê  hoặc
nhiễm  trước. Điều  lành  tranh  nhau  nhóm  họp. điều  ác  tranh  nhau  tiêu  tan;
phát tâm Đại thừa tu đạo Bồ tát. Tứ đẳng lục độ đầy đủ, xả bỏ quả báo sanh
tử, đồng đăng Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng biết cái gì  là nguồn gốc
của oán thù đau khổ?

Chính vì mắt  tham sắc,  tai  tham  tiếng, mũi  tham hương,  lưỡi  tham vị,  thân
tham xúc  tế nhị, nên chúng sanh  thường bị năm ngoại trần ràng buộc nhiều
kiếp ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát.

Lại nữa sáu giòng bà con,  tất cả quyến  thuộc đều  là nguồn gốc oán  thù ba
đời của chúng ta vậy.
 Tất cả oán  thù đều do  nhân khởi  ra. Nếu không  có  thân  thì không  có oán.
Vậy ly thân tức là ly được oán.

Vì cớ gì vậy?

Mỗi người ở một xứ, xa cách tha hương, như thế thì trọn không thể sanh tâm
oán hận. Tâm oán hận sanh ra được đều do thân cận với nhau.

Vì  gốc  ba  độc  tham,  sân,  si  nên  xúc  não  nhau;  vì  xúc  não  nhau  nên  phần
nhiều hay sanh tâm oán hận.

Sở dĩ bà con thân thích hay trách lẫn nhau. Hoặc cha mẹ trách con, hoặc con
trách cha mẹ; anh em chị em hết  thảy đều hay  trách  lẫn nhau, và hiềm hận
lẫn nhau.

Có chút gì không bằng lòng liền sanh tâm giận dữ.

Nếu giàu sang phú quý thì nhìn bà con, đua nhau đến xin; khi nghèo thiếu thì
không ai để ý.

Lại  nữa  càng  xin  càng  lấy  làm  thiếu;  càng  được  càng  lấy  làm  không  đủ.
Trăm lần xin, trăm lần được cũng không lấy làm ơn, hơi không vừa lòng trở
lại giận hờn. Từ đó đã bắt đầu  lòng ôm ác niệm, nghĩ tìm cách cố ý kết thù
liên họa, đời đời không thôi.

Suy ra mà biết, oán thù ba đời, thật không ai xa lạ, đều là bà con thân thích,
quyến thuộc chúng ta cả.

Vậy nên biết, quyến  thuộc  là nhóm oan gia, chúng  ta không  thể không hết
lòng ân cần sám hối, chí tâm đầu thành đảnh  lễ Tam bảo. Nguyện vì tử khi
có thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp ở
trong sáu đường, đã kết oán thù cùng nhau, hoặc là oán thù hay không phải
là oán  thù,  hoặc khinh  hoặc  trọng,  hôm  nay  hoặc ở  trong đường  địa  ngục,
đường ngã quỉ, đường súc sanh, đường a tu la, hay ở trong nhân đạo; hoặc ở
trên các cõi Trời, hoặc ở trong các loài Tiên hay ở trong vòng bà con quyến
thuộc  của  chúng  ta;  như  thế  những  người oán  thù  và quyến  thuộc  của  các
người ấy  trong ba đời, ngày nay chúng con  tên  .  .  . xin đem  tâm  từ bi,  tâm
không phân biệt oán  thân,  tâm như  tâm Phật, nguyện như nguyện Phật, xin
thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
 Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Đức Phật

Nam mô Bảo Tích Phật

Nam mô Hoa Thiên Phật

Nam mô Thiện Tư Nghị Phật

Nam mô Pháp Tự Tại Phật

Nam mô Danh Văn Ý Phật

Nam mô Lạc Thuyết Tụ Phật

Nam mô Kim Cang Tướng Phật

Nam mô Cầu Lợi Ích Phật

Nam mô Du Hý Thần Thông Phật

Nam mô Ly Oán Phật

Nam mô Đa Thiên Phật

Nam mô Di Lâu Tướng Phật

Nam mô Chúng Minh Phật

Nam mô Bảo Tạng Phật

Nam mô Cực Cao Hạnh Phật

Nam mô Đề sa Phật

Nam mô Châu Giác Phật
 Nam mô Đức Tán Phật

Nam mô Nhật Nguyệt Minh Phật

Nam mô Nhật Minh Phật

Nam mô Tinh Tú Phật

Nam mô Sư Tử Tướng Phật

Nam mô Vi Lam Vương Phật

Nam mô Phước Tạng Phật

Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát

Nam mô Tịch Căn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  như  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo,
nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp  lực, Đại địa Bồ tát lực, hết thảy Hiền Thánh
lực, khiến cho cha mẹ, bà con chúng con ở trong sáu đường, nếu người nào
có oán thù và quyến thuộc các người ấy đều đồng thời vân tập đến Đạo tràng
nầy, cùng nhau sám hối tội đời trước, giải các oán thù đã kết. Nếu người nào
thân hình bị câu thúc, trở ngại không thể đến được, nguyện xin nhờ thần lực
của Tam bảo, thâu nhiếp tinh thần của các người ấy, khiến họ đến được Đạo
tràng, đem  lòng  từ bi  thọ  lãnh sự sám hối của chúng con ngày nay, nguyện
mong giải thoát hết thảy oán thù.

Đại chúng trong Đạo tràng đều nên tâm niệm nói lời nầy:

Chúng con tên . . .  từ vô thỉ, khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối
cha mẹ nhiều đời bà con nhiều kiếp, chú bác cô dì, quyến thuộc nội ngoại, vì
gốc ba độc ([5]) khởi ra mười nghiệp ác, hoặc vì không biết hoặc vì không
tin, hoặc vì không tu, bởi vô minh che lấp trí huệ nên sanh ra oán kết, đối với
cha mẹ, bà con cho đến cả trong lục đạo cũng có oán thù.
 Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì giận hờn, hoặc vì tham ái,
hoặc vì ngu si, do gốc ba độc mà tạo ra các tội. Tội ác như vậy, vô lượng vô
biên, hổ thẹn, sám hối, nguyện xin xả thí hết.

Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà
cửa, hoặc vì tiền của mà sanh ra nghiệp oán thù, đối với bà con, cha mẹ đem
tâm  sát  hại  đủ  điều. Những  tội  sát  ấy  không  thể  kẻ  xiết,  sanh  ra  oán  thù
không bao giờ hết. Ngày nay hổ  thẹn,  tỏ bày sám hối, nguyện xin cha mẹ,
sáu dòng bà con, hết  thảy quyến  thuộc, đem  lòng  từ bi cho chúng con sám
hối, xả bỏ  tất cả  tội  lỗi, không còn  tâm oán hận nữa. Cho đến  trộm cắp,  tà
dâm,  vọng  ngữ,  thập  ác,  ngũ  nghịch,  chúng  con  đều  có  làm  cả;  vì  vọng
tưởng điên  đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra hết thảy tội.

Những tội như vậy vô lượng vô biên, hoặc đối với cha mẹ mà khởi ra, hoặc
đối với anh em, chị em mà khởi ra, hoặc đối với cô gì, chú bác mà khởi ra,
từ khi có  thần  thức  trở  lại cho đến ngày nay, đối với  lục  thân quyến    thuộc
mà khởi ra oán thù.

Những tội như vậy vô lượng vô biên. Tội nhân khổ quả như thế phải trả báo,
chịu hành phạt, kiếp số  lâu mau, oán kiết nhiều  ít, chỉ có hết thảy chư Phật
chư Dại Bồ tát trong mười phương mới thấy hết, biết hết.

Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội  lượng nhiều  ít, oán thù bao
nhiêu, thời gian dài ngắn, đến đời vị lai mới thọ lãnh sự trả thù ấy; ngày nay
chúng con rất hổ thẹn, nghẹn ngào, đau khổ, tự trách tự hối, xin cải vãng tu
lai, không dám làm nữa.


Nguyện  xin  cha mẹ,  bà  con  quyến  thuộc,  tất  cả  thân  nhân,  đem  tâm  nhu
nhuyến,  tâm điều hòa,  tâm  lạc  thiện,  tâm hoa hỷ,  tâm phò hộ,  tâm như  tâm
Phật,  cho  chúng  con  xin  .  .  .    sám  hối;  xả  bỏ  tất  cả  tội  lỗi  cho  chúng  con
không tưởng đến oán thân nữa.

Lại nguyện xin cho cha mẹ bà con  tất cả quyến  thuộc nếu có bị ai oán  thù
trong  lục đạo, cũng nguyện xin tất cả chúng sanh trong  lục đạo đồng chung
xả bỏ oán thù.
 Hết thảy oán thù trong ba đời nhất thời sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày
thành Đạo, vĩng biệt tam đồ, tuyệt bốn ác thú; tất cả đều hòa hiệp như nước
và sữa,  tất cả đều không chướng ngại, như hư không  rộng  rãi, hằng  làm bà
con Phật pháp, quyến  thuộc Từ bi. Mọi người đều  tu  tập vô  lượng  trí huệ,
thành tựu tất cả công đức, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu Bồ
tát  đạo  không  biết  mỏi  mệt.  Tâm  đồng  như  tâm  Phật,  nguyện  đồng  như
nguyện Phật, được pháp tam mật ([6]) của chư Phật, đủ năm phần pháp thân,
cứu cánh vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã giải oán kết với cha mẹ
rồi thứ lại nên giải oán kết với Sư trưởng.

Từ bậc Đại thánh trở xuống, tâm thể chưa được hoàn toàn viên tịch, vô sanh
pháp nhẫn ([7]), còn bị ba tướng thiên diệt.

Ở  địa  vị  đẳng  giác  rồi,  Phật  còn  phương  tiện  dùng  lời  khổ  khắc,  để  cho
những chúng sanh ác độc nhân đó mà ngộ đạo. Bậc Minh Đức giáo hóa quần
sanh  còn  nhờ  lời  khổ  khắc  ấy,  huống  gì  phàm  phu,  cách  tuyệt  cảnh  thanh
tịnh, làm sao khỏi oán.

Nay thiện ác còn phức tạp, minh bạch chưa phân,  làm sao tránh khỏi sự sai
lầm của tam nghiệp, cho nên nghe lời này phải hổ thẹn.

Đối với ơn đức Sư  trưởng phải  tự  trách mình,  lòng nên hổ  thẹn, không nên
nghi ngờ mà sanh ác tâm.

Trong kinh Phật dạy: “Tuy xuất gia, nhưng chưa được giải  thoát, dầu xuất
gia cũng không nên tự phụ mình không có điều ác. Người tại gia cũng không
nên tự cho mình hoàn toàn không có điều thiện”.

Vả thối, không nên nói việc ấy nữa. Hãy nghe lời Phật dạy trong kinh:

Phật bảo Đại chúng: “Các ngươi nên  tưởng nhớ ơn Sư  trưởng. Cha mẹ  tuy
sanh thân nầy, nuôi dưỡng, dạy bảo, nhưng thể  làm cho thân nầy ra khỏi ba
đường ác. Lòng  từ của Sư  trưởng rất  lớn, khuyến dụ dẫn dắt kẻ sơ cơ, cho
được xuất gia, rồi truyền trao cho đại giới (giới Tỳ kheo). Đó tức là kẻ sơ cơ
đã hoài thi La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa đau khổ sanh  tử và được yên
vui Niết bàn. Sư  trưởng có ơn đức xuất  thế ấy, ai hay báo đáp? Nếu người
nào chung thân hành đạo, đó chỉ là tự lợi, chớ chưa phải báo đáp ơn thầy”.
 Phật dạy: “Bạn lành trong thiên hạ không ai bằng Sư trưởng”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy ơn đức Sư
trưởng nặng như thế, nhưng chúng con chưa từng khi nào phát tâm nghĩ đến.
Trái  lại, có khi Sư  trưởng dạy bảo còn không  tin, không  lãnh, cho đến khi
nói  lời thô tháo sanh  tâm phỉ báng ngang ngược thị phi,  làm suy đồi Chánh
pháp.

Những tội lỗi như thế làm sao thoát được Tam đồ. Khổ báo ấy không ai thay
thế! Đến lúc chết rồi, vui đi khổ đến; tinh thần thảm não, tâm ý hôn mê, tinh
thần  không  sáng  suốt,  năm  căn  tán  loạn,  muốn  đi  chân  không  thể  bước;
muốn ngồi thân thể yên; giả sử muốn nghe thuyết pháp tai không thể nghe;
muốn xem cảnh đẹp, mắt không thể thấy. Ngay  lúc bấy giờ muốn trở  lại sự
lễ sám hôm nay cũng không được; chỉ có những cảnh tượng rùng rợn hung
ác trong địa ngục hiện ra mà thôi.

Sở  dĩ  trong  kinh Phật  dạy:  “Người  ngu  si  tự  thị  không  tin  tội  phước,  hủy
báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong
Phật  pháp,  là  dòng  giống  địa  ngục,  tự  kết  oán  thù,  chịu  quả  đau  khổ  vô
cùng”.

Như Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm
lòng kiêu mạn, Hòa thượng dạy bảo không tin, không nghe, lại nói  thế nầy:
“Đại Hòa  thượng của    ta không có  trí huệ,  thường hay  tán  thán những việc
trống rỗng như hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy Ngài nữa”.

Người đệ  tử ấy,  từ ngày đó pháp nói phi  là phi pháp, phi pháp nói  là pháp.
Tuy  trì cấm giới không hủy phạm, nhưng vì hiểu  lầm  lời  thầy nên sau chết
rồi,  trong một nháy mắt,  liền đọa A  tỳ địa ngục,  tám mươi ức kiếp,  thường
chịu đại thống khổ.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy thế ấy,
mọi người há không sợ hãi sao?

Chỉ đối với Hòa  thượng sanh một  lời ác, còn đọa xuống A  tỳ địa ngục  tám
chục ức kiếp, huống nữa từ khi xuất gia trở lại cho đến ngày nay, tội lỗi đối
với Hòa thượng đã sanh ra ác nghiệp vô  lượng vô biên. Quyết định bỏ thân
nầy sẽ đồng  tội với người đệ  tử kia, sa xuống địa ngục, không còn nghi gì
nữa.
 Vì sao vậy? – Vì Hòa  thượng và A xà  lê  thường đem  tâm dạy bảo, nhưng
chúng con chưa từng đúng như pháp mà tu hành. Đối với các bậc Sư trưởng
phần nhiều chúng con hay sanh lòng trái nghịch, hoặc các Ngài cung cấp cho
mà không  tự biết chán biết đủ, hoặc  thầy giận đệ  tử, hoặc đệ  tử giận  thầy,
trong ba đời, sự hỷ nộ vô lượng. Những tội như vậy không thể kể xiết.

Trong kinh Phật dạy: “Sanh một lòng sân, oán thù vô lượng”.

Những oán thù ấy không những trong sáu dòng bà con, mà sư đồ, đệ tử cũng
hiềm hận lắm lắm.

Lại  còn  những  lúc đồng phòng  chung ở đối  với  các bậc  thượng  tọa,  trung
tọa, hạ  tọa, chúng con không  thâm  tín sự xuất gia  là pháp viễn  ly sanh  tử,
không biết nhẫn nhục  là hạnh an  lạc không biết bình đẳng  là đường vào Bồ
đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế, thầy trò đồng phòng chung
ở, vì kiết  sử phoền  não,  nghiệp  chướng  chưa  hết  nên  hay  trái  chống  nhau,
tâm phân biệt đôi nhiên  loạn khởi, nên  tranh cãi nhau, sở dĩ vì vậy mà đời
đời không hoà hiệp.

Lại nữa, người xuất gia, hoặc là đồng học nghiệp, hoặc là đồng sư chung học
trong những ngày ấy, thấy người thắng tấn, chúng liền đem lòng độc hại, sân
hận vì ganh tị mà không tự biết đó  là sức trí huệ đời trước, cho nên mới có
phước đức chúng con không có  thiện căn,  tâm hữu  lậu của chúng con hay
sanh cao hạ, hay ở đấu tranh, ít khi hòa hiệp, không thể nhường nhịn người
dày đức, chúng con bạc phước, bèn hiềm hận nhau, mình quấy, chỉ nói xấu
người, hoặc vì ba độc mà sàm báng nhau, không có tâm trung tín, không có
ý  cung kính, không khi  nào nghĩ  lại điều  trái  của  chúng  con. Cho đến  cao
tiếng lớn lời nói điều tho lỗ là điều Phật cấm; những điều Sư trưởng dạy bảo
cũng  không  tín. Ccá  bậc  thượng,  trung,  hạ  tọa,  ai  cũng  ôm  lòng  phẫn  hận
chúng con cả. Vì phẫn hận nên  lại thị phi nhau, thành ra trong ba đường ác
phần nhiều đều có oán thù.

Thị phi oán thù như thế đều do thầy trò đệ tử chúng con gây ra.

Trong lúc đồng học chung ở thượng trung hạ tòa khởi lên một niệm tâm sâm
hận, oán thù đã vô lượng.

Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Đời nay có ý giận nhau, ghen ghét nhau, tật đố
nhau một chút, đời sau các xấu ấy càng thêm kịch liệt, thành ra oán thù lớn,
huống nữa ác ý đã phát ra trọn đời thì nghiệp báo ấy kể sao cho xiết”. 
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng đều không  tự biết  trong
lục đạo đã gây thù kết oán với các bậc Sư trưởng thượng, trung, hạ tòa. Oán
thù ấy không có ngày cùng tận

Sự oán  thù này không có hình  tướng;  thời gian chịu khổ không có kỳ hạn,
không có kiếp số, không thể chịu được. Vậy nên Bồ tát ma ha tát xả tâm oán
thân, dùng tâm  từ bi, tâm bình đẳng mà thâu nhiếp tất cả chúng sanh. Ngày
nay Đại chúng đã cùng nhau phát Bồ đề  tâm, phát Bồ đề nguyện nên phải
tập  tu hạnh Bồ  tát  tứ vô  lượng  tâm,  lục ba  la mật,  tứ hoằng  thệ nguyện,  tứ
nhiếp pháp đó là sự tu hành căn bổn của chư Phật và Bồ tát đã làm. Như chư
Phật và Bồ tát đã làm chúng con ngày nay cũng tập làm, oán thân bình đẳng,
hết thảy không ngại nhau.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thế phải cứu hộ hết thảy chúng sanh,
khiến các chúng sanh đều được giải thoát.

Cùng nhau  tâm đầu  thành đảnh  lễ Tam bảo, chúng con nguyện vì hết  thảy
chúng  sanh, kể  từ khi có  thần  thức  trở  lại đây,  trải qua bao nhiêu đời xuất
gia,  đối  với  các  bậc Hòa  thượng, A  xà  lê, mà  có  oán  thù  đối  với  các  bậc
đồng đàn tôn chứng, mà có oán thù, đối với quyến thuộc đồng học, thượng,
trung, hạ  tòa, mà có oán  thù, hoặc đối với có duyên hay vô duyên với Phật
pháp mà có oán thù, rộng ra cho đến oán thù ba đời, trong  tứ sanh  lực đạo,
khắp  cùng mười phương,  hoặc  có oán  thù hay không phải oán  hoặc khinh
hoặc  trọng đối với quyến  thuộc của các người oán  thù ấy, đệ  tử chúng con
tên . . .  nếu có oán thủ với tất cả chúng sanh trong lục đạo đến đời vị lai hay
trong hiện  tại, chúng con chịu  trả quả báo, hôm nay chúng con nguyện xin
sám hối trừ diệt hết.

Nếu  thấy  tất  cả  chúng  sanh  trong  lục  đạo mỗi mỗi  đều  oán  thù  với  nhau,
ngày nay đệ tử chúng con tên . .  .  xin đem  lòng từ bi, không phân biệt oán
thân khắp vì oán thù ba đời mà cầu xin sám hối. Nguyện xin cho các chúng
sanh  ấy  xả  bỏ  oán  thù,  không  còn  nghĩ  đến  điều  ác  độc  để  hại  nhau  nữa,
không  còn  ôm  lòng  độc  ác  đến  với  nhau  nữa. Nguyện  xin  hết  thảy  chúng
sanh, trong lục đạo cũng đồng xả bỏ oan thù, hết thảy đều hoan hỷ với nhau.
Từ nay đã giải oán thù rồi, không còn sân hận nhau, mà cung kính nhau, tâm
nghĩ báo ơn nhau, như  tâm chư Phật, như nguyện chư Phật mọi người đều
nhất tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật 
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Kiến hữu Biên Phật

Nam mô Điện minh Phật

Nam mô Kim sơn Phật

Nam mô Sư tử Đức Phật

Nam mô Thắng tướng Phật

Nam mô Minh Tán Phật

Nam mô Kiên Tinh tấn Phật

Nam mô Cụ túc Tán Phật

Nam mô Ly úy Sư Phật

Nam mô Ứng Thiên Phật

Nam mô Đại Đăng Phật

Nam mô Thế Minh Phật

Nam mô Diệu Âm Phật

Nam mô Trì thượng Công đức Phật

Nam mô Ly Ám Phật

Nam mô Bảo tán Phật

Nam mô Sư tử Giáp Phật

Nam mô Diệt Quá Phật

Nam mô Trì Cam lồ Phật 
Nam mô Nhơn Nguyệt Phật

Nam mô Hỷ Kiến Phật

Nam mô Trang Nghiêm Phật

Nam mô Châu Minh Phật

    Nam mô Sơn Đảnh Phật

Nam mô Danh Tướng Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin nhờ Phật lực, Pháp lực, hết thảy Hiền Thánh lực khiến vô lượng oán thù
ba đời, hoặc oán thù hay không phải oán thù và hết thảy chúng sanh trong hư
không pháp giới đều phát tâm sám hối cởi mở oán kết; tất cả oán thù đều xả
bỏ, không còn phân biệt oán thân tất cả đều hòa hiệp như nước với sữa, tất
cả đều hoan hỷ như ở sơ địa,  tất cả đều vô ngại như hư không. Từ nay cho
đến ngày thành Phật hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, như chư
Bồ tát.

Lại nữa, chúng con xin nhờ công đức nhân duyên lễ bái sám hối hôm nay để
cởi mở oán kết. Nguyện xin chư vị Hòa  thượng các bậc A xà  lê đồng đàn
Tôn  chứng  các  vị  đồng  học  và  hết  thảy  quyến  thuộc  của  các  bậc  thượng,
trung hạ  tòa, có oán  thù cho đến các chúng sanh  trong bốn  loài sáu đường
mỗi mỗi đều có oán  thù ba đời, chưa được giải  thoát, ngày nay hoặc còn ở
trong  thiên đạo, ở  trong  tiên đạo  còn ở  trong A  tu  la đạo,  còn ở  trong địa
ngục, còn ở  trong ngã quỉ đạo, còn ở  trong súc sanh đạo, còn ở  trong nhơn
đạo hay còn ở  trong bà con quyến  thuộc, mười phương ba đời oán  thù như
vậy, hoặc oán  thù hay không oán  thù, mỗi người ấy và bà con quyến  thuộc
của các người ấy,  từ nay  trở đi cho đến ngày  thành Phật,  tất cả  tội chướng, nguyện đều  tiêu diệt,  tất cả oán  thù hoàn  toàn giải  thoát, kiết  tập phiền não
hằng được  thanh  tịnh,  tránh  xa bốn  ác  thú,  tự  tại  thọ  sanh, niệm  niệm  giải
thoát, tâm tâm tự tại, sáu ba  la mật đầy đủ trang nghiêm, hạnh nguyện  thập
địa,  hoàn  toàn  viên mãn,  được mười  trí  lực  ([8])  của  Phật,  thần  thông  vô
ngại, chứng quả Bồ đề thành bậc Chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đại tràng biết rõ trên đây đã và oán
thù ba đời mà giải oán thích kiết rồi. Từ nay  trở xuống, riêng từng cá nhơn
phải  tự  trong sạch, phải hết  lòng cùng nhau  tự xét: Vì sao mà không được
giải thoát?

Nghĩ về trước, không thấy được đức Phật đối diện thọ ký cho mình suy sau
cũng  không  nghe được một  pháp  âm  của Phật phô  diễn. Bởi  vì  tội  nghiệp
sâu dày, oán kiết kiên  cố  cho  nên không  những không  thấy được Phật đời
trước, Phật đời  sau,  các vị Bồ  tát và Hiền Thánh mà  còn  sợ  e không nghe
được âm thanh truyền hưởng vang dội của Tam Tạng kinh điển nữa là khác.
Xa cách Phật pháp thì ác đạo và thù oán không do đâu mà giải thoát. Bỏ thân
mạng nầy rồi chìm xuống biển khổ  luân chuyển ba đường  trải khắp ác  thú,
biết bao giờ trở lại được thân người?

Suy nghĩ như vậy mới thật là đau lòng, tâm tư như vậy mới thật là khổ trí.

Chúng con được hạnh phúc may mắn, mong nhờ thuần phong của Phật, nên
cái ái  từ  thân xả gia  ly  tục, không còn  tưởng nhớ gì nữa há  lại không  tranh
thủ  thời gian để cầu giải  thoát. Nếu ý  trí không kiên cường, quyết  liệt chịu
khổ, không còn  lo sợ, thoạt vậy thân  lâm  trọng bệnh thân  trung ấm hiện ra,
thì ngưu đầu, ngục  tốt,  la  sát, a bàng, hình  tướng dễ  sợ  thình  lình  tìm đến,
gió  phong  đao  xẻ  thân,  tinh  thần  sợ  hãi,  tán  loạn,  bà  con  khóc  lóc  cũng
không hay biết. Ngay  lúc bấy giờ sanh một niệm thiện  tâm, cầu  lễ sám như
ngày nay cũng không thể được, chỉ thấy vô lượng đau khổ trong ba đường ác
hiện ra.

Ngày nay Đại chúng đều phải nỗ lực tu tập cho kịp thời; nếu cứ tùy ý phóng
túng thì chí hướng thượng phải chậm trễ; cho nên phải cố gắng chịu khổ mà
dõng mãnh tiến lên.

Vì  thế  trong kinh có dạy: “Từ bi  là Đạo  tràng vì nhẫn nhục chịu khổ vậy”.
Phát tâm tu theo Đạo tràng nầy thì mọi việc đều xong xuôi”.
 Vậy nên biết  rằng:”Vạn  thiện được  trang nghiêm đều nhờ sự cố gắng nhẫn
nại; cũng như muốn qua bể cả, phải nương nhờ ghe thuyền. Nếu có tâm cầu
an vui mà không làm việc gây nhơn cầu vui thì không thể có kết quả an vui.
Lý và sự phải đi đôi với nhau. Người hết  lương  thực mà chỉ mơ  tưởng cao
lương mỹ vị  tưởng suông như vậy nào có  ích gì cho sự đói khát, cần phải
làm thế nào cho có cao lương mỹ vị thật sự mới được.

Vậy muốn  cầu  có  quả  tốt  đẹp  nhiệm mầu  quyết  phải  lý  và  sự  đồng  hành,
không thể thiếu một.

Đại chúng phải cùng nhau sanh tâm tăng thượng, phát ý hổ thẹn mà sám hối
diệt  tội giải các oán kiết. Trái  lại cứ mê mờ  theo  thói cũ  thì chưa biết ngày
nào  tỏ  ngộ. Nếu mọi  người  đều  giải  thoát mà  ta  còn  trầm  luân  thì  ăn  năn
không kịp.

Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh lễ quy y thế gian, Đại từ bi phụ.

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Định nghĩa Phật

Nam mô Thí nguyện Phật

Nam mô Bảo Chúng Phật

Nam mô Chúng Vương Phật

Nam mô Du Bộ Phật

Nam mô An ổn Phật

Nam mô Pháp Sai Biệt Phật

Nam mô Thượng Tôn Phật

Nam mô Cực Cao Đức Phật

Nam mô Thượng Sư Tử âm Phật 
Nam mô Lạc Hý Phật

Nam mô Long Minh Phật

Nam mô Hoa Sơn Phật

Nam mô Long Hỷ Phật

Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật

Nam mô Đại danh Phật

Nam mô Thiện Lực Phật

Nam mô Đức Man Phật

Nam mô Long Thủ Phật

Nam mô Thiện Hành Ý Phật

Nam mô Nhơn Trang Nghiêm Phật

Nam mô Trí Thắng Phật

Nam mô Vô Lượng Nguyệt Phật

Nam mô Thực Ngữ Phật

Nam mô Nhật minh Phật

Nam mô Dược Vương Bồ tát

Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
 Lại quy y như vậy mười phương  tận hư không giới hết  thảt Tam bảo đệ  tử
chúng con  tên . . .   tích tập tội chướng sâu dày hơn đại địa, bị vô minh che
lấp tâm tánh, trong đêm dài mù mịt, do ba độc mà tạo nhơn thù oán, nên mê
muội, chìm sâu trong ba cõi khong có ngày ra.

Ngày  nay  nhờ  sức  từ bi  của  chư Phật,  chư đại Bồ  tát mới mong  giác  ngộ,
sanh  tâm  hổ  thẹn  chí  thành  cầu  xin  tỏ bày  sám  hối. Nguyện  xin chư Phật,
chư đại Bồ tát dủ lòng  từ bi thâu nhiếp chúng con, đem sức đại trí huệ, sức
bất tư nghì, sức vô lượng tự tại, sức hàng phục tứ ma, sức diệt trừ phiền não,
sức giải oan, kiết, sức độ  thoát chúng sanh, sức an ổn chúng sanh, sức giải
thoát địa ngục, sức tế độ ngã quỉ, sức cứu vớt súc sanh, sức nhiếp hóa A tu
la,  sức  nhiếp  thọ  nhơn  đạo,  sức  tận  chư  Thiên  chư  Tiên  hữu  lậu,  sức  vô
lượng vô biên công đức vô lượng Vô tận trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến
các chúng sanh có oán thù trong bốn loài sáu đường, đồng đến Đạo tràng thọ
lãnh sự sám hối của chúng con hôm nay.

Chúng  con  tên  .  .  .    xả bỏ  tất  cả  sự  thù oán, không  còn  tư  tưởng oán  thù.
Những  nghiệp  oán  thù  đã  kết  đều  được  giải  thoát. Hằng  lìa  tám  nạn  khổ,
không còn bốn ác thú, thường gặp được chư Phật, nghe Pháp, ngộ Đạo, phát
tâm Bồ đề, tu nghiệp xuất thế. Tứ Vô  lượng tâm, sáu Ba  la mật hết  lòng tu
tập,  tất  cả  hạnh  nguyện  đều  được  viên mãn,  đồng  lên Thập  địa,  đồng  vào
Kim cang, đồng thành Chánh giác.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên nhận thấy rằng: Oán
thù  theo nhau đều do ba nghiệp  ([9]) đày đọa con người  tu hành phải chịu
khổ báo, khó chứng đạo quả.

Đã biết nguồn gốc đau khổ đều do ba nghiệp thì phải dõng mãnh diệt trừ ba
nghiệp. Điều kiện  thiết yếu dùng để diệt khổ, duy chỉ có phương pháp sám
hối. Cho nên trong kinh Phật khen ngợi rằng: “Ở đời chỉ có hai hạng người
mạnh nhất: Một là hạng người không tạo tội; hai là người tạo tội rồi mà biết
ăn năn, sám hối.

Ngày  nay Đại  chúng muốn  sám  hối,  thân  tâm đều phải  trong  sạch, y phục
chỉnh tề, sanh  lòng hổ  thẹn, buồn  thảm ảo não, sanh hai niệm  tâm thì tội gì
cũng diệt, phước gì cũng sanh.

Những gì là hai?
 Một  là biết hổ; hai  là biết  thẹn. Hổ  là xấu hổ với  trời. Thyẹn  là  thẹn  thùng
với người. Hổ là tự mình hay sám hối, diệt trừ các oán thù. Thẹn là hay dạy
bảo người cởi mở các sự trói buộc. Hổ là hay làm các điều thiện. Thẹn là hay
tùy hỷ các việc thiện của người. Hổ là tự xấu hổ trong tâm. Thẹn là phát lồ,
tỏ bày tội lỗi với người.

Nhờ hai pháp ấy mà người tu hành được pháp an vui vô ngại.

Ngày nay đã sanh tâm đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, nên phải hết lòng cầu
xin Tứ sanh Lục đạo. Vì sao vậy?

Vì trong kinh Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều là bà con quyến thuộc
với  nhau, hoặc đã  từng  làm  cha mẹ, hoặc đã  từng  làm Sư  trưởng,  cho đến
hoặc đã từng làm anh em chị em với nhau. Hết thảy chúng sanh đều như thế.
Bởi vô minh che lấp chơn tánh nên không biết nhau. Vì không biết nên hay
sanh ra xúc não và oán thù nhau mãi mãi.

Ngày nay Đại chúng đã hiểu biết ý ấy, nên phải hết lòng thành khẩn tha thiết
dụng tâm, quyết khiến một niệm tâm cảm mười phương Phật, một  lạy đoạn
trừ vô lượng oán thù.

Đại chúng đầu thành đạnh lễ quy y Thế gian đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Định Ý Phật

Nam mô Vô Lượng Hình Phật

Nam mô Minh Chiếu Phật

Nam mô Bảo Tướng Phật

Nam mô Đoạn Nghi Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Bất Hư Bộ Phật 
Nam mô Giác Ngộ Phật

Nam mô Hoa Tướng Phật

Nam mô Sơn Chủ Vương Phật

Nam mô Đại Oai Đức Phật

Nam mô Biến Kiến Phật

Nam mô Vô Lượng Danh Phật

Nam mô Bảo Thiên Phật

Nam mô Trú Nghĩa Phật

Nam mô Mãn Ý Phật

Nam mô Thượng Tán Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

    Nam mô Vô Cầu Phật

Nam mô Phạm Thiên Phật

Nam mô Hoa Minh Phật

Nam mô Thân Sai Biệt Phật

Nam mô Pháp Minh Phật

Nam mô Tận Kiến Phật

Nam mô Đức Tịnh Phật

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát

Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát 
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.

Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ chúng con.

Chúng con tên . . .  cầu xin: Những điều sám hối đều được diệt trừ, đều được
thanh tịnh.

Lại nguyện xin cho những người đồng sám hối hôm nay  từ nay  trở đi cho
đến ngày thành Phật, tất cả oán thù đều được giải thoát, tất cả thống khổ đều
được tiêu diệt hoàn toàn; kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh. Xa lìa bốn
ác thú, tự tại thọ sanh đích thân hầu hạ chư Phật, được Phật thọ ký lục độ, tứ
đẳng, nhất thời đồng tu, đủ bốn biện tài, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm
thân, thần thông vô ngại, vào Kim cang tâm. thành bậc Chánh giác. 

                                                                      

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ NĂM

---HẾT---

[1]  10  phiền  não: Tức  là  10  sử: Tham,  sân,  si, mạn,  nghi:  thân  kiến,  biên
kiên, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.

[2] Ngũ kiến: 1- Thân kiến:  lầm chấp  thân nầy  thật có. 2.- Biên kiến: chấp
rhân nầy hoặc chết  là hết hoặc chết  là còn mãi mãi không  luân hồi. 3.- Tà
kiến: không  tin  nhơn quả, không  tin  luân  hồi  hủy báng Tam bảo. 4.- Kiến
thủ: không chịu bỏ ý kiến cũ mặc dầu biết là sai lầm. 5.- Giới cấm thủ: theo
các giới cấm ngoại đạo.

[3] 62 kiến: Đối với năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ngoại đạo khởi ra
bốn món chấp: 1- Chấp  sắc  lớn ngã nhỏ, ngã ở  trong sắc. 2- Chấp ngã  lớn
sắc nhỏ, sắc ở trong ngã. 3- Chấp ngã ở ngoài sắc, riêng tự tại. 4- Chấp ngã
tức là sắc. 
Sắc ấm có 4 chấp. Năm ấm có 20 chấp. Chấp suốt ba đời: quá khứ, hiện tại,
vị  lai  nhân  thành  60  chấp,  thêm  vào  2  món  chấp  đoạn,  chấp  thường  nữa
thành ra 62 chấp.

[4] Sơ địa: gọi  là Hoan hỷ địa, địa  thứ nhất  trong hàng  thập địa quả vị của
Bồ tát.

   Địa này rất vui, vì phát tâm từ bi tu hạnh hỷ xả, nên cảm quả báo ở địa này
thật là vui.

[5] Ba độc: Tham, sân, si.

[6] Tam mật: Thân mật, khẩu mật,  và  ý mật. Phật  lấy  tất  cả  cảnh  sắc  làm
thân,  tất  cả  âm  thanh  làm  khẩu,  tất  cả  lý  tưởng  làm  ý,  và  ba  điều  ấy  biến
khắp pháp giới, chỉ riêng Phật đã chứng được nên gọi là Phật.

[7] Vô  sanh  pháp  nhẫn: Nói  tắt  là  vô  sanh  nhẫn:  là  cái  lý  thể  thật  tướng,
chơn  như bất  động. Bồ  tát  từ  sơ  địa  đến  bát  địa mới  chứng  được  vô  sanh
nhẫn, gọi a bệ bạt trí, địa vị bất thối chuyển.

[8] 10 Trí lực của Phật:

1-  Trí lực biết chỗ đúng đạo lý hay không đúng đạo lý của sự vật.

2-  Trí lực biết nhơn quả nghiệp báo ba đời của chúng sanh.

3-  Trí lực biết các môn thiền định giải thoát tam muội.

4-  Trí lực biết các căn thắng (hơn) liệt (kém) của chúng sanh.

5-  Trí lực biết được sức hiểu biết sai khác của chúng sanh.

6-  Trí lực biết mọi cảnh giới sai khác của chúng sanh.

7-  Trí lực biết được chỗ sẽ đến của mọi đường chúng sanh.

8-  Trí lực biết dùng thiên nhãn không chướng ngại.

9-  Trí lực biết được túc mạng vô lậu. 
10-Trí lực biết dứt hẳn tập khí.

[9]  Ba nghiệp: Hành động củ thân khẩu ý

--- o0o ---

QUYỂN THỨ SÁU
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT

( Tiếp theo)

 
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước hết là hướng về nơi
tứ sanh lục đạo mà sám hối ác nghiệp của thân.

Kinh dạy rằng:

“Có thân thời có khổ không thân thời không khổ”.

Thế thì thân nầy là nguồn gốc của khổ.

Những ác báo khốc  liệt  trong ba đường đều do  thân mà có. Chứ chưa  thấy
việc gì người làm mình chịu, hay mình làm người chịu. Mình làm mình chịu.
Mình gây nhơn mình tự chịu quả.

Nếu tạo thành một nghiệp, tội đã không bờ bến, huống nữa chung thân  làm
ác, tội biết bao nhiêu?

Nay  ta chỉ biết có thân  ta, không biết có thân người, chỉ biết có  thân ta đau
khổ, không biết có người đau khổ.

Chỉ biết có ta cầu an vui; không biết người cũng cầu an vui.

Vì ngu si nên chúng ta sanh tâm bỉ ngã, sanh tưởng oán thân, nên có oán thù
cùng khắp lục đạo.
 Nếu không giải oán kiết  thì biết  lúc nào  ra khỏi  lục đạo; cứ ở mãi  trong ấy
kiếp nầy sang kiếp khác, há không đau lòng sao?

Hôm nay Đại chúng khởi  tâm dõng mãnh sanh đại hổ  thẹn,  làm  lễ đại sám
hối, quyết lòng khiến một niệm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ vô
lượng oán kiết. Đồng nhau một lòng tha thiết đảnh lễ quy y. Thế gian Đại từ
bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Nguyệt Diện Phật

Nam mô Bảo Đăng Phật

Nam mô Bảo Tướng Phật

Nam mô Thượng Danh Phật

Nam mô Tác Danh Phật

Nam mô Vô Lượng Âm Phật

Nam mô Vi Lam Phật

Nam mô Sư Tử Thân Phật

Nam mô Minh Ý Phật

Nam mô Vô Năng Thắng Phật

Nam mô Công Đức Phẩm Phật

Nam mô Nguyệt Tướng Phật

Nam mô Đắc Thế Phật

Nam mô Vô Biên Hạnh Phật
 Nam mô Khai Hoa Phật

Nam mô Tịnh Cấu Phật

Nam mô Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật

Nam mô Dõng Lực Phật

Nam mô Phú Túc Phật

Nam mô Phước Đức Phật

Nam mô Tùy Thời Phật

Nam mô Quảng Ý Phật

Nam mô Công Đức Kỉnh Phật

Nam mô Thiện Tịch Diệt Phật

Nam mô Tài Thiên Phật

Nam mô Khánh Âm Phật

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin nhờ Phật  lực, Pháp  lực, Bồ  tát  lực và hết  thảy Hiền Thánh  lực
khiến tất cả chúng sanh có oán thù trong tứ sanh lục đạo đồng đến đạo tràng.
Mọi người trong Đại chúng đều sám tạ, tâm niệm miệng nói lời như thế nầy:

Chúng con tên . . .  từ vô thỉ vô minh trú địa (1) trở lại cho đến ngày nay, do
vì nhân duyên ác nghiệp của  thân, hoặc đối với các cõi  trời, cõi người mà gây  thù kết oán, hoặc đối với  loài a  tu  la  loài địa ngục mà gây  thù kết oán;
nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, và hết thảy Hiền Thánh lực, khiến
các chúng sanh có tâm oán hận ba đời, ở trong tứ sanh lục đạo, hoặc có oán
thù hay không phải oán thù hoặc khinh hoặc trọng, nhờ sự sám hối hôm nay
mà  tội  lỗi đều  tiêu diệt,  thân  tâm được  thanh  tịnh, không còn chịu đau khổ
trong ba cõi. Sanh ra nơi nào cũng thường gặp được chư Phật.

Lại nữa, những người hiện đồng sám hối hôm nay,  từ vô  thỉ sanh  tử  trở  lại
cho đến ngày nay vì nhơn duyên ác nghiệp của thân mà gây oán kết thù với
hết  thảy chúng sanh  trong ác đạo; hoặc do vì sân hận, hoặc do vì  tham ái,
hoặc do vì ngu si,  từ ba độc căn (2) ấy mà sanh ra mười ác nghiệp: ưa giết
hại cầm thú, đoạn mạng trâu dê v.v... hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà cửa,
hoặc vì  tiền  tài,  trở  lại giết hại  lẫn nhau. Lại nữa,  từ vô  thỉ  trở  lại cho đến
ngày  nay,  hoặc  vì  lợi  dưỡng  mà  giết  lầm  chúng  sanh,  hoặc  giả  làm  thầy
thuốc châm chích bách tánh, những tội như vậy, oán thù vô lượng; ngày nay
sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại  nữa,  từ  vô  thỉ  cho  đến  ngày  nay,  hoặc  làm  chúng  sanh  đói  khát,  hoặc
giựt  lương  thực của  người, hoặc bức ép  chúng  sanh  uống mặn, nuốt đắng,
hoặc đoạn nước uống của người; bao nhiêu nghiệp ác như vậy, sanh ra oán
thù, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, xa lìa minh sư thân cận bạn ác, do
thân ba nghiệp tạo bao nhiêu tội, buông  lòng giết hại người vô tội cách yểu
uổng;  hoặc phá  triệt  ao  hồ, bít  lấp  ngòi  rãnh,  não  hại  các  loài  lớn bé dưới
nước, hoặc thiêu đốt núi rừng, hoặc bủa giăng chải  lưới sát hại tất cả chúng
sanh  dưới  nước.  Oán  thù  như  vậy  vô  lượng  vô  biên  ngày  nay  sám  hối
nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ cho đến ngày nay, tâm không từ bi, hạnh không bình đẳng,
vặn căn bẻ móc, vào già ra non, (đong đầy gạt  lưng) xâm  lấn người hèn hạ,
hoặc phá hoại làng xóm của người, dành giựt cướp đoạt, cắp trộm của người
để cung cấp  cho mình, thiếu lòng thành tín, sát hại lẫn nhau. Những oán thù
như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay tâm không từ bi, hạnh không từ bi,
đối với chúng sanh trong sáu đường làm đủ mọi điều khổ sở, hoặc đánh đập
bà con, không kể đạo  tình quyến  thuộc, hoặc  trói buộc giam cầm ngục  tối,
hoặc  tra khảo ngửa nghiêng, đâm bắn  thương  tích, hủy hoại  thân  thể, chém
chặt tàn hại, lột da xẻ thịt, nấu nướng chiên xào. 
Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.

Lại nữa từ vô thỉ  trở  lại cho đến ngày nay do ba ác nghiệp của thân, bốn ác
nghiệp  của miệng,  ba  ác  nghiệp  của  ý,  tạo  ra  những  tội  tứ  trọng  (3)  ngũ
nghịch, bao nhiêu điều ác đều làm hết.

Tự  ỷ mình  tuổi  cao mạng  lớn,  không  sợ  quỉ  thần,  chỉ  sợ mình  không  hơn
người, sợ người hơn mình, hoặc ỷ thế cao dòng lớn họ mà khinh người ngạo
vật,  gây  ra  oán  thù  như  vậy,  hoặc  ỷ mình  nghe  nhiều  hiểu  rộng mà  khinh
người  ngạo  vật,  gây  ra  oán  thù  như  vậy,  hoặc  vì  văn  chương  kỹ  nghệ mà
khinh người ngạo vật, gây ra oán  thù như vậy, hoặc vì khoe giàu, xa xỉ mà
khinh  người  ngạo  vật,  gây  ra oán  thù  như vậy,  hoặc  vì ăn  nói  sắc  xảo mà
khinh người ngạo vật gây ra oán thù như vậy.

Những  oán  thù  ấy  hoặc  đối  bên  hình  tượng  Phật  Thánh,  không  tâm  cung
kính mà sanh ra, hoặc đối với Hòa thượng, A xà lê mà sanh ra, hoặc đối với
các  bậc Thượng  tọa, Trung  tọa, Hạ  tọa  chung ở  với  nhau mà  sanh  ra;  với
quyến thuộc của những người đồng tu học mả sanh ra, hoặc đối với cha mẹ
bà con thân thích mà sanh ra.

Những oán thù như vậy, vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.

Lại  nữa  từ  vô  thỉ  đến  ngày  nay,  hoặc  đối  với  các  loài  trời,  loài  người mà
sanh thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la, loài địa ngục mà sanh thù kết oán,
hoặc đối với các loài súc sanh, loài ngã quỉ mà sanh thù kết oán, rộng ra cho
đến đối với hết thảy các loài chúng sanh trong mười phương mà gây thù kết
oán.

Những tội ác ấy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa, chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì tật đố,
hoặc  vì  siểm  khúc  để  cầu  cho mình  hơn  người,  hoặc  vì  danh  dự,  hoặc  vì
quyền lợi mà theo ngoại đạo tà kiến không biết hổ thẹn, gây thù kết oán như
vậy,  hoặc  nặng  hoặc  nhẹ,  tội  nhơn  khổ  quả,  số  lượng  nhiều  ít,  chỉ  có  chư
Phật, chư đại Bồ tát mới thấy hết biết hết.
 Nguyện xin chư Phật Đại Bồ tát dủ  lòng thương xót chúng con. Như chúng
con  từ vô  thỉ  trở  lại đây đã  tạo  ra bao nhiêu  tội  lỗi, koặc  tự  làm, hoặc dạy
người làm, hoặc thấy người làm sanh tâm tùy hỷ; hoặc chúng con tự lấy của
Tam bảo, hoặc dạy người lấy của Tam bảo, hoặc thấy người lấy mà sanh tâm
tùy hỷ, hoặc có che dấu hoặc không che dấu, các  tội nói  trên, như chỗ chư
Phật, chư đại Bồ  tát đã  thấy, đã biết,  tội  lượng nhiều  ít, đáng đọa địa ngục,
ngã quỉ, súc sanh, sa vảo các đường ác, biên địa hà tiện để chia các oán thù,
ngày nay chúng con sám hối nguyện xin trừ diệt hết.

Thần  lực của chư Phật không  thể nghĩ bàn, xin Phật dủ  lòng  từ bi cứu vớt
hết thảy chúng sanh.

Chúng  con  tên  .  .  .   nay  hướng  về  tứ  sanh  lục đạo,  cha mẹ, Sư  trưởng  hết
thảy bà con quyến thuộc mà sám hối tội đã làm cởi mở oán thù. Nguyện xin
Tam bảo khiến hết thảy chúng sanh trong lục đạo, có tâm oán thù chúng con,
đều hoan hỷ xả bỏ tất cả oán thù, không còn sanh tâm phân biệt oán thân, đối
với nhau đều vô ngại như hư không.

Nguyện xin từ nay cho đến ngày thành Phật đoạn trừ hết kiết tập phiền não .
. .

Ba nghiệp thanh tịnh không còn oán hận, tùy ý sanh lên thiên cung bảo điện,
tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường hay tu hành, trăm phước nghiêm thân,
vạn thiện đầy đủ, an trú vào nơi đại định Thủ Lăng Nghiêm, chứng thân kim
cang.  Trong  khoảng một  niệm,  hiện  thân  khắp  sáu  đường,  tế  độ  hết  thảy
chúng sanh đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã sám hối được thân tội,
thì thân nghiệp được thanh tịnh. Còn  lỗi của khẩu nghiệp nay phải sám hối.
Khẩu nghiệp là cái họa môn của hết thảy oán thù. Cho nên các đức Phật đều
dạy không được nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt. Nên biết
lời nói dua nịnh quanh co, hoa mỵ hay đem lại thị phi tai họa không phải là
ít, mắc phải quả báo rất nặng.

Than ôi! người đời, tâm ôm lòng ác độc, miệng nói lời ác độc, do ba điều ấy
mà  hại chúng  sanh,  chúng  sanh  bị độc  hại  liền kết oán  hận,  thề quyết báo
thù, hoặc đời nầy toại nguyện, hoặc chết rồi mang theo. Chúng sanh kết oán
như vậy khắp cả lục đạo để báo thù nhau, không bao giờ cùng tận.
 Báo thù nhau như vậy đều do túc nghiệp đời trước đã gây ra, chớ không phải
vô cớ, không có nguyên nhơn.

Thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp. Những nghiệp ấy mới thật là nguồn gốc
của tội ác.

Người tại gia không trung hiếu chết vào núi Thái sơn, chịu sự thảm khốc của
lửa nóng nước  sôi. Người xuất gia không vì Phật pháp sau sẽ sanh về chỗ
của người ác thường ở để chịu oán thù. Oán thù theo nhau như thế đều do ba
nghiệp.

Trong  ba  nghiệp  ấy  khẩu  nghiệp  nặng  nhất,  cho  nên  phải mắc  đủ  thứ quả
báo đau khổ, trong đêm dài mù mịt mà không hay không biết.

Ngày nay Đại chúng  trong đồng nghiệp  trong Đạo  tràng biết  rằng chúng  ta
sở dĩ  luân hồi mãi  trong  lục đạo đều do khẩu nghiệp, hoặc buông  lời khinh
khi thô tháo, miệng nói sắc xảo biện bác xảo lanh, nói lời phủ phiếm, dối trá
quỉ quyệt, lời nói không đi đôi với việc làm, nên mắc phải ác báo nhiều kiếp
không thôi.

Vậy Đại chúng đâu có thể không sợ hãi, không hết lòng sám hối, không tẩy
trừ tội lỗi ấy đi.

Chúng  con  từ  khi  có  thần  thức  trở  lại  cho  đến  ngày  nay  khẩu  nghiệp  bất
thiện,  không  tốt  đối  với  tứ  sanh  lục  đạo,  cha mẹ Sư  trưởng  tất  cả  bà  con,
không  có  điều  ác  gì  của  các  người  ấy mà  chúng  con  không  tuyên  truyền.
Chúng con nói lời thô xẳn phát tiếng bạo hạnh hủy báng chê bai, bạn bè chơi
nhỏi nhóm họp mà nói xấu, nói  lời vô nghĩa. Chỉ không nói có, chỉ có nói
không,  thấy  nói  không  thấy,  không  thấy  nói  thấy.  Nghe  nói  không  nghe,
không nghe nói nghe, làm nói không làm. không làm nói làm.

Nói ngược nói xuôi như vậy, đảo lộn trời đất, để lợi mình hại người dèm chê
lẫn nhau.

Nói  đến mình  thì  bao  nhiêu  phước  đức  đều  quy  tụ  về  cho mình. Nói  đến
người thì bao nhiêu đều ác độc đều đổ  xô về cho người.

Cho đến khen chê tố cáo Thánh Hiền, so lường vua tôi, cân nhắc cha con, cơ
hiềm Sư trưởng, hủy báng thiện tri thức, vô đạo, vô nghĩa, không ngó lại tai nạn u ách ở đời  tán hình mất mạng, đời sau  thống khổ vĩnh kiếp mắc phải
quả báo ác.

Vả chăng vừa cười giỡn đó, trong khoảnh khắc liền chịu vô lượng trọng tội,
huống nữa, dùng lời ác mà làm hại cho tất cả.

  Đệ tử chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do khẩu ác nghiệp, đối
với các  loài trời,  loài người mà có oán thù đối với  loài a tu  la  loài địa ngục
mà oán  thù, đối với  loài ngã quỉ,  loài súc  sanh mà có oán  thù, đối với cha
mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con mà có oán thù, đệ  tử chúng con tên . . .   do
lòng từ bi, đồng tu như Bồ tát, đồng nguyện như Bồ tát, xin thay thế cho tất
cả chúng sanh mà đảnh lễ quy y, thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Tịnh Đoạn Nghi Phật.

Nam mô Vô Lượng Trì Phật.

Nam mô Diệu Lạc Phật

Nam mô Bất Phụ Phật.

Nam mô Vô Trú Phật.

Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.

Nam mô Chúng Thủ Phật.

Nam mô Thế Quang Phật.

Nam mô Đa Đức Phật.

Nam mô Phất Sa Phật.

Nam mô Vô Biên Oai Đức Phật.

Nam mô Nghĩa Ý Phật, 
Nam mô Dược Vương Phật.

Nam mô Đoạn Ác Phật.

Nam mô Vô Nhiệt Phật.

Nam mô Thiện Điều Phật.

Nam mô Danh Đức Phật.

Nam mô Dõng Đức Phật.

Nam mô Hoa Đức Phật.

Nam mô Kim Cang Quân Phật.

Nam mô Đại Đức Phật

Nam mô Tịch Diệt Ý Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Na La Diên Phật

Nam mô Thiện Trú Phật

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Diệu Âm Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hêt thảy Tam bảo.

Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực, khiến tất cả
chúng sanh trong tứ sanh lục đạo giác ngộ trở lại mà đến Đạo tràng.
 Nếu người nào có thân hình bị câu thúc trở ngại, có tâm mà không đến được
nguyện, Xin nhờ Phật  lực, Pháp  lực, Bồ  tát  lực, Hiền Thánh  lực  thâu nhiếp
tinh thần của những người ấy khiến tất cả đều đến được Đạo  tràng nầy,  thọ
lãnh sự sám hối khẩu nghiệp của chúng con; từ vô thỉ vô minh trú địa trở lại
cho  đến  ngày  nay  vì  nhơn  duyên  của  nghiệp  ác  khẩu,  đối  với  chúng  sanh
trong  lục đạo, tạo ra đủ mối oán thù, nguyện xin nhờ sức oai thần của Tam
bảo khiến cho  tất cả oán  thù kết  lại  trong ba đời của  tứ sanh  lục đạo, nhơn
sám hối nầy mà được trừ diệt.

Chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay hoặc vì sân khuể, hoặc
vì tham ái, hoặc vì ngu si, từ ba độc căn, tạo mười ác hạnh, do bốn ác nghiệp
của miệng  tạo  ra  vô  lượng  tội. Hoặc  do  ác  khẩu mà  não  loạn  cha mẹ, Sư
trưởng  quyến  thuộc,  và  tất  cả  chúng  sanh;  hoặc  đối  với  cha  mẹ  khởi  ra
nghiệp nói dối; hoặc đối với Sư trưởng khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với
quyến  thuộc khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với  tất cả chúng sanh khởi  ra
nghiệp  nói dối,  hoặc  thấy  nói không  thấy, không  thấy  nói  thấy;  hoặc  nghe
nói không nghe, không nghe nói nghe; hoặc biết nói không biết, không biết
nói biết; hoặc vì kiêu mạn, hoặc vì tật đố khởi ra nghiệp nói dối.

Những  tội  ác  như vậy  vô  lượng  vô biên  ngày  nay  sám  hối  nguyện  xin  trừ
diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở  lại cho đến ngày nay khởi ra nghiệp hai  lưỡi, thọ  lãnh
lời ác của người khác không thể che giấu; đến người nầy nói người kia, đến
người  kia  nói  người  nầy;  làm  cho  người  nầy  chia  rẽ  người  kia,  làm  cho
người kia đau khổ; hoặc vì cười giỡn,  làm cho hai bên đấu  tranh nhau, cốt
nhục chia  lìa; phá quyến thuộc của người, sàm  loạn quân thần nhiễu hại tất
cả.

Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tạo tội ỷ ngữ, nói lời vô nghĩa, lời
không  lợi  ích  hoặc  làm phiền  não  cha mẹ; hoặc  làm phiền  não Sư  trưởng;
hoặc làm phiền não bạn đồng học, cho đến đối với hết thảy chúng sanh trong
lục đạo khởi tâm não hại.

Như vậy khẩu  nghiệp khởi  ra oán  thù  vô  lượng  vô biên  ngày  nay  sám  hối
nguyện xin trừ diệt.
 Nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực, ngày
nay chúng con sám hối, khiến cho  tất cả oán  thù ba đời  trong bốn  loài sáu
đường, hết thảy sự gây thù kết oán hoàn toàn giải thoát, bao nhiêu tội nghiệp
đều  tiêu trừ, hoàn toản không  trở  lại gây thù kết oán nữa, không đọa  trở  lại
trong ba đường ác nữa, rốt ráo không trở  lại trong  lục đạo hòng  làm khổ sở
độc hại nhau nữa.

Từ nay trở đi xả bỏ tất cả oán thù không còn phân biệt oán, thân, tất cả đều
hòa hiệp như nước và  sữa,  tất cả đều hoan hỷ như ỏ sơ địa hằng  làm pháp
thân, từ bi quyến thuộc.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không còn trở lại chịu quả báo trong
ba  cõi, đoạn ba  nghiệp  chướng,  trừ năm bố úy,  tứ  vô  lượng  tâm,  lục ba  la
mật  tăng  tấn  thâm  tu,  hành  đạo  đại  thừa,  vào  trí  huệ  Phật. Hết  thảy  hạnh
nguyện đầy như biển cả. Lục thông, Tam minh,  thảy đều thông suốt, chứng
pháp Tam mật đủ năm phần pháp thân, pháp kim cang huệ, thành quả chủng
trí.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  đã  được  sám  hối  thân
nghiệp rồi; khẩu nghiệp rồi; thứ lại sám hối ý nghiệp cho được thanh tịnh.

Hết  thảy  chúng  sanh  luân  hồi  sanh  tử,  không  được  giải  thoát  đều  do  ý
nghiệp.

Thập  ác ngũ  nghịch kiết  tập kiên  cố quyết định đều do  ý nghiệp. Cho  nên
Phật dạy  rằng: Không đọan được  tham dục  sân nhuế  và  ngu  si  tà kiến,  thì
sau phải đọa địa ngục chịu khổ vô cùng. Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau
nhận thấy rằng: cái tâm nó thức đẩy cái thức làm việc cũng như vua chỉ huy
tất cả đình thần.

Miệng nói  lời ác, thân  làm việc ác, nên hay chiêu tập quả báo đau khổ kịch
liệt trong sáu đường.

Nên biết rằng:  Thân bị hủy diệt tan mất, việc ấy do tâm tạo. Nay muốn sám
hối trước phải đoạn trừ cái tâm, sau mới đánh dẹp cái ý. Vì cớ gì vậy? Kinh
dạy rằng: “Chế ngự tâm lại một chỗ thì việc gì cũng xong”.

Vậy  thì tâm  trong sạch, đó  là nguồn gốc của giải thoát; ý thanh khiết, đó  là
nền tảng của tiến hóa.
 Được như  thế,  thì quả báo kịch  liệt nơi  tam đồ không  lại, mà  thống khổ vô
cùng  trong  ác  đạo  cũng  chẳng  qua.  Nhưng  thân  nghiệp,  khẩu  nghiệp  thô
thiển bên ngoài dễ trừ. Ý nghiệp rất vi tế bên trong thật là khó trừ. Như Lai
là bậc Đại Thánh, nhất thế trí. Nhơn đối với thân, khẩu, ý mới không cần giữ
gìn, phàm phu ngu muội mê lầm, dám không cẩn thận hay sao?

Nếu không đánh dẹp ba nghiệp  làm cho ba nghiệp  thanh  tịnh  thì chưa  thấy
được điều lành của ba nghiệp.

Vì  thế nên kinh dạy  rằng: “Phòng ngừa cái ý như canh gác cửa  thành, giữ
gìn cái miệng như bưng kín miệng bình”.

Như thế, chúng con đâu dám không giữ gìn ba nghiệp hay sao. Chúng con từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thọ thân nầy do vô minh phát khởi ra ái dục,
làm cho thêm lớn đường sanh tử và cũng hay làm điều đủ mười hai điều đau
khổ (4) tám tà (5) tám nạn, luân hồi lưu chuyển trong tam đồ lục đạo, không
có chỗ nào  là không  trải qua. Chịu vô  lượng khổ  trong những chỗ như vậy
đều do ý nghiệp cấu  tạo sanh  ra oán  thù. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên,
chưa  từng  tạm xả, kích động  lục căn, chạy khắp ngũ  thể. Những ác nghiệp
nặng hay nhẹ đều do ý tạo ra cả.

Nếu thân và khẩu chưa vừa ý thì tâm càng thêm giận dữ độc ác, bèn sát hại
nhau, không thương xót.

Như chúng con hơi có chút ghẻ ngứa đã không thể chịu được, giả sử việc ấy
ở nơi người khác thì cho sự đau khổ không bao nhiêu.

Thấy  lỗi  của  người  lòng muốn  tuyên  truyền  nói  ra,  tự mình  có  lỗi  không
muốn người khác nghe biết. Có tâm niệm như vậy thật là xấu hổ.

Lại nữa ý khởi sân hận  là mở đường rộng  lớn, rước oán  tặc vào  tâm. Sở dĩ
trong kinh Phật dạy rằng: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân khuể”.

Lại nữa kinh Hoa Nghiêm dạy rằng:

Phật tử khởi lên một niệm sân tâm, thì trong tất cả ác tâm không có tâm nào
ác hơn nữa.

–   Vì sao vậy?
 –     Vì khởi  lên một  niệm  sân  thì phải chịu một  trăm  ngàn  vạn  sự  chướng
ngại.

Chướng không thấy Bồ đề

Chướng không nghe được chánh pháp

Chướng làm cho sanh vào đường ác

Chướng sanh ra nhiều tật bệnh. 

Chướng bị người hủy báng.

Chướng sanh ra ám độn.

Chướng làm mất chánh niệm.

Chướng làm cho ít trí huệ.

Chướng làm cho gần ác tri thức.

Chướng không ưa việc hiền lành.

Chướng làm cho xa chánh kiến.

Cho đến xa  lìa chánh giáo của Phật, vào cảnh giới của ma, trái với thiện tri
thức, các căn khiếm khuyết, sanh vào các nhà làm nghiệp ác, ở nơi biên địa.

Những chướng như vậy đều do sân hận, nhiều không thể kể xiết.

Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, lẽ ra cũng có vô lượng vô biên
ác tâm sân hận cho đến khởi sân hận không kể gì bà con họ hàng, huống nữa
là đối với các chúng sanh trong lục đạo. Cho đến do sân hận mà gây ra phiền
não  mãnh  liệt  độc  ác mà mình  không  tự  biết. Chỉ  về  phần  sự  tướng  bên
ngoài  không  thực  hiện  được  như  ý muốn,  chớ  về  tâm  tưởng  thì  không  có
việc gì tâm không nghĩ đến.

Giá  như  điều  ác  gì  tâm  đã  nghĩ  được,  đã  thực  hiện  được  như  ý muốn  thì
không ai là không khỏi bị khốn khổ.
 Bởi  thế cho nên một phen  thiên  tử  (vua) nổi giận  thì  thây phơi đầy đường
ngàn dặm.

Từ vua trở xuống thì tự do ngang tàng quấy nhiễu chúng sanh, đánh đập, trói
buộc những người có tội. Ngay lúc bấy giờ thì không thể chỉ vào đâu mà nói
rằng:  ta  làm  lành  được,  chỉ  sợ đánh  người không đau, không  nặng, không
khốc  liệt mà  thôi. Đó  là  sự  ác độc  của ý  nghiệp  chung  cho  tất  cả  loài  hữu
tình, trí ngu đều không khỏi. Giàu sang nghèo hèn như nhau mà chưa có một
ngày nào biết hổ  thẹn ăn năn. Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo
tràng nhận thấy phiền não sân hận của ý nghiệp rất sâu kín. Dầu chúng ta có
muốn  xả bỏ,  nhưng  gặp  cảnh  nó  cũng  sanh  tâm,  cùng  với  ác  ý  hoạt động,
niệm niệm xúc chạm nhau, biết lúc nào thoát ly được khổ não ấy. Đại chúng
đã biết tội nầy không thể để yên vậy mà không lo sám hối, thì ngày nay phải
khấu đầu  lễ bái,  tỏ hết  lòng  thành sám hối  tội sân hận, nguyện xin  trừ diệt.
Mọi người phải đầu thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Vô Sở Phụ Phật.

Nam mô Nguyệt Tướng Phật.

Nam mô Điện Tướng Phật.

Nam mô Cung Kỉnh Phật.

Nam mô Oai Đức Thủ Phật.

Nam mô Trí Nhật Phật.

Nam mô Thượng Lợi Phật.

Nam mô Tu Di Đảnh Phật.

Nam mô Trị Oán Tặc Phật.

Nam mô Liên Hoa Phật.
 Nam mô Ứng Tán Phật.

Nam mô Trí Thứ Phật.

Nam mô Ly Kiêu Phật.

Nam mô Na La Diên Phật.

Nam mô Thường Lạc Phật.

Nam mô Bất Thiểu Quốc Phật.

Nam mô Thiên Danh Phật.

Nam mô Kiến Hữu Biên Phật.

Nam mô Thâm Lương Phật.

Nam mô Đa Công Đức Phật.

Nam mô Bảo Nguyệt phật.

Nam mô Sư Tử Tướng Phật.

Nam mô Nhạo Thuyền Phật.

Nam mô Vô Sở Thiểu Phật.

Nam mô Du Hý Phật.

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát.

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện  xin Tam  bảo,  đem  từ  bi  lực,  vô  lượng  vô  biên  tự  tại  lực,  nạp  thọ chúng con tên . . .  ngày nay hướng về tứ sanh  lục đạo, cha mẹ, Sư  trưởng,
hết thảy bà con mà sám hối bao nhiêu oán thù do ý nghiệp đã kết lại, hoặc có
oán thù hay không phải oán thù, hoặc khinh hoặc trọng những oán đã kết rồi,
nguyện xin sám hối trừ diệt, những oán chưa kết quyết không dám kết.

Nguyện xin nhờ sức Tam bảo đồng gia  tâm nhiếp  thọ,  thương xót, che chở
cho chúng con được giải thoát.

Đệ  tử  chúng  con  tên  .  .  .    từ  vô  thỉ  trở  lại  cho  đến  ngày  nay,  do  vì  nhơn
duyên ác nghiệp của ý, nên đối với  tứ sanh,  lục đạo, cha mẹ, Sư  trưởng và
tất cả bà con, mà kết các oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, ngày nay hổ thẹn,
tỏ bày sám hối, nguyện xin trừ diệt tất cả oán thù.

Lại từ vô thỉ cho đến ngày nay, y nơi gốc ba độc, khởi ra tâm tham, nhơn nơi
tham sử, khởi ra  tham nghiệp, hoặc u ẩn hay hiển hiện, cùng  tận hư không
giới, hễ nơi nào, lúc nào thấy người có của thì sanh tâm ác, nghĩ rằng: Ta sẽ
lấy  của  ấy,  cho  đến  của  cha mẹ,  của  Sư  trưởng,  của  bà  con,  của  hết  thảy
chúng sanh, của chư Thiên, của chư Tiên, những của ấy đều cho là thuộc về
ta cả.

Tội ác như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Lại  nữa,  tử  vô  thỉ  trở  lại  cho  đến  ngày  nay,  khởi  ra  sân  nghiệp  ngày  đêm
luôn luôn thiêu đốt thân tâm không có một giờ phút nào tạm thời dừng nghỉ.
Có chút gì không bằng lòng, liền nổi giận đùng đùng, đem chúng sanh ra mà
não  hại đủ điều,  hoặc  roi  gậy đánh đập,  hoặc nhận  chìm  xuống  nước,  cho
đến dùng cách xua đuổi, (bức bách) bỏ đói khát, trói buộc, treo  lên trên cao
hay nhốt vào phòng tối cho đến chết.

Những  tội sân hận như  thế vô  lượng vô biên, gây  ra oán  thù không  thể kể
xiết, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa  từ  vô  thỉ  trở  lại  cho đến  ngày  nay,  tùy  thuận  vô minh,  làm  những
việc ngu si tạo tất cả điều ác; không có trí huệ chân chánh, tin theo lời tà, thọ
lãnh pháp tà, những nghiệp si mê như vậy tạo ra oán thù vô  lượng vô biên,
ngày nay sám hối, nguyện xin trử diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, làm mười tà đạo (6), kết hết thảy
oán thù, tạo tất cả ác nghiệp, niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích
động  sáu  căn khởi  các kiết  nghiệp, hoặc  thời  thân khẩu  chưa  thỏa mãn  thì tâm càng  thêm độc ác, cho đến giỡn cười, gây  ra  thị phi. Không dùng  tâm
ngay  thẳng  làm  việc  theo  người  thường ôm  lòng  siểm khúc không biết  hổ
thẹn.

Những  tội  như  vậy,  vô  lượng  vô  biên,  ở  trong  lục  đạo,  chịu  đại  khổ  não,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.

Đệ tử chúng con tên . . .  từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân nghiệp bất
thiện, khẩu nghiệp bất  thiện, ý nghiệp bất  thiện. Những ác nghiệp như vậy
đối với Phật khởi ra tất cả tội chướng, đối với Pháp khởi ra tất cả tội chướng,
đối với Bồ  tát và Hiền Thánh khởi  ra  tất cả  tội chướng. Những  tội chướng
như vậy vô  lượng vô biên, ngày nay chí thành cầu xin sám hối, nguyện xin
trừ diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân ba ác nghiệp, miệng bốn ác
nghiệp, ý ba ác nghiệp, tạo ra tất cả tội ngũ nghịch, tứ trọng, ngày nay sám
hối nguyện xin trử diệt.

Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, sáu căn, sáu trần, sáu thức, vọng
tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra tất cả các tội, ngày nay sám hối
nguyện xin trừ diệt.

Lại nữa  tử vô  thỉ  trở  lại cho đến ngày nay, đối với nhiếp oai nghi giới  (7),
nhiếp  thiện  pháp  giới  (8),  nhiếp  chúng  sanh  giới  (9),  phần  nhiều  có  hủy
phạm, sau nầy thân hoại mạng chung phải đọa ba đường ác, ở trong địa ngục
chịu vô lượng vô biên hằng sa thống khổ. Sau lại đọa vào ngã quỉ sẽ ngu si,
không hiểu biết gì, thường bị đói khát, chịu các nhiệt não, rồi lại đọa làm súc
sanh  chịu  vô  lượng  khổ,  ăn  uống  thật  bất  tịnh,  cơ  hàn  khốn  khổ.  Tội  hết
được sanh làm người, đọa vào nhà tà kiến, tâm thường siểm khúc, tin lời Tà,
mất chánh đạo, chìm vào biển sanh tử không hẹn ngày ra.

Tất cả tội ác, oán thù ba đời như thế nói không thể xiết, chỉ có chư Phật mới
thấy  hết biết  hết. Như chỗ  chư Phật đã  thấy đã biết,  tội báo  nhiều  ít,  ngày
nay sám hối nguyện xin trừ diệt.

Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ  tát đem đại  từ bi  lực, đại  thần  thông  lực,
như pháp điều phục chúng sanh lực khiến chúng con tên . . .   ngày nay sám
hối  tất cả oán  thù  liền được  trừ diệt. Hết  thảy chúng sanh  trong  lục đạo đã
chịu trả oán thù rồi, hay chứa chịu trả oán thù, nguyện xin nhờ sức đại từ bi
lực của chư Phật, chư đại Bồ tát và tất cả Hiền Thánh khiến hết thảy kẻ oán thù ấy hoàn toàn giải thoát. Từ nay trở đi cho đến ngày chứng quả Bồ đề, tất
cả  tội chướng hoàn  toàn  thanh  tịnh không sanh vào đường ác, sanh về  tịnh
độ, bỏ sống oán thù, được sống trí huệ, bỏ thân oán thù được thân kim cang,
bỏ ác đạo khổ, được Niết bàn vui, nhớ ác đạo khổ, phát bồ đề tâm, tứ đẳng
lục độ thường được hiện tiền tứ biện lục thông được tự tại như ý, dõng mãnh
tinh tấn, không thôi không nghỉ tu lên cho đến mãn hạnh thập địa, trở lại độ
thoát vô biên chúng sanh.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  nguyện  xin  cho  tất  cả
chúng sanh đời quá khứ, đời hiện tại và cùng tận đời vị lai ở trong bốn loài,
sáu đường, đều được nhờ sự sám hối hôm nay mà thanh tịnh, đồng được giải
thoát, đồng đủ trí huệ, thần thông tự tại. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy
từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thường thấy được pháp thân của chư
Phật khắp mười phương, tận hư không giới, thường thấy thân tử ma kim sắc,
ba mươi hai  tướng  tốt  và  tám  chục  vẻ đẹp  của  chư Phật, phân  tán  ra khắp
mười  phương  cứu  độ  chúng  sanh;  thường  thấy  chư  Phật  phóng  bạch  hào
tướng quang ở giữa chặn mày, tế độ chúng sanh đau khổ trong địa ngục.

Lại nguyện xin cho Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng, nhờ công đức
nhơn duyên  sám  hối  thanh  tịnh  hôm  nay mà  từ nay  trở đi bỏ  thân  nầy  thọ
thân  khác,  cũng  không  vào  trong  địa  ngục  để  chịu  những  thống  khổ,  tiêu
hình hoại thể, trong vạc nước sôi, lò lửa nóng không trải qua đường ngã quỉ
mà chịu các thống khổ đói khát; cổ nhỏ bằng kim, bụng to bằng trống chầu;
không  trải  qua  đường  súc  sanh  để  đền  nợ  cũ,  trả mạng  xưa,  chịu  các  sự
phanh thây xẻ thịt, lôi kéo khốn khổ.

Nếu ở  trong  loài người,  thì  thân không mắc phải bốn  trăm  lẻ bốn bệnh khổ
não, không chịu khổ đại hàn đại nhiệt khó nhẫn nại; không chịu khổ vì đao
gươm,  roi  gậy đánh đập,  thuốc  độc, não  hại khốn khổ;  không  gặp  phải  tai
nạn đói khát khốn khổ.

Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi giữ giới trong sạch, không làm ô uế
đạo tâm, thường tu nhơn nghĩa, niệm tưởng báo ơn, cúng dường cha mẹ như
cúng dường Phật không  khác, phụng  sự Sư  trưởng như đối  chư Phật, kính
trọng  quốc  chủ  như  thường  trú  Pháp  thân,  đối  với  mọi  người  như  mình
không khác.

Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, hiểu thấu
nghĩa  lý  sâu mầu  của  chư  Phật,  tâm  trí  không  sợ  hãi,  rõ  thông  đại  thừa,
thông suốt chánh pháp liền tự khai giải, không phải nhờ ai chỉ bày, một lòng kiên cố cầu đạo Bồ đề trở lại hóa độ vô biên chúng sanh, đồng như bậc chư
Phật thành bậc chánh giác.

Ngày nay Đại chúng ẩn thân hay hiện thân trong Đạo tràng xin chứng minh
cho lời phát nguyện mảy mọc sau nầy:

Chúng con tên . . .   chánh nguyện:

Nguyện  sanh  về  cảnh  của  thánh  nhơn  ở,  thường  hay  kiến  lập Đạo  tràng,
hưng hiển cúng dường,  làm  lợi  ích rộng  lớn cho tất cả chúng sanh. Nguyện
thường được Tam bảo  từ bi  nhiếp  thọ,  thường  có  thế  lực  giáo  hóa dìu dắt
được dễ dàng, thường tu hành tinh tấn, không say đắm cục lạc ở đời; thường
biết các pháp đều không có tự tánh; đối với người oán kẻ thân đều đem điều
lành bình đẳng hóa độ cho đến Bồ đề tâm không thối chuyển.

Từ nay trờ đi, một mảy thiện tâm nào cũng nhờ thiện lực nầy mà thành tựu.

Lại nguyện sanh  trong  loài người, sanh vào nhà  từ  thiện. Lại  lập  từ bi Đạo
tràng, cúng dường Tam bảo, điều  thiện nỏ nhiệm nào cũng đem bố  thí hồi
hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cùng với Hòa thượng, A xà  lê chung
lo  tu  hành,  không  xa  lìa  nhau,  trường  trai  khổ  hạnh  tâm  không  ái  nhiễm,
không lập gia đình, trung tín thanh bạch nhơn nhượng hòa bình, tổn mình lợi
người, không  cầu danh  lợi. Lại  nguyện  xin  xả  thân  nầy, không mong  giảu
thoát, sanh trong loài quỉ thần; nguyện làm vị đại lực Hộ pháp thiện thần, tế
khổ  thiện thần, không cần cơm áo, tự nhiên đầy đủ. Lại nguyện xin xả thân
nầy không mong giải thoát, sanh trong loài súc sanh, thường ở núi sâu hang
thẳm ăn cỏ uống nước không  thấy  thống khổ, khi  ra khỏi  rừng  thì được an
lành, không bị bắt nhốt trói buộc.

Lại nguyện xin xả  thân nầy  rồi không mong giải  thoát, sanh  trong  loài quỉ
đói, nguyện thân tâm an vui, không có các điều khổ não, giáo hóa những ngã
quỉ đồng khổ, sám hối tội lỗi, phát tâm Bồ đề.

Lại  nguyện  xin  xả  thân  nầy  không mong  giải  thoát,  sanh  vào địa  ngục,  tự
biết đời trước của mình, giáo hóa những người đồng khổ sám hối tội lỗi phát
tâm Bồ đề.

Đệ tử chúng con tên . . .  nguyện thường tự nhớ sự phát tâm Bồ đề, làm cho
tâm Bồ đề tương tục không gián đoạn.
 Nguyện xin hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền cùng
khắp mười phương, dủ lòng từ bi chứng giám cho chúng con.

Lại nguyện cho chư Thiên, chư Tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ
hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, chứng giám cho chúng
con chí thành đảnh lễ quy y mười phương Tam bảo.
 

--- o0o ---

TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NGUYỆN

Đại  Thánh  Thế  Tôn,

Nguy  nga  rực  rỡ,

Tam  đạt (10) chiếu  suốt.

Vua  trong  các  Thánh.

Phân  thân  tế  vật,

Hiện  tọa  Đạo  tràng.

Trời  người  chiêm  ngưỡng,

Thọ  pháp  vô  cùng (11)

Bát  âm  vang  dội (12)  

Ma  quân  kinh  hoàng

Oai  chấn  Đại  thiên, (13)

Từ  hóa  lưu  phương. (14)

Bi  lực  độ  khắp,

Thâu nhiếp mười phương
 Từ  hẳn  tám  khổ (15)

Đến  Bồ  đề  hương.

Cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn, độ người vô lượng, hết khổ sanh tử.

Nay chúng con xin nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnh và tán thán
chư Phật nguyện cho  tất cả chúng sanh  trong  tứ sanh  lục đạo,  từ nay  trở đi
cho đến ngày thành Phật

đều nhờ thần lực của Phật mà được tùy tâm tự tại.

 

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ SÁU

--- HẾT ---

1 Vô minh trú địa: Tức là căn bản vô minh, cũng tức là pháp chấp, tức là chỗ
y  trú của hết  thảy phiền não,  tức  là cái nguyên nhân của biến dịch, sanh  tử
nên gọi là trú địa.

2 Ba độc căn: Gốc ba độc tức là tham sâm si.

3 Tứ trọng: Tội sát, đạo, dâm, vọng là bốn tội nặng nhất.

4 12 điều khổ: Tức là 4 khổ và 8 khổ cộng lại: – 1) Sanh, – 2) lão, – 3) bệnh,
– 4) tử khổ, – 5) ân ái biệt ly,

   6) oán thù gặp gỡ, – 7) mong cầu không được, 8) năm ấm nung nấu.

5 Tám tà: Trái với tám chánh đạo: – 1) Tà kiến, – 2) tà tư duy, – 3) tà ngữ, –
4) tà nghiệp, – 6) tà phương tiện, – 7) tà niệm, – 8) tà định.

6 10 Tà đạo: 10 ác nghiệp: sát sanh, trộm, dâm, vọng, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng
thiệt, tham, sân, si. 
7 – Nhiếp oai nghi giới, – 8) Nhiếp thiện pháp giới, – 9) Nhiếp chúng sanh
giới gọi là tam tụ tịnh   giới, của Bồ tát cũng như: nguyện đoạn nhất thế ác,
nguyện tu nhất thế thiện, nguyện độ nhất thế chúng sanh.

10 Tam đạt:  tức  tam minh của A  la hán, – Thiên nhãn, túc mạng và  lậu tận
minh.

11 Xan bẩm vị ương: Thọ lãnh giáo pháp của Phật không cùng tận.

12 Bát âm: Tám thứ âm thanh của Phật đã chứng được: 1) Cực hảo âm, – 2)
Nhu nhuyến âm, – 3) Hòa thích âm, – 4) Tôn huệ âm, – 5) Bất nữ âm (không
phải âm thanh của nữ nhơn) – 6) Bất ngộ âm, – 7) Thâm viễn âm, – 8) Bất
kiệt âm.

13 Đại  thiên: Tức  tam  thiên, đại  thiên  thế giới, một núi  tu di, một mặt  trời,
một mặt trăng, bốn đại châu và núi thiết vi làm một tiểu thế giới – 1.000 tiểu
thế giới gọi  là một  tiểu  thiên  thế giới – 1.000  tiểu  thiên  thế giới gọi  là một
trung thiên thế giơí – 1.000 trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giơí.
Cộng chung lại nói là tam thiên đại thiên thế giới.

14 Từ  hóa  lưu phương: Từ  tâm đức Phật  giáo  hóa  chúng  sanh để  lại danh
thơm bất tuyệt.

15 Từ hẳn tám khổ: Tám khổ xem ở số 4 quyển 6.

 
--- o0o ---

QUYỂN THỨ BẢY
 CHƯƠNG THỨ MƯỜI : TỰ VUI MỪNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, từ khi quy y  trở  lại đây,
biết chỗ chí đức là nơi nương tựa của tất cả.

Đoạn nghi, sám hối thì tội ác mê lầm đều tiêu diệt. Tiếp đến phát tâm dùi dắt
nhau tu hành thì cởi mở được oán thù được tiêu diêu tự tại.
 Như thế thì Đại chúng há lại không hớn hở vui mừng hay sao?

Nay nói ý nghĩa những điều đáng vui mừng sung sướng thì trong kinh chép
rằng: “Có tám nạn khổ: Một là Địa ngục, hai là Ngã quỉ, ba là Súc sanh, bốn
là Biên địa (1) năm  là trường thọ Thiên (2), sáu  là tuy được thân người mà
câm điếc, ngọng  liệu,  tàn  tật, bảy  là  sanh vào nhà Tà kiến  (3),  tám  là  sanh
trước Phật hay sau Phật.

Vì có tám nạn ấy nên chúng sanh cứ chìm đắm mãi trong biển luân hồi sanh
tử, không thể ra được.

Nay chúng con sanh nhằm đời tượng pháp tuy không gặp Phật, nhưng sự vui
mừng còn nhiều:

Phàm  có  nạn  là  tại  tâm,  nếu  tâm  sanh  nghi  ngờ  thì  không  phải  nạn  cũng
thành nạn.

Nếu tâm không sanh nghi ngờ thì nạn gì cũng thành ra phi nạn.

Vì sao biết được?

Ví  như  nạn  thứ  tám,  nói  rằng  sanh  trước  Phật  hoặc  sanh  sau  Phật  là  nạn.
Nhưng bà già ở  thành đông, đồng sanh với Phật một  thời, đồng ở với Phật
một  xứ mà bà  già  ấy không  thấy Phật. Cho  nên biết  rằng  tâm  nghi  ngờ  là
nạn, vị tất không đồng thời với Phật mà cho là nạn.

Ma Ba tuần ôm lòng ác động trong khi còn sống đã đọa vào địa ngục.

Rồng nghe  thuyết pháp còn ngộ được đạo Bồ đề. Vậy chắc gì ở nhơn gian
hay thiên thượng mà liền cho không có nạn. Tâm nếu biết điều thiện thì quả
báo bình đẳng.

Cõi  trời Lục dục  là cao quý mà đọa địa ngục, súc  sanh  là  thấp hèn mà  lên
được Đạo tràng.

Thế nên  tâm  tà  thì khinh nạn  thành  trọng  tâm chánh  thì  trọng nạn  thành vô
ngại.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng vì tâm nghi nên gặp việc
không phải nạn thành ra nạn. Nếu tâm chánh thì nạn thành phi nạn. 
Nay chỉ cử  ra một điều ấy cũng đủ hiểu  rõ;  trước Phật hay sau Phật đều  là
Chánh pháp; Biên địa, súc sanh đều  là Đạo tràng. Nếu tâm chánh thì không
còn nạn nữa; bằng tâm còn nghi ngờ thì nạn thành ra vô lượng.

Những điều vui mừng như thế sự thật không phải là ít, trong nhật dụng hằng
ngày Đại chúng không tự biết công đức của mình.

Nay  tôi  sơ  lược  trình bày qua  sự  vui mừng  theo  thiển kiến  của  tôi để Đại
chúng tự suy nghĩ.

Nếu biết được sự vui mừng của mình thì cần phải tu tâm xuất thế.

Tự vui mừng những gì?

- Phật dạy: “Địa ngục khó thoát khỏi; nay chúng ta đã cùng nhau xa lìa được
khổ Địa

ngục. Đó là sự vui mừng thứ nhất.

- Ngã quỉ khó thoát được; nay chúng  ta đã thoát được những thống khổ đói
khát của Ngã quỉ. Đó là sự vui mừng thứ hai.

- Súc sanh khó xả bỏ; nay chúng  ta đã  thoát được quả báo súc sanh. Đó  là
quả báo thứ ba.

- Sinh ở Biên địa, không biết nhơn nghĩa; nay chúng ta đồng được chung ở
giữa  quốc  độ  có Phật,  Pháp  lưu  hành;  đích  thân  thừa  hưởng  được  giáo  lý
nhiệm mầu của chư Phật. Đó là sự vui mừng thứ tư.

- Sanh lên cõi trời trường thọ, không biết trồng cội phúc: nay chúng ta ở đây
đều được trồng căn lành. Đó là sự vui mừng thứ năm.

- Thân  người khó được, một phen mất khó  trở  lại;  nay  chúng  ta đều được
làm người. Đó là sự vui mừng thứ sáu.

- Sáu  căn  không  đầy  đủ  thì  không  trồng  được  căn  lành,  nay  chúng  ta  đều
được thanh tịnh, hướng về pháp môn thâm diệu của Phật. Đó là sự vui mừng
thứ bảy.
 - Có thế trí biện thông (4) tức là không phải nạn mà thành nạn. Nay chúng ta
nhất tâm nương về chánh pháp. Đó là sự vui mừng thứ tám.

-Trước Phật sau Phật đều là nạn; hoặc cho rằng mắt mình không thấy Phật là
đại nạn. Nay chúng  ta đã cùng nhau phát đại  thiện nguyện,  thệ độ hết  thảy
chúng sanh cùng tận đời vị lai; không chấp việc không thấy Phật là nạn. Chỉ
một phen  thấy hình  tướng Phật, một phen nghe được Chánh pháp, cũng  tự
cho đồng như ngày xưa được thấy được nghe đức Phật thuyết pháp đầu tiên
tại vườn Lộc Uyển. Việc  làm của chúng  ta mục đích  là diệt được  tội,  sanh
được phước là quý; chứ không phải vì không thấy Phật mà cho là nạn.

-  Phật  dạy:  “Thấy  được  Phật  là  khó”. Nay  chúng  ta  đã  cùng  nhau  chiêm
ngưỡng được hình tướng Phật. Đó là sự vui mừng thứ chín.

-  Phật  dạy:  “Nghe  được  pháp  Phật  là  khó”.  Nay  chúng  ta  đã  cùng  nhau
hưởng được Cam lồ pháp vị của Phật. Đó là sự vui mừng thứ mười.

- Phật dạy: “Xuất gia được là khó”. Nay chúng ta được từ thân cát ái trở về
với Đạo. Đó là sự vui mừng thứ mười một.

- Phật dạy: “Lợi cho mình  là dễ,  lợi cho người  là khó”. Nay chúng  ta một
lạy, một bái đều vì tất cả chúng sanh khắp mười phương mà hồi hướng công
đức. Đó là sự vui mừng thứ mười hai.

- Phật dạy: “Chịu khổ, chịu cực được là khó”. Nay chúng ta, mọi người đều
kiều cần,  siêng năng  làm  lành không nghỉ, không biếng nhác. Đó  là  sự vui
mừng thứ mười ba.

- Phật dạy:  “Đọc  tụng kinh điển được  là  khó”. Nay  chúng  ta  giờ phút  nầy
đang đọc tụng kinh điển của Phật. Đó là sự vui mừng thứ mười bốn.

- Phật dạy: “Tọa thiền là khó”. Nay chúng ta có người tức tâm định ý. Đó là
sự vui mừng thứ mười lăm.

Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  thấy  có  nhiều  sự  vui
mừng như vậy vô  lượng vô biên, không phải bấy nhiêu  lời đó mà có thể kể
hết được.

Phàm  người ở đời  vui  ít khổ  nhiều. Được một điều  vui mừng  còn  hớn  hở
thay, huống gì nay chúng ta có nhiều điều vui vô ngại. 
Được vô ngại nầy đều nhờ sức oai  thần của mười phương Tam bảo. Chúng
ta mọi người đều nên nhớ tưởng ơn đức Phật, Pháp, Tăng. Đại chúng nên tha
thiết đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện xin thay thế hết thảy Quốc vương,
Đế chúa, Thổ cảnh, nhân dân, cha mẹ, Sư  trưởng, thượng, trung, hạ tọa, tín
thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư Thiên, chư Tiên, hộ  thế Tứ vương,  thông
minh chánh trực, Thiên địa, hư không, chủ thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ
phương Long vương, Long thần, Bát bộ, chư đại Ma vương, ngũ đế Đại ma,
nhất thiết Ma vương, Diêm la vương, Thái sơn Phủ quấn, ngũ đạo Đại thần,
Thập bát Ngục vương và các quan thuộc trong địa ngục; rộng ra cho đến vô
cùng  vô  tận  các  loài  hữu  tình,  có  thần  thức,  có Phật  tánh  trong ba  cõi  sáu
đường; nguyện vì các chúng sanh ấy mà quy y  tận hư không giới hết  thảy
mười phương Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, đồng đem thần
lực tự tại bất khả tư nghị mà che trở cứu vớt, ; làm cho hết thảy chư Thiên,
chư Tiên, hết thảy Thần vương, Thần tướng, rộng ra cho đến, hết thảy chúng
sanh trong sáu đường từ đây trở đi vượt khỏi biển sanh tử, đến bờ giải thoát
bên kia, hạnh nguyện sớm viên mãn, đồng lên Thập địa, vào Kim cang tâm,
thành bậc Chánh giác.   

--- o0o ---

CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT : TƯỞNG NHỚ ƠN TAM BẢO

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  đều  nên  nhớ  tưởng ơn
Tam bảo. Vì sao vậy?

Bởi vì giả sử như không biết Tam bảo, thì làm sao sanh khởi từ tâm, thương
xót chúng  sanh. Giả  sử không biết Tam bảo  thì  làm  sao  sanh khởi bi  tâm,
cứu hộ nhiếp  thọ hết  thảy chúng sanh. Giả sử không biết Tam bảo  thì  làm
sao sanh khởi tâm bình đẳng quan sát oán thân như nhau. Giả sử không biết
Tam bảo  thì  làm sao có được diệu  trí chứng đạo vô  thượng. Giả  sử không
biết  Tam  bảo  thì  làm  sao  hiểu  rõ  được  lý  nhị  không  (Nhơn  không,  Pháp
không) là chơn không chơn thật, vô tướng mà tu hành.

Phật dạy:

“Thân người khó được, nay đã được, lòng tin khó sanh, nay đã sanh”. 
Chúng ta ngày nay nhờ quy y Tam bảo, mắt không thấy sắc  lửa phun, cảnh
rút lưỡi ở địa ngục, ngã quỉ; tai không nghe tiếng kêu la nhiệt não, khổ sở ở
cảnh địa ngục, ngã quỉ; mũi không ngửi mùi máu mủ tanh hôi, lột da xẻ thịt
ở cảnh địa ngục, ngã quỉ;  lưỡi không nếm mùi hôi  thúi, hư nát;  thân không
xúc chạm cảnh giá lạnh, lò than hồng, vạc dầu sôi ở địa ngục; ý thường biết
Phật  là đấng Cha  lành, từ bi vô  thượng,  là đấng Đại Y Vương; ý biết tất cả
Phật pháp,  là  thuốc hay để  trị bệnh cho  tất cả chúng sanh; biết các vị Hiền
Thánh  là  từ mẫu  săn  sóc  bệnh  hoạn  cho  tất  cả  chúng  sanh. Ý  thường  biết
nghĩ tưởng Tam bảo là ba ngôi báu ủng hộ thế gian; ý thường tưởng nghĩ gì
chúng ta đều biết được hết.

Chúng  ta ngày nay  tuy sanh  ra không gặp Phật, nhằm đời mạt pháp, nhưng
có đủ tín tâm, sáu căn thanh tịnh, không có suy não, đi lại vừa ý, đứng ngồi
tự do, vô ngại. Những quả báo tốt đẹp ấy đều do duyên  lành đời trước, nhờ
ơn Tam bảo khiến phát tâm Bồ đề. Những lợi ích như thế vô lượng vô biên,
không  thể kể xiết. Vậy  chúng  ta  há  lại không  lo báo ơn,  cúng  dường Tam
bảo hay sao?

Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  nên  biết  rằng:  Cúng
dường là công đức lớn hơn hết thảy trong tất cả các công đức.

Trong kinh Phật dạy: “Nhớ  lại đời quá khứ chỉ chúng dường Tam bảo một
mảy may, nhờ phước báo ấy, nay gặp được Phật Thế Tôn”.

Lại  nữa,  trong kinh  cũng  chép  rằng:  “Nếu muốn được quả báo  tốt mà  xây
tháp,  lập tịnh xá, cúng dầu đèn, tràng phan, bảo cái, hoa hương, nệm gối và
bao nhiêu thứ cúng dường khác v.v... cũng chứa phải là báo ơn đức Phật.

“Muốn báo ơn đức Phật,  cần phải phát  tâm Bồ đề,  lập bốn  lời  thệ  nguyện
rộng lớn, tạo vô lượng duyên lành, trau dồi thâm tâm tu hành Tịnh độ. Ấy là
kẻ trí biết báo ơn đức Phật vậy”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ân đức từ bi vô
lượng của đức Phật không thể báo đáp. Các vị Đại Bồ tát nghiền  thân cúng
dường mà  còn  chưa  thể báo ơn đức Phật muôn một,  huống  gì chúng  ta  là
phàm phu mà  có  thể  báo ơn đức Phật được  sao? Đại  chúng  chỉ  y  theo  lời
kinh dạy mà  làm việc  lợi  ích cho người  là hơn hết. Mọi người nên hết  lòng
đầu  thành  đảnh  lễ Tam  bảo  khắp  vì  hết  thảy  chúng  sanh,  vô  cùng,  vô  tận
trong bốn loài sáu đường mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ: 
Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đức Bảo Phật

Nam mô Ưng Danh Xưng Phật

Nam mô Hoa Thân Phật

Nam mô Đại Âm Phật

Nam mô Biện Tài Tán Phật

Nam mô Kim Cang Châu Phật

Nam mô Vô Lượng Thọ Phật

Nam mô Châu Trang Nghiêm Phật

Nam mô Đại Vương Phật

Nam mô Đức cao Hạnh Phật

Nam mô Cao Danh Phật

Nam mô Bách Quang Phật

Nam mô Hỷ Diệt Phật

Nam mô Long Bộ Phật

Nam mô Ý Nguyện Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Phật

Nam mô Diệt Hỷ Phật

Nam mô Hỷ Vương Phật 
Nam mô Điều Ngự Phật

Nam mô Hỷ Tự Tại Phật

Nam mô Bảo Kế Phật

Nam mô Ly Úy Phật

Nam mô Bảo Tạng Phật

Nam mô Nguyệt Diện Phật

Nam mô Tịnh Danh Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 --- o0o ---

CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI :CHỦ SÁM LỄ TẠ ĐẠI CHÚNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng đã cùng nhau sanh  lòng
tin kiên cố phát tâm Bồ đề thề không thối chuyển. Đó là một chí khí có năng
lực mạnh không thể nghĩ bàn. Tâm ấy chí ấy chư Phật rất ngợi khen.

Ngày  nay  tác  giả  tôi  cũng  hết  lòng  tùy  hỷ và  nguyện đời  sau  sẽ được  gặp
nhau  lại. Xả  thân nầy  thọ  thân khác nguyện không  rời nhau, cho đến ngày
thành Phật, hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi.

Ngày nay tôi lập ra Pháp Sám nầy như giả dối; trí không sáng suốt, thân trái
với hạnh, khinh suất tỏ bày ý ấy. Thật đáng  lo sợ, đối với sự thấy nghe của
người.

Sức người hữu hạn mong manh; công việc thì quan trọng rộng lớn, như nước
lửa  trái  nhau,  nên  tôi  rất  ngại  ngùng. Nếu  không  nương  nhờ một  nguyên nhơn cường tráng thì không thể có kết quả thắng diệu. Thành thật, tôi biết có
sai  lầm, nhưng  lòng  tôi không quên việc  thiện. Mong nhờ sức hộ niệm của
Đại chúng đồng  làm  từ  thân. Ngưỡng xin Đại chúng giáng đức xuống Đạo
tràng.

Thời giờ mau chóng thoạt vậy trôi qua, nếu để duyên nghiệp lôi cuốn thì khó
gặp thắng hội.

Vậy  tự mình nên phải cố gắng siêng năng khóa  lễ,  lợi mình  lợi người, chớ
hiên ngang bài xích sau không hối hận kịp.

Pháp Âm của Phật một phen  lọt vào  tai  thì công đức phước báo vĩnh kiếp
vẫn còn hoài; một niệm thiện tâm lợi ích cho thân tâm mãi mãi.

Nếu người nào có  trí hướng cương quyết thì không có nguyện gì mà không
thành tựu viên mãn.

Đại chúng cùng nhau chí tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Oai Đức Tịch diệt Phật

Nam môThọ Tướng Phật

Nam mô Đa Thiên Phật

Nam mô Tu Diệm Ma Phật

Nam mô Thiên Ái Phật

Nam mô Bảo Chúng Phật

Nam mô Bảo Bộ Phật

Nam mô Sư Tử Phân Phật

Nam mô Cực Cao Hạnh Phật 
Nam mô Nhân Vương Phật

Nam mô Thiện Ý Phật

Nam mô Thế Minh Phật

Nam mô Bảo Oai Đức Phật

Nam mô Đức Thừa Phật

Nam mô Giác Tưởng Phật

Nam mô Hỷ Trang Nghiêm Phật

Nam mô Hương Tế Phật

Nam mô Hương Tượng Phật

Nam mô Chúng Diệm Phật

Nam mô Từ tướng Phật

Nam mô Diệu Hương Phật

Nam mô Khiên Khải Phật

Nam mô Oai Đức Mãnh Phật

Nam mô Châu Khải Phật

Nam mô Nhơn Hiền Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

  
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA : TỔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng  lại cùng nhau nhờ công
đức nhơn duyên sám hối, phát tâm, nguyện cho mười phương tận hư không
giới  hết  thảy  Thiên  chủ  hết  thảt  chư  Thần,  quyến  thuộc  của  chư  Thiên
nguyện  cho  Tiên  chủ,  hết  thảy  chơn  Tiên,  quyến  thuộc  của  chơn  Tiên;
nguyện  cho  Phạm  vương, Đế  thích  ,  hộ  thế  Tứ  thiên  vương  Thần  vương,
Thần  tướng  và  quyến  thuộc  của  các  vị  ấy;  nguyện  cho  các  vị  thông minh
chánh  trực,  thiên địa  hư không,  chủ  thiện phạt  ác,  thủ  hộ  trì chú,  hết  thảy
Thần vương, hết thảy Thần tướng và quyến thuộc của các vị ấy; nguyện các
vị Diệu hóa Long vương, đầu hóa đề Long vương, Ngũ phương Long vương
Long Thần bát bộ, bát bộ Thần vương bát bộ Thần tướng và quyến thuộc của
các vị  ấy;  nguyện  cho A  tu  la vương, hết  thảy Thần vương,  hết  thảy Thần
tướng  và  quyến  thuộc  của  các  vị  ấy;  nguyện  cho  nhơn  đạo  hết  thảy  nhơn
vương,  thần dân  tướng  soái  và quyến  thuộc  của  các  vị  ấy    lại  nguyện  cho
mười phương Tỳ kheo, Tý kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni và quyến
thuộc của các vị ấy; nguyện cho Diêm la vương Thái sơn phủ quân, ngũ đạo
Đại thần, mười tám ngục vương, hết thảy Thần vương, hết thảy Thần tướng
và  quyến  thuộc  của  các  vị  ấy;  lại  nguyện  cho  hết  thảy  chúng  sanh  trong
đường địa ngục;  hết  thảy  chúng  sanh  trong đường  ngã quỉ,  hết  thảy  chúng
sanh  trong đường súc sanh và quyến  thuộc của mỗi  loài ấy;  lại nguyện cho
hết  thảy  chúng  sanh  hoặc  lớn,  hoặc  nhỏ,  cùng  tận  đời  vị  lai  trong  mười
phương,  tận  hư  không  giới  và  quyến  thuộc  của  các  chúng  sanh  ấy;  lại
nguyện cho hết thảy chúng sanh đời sau này nếu trái với lời đại nguyện hôm
nay,  tất  cả đều được  trở  lại  trong bể đại  nguyện  này, mỗi mỗi đều đầy  đủ
công đức trí huệ.

Những chúng sanh như vậy vô cùng  vô tận ở trong ba cõi hay ngoài ba cõi,
nhiếp thuộc vào danh sắc và có Phật tánh thì ngày nay đệ tử . . .  mong nhờ
sức  đại  từ  đại  bi  của mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  chư  Phật,
mong nhờ bổn  thệ nguyện  lực, vô  lượng vô  tận  trí  tuệ  lực, vô  lượng vô  tận
công đức  lực, mong nhờ phù hộ chúng sanh  lực, an ủy chúng sanh  lực  tận
chư Thiên chư Tiên  lậu  lực; nhiếp hóa nhất thế thiện thần  lực, cứu bạt nhất
thế địa ngục  lực,  tế độ nhất  thế ngã quỉ  lực; độ  thoát nhất  thế súc sanh  lực
của chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền, mong nhờ những năng
lực ấy làm cho hết thảy chúng sanh đều được như nguyện.
 Ngày nay đệ tử tên . . .  lại mong nhờ năng lực của Từ bi Đạo tràng, năng lực
quy y Tam bảo, năng lực đọn nghi sanh tín, năng lực sám hối phát tâm, năng
lực giải oan thích kiết, năng lực tự khánh hoan hỷ, năng lực hớn hở chí tâm,
năng lực phát nguyện hồi hướng thiện căn, làm cho hết thảy chúng sanh đều
được như nguyện.

Ngày nay đệ  tử chúng con  .  .  .    lại mong nhờ năng  lực đại  từ  tâm của bảy
Đức Phật, năng lực đại bi tâm  của mười phương chư Phật, năng lực diệt trừ
phiền não của ba mươi lăm đức Phật, năng lực hàng phục ma quân của năm
mươi ba đức Phật, năng  lực độ sanh của một trăm bảy chục đức Phật, năng
lực nhiếp  thọ chúng sanh của một ngàn đức Phật, năng  lực che chở chúng
sanh của mười hai vị Bồ tát, năng lực lưu thông Sám pháp của Vô Biên Thân
Bồ  tát  và  của Quán Thế Âm;  nguyện khiến  cho  tất  cả  chúng  sanh ở  trong
mười  phương,  ba  cõi,  sáu  đường,  cùng  tận  đời  vị  lai,  hoặc  lớn  hoặc  nhỏ,
hoặc thăng hoặc giáng nhiếp thuộc vào danh sắc có Phật tánh, sau ngày sám
hối nầy rồi đều được thân như thân chư Phật, chư Đại Bồ tát thân có trí huệ
rộng lớn, không thể nghĩ bàn; thân có vô lượng lực tự tại, thân lục độ, chánh
hướng bồ đề,  thân  tứ nhiếp nhiếp  thọ hết  thảy chúng sanh,  thân đại bi diệt
trừ tất cả tội khổ, thân đại từ, cho tất cả an vui, thân công đức lợi ích cho tất
cả;  thân  trí huệ,  thuyết pháp không cùng  tận;  thân kim cang vật không  thể
phá hoại  thân;  thanh  tịnh xa  lìa sanh  tử;  thân phương  tiện hiện  thần  lực  tự
tại; thân bồ đề tùy hết thảy thời gian mà hiện ra ba thân bồ đề (5).

Nguyện cho  tất cả chúng sanh  trong  tứ sanh  lục đạo đều được đầy đủ  thân
như vậy, thành tựu hoàn toàn thân vô thượng đại trí huệ của chư Phật.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh  trong mười phương  từ nay trở đi, sanh
ra nơi nào cũng như chư Phật và Bồ tát đều được miệng có công đức bất khả
tư nghị; miệng nói lời như nhuyến; làm an vui tất cả chúng sanh; miệng như
nước cam lồ, làm mát mẻ hết thảy chúng sanh; miệng không nói lời hư dối,
nói  lời  chân  thật; miệng  nói  lời  uyển  chuyển  đúng  như  sự  thật,  dầu  trong
mộng cũng không có nói lời hư dối; miệng được tôn trọng; Phạm vương Đế
thích, Tứ thiên vương đều cung kính  tôn  trọng; miệng nói pháp thậm  thâm,
giải  rõ pháp  tánh; miệng  nói  lời  kiên  cố,  nói  pháp  bất  thối; miệng  nói  lời
ngay  thẳng,  đầy  đủ  tài  hùng  biện; miệng  trang  nghiêm,  hay  tùy  thời,  tùy
nghiệp mà thị hiện cùng khắp; miệng của đấng Nhất thế trí hay  tùy theo  tất
cả chúng sanh đáng độ thoát thì độ thoát ngay.

Nguyện  cho  tất  cả  chúng  sanh  trong  bốn  loài,  sáu  đường  đều  được  khẩu
nghiệp hoàn toàn thanh tịnh như chư Phật và Bồ tát. 
Lại nguyện cho tất cả chúng sanh trong mười phương, từ nay trở đi, sanh ra
nơi  nào  đều  được  như  chư  Phật  và  Bồ  tát;  có  tâm  đại  sáng  suốt,  trí  huệ
không thể nghĩ bàn; tâm thường nhàm chán phiền não, xa lìa phiền não; tâm
mãnh  lợi,  tâm kiên cường,  tâm kim cang,  tâm bất  thối,  tâm  thanh  tịnh,  tâm
minh  liễu,  tâm  cầu  thiện,  tâm  trang  nghiêm,  tâm  quảng  đại,  có  sức  đại  trí
huệ, nghe được chánh pháp liền tự hiểu rõ; tâm hiền từ đến với người, đoạn
trừ oán kết,  thường biết sỉ nhục,  thường biết hổ  thẹn, không chấp chơn ngã
đồng xem nhau như thiện tri thức. Tâm thấy có người tu bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đều sanh tâm hoan hỷ; oán thân bình đẳng,
tâm  không  kiêu  mạn,  không  nói  việc  thiện  ác,  xấu  tốt  của  người;  không
tuyên truyền bỉ thử hòa hiệp phân ly của người; lời nói mềm mỏng, không ác
độc,  tán  thán công đức của Phật; ưa đọc kinh điển cao  sâu  thương xót che
chở chúng sanh như thương mình không khác; thấy người làm phước không
phỉ báng; tâm nhân từ hòa hiệp như các Thánh nhân, đồng với Bồ tát , thành
bậc Chánh giác.

--- o0o ---
 
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN : LỄ PHẬT THẾ CÁC CÕI TRỜI

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng biết rằng chư Thiên, chư
Tiên, hết thảy Thiện thần đối với chúng sanh có vô lượng ơn đức, không thể
nghĩ bàn; các Ngài muốn cho chúng sanh an vui mãi mãi, thương xót chúng
sanh, ân cần, phù hộ, chỉ biết làm lành cho chúng sanh mà thôi.

Vì sao mà biết?

Vì theo sắc lệnh của Phật thì Phật dạy các vị: Đề đầu Lại tra tứ thiên vương
nên có  từ  tâm ủng hộ người  trì kinh, khiến người nghe danh hiệu Đấng Từ
bi, như quần thần hộ Thiên tử vậy.

- Lại sắc hải long Y bạt la nên có từ tâm ủng hộ người trì kinh như giữ tròng
mắt, thương con đỏ, ngày đêm sáu thời không xa lìa.

- Lại sắc Diêm bà la sát tử vô số độc long và  long nữ nên có từ tâm ủng hộ
người trì kinh, như quý đầu não không dám động chạm.
 - Lại sắc Tỳ Lưu Lặc Ca Vương nên có từ tâm ủng hộ người trì kinh, như mẹ
hiền thương con lòng không chán, ngày đêm ủng hộ, đứng ngồi như nhau.

- Lại sắc Nan Đà, Bạt Nan Đà, Ta Già La Vương, Ưu Ba Đà, nên co từ tâm
ủng hộ người trì kinh, cung kính cúng dường, đảnh lễ sát đất; cũng như chư
Thiên thờ Đế thích; cũng như con thảo thờ cha mẹ.

Đạo  tràng  từ  bi  thí  an  vui,  dạy  chúng  sanh  thân  cận Phật Pháp,  đời  sau ở
trước Phật nhập Tam muội, quyết định được pháp bất thối chuyển. Nếu nghe
được danh hiệu đức Phật và của các Ngài Vô Biên và Quán Thế Âm thì ba
chướng đều tiêu trừ, ác nghiệp cũng hết, ngũ nhãn (6) đầy đủ, chứng quả bồ
đề. Các Thiên,  thần  vương  thương  tất  cả  và  thường  hay  ủng  hộ,  giúp  oai
thần.

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng,  biết  chư Thiên, Thần,
Vương có ơn đức che chở như vậy mà chúng sanh chưa  từng phát  tâm nhớ
tưởng báo đáp ơn đức ấy.

Cổ nhân còn có thể xả thân chỉ vì nhớ ơn của một bữa cơm no lòng. Huống
gì  chư  Thiên,  chư  Thần,  bát  bộ  Thần  vương,  bát  bộ  Thần  tướng  đối  với
chúng sanh có ơn đức thế ấy! Công đức ơn huệ nầy rộng lớn vô cùng, không
bờ bến.

Chúng con ngày nay sám hối phát tâm v.v...  đều nhờ ơn các vị Thiên vương
ấy thầm gia hộ thần lực giúp đỡ cho kẻ tu hành, khiến thiện tâm được thành
tựu. Nếu các Ngài không hộ trợ thì những  thiện  tâm ấy đã thối chuyển sớm
mất rồi.

Bởi thế nên các vị Đại Bồ tát ma ha tát thường tán thán thiện tri thức là nhân
duyên rất lớn, hay khiến chúng con thẳng đến Đạo tràng. Nếu không có thiện
tri  thức chúng  con  làm  sao  thấy  được Phật, vậy  nên dù  tan  xương  nát  thịt
cũng không  thể báo đáp  lòng  từ rộng  lớn ấy; cũng không  thể báo đáp  thâm
ơn cao cả ấy.

Các vị Bồ  tát ma  ha  tát  còn  tỏ  lời  cám ơn  như  vậy,  huống  gì  những  hạng
dưới  hàng Bồ  tát,  thấp kém  hơn mà không biết  lo báo ơn  sao? Chúng  con
cùng nhau hết sức vận tâm tri ân báo ân, không thể bỏ qua sau ăn năn không
kịp.
 Như trong phần Tự Vui Mừng ở đoạn trước đã nói rằng: được tái ngộ trùng
phùng  là  khó,  khó  được  kết  quả  như  ngày  nay,  còn muốn  đợi  gì  nữa mà
không lo báo ơn.

Như hội sám hối nầy rồi thì biết hội nào gặp lại.

Vậy  nên dõng mãnh  hy  sinh  vì  người;  sự  thành  có bại, xuân qua đông  về,
thời  gian  biến  chuyển,  không  chờ  đợi một  ai. Nhân mạng  vô  thường,  chỉ
sống trong hơi thở đâu có lâu dài! Nghĩ  lại, một phen này xa nhau, biết bao
giờ gặp lại.

Mọi người nên nỗ lực, nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ,
nguyện xin  thay  thế hết  thảy  thiên  chủ,  hết  thảy  chư Tiên, và quyến  thuộc
của các vị ấy, khắp mười phương,  tận hư không giới mà quy y kính  lễ  thế
gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Thệ Nguyệt Phật

Nam mô Phạm Tự Tại Vương Phật

Nam mô Sư Tử Nguyệt Phật

Nam mô Phước Thành Đức Phật

Nam mô Chánh Chủ Phật

Nam mô Vô Thắng Phật

Nam mô Nhật Quang Phật

Nam mô Bảo Danh Phật

Nam mô Đại Tinh Tấn Phật

Nam mô Sơn Quang Vương Phật
 Nam mô Thế Minh Phật

Nam mô Điện Đức Phật

Nam mô Đức Tụ Vương Phật

Nam mô Cúng Dường Danh Phật

Nam mô Pháp Tán Phật

Nam mô Bảo Ngữ Phật

Nam mô Cứu Mạng Phật

Nam mô Thiện Chúng Phật

Nam mô Định Ý Phật

Nam mô Hỷ Thắng Vương Phật

Nam mô Sư Tử Quang Phật

Nam mô Phá Hữu Ám Phật

Nam mô Chiếu Minh Phật

Nam mô Thượng Danh Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảt  Tam  bảo.
Nguyện  xin  Tam  bảo  dủ  lòng  từ  bi,  đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ;  nguyện  cho
mười phương  tận hư không giới hết  thảy Thiên chủ, hết  thảy chư Thiên và
quyến thuộc của các vị ấy, hiện tiền thường không huệ bình đẳng, được sức
trí  huệ  phương  tiện  khai  thác  vô  lậu  đạo;  hạnh  nguyện  thập  địa  đều  được
ngày  càng  sáng  tỏ,  tâm  tu  lục  độ,  tứ đẳng,  thật  hành Bồ  tát đạo,  vào Phật
hành xứ (7) do tứ hoằng thệ nguyện,không bỏ chúng sanh; biện tài vô ngại, lạc thuyết vô cùng (8) quyền xảo hóa độ, lợi ích chúng sanh; đồng lên Pháp
vân, chứng quả thường trú.

CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TIÊN
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên chí tâm một lòng
tha  thiết đầu  thành đảnh  lễ Tam bảo, nguyện vì hết  thảy Tiên chủ, hết  thảy
Chơn Tiên và quyến  thuộc của Tiên, cùng khắp mười phương tận hư không
giới mà quy mạng kính lễ thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Lợi Huệ Vương Phật

Nam mô Châu Nguyệt Quang Phật

Nam mô Oai Quang Vương Phật

Nam mô Bất Phá Luận Phật

Nam mô Quang Minh Vương Phật

Nam mô Châu Luân Phật

Nam mô Thế Sư Phật

Nam mô Các Thủ Phật

Nam mô Thiện Nguyệt Phật

Nam mô Bảo Diệm Phật

Nam mô La Hầu Thủ Phật

Nam mô Lạc Bồ Đề Phật

Nam mô Đẳng Quang Phật
 Nam mô Chí Tịch Diệt Phật

Nam mô Thế Tối Diệu Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Thập Thế Lực Phật

Nam mô Hỷ Lực Vương Phật

Nam mô Đức Thế Phật

Nam mô Đại Thế Lực Phật

Nam mô Công Đức Tạng Phật

Nam mô Chơn Hạnh Phật

Nam mô Thượng An Phật

Nam mô Đề Sa Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
Tiên chủ, hết  thảy Chơn  tiên và quyến  thuộc của Tiên đều được giải  thoát
khách  trần  phiền  não(9)  đều  được  thanh  tịnh,  hết  các  duyên  chướng  ngại,
đều được diệu sắc trạm nhiên như thân tướng của Phật; tứ vô lượng tâm, lục
Ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực đều được
tự  tại như ý;  ra vào, dạo chơi cảnh giới Bồ  tát,  lên Pháp vân địa, vào Kim
cang tâm; dùng sức thần thông bất khả tư nghị, trở  lại độ thoát hết thảy sáu
đường chúng sanh.

 
 CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TRỜI

PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo,  nguyện  vì  các  vị  trời  Phạm  vương,  trời  Đế  Thích,  Hộ  thế  tứ  Thiên
vương và quyến thuộc của các vị trời ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Đại Quang Phật.

Nam mô Điện Minh Phật.

Nam mô Quảng Đức Phật.

Nam mô Trân Bảo Phật.

Nam mô Phước Đức Minh Phật.

Nam mô Tạo Khải Phật.

Nam mô Thành Thủ Phật.

Nam mô Thiện Hoa Phật.

Nam mô Tập Bảo Phật.

Nam mô Đại Hải Phật.

Nam mô Trì Địa Phật.

Nam mô Nghĩa Ý Phật.

Nam mô Thiện Tư Duy Phật.

Nam mô Đức Luân Phật.

Nam mô Bảo Quang Phật. 
Nam mô Lợi Ích Phật.

Nam mô Thế Nguyệt Phật.

Nam mô Mỹ Âm Phật.

Nam mô Phạm Tướng Phật.

Nam mô Chúng Sư Thủ Phật.

Nam mô Sư Tử Hạnh Phật.

Nam mô Nan Thí Phật.

Nam mô Ứng Cúng Phật.

Nam mô Minh Oai Đức Phật.

Nam mô Đại Quang Vương Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
vị Trời Phạm vương Đế Thích, Hộ Thế Tứ Thiên vương và quyến thuộc của
các vị ấy được các pháp lục độ, tứ đẳng, ngày càng sáng tỏ, tứ vô ngại biện
lạc thuyết vô cùng, được bát tự tại (10) đủ lục thần thông tam muội và tổng
trì móng  tâm  liền  có,  từ bi bủa khắp, bách  phước  trang  nghiêm,  vạn  thiện
viên mãn,  tam  đạt  sáng  suốt,  ngũ  nhãn  hoàn  toàn,  làm Chuyển  luân  pháp
vương (11) nhiếp hóa lục đạo chúng sanh.

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ BẢY

--- HẾT --- 
1 Biên địa nơi không có Phật pháp, thường không biết lễ nghi, không có văn
hóa, mỹ tục Trái với Trung quốc là nơi thường có Phật pháp, có lễ giáo.

2 Trường  thọ  thiên: Cõi  trời phi  phi  tưởng,  cõi  cuối  cùng  của  vô  sắc giới,
không có Phật pháp, hay đọa tà kiến, ngoại đạo.

3 Tà kiến:  nhận  thức  sai  lầm, không  tin  nhơn quả,  luân  hồi, hay  hủy báng
Tam bảo, hay theo ngoại đạo.

4 Thế trí biện thông: biện tài ngôn thuyết lanh lợi theo trí thế gian, bênh vực
sự không tin của mình.

5 Tam thân Bồ đề: tức ba thân của Phật đã chứng được: 1- Pháp thân, 2- Báo
thân, 3- Ứng thân.

6 Ngũ nhãn: nhục nhãn,  thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Năm
thứ mắt nhận thấy có năm sức lực sai khác nhau.

7 Phật hành xứ: cảnh giới của Phật.

8 Lạc thuyết vô cùng: hoan hỷ nói pháp, không bao giờ cùng tận. Một món
biện tài trong 4 biện tài của chư Phật.
 

9 Khách  trần phiền não: phiền não  làm nhiễm ô  tâm  tánh như bụi  trần che
gương lòng sáng suốt. Phiền não không phải vật.

10 Bát tự tại: 1- Một thân hay hiện làm nhiều thân. 2- Một thân nhỏ như bụi
cát hay hiện đầy  tam  thiên đại  thiên  thế giới. 3- Thân  to  lớn cất  lên rất nhẹ
nhàng đến xa vô tận. 4- Hiện ra vô lượng thân theo vô số loại chúng sanh ở
trong một quốc độ. 5- Các  căn  tai mắt dùng  lẫn  lộn được  (như mắt  có  thể
nghe,  tai có  thể ngửi, mũi có  thể  thấy). 6- Được  tất cả các pháp mà  tưởng
như  không  có  pháp  nào.  7- Nói  nghĩa  một  bài  kệ  trong  kinh  trải  qua  vô
lượng kiếp cũng không hết nghĩa. 8- Thân biến khắp nơi như hư không.

Kiên  cố  bám  víu,  chỉ  tạm  bợ  nên  gọi  là  khách. Do mê  lý  tánh,  gặp  ngoại
duyên kích thích tâm tánh phát động sanh ra phiền não. Nếu tịnh tâm tu hành
thì phiền não hết.
 11 Chuyển luân Pháp vương: Ông vua chuyển bánh xe pháp của Phật (chính
là Đức Phật).

--- o0o ---


QUYỂN THỨ TÁM
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY :LỄ PHẬT THẾ A TU LA VÀ HẾT THẢY
THIỆN THẦN

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, năm vóc sát đất, nguyện xin thay thế hết thảy A tu la vương, hết thảy A
tu  la và quyến  thuộc caủ A  tu  la khắp mười phương  tận hư không giới,  lại
nguyện vì hết  thảy các vị  thông minh, chánh  trực,  thiên địa hư không, chư
thiện, phạt ác, thủ hộ, trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần tướng, rộng ra
cho đến, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc xa hoặc gần, đông tây nam bắc, tứ duy
thượng hạ, cùng khắp pháp giới, các vị có sức đại thần thông, có sức đại oai
đức như vậy, chúng con nguyện  thay  thế cho  tất cả các vị ấy mà quy y  thế
gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Bảo Danh Phật

Nam mô Chúng Thanh Tịnh Phật

Nam mô Vô Biên Danh Phật

Nam mô Bất Hư Quang Phật

Nam mô Thánh Thiên Phật

Nam mô Trí Vương Phật

Nam mô Kim Cang Chúng Phật
 Nam mô Thiện Chướng Phật

Nam mô Kiến Từ Phật

Nam mô Hoa Quốc Phật

Nam mô Pháp Ý Phật

Nam mô Phong Hành Phật

Nam mô Thiện Tư Danh Phật

Nam mô Đa Minh Phật

Nam mô Mật Chúng Phật

Nam mô Công Đức Thủ Phật

Nam mô Lợi Ý Phật

Nam mô Vô Cụ Phật

Nam mô Kiên Quán Phật

Nam mô Trú Pháp Phật

Nam mô Châu Túc Phật

Nam mô Giải Thoát Đức Phật

Nam mô Diệu Thân Phật

Nam mô Thiện Ý Phật

Nam mô Phổ Đức Phật

Nam mô Quang Vương Phật

Nam mô Vô Biên Thân Phật
 Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm ủng hộ che chở, nguyện A
tu la vương, hết thảy A tu la và quyến thuộc của A tu la. Lại xin nguyện cho
các vị thông minh chánh trực, thiện địa hư không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ
trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần  tướng và quyến thuộc của các vị ấy,
thoát được khách  trần phiền não,  thanh  tịnh được các chuyện chướng, phát
tâm đại thừa tu đạo vô ngại, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện
tiền,  tứ vô ngại biện, sáu  thức  thần  thông đều được như ý muốn, hằng đem
từ bi cứu độ chúng sanh, tu đạo Bồ tát, vào trí huệ Phật, chứng tâm kim cang
thành bậc Chánh giác.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM : CÒN THIẾU

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ MA VƯƠNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ, năm
vóc sát đất, nguyện vì đại ma vương, ngũ đế đại ma, cho đến đông tây nam
bắc, tứ duy thượng hạ, tận hư không giới, hết thảy ma vương và bà con của
ma mà quy y kính lễ . . .  Nhất thế thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Mâu Ni Phật

Nam mô An Tường Hạnh Phật

Nam mô Cần Tinh Tấn Phật

Nam mô Diệm Kiện Phật

Nam mô Đại Oai Đức Phật 
Nam mô Chiêm Bặc Hoa Phật

Nam mô Hoan Hỷ Phật

Nam mô Thiện Chúng Phật

Nam mô Đế Tràng Phật

Nam mô Đại Ái Phật

Nam mô Tu Mạn Sắc Phật

Nam mô Chúng Diệu Phật

Nam mô Khả Lạc Phật

Nam mô Thiện Định Nghĩa Phật

Nam mô Ngưu Vương Phật

Nam mô Diệu Tý Phật

Nam mô Đại Xa Phật

Nam mô Mãn Nguyện Phật

Nam mô Đức Quang Phật

Nam mô Bảo Âm Phật

Nam mô Kim Cang Quân Phật

Nam mô Phú Quý Phật

Nam mô Thế Lực Hạnh Phật

Nam mô Sư Tử Lực Phật

Nam mô Tịnh Mục Phật 
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi, đồng gia  tâm che chở, nguyện cho đại
ma vương, ngũ đế đại ma, hết thảy ma vương và quyến thuộc của ma, từ vô
thỉ  trở  lại cho đến ngày nay, bao nhiêu chướng duyên  thảy đều  thanh  tịnh,
bao nhiêu  tội  nghiệp  thảy đều  tiêu  trừ,  tất  cả khổ não đều được giải  thoát,
bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí, sáu
sức thần thông, như ý tự tại, tu đạo Bồ tát không  thôi không nghỉ, trước độ
chúng sanh sau thành Phật đạo. 

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHO NHƠN ĐẠO,
QUỐC VƯƠNG V.V...

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng đã cùng nhau nguyện vì
chư Thiên, chư Tiên Long thần bát bộ mà lễ Phật rồi.

Nay đây nguyện vì nhơn đạo, hết thảy nhơn vương, lễ Phật mà báo ơn nhơn
loại.

Lại nguyện cha mẹ, Sư trưởng và hết thảy nhơn dân mà lễ Phật. Vì sao vậy?

Vì nếu không có quốc chủ  thì hết  thảy   chúng sanh không biết nương nhờ
vào đâu. Nhờ có quốc chủ nên tất cả mọi người đều an cư lạc nghiệp; đi lại
trên đất quốc chủ, sống trên đất quốc chủ, và được nhiều lợi ích khác không
thể kể xiết; cho nên Đại chúng phải có lòng biết ơn và báo ơn.

Kinh dạy rằng:

Nếu người nào, ngày đêm sáu thời hay chịu khổ, vì muốn lợi ích nên nguyện
báo ơn, thì phải phát tâm nghĩ như thế ấy để tu tập hạnh từ bi.
 Do nguyện lực ấy, nên nghĩ báo ơn che chở của quốc chủ, nghĩ báo ơn cung
cấp của thí chủ, nghĩ báo ơn sinh thành của cha mẹ; nghĩ báo ơn dạy bảo của
Sư trưởng, nghĩ báo ơn tế độ của chư Phật.

Nếu người nào hay chí tâm thường niệm tưởng như vậy, người ấy nhập đạo
rất mau.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ơn lành của chư
Phật, Đại thánh khai hóa dụ dỗ chúng ta, ân cần như thế, khiến chúng ta phải
biết báo ơn.

Ngày nay chúng ta sanh vào đời mạt pháp, mong nhờ ơn quốc chủ mà hưng
hiển được Phật pháp; nhờ quốc chủ cúng dường đày đủ, không tiếc của báu,
làm  cho khắp  cả  nhơn dân đều  noi  gương quốc  chủ  và  sanh  tâm  quy kính
Phật Pháp Tăng.

Lại nữa người xuất gia được an tâm hành đạo, đi đứng nằm ngồi được tự do,
không bị trở ngại; quốc chủ không cho người xuất gia tham dự việc đời; chỉ
lo khuyên người  làm  lành, nguyện cho chúng sanh mau  thoát khỏi sanh  tử
khổ  đau;  chỉ  lo  xiển  dương  vô  lượng  Pháp môn,  chỉ  bày  đường  chơn  nẻo
chánh cho  trời và người. Nhờ ơn quốc chủ nhiều như vậy  thì chúng  ta đâu
được không hết  lòng  lễ Phật để báo ơn quốc chủ, phải cùng nhau chí thành
đảnh lễ nguyện vì quốc chủ mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Ca Diếp Phật

Nam mô Tịnh Ý Phật

Nam mô Tri Thức Đệ Phật

Nam mô Mãnh Oai Đức Phật

Nam mô Đại Quang Minh Phật

Nam mô Phật Quang Diệu Phật
 Nam mô Tịnh Tạng Phật

Nam mô Phân Biệt Oai Phật

Nam mô Vô Tổn Phật

Nam mô Mật Nhật Phật

Nam mô Nguyệt Quang Phật

Nam mô Trì Minh Phật

Nam mô Thiện Tịch Hạnh Phật

Nam mô Bất Động Phật

Nam mô Đại Thỉnh Phật

Nam mô Đức Pháp Phật

Nam mô Trang Nghiêm Vương Phật

Nam mô Cao Xuất Phật

Nam mô Diệm Xí Phật

Nam mô Hoa Đức Phật

Nam mô Bảo Nghiêm Phật

Nam mô Thượng Thiện Phật

Nam mô Bảo Thượng Phật

Nam mô Lợi Huệ Phật

Nam mô Nghiêm Độ Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
 Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng từ bi, gia tâm nhiếp thọ nguyện cho quốc chủ
hiện  tại  thân  thể khương kiện, oai đức vang  lừng  sự nghiệp vĩnh viễn, huệ
mạng vô cùng, từ tâm vô tận, hữu tình quy tâm, Bồ tát thạnh hóa, trời người
ngợi  khen,  ngưỡng mộ. Tứ đẳng  lục  độ,  ngày  càng  thêm  sáng,  tứ  vô  ngại
biện  lạc  thuyết vô cùng; được  tâm  tự tại, đủ sáu thần thông, tam muội tổng
trì móng tâm liền có; từ bi thương đời, ân khắp lục đạo, vạn hạnh sớm viên,
Phật đạo chóng thành.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ QUYẾN THUỘC
CỦA QUỐC CHỦ

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại đầu thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện vì quyến thuộc của quốc chủ và bá quan cùng quyến thuộc của
bá quan mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Hải Đức Phật.

Nam mô Phạm Tướng Phật.

Nam mô Nguyệt Cái Phật.

Nam mô Da Diệm Phật.

Nam mô Vi Lam Vương Phật.

Nam mô Trí Xưng Phật.

Nam mô Giác Tưởng Phật.

Nam mô Công Đức Quang Phật. 
Nam mô Thanh Lưu Bố Phật.

Nam mô Mãn Nguyện Phật.

Nam mô Hoa Quang Phật.

Nam mô Thiện Giới Phật.

Nam mô Đăng Vương Phật.

Nam mô Điện Quang Phật.

Nam mô Quang Vương Phật.

Nam mô Quang Minh Phật.

Nam mô Cụ Túc Tán Phật.

Nam mô Hoa Tạng Phật.

Nam mô Phất Sa Phật.

Nam mô Thân Đoan Nghiêm Phật.

Nam mô Tịnh Nghĩa Phật.

Nam mô Oai Mãnh Quân Phật.

Nam mô Phước Oai Đức Phật.

Nam mô Lực Hành Phật.

Nam mô La Hầu Thiên Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo. 
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm phủ hộ, nguyện cho quyến
thuộc của quốc chủ , bá quan và quyến thuộc của các vị ấy thân tâm an lạc,
sống lâu vô cùng, tu đạo đại thừa, vào trí huệ Phật; giữ bốn hoằng thệ, không
xả bỏ chúng sanh, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; lục
thông tám đạt, thấu rõ căn tánh đủ nhị trang nghiệm, thần  lực tự tại, từ tâm
như Phật nhiếp hóa chúng sanh.       

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng kế lại nên nhớ nghĩ công
ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ; hoài thai bú mớm, ái trọng tình thâm,
thà cha mẹ chịu nguy  thân để con được yên ổn. Đến khi con khôn  lớn, cha
mẹ  lại  lo dạy bảo cho con biết nhơn biết  lễ, hết  lòng cầu  thầy dạy bảo cho
con học hành, nguyện cho con  thông đạt nghĩa  lý,  thấy rộng hiểu sâu,  luôn
luôn mong muốn  cho  con  theo  kịp  với  người. Con muốm  gì  cha mẹ  cũng
cung cấp không tiếc gia bửu.

Ngày đêm  lo âu, có khi vì con mà cha mẹ phải sanh bệnh khổ, ngủ không
yên giấc. Khi con đi xa, cha mẹ càng trông tưởng.

Trong thiên hạ, ơn cha mẹ là nặng hơn hết.

Sở dĩ Phật dạy:

“Trong thiên hạ, không có ơn nào bằng ơn cha mẹ”

Than ôi! người xuất gia và tại tục chưa thể đắc đạo phải siêng lo tu học, làm
lành không nghỉ, chứa đức không thôi, mới mong báo đáp ơn đức cù lao của
cha mẹ.

Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ Tam bảo mỗi người tự mình nguyện
vì  từ khi  có  thần  thức  trở  lại  cho  đến  ngày  nay,  cha mẹ  nhiều  đời  bà  con
nhiều kiếp và hết thảy quyến thuộc mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật.
 Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.

Nam mô Trí Tụ Phật.

Nam mô Điều Ngự Phật.

Nam mô Như Vương Phật.

Nam mô Hoa Tướng Phật.

Nam mô La Hầu La Phật.

Nam mô Đại Dược Phật.

Nam mô Túc Vương Phật.

Nam mô Dược Vương Phật.

Nam mô Đức Thủ Phật.

Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.

Nam mô Lưu Bố Vương Phật.

Nam mô Phật Quang Phật.

Nam mô Pháp Tạng Phật.

Nam mô Diệu Ý Phật.

Nam mô Đức Chủ Phật.

Nam mô Kim Cang Chúng Phật.    

Nam mô Huệ Đảnh Phật.

Nam mô Thiện Chú Phật.

Nam mô Ý Hạnh Phật.
 Nam mô Phạm Âm Phật.

Nam mô Sư Tử Phật.

Nam mô Lôi Âm Phật.

Nam mô Thông Tướng Phật.

Nam mô An Ổn Phật.

Nam mô Huệ Long Phật.

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho cha
mẹ bà con chúng con và quyến  thuộc của cha mẹ bà con chúng con  từ nay
trở đi cho đến ngày  thành Phật, hết  thảy  tội chướng đều được  tiêu  trừ, hết
thảy thống khổ đều được giải thoát, kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh,
từ dài  tứ  thú,  tự  tại vãng sanh,  thân cận chư Phật, được Phật  thọ ký,  tứ vô
lượng  tâm  lục  ba  la mật  thường  được  hiện  tiền,  tứ  vô  ngại  biện,  lục  thần
thông  lực,  tự  tại như ý, được mười  trí  lực,  tướng  tốt nghiêm  thân, đồng  lên
Đạo tràng, thành bậc Chánh giác. 

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ CÁC ĐỜI
TRƯỚC

 Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  hoặc  có  người  cha mẹ
mất sớm, không thể gặp lại, luống tưởng vậy thôi.

Khi  chưa  được  thần  thông  thiên  nhãn,  không  biết  cha mẹ  sau  khi mất  rồi
thần hồn sanh về đâu?

Chỉ nên vội nhờ  sức phước đức    truy niệm vói  tưởng mà báo ơn;  làm  lành
không nghỉ, lâu ngày thành công thì quyết được toại nguyện. 
Kinh  dạy  rằng:  “Vì  vong  nhơn mà  làm  phước  cũng  như  gửi  lương  hướng
cho người đi xa. Nếu người ấy đã  sanh  lên  trời  thì công đức của người ấy
ngày càng  lợi  ích. Nếu người ấy đọa  lạc  tam đồ ác đạo, hoặc mắc phải tám
nạn  thì được vĩnh viễn xa  lìa khổ não. Nếu các người ấy sanh ra gặp Phật,
thọ lãnh chánh pháp thì liền được siêu thoát tỏ ngộ.

Cha mẹ bảy đời, bà con nhiều kiếp  thì  trừ hết những điều  lo sợ, đồng được
giải  thoát. Đó  là  cách báo ơn  tối  tôn  tối  thượng,  chí  từ chí  hiếu  của  người
con trí thức vậy.

Ngày nay Đại chúng nên phải cùng nhau đau thương hoải niệm, áo não khóc
lóc, nghẹn ngào, gieo mình xuống đất, nguyện vì cha mẹ nhiều đời, bà con
nhiều kiếp mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Vương Phật

Nam mô Ngưu Vương Phật

Nam mô Lợi Đà Mục Phật

Nam mô Long Đức Phật

Nam mô Thuật Tướng Phật

Nam mô Trang Nghiêm Phật

Nam mô Bất Một Âm Phật

Nam mô Hoa Đức Phật

Nam mô Âm Đức Phật

Nam mô Sư Tử Phật

Nam mô Trang Nghiêm Từ Phật 
Nam mô Dõng Trí Phật

Nam mô Hoa Tích Phật

Nam mô Hoa Khai Phật

Nam mô Lực Hành Phật

Nam mô Đức Tích Phật

Nam mô Thượng Hình Sắc Phật

Nam mô Minh Diệu Phật

Nam mô Nguyệt Đăng Phật

Nam mô Oai Đức Vương Phật

Nam mô Bồ Đề Nhãn Phật

Nam mô Thân Sung Mãn Phật

Nam mô Huệ Quốc Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, cứu vớt tiếp độ cha mẹ và bà con chúng
con nhiều đời nhiều kiếp về quá khứ, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật
Đạo, hết  thảy  tội  nhơn đều được  tiêu  trử, hết  thảy khổ quả đều được  sạch
hết, phiền não kiết nghiệp hoàn  toàn  thanh  tịnh, đoạn ba chướng duyên  trừ
năm bố úy,  tu đạo Bồ  tát rộng độ chúng sanh, bát giải  tu  tâm,  tứ hoằng  lợi
vật, thân cận Như Lai, được Phật thọ ký, không rời khỏi chỗ, chứng quả vô
sanh, tùy niệm tiêu diêu, dạo khắp cõi Phật, hạnh nguyện chóng thành, mau
chứng Chánh giác.
 CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN : LỄ PHẬT THẾ SƯ TRƯỞNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng đã vì cha mẹ và bà con
mà lễ Phật rồi. Thứ lại nên nghĩ đến ơn đức Sư trưởng. Vì sao vậy?

- Vì cha mẹ  tuy có công sanh  thành dưỡng dục chúng  ta, nhưng không  thể
làm  thế nào cho chúng  ta mau xa  lìa đường ác. Cho nên Sư  trưởng đối với
chúng  ta  có ơn đức vô  lượng Sư  trưởng  có  lòng đại  từ dìu dắt khuyên dỗ,
hằng dạy chúng ta tu  thiện muốn chúng  ta ra khỏi biển sanh tử, đến bờ giải
thoát bên kia. Mọi điều  lợi  ích đều khiến  chúng  ta  thấy Phật,  trừ hết phiền
não kiết tập an trú vào đạo vô vi.

Ơn đức như vậy, ai hay báo đáp cho cùng tận. Dầu trọn đời tu hành đó chỉ là
tự lợi chớ chưa phải báo đáp ơn Sư trưởng.

Sở dĩ Phật dạy:”Thiện tri thức trong thiên hạ, không ai hơn Sư trưởng, đã tự
độ mình lại hay độ người”.

Chúng  ta ngày nay được xuất gia  thọ đại giới, hạnh phúc nầy  là nhờ ơn Sư
trưởng mà được. Như thế, mọi người há lại không  lo đền đáp nhớ tưởng ơn
thầy sao?

Vậy  Đại  chúng  cùng  nhau  chí  tâm  một  lòng  tha  thiết,  năm  vóc  sát  đất,
nguyện vì Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng thượng, trung, hạ tòa và
quyến thuộc của các vị ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Tối Thượng Phật

Nam mô Thanh Tịnh Chiếu Phật

Nam mô Huệ Đức Phật

Nam mô Diệu Âm Thanh Phật

Nam mô Đạo Sư Phật
 Nam mô Vô Ngại Tạng Phật

Nam mô Thượng Thí Phật

Nam mô Đại Tôn Phật

Nam mô Trí Thế Phật

Nam mô Đại Diệm Phật

Nam mô Đế Vương Phật

Nam mô Chế Lực Phật

Nan mô Oai Đức Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Danh Văn Phật

Nam mô Đoan Nghiêm Phật

Nam mô Vô Trần Cấu Phật

Nam mô Oai Nghi Phật

Nam mô Sư Tử Quân Phật

Nam mô Thiên Vương Phật

Nam mô Danh Thanh Phật

Nam mô Thù Thắng Phật

Nam mô Đại Tạng Phật

Nam mô Phước Đức Quang Phật

Nam mô Phạm Văn Phật
 Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện  xin  Tam  bảo  dủ  lòng  từ  bi,  đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ,  nguyện Hòa
thượng, A  xà  lê,  đồng  đàn  tôn  chứng,  thượng,  trung,  hạ  tòa  và  các  quyến
thuộc của các vị ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả tội chướng
đều được  thanh  tịnh,  tất cả  thống khổ đều được giải  thoát,  tất cả phiền não
đều được đoạn  trừ; tù ý sanh về tịnh độ của chư Phật, hạnh nnguyện Bồ tát
đều được hoàn toàn, tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc
vô  tận,  thọ  mạng  vô  tận,  trí  huệ  vô  tận,  tứ  vô  lượng  tâm,  lục  ba  la  mật
thường được hiện  tiền,  tứ vô ngại  trí,  lục  thần  thông  lực,  tự  tại như ý, vào
định Lăng Nghiêm, được  tâm kim cang, không bỏ  thề xưa,  trở  lại đời nầy,
hóa độ chúng sanh.    

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM : LỄ PHẬT THẾ MƯỜI PHƯƠNG

TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã vì Hòa thượng A xà lê
v.v... mà  lệ Phật  rồi,  sau  đây  lại  phải  chí  thành  đảnh  lễ Tam  bảo,  khắp  vì
mười phương tận hư không giới, hiện tại và vị lai hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni thức xoa ma na, sa di, sa di ni cùng quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật,
lại nguyện vì mười phương, tận hư không giới hết thảy Ưu bà tắc, Ưu bà di
và quyến  thuộc của các vị ấy mà  lễ Phật;  lại nguyện vì  từ xưa đến nay hết
thảy các nhà tín thí đàn việt, thiện ác tri thức với những người có duyên hay
vô duyên  với Phật pháp,  cùng quyến  thuộc  của  các vị  ấy mà  lễ Phật. Như
thế, hết  thảy nhơn  loại  trong nhơn đạo và quyến  thuộc của nhơn đạo ngày
nay Đại chúng do từ bi tâm khắp vì hết thảy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đăng Vương Phật
 Nam mô Trí Đảnh Phật

Nam mô Thượng Vương Phật

Nam mô Địa Vương Phật

Nam mô Chí Giải Thoát Phật

Nam mô Kim Kế Phật

Nam mô La Hầu Nhật Phật

Nam mô Mạc Năng Thắng Phật

Nam mô Mâu Ni Tịnh Phật

Nam mô Thiện Quang Phật

Nam mô Kim Tế Phật

Nam mô Chủng Đức Thiên Vương Phật

Nam mô Pháp Cái Phật

Nam mô Đức Tý Phật

Nam mô Ương Già Đà Phật

Nam mô Mỹ Diệu Huệ Phật

Nam mô Vy Ý Phật

Nam mô Chư Oai Đức Phật

Nam mô Sư Tử Kế Phật

Nam mô Giải Thoát Tướng Phật

Nam mô Oai Tướng Phật
 Nam mô Đoạn Lưu Phật

Nam mô Huệ Tạng Phật

Nam mô Trí Tụ Phật

Nam mô Vô Ngại Tán Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia t6m che chở, nguyện cho mười
phương tận hư không giới hết thảy Tỳ, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa
di ni và quyến thuộc của các vị ấy; lại nguyện cho mười phương hết thảy ưu
bà tắc, ưu bà di và quyến thuộc của các vị ấy, lại nguyện cho từ xưa đến nay
hết thảy các nhà tín thí, đàn việt, thiện hữu, ác hữu, cùng các người có duyên
hay vô duyên với Phật pháp và quyến  thuộc của các vị ấy, rộng ra cho đến
nhân  loại, hết  thảy nhân đạo,  từ vô  thỉ  trở  lại cho đến ngày nay, bao nhiêu
phiền não điều được đoạn trừ, bao nhiêu duyên chướng đều được thanh tịnh,
bao nhiêu tội nghiệp đều được sạch hết, bao nhiêu thống khổ đều được giải
thoát;  xa  lìa  ba  nghiệp,  trừ  năm  sợ  hãi;  bốn  vô  lượng  tâm,  sáu  ba  la mật
thường được hiện tiền; bốn vô ngại trí, sáu thức thần thông đều được tự tại,
tu Bồ tát hạnh, vào đạo nhất thừa, độ thoát chúng sanh.

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ TỨ CHÚNG QUÁ
KHỨ

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo tràng  lại hết  lòng đảnh  lễ Tam
bảo. Nguyện vì mười phương tận hư không giới hết  thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni đã qua đời rồi; hết thảy ưu bà tắc, ưu bà di,
rộng ra cho đến mười phương hết  thảy nhân đạo, hết  thảy nhân đạo đã qua
đời rồi và quyến thuộc của các vị ấy, ngày nay Đại chúng do tâm từ bi đồng
như tâm của chư Phật, khắp các người ấy mà quy y thế gian Đại tử bi phụ:
 Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam Bảo Tụ Phật

Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô Sơn Vương Tướng Phật

Nam mô Pháp Đảnh Phật

Nam mô Giải Thoát Đức Phật

Nam mô Thiện Đoan Nghiêm Phật

Nam mô Cát Thân Phật

Nam mô Ái Ngữ Phật

Nam mô Sư Tử Lợi Phật

Nam mô Hòa Lâu Na Phật

Nam mô Sư Tử Pháp Phật

Nam mô Pháp Lực Phật

Nam mô Ái Nhạo Phật

Nam mô Tán Bất Động Phật

Nam mô Chúng Minh Vương Phật

Nam mô Giác Ngộ Phật

Nam mô Diệu Minh Phật

Nam mô Ý Trú Nghĩa Phật
 Nam mô Quang Chiếu Phật

Nam mô Hương Đức Phật

Nam mô Linh Hỷ Phật

Nam mô Bất Hư Hạnh Phật

Nam mô Diệt Khuể Phật

Nam mô Thượng Sắc Phật

Nam mô Thiện Bộ Phật

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi, cứu hộ nhiếp  thọ, nguyện cho hết  thảy
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni và quyến thuộc của các
vị  ấy  trong  đời  quá  khứ;  và  nguyện  cho  hết  thảy  ưu  bà  tắc,  ư  bà  di  cùng
quyến thuộc của các vị ấy trong đời quá khứ; nếu có người nào bị thống khố
trong đường địa ngục, ngày nay  liền được giải  thoát; hoặc có người nào bị
thống khổ trong đường ngã quỉ, ngày nay liền được giải thoát; hoặc có người
nào  bị  thống  khổ  trong  đường  súc  sanh,  ngày  nay  liền  được  giải  thoát;  ra
khỏi  tám nạn,  ra khỏi  tám nạn, sanh vào  tám phước, hằng xa  lìa đường ác,
hắng sanh về tịnh độ; tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc
vô  tận,  thọ mạng vô  tận,  trí huệ vô  tận,  tứ vô  lượng,  lục ba  la mật,  thường
được hiện tiền, tứ vô ngại trí,  lục thần thông  lực, như ý tự tại;  thường được
thấy Phật, nghe pháp, tu Bồ tát đạo, dõng mãnh, tinh tấn, không thôi không
nghỉ,  tiến  lên cho đến địa vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, rộng độ hết
thảy chúng sanh.

 
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ TÁM
 --- HẾT ---


QUYỂN THỨ CHÍN
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY

LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG ĐỊA NGỤC A TỲ
 
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy từ phần quy y
trở  đi  cho  đến  phần  nầy  về  sau  đều  trình  vạn  pháp  sai  biệt,  tội  phước  bất
nhất, nhưng cũng rõ ràng như sáng và tối, tóm lại mà nói thì chỉ có thiện và
ác mà thôi.

Thiện là con đường tốt đẹp, đi lên các cõi trên, ác là nẻo xấu xa, đọa xuống
các cõi dưới, trong ba dường ác. Tu nhơn nghĩa thì đi về cảnh giới an vui tốt
đẹp, gây tàn hại thì đọa xuống cảnh giới khổ đau hà tiện. Người ở cảnh thù
thắng an vui là do nghiệp thù thắng vui mà được quả báo tốt đẹp, chứ không
phài do sự tranh đua vô đạo, tàn ác bất nhơn mà được.

Người ở cảnh thắng thọ hưởng vui thú nhiệm mầu, tự nhiên, tiêu diêu tự tại,
thẳng đến đạo bồ đề giác ngộ. Người ở cảnh hà liệt đau khổ là do nghiệp xấu
xa, hạ liệt, tàn ác bất nhơn gây ra.

Người  ất  ở  trong  hỏa  thành  lưới  sắt;  ăn  thời  ăn  hoàn  sắt  nóng mãnh  liệt;
uống thời uống nước đồng sôi dữ dội. Thọ mạng vô tận kiếp số vô cùng chịu
đủ thống khổ.

Thống khổ  trong địa ngục không  thể kể xiết, không  thể chịu nổi. Tinh  thần
lìa khỏi  thân mạng nầy  liền sa đọa vào địa ngục hỏa  thành. Quả báo  thì có
đao luân gia hình, đền nợ thì có đá lửa mài thân. Mạng sống kéo dài, ôm khổ
mà chịu. Dầu thoát khỏi địa ngục cũng đọa vào ngã quỉ. Thân hình tiều tụy,
ôm  lòng đói  khát, miệng khạc  ra  lửa, mạng  sống mong manh. Chết  rồi  lại
đọa làm súc sanh chịu bao khổ sở. Do thịt làm đồ ăn thân hình bị chia xẻ nấu
nướng, yến  tiệc  linh đình. Hoặc  là chở nặng đi xa,  làm việc nguy hiểm. Đó
là một nỗi khổ nặng nhất trong ba đường ác. Đau đớn  thay cho những kẻ ở
trong đêm dài của dục vọng mờ mịt không có ngày ra mà không tự biết!
 Vui khổ rõ ràng như vậy, mà nói không ai tin! Cũng chỉ vì chúng sanh hay
chấp  lấy  cái  bản  ngã  nhỏ  nhen  của mình  nên  không  tin,  lại  nghi  ngờ mê
muội.

Bởi nghi ngờ mê muội nên có  lam ngưuời không ưa điều  lành. Sở dĩ Phật
dạy:  “Đời  có mười  việc  chết  đọa  địa  ngục:  1- Ý  không  chuyên  làm  lành,
không tu công đức. 2- Tham ăn như cọp đói kia không khác. 3- Say mê tửu
sắc, ôm lòng độc hại. 4- Thường tập ngu si, không nghe lời can gián. 5- Tự ý
sức mình, làm các việc ác. 6- Ưa giết chúng sanh, lấn hiếp người cô quả. 7-
Thường làm bạn với kẻ ác. 8- Xâm lấn phạm vi của người. 9- Lời nói không
chân thật. 10- Không thương mọi loài, làm các nghiệp ác. Những người như
thế, không thể sống lâu, chết vào đường ác”.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy: Theo lởi Phật
dạy, mấy ai  thoát được. Nếu không  thoát được  thì ở  trong địa ngục đều có
tội phần.

Đại  chúng  mọi  người  đều  đã  lãnh  hội  được  ý  ấy,  thì  tự mình  không  nên
buông  lung phải gấp  tu Bồ  tát đạo; cần cầu Phật pháp,  lợi  ích chúng sanh.
Trước là tự diệt tội cho mình, sau  lá sanh phước cho người. Đó  là tự  lợi  lợi
tha, mình và người không khác.

Ngày nay khởi tâm dõng mãnh, tâm kiên cố, tâm từ bi, tâm độ hết thảy, tâm
cứu  hết  thảy.  Phát  tâm  như  vậy  cho  đến  khi  thành  Phật,  không  quên  bổn
nguyện.

Nguyện xin hết  thảy mười phương tận hư không giới chư Phật, chư Đại Bồ
tát, đem đại  thần  thông  lực, đại  từ bi  lựa, đại giải  thoát địa ngục  lực,  tế độ
ngã quỉ lực, cứu tế chúng sanh lực, đại thần chú lục, đại oai mãnh lực, khiến
chúng con  tên . . .  việc  làm đều được kết quả  lợi  ích,  lời nguyện đều được
thành tựu viên mãn.

 Chúng  con một  lòng  tha  thiết  đầu  thành  đảnh  lễ Tam  bảo,  nguyện  vì  hết
thảy chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục a  tỳ, cho đến hết thảy chúng
sanh đang chịu khổ  trong hắc ám địa ngục,  trong mười  tám địa ngục  lạnh,
trong mười tám địa ngục nóng, trong mười tám địa ngục đao luân, địa ngục
rừng kiếm, địa ngục hỏa xa, địa ngục phất sí, địa ngục hầm  than mà quy y
Tam bảo.
 Những địa ngục ấy lại có tám vạn bốn ngàn địa ngục khác làm quyến thuộc.
Trong  ấy  có  bao  nhiêu  chúng  sanh  chịu  khổ,  chúng  con  nguyện  do  bồ  đề
tâm, bồ đề  hạnh, bồ đề  nguyện, xin  vì  hết  thảy  chúng  sanh  ấy mà đảnh  lễ
quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đại Âm Tán Phật

Nam mô Tịnh Nguyện Phật

Nam mô Nhật Thiên Phật

Nam mô Lạc Huệ Phật

Nam mô Nhiếp Thân Phật

Nam mô Oai Đức Thế Phật

Nam mô Sát Lợi Phật

Nam mô Đức Thừa Phật

Nam mô Thượng Kim Phật

Nam mô Giải Thoát kế Phật

Nam mô Nhạo Pháp Phật

Nam mô Trú Hạnh Phật

Nam mô Xả Kiêu Mạn Phật

Nam mô Trí Tạng Phật

Nam mô Phạm Hạnh Phật

Nam mô Chiên Đàn Phật 
Nam mô Vô Ưu Danh Phật

Nam mô Đoạn Nghiêm Thân Phật

Nam mô Tướng Quốc Phật

Nam mô Liên Hoa Phật

Nam mô Vô Biên Thân Đức Phật

Nam mô Thiên Quang Phật

Nam mô Huệ Hoa Phật

Nam mô Tần Đầu Ma Phật

Nam mô Trì Phú Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi cứu độ dẫn tiếp các chúng sanh chịu khổ
trong A tỳ địa ngục, cho đến trong hắc ám địa ngục, đao luân địa ngục, hỏa
xa địa ngục, phất sí địa ngục và  trong các địa ngục quyến  thuộc v.v... Xin
nguyện nhờ Phật  lực, Pháp  lực, Bồ  tát  lực, nhất  thế Thánh Hiền  lực, khiến
các chúng sanh hiện đang chịu khổ, ngày nay liền được giải thoát; hoàn toàn
không đọa trở  lại trong các địa ngục, hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ,
rốt  ráo không  tạo nghiệp địa ngục, không  sanh vào địa ngục, sanh về Tịnh
độ,  bỏ  sống  địa  ngục,  được  sống  trí  huệ,  bỏ  thân  địa  ngục  được  thân  kim
cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm; tứ vô  lượng  tâm,  lục ba  la mật  thường được hiện  tiền, bốn vô ngại  trí,  sáu
thức thần thông tự tại như ý. Đầy đủ trí huệ, tu đạo Bồ tát, dõng mãnh tinh
tấn không thôi không nghỉ, tiến đến hạnh Thập địa vào tâm Kim cang, thành
bậc Chánh giác.  


--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM : LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG
SANH TRONG ĐỊA NGỤC KHÔI HÀ, ĐỊA NGỤC THIẾT HOÀN
V.V...
 
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo nguyện xin vì những chúng sanh trong:

Địa  ngục  khôi  hà,

Địa  ngục  rừng  kiếm,

Địa  ngục  rừng  gai,

Địa  ngục  cột  đồng,

Địa  ngục  máy  sắt,

Địa  ngục  lưới  sắt,

Địa  ngục  hang  sắt,

Địa  ngục  hoàn  sắt,

Địa  ngục  đá  nhọn.

Những địa ngục như vậy đầy khắp mười phương tận hư không giới.

Ngày  nay  chúng  con  nguyện  vì  hết  thảy  chúng  sanh  hiện  đang  chịu  khổ
trong các địa ngục ấy phát  tâm bồ đề mà quy y đảnh  lễ  thế gian Đại  từ bi
phụ:

Nam mô Di Lặc Phật 
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Phạm Tài Phật

Nam mô Bảo Thủ Phật

Nam mô Tịnh Căn Phật

Nam mô Cụ Túc Luận Phật

Nam mô Thượng Luận Phật

Nam mô Phất Sa Phật

Nam mô Đề Sa Phật

Nam mô Hữu Nhật Phật

Nam mô Xuất Nê Phật

Nam mô Đắc Trí Phật

Nam mô Mô La Phật

Nam mô Thượng Cát Phật

Nam mô Pháp Lạc Phật

Nam mô Cầu Thắng Phật

Nam mô Trí Huệ Phật

Nam mô Thiện Thánh Phật

Nam mô Võng Quang Phật

Nam mô Lưu Ly Tạng Phật

Nam mô Danh Văn Phật 
Nam mô Lợi Tịch Phật

Nam mô Giáo Hóa Phật

Nam mô Nhật Minh Phật

Nam mô Thiện Minh Phật

Nam mô Chúng Đức Thượng Minh Phật

Nam mô Bảo Đức Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin Tam bảo, dùng sức Từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, cho các chúng
sanh hiện đang chịu khổ  trong những địa ngục khôi hả, địa ngục rừng kiếm
v.v... liền được giải thoát, hết thảy khổ quả đều được tiêu trừ. Những nghiệp
địa ngục rốt ráo thanh tịnh; bỏ thân địa ngục được thân kim cang, bỏ khổ địa
ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm, đồng ra khỏi nhà
lửa, thẳng đến Đạo tràng; cùng với các vị Bồ tát thành bậc Chánh giác.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG NHỮNG ĐỊA NGỤC UỐNG NƯỚC ĐỒNG SÔI, ĐIẠ NGỤC
HẦM HỐ V.V.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện khắp vì hết  thảy chúng sanh đọa địa ngục  trong mười phương
tận hư không giới. 
Địa  ngục  uống  nước  đồng  sôi,

Địa  ngục  chúng  hiệp,

Địa  ngục  khiếu  hoán,

Địa  ngục  Đại  khiếu  hoán,

Địa  ngục  nóng,

Địa  ngục  Đại  nóng,

Địa  ngục  hầm  than,

Địa  ngục  rừng  cháy, v. v . . .

Những địa ngục ấy có vô lượng vô biên địa ngục khác làm quyến thuộc.

Trong  các địa  ngục  ấy  chúng  sanh đang  chịu khổ,  chúng  con  nguyện đem
sức bồ đề  tâm,  thay  thế hết  thảy chúng sanh ấy mà đảnh  lễ quy y  thế gian
Đại từ bi phụ: 

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Nhơn Nguyệt Phật

Nam mô La Hầu Phật

Nam mô Cam Lồ Minh Phật

Nam mô Diệu Ý Phật

Nam mô Đại Minh Phật

Nam mô Nhất Thế Chủ Phật

Nam mô Lạc Trí Phật 
Nam mô Sơn Vương Phật

Nam mô Tịch Diệt Phật

Nam mô Đức Tụ Phật

Nam mô Thiên Vương Phật

Nam mô Diệu Âm Thanh Phật

Nam mô Diệu Hoa Phật

Nam mô Trú Nghĩa Phật

Nam mô Công Đức Oai Tụ Phật

Nam mô Trí Vô Đẳng Phật

Nam mô Cam Lồ Âm Phật

Nam mô Thiện Thủ Phật

Nam mô Lợi Huệ Phật

Nam mô Tri giải Thoát Nghĩa Phật

Nam mô Thắng Âm Phật

Nam mô Lê Đà Hạnh Phật

Nam mô Thiện Nghĩa Phật

Nam mô Vô Quá Phật

Nam mô Hành Thiện Phật

Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát 
Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện  xin Tam  bảo dủ  lòng  từ bi,  đồng gia  tâm  cứu  hộ,  nguyện  cho  hết
thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ  trong những địa ngục uống nước đồng
sôi v.v... hết  thảy  tội chướng đều được  tiêu  trừ, hết  thảy khổ não đều được
giải  thoát,  từ nay về sau không còn đọa  lại  trong các địa ngục, không sanh
vào địa ngục, sanh về Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục được mạng trí huệ, tứ vô
lượng tâm lục ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí sáu sức thần
thông, tự tại như ý; ra khỏi địa ngục, được vào Niết bàn, đồng như chư Phật,
thành đẳng Chánh giác.

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG
CÁC ĐỊA NGỤC, ĐAO BINH, ĐỒNG PHỦ V.V...

Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  lại  chí  thành  đảnh  lễ,
nguyện vì hết  thảy chúng sanh khắp mười phương,  tận hư không giới, hiện
đang chịu khổ trong các địa ngục:

Địa  ngục  tưởng  tượng,

Địa  ngục Hắc  sa,

Địa  ngục  đóng đinh  vào  thân,

Địa  ngục  giếng  lửa,

Địa  ngục  cối đá,

Địa  ngục  sỏi  bay,
 Địa  ngục  đao  binh,

Địa  ngục  đói  khát,

Địa  ngục  chảo đồng sôi, v.v...

Những địa ngục như  thế ấy vô  lượng vô biên. Ngày nay chúng con nguyện
xin vì hết  thảy chúng sanh  trong các địa ngục ấy, đem sức Bồ đề  tâm  thay
thế các chúng sanh ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Hoa Tạng Phật

Nam mô Diệu Quang Phật

Nam mô Nhạo Thuyết Phật

Nam mô Thiện Tế Phật

Nam mô Chúng Vương Phật

Nam mô Ly Úy Phật

Nam mô Biện Tài Phật

Nam mô Danh Văn Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Minh Phật

Nam mô Thượng Ý Phật

Nam mô Vô Úy Phật

Nam mô Đại Kiến Phật

Nam mô Phạm Âm Phật
 Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô Huệ Tế Phật

Nam mô Vô Đẳng Ý Phật

Nam mô Kim Cang Quân Phật

Nam mô Bồ đề Ý Phật

Nam mô Thọ Vương Phật

Nam mô Bàn Đà Âm Phật

Nam mô Phước Đức Lực Phật

Nam mô Thế Đức Phật

Nam mô Thánh Ái Phật

Nam mô Thế Hạnh Phật

Nam mô Hổ Phách Phật

Nam mô Lạc Tri Phật

Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát

Nam mô Tịch Căn Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, xin cho hết thảy
chúng  sanh hiện đang chịu khổ  trong các địa ngục đao binh v.v... và  trong hết thảy địa ngục quyến thuộc, ngày nay liền được giải thoát, bao nhiêu khổ
não đều được đoạn trừ, không sanh vào địa ngục, được sanh về Tịnh độ; bỏ
sống địa ngục được sống trí huệ, nhớ địa ngục khổ phát tâm bồ đề, tu bồ tát
hạnh không thôi không nghỉ; vào đạo nhất thừa, đủ hạnh thập địa, dùng sức
thần thông, tiếp độ chúng sanh, đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG CÁC ĐỊA NGỤC HỎA THÀNH ĐAO SƠN V.V...

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện vì hết thảy chúng
sanh  trong các địa ngục cùng khắp mười phương  tận hư không giới mà chí
thành lễ Tam bảo.

Địa  ngục  thành  lửa,

Địa  ngục  hang  đá,

Địa  ngục  nước  sôi,

Địa  ngục  núi  đao,

Địa  ngục  hổ  lang,

Địa  ngục  giường  sắt,

Địa  ngục  gió  nóng,

Địa  ngục  phun  lửa.

Những  địa  ngục  ấy  có  vô  lượng  vô  biên  địa  ngục  khác  làm  quyến  thuộc.
Ngày nay chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong các
địa ngục ấy đem sức bồ đề tâm mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
 Nam mô Lôi Âm Vân Phật

Nam mô Thiên Ái Mục Phật

Nam mô Thiện Trí Phật

Nam mô Cụ Túc Phật

Nam mô Đức Tích Phật

Nam mô Đại Âm Phật

Nam mô Pháp Tướng Phật

Nam mô Trí Âm Phật

Nam mô Vô Hư Không Phật

Nam mô Từ Âm Phật

Nam mô Huệ Âm Sai Biệt Phật

Nam mô Công Đức Quang Phật

Nam mô Thánh Vương Phật

Nam mô Chúng Ý Phật

Nam mô Biện Tài Luân Phật

Nam mô Thiện Tịch Phật

Nam mô Nguyệt Diện Phật

Nam mô Nhật Danh Phật

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Công Đức Tập Phật
 Nam mô Hoa Đức Tướng Phật

Nam mô Biện Tài Quốc Phật

Nam mô Bảo Thí Phật

Nam mô Ái Nguyệt Phật

Nam mô Bất Cao Phật

Nam mô Huệ Thượng Bồ tát

Nam mô Thường Bất Ly Thế Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện  xin  Tam  bảo  dủ  lòng  từ  bi,  đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ,  cho  những
chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục trên ấy, liền được giải
thoát, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ  trong những
địa  ngục  nhiều  không  thể  kể  xiết ở  khắp mười  phương  đều  nhờ Phật  lực,
Pháp lực, Bồ tát lực, và Hiền Thánh lực, khiến các cgúng sanh ấy liền được
giải thoát hằng đoạn trừ hết nghiệp địa ngục trong mười phương.

Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, rốt ráo không đọa lại trong ba đường
ác, xả thân thọ thân thường được gặp chư Phật, đầy đủ trí huệ, thanh tịnh tự
tại,  dõng mãnh  tinh  tấn,  không  thôi  không  nghỉ,  tu  lên  cho  đến mãn  hạnh
thập địa, vào  tâm Kim cang, viên  thành giống  trí, do  thần  lực của Phật  tùy
tâm tự tại.

 
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG ĐƯỜNG NGÃ QUỈ
Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  lại  chí  thành  đảnh  lễ,
nguyện vì mười phương tận hư không giới hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và
quyến  thuộc của ngã quỉ  trong đường quỉ đói đem sức  tâm bồ đề mà quy y
thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Sư Tử Lực Phật

Nam mô Tự Tại Vương Phật

Nam mô Vô Lượng Tịnh Phật

Nam mô Đẳng Định Phật

Nam mô Diệt Cấu Phật

Nam mô Bất Thất Phương Tiện Phật

Nam mô Vô Nhiêu Phật

Nam mô Diệu Diện Phật

Nam mô Trí Chế Trú Phật

Nam mô Pháp Sư Vương Phật

Nam mô Đại Thiên Phật

Nam mô Thâm Ý Phật

Nam mô Vộ Lượng Phật

Nam mô Pháp Lực Phật

Nam mô Thế Cúng Dường Phật 
Nam mô Hoa Quang Phật

Nam mô Tam Thế Cúng Phật

Nam mô Ứng Nhật Tạng Phật

Nam mô Thiên Cúng Dường Phật

Nam mô Thượng Trí Nhơn Phật

Nam mô Chơn Kế Phật

Nam mô Tín Cam Lồ Phật

Nam mô Kim Cang Phật

Nam mô Kiên Cố Phật

Nam mô Dược Vương Bồ tát

Nam mô Dược Thượng Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi đồng gia tâm nhiếp thọ.

Nguyện cho hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và quyến thuộc của ngã quỉ, trong
tất cả đường ngã quỉ đói ở mười phương,  tận hư không giới, bao nhiêu  tội
chướng đều được tiêu trừ; bao nhiêu khổ nạn đều được giải thoát, thân  tâm
thanh  tịnh, không  còn khổ  não;  thân  tâm  no đủ, không  còn đói khát, được
pháp vị cam lồ; mắt trí huệ mở; tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, thường được
hiện tiền, sáu thức thần thông như ý tự tại, xa lìa đường ngã quỉ, vào cõi Niết
bàn, đồng với chư Phật thành bậc Chánh giác.   
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG ĐƯỜNG SÚC SANH

 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo,  nguyện  khắp  vì mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  đường  súc
sanh  trong  bốn  loài  chúng  sanh,  hoặc  lớn,  hoặc  nhỏ,  dưới  nước  trên  khô,
giữa hư không; hết  thảy súc sanh và quyến  thuộc của  tất cả chúng sanh ấy,
ngày nay chúng con do sức của tâm bồ đề mà đảnh lễ quy y thế gian Đại từ
bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Bảo Kiên Minh Phật

Nam mô Lê Đà Bộ Phật

Nam mô Tùy Nhật Phật

Nam mô Thanh Tịnh Phật

Nam mô Minh Lực Phật

Nam mô Công Đức Tụ Phật

Nam mô Cụ Túc Đức Phật

Nam mô Sư Tử Hạnh Phật

Nam mô Cao Xuất Phật

Nam mô Hoa Thí Phật

Nam mô Châu Minh Phật

Nam mô Liên Hoa Phật 
Nam mô Ái Trí Phật

Nam mô Quy Đà Nghiêm Phật

Nam mô Bất Hư Hạnh Phật

Nam mô Sanh Pháp Phật

Nam mô Tương Minh Phật

Nam mô Tư Duy Nhạo Phật

Nam mô Lạc Giải Thoát Phật

Nam mô Tri Đạo Lý Phật

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Địa Tạng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức  từ bi, đồng gia  tâm nhiếp  thọ, cho hết  thảy
súc sanh trong bốn loài chúng và quyến thuộc của chúng, trong tất cả đường
súc sanh ở khắp mười phương tận hư không giới, bao nhiêu tội chướng đều
được  tiêu  trừ,  bao  nhiêu  khổ  não  đều  được  giải  thoát,  đồng  xả  bỏ  ác  thú,
đồng  chứng  được  đạo  quả;  thân  tâm  an  vui  như  ở  đệ  tam  thuyền;  Tứ  vô
lượng  tâm,  lục  ba  la mật,  thường  được  hiện  tiền;  bốn  vô  ngại  trí,  sáu  sức
thần  thông, như ý  tự  tại; xa  lìa đường súc sanh, vào đường Niết bàn, nhập
Kim cang tâm, thành bậc Chánh giác.

--- o0o --- CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN : VÌ SÁU ĐƯỜNG CHÚNG SANH
MÀ PHÁT NGUYỆN

 
Chúng con ngày nay xin nhờ công đức nhân duyên lễ Phật, sám hối thế cho
các vị Trời, các vị Tiên, Long thần, Bát bộ; nguyện xin cho hết  thảy chúng
sanh trong bốn loài sáu đường, khắp mười phương, tận hư không giới, cùng
tận đời  vị  lai,  từ nay  trở đi cho đến  ngày  thành Phật, không  thọ  thân  hình
cách  lầm  lạc, oan uổng, không chịu các khổ sở độc hại, không  tạo năm  tội
nghịch, mười tội ác, không đọa vào ba đường ác nữa.

Nhờ  công  đức  nhân  duyên  lễ  Phật,  hôm  nay  đều  được  thân  nghiệp  thanh
tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, như chư đại Bồ tát ma ha tát; đều như chư đại
Bồ  tát ma ha  tát được đại  tâm;  tâm như đại địa, sanh  ra các căn  lành;  tâm
như biển cả, giữ gìn pháp đại trí huệ của chư Phật; tâm như núi Tu di, khiến
tất cả chúng sanh đều an trú nơi vô thượng bồ đề; tâm như ngọc báu ma ni,
xa  lìa tất cả phiền não; tâm như ngọc báu kim, cang, quyết định được tất cả
các pháp; tâm kiên cố tà ma ngoại đạo không thể ngăn trở phá hoại; tâm như
liên hoa, hết thảy các pháp không thể làm nhiễm nhớp; tâm như hoa Ưu đàm
bát, trong bao nhiêu kiếp, khó gặp được; tâm như hư không, hết thảy chúng
sanh không thể lường được.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường, từ nay trở đi,
so  lường được  tánh biết của mình,  so  lường được  tánh quyết định  tin  hiểu
của mình, trừ bỏ hết các pháp giả dối, thường nghĩ tới lời pháp ngữ. Có của
gì đều bố thí, tâm không luyến tiếc; tâm dõng mãnh, không sợ hãi. Công đức
tu hành đều bố  thí, cho  tất cả chúng  sanh, không đọa  lại đường  tà; chuyên
tâm một bề chánh đạo; thấy thiện như huyễn hóa, thấy ác như chiêm bao; xa
lìa sanh tử, mau ra ba cõi quan sát rõ ràng, thấu đáo pháp môn, thậm thâm vi
diệu, của Phật; tất cả đều được cúng dường hết thảy chư Phật; lễ phẩm cúng
dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Tôn pháp;  lễ
phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Bồ
tát;  lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ;  tất cả đều được cúng dường hết
thảy Hiền thánh, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.

Nếu  tất cả chúng sanh đời vị  lai  trái với  lời đại nguyện của chúng con hôm
nay, đều xin nhờ ơn đức Tam bào, khiến cho tất cả chúng sanh ấy đồng được
vào trong bể đại nguyện nầy; liền được thành tựu công đức trí huệ; nhờ thần
lực của Phật mà tùy tâm tự tại, đồng như chư Phật, đều thành Chánh giác.
  
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM : CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG

 Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  đã  cùng  nhau  lễ Phật,
sám hối phát nguyện thế cho hết thảy chúng sanh trong  lục đạo rồi; bây giờ
cần phải tỉnh ngộ vô thường.

Than ôi! Tội phước trong ba cõi, nhân quả sanh nhau ở ngay tại tâm, không
rời đương niệm, nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau, không ngoài thiện ác; không
thể sai lầm.

Nguyện xin Đại chúng nên giác ngộ  lý vô thường; phải siêng  lo  tu hành để
tự cứu lấy bản thân, chớ sanh tâm lười biếng mà không cố gắng.

Người  trí  thức  thường  than:  “Giả  sử  người  hưởng  thú  dục  lạc  trăm,  ngàn,
vạn ức  năm,  rốt cuộc  cũng không  thể  tránh được đau  khổ  trong ba  đường
ác”. Huống  gì  chúng  ta  trong  khoảng  thời  gian  ngắn  ngủi một  trăm  năm,
nhưng mấy ai sống được một nửa. Thế thì chúng  ta không thể tự dung túng
qua ngày không lo tu tập.

Vả  lại  thế gian huyễn hóa, rốt cuộc  tất cả đều  tiêu ma. Có  rồi hoàn không,
lên cao rồi phải xuống thấp; có sum họp phải có chia ly; có sanh quyết có tử;
cha mẹ vợ con chồng bạn, anh em quyến thuộc, thương yêu đến tận cốt tủy,
đến giờ phút lâm chung, không ai có thể chết thế cho ai.

Quyền cao chức trọng, vinh hoa phú quý, tiền tài bảo vật cũng không thể kéo
dài đời  sống  cũng không  thể dùng  lời  lẽ,  ăn  uống  cầu  chúc để mong  thoát
khỏi tử thần. Sống chết là việc vô hình, không ai có thể lư lại được!

Kinh dạy rằng: “Chết  là hếr”. Tắt hơi  thở  rồi,  thần  thức  thoát  ly,  thân hình
tan rã, nhơn vật như nhau, không ai sống mà không chết. Nhưng trong lúc bỏ
thân mạng  sống  nầy,  khổ  não  vô  cùng.  Sáu  dòng  bà  con,  nội  ngoại,  vây
quanh khóc lóc. Người chết khi ấy sợ lắm; không biết nương nhờ ai.

Lúc hơi thở cuối cùng sắp tàn, người chết nhớ lại hết thảy việc thiện ác mình
đã làm trong một đời qua; hành tướng quả báo sum la hiện ra trước mắt.
 Người  làm  lành được  thiên  thần  (thần  trời) phù hộ. Người  làm ác có ngưu
đầu ngục  tốt xua đuổi. Ngục  tốt  la  sát hằng không khoan dung  tha  thứ. Từ
thân, hiếu tử không thể cứu giúp; vợ chồng ân ái chỉ nhìn nhau, xem cái chết
đến. Gío phong đao xẻ thân đau khổ không thể nói được.

Người chết lúc ấy ruột đau như dao cắt, bao nhiêu thống khổ đồng thời dồn
dập; tinh thần hoảng hốt như điên như cuồng. Dầu muốn khởi tâm nghĩmột
niệm hành làm một mảy phước, lễ Phật một lạy cũng không thể được. Lòng
càng hối hận, khổ não như vậy, không ai chịu thế cho ai.

Kinh Niết Bàn dạy rằng: “Người chết ở nơi chốn hiểm nạn, không có lương
thực; đường đi mờ mịt xa xăm lại không có bạn bè; ngày đêm đi mãi không
biết về đâu, không có phương hướng; thâm thúy tối tăm, không có ánh sáng;
vào  vô  gián  địa  ngục;  đến  rồi  không  thoát  ra  được. Sống  không  tu  phước
chết  về  chỗ  khổ,  sầu  thảm  cay  chua,  không  thể  liệu  trị. Việc  ấy  không  có
hình sắc nên không thể biết trước mà lo sợ”.

Ngày  nay Đại  chúng đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng đã biết  quả báo  của  sự
sống chết như sợi giây xích, không có mối manh, không bao giờ cùng  tận.
Chết rồi thần hồn đi ngơ ngác, thui thủi một mình, không biết về đâu, không
ai thất biết, không thể tìm kiếm, không thể ghi nhớ. Chỉ mỗi người tự nỗ lực
siêng năng chịu khổ, chăm lo tu tập, thật hành lục độ, tứ vô lượng tâm v.v...
để làm tư lương riêng về xứ sở. Chớ ỷ mình còn mạnh khỏe mà tự yên tâm.
Phải nên hết lòng tha thiết, đảnh lễ quy y Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Đa Văn Hải Phật

Nam mô Trì Hoa Phật

Nam mô Bất Tùy Thế Phật

Nam mô Hỷ Chúng Phật

Nam mô Khổng Tước Âm Phật

Nam mô Bất Thối Một Phật 
Nam mô Đoạn Hữu Ái Cấu Phật

Nam mô Oai Nghi Tế Phật

Nam mô Vô Động Phật

Nam mô Chư Thiên Lưu Bố Phật

Nam mô Bảo Bộ Phật

Nam mô Hoa Thủ Phật

Nam mô Oai Đức Phật

Nam mô Phá Oán Tặc Phật

Nam mô Phú Đa văn Phật

Nam mô Diệu Quốc Phật

Nam mô Hoa Minh Phật

Nam mô Sư Tử Trí Phật

Nam mô Nguyệt Xuất Phật

Nam mô Diệt Ám Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
 Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm che chở nguyện cho Đại chúng đồng sám
hối  trong Đạo  tràng  từ  nay  trở  đi  cho  đến  ngày  thành  Phật,  bao  nhiêu  tội
nhơn, vô lượng khổ quả đều được đoạn trừ, phiền não kiết nghiệp hoàn toàn
thanh tịnh. Thường được đích thân tham dự các hội thuyết của chư Phật;  tu
đạo Bồ  tát,  tự  tại  thọ  sanh,  tứ  đẳng  lục  độ  như  pháp  tu  hành;  tứ  biện  lục
thông hoàn  toàn đầy đủ,  trăm ngàn  tam muội, ứng niệm hiện  tiền, các môn
tổng trì đều hay chứng nhập, chóng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.

 
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ NGƯỜI LÀM
CÔNG QUẢ Ở CHÙA

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, khởi tâm từ bi, không phân biệt oán thân; nguyện vì những người ngày
nay chuyển thân trở lại vào chùa làm việc nấu ăn, gánh nước, bủa củi, tùy hỷ
công đức, vận hết năng  lực  làm giúp công việc về phước nghiệp khó nhọc,
nguyện  khắp  vì  bà  con  quyến  thuộc  các  người  ấy,  lại  nguyện  vỉ  hết  thảy
những  người  hiện  đời  nầy  bị  lao  ngục,  ách  nạn  khốn  khổ,  giam  cầm  trói
buộc và những người bị hành phạt khổ sở. Nghĩ thương các người ấy ở đời
tuy được  làm người, nhưng vui  ít khổ nhiều, gông cùm xiềng xích chia  thể
lìa thân; hoặc là đời nay tạo ác, hoặc là đời trước tạo ác, nghiệp báo còn theo
dõi, hoặc đáng được phóng  thích rồi, nhưng không biết do đâu giãi bày, tội
nặng bị xử tử, không người cứu.

Chúng con  tên  ... ngày nay do  tâm  từ bi nguyện vì các người ấy và quyến
thuộc của các người ấy, mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thứ Đệ Hành Phật

Nam mô Phước Đức Đăng Phật

Nam mô Âm Thanh Trị Phật

Nam mô Kiều Đàm Phật 
Nam mô Thế Lực Phật

Nam mô Thân Tâm Trú Phật

Nam mô Thiện Nguyệt Phật

Nam mô Giác Ý Hoa Phật

Nam mô Thượng Cát Phật

Nam mô Thiện Oai Đức Phật

Nam mô Trí Lực Đức Phật

Nam mô Thiện Đăng Phật

Nam mô Kiên Hạnh Phật

Nam mô Thiện Âm Phật

Nam mô An Lạc Phật

Nam mô Nhật Diện Phật

Nam mô Lạc Giải Thoát Phật

Nam mô Giới Minh Phật

Nam mô Trú Giới Phật

Nam mô Vô Cấu Phật

Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát

Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thyân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát 
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện  xin Tam bảo dùng  sức  từ  bi, đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ,  nguyện  cho
những người “chấp  lai phục dịch”  (gánh nước hái củi),  tùy hỷ công đức và
quyến  thuộc  của  các  người  ấy,  từ  nay  trở  đi  cho  đến  ngày  thành Phật  hết
thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy khổ não đều được giải thoát thọ
mạng  diên  trường,  thân  tâm  an  lạc,  hằng  lìa  tai  ách,  không  có  phiền  não
chướng ngại nữa, phát tâm đại thừa, tu bồ tát đạo, lục độ, tứ đẳng đều được
hoàn toàn xả lý sanh tử, đồng được an vui Niết Bàn.

Lại nguyện trong thiên hạ những người bị hình phạt tù đầy, cầm cố trói trăn,
ách nạn khốn khổ, những người tật bệnh, không được tự tại, và quyến thuộc
của các người ấy, đều nhờ oai  lực công đức của chúng con  lễ Phật sám hối
hôm nay mà được giải thoát khổ não, những nghiệp nhơn độc ác hoàn toàn
đoạn  trừ; ra khỏi  lao ngục, vào  thiện pháp môn;  thọc mạng vô cùng,  trí  tuệ
vô tận, thân tâm an lạc như ở đệ tam thiền; nhớ lao ngục khổ, tưởng báo ơn
Phật;  cải  ác  tùng  thiện,  phát  tâm  đại  thừa,  hành  đạo Bồ  tát,  vào  tâm  kim
cương, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh đồng thành Chánh giác thần  lực
tự tại.

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY : PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã phát tâm rồi, công việc
sám hối đã xong. Thứ lại nên đem công đức nầy phát nguyện hồi hướng cho
hết thảy chúng sanh. Vì sao vậy?

Vì hết  thảy chúng sanh sở dĩ không được giải  thoát đều do đắm  trước quả
báo, không thể xả bỏ. Nếu có chút thiện mảy phước mà hay hồi hướng được
thì đối với quả báo không sanh  tâm đắm  trước,  liền được giải  thoát,  thong
thả tự tại.

Vì vậy nên trong kinh tán thán sự tu hành biết hồi hướng là việc đại lợi ích,
cho  nên Đại  chúng  bây  giờ  cũng  phải  phát  nguyện  hồi  hướng  và  khuyến
khích mọi người không nên đắm trước quả báo. Chúng con cùng nhau trước
hết là chí tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di lặc Phật 
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Kiên Xuất Phật

Nam mô An Xà Na Phật

Nam mô Tăng Ích Phật

Nam mô Hương Minh Phật

Nam mô Vi Lam Minh Phật

Nam mô Niệm Vương Phật

Nam mô Mật Bát Phật

Nam mô Vô Ngại Tướng Phật

Nam mô Tín Giới Phật

Nam mô Chí Diệu Đạo Phật

Nam mô Nhạo Thật Phật

Nam mô Minh Pháp Phật

Nam mô Cụ Oai Đức Phật

Nam mô Chí Tịch Diệt Phật

Nam mô Thượng Từ Phật

Nam mô Đại Từ Phật

Nam mô Cam Lồ Vương Phật

Nam mô Di Lâu Minh Phật

Nam mô Thánh Tán Phật 
Nam mô Quảng Chiếu Phật

Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bố Tát

Nam mô Phổ Hiền Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dùng sức  từ bi, đồng gia  tâm phù hộ cho chúng con
hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn

Ngày  nay  Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong  Đạo  tràng  từ  nay  cho  đến  ngảy
thành Phật tu Bồ tát đạo không thôi không nghỉ, trước độ chúng sanh, sau sẽ
thành Phật.

Nếu trong lúc chưa đắc đạo, còn đọa sanh tử, xin nhờ nguyện lực nầy, khiến
chúng  con  sanh  ra  nơi  nào  ba  nghiệp  thân,  khẩu,  ý  đều  được  thanh  tịnh,
thường phát tâm nhu nhuyến, tâm điều hòa, tâm không buông lung, tâm tịch
diệt, tâm chân thật, tâm không tạp  loạn, tâm không tham  lam,không keo rít,
tâm đại  thù  thắng,  tâm đại  từ bi,  tâm an  trú,  tâm hoan hỷ,  tâm độ hết  thảy
chúng sanh, tâm giữ gìn bồ đề, tâm thề đồng như tâm chư Phật, phát những
tâm  nhiệm mầu  thù  thắng  rộng  lớn  để  chuyên  cầu  nghe,  nhiều,  tu  định  ly
dục,  lợi  ích an  lạc hết  thảy chúng sanh, nguyện không bỏ đạo Bồ đề,  thành
bậc Chánh giác.

--- o0o ---
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG THẾ CHO CHÚNG SANH

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng chí thành đảnh lễ, quỳ gối
chắp tay, tâm niệm miệng nói theo lời nầy.

- Mười phương chư Thiên chư Tiên có công đức hạnh nghiệp gì, chúng con
nay xin hồi hướng thế, đồng quy Chánh giác đạo.
 - Mười phương Long  vương quỷ  thần  có  thiện  nghiệp  gì  thù  thắng,  chúng
con nay xin hồi hướng thế, đồng quy nhất thừa đạo.

- Mười phương các Nhơn vương, có tu hạnh nghiệp gì về đạo bồ đề, chúng
con nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.

- Các loài chúng sanh trong lục đạo có mảy may thiện nghiệp gì, chúng con
nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.

- Mười phương đệ  tử Phật,  thiện  lai  chúng  tỳ kheo  vô  trước  tứ  sa môn  và
những vì cầu Duyên giác  thừa, ẩn hiện hóa chúng sanh, hiểu  rõ pháp nhân
duyên, như vậy và hết thảy đều hồi hướng Phật đạo.

- Mười  phương  chư  Bồ  tát,  dọc  tụng  thọ  trì  kinh,  nhập  thiền,  xuất  thiền,
khuyến hóa chúng sanh làm hết thảy điều phước thiện như vậy, hết thảy tam
thừa Thánh chúng, có bao nhiêu cội phước đức, đều xin hồi hướng cho tất cả
chúng sanh đồng quy y vô thượng đạo.

- Các  vị  trên  trời  và  dưới  nhơn  gian,  tu  thánh  đạo  có  bao  nhiêu  công  đức
thiện nghiệp, nay chúng con khuyên hồi hướng vô thượng đạo.

- Những  vị phát  tâm  và  sám  hối,  tự mìnhtu  và khuyên  người  tu, dầu được
mảy may phước như vi  trần, cũng đem  thí hết cho chúng sanh. Nếu chúng
sanh không thành Phật, chúng con thề không bỏ bồ đề nguyện.

- Bao giờ chúng sanh  thành Phật hết, chúng con mới chứng quả vô  thượng
bồ đề.

- Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát, vô lậu các thánh nhơn, đời nầy và đời
sau, duy nguyện xin nhiếp thọ.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cùng nhau chí tâm đảnh lễ
Tam bảo, nguyện xin thay thế các vị quốc chủ và quyến thuộc của quốc chủ
mà hồi hướng; nguyện xin thay thế cha mẹ và bà con mà hồi hướng.

- Nguyện xin thay thế Sư trưởng và chư vị đồng học mà hồi hướng.

-  Nguyện  xin  thay  thế  các  nhà  tín  thí  đàn  việt,  thiện  ác  tri  thức  mà  hồi
hướng. Nguyện xin thay thế Hộ thế tứ Thiên vương mà hồi hướng.
 - Nguyện xin thay thế ma vương trong mười phương mà hồi hướng.

- Nguyện xin thay thế các vị thông minh chánh trực, thiên địa hư không, chủ
thiện phạt ác,  thủ hộ  trì chú, ngũ phương  long vương,  long  thần bát bộ mà
hồi hướng.

- Nguyện xin thay thế các vị Linh kỳ, u hiển mà hồi hướng.

- Nguyện  xin  hồi  hướng  thế  cho mười phương  tận  hư không  giới  hết  thảy
chúng sanh.

- Nguyện xin chư Thiên, chư Tiên, long thần bát bộ, hết thảy chúng sanh, từ
nay  trở đi cho đến ngày chứng quả bồ đề, hằng  thể hội được pháp môn vô
tướng, không còn có tâm đắm trước quả báo nữa.

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ CHÍN

--- o0o ---
QUYỂN THỨ MƯỜI
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM : BỒ TÁT HỒI HƯỚNG

Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau chịu khó nhọc, chịu cực khổ tu tập được
vô lượng căn lành như vậy, bây giờ mỗi người lại nên suy nghĩ như thế nầy:

Chúng con đã  ... tu tập được bao nhiêu căn  lành đều vì  lợi  ích cho hết thảy
chúng sanh, khiến các chúng sanh hoàn toàn thanh tịnh.

Chúng con nhờ các căn  lành tu tập sám hối khiến chúng sanh trừ diệt được
vô  lượng  khổ  não  ở  các  cảnh  địa  ngục,  ngã  quỉ,  súc  sanh,  diêm  la  vương
v.v...  đem  công  đứv  sám  hối  nầy  làm  nhà  cửa  rộng  lớn  cho  chúng  sanh,
khiến  chúng  sanh diệt  trừ được khổ  ấm,  làm  việc đại  cứu  hộ, khiến  chúng
sanh thoát phiền não; làm chỗ đại quy y; khiến chúng sanh xa lìa sợ hãi; làm
chỗ  đại  chỉ  thú,  khiến  chúng  sanh  được  trí  huệ;  làm  chỗ  đại  an  ổn,  khiến
chúng  sanh được  chỗ  cứu  cánh  an ổn;  làm  đuốc  lớn  soi  sáng  khiến  chúng
sanh diệt trừ si ám; làm ngọn đèn đại minh đăng, khiến chúng sanh được an trú hoàn toàn cảnh giới thanh tịnh; làm vị đại đạo sư, khiến chúng sanh vào
pháp môn phương tiện, được thân trí thanh tịnh.

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng nhận  thấy các pháp như
vậy là các vị Bồ tát ma ha tát vì kẻ oán người thân mà tu hành, đem các căn
lành đồng chung hồi hướng cho  tất cả chúng sanh, đối với các chúng sanh
bình đẳng, không sai khác, vào pháp quán bình đẳng, không có tư tưởng oán
thân,  thường  đem  con mắt  từ  ái mà  ngó  chúng  sanh. Nếu  chúng  sanh  ôm
lòng oán giận Bồ tát, sanh tâm ác nghịch, thì Bồ tát là bậc Thiện tri thức khó
điều phục tâm tánh của chúng sanh, bằng cách khéo nói pháp thâm diệu. Ví
như biển cả, các thứ độc hại của chúng sanh không thể phá hoại. Tâm Bồ tát
cũng vậy, những chúng sanh ngu si, không trí huệ, không biết báo ơn, không
thể phá hoại tâm của Bồ tát.

Những  chúng  sanh  ấy  sanh  ra  vô  lượng  ác  độc  cũng  không  thể  làm  động
loạn đạo tâm của Bồ tát. Ví như mặt trời sáng chiếu khắp tất cả chúng sanh;
mặt trời không vì kẻ mắt mù mà không chiếu. Đạo tâm của Bồ tát cũng vậy,
không vì người ác mà  thối  tâm. Bồ  tát không vì chúng sanh khó điều phục
mà thối bỏ căn lành.

Bồ  tát ma ha  tát đối với các căn  lành,  lòng  tin rất  thanh  tịnh,  trưởng dưỡng
đại bi, đem các căn lành ấy, dùng thân tâm mà hồi hướng khắp cho hết thảy
chúng sanh.

Bồ tát không phải nói suông nơi miệng mà đối với các chúng sanh đều phát
tâmhoan  hỷ,  tâm minh  tịnh,  tâm  nhu  nhuyến,  tâm  từ  bi,  tâm  ái  niệm,  tâm
nhiếp thủ, tâm nhiêu  ích, tâm an  lạc, tối thắng, đem các căn  lành hồi hướng
cho chúng sanh.

Bồ tát ma ha tát phát tâm hồi hướng căn  lành như vậy, chúng con nay cũng
phải mong học phương pháp hồi hướng ấy, cho nên tâm niệm miệng nói lời
nầy: “Nếu chúng con có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho chúng sanh;
khiến chúng sanh đồng được  thanh  tịnh  thú  (1)  , được  thanh  tịnh sanh, đầy
đủ công đức, hết thảy các pháp thế gian không thể phá hoại; công đức trí huệ
vô  cùng,  vô  tận,  thân khẩu  ý  nghiệp  hoàn  toàn  trang  nghiêm,  thường  thấy
chư Phật đem hết lòng tin, kiên cố lãnh thọ chánh pháp; xa lìa các điều nghi
ngờ; nhớ giữ không quên Chánh pháp, thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh, tâm
thường an  trú nơi  thiện căn  thắng diệu, hằng xa  lìa  sự nghèo  thiếu, đầy đủ
thất thánh tài (2); tu học hết thảy các pháp Bồ tát đã học, được các căn lành;
thành tựu pháp bình đẳng được pháp giải thoát nhiệm mầu nhất thế chủng trí (3). Đối với các chúng sanh được mắt từ ái; thân căn thanh tịnh; lời nói biện
tài,  trí  huệ  sáng  suốt, phát  sanh  các phép  lành  tâm không đắm  nhiễm;  vào
pháp thậm thâm, thâu nhiếp hết thảy chúng sanh, đồng an trú nơi cảnh vô sở
trú của chư Phật.

Những  điều  hồi  hướng  đông  như  mười  phương  Bồ  tát  ma  ha  tát  đã  hồi
hướng; rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.

Nguyện  xin cho  chúng  con  tên  .  .  .   đồng được như  sở nguyện mãn bồ đề
nguyện, tứ sanh, lục đạo, chúng sanh cũng đồng được như sở nguyện.

Lại nguyện xin chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Oai Đức Phật

Nam mô Kiến Minh Phật

Nam mô Thiện Hành Báo Phật

Nam mô Thiện Hỷ Phật

Nam mô Vô Ưu Phật

Nam mô Bảo Minh Phật

Nam mô Oai Nghi Phật

Nam mô Lạc Phước Đức Phật

Nam mô Công Đức Hải Phật

Nam mô Tận Tướng Phật

Nam mô Đoạn Ma Phật

Nam mô Tận Ma Phật 
Nam mô Quá Suy Đạo Phật

Nam mô Bất Hoại Ý Phật

Nam mô Thủy Vương Phật

Nam mô Tịch Ma Phật

Nam mô Chúng Thượng Vương Phật

Nam mô Ái Minh Phật

Nam mô Phước Đăng Phật

Nam mô Bồ Đề Tướng Phật

Nam mô Trí Âm Phật

Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát

Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi, đồng gia  tâm nhiếp  thọ khiến cho  tâm
hồi hướng của chúng con được thành tựu hoàn toàn.

Nếu chúng con tên . . .  có đủ vô lượng tội, đại ác nghiệp, đáng thọ vô lượng
vô biên thống khổ trong đường ác, không thể thoát được, trái với tâm bồ đề,
trái với hạnh bồ đề, trái với nguyện bồ đề, nguyện xin mười phương chư đại
Bồ  tát, hết  thảy Thánh Hiền, vì  từ bi  tâm, không  trái với bổn nguyện, giúp
đỡ chúng con tên . . .  ở trong ba đường ác kia cứu các chúng sanh làm cho
các chúng sanh đều được giải thoát thề không vì khổ mà bỏ chúng sanh.
 Nguyện xin Bồ  tát gánh nặng cho chúng con, chúng con được mãn nguyện
bình đẳng độ  thoát  hết  thảy  chúng  sanh,  khỏi  sanh  lão bệnh  tử, ưu bi  khổ
não, vô lượng ách nạn.

Nguyện các chúng sanh đều được  thanh  tịnh, đầy đủ căn  lành,  rối  ráo giải
thoát, xả bỏ ma quân, xa lìa bạn ác gần gũi bạn lành, chân thật quyến thuộc,
thành tựu tịnh nghiệp, diệt hết các khổ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của Bồ
tát,  thấy  Phật  hoan  hỷ,  chứng  nhất  thế  trí,  trở  lại  độ  thoát  hết  thảy  chúng
sanh.  
 

--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN : PHÁT NGUYỆN

Ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  đã  phát  tâm  hồi  hướng
rồi, thứ lại phát nguyện như thế nầy:

Luận ra: Các điều ác phát sanh đều do sáu căn . Vậy biết sáu căn  là tội gốc
của tai họa. Tuy vậy nếu biết dùng sáu căn, thì sáu căn cũng hay chiêu tập vô
lượng phước nghiệp, cho nên kinh: “Thắng Man” dạy rằng:”Giữ gìn sáu căn,
cho trong sạch thân khẩu ý”.


“Căn cứ vào lẽ ấy để chứng minh sáu căn là cội gốc sanh ra các điều lành”.

Vậy nên đối với sáu căn mà phát đại thệ nguyện:

Trước hết

--- o0o ---
PHÁT NGUYỆN VỀ NHÃN CĂN (con mắt).

Nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng và hết thảy chúng
sanh  trong bốn  loài sáu đường ở khắp mười phương,  từ nay  trở đi cho đến
ngày thành Phật, mắt thường không thấy sắc huyễn, dối trá tham dục không
nhàm chán; mắt không thấy sắc siểm nịnh khuất khủc ủy mỵ, không thấy sắc
xanh vàng  trắng đỏ (v.v...) mê hoặc người đời; mắt không  thấy sắc có hình
trạng xấu xa, sân hận đấu tranh; không thấy sắc đánh đập làm tổn hại người khác; mắt không thấy sắc làm người ngu si, không tin mà nghi ngờ ám muội;
mắt  không  thấy  sắc  kiêu mạn,  không  khiêm  tốn,  không  kính  nhường, mắt
không thấy sắc tà kiến của chín mươi sáu món ngoại đạo.

Nguyện  cho  hết  thảy  chúng  sanh  từ  nay  trở  đi, mắt  thường  thấy  sắc  vắng
lặng pháp thân thường trú của mười phương Phật; mắt thường thấy ba mươi
hai  tướng  tốt,  tử ma kim sắc và  tám chục vẻ đẹp của chư Phật; mắt  thường
thấy sắc của chư Thiên chư Tiên dâng ngọc báu, rải hoa trời cúng Phật; mắt
thường  thấy năm sắc hào quang  trong miệng Phật  tuông  ra  thuyết pháp độ
người; mắt thường thấy sắc Phật phân thân tán thể cùng khắp mười phương;
mắt thường thấy chư Phật phóng hào quang trên nhục kế cảm triệu người có
duyên đến pháp hội; mắt thường thấy sắc của mười phương Bồ tát, Bích chi,
La  hán,  Thánh  chúng;  mắt  thường  được  cùng  với  chúng  sanh  và  quyến
thuộc, quan sát sắc thân của Phật; mắt thường thấy chúng thiện vô giáo giả
sắc; mắt  thường  thấy  sắc  thất  giác  tịnh  hoa; mắt  thường  thấy  sắc diệu quả
giải  thoát, mắt  thường  thấy  sắc  của Đại  chúng  trong Đạo  tràng  ngày  nay
hoan hỷ  tán  thán Phật pháp, đảnh  lễ  thọ  trì; mắt  thường  thấy  tứ chúng vây
quanh Phật để nghe Pháp, sanh tâm khát ngưỡng; mắt thường thấy hết thẩy
người  tu bố  thí,  trì giới, nhẫn nhục,  tinh  tấn; mắt  thường  thấy hết  thảy các
tịnh mạc,  thiền  tư,  tu  tạp  trí huệ; mắt  thường  thấy sắc   của hết  thảy chúng
sanh được pháp vô sanh nhẫn; hiện  tiền được  thọ ký  thì sanh  tâm hoan hỷ;
mắt  thường  thấy sắc bổ xứ của hết  thảy các vị chứng được Kim cang huệ,
đoạn trừ vô minh, u ám; mắt thường thấy hết thảy sắc mộc dục pháp lưu bất
thối.

Đã phát nguyện về mắt rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế
gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Diệt Phật

Nam mô Phạm Tướng Phật

Nam mô Trí Hỷ Phật

Nam mô Thần Tướng Phật
 Nam mô Như Chúng Vương Phật

Nam mô Trì Địa Phật

Nam mô Ái Nhật Phật

Nam mô La Hầu Nguyệt Phật

Nam mô Hoa Minh Phật

Nam mô Dược Sư Thượng Phật

Nam mô Trì Thế Lực Phật

Nam mô Phước Đức Minh Phật

Nam mô Hỷ Minh Phật

Nam mô Hảo Âm Phật

Nam mô Pháp Tự Tại Phật

Nam mô Phạm Âm Phật

Nam mô Diệu Âm Bồ tát

Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm che chở, khiến đệ tử tên .
. .  được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.

--- o0o --- THỨ LẠI PHÁT VỀ NHĨ CĂN (lỗ tai)

Lại  nguyện  ngày  nay Đại  chúng  đồng  nghiệp  trong Đạo  tràng  và  rộng  ra
khắp hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường ở khắp mười phương từ
nay  trở  đi  cho  đến  ngày  thành  đạo,  tai  thường  không  nghe  tiếng  khóc  lóc
buồn rầu đau khổ; tai không nghe tiếng kêu la thống thiết trong địa ngục; tai
không nghe tiếng vạc nước sôi trào vọt trong địa ngục tai không nghe tiếng
cắt xẻ, mũi nhọc, núi đao, rừng kiếm; tai không nghe tiếng vô lượng khổ sở
trong mười  tám ngăn địa ngục;  tai không nghe  tiếng nhiệt não đói khát của
ngã quỉ kiếm ăn không được; tai không nghe tiếng ngã quỉ hành động, thân
thể chi tiết bị lửa đốt vang dội như tiếng năm trăm cỗ xe kêu; tai không nghe
tiếng của  súc  sanh  thân dài năm  trăm do  tuần, bị các sâu  trùng nhỏ  rúc  rỉa
khổ sở; tai không nghe tiếng kêu la đau khổ của trâu, ngựa, lừa, lạc đà v.v...
thường chở nặng đi xa, bị  roi, gậy đánh đập. Bởi kiếp  trước mắc nợ người
không  trả;  tai không nghe  tiếng đau  thương của các cảnh ái ân  ly biệt, của
oán  thù gặp gỡ, của  tám nỗi khổ v.v... hành hạ kiếp người;  tai không nghe
tiếng  rên  siết  của  khổ  báo  do  bốn  trăm  lẻ  bốn  bệnh  hành  hạ  thân  thể;  tai
không nghe  tiếng của hết  thảy điều ác hành hạ chúng sanh;  tai không nghe
tiếng chuông,  linh, ốc,  trống, cầm, sắc, không hầu,  lâm,  lang, ngọc bội  làm
mê hoặc chúng sanh.

Nguyện xin hết thảy chúng sanh từ nay trở đi, tai thường nghe được tám thứ
âm  thanh  của  chư  Phật  thuyết  pháp;  tai  thường  nghe  được  những  tiếng:
“Khổ, không, vô thường, vô ngã?” tai thường nghe được tám mươi bốn ngàn
pháp ba la mật; tai thường được nghe nói các pháp chỉ là giả danh, không có
thật  thể, không có  tự  tánh;  tai  thường nghe chư Phật  thuyết pháp chỉ dùng
một âm thanh, mà vô lượng chúng sanh tùy theo nghiệp báo của mỗi loài mà
tự hiểu; tai thường nghe nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh; Phật tánh
ấy  là Pháp thân thường trú bất diệt; tai thường nghe tiếng mười phương Bồ
tát tu hạnh nhẫn nhục, tinh tấn; tai thường nghe nói: được pháp vô sanh giải,
khéo nhập Phật huệ, vượt ra ba cõi;  tai  thường nghe  tiếng các vị pháp  thân
Bồ  tát  vào  dòng  pháp  lưu,  chơn  tục  đồng  quán,  niệm  niệm  đầy  đủ muôn
hạnh;  tai  thường nghe  tiếng của các vị Bích chi, La Hán và bốn quả Thanh
văn  thuyết pháp;  tai  thường nghe Trời Đế Thích  thuyết Bát nhã;  tai  thường
nghe các vị đại sĩ  trên hàng  thập địa bổ xứ  trên cung  trời Đâu Suất  thuyết
pháp, bất  thối chuyển địa hạnh,  tai  thường nghe nói vạn hạnh đồng qui về
cõi  Phật;  tai  thường  nghe  chư Phật  khen  ngợi  hết  thảy  chúng  sanh  hay  tu
hạnh thập thiện, tùy hỷ.
 Nguyện  xin  cho  chúng  sanh  thường  được  nghe  tiếng  chư Phật  khen  ngợi:
“Lành thay! Người ấy không bao lâu sẽ thành Phật!”

Đã phát nguyện về nhĩ căn rồi; Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiện Nghiệp Phật

Nam mô Ý Vô Mậu Phật

Nam mô Đại Thí Phật

Nam mô Minh Tán Phật

Nam mô Chúng Tướng Phật

Nam mô Đức Lưu Bố Phật

Nam mô Thế Tự Tại Phật

Nam mô Đức Thọ Phật

Nam mô Đoạn Nghi Phật

Nam mô Vô Lượng Phật

Nam mô Bảo Nguyệt Bồ tát

Nam mô Nguyệt Quang Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
 Nguyện  xin Tam bảo dùng  sức  từ bi, đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ, khiến  đệ  tử
chúng con tên ... được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.

--- o0o ---
KẾ ĐẾN NGUYỆN VỀ TỈ CĂN (lỗ mũi)

Ngày nay nguyện xin Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo tràng rộng ra khắp
hết  thảy  chúng  sanh  trong  bốn  loài  sáu  đường,  cùng  tận mười  phương,  từ
nay  trở đi  cho đến  ngày  thành Phật, mũi  thường không  nghe mùi ăn  uống
ngon  lành do  sự  sát  sanh  hại mạng; mũi  thường không  nghe mùi  săn bắn,
thiêu đốt, sát hại chúng sanh; mũi  thường không nghe mùi ba mươi sáu vật
trong thân thể như đẫy da hôi thúi; mũi thường không nghe mùi gấm vóc lụa
là  mê  hoặc  lòng  người;  mũi  thường  không  nghe  mùi  lột  da,  xẻ  thịt,  thui
nướng trong địa ngục; mũi thường không nghe mùi ngã quỉ đói khát ăn uống
phẩn uế máu mủ tanh hôi; mũi thường không nghe mùi tanh tao bất tịnh của
súc  sanh; mùi  thường không nghe mùi hôi hám của bệnh nhân  lở  loét nằm
trên giường chiếu ô uế , không người chăm nom săn sóc, không thể lại gần;
mũi  thường không nghe mùi hôi  thối của  thây ma sình chướng  lên, sâu dòi
rứt rỉa thối nát.

Nguyện  xin  Đại  chúng  chúng  sanh  trong  sáu  đường  từ  nay  trở  đi,  mũi
thường được ngửi mùi hương chiên đàn vô giá, thơm khắp mười phương thế
giới, mũi  thường được ngủi mùi hương  thơm của hoa ưu đàm bát năm sắc;
mũi thường được ngửi mùi hương thơm của các thứ hoa trong vườn hoan hỷ
của  chư Thiên; mũi  thường  được  ngửi mùi  hương  thơm  trong  thời  thuyết
pháp ở cung  trời Đâu suất; mũi thường được ngửi mùi hương trong khi chư
thiên chơi giỡn ở Diệu Pháp đường, mũi  thường được ngửi mùi hương ngũ
giới,  thập  Thiên,  lục  niệm  của  chúng  sanh  tu  hành  ở  mười  phương;  mũi
thường  được  ngửi mùi  hương  của  những  người  tu  hành  thất  phương  tiện,
thập lục hạnh; mũi thường được ngửi mùi hương phước đức của các vị Bích
Chi Phật của các bậc hữu học, vô học trong mười phương; mũi thường được
ngửi mùi  hương  của  các  bậc  Tứ Hướng,  Từ  quả  chứng  pháp  vô  lậu; mũi
thường được ngửi mùi hương của vô lượng Bồ tát lên các Địa vị hoan hỷ, ly
cấu, Phát  quang, Diệm Huệ, Nan  thắng, Hiện Tiền, Viễn Hành, Bất  động,
Thiện Huệ,  Pháp Vân; mũi  thường  được  ngửi mùi  hương  năm  phần  pháp
thân: giới, định, huệ, giải thoát, giải  thoát tri kiến của các Thánh nhơn; mũi
thường  được  ngửi mùi  hương  bồ  đề  của  chư Phật; mũi  thường  được  ngủi
mùi hương của ba mươi bảy phẩm  trợ đạo, (4) mười hai nhân duyên quán,
(5)  và  sáu  pháp Ba  la mật,  (6) mũi  thường  được  ngửi mùi  hương  của  các pháp đại bi, (7) tam niệm (8) thập lực (9) tứ vô sở úy (10) và mười tám pháp
bất cộng (11) của chư Phật; mũi  thường được ngửi mùi hương của tám vạn
bốn ngàn  (12) pháp Ba  la mật; mũi  thường được ngửi mùi hương của pháp
thân thường trú (13) vô  lượng nhiệm mầu cùng khắp mười phương của chư
Phật.

Đã  phát  nguyện  về  tỉ  căn  rồi, Đại  chúng  cùng  nhau  chí  thành  đảnh  lễ  thế
gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Lê Đà Pháp Phật

Nam mô Ứng Cúng Dường Phật

Nam mô Độ Ưu Phật

Nam mô Nhạo An Phật

Nam mô Thế Ý Phật

Nam mô Ái Thân Phật

Nam mô Diệu Túc Phật

Nam mô Ưu Bác La Phật

Nam mô Hoa Anh Phật

Nam mô Vô Biên Biện Quang Phật

Nam mô Tín Thánh Phật

Nam mô Đức Tinh Tấn Phật

Nam mô Diệu Đức Bồ tát

Nam mô Kim Cang Tạng Bồ tát 
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến cho đệ tử
tên . . .  được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THIỆT CĂN  (lưỡi)

Lại  nguyện  xin  ngày  nay Đại  chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng,  rộng  ra
cho đến hết thảy chúng sanh trong sáu đường, khắp mười phương, từ nay trở
đi  cho  đến  ngày  thành  đạo,  lưỡi  không  nếm  vị  nơi  thân  thể  của  hết  thảy
chúng sanh bị thương hay bị giết;  lưỡi không nếm hết thảy vị bị tự  tử;  lưỡi
không nếm vị huyết  tủy của các  loài chúng sanh;  lưỡi không nếm vị  thuốc
độc  của  oan  gia  đối  đầu;  lưỡi  không  nếm  vị  ngon  lành  hay  sanh  tham  ái
phiền não.

Nguyện xin lưỡi thường nếm trăm món cam lồ mỹ vị; lưỡi thường hay nếm
vị ăn uống tự nhiên của chư Thiên; lưỡi thường hay nếm vị cơm thơm ngon
ở cõi Phật Hương Tích;  lưỡi  thường hay nếm các vị ăn uống của chư Phật;
lưỡi  thường hay nếm các vị đồ ăn do sức huân  tu giới, định, huệ của pháp
thân hiện ra;  lưỡi thường hay nếm pháp hỷ, thuyền duyệt thực;  lưỡi thường
hay nếm vị ngon ngọt điều hòa của vô  lượng công đức bồi bổ tư nhuần huệ
mạng;  lưỡi  thường  hay  nếm  vị  giải  thoát  bình đẳng một màu;  lưỡi  thường
hay nếm vị thù thắng nhiệm mầu, tối thượng an vui Niết Bàn, của chư Phật.

Đã phát nguyện về Thiệt căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Chơn Thật Phật

Nam mô Thiên Chủ Phật 
Nam mô Lạc Cao Âm Phật

Nam mô Tín Tịnh Phật

Nam mô Bà Kỳ La Đà Phật

Nam mô Phước Đức Ý Phật

Nam mô Diệm Xí Phật

Nam mô Vô Biên Đức Phật

Nam mô Tu Thành Phật

Nam mô Sư Tử Du Phật

Nam mô Bất Động Phật

Nam mô Tín Thanh Tịnh Phật

Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát

Nam mô Tát Đà Bà Lôn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại  quy  y  như  vậy  mười  phương  tận  hư  không  giới  hết  thảy  Tam  bảo.
Nguyện xin tam bảo dủ lòng từ bi, thương xót che chở, khiến chúng con tên .
. . được như sở nguyện, mãm bồ đề nguyện.

--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THÂN CĂN

Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng,  rộng  ra cho
đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường ở khắp mười phương, từ
nay  trở đi  cho đến  ngày  thành Phật,  thân  thường không  giác  xúc  các  cảnh ngũ dục  tà mỵ;  thân  thường không giác xúc các cảnh vạc nước sôi,  lò  than
nóng,  nước  giá  lạnh  trong  các Địa  ngục;  thân  thường  không  giác  xúc  các
cảnh ngã quỉ đói khát, trên đầu lửa đốt, miệng nuốt nước đồng sôi, cháy nát
tâm can, thân thể; thân thường không giác xúc các cảnh súc sanh bị lột da xẻ
thịt đau đớn khổ sở,  thân  thường không giác xúc các cảnh khổ não, do bốn
trăm lẻ bốn bệnh hoành hành; thân thường không giác xúc các cảnh đại hàn,
đại nhiệt, không thể kham chịu; thân  thường không giác xúc các cảnh muỗi
mòng  rận chí, sâu  trùng cắn  rứt;  thân  thường không giác xúc các cảnh dao
gậy, thuốc độc làm hại; thân thường không giác xúc các cảnh đói khát khốn
khổ đủ điều.

Nguyện  xin  thân  thường  giác  xúc  y  phục  nhiệm mầu  của  chư Thiên;  thân
thường  giác  xúc  vị  cam  lồ  tự  nhiên;  thanh  thường  giác  xúc  cảnh  thanh
lương, không lạnh không nóng; thân thường giác xúc cảnh không đói không
khát, không bệnh, không não; thân thường giác xúc cảnh không dao gậy khổ
sở;  thân  thường  giác  xúc  cảnh  thức  ngủ  điều  yên  ổn,  không  lo  không  sợ;
thân  thường  giác  xúc  cảnh  gió  nhẹ  thổi mát  ở  các  cõi  Tịnh  độ  của mười
phương Phật; thân thường giác xúc cảnh tắm rửa thân tâm trong ao thất bảo
ở các cõi Tịnh độ của mười phương Phật; thân thường giác xúc cảnh không
đau khổ vì sanh già, bệnh, chết; thân thường giác xúc cảnh thân bay đi nghe
pháp với chư vị Bồ tát một cách tự tại; thân thường giác xúc cảnh chư Phật
nhập Niết Bàn cách tự tại.

Đã phát nguyện về thân căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Hạnh Minh Phật

Nam mô Long Âm Phật

Nam mô Trì Luân Phật

Nam mô Tài Thành Phật

Nam mô Thế Ái Phật
 Nam mô Pháp Danh Phật

Nam mô Vô Lượng Bảo Minh Phật

Nam mô Vân Tướng Phật

Nam mô Huệ Đạo Phật

Nam mô Diệu Hương Phật

Nam mô Hư Không Âm Phật

Nam mô Hư Không Phật

Nam mô Việt Tam Giới Bồ tát

Nam mô Bạt Đà Bà La Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi, đồng gia  tâm phù hộ, nhiếp  thọ, khiến
chúng con tên . . .  được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ Ý CĂN

Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng,  rộng  ra cho
đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, ở khắp mười phương, từ
nay  trở  đi  cho  đến  ngày  thành  đạo,  ý  thường  được  biết  thân  sát  đạo  dâm;
khẩu vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu là hoạn nạn; ý thường được biết
giết cha hại mẹ, giết A la hán, làm thân Phật xuất huyết, phá sự hòa hiệp của
chúng Tăng, hủy báng Tam bảo, không  tin nhân quả đều  là  tội đọa vô gián
địa ngục; ý thường được biết người chết rồi không mất; ý tin có nhân quả và
sự báo ứng; ý thường được biết xa ác tri thức, ưa gần thiện tri thức; ý thường
được biết theo tà sư ngoại đạo là phi pháp; ý thường được biết các pháp tam lậu  (14) ngũ  cái  ([15])  thập  triền  ([16])  là hay  chướng  ngại đạo;  ý  thường
biết tam đồ là chỗ khổ báo kịch liệt, tàn khốc của sanh tử đáng sợ.

Nguyện xin ý  thường biết hết  thảy chúng sanh đều có Phật  tánh  (tánh cách
làm Phật); ý thường biết chư Phật là Đấng Cha lành, Đại Từ bi, là Đấng Vô
thượng Y vương; ý thường biết hết thảy Tôn pháp là thuốc hay dùng trị bệnh
của chúng sanh; ý thường biết hết thảy Hiền Thánh là mẹ lành săn sóc bệnh
hoạn cho chúng sanh; ý thường biết quy y Tam bảo, thọ năm cấm giới, rồi tu
thập  thiện  là những pháp hay chiêu  tập quả báo  tốt đẹp ở cõi người và cõi
Trời;  ý  thường  biết  chưa  khỏi  sanh  tử  nên  tu  theo  bảy  pháp  phương  tiện
([17]) nên quán sát các pháp noản, đảnh ([18]); v.v.  . . ý thường biết nên tu
các pháp vô lậu, khổ nhẫn, mười sáu thánh tâm ([19]) thì trước phải tu mười
sáu quán hạnh ([20]) quán sát tứ đế ([21]); ý thường biết tứ đế là bình đẳng
vô tướng ([22]) cho nên chứng được tứ quả ([23]); ý thường biết tổng tướng
([24])  biệt  tướng  ([25])  của  tất  cả  các  pháp;  ý  thường  biết mười  hai  nhân
duyên,  nhân  quả  ba  đời,  xoay  vần  luân  chuyển  không  bao  giờ  ngừng;  ý
thường biết tu hành lục độ tám vạn tế hạnh; ý thường biết đoạn trừ tám vạn
bốn ngàn trần lao; ý thường biết thể nhập được vô sanh nhẫn ([26]) thì quyết
định dứt được sanh tử; ý thường biết được thứ lớp, đầy đủ phẩm vị, giai cấp
của các Thập trú Bồ tát ([27]); ý thường biết dùng tâm Kim cang ([28]) đoạn
trừ si ám vô minh ([29]) mà chứng được quả Phật vô thượng; ý thường biết
thể  tánh một phen chiếu sáng cùng cực  rồi  thì muôn đức đầy đủ; hoạn  lụy
nhiều kiếp đều sạch hết; chứng quả Đại Niết bàn; ý thường biết được mười
trí lực ([30]) bốn vô úy ([31]) mười tám bất cộng ([32]) vô lượng công đức,
vô lượng trí huệ, vô lượng thiện pháp của chư Phật.

Đã phát nguyện về ý căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh  lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ

Nam mô Di Lặc Phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thiên Vương Phật

Nam mô Châu Tịnh Phật

Nam mô Thiện Tài Phật

Nam mô Đăng Diệm Phật 
Nam mô Bảo Am Thanh Phật

Nam mô Nhãn Trụ Vương Phật

Nam mô La Hầu Thủ Phật

Nam mô An Ổn Phật

Nam mô Sư Tử Ý Phật

Nam mô Bảo Danh Văn Phật

Nam mô Đắc Lợi Phật

Nam mô Biến Kiến Phật

Nam mô Mã Minh Bồ tát

Nam mô Long Thọ Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi, đồng gia  tâm che chở nhiếp  thọ, khiến
chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.

--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ KHẨU NGHIỆP

Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho đến hết thảy
chúng sanh  trong bốn  loài sáu đường khắp mười phương,  từ nay  trở đi cho
đến ngày thành Phật, miệng thường không hủy báng Tam bảo; miệng không
hủy báng người hoằng thông giáo pháp, không nói việc xấu ác của người ấy;
miệng không nói  làm  lành không được quả báo an vui;  làm ác không được
quả báo khổ sở; miệng không nói người chết mất hẳn, không chuyển sanh, không  luân hồi; miệng không nói việc không  lợi  ích, có  tổn hại cho người;
miệng không nói kinh sách của  tà ma, ngoại đạo  làm  ra; miệng không dạy
người  làm  mười  ác  nghiệp,  không  dạy  người  tạo  tội  ngũ  nghịch;  miệng
không  tán dương  người  làm  ác; miệng không  nói  việc  chơi cười  giỡn  cợt,
không  lý thú của  thế tục; miệng không dạy người tin  theo thầy tà, quỉ thần,
đồng bóng; miệng không bình  luận nhân vật xấu  tốt; không giận hờn mắng
nhiếc cha mẹ, Sư trưởng, Thiện tri thức; miệng không khuyên người tạo tội,
không cấm người làm phước.

Nguyện  xin miệng  thường  tán  thán Tam  bảo;  tán  thán  người  hoằng  thông
giáo pháp, nêu cao công đức  truyền giáo ấy; chỉ bày quả báo  thiện ác  lành
dữ cho người; miệng thường giác ngộ cho người biết rằng thân nầy chết rồi,
thần thức không mất; miệng  thường phát ra lời lành khiến người nghe được
lợi ích; miệng thường diễn nói mười hai bộ kinh của Phật, miệng thường nói
hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh; miệng
thường dạy người hiếu dưỡng cha mẹ, kính  thờ Sư  trưởng;  thường khuyên
người quy y Tam bảo,  thọ  trì năm giới,  thập  thiện  lục niệm; miệng  thường
tán  tụng kinh điển; nói các việc  lành; miệng thường dạy người gần thiện tri
thức; xa ác tri thức; miệng thường nói vô lượng công đức của hàng thập trú
Bồ  tát  và  Phật  địa;  miệng  thường  khuyên  người  tu  hạnh  Tịnh  độ;  trang
nghiêm quả Phật; miệng  thường dạy  người  lễ bái Tam  bảo; miệng  thường
dạy  người  xây  dựng  hình  tượng,  làm  các  việc  cúng  dường; miệng  thường
dạy người  làm các việc thiện gấp như cứu  lửa cháy dầu; miệng  thường dạy
người cứu giúp người nghèo khổ, không tạm nghỉ.

Đã phát nguyện về miệng rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật

Nam mô Thế Hoa Phật

Nam mô Cao Đảnh Phật

Nam mô Vô Biên Biện Tài Thành Phật

Nam mô Sai Biệt tri Kiến Phật
 Nam mô Sư Tử Nha Phật

Nam mô Lê Đà Bộ Phật

Nam mô Phước Đức Phật

Nam mô Pháp Đăng Cái Phật

Nam mô Mục Kiền Liên Phật

Nam mô Vô Ưu Quốc Phật

Nam mô Ý Tứ Phật

Nam mô Lạc Bồ Đề Phật

Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát

Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

Nguyện xin Tam bảo, dủ lòng từ bi cho chở nhiếp thọ, khiến chúng con tên .
. . được như sở nguyện, mãn Bồ đề nguyện.

--- o0o ---
CHƯ HẠNH PHÁP MÔN

Lại  nguyện  xin  hết  thảy  chúng  sanh  trong  bốn  loài  sáu  đường  khắp mười
phương,  từ khi phát nguyện nầy về sau,  tất cả chúng sanh đều đầy đủ chư
hạnh phàp môn:

-    Muốn có lòng tin Tam bảo cương quyết thì có cung kính pháp môn.

-    Muốn không lòng nghi ngờ thì có kiên cố pháp môn. 
-    Muốn đoạn sự sanh tâm làm ác thì có sám hối pháp môn.

-    Muốn lời nguyện được thanh tịnh thì có niệm hối pháp môn.

-    Muốn không hủy phá ba nghiệp thì có hộ thân pháp môn.

-    Muốn tịnh bốn nghiệp thì có hộ khẩu pháp môn.

-    Muốn tâm thanh tịnhthì có hộ ý pháp môn.

-    Muốn nguyện vọng được đầy đủ thì có bồ đề pháp môn.

-    Muốn tất cả không hại thì có bi tâm pháp môn.

-    Muốn lập đức hóa độ thì có từ tâm pháp môn.

-    Muốn không hủy báng người khác thì có hoan hỷ pháp môn.

-    Muốn không khinh dể người khác thì có chí thành pháp môn.

-    Muốn diệt ba đường ác thì có Tam bảo pháp môn.

-    Muốn hoàn toàn không giả dối thì có chơn thật pháp môn.

-    Muốn không lòng bỉ ngã thì xả hại pháp môn.

-    Muốn không do dự thì có tâm bỏ sự ràng buộc pháp môn.

-    Muốn diệt trừ đấu tránh kiện tụng thì có ý vô tránh pháp môn.

-    Muốn tu hạnh bình dẳng thì có ứng chánh pháp môn.

Lại nguyện xin cho hết thảy chúng sanh đầy đũ vô lượng pháp môn sau nầy:

-    Tâm xu hướng pháp môn là quán tâm như huyễn.

-    Ý đoạn pháp môn là xả bỏ cội gốc bất thiện.

-    Thần túc pháp môn là thân tâm đều khinh tiện. 
-    Tín căn pháp môn là nguyện không thối chuyển.

-    Tấn căn pháp môn là không xả pháp lành.

-    Niệm căn pháp môn là khéo tạo đạo nghiệp.

-    Định căn pháp môn là nhiếp tâm vào chánh đạo.

-    Huệ căn pháp môn là quán lý vô thường khổ, không v.v...

-    Tín lực pháp môn là vượt hẳn oai thế của ma vương.

-    Tấn lực pháp môn là một phen tới không bao giờ lui.

-    Niệm lực pháp môn là chưa tằng bỏ quên thiện niệm. 

-    Định lực pháp môn là diệt các vọng tưởng.

-    Huệ lực pháp môn là xoay vần qua lại (vận chuyển tư tưởng).

-    Truy giác pháp môn là tích cực tu hành Phật đạo.

-    Chánh định pháp môn là nhập được tam muội.

-    Tịnh tánh pháp môn là không ưa tu theo các thừa giáo pháp khác.

Nguyện xin cho chúng sanh đều được một  trăm  lẻ  tám pháp môn như vậy
của Bồ tát ma ha tát; thanh tịnh Phật độ, khuyến hóa người xan tham, tật đố,
thảy đều thoát khỏi tám nạn; thảy đều nhiếp phục được người tranh tụng, sân
khuể; siêng  làm các việc  lành, khéo nhiếp phục người  lười biếng;  thảy đều
được định ý thần thông, thâu nhiếp các loạn tưởng, không cho vọng động.

Đã phát nguyện về ý căn rồi, Đại chúng lại cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:

Nam mô Di Lặc phật

Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
 Nam mô Pháp Thiên Kính Phật

Nam mô Đoạn Thế Lực Phật

Nam mô Cực thế Lực Phật

Nam mô Huệ Hoa Phật

Nam mô Kiên Am Phật

Nam mô An Lạc Phật

Nam mô Diệm Nghĩa Phật

Nam mô Ái Tịnh Phật

Nam mô Tàm Quý Nhan Phật

Nam mô Diệu Kế Phật

Nam mô Dục Lạc phật

Nam mô Lâu Chí Phật

Nam mô Dược vương Bồ tát

Nam mô Dược thượng Bồ tát

Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát

Nam mô Quán thế Âm Bồ tát

Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.

 Nguyện xin Tam bảo dủ  lòng  từ bi cứu hộ nhiếp thọ khiến các chúng sanh
trong bốn  loài sáu đường, khắp ba cõi, nhờ  sức công đức nhân duyên phát
tâm, phát nguyện của Đạo tràng sám hối nầy, đều đầy đủ phước đức trí huệ,
nhờ sức thần thông mà được tùy tâm tự tại.

--- o0o --- PHẦN CHÚC LỤY

 Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp  trong Đạo  tràng, đã vì chúng sanh  trong
bốn loài, sáu đường mà phát thệ nguyện rồi; thứ lại xin đem các chúng sanh
ấy phó chúc cho các vị ại Bồ tát. Nguyện xin chư Đại Bồ tát dủ  lòng  từ bi,
đồng  gia  tâm  nhiếp  thọ  cho  chúng  sanh  được  nhờ  công  đức  sám  hối  phát
nguyện nầy.

Lại  nguyện  xin  dủ  lòng  từ  bi  niệm  lực  khiến  hết  thảy  chúng  sanh  ấy  đều
muốn cầu vô  thượng phước điền; hết  lòng  tin  rằng: cúng dường Phật được
vô lượng phước báo; khiến biết hết thảy chúng sanh một lòng hướng về đức
Phật  được  vô  lượng  quả  báo  thù  thắng  thanh  tịnh;  nguyện  xin  cho  chúng
sanh đối với các Phật sự không có tâm keo rít mà phát tâm đại bố thí, không
luyến tiếc gì.

Lại nguyện xin hết  thảy chúng sanh đối với hết  thảy cơ sở Phật giáo, phát
tâm  làm các việc phước điền vô  thượng, xa  lìa hạnh nguyện của Tiểu thừa;
tu Bồ tát đạo được vô ngại giải thoát, thành nhất thế chủng trí của chư Phật.

Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh đối các cơ sở Phật giáo trồng vô  lượng
căn lành; được vô lượng phước đức, trí huệ của Phật.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh thâu nhiếp  lấy trí huệ sâu xa, nhìn vào
vô thượng chí vương được đầy đủ thanh tịnh.

Lại nguyện cho hết  thảy chúng sanh được  thần  lực vô ngại  tự  tại, dạo chơi
khắp hết thảy chỗ của chư Phật đã đến.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh nhiếp thủ lấy giáo lý Đại thừa, được vô
lượng chủng trí, an trú bất động.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh thành tựu hoàn toàn phước điền đệ nhất,
hay xuất sanh ra hết thảy trí huệ.

Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh đối với hết thảy chư Phật không có tâm
hiềm khích, ân hận mà lại trồng các căn lành, tham cầu trí huệ của Phật.

Lại nguyện cho hết  thảy chúng sanh dùng được phương  tiện nhiệm mầu đi
đến hết thảy cõi nước trang nghiêm của chư Phật; trong một niệm đã đi sâu
vào pháp giới không biết mỏi mệt. 
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh được thân tướng trang nghiêm, không ai
có thể so sánh kịp; hay đi khắp hết thảy mười phương  thế giới không nhàm
chán.

Lại  nguyện  cho  hết  thảy  chúng  sanh  đều  thành  tựu  được  thân  tướng  rộng
lớn, đi  lại tùy ý ; đều được thần  lực của Phật; trang nghiêm hoàn toàn cảnh
giới  giải  thoát,  trong  khoảng  một  niệm  thực  hiện  được  rõ  ràng  sức  thần
thông tự tại của chư Phật, khắp hư không pháp giới.

Đã phát đại nguyện như thế ấy rồi, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư
không;  nguyện  cho  các  chúng  sanh đồng  được  như  sở  nguyện, mãn bồ đề
nguyện. Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ Tam bảo.

Thảng hoặc như đệ  tử  tên  .  .  .  bị các quả báo khổ sở không  thể cứu chúng
sanh, nguyện xin đem các chúng sanh ấy phó thác cho:

Vô lượng vô biên, tận hư không giới pháp thân Bồ tát.

Vô lượng vô biên tận hư không giới vô lậu sắc thân Bồ tát.

Vô lượng vô biên tận hư không giới phát tâm Bồ tát.

-    Hưng chánh Pháp Mã Minh Đại sư Bồ tát.

-    Hưng tượng Pháp Long Thọ Đại sư Bồ tát.

-    Mười phương tận hư không giới Vô Biên Thân Bồ tát.

-    Mười phương tận hư không giới Quán Thấ Âm Bồ tát.

Văn Thù Sư Lợi Bồ tát

Phổ Hiền Bồ tát

Sư Tử Du Hý Bồ tát

Sư Tử Phấn tấn Bồ tát

Sư Từ Phan Bồ tát 
Sư Tử Tác Bồ tát

Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ tát

Kim Cang Huệ Bồ tát

Khí Ấm cái Bồ tát

Tịch Căn Bồ tát

Huệ Thượng Bồ tát

Thường Bất Ly Thế Bồ tát

Dược Vương Bồ tát

Dược Thượng Bồ tát

Hư Không Tạng Bồ tát

Kim Cang Tạng Bồ tát

Thường Tinh Tấn Bồ tát

Bất Hưu Tức Bồ tát

Diệu Âm Bồ tát

Bảo Nguyệt Bồ tát

Nguyệt Quang Bồ tát

Bạt Đà Bà Lôn Bồ tát

 Việt Tam Giới Bồ tát.

Lại  xin  phú  chúc  hết  thảy  chúng  sanh  ấy  cho  tất  cả mười  phương  tận  hư
không giới chư Đại Bồ tát.
 Nguyện  xin  chư Đại Bồ ma ha  tát dùng bổn  thệ  nguyện  lực,  thế độ  chúng
sanh  lực mà  nhiếp  thọ mười  phương  vô  cùng  vô  tận  hết  thảy  chúng  sanh;
nguyện xin chư Bồ  tát ma ha  tát không xả bỏ chúng sanh, xem chúng sanh
đồng như thiện tri thức, không có quan niệm chia rẽ; nguyện xin cho chúng
sanh biết ơn chư Bồ  tát,  thân cận cúng dường chư Bồ  tát. Nguyện xin chư
Bồ tát thương xót nhiếp thọ, khiến các chúng sanh ấy được tâm ngay thẳng,
theo dõi Bồ  tát, không xa  lìa Bồ  tát. Nguyện xin cho chúng sanh biết vâng
lời Bồ tát dạy bảo, không dám trái nghịch; được tâm kiên cố, không bỏ thiện
tri  thức, xa  lìa  tõi  lỗi,  tâm không  thối chuyển; khiến chúng sanh vì  thiện  tri
thức,  không  tiếc  thân  mạng,  xả  bỏ  hết  thảy,  không  trái  ý  thiện  tri  thức.
Nguyện cho chúng sanh  tu  tập đại  từ, xa  lìa các điều ác; nghe chánh pháp
của  Phật  đều  hay  thọ  trì;  nguyện  khiến  chúng  sanh  thiện  căn  nghiệp  báo
đồng như Bồ  tát; hạnh nguyện đồng như Bồ  tát;  rốt  ráo  thanh  tịnh, đầy đủ
thần  thông,  tùy ý  tự  tại;  tu đạo đại  thừa cho đến khi chứng được hoàn  toàn
nhất  thế chủng  trí; ở  trong  thời gian ấy không có  lười biếng; cỡi nghiệp  trí
huệ đến chỗ an ổn, được vô ngại đạo, hoàn toàn tự tại.

Trước hết là quy y Tam bảo, đoạn nghi, sanh tín, sám hối, phát tâm, hiển quả
báo, xuất địa ngục, giải oán,  tự khánh  (vui mừng) phát nguyện, hồi hướng
cho đến cuối cùng là phần chúc lũy nầy, như thế, có bao nhiêu công đức đều
đem bố thí cho hết thảy chúng sanh, tận hư không giới, khắp mười phương.
Nguyện xin đức Di Lặc Thế Tôn chứng giám cho chúng con, mười phương
chư Phật, thương xót che chở cho chúng con. Những điều chúng con sám hối
đều được  thành  tựu; nguyện cho chúng sanh đồng với Từ bi phụ. Sanh đến
cõi  nầy  tham  dự Hội Phật  thuyết pháp đầu  tiên;  nghe pháp  ngộ  đạo;  công
đức  trí huệ hết  thảy đều đầy đủ, cùng với chư Bồ  tát, bình đẳng không sai
khác, nhập kim cang tâm, thành bậc chánh giác.

--- o0o ---
TÁN PHẬT CHÚ NGUYỆN

Đa già a già độ, a  la ha tam miệu  tam Phật đà, mười hiệu đầy đủ, độ người
vô lượng dứt sạch sanh tử.

Nguyện xin nhờ công đức nhân duyên sám hối hôm nay cho các chúng sanh
và mọi người đều được hoàn toàn như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện:
 1.- Đệ  tử  chúng  con  tên  .  .  .    những  lời  thệ  nguyện  hôm  nay  đã  phát  ra,
nguyện xin nguyện nào cũng đồng như mười phương tận hư không giới hết
thảy chư Phật, chư đại Bồ tát đã phát thệ nguyện.

2.- Chư  Phật,  chư  đại Bồ  tát  đã  có  phát  thệ  nguyện  không  thể  cùng  tận,
chúng con hôm nay thệ nguyện cũng như vậy, rộng như pháp tánh, cứu cánh
như hư không; cùng  tận đời vị  lai, hết  thảy số kiếp, chúng sanh không  thể
tận, chúng con nguyện cũng không thể tận.

3.- Thế giới không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

4.- Hư không không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

5.- Pháp tánh không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

6.- Niết bàn không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

7.- Phật ra đời không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

8.- Trí huệ chư Phật không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

9.- Tâm tưởng biết không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;

10.- Trí sanh khởi không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận, Thế
gian đạo chủng, Pháp đạo chủng, trí huệ đạo chủng không thể tận, chúng con
nguyện cũng không thể tận.

Nếu mười  điều  ấy  có  thể  cùng  tận,  lời  nguyện  của  chúng  con mới  có  thể
cùng  tận. Mười điều ấy không cùng  tận, nguyện chúng con không bao giờ
cùng tận, hết thảy đều Hòa nam Tam thừa Thánh chúng.

TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP

QUYỂN THỨ MƯỜI

--- HẾT ---

 
1 Thanh tịnh thú: Chỗ ở, nơi thác thai được thanh tịnh, tức là Y báo, Chánh
báo, Tịnh độ. 
2 Thất  thánh  tài: Bảy  thứ  của  báu,  của Thánh  nhơn  sau  khi  đã  lên  địa  vị
“Kiến đạo” rồi. Các kinh chia 7 thứ này có hơi khác nhau: 1.- Tín, 2.- Giới,
3.- Đa văn, 4.- Tàm, 5.- Quí, 6.- Xả, 7.- Huệ.

3 Nhất thế chủng trí: Trí huệ của Phật   (Xem chú thích quyển 9 số 2)

4 37 phẩm trợ đạo: 37 pháp giúp cho đi đến Niết Bàn như con đường đạo lộ.

   37 là: Tứ niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ  lực, Thất
Bồ đề phần và Bát Thánh đạo vậy.

5 12 nhân duyên quán: Quán sát 12 nhân duyên:

   1.- Vô minh, 2.- Hành, 3.- Thức, 4.- Danh sắc, 5.- Lục nhập, 6.- Xúc, 7.-
Thọ, 8.- Ái, 9.-Thủ, 10.- Hữu, 11.- Sanh, 12.- Lão tử.

6 Sáu Ba la mật: Tức Lục độ: 1.- Bố thí, 2.- Trì giới, 3.- nhẫn nhục, 4.- Tinh
Tấn, 5.- Thiền định, 6.- Trí huệ.

7  ,8 Đại bi Tam miệu: Tâm đại bi của Phật  thường an  trú bất động  trong 3
trường hợp sau đây:

  1.-  Phật  giáo  hóa  chúng  sanh  tin  Phật,  Phật  cũng  không  vui  mừng,  tâm
thường an trú nơi chánh niệm, chánh trí. 2.- Chúng sanh không tin Phật, Phật
cũng  không  buồn  phiền,  tâm  thường  an  trú  nơi  chánh  niệm,  chánh  trí.  3.-
Chúng sanh có khi tin, có khi cũng không tin, Phật cũng không vui mừng và
cũng không buồn phiền, tâm thường an trú nơi chánh niệm, chánh trí. 

9 Thập lưc: Tức 10 trí lực của Phật.   (xem chú thích số 8, quyển 5)

10 Tứ vô sở úy: Bốn món không sợ  1.- Nhất  thế trí vô úy: Hiểu biết tất cả
Pháp thế và Xuất thế. 2.- Lậu tận vô úy: Dứt sạch các giống sanh tử hữu lậu.
3.- Thuyết chướng đạo: Nói rõ các đạo  lý hay chướng ngại các tà ma ngoại
đạo. 4.- Thuyết  tận khổ đạo: Nói  rõ đạo giáo hay diệt hại các  thống khổ.  --
Phật đứng dậy: Phật đối giữa đại chúng tự tuyên bố 4 điều ấy một cách hùng
hồn, không sợ sệt.

11  –18  pháp  bất  cộng:  1.- Thân  không  lỗi.  2.- Miệng  không  lỗi.  3.- Niệm
không  lỗi.  4.- Không  có  tâm  tưởng  khác.  5.- Không  có  tâm  bất  định.  6.- Không có  tâm không biết mà đã xả. 7.- Sự muốn không giảm. 8.- Tinh  tấn
không  giảm.  9.- Niệm  không  giảm.  10.- Huệ  không  giảm.  11.- Giải  thoát
không giảm. 12.- Giải thoát tri kiến không giảm. 13.- Tất cả thân nghiệp đều
hành động theo trí huệ. 14.- Tất cả khẩu nghiệp đều hành động theo trí huệ.
15.- Tất cả ý nghiệp đều hành động theo trí huệ. 16.- Trí huệ biết đời vị  lai
không ngại. 17.- Trí huệ biết đời quá khứ không ngại. 18.- Trí huệ biết đời
hiện tại không ngại.

12 8.400 pháp môn là pháp môn tu hành đối trị với 8.400 phiền não.

13 Pháp  thân  thường  trú  tức  là chơn  thân,  thật  tướng của Phật, cũng gọi  là
Phật tánh hay Pháp tánh.

14 Tam  lậu: 1.- Dục  lậu: chúng sanh bị vô minh ái nhiễm  ràng buộc nên ở
mãi  trong Dục  giới,  không  ra  được.  2.- Hữu  lậu: Chúng  sanh  bị  vô minh,
phiền não tạo nghiệp chịu quả nên không ra được các cõi sắc giới và Vô sắc
giới. 3.- Vô minh lậu: Chúng sinh bị vô minh che lấp tâm tánh nên không ra
khỏi ba cõi.

[15] Ngũ cái: Năm món ngăn che tâm tánh: 1.- Tham dụ. 2.- Giận nóng. 3.-
Ngủ nghỉ,  tâm hôn  trầm,  tán  loạn.4.- Trạo hối: Trong  tâm có xao động, ăn
năn.  5.- Nghi  ngờ: Không  phân  biệt  được  chơn  ngụy,  do  dự,  không  quyết
định.

[16] 10 triền: 10 giây ràng buộc: 1.- Vô tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ. 2.-
Vô quý: Có  tội  lỗi người khác biết được mà không biết  thẹn. 3.- Tật: Thấy
người có đức hạnh hay ghen  tị, ghen ghét. 4.- Xan: Keo kiết không biết bố
thí. 5.- Hối: Ăn năn tội lỗi đã làm. Sám hối nên dứt tâm. 6.- Thùy miên: hôn
mê, không  tỉnh  táo, không  xét  được  thâm  tâm.  7.- Trạo cử:  trong  tâm  xao
động. 8.- Hôn trầm: Tinh thần hôn mê không biết gì. 9.- Sân hận: Đối nghịch
cảnh  không  nhẫn  nhục mà  hay  sân  hận.  10.- Phú:  che  dấu  tội  lỗi.  - Mười
pháp nầy trói buộc chúng sanh trong luân hồi đau khổ.

[17] Bảy phương tiện:

1.- Ngũ đình tâm quán: a) Quán bất tịnh: để đối trị tâm tham dục. b) Quán từ
bi: để đối  trị  lòng hay giận hờn. c) Quán sổ  tức: để đối  trị  tâm  tán  loạn. d)
Quán nhân duyên: để đối trị tâm si mê. đ) Quán niệm Phật: để đối trị nghiệp
chướng.
 2.-  Biệt  tướng  quán: Quán  sát  riêng  từng món  ví  như  quán  Tứ  niệm  xứ:
Quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.

3.- Tổng  tướng quán: Trong một  niệm quan  sát  tổng quát 4 pháp một  lần:
Thân  thọ  tâm pháp. Như quán  thân bất  tịnh  thì biết cả  thọ,  tâm, pháp cũng
vậy.

[18]  4.- Noãn vị: Lấy chỗ biệt tướng, tổng tướng, và quán cảnh Tứ đế, phát
trí hiểu được một phần tương tợ Phật tánh, hàng phục được chút đỉnh phiền
não. Cũng như hai cây gỗ cọ nhau mới thấy hơi nóng nóng.

5.- Đảnh vị: Theo noãn pháp tu tiến lên có phần thắng tấn, định huệ được rõ
ràng, như lên đỉnh núi thấy rõ 4 phương.

6.- Nhãn  vị: Bởi  công  tu  từ  trước  có  phần  thắng  tấn,  với  cảnh Tứ  đế,  có
kham nhẫn làm vui.

7.- Thế đệ nhất vị: Tu Tứ đế đến đây sắp thấy Pháp tánh, vào Sơ quả đối với
thế gian là hơn hết.

[19]  16 Thánh tâm: 16 hành tướng quán sát Tứ đế để vào địa vị kiến đạo sau
khi đoạn được kiến hoặc.

[20]  16 hành quán: 16 phương pháp quán sát lý Tứ đế khổ trí nhẫn v.v...

[21] Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo là 4 sự thật quyết định.

[22] Bình đẳng vô  tướng: Về phương diện Đại  thừa  thì Tứ đế có  tính cách
bình đẳng, vô  tướng, vô  lượng, vô  tác, nên Tứ đế không có nghĩa  tiêu cực
mà là tích cựa, phát từ bi tâm cứu độ chúng sanh trước khi thành Phật.

[23] Tứ quả: 4 quả vị của Tiểu thừa:

1.-  Sơ  quả  gọi  là Tu  đà  hoàn  hay  nhập  lưu,  còn  7  phen  sanh  tử  nữa mới
chứng A la hán.

2.- Nhị quả hay là Tư đà hàm, gọi là nhất lai: còn một phen sanh tử nữa mới
chứng A la hán.

3.- A na hàm hay là Bất lai: không sanh lại nữa, chết rồi chứng quả A la hán. 
4.- A la hán gọi là vô sanh: hết sanh tử luân hồi.

[24]Tổng tướng.   (xem chú thích số 17, Bảy phương tiện, quyển này) 

[25] Biệt tướng (xem chú thích số 17, Bảy phương tiện, quyển này)

[26]  Vô sanh nhẫn: cũng gọi là vô sanh pháp nhẫn: Chứng được Phật tánh là
lý  tánh, bất  sanh, bất diệt. Từ  sơ địa đến Bát địa Bồ  tát mới  vào được Vô
sanh nhẫn.

[27] Thập trú: Địa vị này sau khi đã qua khỏi địa vị Thập  tín, thắng  tấn  lên
đến Phật địa, đã vào không  lý bát nhã  rồi, an  trú vào đó mà sanh công đức
nên gọi là “địa”.

[28] Kim cang tâm: Tâm của Bồ tát kiên cố không thể phá hoại.

[29] Vô minh: Không  sáng,  cội  gốc  của  si mê,  căn  bản  của  tham,  sân,  si,
phiền não do vô minh mà sanh. Đến địa vị Phật mới hết vô minh, sanh giác
ngộ.

[30] 10 trí lực:(xem chú thích số 8 quyển 5).

[31] 4 món vô úy(xem chú thích số 10 quyển này).

[32] 16 pháp bất cộng(xem chú thích số 11 quyển này).

--- o0o ---



Hết



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét