Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016
lương hoàng sám
TỪ BI ÐẠO TRÀNG
SÁM PHÁP
LƯƠNG HOÀNG SÁM
HT.THÍCH TRÍ TỊNH giảo chính
Dịch giả: TT..VIÊN GIÁC
--- o0o ---
Nguồn
www.quangduc.com
Chuyển sang ebook 11 – 8 - 2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
LỜI GIỚI THIỆU
THAY LỜI TỰA
SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?
NGHI THỨC TỤNG NIỆM
TỤNG CHÚ ÐẠI BI
QUYỂN THỨ NHỨT
CHƯƠNG THỨ NHẤT : QUY Y TAM BẢO
CHƯƠNG THỨ HAI : DỨT NGHI NGỜ
CHƯƠNG THỨ BA : SÁM HỐI
QUYỂN THỨ HAI
CHƯƠNG THỨ TƯ : PHÁT BỒ ÐỀ TÂM
CHƯƠNG THỨ NĂM : PHÁT NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ SÁU : PHÁT TÂM HỒI HƯỚNG
QUYỂN THỨ BA
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
QUYỂN THỨ TƯ
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
CHƯƠNG THỨ TÁM : RA KHỎI ĐỊA NGỤC
QUYỂN THỨ NĂM
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
QUYỂN THỨ SÁU
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
QUYỂN THỨ BẢY
CHƯƠNG THỨ MƯỜI : TỰ VUI MỪNG
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT : TƯỞNG NHỚ ƠN TAM BẢO
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI :CHỦ SÁM LỄ TẠ ĐẠI CHÚNG
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA : TỔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN : LỄ PHẬT THẾ CÁC CÕI TRỜI
CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TIÊN CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TRỜI
QUYỂN THỨ TÁM
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY :LỄ PHẬT THẾ A TU LA VÀ HẾT THẢY THIỆN
THẦN
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM : CÒN THIẾU
CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ MA VƯƠNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHO NHƠN ĐẠO, QUỐC VƯƠNG
V.V...
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ QUYẾN THUỘC CỦA QUỐC
CHỦ
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ CÁC ĐỜI TRƯỚC
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN : LỄ PHẬT THẾ SƯ TRƯỞNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM : LỄ PHẬT THẾ MƯỜI PHƯƠNG
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ TỨ CHÚNG QUÁ KHỨ
QUYỂN THỨ CHÍN
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM : LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG
ĐỊA NGỤC KHÔI HÀ, ĐỊA NGỤC THIẾT HOÀN V.V...
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG
NHỮNG ĐỊA NGỤC UỐNG NƯỚC ĐỒNG SÔI, ĐIẠ NGỤC HẦM HỐ V.V.
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC ĐỊA
NGỤC, ĐAO BINH, ĐỒNG PHỦ V.V...
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG CÁC
ĐỊA NGỤC HỎA THÀNH ĐAO SƠN V.V...
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG
NGÃ QUỈ
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG ĐƯỜNG
SÚC SANH
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN : VÌ SÁU ĐƯỜNG CHÚNG SANH MÀ PHÁT
NGUYỆN
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM : CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ NGƯỜI LÀM CÔNG QUẢ Ở
CHÙA
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY : PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG THẾ CHO CHÚNG SANH
QUYỂN THỨ MƯỜI
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM : BỒ TÁT HỒI HƯỚNG
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN : PHÁT NGUYỆN
PHÁT NGUYỆN VỀ NHÃN CĂN (con mắt).
THỨ LẠI PHÁT VỀ NHĨ CĂN (lỗ tai)
KẾ ĐẾN NGUYỆN VỀ TỈ CĂN (lỗ mũi)
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THIỆT CĂN (lưỡi)
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THÂN CĂN
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ Ý CĂN
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ KHẨU NGHIỆP CHƯ HẠNH PHÁP MÔN
PHẦN CHÚC LỤY
TÁN PHẬT CHÚ NGUYỆN
--- o0o ---
LỜI GIỚI THIỆU
Phàm là người sanh trong cõi Dục này, trừ các bực đã hoàn toàn giác ngộ,
thì không một ai tránh khỏi lỗi lầm, bởi ba nghiệp gây nên.
Các tội lỗi dã từ ba nghiệp phát sanh, nên người muốn dứt trừ hết tội lỗi, tất
nhiên phải đem ba nghiệp ấy để sám hối, thì tội lỗi mới được thanh tịnh.
Phật dạy:
“Nếu không có phương pháp sám hối thì, tất cả các Phật tử không một ai mà
được giải thoát”.
Cũng như, nếu không nhờ bộ Lương Hoàng Sám nầy thì, bà Hy Thị là
Hoàng hậu của vua Lương không làm sao thoát khỏi khổ nạn được.
Vì thế nên bộ Lương Hoàng Sám nầy có một hiệu lực mạnh mẽ, làm cho
người có tội lỗi được tiêu trừ, phước lành tăng trưởng.
Cảm thấy sự phiên dịch của Ðại đức Thích Viên Giác rất dày công phu, nên
tôi xin có vài lời giới thiệu đến toàn thể các Phật tử xa gần và hy vọng rằng,
bộ Lương Hoàng Sám này được phổ biến mười phương và sẽ đem lại sự lợi
lạc chung cho tất cả; nếu ai có tín tâm thật hành theo.
Cẩn chí
Trị sự Trưởng G.H.T.G.N.V.
THÍCH THIỆN HÒA
--- o0o --- THAY LỜI TỰA
Theo lời tựa trong chánh văn thì bộ LƯƠNG HOÀNG SÁM này do Hòa
thượng Chí Công biên tập từ đời Vua Lương Võ Ðế bên Tầu.
Nguyên Vua Lương Võ Ðế, có một bà Hoàng hậu yêu quý nhất tên là Hy
Thị. Vì được vua yêu quý nên lòng đố kỵ của bà ngày càng lên cao; Hy Thị
ganh tị các cung phi, độc ác với mọi người và hủy báng Tam Bảo. Trong
Triều ngoài Quận ai cũng biết Bà Hy Thị là một “quái phi”.
Sau bà nhuốm bệnh nặng, các lương y đều thúc thủ, bà phải từ trần. Một
hôm vào lúc đêm khuya, đang ngồi trong cung tịch mịch. Vua Lương Võ Ðế
nghe tiếng người kêu van thảm thiết.
Dưới ánh đèn mờ, Vua Lương Võ Ðế lạnh cả người, muốn chạy trốn, nhưng
không được. Vua bèn lên tiếng hỏi: “Ngươi là ai mà đêm khuya thanh vắng
nghiêm mật thế này lại vào đây được?” – Hoàng đế ơi! Thiếp đây chính là
Hy Thị. Vì quá độc ác nên chết rồi thiếp phải đọa làm rắn mãn xà. Ngày đêm
đau khổ, thân thể tanh hôi, vi vẩy đều bị sâu trùng rúc rỉa nhức nhối không
thể chịu được.
Nhớ lại tình cầm sắc xưa kia nên thiếp đến đây mong nhờ Hoàng đế tìm
phương cứu thiếp. Nói rồi biến mất. Nghe xong, Vua Lương Võ Ðế như
thoát cơn ác mộng và lòng đau như dao cắt! Ngày mai khi lâm Triều, Vua kể
lại chuyện ấy cho bá quan nghe để tìm phương cứu vớt Hy Thị.
Trong số các quan có người đề nghị: Xin cung thỉnh Hòa thượng Chí Công
lo việc này. Vua lương Võ Ðế chấp thuận. Hòa thượng Chí Công là một cao
tăng đắc đạo đương thời. Thể theo lời thỉnh cầu của nhà Vua, ngài liền triệu
tập các danh tăng soạn ra Sám Pháp này và lập Ðàn tràng làm lễ sám hối cho
Hoàng hậu Hy Thị.
Nhà Vua chí tâm, thân hành lễ bái. Vài hôm đầu, người ta nghe có mùi
hương lạ thơm nức, ngào ngạt khắp cả đạo tràng.
Lễ tụng đến quyển thứ năm, ngay tại chỗ, trên không trung, Vua Lương Võ
Ðế nghe có tiếng của Hy Thị. Bà hiện thân thiên nữ đẹp đẽ, nói tiếng ngưởi,
tỏ lòng cám ơn Hòa thượng Hoàng đế.
Hy Thị cho biết bà đã thoát nạn và đã sanh lên Ðao Lợi Thiên Cung, nhờ
công đức sám hối.
Từ đó Sám Pháp này được truyền tụng khắp nơi, rất thạnh hành.
Bản chánh bằng Hán văn trọn bộ 10 quyển. Danh hiệu Phật và lời sám đều
rút trong Tam Tạng Thánh giáo Ðại thừa.
Năm 1948 – 1950, Bồ tát giới Tuệ Nhuận và một số đạo hữu khá đông ở Bắc
việt đã dịch âm ra Việt văn, thành 2 tập.
Năm 1952, lúc còn tu học ở Phật học viện Báo quốc Huế, tôi bắt đầu dịch
nghĩa bộ này ra tiếng Việt, đến nay mới đủ cơ duyên xuất bản.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong đền đáp lại bốn ơn
muôn một và cứu giúp muôn loài phần nào.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này, hầu mong giúp hàng sơ cơ một
phương pháp tu hành giản dị để cải ác tùng thiện, để đi Tây phương về Lạc
Quốc.
Tôi nguyện xin nhờ công đức phiên dịch này làm cho người tu hành ngày
càng tinh tiến, nghiệp chướng chóng tiêu trừ, thân tâm thường an lạc và sở
cầu được như nguyện.
Tôi cũng xin cầu nguyện cho tất cả người thấy, người nghe, người hủy báng,
người tùy hỷ, đều được lợi lạc, thoát khổ não, và nguyện xin cho tất cả
chúng sanh xả ly tà kiến, biết sám hối.
--- o0o ---
SÁM HỐI NGHĨA LÀ GÌ?
- Kinh dạy:
- Sám là sám kỳ tiền khiên. - Hối là hối kỳ hậu quá.
- Sám là ăn năn các việc ác đã làm, thề xin chừa bỏ, không dám tái phạm.
- Hối là hối cải. Những điều ác chưa làm, sau này xin thề nguyện không bao
giờ làm nữa. Bao nhiêu điều thiện xin làm hết.
Chữ Phạn gọi là Sám ma; Tàu dịch là hối quá; ghép cả hai chữ lại mà đọc là
Sám hối.
Sám hối cũng có sự sám và là sám.
Sự sám tức là thiết lập Ðàn tràng, trang nghiêm Phật tượng, cúng dường
hương hoa, ân cần đảnh lễ, thành khẩn nguyện cầu tam nghiệp như nhất, tỏ
bầy tội lỗi. Cầu xin chư Phật, chư đại Bồ tát phóng hào quang, dùng thần
lực, gia hộ cho kẻ tu hành mau tiêu trừ nghiệp chướng, chóng thoát oan
khiên, sạch hết tội lỗi.
Lý sám là sám hối tự tâm
Tội thành do tâm tạo
Tội diệt phải do tâm sám;
Tâm không thì tội cũng không,
Tội diệt thì tâm cũng diệt.
Tội không, tâm diệt thì không còn gì nữa mà sám hối. Như vậy mới là chân
thật sám hối.
Sau khi lạy một lạy, tụng một câu, người tu hành nên xét lại tự tâm, diệt sạch
vọng tưởng, quán lý vô sanh, phải biết tội do nhơn duyên mà thành, thì tội
cũng do nhơn duyên mà diệt. Nhơn duyên là những điều kiện tạo nên tội và
phương pháp sám hối.
Tội vốn không thật có. Vì không thật có, nên chúng ta có thể chuyển tội
thành phước, chuyển khổ thành vui, chuyển mê thành ngộ.
Khi xướng một câu danh hiệu Phật, chúng ta cần phải thật hiểu nghĩa lý
danh hiệu ấy. Hiểu để tu tập, để làm theo những đức tánh cao đẹp của chư
Phật.
Ví như chúng ta xướng câu. “Nam mô Phổ Quang Phật”, thì ít ra chúng ta
cũng phải hiểu sơ như thế này:
Chúng con xin kính lễ (Nam mô) đấng giác ngộ hoàn toàn (Phật) đầy đủ đức
tánh cao rộng đẹp đẽ (Phổ) sáng suốt vô biên (Quang).
Ngoài ra chúng ta cũng cần tìm hiểu thêm bản tâm của chúng ta. Tâm của
chúng ta cũng có những đức tánh cao rộng đẹp đẽ như thế.
NAM MÔ.- Nghĩa là quy y, kính lễ, v.v...
PHỔ.- Nghĩa là phổ cập, phổ biến, cùng khắp, không có giới hạn, ngoài thời
gian và không gian, không phân biệt người và ta. Trái lại Phổ có nghĩa hàm
súc những đức tánh từ bi hỷ xả với tất cả mọi loài, mọi vật, mọi chốn, mọi
nơi.
Tâm ta cũng có những tánh chất phổ biến như thế. Từ nay ta phải sống theo
tiếng gọi của cõi lòng, không tiêu cực mà tích cực, không ích kỷ mà vị tha,
không sân hận mà từ bi, không xan tham mà bố thí, không tật đố mà hỷ xả,
không ngu si mà trí huệ.
QUANG- Nghĩa là sáng suốt tuyệt đối, soi khắp mười phương, thông suốt ba
đời mà không lìa nơi một niệm. Tội nhơn và khổ quả của chúng sanh đã gây
tạo và sẽ chịu đền trả, từ bao giờ, ở nơi đâu, nhất nhất đều sáng tỏ, hiểu biết
hết.
Tâm ta có tính cách sáng suốt như vậy, từ nay trở đi, ta phải hành động, ăn ở
theo tâm tánh sáng suốt ấy, không còn ngu si mê mờ mà tạo tội nữa.
PHẬT- Là đấng giác ngộ hoàn toàn, ta đang kính lễ. Phật cũng tức là tâm
sáng suốt thanh tịnh, đầy đủ muôn đức tánh tốt đẹp, trùm khắp pháp giới, ra
ngoài thời gian.
Tâm ta cũng có những khả năng giác ngộ, những đức tánh như Phật,
Vậy từ nay trở đi ta phải noi gương Phật, sống cách sáng suốt, đầy đủ đức
hạnh như Phật, không tạo tội nữa.
Ðại khái như thế, cứ theo từng danh hiệu một mà quán sát tự tâm để sám hối.
Lần lần những khả năng tốt đẹp trong tâm ta do sự sám hối sẽ lưu lộ ra; nào
là từ bi hỷ xả, trí huệ, phước đức hạnh phúc dồi dào tuôn ra như nước, mặc
sức ta thọ dụng.
Người hiểu được và làm được như thế là người chánh kiến, không còn bôn
ba chạy theo ngoại cảnh, không tà kiến quy y theo quỉ mị tà thần.
Người chánh kiến chỉ biết quy y, lễ bái, tôn thờ đức Phật ở tự tâm, nghe
tiếng nói của cõi lòng.
Lễ một đức Phật tức là lễ hết thảy mười phương chư Phật. Ðem tâm từ bi
bình đẳng, sự lý viên dung, trùng trùng vô ngại mà bái sám thì lo gì tội
không diệt, phước không sanh.
Nếu người không thông lý, cứ y sự mà tu hành, chí tâm bái sám thì cũng nhờ
được thần lực của Tam bảo gia hộ mà tiêu trừ nghiệp chướng, như trong
chánh văn đã thuật rõ.
Phật dạy:
“Có hai hạng người mạnh nhất: một là không tạo tội, hai là biết ăn năn”
Phật dạy:
“Nếu không có pháp sám hối thì tất cả đệ tử Phật không thể giải thoát”.
Nhờ sám hối nên vua A Xà Thế phạm tội ngũ nghịch (giết cha) liền được
giải thoát.
Ông Trương thiện Hòa sát sanh vô số cũng không đọa địa ngục, vì biết hối
hận.
Có một điều đáng chú ý nhất là thân nghiệp và khẩu nghiệp thô tháo bên
ngoài dễ trừ. Duy có ý nghiệp, vi tế bên trong, rất khó diệt. Ðến quả vị Phật
mới hết tham, sân, si.
Do đó người phát đại tâm phải y cứ vào sám pháp đại thừa mới mong chóng
trừ diệt được ba độc.
Ngài Phổ Hiển Bồ tát là Trưởng tử của Phật trên Hội Hoa Nghiêm còn phải
phát đại nguyện. Ngài nguyện sám hối mãi cho đến cùng tận đời vị lai.
Nếu phiền não và nghiệp chướng của chúng sanh không cùng tận thì sự sám
hối của Ngài cũng không bao giờ cùng tận.
Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Các vị đại Bồ tát lúc lập đạo tràng an cư
từ 7 ngày cho đến 21 ngày đầu, sám hối nghiệp chướng”.
Trong kinh Bảo Tích, Phật dạy: “Hàng ngày nên đảnh lễ danh hiệu 35 vị
Phật trong kinh ấy mà sám hối nghiệp chướng”.
Trong luật thì pháp sám hối là một vấn đề tối quan trọng, không thể bỏ qua.
Trong luận thì pháp sám hối được giải thích rõ ràng và quyết định sám hối là
một việc cần phải có của người chơn tu, không thể thiếu sót.
Không sám hối rất có hại: Nghiệp chướng không tiêu trừ; tội lỗi còn mãi,
oan khiên nhiều kiếp theo hoài.
Ngài Ngộ Ðạt quốc sư mười đời làm cao tăng mà Triệu Thố vẫn còn theo
báo mãi.
Như thế dù cầu hạnh phúc thế gian hay xuất thế gian, việc đời và việc đạo,
đều bị trở ngại, tu chứng bất thành.
Kinh sách dùng để sám hối có rất nhiều: Như bộ Vạn Phật, bộ Tam Thiên
Phật, bộ Thủy Sám, Hồng Danh sám, Chuẩn Ðề sám và Dược Sư sám v.v...
Nhưng bộ Lương Hoàng Sám này lể rõ tội nhơn khổ quả, nghe đến ai cũng
phải lạnh mình khiếp sợ mà phát tâm cải ác tùng thiện ngay. Bộ này lại có
công năng diệt trừ tiền khiên, oan trái nhiều kiếp, nhiếu đời, đọc đến phải
cảm rơi nước mắt. Mỗi chữ, mỗi câu đều nhắm mục đích đền trả bốn ơn, cứu
thoát ba cõi, thay thế lục đạo mà sám hối, cầu nguyện cho tam đồ thoát khỏi
trầm luân. Cuối cùng lại vì tất cả chúng sanh mà phát nguyện, hồi hướng.
Người tu hành đọc đến bộ Lương Hoàng sám, dù không muốn phát đại tâm
cũng phải phát, dù không tin địa ngục cũng phải hợ Tam đồ.
Những người tu Tịnh Ðộ phát tâm Bồ đề thường nên tu theo pháp sám này,
để mau về Cực Lạc.
Có thể nói bộ Lương Hoàng Sám này là “bửu bối” riêng của những người
cầu vô thượng đạo, phát bồ đề tâm vậy.
Bộ này có năng lực sanh phước diệt tội không thể nghĩ bàn.
Trong chánh văn có bài kệ tán thán công đức sám hối, đại ý như thế này:
Sám vừa cử lên
Tội lỗi tiêu liền;
Giải được oan trái,
Trừ được tai ương;
Thoát khỏi khổ nạn,
Phước đức vô biên.
Sanh lên Ðạo lợi,
Hoặc về Tây phương.
Văn Thủy Sám cũng nói: “Lúc nghiệp báo đến, tội nhơn không thể rúc vào
núi đá, lặn xuống đáy nước, bay lên không gian hay ẩn núp đâu được. Duy
chỉ có nhờ phương pháp sám hối mả thoát được tai nạn mau chóng hơn hết,
độc nhất vô nhị”.
Sám hối lợi cho mình, lợi cho người, cho tất cả tam đồ, lục đạo pháp giới
chúng sanh.
Công đức sám hối nói không cùng nghĩ không tận. Tôi chỉ xin đốt nén
hương lòng cầu xin Tam bảo gia hộ cho tất cả người thấy, người nghe, người
ấn tống đồng phát Bồ đề tâm, đồng cầu sám hối, đồng hồi hướng công đức.
NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT
Trong lúc phiên dịch văn này, tôi không có hy vọng gì cao xa hơn là giúp
cho hàng sơ cơ một phương pháp tu hành thiết thực để về Tây phương Cực
Lạc.
Do đó, đầu quyển thứ nhất có nghi thức khai kinh thông thường dễ tụng.
Cuối quyển thứ mười có nghi thức Tịnh độ, cầu sanh An dưỡng làm tiêu
chuẩn hồi hướng.
Sau hết tôi xin chân thành cảm tạ chư vị đại thiện tri thức trong Hải hội chỉ
giáo cho tôi những khiếm khuyết, mong sao kỳ tái bản được hoàn toàn hơn.
Tôi nguyện xin đem công đức này hướng lên cúng dường ngôi Tam bảo, đức
Quán Thế Âm Bồ tát, đức Vô Biên Thân Bồ tát, và chư vị Hộ pháp đã mật
hùy gia hộ cho tôi làm một việc mà tôi tưởng tượng tôi không làm được.
Nguyện xin hồi hướng lên chư vị Ðại đức Tăng trong hiện tại đã dìu dắt tôi
tu hành. Ni chúng bộ V.N. đã phát tâm xuất bản giúp tôi; cùng chư vị thiện
nam tín nữ đã ủng hộ tôi nhiều phương diện trong lúc phiên dịch.
Nguyện xin tất cả đều trọn thành Phật đạo.
DỊCH GIẢ: TỲ KHEO THÍCH VIÊN GIÁC
Viết xong tại Tu viên Giác Hải
Ðiện Nam Hải Quan Âm ở Vạn Giả
Bắc Nha Trang ngày mãn hạ, năm Canh tý 2504 (1960)
--- o0o ---
NGHI THỨC TỤNG NIỆM
KỆ KHAI CHUÔNG
Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ,
Trí huệ lớn Giác đạo sanh.
Lìa địa ngục khỏi hầm lửa,
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
Án dà ra đế da ta bà ha (3lần)
KỆ NIỆM HƯƠNG
Hương giới, hương định cùng hương huệ.
Hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến;
Ðài mây sáng chói trùm cõi pháp,
Cúng dường trước mười phương ngôi Tam Bảo.
Nguyện các hương hoa này,
Trải khắp đến mười phương;
Không lường trong cảnh Tịnh,
Không lường hương trang nghiêm;
Ðầy đủ hạnh Bồ tát,
Thành tựu hương Như Lai.
Nam mô Hương cúng dường Bồ tát. (3lần)
KỆ PHÁT NGUYỆN
Chúng sanh không ngằn thệ nguyện độ,
Phiền não không cùng thệ nguyện đoạn;
Pháp môn không lường thệ nguyện học,
Phật đạo cao tột thệ nguyện thành.
Tự tánh chúng sanh thệ nguyện độ,
Tự tánh phiền não thệ nguyện đoạn;
Tự tánh pháp môn thệ nguyện học,
Tự tánh Phật đạo thệ nguyện thành. (3lần)
Ðệ tử tên . . . . . pháp danh . . . . . chí tâm khẩn nguyện, chuyên trì lễ bái
Lương Hoàng Từ Bi Sám pháp, cầu sanh Tịnh độ, hiện tiền một lòng chẳng
rối, tỏ ngộ Vô sanh, ngày khắc mạng tròn báo đủ, sanh về cõi Phật. Trên đài
sen báu, hầu Phật nghe Pháp, bạn cùng Bồ tát, vui cảnh Lạc Bang, mau lên
quả vị Bất thối, trở lại Ta Bà, hóa độ chúng sanh, làm nên đạo cả.
Nam mô Chứng Minh sư Bồ tát. (3lần)
KỆ KHEN PHẬT
Ðấng Pháp Vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng;
Thầy dạy khắp trời người,
Cha lành chung bốn loài;
Quy y tròn một niệm,
Dứt sạch nghiệp ba kỳ.
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ sở lễ tánh không tịch
Cảm ứng đạo giao năng tư nghì
Ngã thử đạo tràng như đế châu
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền
Ðầu diện tiếp túc quy mạng lễ. (1xá)
ÐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ:
Nam mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư
Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh tăng, thường trụ Tam bảo. (1lạy)
Chí tâm đảnh lễ:
Nam mô Ta bà Giáo chủ Ðiều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Long Hoa
Giáo chủ Di Lặc tôn Phật, Ðại trí Văn Thù Sư lợi Bồ tát. Ðại Hạnh Phổ Hiền
Bồ tát, Linh Sơn hội Thượng Phật Bồ tát.(1lạy)
Chí tâm đảnh lễ:
Nam mô Lạc bang Giáo chủ Ðại từ bi phụ tiếp dẫn Ðạo sư A Di Ðà Phật,
Ðại bi Quán Thế Âm Bồ tát, Ðại Thế Chí Bồ tát, Thanh Tịnh Ðại hải chúng
Bồ tát.(1lạy)
DƯƠNG CHI
Cành Dương nước tịnh,
Rải khắp ba ngàn.
Tánh không tánh đức,
Lợi lạc trần gian
Cõi pháp rộng thinh,
Tiêu diệt tai nàn.
Ngạ quỉ vui an.
Nam mô Thanh Lương Ðịa Bồ tát ma ha tát.(3lần)
--- o0o ---
TỤNG CHÚ ÐẠI BI
Nam mô đại bi hội thượng Phật, Bồ tát. (3lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà ra ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, Nam mô a rị da bà lô yết đế thước bác ra
da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da, án, tát bàn
ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a lị da, bà lô
kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê lị ma ha bàn đa sa
mế, tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng, tát bà tát đa na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, Di hê lỵ, ma ha bồ đề
tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, lỵ đà dựng. Cu lô cu lô, yết
mông độ lô độ lô, phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni,
Thất Phật ra da. Giá ra giá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ. Y hê y hê, thất
na thất na.
A ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, Hô lô hô lô ma ra,
hô lô hô lô hê lỵ, Ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà
dạ, bồ đà dạ, di đế lỵ dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na. Ba dạ ma na ta bà ha,
tất đà dạ ta bà ha, ma ha tất đà dạ ta bà ha, Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ ta
bà ha, Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha, Tất ra tăng a mục khê da ta
bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba
đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn già ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi
thắng yết ra dạ ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a lỵ da, bà lô kiết đế, Thước bàn
ra dạ ta bà ha.
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà da ta bà ha.(3lần)
Ðại từ đại bi mẫn chúng sanh,
Ðại hỷ đại xả tế hàm thức,
Tướng hảo quang minh dĩ tự nghiêm.
Chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ.
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo.(3lần)
Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm Mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Di Lặc Tôn Phật.
BÀI KỆ KHAI KINH:
Pháp vi diệu thâm sâu cao tột,
Trăm ngàn muôn ức kiếp gặp đâu.
Con nay thấy nghe được thọ trì,
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa chơn thật,
Nam mô thập phương thường trụ Tam bảo.(3lần)
--- o0o ---
QUYỂN THỨ NHỨT
SÁM PHÁP TỪ BI ÐẠO TRÀNG
Từ bi Ðạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy.
Nhơn vì cảm thấy Ðức Phật Di Lặc, dủ lòng từ bi, thương đời hiện tại và đời
vị lai, ứng mộng dạy bảo, đặt tên như thế, đúng như sự thật, không dám đổi
thay.
Nay vâng lời dạy bảo của Ðấng Từ Bi ấy là vì muốn hộ trì Tam bảo: làm cho
ma quân ẩn hình, khiến người tự cao tự đại và người tăng thượng mạn ([1])
phải tự chiết phục; khiến người chưa trồng căn lành phải trồng căn lành;
người đã trồng rồi, thì làm cho căn lành thêm lớn; khiến người hay chấp lấy
chỗ sở đắc ([2]) đắm trước tà kiến ([3]), phải phát tâm xả bỏ chấp trước;
khiến người ưa tiểu thừa ([4]) không nghi đại thừa ([5]); người ưa đại thừa
sanh tâm hoan hỷ tiểu thừa.
Vả lại, pháp sám từ bi nầy lớn hơn tất cả các việc lành khác. Pháp nầy là chỗ
quy y của hết thảy chúng sanh; như mặt trời sáng ban ngày; như mặt trăng
chiếu ban đêm. Pháp này là tròng con mắt, là đạo sư, là cha mẹ, là anh em, là
chơn thiện tri thức của người tu hành, đồng đi đến đạo tràng.
Pháp sám nầy thân thích hơn huyết nhục; đời đời theo nhau, dầu đến chết
cũng không rời nhau. Vì thế nên gọi Pháp sám nầy là Từ Bi Ðạo Tràng.
Hôm nay Ðại chúng ẩn thân hay hiện hình trong Ðạo tràng, lập ra Pháp sám
nầy đều phát đại tâm, vì có mười hai nhơn duyên lớn.
Những gì là mười hai?
1.- Một là nguyện hóa độ sáu đường ([6]) chúng sanh không có hạn lượng.
2.- Hai là chuyện báo đáp tứ ân không có hạn lượng.
3.- Ba là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến chúng sanh thọ cấm
giới của
Phật, không sanh tâm hủy phạm.
4.- Bốn là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối
với các bậc
tôn trưởng không sanh tâm kiêu mạn.
5.- Năm là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh,
sanh ra nơi nào
cũng không khởi tâm giận hờn.
6.- Sáu là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh đối
với sắc thân
người khác, không khởi tâm ghen ghét.
7.- Bảy là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, đối
với các
pháp trong thân, ngoài thân, không sanh tâm keo rít, mến tiếc.
8.- Tám là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh, hễ
làm được
phước thiện gì, đều không phải vì mình mà làm, chỉ vì những người không
có ai ủng
hộ, không có ai giúp đỡ mà làm.
9.- Chín là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh
không vì mình
mà tu pháp tứ nhiếp ([7]) mà chỉ vì hết thảy chúng sanh.
10.- Mười là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng sanh,
thấy người
cô độc tù tội, tật bệnh thì sanh tâm cứu giúp, cho họ an vui.
11.- Mười một là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến người tu
hành, thấy có
chúng sanh nào đáng chiết phục thì chiết phục, đáng nhiếp thọ thì nhiếp thọ.
12.- Mười hai là nguyện nhờ thần lực của Pháp sám nầy, khiến các chúng
sanh, sanh ra
nơi nào, cũng tự nghĩ nhớ đến sự phát tâm bồ đề hôm nay, làm cho tâm bồ
đề tương
tục mãi mãi không bị gián đoạn.
Ngưỡng mong Ðại chúng hoặc phàm hoặc thánh, hoặc ẩn thân hay hiện hình
trong Ðạo Tràng nầy, đồng gia tâm phù hộ, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ
tử chúng con tên . . . . sám hối được thanh tịnh, thệ nguyện được thành tựu,
tâm đồng tâm chư Phật, nguyện đồng nguyện chư Phật. Chúng sanh trong
bốn loài ([8]), sáu đường do đó mà được mãn bồ đề nguyện.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ NHẤT : QUY Y TAM BẢO
Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng mọi người đều nên sanh
tâm giác ngộ; biết đời là vô thường, thân không sống lâu, trẻ mạnh rồi phải
già yếu; chớ ỷ hình dung tốt đẹp mà không tự giữ gìn tịnh hạnh.
Vạn vật cũng vô thường thảy đều tiêu diệt. Trên trời dưới đất, không có vật
gì tồn tại mãi mãi. Lúc còn trẻ, nhan sắc tốt đẹp, da thịt mịn màng, thơm tho
trong sạch. Nhưng thân nầy cũng vô thường. Người sống có hợp có tan.
Sanh già bệnh chết không hẹn mà đến, ai sẽ trừ khử khổ ấy cho ta. Tai họa
thình lình đưa đến biết đâu mà tránh, không thể thoát được. Sang, hèn, giàu,
nghèo, thảy đều nhơn vậy mà chết. Chết rồi thân thể sình chương, thối không chịu nổi. Vậy luyến tiếc thân nầy nào có ích gì. Nếu không lo tu
nghiệp lành thù thắng, thì do đâu mà thoát ly sanh tử.
Ðệ tử chúng con tên . . . tự nghĩ rằng: Hình tợ sương mai, mạng như nắng
chiều: đời sống mong manh; chưa biết chết lúc nào. Lại thêm nghèo thiếu,
không có phước đức đáng xưng; không có trí tuệ sáng suốt, không có hiểu
biết như đại nhơn thần thánh; lời nói không tốt đẹp, không trung hòa, nhơn
nghĩa, hạnh kiểm tiến thối không có lễ độ, tôn ty. Nếu lầm lập chí như vậy,
càng thêm mệt nhọc cho sự tu hành.
Ngưỡng mong Ðại chúng sanh lòng hổ thẹn, sợ hãi. Pháp hội nầy lập có kỳ
hạn, nếu không lo sám hối sau luyến tiếc, hối hận cũng không thể được.
Từ nay trở đi nguyện phải nỗ lực, sớm tối chuyên tâm, phụng sự cúng dường
càng thêm tinh tấn . Chỉ có việc ấy là khoan khoái, cần làm hơn hết.
Ngưỡng mong Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng, nên phải ân cần, thận
trọng, phát tâm dõng mãnh, tâm không buông lung, tâm an trú, tâm quảng
đại, tâm thù thắng, tâm đại từ bi, tâm lạc thiện, tâm hoan hỷ, tâm báo ơn,
tâm tế độ, tâm giữ gìn hết thảy chúng sanh; tâm cứu hộ hết thảy chúng sanh,
tâm đồng tâm Bồ Tát; tâm đồng tâm chư Phật! nhất tâm nhất ý, chí thành
đảnh lễ Tam Bảo.
Nguyện xin thay thế quốc vương, đế chúa, thổ địa, nhơn dân, thế cho cha
mẹ, sư trưởng thượng, trung, hạ tòa, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ
thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long
thần bát bộ([9]), và hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận, trong mười phương,
có tâm linh, có thần thức, hoặc ở dưới nước, hoặc ở trên khô, hoặc ở giữa hư
không; nguyện thế cho hết thảy chúng sanh ấy mà quy y mười phương tận
hư không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)
- Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)
- Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy hiền Thánh Tăng. (1lạy)
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng nên biết vì cớ gì mà phải
quy y Tam Bảo.
Vì các Ðức Phật, các vị Bồ tát, có lòng đại từ vô lượng độ thoát thế gian, có
lòng đại bi vô lượng, an ủy thế gian, thương hết thảy chúng sanh như con đỏ.
Lòng đại từ đại bi ấy thường không biết mỏi mệt, hằng cầu việc lành lợi ích
cho tất cả: thề dập tắt lửa tham sân si cho tất cả, giáo hóa khiến cho tất cả
đều được quả vô thượng bồ đề. Nếu chúng sanh không chứng quả bồ đề.
Phật thề không thành chánh giác, vì duyên cớ ấy nên đại chúng cần phải quy
y Tam Bảo.
Vả lại các đức Phật thương xót chúng sanh quá hơn cha mẹ thương con.
Trong kinh dạy rằng: “Cha mẹ thương con chỉ một đời. Phật thương chúng
sanh tâm không cùng tận. Lại nữa cha mẹ thấy con vong ân bội nghĩa, thì
sanh lòng giận hờn, tình thương giảm xuống. Phật và Bồ tát thương chúng
sanh, lòng không như vậy. Thấy chúng sanh bội nghịch lòng thương của
Phật và Bồ tát càng tăng lên mãi.
Các Ngài còn vào trong địa ngục hỏa luân, địa ngục vô gián mà chịu vô
lượng khổ, thế cho chúng sanh.
Vì thế nên biết rằng chư Phật và Bồ tát thương xót chúng sanh hơn cha mẹ
thương con. Vậy mà chúng sanh vì vô minh ([10]) che lấp trí huệ, phiền não
che lấp tâm tánh, đối với Phật và Bồ tát không biết quay đầu lại mà quy y,
không biết ngưỡng mộ. Thuyết pháp giáo hóa, chúng sanh cũng không tin,
không chịu mà còn thô lỗ, phỉ báng, chưa từng phát tâm niệm ơn chư Phật.
Vì chúng sanh không tin nên đọa vào đường ác: địa ngục, ngã quỷ, súc sanh;
khắp trong ba đường ác ấy, chịu vô lượng khổ.
Tội hết được ra, tạm sanh làm người, tai mắt không đủ, thân thể xấu xa,
không tu thiền định, không tu trí huệ.
Chúng sanh có những quả báo chướng ngại như vậy là do không có lòng tin.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng biết tội không tin nặng hơn
các tội, khiến người tu hành lâu không thấy Phật.
Hôm nay đại chúng tự phải cùng nhau khẳng khái tu hành, chiết ý tỏa tình
sanh tâm tăng thượng, khởi lòng hổ thẹn, cúi đầu cầu xin sám hối tội cũ.
Nghiệp lụy hết rồi, trong ngoài thanh tịnh, sau mới vận tâm quay về đức tín,
phát lòng tin tưởng Tam Bảo. Nếu không khởi tâm như vậy, vận tưởng như
vậy, sợ lòng tin phải cách tuyệt, chướng ngại khó thông. Một khi đã mất nẻo xu hướng, thì mờ mịt không biết về đâu! Vậy thì chúng con không thể không
tin mà phải đầu thành đảnh lễ quy y Tam Bảo, không dám nghi ngờ.
Ðệ tử chúng con tên . . . nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới
mong hiểu biết, rất lấy làm hổ thẹn. Những tội đã làm nguyện xin trừ diệt.
Những tội chưa làm không dám làm nữa.
Từ nay trở đi, cho đến ngày thành Phật, khởi lòng tin kiên cố, không dám
thối lui.
Xả thân nầy hoặc sanh vào địa ngục, hoặc sanh vào ngã quỷ, hoặc sanh vào
súc sanh, hoặc sanh làm người, hoặc sanh làm trời, ở trong ba cõi, hoặc thọ
nam thân, hoặc thọ nữ thân, hoặc thọ phi nam phi nữ thân v.v. . . hoặc lớn
hoặc nhỏ, hoặc lên hoặc xuống chịu đủ khổ não, không thể chịu nổi, chúng
con xin thề: không vì khổ ấy mà thối mất lòng tin ngày nay.
Thà chịu bao nhiêu khổ lụy trong muôn ngàn ức kiếp, chúng con xin thề:
không vì khổ mà thối mất lòng tin hôm nay.
Nguyện xin chư Phật, chư đại Bồ tát, đồng gia tâm cứu hộ, đồng gia tâm
nhiếp thọ, khiến đệ tử chúng con tên . . . tín tâm được kiên cố, đồng như tâm
của chư Phật, đồng như nguyện của chư Phật, tà ma ngoại đạo không thể phá
hoại tín tâm của chúng con.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, quy y
mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật.
Quy y mười phương tận hư không giới, hết thảy Tôn Pháp.
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng hãy lắng lòng mà nghe.
Than ôi! Cõi Trời, cõi người đều huyễn hoặc, thế giới là giả dối.
Do vì huyễn hoặc, không chơn thật, nên kết quả cũng không chơn thật. Giả
dối mong manh nên biến hóa vô cùng.
Kết quả không chơn, sở dĩ phải chìm đắm mãi trong vòng sanh tử. Biến hóa
không cùng, sở dĩ phải trôi lăn hoài trong biển ái khổ đau. Thấy chúng sanh
đau khổ như vậy, Phật rất thương xót.
Kinh Bi Hoa dạy rằng: “Các vị Bồ tát thành Phật đều có bổn nguyện”.
Ðức Thích Tôn không hiện thân sống ở đời lâu dài, thọ mạng Ngài ngắn
ngủi là vì thương chúng sanh ở cõi nầy, sống yểu uổng trong nháy mắt rồi
chết, như biến hóa, chìm mãi trong biển khổ không ra được. Vì thế nên Phật
ở cõi nầy cứu chúng sanh tệ ác, phải tạm dùng lời cứng rắn khổ khắc, thiết
tha mà dạy bảo.
Ngài ở trong biển khổ, cứu độ chúng sanh, chưa từng khi nào không lưu tâm
đến sự hoằng hóa, tế độ, lợi ích cho chúng sanh, bằng cách ứng dụng thiện
pháp làm phương tiện.
Sở dĩ kinh Tam muội dạy rằng: “Tâm chư Phật là tâm đại từ bi; chỗ tâm từ
bi của Phật soi đến là chỗ chúng sanh đau khổ”.
Phật thấy chúng sanh chịu khổ não như tên bắn vào lòng Phật, như phá tròng
mắt Phật. Thấy rồi thương xót, tâm không tạm yên. Cho nên Phật muốn diệt
khổ ngay cho chúng sanh được an vui.
Lại nữa, trí huệ của chư Phật là trí huệ bình đẳng, nên Phật hóa độ chúng
sanh cũng bình đẳng. Như đức Thích Tôn ai cũng xưng Ngài là Ðấng Bình
đẳng. Ngài dõng mãnh, chịu khổ độ thoát chúng sanh, cho nên biết ân đức
Bổn sư rất nặng.
Ngài hay ở trong khổ não thuyết pháp, lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Ngày
nay chúng sanh không được giải thoát là về trước kia không nghe được âm
thanh vi diệu của Phật thuyết pháp; về sau không thấy được Phật niết bàn.
Chúng sanh vì nghiệp chướng ngăn che nên xa cách lòng thương của Phật.
Bây giờ chúng con hãy cùng nhau sanh tâm thương tiếc. Vì thương tiếc nên
thiện tâm nồng hậu, ở trong đau khổ chúng con nhớ ơn chư Phật , kêu cầu
thảm thiết, ảo não khóc lóc, chí thành đảnh lễ, năm vóc sát đất, nguyện vì
quốc vương và quyến thuộc của quốc vương, thổ địa nhơn dân, phụ mẫu, sư
trưởng, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên . . . . chư tiên, thông minh,
chánh trực, thiên địa hư không, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì
chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, cùng khắp hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong mười phương mà quy y mười phương tận hư
không giới hết thảy chư Phật. (1lạy)
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp. (1lạy)
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1lạy)
(Toàn thể đều quỳ chắp tay tâm niệm và tiếp tụng) :
Chư Phật đại thánh tôn,
Thấu rõ hết thảy pháp,
Ðạo sư của Trời người
Cho nên nguyện quy y.
- Tôn pháp tánh thường trú,
Thanh tịnh tu đa la ([11])
Hay trừ bệnh thân tâm,
Cho nên nguyện quy y.
- Ðại địa chư Bồ tát ([12])
Vô trước tứ sa môn ([13])
Hay cứu hết thảy khổ
Cho nên nguyện quy y.
- Tam Bảo cứu thế gian
Vì sáu đường chúng sanh,
Con nay xin đảnh lễ,
Quy y thế tất cả.
- Từ bi che hết thảy
Khiến đồng được an vui.
Thương xót cả muôn loài
Chúng con đồng quy y.
(Mọi người đều đảnh lễ sát đất và tự niệm rằng) :
Nguyện xin hết thảy mười phương Tam Bảo đem từ bi lực, bổn thệ nguyện
lực, bất tư nghị lực, vô lượng tự tại lực, độ thoát chúng sanh lực, phú hộ
chúng sanh lực, an ủy chúng sanh lực. Ðem những năng lực ấy khiến các
chúng sanh đều giác ngộ, chúng con tên . . . ngày nay vì các chúng sanh ấy
mà quy y Tam bảo.
Chúng con xin nhờ công đức nầy có năng lực khiến các chúng sanh ấy đều
được mãn nguyện.
Nếu các chúng sanh ấy hoặc ở trong loài trời, loài tiên thì được hết nghiệp
hữu lậu. ([14])
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài a tu la thì khiến họ xả bỏ tánh kiêu mạn.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong loài người thì khiến cho hết khổ đau.
Nếu các chúng sanh ấy ở trong các loài địa ngục, ngã quỷ, súc sanh thì khiến
cho liền được giải thoát.
Lại nữa, ngày nay người nào nghe được danh hiệu của Tam bảo, và người
không nghe được cũng đều nhờ được thần lực của Phật mà được giải thoát,
hoàn toàn thành tựu vô thượng bồ đề, đồng với các đại Bồ Tát thành bậc
chánh giác.
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ HAI : DỨT NGHI NGỜ
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng lắng lòng mà nghe. Luận
rằng: nhơn quả ảnh hưởng, lẫn nhau cảm ứng tương sanh ([15]) nhau; đạo
lý tự nhiên như vậy không sai lầm. Nhưng về hạnh nghiệp ([16]) của chúng
sanh, mỗi người một khác không giống nhau, nên quả báo cũng không giống
nhau; hoặc tinh thô, hoặc sang hèn, hoặc thiện hoặc ác sai khác muôn vàn.
Ðã có sai khác thì không rõ nguyên nhơn sự sai khác ấy do đâu. Vì không rõ
nên sanh ra nghi ngờ, lầm lạc. Hoặc nói người tinh tấn tu hành, giữ giới
trong sạch, đáng lẽ được sống lâu, sao lại chết sớm. Người hàng thịt (đồ tể),
đáng lẽ chết sớm sao lại sống lâu. Người thanh liêm đáng lẽ được giàu sang,
sao lại thấy nghèo thiếu. Người tham lam trộm cướp, đáng lẽ nghèo thiếu
khốn khổ, sao lại giàu có phong lưu!
Nghi ngờ sai lầm như vậy ai cũng có nghĩ đến không tránh khỏi. Do vì
không rõ việc của mình đã làm từ bao kiếp trước, hột giống của mình đã
gieo không thuần, nên ngày nay đem lại kết quả bất nhất như vậy.
Kinh Bát nhã dạy rằng: “Nếu người nào đọc tụng kinh nầy, bị kẻ khác khinh
chê, là vì người ấy đời trước có tội nghiệp nặng, đáng đọa vào đường ác.
Ngày nay nhờ người khinh chê nên tội nghiệp đời trước được tiệu diệt.
Bởi chúng sanh không hết lòng thâm tín lời Phật dạy, mới có tâm nghi ngờ.
Chúng sanh bị vô minh cho hoặc, cho lấp tâm tánh nên luống sanh tâm nghi
ngờ điên đảo như vậy.
Chúng sanh lại cũng không tin: còn ở trong ba cõi là khổ, ra khỏi ba cõi là
vui. Những người thường say đắm thế gian đều cho đời là vui.
Chúng ta thử hỏi:
Nếu đời thật là vui, cớ sao trong tâm biết vui ấy lại có tâm biết khổ.
Ăn uống quá độ liền sanh tật bệnh: ban sởi, ho hen, khí tức, cổ trướng, đau
đớn, khó chịu.
Nói đến y phục, càng thấy khổ nhiều. Lạnh được áo mỏng thì bạc ơn người
cho, lòng nghĩ nông nổi.
Nắng được áo kép, lông chiên, khổ não càng nhiều. Nếu y phục là vui, cớ
sao lại sanh khổ não.
Nếu cho gia đình quyến thuộc là vui, lẽ ra cùng nhau vui mãi, hoan lạc ca
cười không dứt, cớ sao thoặc vậy vô thường, qua đời trong nháy mắt! Vừa
có đó liền không đó. Sớm cón tối mất, kêu trời vang đất, can trường đoạn
đoạn! Chúng sanh lại cũng không tự biết mình từ đâu đến đây? Chết rồi đi
đâu. Người còn khóc kẻ mất, ôm lòng thương xót, tống táng đưa nhau, thẳng
đến sơn cùng, chắp tay vĩnh biệt, nhất từ vạn kiếp, đau đớn biết bao? Những
điều như vậy, sầu khổ vô lượng, chúng sanh mê chấp cho đó là vui.
Trái lại, gây nhơn vui xuất thế, chúng sanh đều cho việc ấy là khổ.
Thấy người trai giới tương dưa, nuôi thân qua buổi, không mặc lục là, quen
bận phấn tảo ([17]) ăn mặc nâu sồng, chúng sanh đều cho các việc ấy là tự
ép xác, khốn khổ, không biết làm như thế là gây nhơn giải thoát, gieo giống
an vui.
Hoặc thấy người bố thí trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, kinh hành lễ bái, tụng
tập chuyên cần, chúng sanh đều cho là khổ; không biết làm như vậy là tu
tâm xuất thế, để được an vui.
Thoảng hoặc thấy có người tật bệnh mà chết, liền sanh tâm nghi rằng: người
ấy bắt buộc thân tâm nầy làm việc quá độ, trọn ngày không được tạm nghỉ.
Sức lực con người không thể nào kham nổi. Nếu người tu hành không siêng
năng khó nhọc thì đâu đến nỗi luống mất thân mạng với việc làm vô ích như
vậy.
Hoặc có người chấp chặt lý thuyết của mình, tự cho mình là đúng, chứ
không biết suy quả tầm nhơn, luống sanh tâm mê chấp, luống làm việc sai
lầm.
Nếu may gặp được Thiện tri thức thì có thể hết mê lầm. Nếu không may. gặp
phải bạn ác thầy tà thì si mê càng lắm.
Nhơn vì nghi ngờ mê hoặc nên đọa vào ba đường ác, ở trong ấy, ăn năn
không kịp.
Hôm nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên hiểu rõ.
Phàm nghi ngờ như vậy có vô lượng nhơn duyên.
Vả chăng hột giống nghi ngờ lầm lạc ấy, tu hành thoát ra khỏi ba cõi luân
hồi còn chưa hết, huống gì thân phàm phu nầy làm sao trừ ngay cho được.
Ðời nầy không lo đoạn trừ, đời sau càng thêm.
Ðại chúng cùng nhau vừa mới tu tập, đường hãy còn dài, tự tu khổ hạnh, nên
căn cứ vào lời Phật dạy, đúng pháp mà tu, không nên nghi ngờ, từ chối sự
mệt nhọc.
Chư Phật thánh nhơn, sở dĩ ra được khỏi sanh tử, đến bờ giải thoát bên kia,
là nhờ công tích thiện, nên được quả giải thoát vô ngại tự tại.
Chúng con ngày nay chưa lìa khỏi sanh tử, nghĩ cũng tự đáng thương; làm
sao còn ham muốn ở trong đời ác trược nầy nữa. Nay đây may được tứ đại
chưa suy dồi; ngũ phước còn thạnh, tới lui thong thả, động chuyển tự do mà
không nỗ lực tu hành, còn đợi gì nữa. Ðời trước đã không thấy đạo; đời nầy
cũng luống qua, không chứng ngộ gì, thì đời sau làm sao tế độ chúng sanh.
Xem lại tự tâm, thật cũng đau lòng. Ngày nay đại chúng chỉ nên khuyên
nhau nỗ lực xiêng tu, không nên nói rằng, phải có tin tức chứng ngộ gì mới
chịu tu tập; vì Phật đạo lâu dài, không thể một mai mà làm xong được. Nếu
cứ chờ tin tức, như vậy một mai rồi lại một mai thì biết bao giờ chứng quả.
Nay hoặc có người nhơn tụng kinh, ngồi thiền, siêng tu khổ hạnh, hơi có
chút tật bệnh liền nói: Vì tụng tập siêng năng, khổ hạnh quá nhiều nên sanh
bệnh hoạn. Người nói như thế là vì họ không tự biết. Nếu họ không làm như
vậy thì cũng đã chết sớm mất rồi. Nhờ tu hành có phước đức mới mong sống
đến hôm nay.
Vả lại, bốn đại tăng giảm tật bệnh là thường, cho đến già chết còn không thể
tránh. Sanh ở thế gian nầy chung cuộc rồi ai cũng tận số. Nếu muốn được
đạo, phải y lời Phật dạy mà tu. Trái lời Phật mà đắc đạo thì không có lẽ ấy.
Chúng sanh vì trái lời Phật nên xơay chuyển trong ba đường, chịu đủ thống
khổ. Nếu đúng như lời Phật dạy mà tu hành không thôi nghỉ, siêng năng tinh
tấn, như cứu lửa cháy đầu, thì đâu đến nỗi một đời luống qua, không có lợi
ích gì. Mọi người cùng nhau nhất tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ như Thái
sơn đổ, nguyện vì những người sau đây mà đảnh lễ thế cho họ.
Kể từ khi có tâm thức cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều
kiếp, Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng, thượng trung hạ tòa, tín thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư thiên, chư tiên, hộ thế tứ thiên vương chủ
thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ khắp
đến 10 phương vô cùng vô tận, hết thảy chúng sanh mà quy y Thế gian đại
từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Duy Vệ Phật
Nam mô Thi Khí Phật
Nam mô Tùy Diếp Phật
Nam mô Câu lưu Tôn Phật
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Thích Ca mâu ni Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin Tam bảo dùng sức Từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ; dùng sức thần thông
che chở cứu vớt chúng con; khiến chúng con từ nay trở đi cho đến ngày
thành đạo, tứ vô lượng tâm ([18]) lục ba la mật ([19]) thường được hiện tiền,
tứ vô ngại trí ([20]), lục thần thông lực ([21]), được như ý tự tại; tu đạo Bồ
tát, vào trí huệ Phật, hóa độ mười phương, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng lại khéo nhiếp tâm, suy
nghĩ cho kỹ:
Ðã được cùng nhau sanh lòng tin rồi thì nên giữ ý thanh tịnh, lấy điều ấy làm
nẻo xu hướng đối với các pháp trong thân ngoài thân chớ cho trở ngại.
Nếu không biết rõ việc làm hay tự mình không thể làm thì lúc thấy người
làm việc phước thiện, chỉ nên khuyến khích, chắp tay tán thán công đức của
người, không nên sanh tâm trở ngại, khiến người tu hành phải thối chí.
Nếu người không thối chí họ cứ tinh tấn như thường việc người không giảm,
chỉ mình bị tổn phước, luống gây thị phi, đối với bản thân nào có ích gì?
Nếu đối với việc lành mình không trở ngại thì có thể gọi là hợp đạo, hữu lực
đại nhơn. Nếu đời nầy mình hay trở ngại việc phước thiện của người thì đời
sau làm sao thông đạt được Phật đạo.
Cứ lý mà suy, tổn hại ấy rất nặng. Trở ngại thiện căn của người, tội ấy rất
lớn.
Như kinh hộ khẩu dạy rằng:
“Có một ngã quỷ thân hình xấu ác, thấy phải rùng mình, không ai không sợ.
Thân xuất lửa dữ như đám cháy lớn. Trong miệng có sâu dòi rúc ra mãi mãi,
máu mủ tanh hôi, đầy cả thân hình, mùi thối bay ra, không ai có thể đến gần.
Miệng khạc ra lửa, thân phần lửa đốt, cất tiếng kêu khóc, tuông chạy cùng
khắp.
Bấy giờ có ngài Mãn Túc La hán hỏi Ngã quỷ rằng:
“Xưa kia ngươi mắc phải tội gì mà nay chịu khổ như thế?”
Ngã quỷ đáp rằng:
Tôi ngày xưa đã từng làm sa môn, tham đắm sự nuôi sống, xan tham không
bỏ, không giữ oai nghi, nói lời thô ác.
Nếu thấy người giữ giới tinh tấn lại liền mắng nhiếc, liếc mắt háy nguýt, ỷ
mình giàu mạnh, tưởng sống lâu không chết, tạo ra vô lượng tội ác căn bản.
Ngày nay nhớ lại, hối hận cũng không ích gì. Thà cầm dao bén tự cắt lưỡi
mình, kiếp nầy sang kiếp khác, cam tâm chịu khổ, không nên nói một lời phỉ
báng việc làm của người.
“Nguyện xin ngài trở về đường thế, đem hình trạng xấu ác của tôi răn dạy
các thầy Tỳ kheo và các Phật tử, khéo giữ gìn lỗ miệng, chớ buông lời nói
ác. Dầu thấy người giữ giới hay không giữ giới cũng nên tuyên dương công
đức của người.
Tôi làm quỷ đói đã vài ngàn kiếp, trọn ngày thâu đêm chịu đủ điều đau khổ.
Quả báo này hết rồi lại vào địa ngục”.
Bấy giờ Ngã quỉ nói lời ấy rồi, cất tiếng kêu khóc, tự gieo mình xuống đất
như núi Thái Sơn sụp đổ.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi.
Chỉ vì lỗi của miệng mà mang tội nhiều kiếp, luống nữa là còn bao nhiêu
điều ác khác. Xả thân này thọ thân khác mà chịu khổ điều do nghiệp ác của
mình đã làm. Nếu không gây nhơn thì tại làm sao lại có chịu quả. Ðã gây
nhơn quyết định phải chịu trả quả. Tội phước không xa, mình làm mình
chịu, như bóng theo hình, không thể rời nhau. Do vô minh mà sanh thì cũng
do vô minh mà diệt. Ðời này đời sau, bao giờ cũng vậy, chưa từng thấy
người tu hành buông lung, lười biếng mà được giải thoát. Trái lại, người hay
tinh tấn giữ gìn tu hành, được phước đức vô lượng.
Ngày nay Ðại chúng đều nên biết hổ thẹn rửa sạch thân tâm, sám hối tội cũ.
Tội cũ hết rồi, không gây thêm tội mới nữa thì được các đức Phật khen ngợi.
Cùng nhau từ nay trở đi, nếu thấy người làm thiện, chớ nói thành hay không
thành, lâu hay không lâu. Dầu cho họ chỉ làm lành trong một niệm, một thời,
một khắc, một ngày, một tháng, nửa năm, hy một năm cũng đã hơn người
không làm.
Sở dĩ kinh Pháp Hoa dạy rằng:”Hoặc có người tâm tán loạn vào trong tháp
miếu, xưng một câu Nam mô Phật, người ấy cũng đã thành Phật đạo”.
Huống nữa có người phát tâm rộng lớn, siêng làm phước thiện. Nếu chúng ta
không tùy hỷ thì thánh nhơn rất thương xót.
Chúng con tên . . . tự nghĩ mình từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay lẽ ra cũng
đã có vô lượng ác tâm trở ngại việc lành tốt đẹp của người. Vì sao mà biết?
Nếu không như vậy, cớ sao ngày nay việc lành của chúng con phần nhiều
hay bị trở ngại. Thiền định không hay tập, trí thức không hay tu. Vừa mới lễ
bái liền nói khổ lắm. Vừa cầm đến kinhliền sanh nhàm chán. Trọn ngày chỉ
ưa khó nhọc làm các nghiệp ác khiến cho thân này không được giải thoát,
như tầm kéo kén, tự ràng, tự buộc, như phù du vào lửa, tự thiêu tự đốt.
Những chướng ngại ấy vô lượng vô biên, chướng Bồ đề tâm, chướng Bồ đề nguyện, chướng Bồ đề hạnh, chướng ngại như vậy đều do ác tâm, Phỉ báng
việc thiện của người. Nay mới giác ngộ, rất là hổ thẹn, cúi đầu xin sám hối
tội ấy.
Nguyện xin xhư Phật chư Ðại Bồ tát, đem lòng từ bi, đồng gia thần lực
khiến đệ tử tên . .. những điều sám hối đều được trừ diệt, những điều hối đều
được thanh tịnh. Vô lượng chướng ngại , Vô lượng tội nghiệp đều nhờ sám
hối này mà được sạch hết.
Mọi người cùng nhau nhất tâm thống thiết năm vóc sát đất, quy y thế gian
Ðại Từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Thiện Ðức Phật
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật
Nam mô Chiên Ðàn Ðức Phật
Nam mô Bảo Thí Phật
Nam mô Vô Lượng Minh Phật
Nam mô Hoa Ðức Phật
Nam mô Tưởng Ðức Phật.
Nam mô Tam Thừa Hạnh Phật
Nam mô Quảng Chúng Ðức Phật
Nam mô Minh Ðức Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại xin quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
(Cùng nhau quỳ gối chắp tay, tâm niệm và tụng niệm):
Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, chưa thể đắc đạo,
thọ lấy báo thân nầy vì tham bốn món cúng dường chưa từng xả bỏ. Tham
sân tật đố, ba độc hừng hẫy sanh ra các ác nghiệp. Thấy người bố thí, trì
giới, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Thấy người nhẫn nhục tinh
tấn, tự mình không thể làm. Không hay tùy hỷ. Thấy người tọa thiền, tu
nghiệp trí huệ, tự mình không thể làm, không hay tùy hỷ. Những tội như
vậy, vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thấy người làm lành, tu các công
đức không hay tùy hỷ, đi đứng nằm ngồi, trong bốn oai nghi ấy không biết
hổ thẹn, không nghĩ vô thường, không biết xả thân này phải vào địa ngục.
Ðối với sắc thân người khác, khởi ra điều ác. Chướng ngại người xây dựng
và cúng dường Tam bảo, chướng ngại người tu tập hết thảy công đức.
Tội chướng như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay không tin Tam bảo là chỗ quy y,
chướng ngại người xuất gia, chướng ngại người trì giới, chướng ngại người
bố thí, chướng ngại người nhẫn nhục, chướng ngại người tinh tấn, chướng
ngại ngưởi tọa thiền, chướng ngại người tụng kinh, chướng ngại người làm
chay, chướng ngại người tạo tượng, chướng ngại người cúng dường, chướng
ngại người khổ hạnh, chướng ngại người hành đạo, cho đến mảy may việc
thiện của người chúng con cũng chướng ngại. Không tin xuất gia là pháp
viễn ly, không tin nhẫn nhục là hạnh An lạc, không biết bình đẳng là đạo Bồ
đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế. Vì những tội ấy cho nên
ngày nay sanh ra nơi nào cũng gặp nhiều chướng ngại. Tội chướng như vậy,
vô lượng vô biên, chỉ có chư Phật, chư Ðại Bồ tát mới thấy hết biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, ngày nay hổ
thẹn , tỏ bày sám hối, tất cả tội nhơn, khổ quả, nguyện xin trừ diệt. Từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo tu đạo Bồ tát, không biết nhàm chán. Tài thí,
pháp thí không cùng, không tận, trí huệ phương tiện làm gì cũng được. Hết
thảy người thấy, người nghe đều được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất nguyện
xin mười phương hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát hết thảy Hiền Thánh, dủ
lòng từ bi, đồng gia thần lực, làm cho hết thảy chúng sanh trong sáu đường,
nhờ sức sám hối nầy mà đoạn trừ được hết thảy tội khổ, xa lìa được hết thảy
duyên điên đảo, không sanh ác tâm, xả nghiệp bốn thú ([22]) phát sanh trí
huệ, tu đạo Bồ đề không thôi không nghỉ; hạnh nnguyện chóng viên mãn,
mau lên ngôi Thập địa, vào tâm kim cang thành đẳng chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA : SÁM HỐI
Ngày nay Ðại chúng đồng ngiệp trong đạo tràng lắng tai nghe kỹ lời kinh
dạy sau đây:
“Còn phàm phu thì gọi là buộc. Ðã chứng quả Thánh thì gọi là giải”.
Buộc tức là kết quả ác của hành động bạo ác của ba nghiệp ác đã gây ra.
Giải tức là quả báo lành vô ngại giải thoát của ba nghiệp lành đã gây ra.
Hết thảy Thánh nhơn đều để lòng nơi đạo giải thoát, và nhờ thần thông trí
huệ, vô lượng pháp môn, nên Thanh nhơn thấy hết thảy nghiệp báo thiện hay
ác của tất cả chúng sanh.
Các Ngài hay dùng một thân hiện ra vô lượng thân, hay dùng một hình hiện
ra vô lượng hình; có thể rút ngắn một kiếp làm một ngày; có thể kéo dài một
ngày làm một kiếp. Muốn đình thọ mạng thì vĩnh viễn không diệt độ; muốn
thị hiện vô thường thì nhập niết bàn; thần thông trí huệ, vào ra tự tại, bay đi
tùy ý, ngồi nằm trên không. Ði đứng dưới nước như ở trên khô, không thấy
nguy hiểm. Lấy cảnh vắng lặng , viên tịch niết bàn làm chỗ nghỉ ngơi thông
đạt vạn pháp, có không điều rõ biết, biện tài thành tựu, trí huệ vô ngại.
Những pháp lành ấy không phải từ trong nghiệp ác mà ra, không phải từ
trong tham sân tật đố mà ra; không phải từ trong ngu si tà kiến mà ra; không
phải từ trong lười biếng mà ra, không phải từ trong kiêu mạn, tự cao tự đại mà ra. Các pháp lành ấy chỉ trừ trong sự thận trọng không làm ác mà ra; các
pháp lành ấy đều do các nghiệp lành mà ra.
Không nơi nào có người tu các nghiệp lành, vâng lời Phật dạy mà mắc phải
ác báo, bần cùng xấu xa tàn tật, bệnh hoạn, không được tự do, thấp hèn bị kẻ
khác khinh chê, lời nói không ai tin dùng bao giờ.
Nay đem thân tôi để làm chứng (lời tác giả). Nếu có người nào vâng lời Phật
dạy, tu các công đức, không ích kỷ hại nhơn mà bị quả báo xấu ác thì thà để
tôi bị đọa vào a tỳ địa ngục chịu thống khổ, chớ để cho người làm lành kia
chịu quả báo xấu ác thì phi lý.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng muốn bỏ phàm làm Thánh
thì nên y lời Phật dạy, như lý mà tu hành. Không nên từ chối một việc khổ
nhỏ mà sanh tâm lười biếng nên tự nỗ lực cố gắng sám hối cho tiêu tội lỗi.
Trong kinh Phật dạy: “Tội do nhơn duyên mà sanh thì cũng do nhơn duyên
mà diệt”.
Ðang còn thân phàm thì gặp cảnh sanh mê tâm. Vậy ngoài phương pháp sám
hối ra, không có phương pháp nào hơn nữa để mong giải thoát.
Ngày nay Ðại chúng phải cùng nhau phát khởi tâm dõng mãnh, phát khởi ý
sam hối.
Sức mạnh của pháp sám hối không thể nghĩ bàn. Vì sao mà biết? – Vì vua A
xa Thế phạm đại tội ngũ nghịch ([23]), nhưng sau vua biết sanh tâm hổ thẹn,
tự trách, tự ăn năn, nên tội nặng thành nhẹ.
Vả lại pháp sám hối nầy khiến người tu hành được an vui. Nếu có người nào
tự mình hay định thời khóa, nỗ lực hết lòng, khấu đầu lễ bái, sám hối, quy y
cho đến khi hoàn toàn trong sạch mà không cảm được mười phương Phật thì
không có lý.
Ác nghiệp và quả báo theo nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không sai mảy may,
cho nên phải hết lòng sợ hãi, cố gắng chịu khổ mà sám hối.
Mọi người đều nên một lòng tha thiết gieo mình xuống đất như núi Thái sơn
sụp đổ, tâm niệm miệng nói lời nầy: để cầu thỉnh mười phương chư Phật gia
tâm thương xót.
Nguyện xin chư Phật cứu chúng con ra khỏi khổ ách; dủ lòng đại bi che
khắp tất cả. Phóng hào quang thanh tịnh, soi khắp mười phương; diệt sạch
mê mờ và trừ si ám. Nghĩ đến chúng con và các chúng sanh đang bị đọa đầy,
trong địa ngục đau khổ. Xin Phật đến đây, cứu vớt chúng con. Ban bố hạnh
phúc cho chúng con được thoát khổ.
Chúng con nhất tâm đầu thành đảnh lễ, Ðấng Ðại từ bi nghe tên liền cứu
khổ. Nay chúng con nhất tâm quy y Ðấng Thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích ca Mâu Ni Phật
Nam mô Kim cang bất hoại Phật
Nam mô Bảo Quang Phật
Nam mô Long Tôn vương Phật
Nam mô Tinh Tấn Quân Phật
Nam mô Tinh Tấn hỷ Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật
Nam mô Hiện vô Ngu Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Phật.
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Ly Cấu Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo,
nguyện xin Tam bảo quyết định đến đây cứu vớt chúng con, đang bị đọa đày
bởi tham sân si, làm đau khổ, nguyện cho chúng con được an vui và được
đại Niết bàn; nguyện xin lấy nước đại bi tẩy trừ tội lỗi cho chúng con được
thanh tịnh mau chứng quả bồ đề. Bốn loài chúng sanh trong sáu đường, nếu
có một chúng sanh nào mắc phải tội lỗi, đều được nhờ Tam bảo mà thanh
tịnh; đều được thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác, hoàn
toàn giải thoát.
Ðại chúng cùng nhau một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng
nói lời nầy:
Ðệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bị vô minh che
lấp tâm tánh, bị ái nhiễm ràng buộc, nên tinh thần sa vào lưới ngu si, loanh
quanh ba cõi, cùng khắp sáu đường, chìm đắm bể khổ, không có ngày ra;
không thể biết được nghiệp đời trước của mình, không thể hiểu được nhơn
duyên đã qua. Hoặc mình tự phá tính mạng và phá tính mạng của người.
Mình tự phá phạm hạnh và phá phạm hạnh của người. Mình tự phá tịnh giới
và phá tịnh giới của người.
Tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay hổ thẹn sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Ðệt tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ sát đất, cầu xin sám hối,
những tội lỗi từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân khẩu ý tạo ra mười
ác nghiệp.
Thân sát đạo, dâm, miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lời hai lưỡi, nói lời
độc ác, ý tham sân si. Mình tự làm mười điều ác dạy người làm mười điều
ác, khen ngợi người làm mười điều ác. Như vậy trong một khoảnh khắc
trong một niệm tâm, khởi ra bốn mươi điều ác.
Những tội như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí tâm đảnh lễ sat đất, cầu xin sám hối những
tội từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay.
Nương nơi sáu căn rồi phát ra sáu thức, chấp lấy sáu trần. Mắt đắm sắc, tai
ưa tiếng, mũi trước hương, lưỡi ưa vị, thân ưa trơn láng, mịn màng, ý ưa
pháp trần. Sáu căn ấy sanh ra bao nhiêu tội nghiệp, mở cửa cho tám vạn bốn
ngàn trần lao. Tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin
trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ, cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do thân, khẩu, ý gây ra nhiều nỗi bất bình,
như chỉ biết có thân mình, không biết có thân người, chỉ biết có mình khổ,
không biết có người khổ, chỉ biết có mình cầu an vui, không biết có người
cầu an vui, chỉ biết có mình cầu giải thoát, không biết có người cầu giải
thoát. Chỉ biết có gia đình mình, có quyến thuộc mình, không biết có gia
đình người, có quyến thuộc người, chỉ biết thân mình hơi ngứa một chút, hơi
đau một chút đã chịu không nổi, thế mà khi làm cho thân người khác đau thì
sợ họ không đau, ít đau, không thấm thía, chỉ biết sợ khổ một chút nơi đời
hiện tại mà không biết sợ khổ vô lượng kiếp nơi đời vị lai. Bởi vì làm ác
chết rồi phải đọa vào địa ngục, chịu đủ thống khổ, cho đến không biết sợ khổ
vô lượng trong đời ngã quỉ, trong đường súc sanh, trong đường a tu la.
Cõi người và cõi trời cũng có vô lượng thống khổ mà không tự biết, chỉ vì
tâm không bình đẳng, có phân bỉ ngã, có niệm oán thân, làm cho oán thù
tràn khắp lục đạo.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do tâm điên đảo, nên thường xa lìa bạn lành
(thiện tri thức) gần gũi bạn ác, trái nghịch bát chánh đạo, tu theo bát tà đạo,
phi pháp nói chánh pháp, chánh pháp nói phi pháp, bất thiện nói là thiện,
thiện nói là bất thiện, dựng cờ kiêu mạn, giăng buồm ngu si, theo dòng vô
minh vào biển sanh tử.
Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay vì tham sân si khởi ra bốn điên đảo ([24]) tạo
nên năm tội nghịch làm đủ mười ác, ba độc hừng hẫy, tám khổ càng nhiều,
gieo giống địa ngục bát hàn, bát nhiệt; gieo giống 84.000 ngăn cách địa
ngục, gieo giống súc sanh, gieo giống ngã quỷ, gieo giống sanh già bệnh chết, ư bi khổ não ở cõi trời cõi người để chịu quả báo đau khổ, không thể kể
xiết, không thể chịu được, không thể thấy được, không thể nghe được.
Những tội ác như vậy, vô lượng vô biên, bgày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì ba độc tham sân si ở trong ba cõi, trải
khắp hai mươi lăm loài ([25]) khởi ra các tội ác, cùng khắp mọi nơi, thuận
chiều gió nghiệp mà . . . không tự biết. Hoặc chướng ngại người trì giới, tu
định, tu huệ, tu các công đức, tu các thần thông. Những tội chướng như vậy
vô lượng vô biên, chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ đề
hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, vì tâm tham sân si, phát khởi ra sáu
thức ([26]), duyên theo sáu trần ([27]), gây tội cho chúng sanh. Hoặc đối với
chúng sanh mà khởi tội; hoặc đối với phi chúng sanh mà khởi tội, hoặc đối
với người vô lậu ([28]) mà khởi tội, hoặc đối với pháp vô lậu ([29]) mà khởi
tội.
Những tội ác như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa, chúng con vì tâm ngu si mà khởi hạnh điên đảo, tin theo thầy tà, thọ
lời tà giáo, chấp đoạn ([30]) chấp thường ([31]) trước ngã ([32]), trước kiến
([33]) làm theo si mê, khởi ra vô lượng tội lỗi.
Những nhơn duyên ấy chướng bồ đề tâm, chướng bồ đề nguyện, chướng bồ
đề hạnh, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, thân ba nghiệp ác, miệng bốn nghiệp ác,
ý ba nghiệp ác, vô thỉ vô minh trú địa phiền não, hằng sa thượng phiền não ,
chỉ thượng phiền não, quán thượng phiền não, tứ trú địa phiền não, tam độc
([34]), tứ thủ ([35]), ngũ cái ([36]), lục thọ ([37]), thất lậu ([38]), bát cấu
([39]), cửu kiết ([40]), thập sử ([41]). Những phiền não ấy vô lượng vô biên,
hay chướng bồ đề tâm, hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt. Ðệ từ chúng con tên . . . lại chí thành
đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ vô thỉ kiếp trở lại cho đến ngày nay, không hay tu tâm từ bi, không hay tu tâm hỷ xả, không hay tu tâm bố thí,
không hay tu tâm trì giới, không hay tu tâm nhẫn nhục, không hay tu tâm
tinh tấn, không hay tu tâm thiến định, không hay tu tâm trí huệ, không hay tu
hết thảy pháp, trợ bồ đề.
Vì thế nên không có phương tiện, không có trí huệ, làm chướng ngại bồ đề
tâm, chướng ngại bồ đề nguyện, chướng ngại bồ đề hạnh, ngày nay sám hối,
nguyện xin trừ diệt.
Ðệt tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
vô thỉ kiếp cho đến ngày nay, vì tội nghiệp nên cứ xoay vừng trong ba cõi,
trải khắp sáu đường, thọ thân bốn loài, hoặc nam hoặc nữ, hoặc phi nam phi
nữ, cùng khắp mọi nơi tạo vô lượng tội. Hoặc làm chúng sanh thân hình to
lớn ăn nuốt lẫn nhau; hoặc làm chúng sanh thân hình bé nhỏ ăn nuốt lẫn
nhau. Những tội sát hại như vậy vô lượng vô biên hay chướng bồ đề tâm,
hay chướng bồ đề nguyện, hay chướng bồ đề hạnh. Ngày nay sám hối
nguyện xin trừ diệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại chí thành đảnh lễ cầu xin sám hối những tội từ
khi có tâm thức trở lại cho đến ngày nay, ở trong sáu đường, thọ thân bốn
loài. Ở trong bốn loài ấy tạo ra vô lượng vô biên tội ác.
Những tội ác như vậy, chỉ có hết thảy chi Phật chư đại Bồ tát trong mười
phương mới thấy hết biết hết. Tội lượng nhiều ít hoặc khinh hoặc trọng như
chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết. Ngày nay chí thành, cúi đầu đảnh lễ, hổ
thẹn cầu xin sám hối.
Những tội đã làm, nguyện tiêu diệt hết, những tội chưa làm, không dám
phạm.
Ngày nay chúng con nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dủ
lòng đại từ cho đệ tử chúng con tên . . . thành tâm sám hối, nguyện xin đem
nước đại bi rửa sạch tội lỗi sai lầm cho chúng con được hoàn toan thanh
tịnh, thẳng đến đạo tràng không bị chướng ngại nữa.
Lại nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật dùng bất tư nghị lực, bổn thệ
nguyện lực, độ thoát chúng sanh lực, phù hộ chúng sanh lực, khiến đệ tử tên
. . . ngày nay khởi thệ nguyện, phát tâm bồ đề.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật kiến lập đạo tâm được kiên cố, hoàn
toàn không trở lại sa đọa nữa.
Những lời thệ nguyện của chúng con cũng đồng như lời thệ nguyện của chư
Phật, chư đại Bồ tát đã thật hành thệ nguyện. Nguyện xin hết thảy mười
phương chu Phật, chư đại Bồ tát đồng dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ
cho chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện. Hết thảy
chúng sanh cũng đều được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.
QUYỂN THỨ NHỨT
--- HẾT ---
CHÚ THÍCH
[1] Tăng thượng mạn: Chưa chứng quả Thánh mà lầm tưởng là đã chứng
quả Thánh.
[2] Chỗ sở đắc: Chấp lấy chỗ mình đã chứng, đã ngộ, đã hiểu biết, đã làm
xong.
[3] Tà kiến: Nhận thức sai lầm ta vạy; không tin tội phước, không tin nhơn
quả, không tin luân hồi v.v...
[4] Tiểu thừa: Cỗ xe nhỏ: có ý chỉ cho giáo lý thấp kém của người trí thức
còn kém tu theo giáo lý nầy chỉ trừ ngã chấp, không trừ được Pháp chấp, chỉ
chứng đến quả A la hán là cùng. Chỉ độ cho mình, không độ cho người, Như
cỗ xe nhỏ chỉ chở một người, đi không xa, chở không nhiều, dằn dẹp không
được những đá to lớn, chỉ ép cát sạn thôi.
[5] Ðại thừa: Cỗ xe lớn: Chỉ cho giáo lý cao siêu vi diệu, trừ hết Ngã và
Pháp chứng đến quả Phật, độ hết chúng sanh. Như cỗ xe lớn, chở nhiều
người đi xa, dằn dẹp hết các đá lớn, đá nhỏ.
[6] Sáu đường hay lục đạo:
1.- Ðịa ngục,
2.- Ngã quỉ;
3.- Súc sanh,
4.- A tu la,
5.- Người,
6.- Trời;
6 loài này cứ loanh quanh trong vòng luân hồi, lên xuống, ra vào, mãi bị
sanh tử.
[7] Tứ nhiếp pháp: Bốn phương pháp dùng thâu nhiếp chúng sanh:
1.- Bố thí,
2.- Ái ngữ,
3.- Lợi hành
4.- Ðồng sự.
8 Tứ sanh: 4 loài chúng sanh
[9] Bát bộ: Tám bộ:
1.- Thiên: Các vị trời.
2.- Long: Các vị rồng.
3.- Dạ xoa: Quỉ thần bay trên hư không
4.- Càn thát bà: Thần đánh nhạc trời, chỉ sống với mùi hương thơm
5.- A tu la: Quỉ thần gần như các vị trời mà không phải trời, vì không có đức
độ mà ưa tranh đấu.
6.- Ca lầu la: Loài kim sí điểu (chim cánh vàng).
7.- Khẩn na la: Thần âm nhạc múa hát của Ðế Thích.
8.- Ma hầu la dà: Thần rắn mãng xà.
Tám bộ nầy thường ủng hộ Phật pháp.
[10] Vô minh: Không sáng: Tức là món căn bản phiền não, đến địa vị Phật
mới hết.
[11] Tu đa la: Tàu dịch là Khế Kinh: lời Phật dạy hợp lý, hợp tình nên gọi là
Khế Khinh.
[12] Ðại địa Bồ tát: Bồ tát đông vô số.
[13] Vô trước tứ Sa môn: Các vị tu đã hoàn đến A la hán. 4 thánh quả của
tiểu thừa.
[14] Hết nghiệp Hữu lậu: Không còn một giống sanh tử, hành động cũng
không còn lọt vào sanh tử nữa.
[15] Cảm ứng tương sanh: Cảm ứng sanh nhau. Nhơn thành quả, quả lại
sanh nhơn, không bao giờ cùng.
[16] Hạnh nghiệp: Nghiệp lành nghiệp dữ đã làm ra.
[17] Phấn tảo: Áo do nhiều miếng vải cũ rách người ta bỏ, lượm giặt sạch,
may lại mà bận, tu khổ hạnh đầu đà hay mặc áo nầy.
[18] Tứ vô lượng tâm: Từ bi, hỷ xả.
[19] Lục Ba la mật: Tàu dịch là Lục độ: sáu pháp tu để đến bờ giải thoát bên
kia.
1.- Bố thí,
2.- Trì giới,
3.- Nhẫn nhục,
4.- Tinh tấn,
5.- Thiền định,
6.- Trí huệ.
[20] Tứ vô ngại trí: Cũng gọi trí Vô ngại biện. - Bốn trí vô ngại của Phật:
1.- Pháp vô ngại: Thông hiểu giáp pháp nên nói cách vô ngại.
2.- Ngĩa vô ngại: Thông hiểu nghĩa lý cao siêu nói cách vô ngại.
3.- Từ vô ngại: Thông suốt ngôn từ của tất cả chúng sanh nên nói cách vô
ngại.
4.- Lạc thuyết vô ngại: Hoan hỷ nói pháp cách vô ngại.
[21] Lục thông: Sáu phép thần thông:
1.- Thiên nhãn thông: Mắt thấy thông suốt như mắt các vị trời, không có gì
trở ngại, thế giới như vi trần cũng thấy hết.
2.- Thiên nhĩ thông: Tai nghe cách thông suốt, không có gì trở ngại.
3.- Túc mạng thông: Rõ biết các kiếp trước của mình và của c`húng sanh
không có gì trở ngại.
4.- Tha tâm thông: Rõ biết được tâm chúng sanh, không có gì trở ngại.
5.- Thần thông túc: Bay đi khắp vô số thế giới không có gì trở ngại.
6.- Lậu tận thông: Tất cả phiền não đều sạch hết, không có gì trở ngại.
[22] Bốn thú: hay 4 ác thú: Tức 4 đường ác: Ðịa ngục, ngã quỉ, súc sanh, a tu
la.
[23] Năm tội ngịch: Giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hóa hiệp của chúng
Tăng, làm cho thân Phật ra máu (phá chùa, phá pháp, phá tượng v.v...)
[24] Bốn điên đảo: 4 lối chấp đối các pháp sanh tử là vô thường, là khổ, là
vô ngã, bất tịnh mà phàm phu lại cho là thường, là vui là ngã, là tịnh.
Còn đối với cảnh Niết bàn là thường, vui, ngã, tịnh; hàng Tiểu thừa cho là
vô thường, không vui, vô ngã, bất tịnh.
Ðoạn hữu vi, chứng vô vi là Nhị thừa. Ðoạn cả hữu vi, cả vô vi là Bồ tát.
[25] 25 loài: Cũng gọi là 25 cõi. Nói hẹp thì có 3 cõi, 9 cõi; nói rộng là 25
loài, 4 châu, 4 ác thú và 6 cõi Trời Dục giới là 14 loài. Cộng với Sắc giới 4
cõi thiền thiên và cõi Trời Phạm thiên, cõi trời Vô tưởng và cõi trời Ngũ
tịnh cư là 21. Cộng với 4 cõi trời không thiên của Vô sắc giới là 25.
Phạm thiên, Vô tưởng và Tịnh cư đều ở trong cõi Sắc giới tứ thiền. Ngoại
đạo chấp Phạm thiên sanh ra vạn vật; Vô tưởng thì chấp là Niết bàn, Tịnh cư
cho là chơn giải thoát. – Vì ngoại đạo vọng chấp như thế nên kể riêng ra cho
biết đó là tà chấp.
[26] Sáu thức: Sáu cái biết của tai, mắt, mũi, thân và ý.
[27] Sáu trần: Sáu cảnh đối sáu thức: tiếng, sắc, hương, vị, xúc, pháp.
[28] Người Vô lậu: Người đã chứng quả, không còn sanh tử nữa.
[29] Pháp Vô lậu: Pháp thanh tịnh giải thoát, không phải pháp sanh tử hữu
lậu.
[30] Chấp đoạn: chết là hết.
[31] Chấp thường: Chấp còn mãi không thay đổi, sau khi chết, không luân
hồi.
[32] Trước ngã: Chấp ta, chấp thân ta, ta khác với người ta chứng quả v.v...
[33] Trước kiến: Chấp lấy sự hiểu biết riêng của mình theo năm món tà
kiến, thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ, tộng ra cho đến
62 kiến.
[34] Tam độc: 1- Tham: đối với cảnh thuận ham muốn không nhàm; 2- Sân:
đối với cảnh nghịch sanh ngụy, lòng giận giữ; 3- Si: si mê, không biện biệt
được chơn. Ba món này hay phá hoại thiện tâm xuất thế nên gọi là tam độc.
[35] Tứ thủ: 1- Dục thủ: sự tham muốn chấp trước cảnh ngũ trần ở cõi Dục;
2- Kiền thủ: đối với thân ngũ ấm này vọng chấp cho là thật (thân kiến), hoặc
chấp đoạn, chấp thường (biên kiến); 3- Giới thủ: giữ những giới pháp sai
lầm; 4- Ngã ngữ thủ; tùy theo ngôn ngữ giả thuyết khởi ra chấp ngã, theo
chỗ chấp đó mà cố giữ lấy.
[36] Ngũ cái: 1- Tham dục cái; 2- Sân nhuế cái; 3- Thùy miên cái: tâm hôn
trầm không làm chi được; 4- Trạo hối cái: trong tâm có sự ăn năn xao động;
5- Nghi cái: đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt được chơn ngụy,
tâm du dự không quyết đoán.
[37] Lục thọ: Chỉ cho sự thọ lãnh của sáu căn đối sáu trần.
[38] Thất lậu: 1- Kiến lậu; mắt trông thấy sắc không rõ sắc với tánh là bình
đẳng cứ đắm vào phần sắc tướng mà sanh tâm phân biệt, nhận cảnh tốt xấu
mà sanh tâm yêu ghét. 2- Chư căn lậu: không những nhãn căn mà cả các căn
khác cũng thế. 3- Vong lậu: quên điều lành, dong ruổi theo điều ác; 4- Ác
lậu: đối với nghịch cảnh sanh tâm ghét bỏ; 5- Thân cận lậu: không tuân lời
thầy dạy, gần gũi bạn ác; 6- Ái lậu; gặp cảnh thuận thì ham mê mải miết; 7-
Niệm lậu: không hiểu chân tâm vô niệm, cứ dong ruổi theo vọng niệm.
[39] Bát cấu: Cấu là dơ bẩn, đối với Tam bảo chẳng những không tín
ngưỡng tán thán lại còn phỉ báng. Ấy là ba cấu ở ba nghiệp; 4- Bất hiếu với
cha mẹ; 5- Không kính thờ sư trưởng; 6- Không cứu giúp kẻ bần cùng; 7-
Không săn sóc người đau ốm; 8- Không thương xót chúng sinh. Ba điều
trước là kính điền, hai điều kế là ân điền, ba điều sau là bi điền. 8 điều này là
phước điền cả. Ðã không chăm nom ruộng phước ấy mà lại còn không cung
kính, không biết ơn, không thương xót cho nên nói rằng vì tâm cấu mà tạo
tất cả tội.
[40] Cửu kiết: 1- Ái kiết: say đắm cảnh ngũ dục không rời; 2- Nhuết kiết:
giận giữ bất bình đối với nghịch cảnh; 3- Mạn kiết: kiêu căng ngạo nghễ; 4
Vô minh kiết: ngu si mở ám đối với lẽ chân chánh; 5- Kiến kiết: tà kiến
không tin nhơn quả; 6- Thủ kiết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh
và giới pháp sai lầm làm lắm điều ác. 7- Nghi kiết: dụ dự không tin chơn lý,
không tu hành theo hạnh chơn chánh; 8- Tật kiết: ghen ghét những bậc hiền
đức; 9- Xan kiết: keo bẩn không chịu bố thí lại làm nhiều điều ác. Chín điều
này ràng buộc chúng sanh trong đường sanh tử vì nó khiến chúng sanh gây
nhiều tội lỗi.
[41] Thập sử: Mười phiền não: tức là ngũ độn sử và ngũ lợi sử. Ngũ độn sử:
1- Tham dục sử; 2- Sân nhuế sử; 3- Vô minh sử; 4- Mạn sử; 5- Nghi sử, Ngũ
lợi sử 1- Thân kiến sử; 2- Biên kiến sử; 3- Tà kiến sử; 4- Kiến thủ sử; 5-
Giới thủ sử. Ngũ độn sử do ái trước mà có, Ngũ lợi sử do sự nhận thức sai
lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não.
--- o0o ---
QUYỂN THỨ HAI
CHƯƠNG THỨ TƯ : PHÁT BỒ ÐỀ TÂM
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã cùng nhau rửa sạch
tâm ô uế rồi, thập ác, ([1]) trọng chướng ([2]) không còn, nghiệp lụy dã hết,
trong ngoài đều thanh tịnh.
Thứ lại xin học các vị Bồ tát tu hành trực đạo, công đức trí huệ do đó mà
sanh. Bởi vậy, chư Phật thường khen ngợi sự phát tâm là đạo tràng, vì hay
thành tựu được đạo quả vậy.
Nguyện xin đại chúng đều nên kiên tâm trì chí, chớ tưởng sống lâu mà đợi
ngày lậu tận ([3]) chớ luống qua, sau ăn năn không kịp.
Bây giờ dà cùng nhau gặp thời buổi tốt, ngày đêm chớ để phiền não che lấp
tâm tánh, phải nên nỗ lực phát tâm bồ đề.
Tâm bồ đề tức là tâm Phật công đức trí huệ vô lượng, không thể nghĩ bàn.
Phát tâm một niệm còn được công đức như vậy huống gì phát tâm luôn luôn.
Giả sử lịch kiếp tu hành vô lượng phước đức, làm đủ hết thảy việc làm,
không bằng một niệm phát tâm bồ đề trong muôn một. Toàn số thí dụ cũng
không thể so lường được công đức, phát tâm bồ đề.
Lại như có người chỉ làm việc phước đức chớ không phát tâm vô thượng bồ
đề; người ấy cũng như kẻ cầy ruộng không gieo giống. Mầm mống đã không
gieo thì làm sao có lúa thóc.
Vì lý do ấy nên phải phát tâm bồ đề làm nhơn duyên cho việc chứng quả;
trước là báo ơn chư Phật, sau là cứu vớt muôn loài.
Sở dĩ Phật khen ngợi các thiện tử rằng:
“Lành thay! Lành thay! Như lời các ngươi nói là vì muốn lợi ích cho hết
thảy chúng sanh”.
Phát tâm Bồ đề là cách cúng dường lớn hơn tất cả.
Phát tâm bồ đề, không phải là chỉ phát qua một phen mà phải phát luôn luôn;
làm cho tâm bồ đề tương tục rộng lớn mãi mãi. Vì thế trong kinh Phật dạy
rằng:
“Ở nơi chỗ na do tha hằng hà sa số đức Phật phát đại thiện nguyện”.
Vậy nên biết số phát tâm ấy là vô lượng.
Lại nữa tâm bồ đề chỉ gặp thiện tri thức liền phát, vị tất phải gặp Phật xuất
thế.
Như Ngài Văn Thù Sư lợi Bồ tát, lúc đầu hướng về bồ đề là nhờ gặp được
nữ nhân mà phát.
Nhưng phát sơ tâm huệ thức không phải kẻ phàm dung, tâm chí hạ liệt mà
phát được. Phải là người có thật tâm khát ngưỡng Ðại thừa, tham cầu Phật
pháp, y ỷ các kinh, xem thường thế sự, oán thân bình đẳng, lục đạo như
nhau. Nguyện cho hết thảy chúng sanh nhờ sự phát tâm ấy mà được giải
thoát, đều đồng tín giải. Nên biết sự phát tâm không phải là việc nói chơi,
người tầm thường mà phát tâm được.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong đạo tràng đã phát bồ đề tâm thì quyết
phải quán tưởng. Trước hết tưởng đến thân nhơn. Trong lúc trì niệm, chuyên
tâm tưởng đến cha mẹ, sư trưởng của mình; rồi niệm tưởng đến địa ngục,
ngã quỉ, súc sanh; Lại niệm tưởng đến chư Thiên, chư Tiên, hết thảy thiện
thần.
Lại nghĩ đến nhơn đạo, hết thảy nhơn loại, có người đang chịu khổ làm sao
mà cứu.
Thấy rồi lại tưởng, nên nghĩ thế nầy: Chỉ có cách phát tâm rộng lớn, tâm bồ
đề mới có thể cứu được. Nếu tưởng đến một người thành rồi thì nên tưởng
đến hai người. Hai người thành rồi thì tưởng đến ba người. Ba người thành
rồi thì tưởng đầy một nhà. Một nhà thành rồi thì tưởng đến một do tuần. Một
do tuần thành rồi thì tưởng đến đầy cõi diêm phù đề. Diêm phù đề thành rồi
thì tưởng đến cả bốn châu thiên hạ.
Quán tưởng như vậy lần lần rộng khắp mười phương thế giới.
Thấy chúng sanh ở phương Ðông là cha mình.
Chúng sanh ở phương Tây là mẹ mình,
Chúng sanh ở phương Nam là anh mình,
Chúng sanh ở phương Bắc là em mình,
Chúng sanh ở phương dưới là chị em mình.
Chúng sanh ở phương trên là sư trưởng mình.
Chúng sanh ở bốn phương góc ([4]) kia là sa môn, bà la môn.
Thấy rồi nghĩ rằng:
“Nếu lúc nào những người ấy chịu khổ, tưởng ta phải đến nơi các người ấy
mà thoa bóp thân thể cho họ, thề diệt hết đau khổ cho họ được giải thoát, rồi
ta sẽ nói pháp cho họ nghe, bằng cách tán thán công đức của Phật, Pháp,
Tăng.
Tán thán rồi, sanh lòng vui mừng, thấy họ an vui như ta không khác.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng phát Bồ đề tâm đều phải
làm như vậy; ở trong đau khổ mà độ chúng sanh. Mọi người đều phải nhất
tâm thống thiết, đầu thành đảnh lễ, tâm niệm miệng nói, phát lời thệ nguyện
như thế nầy:
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, trong khoản
thời gian ấy, sanh ở chỗ nào, cũng thường gặp được thiện tri thức, phát tâm
vô thượng bồ đề. Nếu chúng con đọa trong ba đường ác, hay lâm phải tám nạn ([5]) thường khiến chúng con nhớ tưởng phát tâm bồ đề; làm cho tâm bồ
đề tương tục không gián đoạn.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng nên phát tâm dõng mãnh,
tâm ân trọng, tâm bồ đề; nhất tâm yha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y Thế
gian Ðại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Dõng Thí Phật
Nam mô Thanh Tịnh Phật
Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật
Nam mô Ta lưu na Phật
Nam mô Thủy Thiên Phật
Nam mô Kiên Ðức Phật
Nam mô Chiên đàn công đức Phật
Nam mô Vô lượng Cúc quang Phật
Nam mô Quang đức Phật
Nam mô Vô Ưu Ðức Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Công đức Hoa Phật
Nam mô Kiên dõng tinh tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Ðệ tử chúng con tên . . . ngày nay ở trước mười phương Tam bảo, phát tâm
Bồ đề, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tu đạo Bồ tát, thề không thối
lui; hằng sanh tâm độ thoát chúng sanh, hằng sanh tâm an lập chúng sanh,
hằng sanh tâm che chở chúng sanh; chúng sanh không thành Phật, chúng con
xin thề không chịu chứng quả niết bàn trước chúng sanh.
Nguyện xin hết thảy mười phương chư Phật chư Ðại Bồ tát, hết thảy thánh
hiền, hiện tiền chứng minh cho chúng con, khiến chúng con tên . . . hết thảy
hạnh nguyện đều được viên mãn.
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, dầu trải qua nhiều kiếp
làm nhiều điều thiện mới được phước báu ở cõi người, cõi trời, chứ chưa
chứng được quả xuất thế; chết rồi hết phước, trở lại đọa vào đường ác. Thân
hình tan rã, tự mình chưa khỏi khổ não, chưa khỏi bức bách.
Nếu không lập thệ nguyện rộng lớn, không phát tâm bồ đề thì phước đâu mà
trang nghiêm Pháp thân để xa lìa được khổ não.
Ngày nay cùng nhau nhất tâm nhất ý . . . tưởng nhớ chư Phật, khởi lòng tin
kiên cố, phát tâm đại bồ đề.
Công đức phát tâm rất rộng lớn sâu xa, không thể so lường. Chư Phật và Bồ
tát nói cũng không thể hết. Thiện lực như vậy, vô lượng vô biên không thể
nghĩ bàn.
Thế nên chúng con đâu được không hết lòng chuyên tâm chú ý mà phát
quảng đại bồ đề tâm.
Kinh Ðại Tập dạy rằng:
“Ví như trong một cái nhà tối trăm năm, chỉ thắp một ngọn đèn, cùng có thể
phá tan mờ ám. Vậy nên chớ cho một niệm phát tâm là nhỏ, là không quan
trọng, mà không nỗ lực.
Ðại chúng cùng nhau quỳ gối chắp tay nhất tâm tưởng nhớ đến hết thảy
mười phương Tam bảo tâm niệm miệng nói lời nầy:
“Ðệ tử chúng con tên . . . nay đối trước hết thảy mười phương chư Phật,
trước hết thảy mười phương tôn pháp, trước hết thảy mười phương Hiền
Thánh , lòng ngay dạ thẳng, khởi tâm ân cần, trịnh trọng, tâm không buông
lung, tâm an trú, tâm ưa điều thiện, tâm độ thoát hết thảy, tâm che chở hết
thảy, tâm như tâm Phật, tâm phát tâm bồ đề.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật tâm không
đắm trước cõi trời, cõi người, tâm không cầu chứng tiểu quả thanh văn,
duyên giác mà chỉ phát tâm đại thừa, phát tâm cầu được nhất thế chủng trí,
tâm cầu thành tựu quả vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.
Nguyện xin mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật, Ðịa địa Bồ
tát, hết thảy thánh hiền, đem sức bổn nguyện hiện tiền chứng giám cho
chúng con, đem sức từ bi, gia tâm hộ trợ, nhiếp thọ chúng con, cho chúng
con tên . . . ngày nay phát tâm, tại chỗ sở sanh, kiên cố không thối lui.
Nếu chúng con bị đọa vào ba đường ác, hoặc lâm phải tám nạn, ở trong ba
cõi, chịu đủ thân hình, chịu đủ khổ sở không thể chịu được. Chúng con xin
thề, không vì khổ ấy mà thối mất tâm bồ đề ngày nay. Thà chúng con chịu
vào trong Ðại hỏa luân, vô gián địa ngục, chịu các thống khổ; chúng con
không vì khổ mà thối mất tâm đại bồ đề ngày nay.
Tâm ấy, nguyện ấy đồng với tâm của chư Phật, đồng với nguyện của chư
Phật.
Lại xin chí thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con tên . . . từ nay trở đi cho đến
ngày thành Phật không bỏ hai pháp sau đây:
- Một là biết tự tánh các pháp vốn không.
- Hai là độ thoát hết thảy mười phương chúng sanh”.
Cùng nhau chí thành nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, tâm niệm miệng nói:
Ðệ tử chúng con tên . . . không vì mình mà cầu vô thượng bồ đề, chính vì
muốn cứu độ hết thảy chúng sanh, cho nên cầu vô thượng bồ đề. Từ nay trở
đi cho đến ngày thành Ðạo, chúng con sẽ nâng đỡ hết thảy vô lượng vô biên chúng sanh; chúng con sanh lòng đại bi, cùng tận đời vị lai đối với tất cả
chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào bị các ách nạn, trọng tội, trong ba
đường, sáu nẻo, chúng con tên . . . thề không lánh khổ mà lại đem thân ra
cứu hộ, làm cho các chúng sanh ấy được an ổn.
Nguyện xin mười phương cùng tận hư không giới, hết thảy Tam bảo chứng
minh cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Liên Hoa Quang Phật
Nam mô Du Hý Thần thông Phật
Nam mô Tài Công đức Phật
Nam mô Ðức Niệm Phật
Nam mô Thiện danh xưng công đức Phật
Nam mô Hồng diệm đế tràng vương Phật
Nam mô Thiện du bộ công đức Phật
Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa thiện trụ Ta La Thọ Vương Phật
Nam mô Ðấu Chiến Thắng Phật
Nam mô Thiện Du Bộ Phật
Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Ðức Phật
Nam mô Khí Ấm Cái Phật
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô Biên thân Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát
Nguyện xin chư Phật, đem đại từ bi lực, hiện tiền chứng giám cho chúng con
tên . . . ngày nay phát tâm bồ đề, tu đạo bồ tát, tại chỗ sở sanh, thành tựu
được hết thảy điều thệ nguyện.
Chúng con đi đến đâu hết thảy chúng sanh đều được giải thoát. Chúng con
lại xin đầu thành đảnh lễ hết thảy mười phương Tam bảo.
Chúng con tên . . . không vì tự thân mà cầu đạo vô thượng bồ đề. Chỉ vì hết
thảy chúng sanh trong mười phương mà cầu chứng quả vô thượng bồ đề.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành phật nếu có chúng sanh nào ngu si, ám độn
không biết chánh pháp sanh tâm tà kiến và có chúng sanh nào tuy tu đạo
hạnh mà không thông đạt pháp tướng. Những chúng sanh như vậy cho đến
cùng tận đời vị lai, chúng con tên . . . xin thệ nguyện nhờ Phật lực, Pháp
lực, Hiền Thánh lực và bao nhiêu phương tiện khác, khiến các chúng sanh
ấy đều được nhờ Phật lực hoàn toàn đầy đủ thành tựu nhất thế chủng trí.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ quy y
mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phổ Quang Phật
Nam mô Phổ Minh Phật
Nam mô Phổ Tịnh Phật
Nam mô Ða ma la bạt chiên Ðàn Hương Phật
Nam mô Chiên đàn Quang Phật
Nam mô Ma ni tràng Phật
Nam mô Hoan Hỉ tạng ma ni Bảo Tích Phật
Nam mô Nhất thế thế gian nhạo kiến thượng đại tinh tấn Phật
Nam mô Ma ni Tràng Ðăng Quang Phật
Nam mô Huệ Cự chiếu Phật
Nam mô Hải Ðức Quang minh Phật
Nam mô Kim cang Lao cường Phổ tán Kim quang Phật
Nam mô Ðại Cường Tinh Tấn Dõng mãnh Phật
Nam mô Ðại Bi Quang Phật
Nam mô Từ Lực Vương Phật
Nam mô Từ Tạng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên Thâm Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát
Nguyện xin chư Phật chư đại bồ tát đem đại từ bi lực, đại trí huệ lực, bất tư
nghị lực, vô lượng tự tại lực, hàng phục tứ ma ([6]) lực, đoạn trừ ngũ cái
([7]) lực, diệt trừ phiền não lực, vô lượng thanh tịnh nghiệp trần lực, vô
lượng khai phát quán trí lực, vô lượng khai phát vô lậu huệ lực, vô lượng vô
biên thần thông lực, vô lượng độ thoát chúng sanh lực, vô lượng phú hộ
chúng sanh lực, vô lượng an ổn chúng sanh lực, vô lượng đoạn trừ khổ não
lực, vô lượng giải thoát địa ngục lực, vô lượng tế độ ngã quỉ lực, vô lượng
cứu bạt súc sanh lực, vô lượng nhiếp hóa a tu la lực, vô lượng nhiếp thọ
nhơn đạo lực, vô lượng tận chư thiên chư tiên lậu lực cụ túc trang nghiêm
thập địa lực.
Cụ túc trang nghiêm tịnh độ lực,
Cụ túc trang nghiêm đạo tràng lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả công đức lực,
Cụ túc trang nghiêm Phật quả tri huệ lực,
Cụ túc trang nghiêm Pháp thân lực,
Cụ túc trang nghiêm vô lượng bồ đề lực
Cụ túc trang nghiêm đại niết bàn lực.
Vô lượng vô tận công đức lực,
Nguyện xin mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật, chư đại Bồ
tát, đem những năng lực vô lượng vô biên tự tại không thể nghĩ bàn ấy,
không trái với thề xưa, không trái với nguyện xưa mà bố thí cho hết thảy
chúng sanh trong bốn loài sáu đường cùng khắp mười phương và cho tất cả
chúng sanh đồng đang phát tâm hôm nay.
Quyết định khiến cho tất cả chúng sanh ấy hoàn toàn đầy đủ các công đức
lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề nguyện lực, hoàn toàn thành tựu bồ đề hạnh
lực.
Ngày nay hết thảy chúng sanh trong mười phương cùng tận đời vị lai, hoặc
ẩn, hoặc hiện, hoặc oán, hoặc thân, hoặc không phải oán, thân ở trong bốn
loài sáu đường có duyên hay vô duyên với Phật pháp, hết thảy đều nhờ pháp
sám nầy hằng được thanh tịnh. Các chúng sanh ấy ở nơi nào cũng đồng được
như sở nguyện; một lòng kiên cố, tâm không thối chuyển; đồng như chư
Phật, đồng thành chánh giác; cho đến những chúng sanh đời sau, dầu trái với
lời nguyện nầy cũng đều khiến các chúng sanh ấy được vào trong bể đại
nguyện liền được đầy đủ, hoàn thành tựu công đức, trí huệ các chúng sanh
ấy đồng với chư Bồ tát, viên mãn hạnh thập địa ([8]) hoàn toàn nhất thế
chủng trí ([9]) trang nghiêm vô thượng bồ đề, thành bậc chánh giác.
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ NĂM : PHÁT NGUYỆN
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng, đã được cùng nhau phát
đại bồ đề tâm rồi, vui mừng vô lượng. Bây giờ nên phát đại nguyện như sau
nầy và nhất tâm tha thiết đầu thành đảnh lễ qui y Thế gian Ðại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Chiên đàn khốt trang nghiêm thắng Phật
Nam mô Hiền thiện Thủ Phật
Nam mô Thiện ý Phật
Nam mô Quảng trang nghiêm vương Phật
Nam mô Kim Hoa Quang Phật
Nam mô Bảo cái chiếu không Tự Tại Lực Vương Phật
Nam mô Hư không Bảo Hoa Quang Phật
Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật
Nam mô Phổ hiện sắc thân Quang Phật
Nam mô Bất động trí Quang Phật
Nam mô Hàng Phục chúng ma vương Phật.
Nam mô Tài Quang minh Phật
Nam mô Trí Huệ Thắng Phật
Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật
Nam mô Dược Vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nguyện xin Tam bảo đem sức bất khả tư nghị lực gia tâm che chở cho chúng
con tên . . . . có những thệ nguyện gì, đều được thành tựu. Chúng con sanh
ra ở đâu thường cũng không quên mất các lời nguyện hôm nay, và được viên
mãn vô thượng bồ đề, thành đẳng chánh giác,
Chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp mọi
nơi thường tưởng nhớ sự phát tâm bồ đề, khiến tâm bồ đề tương tục không
đoạn.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi nơi thường được phụng sự vô lượng vô biên hết thảy đức Phật, thường
được cúng dường chư Phật, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi thường được hộ trì hết thảy kinh điển đại thừa phương đẳng, lễ
phẩm cúng dường kinh điển, đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, thường gặp được hết thảy mười phương vô lượng vô biên chư vị Bồ
tát, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi nơi thường gặp được hết thảy mười phương vô lượng vô biên hiền
thánh; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi thường được phụng dưỡng báo bổ ơn sâu của cha mẹ, muốn dâng
cúng gì cũng không thiếu.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, cũng thường gặp được hết thảy chư vị Hòa thượng A xà lê và muốn
dâng cúng gì cũng có đầy đủ tùy tâm sở nguyện.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng
khắp mọi nơi thường được cung phụng và gặp gỡ hết thảy vị quốc chủ có đại
thế lực cùng với chúng con hưng hiển Tam bảo, làm cho Phật Pháp không
đoạn tuyệt.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp cùng khắp
mọi nơi thường được trang nghiêm cõi nước của chư Phật các cõi ấy không
có những danh từ tam ác, bát nạn.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, bốn vô ngại trí, sáu sức thần thông hằng được hiện tiền, thường
không quên mất, dùng để giáo hóa hết thảy chúng sanh.
Chúng con cùng nhau nhất tâm thống thiết năm vóc sát đất, đảnh lễ quy y
thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thế Tịnh quang Phật
Nam mô Thiện tịch nguyệt âm diệu tôn trí vương Phật
Nam mô Long chưởng thượng Tôn vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt châu quang Phật
Nam mô Huệ tràng thắng vương Phật
Nam mô Sư tử hống tự tại lực vương Phật
Nam mô Diệu âm thắng Phật
Nam mô Thường quang tràng Phật
Nam mô Quang Thế Ðăng Phật
Nam mô Huệ oai đăng vương Phật
Nam mô Pháp Thắng vương Phật
Nam mô Tu Di Quang Phật
Nam mô Tu ma na hoa quang Phật
Nam mô Ưu Ðàm bát la Hoa Thù thắng Vương Phật
Nam mô Ðại Huệ Lực Vương Phật
Nam mô A Súc Tỳ hoan hỷ Quang Phật
Nam mô Vô Lượng âm thanh vương Phật
Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật
Nam mô Ðại Thông quang Phật
Nam mô Tài Quang Phật
Nam mô Kim Hải Quang Phật
Nam mô Nhất thế Pháp tràng mãn vương Phật
Nam mô Ðại Thế chí Bồ tát
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin nhờ sức oai đức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát và hết thảy
Hiền Thánh Tăng khiến chúng con tên . . . sanh ra nơi nào những thệ
nguyện đã phát ra, đều được tùy tâm tự tại.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi lại nguyện xin đời đời kiếp kiếp cùng
khắp mọi nơi, nếu có chúng sanh nào thấy sắc thân của chúng con liền được
giải thoát. Nếu chúng con vào Ðịa ngục, hết thảy Ðịa ngục đều biến thành
Tịnh độ; hết thảy khổ não biến thành an vui. Khiến các chúng sanh sáu căn
thanh tịnh, thân tâm an lạc, vui như ở đệ Tam thuyền, dứt sạch nghi ngờ,
phát sơ vô lậu huệ.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, nếu có chúng sanh nào nghe được âm thanh của chúng con, tâm
liền được an ổn, diệt trừ tội cấu, được đà la ni ([10]) giải thoát tam muội, đầy
đủ đại nhẫn, biện tài vô cùng, vào Pháp vân địa, thành bậc Chánh giác.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi hết thảy chúng sanh nghe được tên chúng con thảy đều hoan hỷ, như
được việc chưa từng có.
Nếu chúng con đến tam đồ thì tam đồ dứt hết khổ não; nếu chúng con ở các
cõi trời cõi người thì các cõi ấy dứt hết các pháp hữu lậu, đến đâu cũng được
tự do, không có gì ràng buộc, thảy đều được giải thoát.
Ðệ tử chúng con tên . . . từ nay trở đi nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng khắp
mọi nơi, đối với hết thảy chúng sanh, không có tâm cho và lấy, không có
tưởng oán và thân; đoạn trừ tham, sâm, si là ba gốc độc ác; lìa ngã và ngã sở,
tin ưa pháp đại thừa, Ðồng tu hạnh từ bi, hòa hiệp với hết thảy như các thánh
chúng.
Ðệ tử chúng con tên . . . ngày nay trở đi, nguyện đời đời kiếp kiếp, cùng
khắp mọi nơi, đối với hết thảy chúng sanh tâm thường bình đẳng như hư
không, khen chê không động lòng; oán thân như nhau, đi sâu vào tâm địa
rộng lớn, học trí huệ chư Phật, xem chúng sanh đều như La hầu La đầy đủ
nghiệp thập trú, xa lìa tâm chấp có, xả bỏ tâm chấp không, thường tu theo
trung đạo.
Cùng nhau chí tâm một lòng tha thiết. đầu thành đảnh lễ, quy y thế gian Ðại
từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Bảo Hải Phật
Nam mô Bảo Anh Phật
Nam mô Bảo Thành Phật
Nam mô Bảo Quang Phật
Nam mô Bảo Tràng Phan Phật
Nam mô Bảo Quang Minh Phật
Nam mô A Súc Phật
Nam mô Ðại Quang minh Phật
Nam mô Vô lượng âm Phật
Nam mô Ðại danh xưng Phật
Nam mô Ðắc đại an ổn Phật
Nam mô Chánh âm thanh Phật
Nam mô Vô hạn Tịnh Phật
Nam mô Nguyệt âm Phật
Nam mô Vô lượng danh Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Vô cấu quang Phật
Nam mô Tịnh quang Phật
Nam mô Kim cang Tạng Phật
Nam mô Hư không Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Chúng con tên . . . nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát nguyện sám
hối hôm nay, mà bốn loài chúng sanh trong sáu đường, từ nay trở đi cho đến
ngày thành Phật tu đạo Bồ tát không biết mỏi mệt, nhàm chán; tài thí không
cùng, pháp thí không tận, trí huệ phương tiện làm gì cũng được; tùy căn cơ
của chúng sanh, cho uống thuốc pháp, người thấy người nghe, đều được giải
thoát.
Ðệ tử chúng con tên . . . lại nguyện xin từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật, tu đạo Bồ tát, không bị các chướng nạn trở ngại. Chúng con đến đâu
cũng thường kiến lập đạo tràng, làm các đại Phật sự; tâm được tự tại, pháp
được tự tại, hay vào được hết thảy các môn thiền định, mở cửa tổng trì, rõ
bày Phật quả, ở pháp vân địa, rưới nước cam lồ, trừ bốn ma oán cho các
chúng sanh; khiến các chúng sanh được pháp thân thanh tịnh nhiệm mầu.
Ðệ tử chúng con tên . . . xin có bao nhiêu thệ nguyện nguyện nào cũng như
nguyện của người ở phương chư Phật, chư Ðại Bồ tát đã phát ra trong lúc tu
hành, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.
Ðệ tử chúng con tên . . . xin đều được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.
Nguyện cho hết thảy chúng sanh đều theo đó, đều được như sở nguyện.
Nguyện xin mười phương hết thảy chư Phật, hết thảy chư Bồ tát và hết thảy
Thánh Hiền đều đem sức từ bi, hiện tiền chứng giám cho chúng con.
Lại nguyện xin cho chúng sanh thảy thiên chủ, hết thảy tiên chủ, hết thảy
thiện thần, hết thảy long thần đem từ thiện căn lực, vì ủng hộ Tam Bảo mà
hiện tiền chứng giám cho chúng con khiến chúng con hết thảy hạnh nguyện
đều được viên mãn, tùy theo ý muốn.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ SÁU : PHÁT TÂM HỒI HƯỚNG
Ngày nay Ðại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã phát bồ đề tâm rồi, đã
phát đại thệ nguyện rồi, bây giờ lại nên phát tâm hồi hướng.
Cùng nhau chí thành đảnh lễ, nhất tâm tha thiết, năm vóc sát đất, quy y Thế
gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật,
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Nhật Quang Phật
Nam mô Vô lượng Bảo Phật
Nam mô Liên Hoa Tối Tôn Phật
Nam mô Thân Tôn Phật
Nam mô Kim Quang Phật
Nam mô Phạm tự tại vương Phật
Nam mô Kim Quang minh Phật
Nam mô Kim Hải Phật
Nam mô Long tự tại vương Phật
Nam mô Thọ vương Phật
Nam mô Nhất thế Hoa Phật
Nam mô Hương tự tại vương Phật
Nam mô Hương tự tại vương Phật
Nam mô Dõng mãnh chấp trì lao trượng khí xả chiến đấu Phật
Nam mô Nội phong châu quang Phật
Nam mô Vô lượng Hương Quang minh Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam mô Diệu Âm Bồ tát
Nam mô Vô Biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo,
nguyện xin Tam bảo, đem sức từ bi hiện tiền chứng giám cho chúng con.
Chúng con tên . . . quá khứ đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, hiện tại đang
khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp, và vị lai sẽ khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp,
hoặc nhiều hoặc ít, hoặc khinh hoặc trọng, thảy đều hồi hướng cho tất cả
chúng sanh, trong bốn loài, sáu đường, làm cho các chúng sanh ấy đều được
đại đạo tâm, không hướng về nhị thừa, không hướng về ba cõi, cùng nhau
hướng về vô thượng bồ đề.
Lại nguyện xin cho tất cả chúng sanh ấy đã khởi ra bao nhiêu thiện nghiệp,
hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai đều không hướng về nhị thừa, đều
không hướng về ba cõi, mà cùng nhau hướng về vô thượng bồ đề.
Ngày nay đại chúng đồng nghiệp trong Ðạo tràng đã cùng phát tâm bồ đề
rồi, đã phát đại thệ nguyện rồi đã phát tâm hồi hướng rồi rộng lớn như pháp
tánh, cứu cánh như hư không.
Hết thảy chư Phật, chư Ðại Bồ tát cùng chư vị thánh hiền quá khứ, hiện tại
và vị lai đều chứng minh cho chúng con. Chúng con lại chí thành đảnh lễ
Tam bảo.(1lạy)
Chúng con tên . . . phát tâm, phát nguyện việc ấy đã rồi, vui mừng vô lượng.
Nay chúng con lại chí tâm đầu thành đảnh lễ thế cho: quốc chủ, nhân dân,
phụ mẫu, sư trưởng bà con nhiều đời, quyến thuộc nhiều kiếp, thiện ác tri
thức, chư thiên chư tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú,
nhũ phương long vương, long thần, bát bộ hết thảy linh kỳ, quá khứ, hiện tại
cùng vị lai hết thảy người oán kẻ thân và không phải oán thân, hết thảy
chúng sanh trong bốn loài, sáu đường mà quy y thế gian Ðại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Sư Tử Hưởng Phật
Nam mô Ðại cường tinh tấn Dõng Lực Phật
Nam mô Quá khứ kiến trú Phật
Nam mô Cổ âm vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt anh Phật
Nam mô Siêu xuất chúng Hoa Phật
Nam mô Thế đăng minh Phật
Nam mô Hưu đa dị Ninh Phật
Nam mô Bảo Luân Phật
Nam mô Thường diệt độ Phật
Nam mô Tịnh giác Phật
Nam mô Vô lượng bảo hoa minh Phật
Nam mô Tu Di Bộ Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Phật
Nam mô Nhất thế chúng bảo phổ tập Phật
Nam mô Pháp luân chúng bảo phổ tập phong doanh Phật
Nam mô Thọ vương phong trường Phật
Nam mô Vi nhiễu đặc tôn Ðức Tịnh Phật
Nam mô Vô cấu Quang Phật
Nam mô Nhật Quang Phật
VÀ QUY Y KÍNH LỄ
Quá khứ vô số kiếp chư Phật. Ðại Sư Hải Ðức Như Lai.
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô sanh pháp thân Bồ tát.
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới vô lậu sắc thân Bồ tát
Kính lễ vô lượng vô biên tận hư không giới phát tâm Bồ tát.
Kính lễ hưng chánh pháp Mã Minh đại sư Bồ tát,
Kính lễ hưng Tượng pháp, Long Thị Ðại Sư Bồ tát
Kính lễ mười phương tận hư không giới vô biên thân Bồ tát.
Kính lễ mười phương tận hư không giới cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
tát.
--- o0o ---
TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NIỆM.
Ðại Thánh Thế Tôn.
Uy nghiêm rực rỡ
Thần trí nhiệm mầu,
Lớn hơn các Thánh
Thân khắp lục đạo
Thể cùng mười phương
Ðảnh có nhục kế,
Tráng tỏa hào quang
Mặt như trăng tròn
Thân vàng sắc đẹp,
Nghi dung đĩnh đạt
Ði đứng khoan thai,
Oai vang pháp giới,
Ma quân kinh hoàng.
Tam đạt ([11]) sáng tỏa
Chúng tà tiềm tàng.
Thấy ác liền cứu
Tế khổ tư lương ([12])
Ðộ thoát sanh tử,
Tế khổ tư lương ([13])
Nên hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật Thế Tôn,
độ chúng vô lượng diệt khổ sanh tử.
Chúng con nguyện xin nhờ công đức nhơn duyên phát tâm này mà quốc chủ
hiện tại và gia thân quyến thuộc của Người từ nay trở đi cho đến ngày thành
Phật quên mình vì đạo như:
Tát đà bà luân Bồ tát
Ðại Bi diệt tội như:
Hư Không Tạng Bồ tát
Hay ở xa nghe pháp như:
Lưu ly quang Bồ tát
Hay khéo giải đáp vấn nạn như:
Vô câu Tạng Bồ tát.
Lại nguyện xin cho đệ tử chúng con tên . . . thân sanh phụ mẫu, nhiều kiếp
bà con, xa gần nội ngoại, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, biến thân ra
giữa hư không thế giới như Ngài:
Vô Biên thân Bồ tát
Có đủ mười công đức như:
Ngài Cao quý Ðức Vương Bồ tát.
Nghe pháp sanh tâm vui mừng như:
Ngài Vô Úy Bồ tát.
Lại nguyện xin các Hòa Thượng, A Xà Lê, những bà con đồng tu đồng
học, thượng, trung hạ tọa, hết thảy tri thức của chúng con, từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, mọi người đều được phép vô úy như:
Ngài Sư Tử Vương Bồ tát
Giáo Hóa đuợc ảnh hưởng lớn như:
Ngài Bảo Tính Bồ tát.
Nghe tiếng liền cứu khổ như:
Ngài Quán Thế Âm Bồ tát.
Hay khéo thưa thỉnh giáo pháp như:
Ngài Ðại Ca Diếp Bồ tát.
Lại nguyện xin những người xuất gia, tại gia, tín thí đàn việt thiện ác tri thức
và quyến thuộc của các người ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi
mở ngay được nguy ách, như Ngài Cứu Thoát Bồ tát.
Tướng mạo trang nghiêm như:
Ngài Văn thù Bồ tát.
Hay xả nghiệp chướng như:
Ngài Khí ấm Cái Bồ tát.
Hiếu tối hậu cúng như:
Ngài Thuần Ðà Bồ tát.
Lại nguyện xin chư Thiên, chư Tiên Hộ thế tứ vương, thông minh chánh
trực, Thiên địa Hư không, chủ thiện phạt ác, Thủ hộ trì chú, ngũ phương
Long vương, Long Thần Bát bộ, U hiển Linh kỳ và bà con quyến thuộc của
các vị ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, có lòng Ðại từ che khắp
chúng sanh như Ngài A Dật Ða Bồ tát.
Tinh tấn Hộ pháp như
Ngài Bất Hưu Bồ tát.
ở xa mà chứng minh cho sự đọc tụng như:
Ngài Phổ Hiền Bồ tát.
Vì Phật pháp mà thiêu thân như:
Ngài Dược Vương Bồ tát.
Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh và quyến thuộc của các chúng sanh,
hoặc oán, hoặc thân hay không phải oán thân trong bốn loài, sáu đường cùng
khắp mười phương từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tâm không ái
nhiễm như Ngài Ly Ý Nữ Bồ tát.
Nói lời nhiệm mầu khôn khéo như lời của
Thắng man Phu Nhơn.
Tu hành tinh tấn như đức Thích Ca văn.
Có thiện nguyện lớn như Phật vô lượng Thọ.
Có oai thần như các Thiên Vương.
Bất khả tư nghị như Ngài Duy ma Cật.
Thành tựu hết thảy chúng sanh, trang nghiêm hết thảy Phật độ.
Nguyện xin mười phương tận hư không giới vô lượng vô biên chư Phật, chư
Ðại Bồ tát, và hết thảy Hiền Thánh đều đem lòng từ bi, đồng gia tâm che
chở phù hộ cứu vớt chúng con, và chúng sanh, cho chúng con được mãn
nguyện, tín tâm được kiên cố, phước đức ngày một cao dày, có từ tâm, nuôi
dưỡng chúng sanh như nuôi đứa con một.
Khiến các chúng sanh ấy được bốn vô lượng tâm (9) sáu ba la mật (10) thập
thọ tu thiền (11) tam nguyện đầy đủ (12) móng tâm liền được thấy Phật như
bà Thắng man Phu nhơn. Hềt thảy hạnh nguyện hoàn toàn thành tựu, đồng
như chư Phật, đồng đến Ðạo Tràng, thành bậc Chánh giác.
QUYỂN NHÌ
--- HẾT---
[1] Thập ác.- 10 ác:
Thân 3: Sát, đạo, dâm.
Miệng4: Vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu.
Ý 3: Tham sân si.
[2] Trọng chướng. – Chướng ngại rất nặng: chỉ cho vô minh phiền não,
nghiệp hoặc tạo ra các tội thập ác ngũ nghịch v.v... chướng ngại không cho
giải thoát.
[3] Lậu tận: hết các pháp hữu lậu được giải thoát.
[4] Phương góc: Bốn góc xéo: đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc.
[5] Tám nạn. – 1) Ðịa ngục, . – 2) Ngã quỉ – 3) Súc sanh . – 4) Cõi trời
trường thọ – 5) Bắc Cu lô châu – 6) Ðui điếc, câm, ngọng – 7) Thế trí biện
thông – 8) Sanh ra trước Phật hay sau Phật. Tám chỗ nầy không có Phật
pháp, là tai nạn của sự giải thoát.
[6] Tứ ma. . – 1) Phiền não ma: Ma, tham sân si v.v... não hại thân tâm – 2)
Ngũ ấm ma: Những sắc thọ, tưởng hành thức là ma não hai thân tâm, 3) Tử
ma: Ma chết, hay cướp mạng sống – 4) Thiên ma: Ma trên cõi trời Tha hóa
tự tại hay phá thiện pháp não hại người tu thiện.
[7] Ngũ cái: Năm thứ ngăn che tâm tánh – 1) Tham muốn – 2) Giận hờn – 3)
Ngủ nghỉ gọi là “thụy ma” – 4) Xao động, phàn nàn trong tâm, gọi là “điệu
hối” – 5) Nghi ngờ lời Phật.
[8] Thập Ðịa: 1)Hoan hỷ Ðịa, ─ 2) Ly cấu Ðịa, ─ 3) Phát quang Ðịa, ─ 4)
Diệm huệ Ðịa, ─ 5) Nan thắng Ðịa, ─ 6) Hiện tiền Ðịa, ─ 7) Viễn hành Ðịa,
─ 8) Bất động Ðịa, ─ 9) Thiện Huệ Ðịa, ─ 10) Pháp vân Ðịa.
1.─ Hoan hỷ địa: Bồ tát thấy chúng sanh vì si mê tà kiến, đọa lạc nên phát
tâm từ bi tu hạnh hỷ xả, bỏ cả thân tâm, không tiếc của cải nên cảm quả báo
hoan hỷ.
2.─ Ly cấu địa: Bồ tát thấy chúng sanh tạo mười nghiệp ác, đọa vào đường
tà nên phát tâm tu thập thiện, xả bỏ cấu uế.
3. ─ Phát quang địa: Bồ tát thấy chúng sanh si mê tâm tánh nên phát bồ đề
tâm, như pháp mà tu hành nên trí huệ phát ra sáng suốt.
4. ─ Diệm huệ: Bồ tát thấy chúng sanh bị phiền não dày xéo nên phát tâm tu
37 phẩm trợ đạo, nên phát ra Diêm huệ.
5. ─ Nan thắng địa: Bồ tát thấy chúng sanh các hạ thừa say đắm cảnh hữu dư
niết bàn, vừa vắng lặng, độc thiện kỳ thân, nên phát từ tâm tu bình đẳng gia
hạnh ngộ được chơn đế và tục đế, được trí không sai biệt.
6. ─ Hiện tiền địa: Bồ tát thấy chúng sinh bị sa đọa luân hồi nên phát tâm tu
hạnh bình đẳng lợi sanh nên cảm phát ra trí huệ hiện tiền.
7. ─ Viễn hành địa: Bồ tát vì phát thệ nguyện độ sanh, nên từ bi gia công tu
tập tất cả những “pháp bồ đề phần” ngộ được tam muội: không, vô tướng, vô
nguyện. Ba địa nầy tu về giả quán nhiều hơn, thiên về bên ngoài nên gọi là
tri kiến.
8. ─ Bất động địa: Bồ tát không bỏ thệ nguyện, không chấp trước về tâm, ý,
thức nên chứng được vô sanh pháp nhẫn, tất cả phiền não không còn lay
động.
Nhưng đến địa vị nầy chư Phật luôn luôn kỉnh tỉnh Bồ tát phải nhớ lại bổn
thệ nguyện độ sanh, nếu không thì Bồ tát cũng an trú bất động vào nội tâm
không, không ra độ sanh.
9. ─ Thiện huệ địa: Bồ tát dùng vô lượng trí huệ quán sát đúng như sự thật
hết thảy cảnh giới của chúng sanh, được trí huệ vô ngại, khéo thuyết pháp
giáo hóa, lợi ích vô lượng cho chúng sanh.
10. ─ Pháp vân địa: Bồ tát do vô lượng trí huệ quán sát và hiểu biết tận
tường tất cả các pháp tam muội hiện tiền, chứng được đạo quả như Phật thân
như mây lành phủ khắp lên tất cả chúng sanh, trong hằng sa vô số vô lượng
vô biên thế giới.
Từ địa thứ tám trở đi, đã chuyển được thức hành trì rồi nên quán sát bình
đẳng, không giả nhất như, gọi là “Song Chiếu”.
Chữ Ðịa có nghĩa là Bồ tát dùng công đức trí huệ tu tâm luyện tánh kết
thành quả địa, nương dựa vào đó mà tiến lên quả Phật.
Thập địa nấy trong kinh Hoa Nghiêm có dạy rõ.
[9] Nhất thế chủng trí: Trí huệ của Phật, khác với: Ðạo chủng trí là trí của
Bồ tát và khác với nhất thế trí là trí của Thanh văn. Nhưng đứng về phương
diện tổng quát mà nói thì, Nhất thế trí cũng là trí của Phật.
[10] Ðà la ni: Tàu dịch là tổng trì: tổng nhất thế pháp trì nhất thế nghĩa: là
nói pháp môn nầy tóm thâu hết thảy pháp và nghĩa.
[11] Tam đạt: tức Tam minh của A la Hán, nơi Phật gọi là tam đạt.
1.- Thiên nhãn biết suốt nhơn quả đời vị lai,
2.- Túc mạng: biết suốt nhơn quả dời quá khứ.
3.- Lậu Tận: biết suốt nhơn quả đời hiện tại, nên đoạn hết phiền não trong
hiện tại.
Biết rõ ràng gọi là minh.
Biết rõ rồi đoạn tận gọi là đạt.
[12] Tế khổ tư lương: lấy việc cứu khổ làm tư lương (lương thực) đi vào
Niết Bàn.
[13] Từ hàng: chiếc thuyền từ.
--- o0o ---
QUYỂN THỨ BA
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước đã thuật rõ tội báo
của ác nghiệp. Vì hoạn lụy của ác báo cho nên trái với nghiệp thù thắng tốt
đẹp. Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sanh ra
ở nhơn gian để chịu trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do
nhơn duyên tức đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân nầy chịu thân khác để
chịu trả quả báo mãi mãi không thôi.
Bởi thế chư Phật và chư Đại Bồ tát dùng sức thần thông thiên nhãn, thấy hết
thảy chúng sanh trong ba cõi khi hết phước rồi, cứ theo nghiệp báo mà đọa
vào các chỗ khổ. Thấy chúng sanh từ cõi trời vô sắc giới do tâm đắm trước
thiền định. Thoạt vậy mạng chung, hết phước đọa xuống cõi trời dục giới.Vì
hết phước nên cũng có khi đọa làm cầm thú. Những chúng sanh ở cõi trời
sắc giới, khi hết phước cũng phải sa đọa như vậy. Từ chỗ thanh tịnh đọa
xuống dục giới là chỗ không thanh tịnh vì ở chỗ không thanh tịnh nên trở lại thọ lấy dục lạc. Chúng sanh ở sáu cõi trời dục giới khi hết phước đọa xuống
địa ngục chịu vô lượng khổ.
Chư Phật và Bồ tát lại thấy chúng sanh ở trong nhơn đạo, nhờ sức tu thập
thiện được sanh làm người. Ngay trong thân người cũng có lắm khổ khi
mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác.
Lại thấy chúng sanh trong đường súc sanh chịu lắm khổ não, bị đánh đập
xua đuổi, chở nặng, đi xa, đau đớn khốn khổ, trày vai trợt cổ, sắt nóng thiêu
thân.
Lại thấy chúng sanh trong đường ngã quỉ thường bị đói khát khổ sở, bị lửa
thiêu thân như ở thời mạt kiếp. Nếu không nhờ một mảy căn lành để cứu vớt
thì vĩnh kiếp không thể giải thoát. Nếu có được chút phước thì được sanh lên
làm người nhưng thân hình ốm yếu, nhiều tật bệnh và sống yểu chết non.
Vậy Đại chúng nên biết thiện ác như hai bánh xe theo nhau chưa từng tạm
nghỉ thì quả báo cũng do đó mà liên tiếp không thôi, xoay vần như sợi dây
xích chuyền nối mãi mãi.
Sang hèn giàu nghèo đều tùy hạnh nghiệp của mỗi người mà chịu trả quả
báo.
Không phải sang hèn như vậy mà không có nguyên nhơn, không lẽ vô cớ mà
có quả báo sang hèn như vậy, thì rất phi lý.
Trong kinh Phật dạy rằng:
- Làm người, giàu sang, quốc vương, trưởng giả là do cái nhơn đời trước lễ
bái phụng sự Tam bảo mà ra.
- Làm người giàu có to lớn là do cái nhơn đời trước bố thí mà ra.
- Làm người sống lâu là do cái nhơn đời trước không sát sanh mà ra.
- Làm người đoan chánh là do cái nhơn đời trước nhẫn nhục mà ra.
- Làm người siêng tu là do cái nhơn đời trước không biếng nhác mà ra.
- Làm người có tài ba sáng suốt, hiểu rộng thấy xa là do cái nhơn đời trước
tu trí huệ mà ra.
- Làm người có âm thanh trong trẻo là do cái nhơn đời trước ca vịnh tán thán
Tam bảo mà ra.
- Làm người sạch sẽ không tật bệnh là do cái nhơn đời trước từ tâm mà ra.
- Làm người thân hình cao lớn tốt đẹp là do cái nhơn đời trước kính nhường
người mà ra.
- Làm người thân hình thấp hèn nhỏ bé là do cái nhơn đời trước khinh khi
người mà ra.
- Làm người thân hình xấu xa là do cái nhơn đời trước hay giận hờn mà ra.
- Làm người vô tri, không hiểu biết gì hết là do cái nhơn đời trước không
học hỏi mà ra.
- Làm người ngu xuẩn đần độn là do cái nhơn đời trước không dạy bảo
người mà ra.
- Làm người câm ngọng là do cái nhơn đời trước hay hủy báng người mà ra.
- Làm người hay bị kẻ khác sai khiến là do cái nhơn đời trước mắc nợ người
không trả mà ta.
- Làm người da đen xấu xí là do cái nhơn đời trước che ánh sáng quang
minh của Phật mà ra.
- Làm người sinh vào nước lõa hình là do cái nhơn đời trước ăn mặc quần áo
mỏng manh suồng sã, cho mình là hơn người mà ra.
- Làm người sanh vào nước móng ngựa là do cái nhơn đời trước đi giầy dép
tưởng mình là hơn người, dành đi trước mà ra.
- Làm người sanh vào nước xuyên ngực là do cái nhơn đời trước bố thí làm
phước, rồi sanh tâm hối hận tiếc của mà ra.
- Làm người sanh trong loài hưu nai là do cái nhơn đời trước dọa nạt người,
làm người khiếp sợ mà ra.
- Làm người sanh trong loài rồng là do cái nhơn đời trước ưa dỡn cợt múa
nhảy mà ra.
- Làm người thân hình sinh lở ghẻ dữ là do cái nhơn đời trước ưa đánh đập
chúng sanh mà ra.
- Làm người được người thấy mình liền sanh tâm hoan hỷ là do cái nhơn đời
trước mình thấy người cũng sanh tâm hoan hỷ.
- Làm người hay bị quan bắt giam cầm là do cái nhơn đời trước hay bắt giam
cầm chúng sanh trong lồng trong chậu mà ra.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm loạn động tâm người
khác, sau sẽ đọa trong loài chó trập tai.
- Làm người ngồi nghe thuyết pháp mà không để ý nghe cho hiểu sau sẽ đọa
trong loài lừa dài tai.
- Làm người tham ăn một mình, keo rít, bỏn xẻn, sau sẽ đọa loài quỉ đói. Hết
kiếp quỉ đói sanh ra làm người bần cùng đói khát.
- Làm người đem đồ ăn dở cho kẻ khác, sau sanh làm heo lợn loài bọ hung.
- Làm người hay cướp giựt của kẻ khác, sau đọa làm dê, bị kẻ khác lột da ăn
thịt.
- Làm người ưa trộm cướp của kẻ khác, sau đọa làm trâu ngựa, bị người sai
khiến.
- Làm người ưa nói vọng ngữ, tuyên truyến điều xấu của kẻ khác, sau đọa
địa ngục, bị quỉ sứ rót nước đồng sôi vào miệng, kéo dài lưỡi ra cho trâu cày.
Tội hết rồi, người ấy sanh làm chim cù dục, chim cú, người nghe tiếng nó
kêu, ai cũng sợ hãi, cho là yêu quái, đều nguyền rủa cho nó chết.
- Làm người ưa uống rượu say, sau đọa vào địa ngục phất sí (nước phẩn sôi
trào). Tội hết rồi người ấy sanh vào loài tinh tinh. Hết nghiệp tinh tinh, được
sanh làm người, ngoan độn, ngu si, không ai đếm sỉa đến.
- Làm người tham lường sức mạnh của kẻ khác, sau sẽ đọa làm voi.
Than ôi! Ở địa vị giàu sang, làm người trên trước mà đánh đập kẻ dưới. Kẻ
dưới không biết thưa kiện với ai. Những người như thế, chết vào địa ngục,
kể cả ngàn vạn năm, chịu quả báo đau khổ.
Từ địa ngục ra, lại đọa làm trâu, bị xâu xỏ mũi miệng dắt thuyền kéo xe, roi
gậy to lớn đánh đập khổ sở, để đền lại nợ oan trái ngày xưa.
Lại nữa, người ăn ở dơ bẩn là từ trong loài heo mà đầu thai ra.
Người xan tham keo kiết, không tự xét mình là từ trong loài chó mà đầu thai
ra.
Những người gầm gừ, tự dụng một mình là từ trong loài dê mà ra.
- Người có tánh táo bạo, nóng nảy, không hay nhẫn nhục là từ trong loài khỉ,
vượn, hầu mà đầu thai ra.
- Người có thân hình tanh hôi là từ trong loài cá trạnh mà đầu thai ra.
- Người có tâm thâm hiểm, độc ác là từ trong loài rắn độc mà đầu thai ra.
- Người không có từ tâm tàn nhẫn, bạo hại, là từ trong loài hổ báo, sài lang
mà đầu thai ra.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, đã sanh ra làm người
trong thế gian bị nhiều bệnh, chết sớm, biết bao thống khổ không thể kể xiết,
như thế là do ba nghiệp gây ra, nên khiến người “tu hành” phải mắc lấy quả
báo trong ba đường dữ.
Sở dĩ có ba đường dữ là vì có tham sân si. Vả lại cũng vì có ba độc tham sân
si ấy mà người tự thiêu đốt lấy mình, miệng thường nói ác, tâm thường nghĩ
ác, thân thường làm ác.
Do các điều ác ấy làm cho thân người thường chịu các khổ não, không cùng
tận. Đến khi mạng chung, hồn côi bơ vơ. Mình làm mình chịu, cha mẹ vợ
con không thể cứu được.
Thoạt vậy trong nháy mắt, đến chốn Diêm vương, ngưu đầu, ngục tốt ở
trong địa ngục không kể tôn ti, chỉ xét sổ tội phước, kiểm điểm nặng nhẹ,
thiện ác nhiều ít, trong lúc sanh tiền đã làm thế nào thì thần thức tự thú tội,
không dám che giấu. Do vì nhơn duyên ấy nên phải theo nghiệp mà chịu trả
quả báo, đến chỗ khổ hay vui là do mình làm mình chịu mờ mờ mịt mịt ly
biệt lâu dài, đường ai nấy đi, không bao giờ gặp nhau trở lại.
Vả lại, các vị thiên thần ghi chép thiện ác của người không thiếu sot mảy
may. Người thiện làm lành được phước thêm tuổi, người ác làm dữ, giảm
thọ thêm khổ. Cứ xoay vần như vậy, mãi mãi rồi lại đọa làm quỉ đói. Hết
kiếp quỉ đói, thoát ra làm súc sanh. Tội khổ vô lượng không thể chịu nổi,
không bao giờ cùng.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên phải tự tỉnh ngộ
mà sanh tâm hổ thẹn.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ”. Nhưng
trong đời ngũ trược ác thế, chúng ta không nên làm ác; làm lành không mất
quả lành, làm ác tự rước lấy tai họa.
Chớ cho khinh thoát lập ra pháp sám nầy.
Kinh dạy rằng: “Chớ khinh điều thiện nhỏ cho là không phước, giọt nước
tuy nhỏ, chảy lâu cũng đầy bát to”.
Không chứa thiện nhỏ lấy gì có phước to để thành Thánh thành Phật, chớ
khinh ác nhỏ mà nói là không có tội. Ác nhỏ chứa lại lâu ngày cũng đủ mất
thân.
Đại chúng nên biết: Lành dữ họa phước đều do tâm tạo. Nếu không tạo nhơn
thì không có kết quả. “Ương họa chứa lại, tội thành to lớn”. Chúng ta mắt
thịt không thể thấy. Đó là lời Phật dạy ai dám không tin.
Chúng con đã cùng nhau vô phước, sanh vào đời mạt pháp, nếu không siêng
năng học tập tu hành, không tự sức mình làm lành đến phút cuối cùng, tắt
thở, khi ấy ăn năn đã muộn. Tuy vậy bây giờ đã cùng nhau thấy biết hết thảy
tội lỗi như trong kinh đức Phật đã dạy: Người đã biết tội mình há lại không
biết bỏ ác theo lành hay sao?
Đời nay nếu không dụng tâm xả thân cầu đạo quyết phải đọa địa ngục. Vì
sao mà biết?
Vì trong lúc làm tội ôm lòng độc ác, mạnh mẽ nóng nảy, giận hờn, gắt gao,
sâu sắc. Như giận một người nào quyết muốn cho người ấy chết. Nếu ghét
một người nào, không ưa thấy điều tốt của người ấy. Nếu hủy báng một
người nào, quyết khiến cho người ấy lâm cảnh vào cảnh khổ. Nếu đánh một
người nào, quyết khiến cho người ấy đau đớn thấu trời thấu đất.
Khi giận hờn tàn bạo tai hại thì không kể tôn ti thượng hạ, dùng lời xấu hổ,
mắng nhiếc đủ điều; có khi la vang như sấm dậy, mắt như lửa đổ. Còn khi
làm phước thì thiện tâm rất yếu ớt. Lúc đầu muốn làm nhiều, sau lần lần
giảm ít lại.
Lúc đầu muốn kinh doanh cho mau chóng, sau lại thả lỏng buông trôi.
Tâm đã không chí quyết ngày tháng trôi qua, lần lượt tới lui cho đến khi
quên mất việc thiện là xong. Xét như thế thì biết lúc làm tội tâm lực rất
mãnh liệt cường thạnh; lúc làm phước thì chí ý bạc nhược yếu hèn.
Nay đem cái nhơn làm phước yếu hèn ấy mà cầu xa lìa quả báo làm ác mãnh
liệt cương cường kia thì không thể được.
Kinh dạy rằng: “Sám hối thì tội gì cũng tiêu diệt hết”.
Nhưng than ôi! Đến lúc sám hối, quyết phải đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát
đất như núi Thái sơn sụp đổ, không tiếc thân mạng mới mong diệt được tội.
Vì diệt được tội nên phải ân cần, thành khẩn cùng nhau xét mình từ khi sanh
ra cho đến ngày nay đã gây ra bao nhiêu tội lỗi. Phải tự xét trách như thế
mới không tiếc thân mạng, chịu khó nhọc mà sám hối.
Nếu tạm thời nhiễu Phật liền sanh tâm mỏi mệt, chán nản, tạm thời lễ bái
liền nói sức lực không kham; hoặc tạm thời ngồi ngay tỉnh niệm, liền nói
nên phải có tin tức chứng ngộ gì. Hoặc nói không nên làm cho thân thể quá
mỏi mệt, phải cần dưỡng, không được làm khổ thân.
Vừa nằm xuống ngủ liền mê man như chết, không bao giờ tưởng nhớ đến
việc ta phải lễ Phật quét tháp, quét chùa làm những việc khó làm.
Vả chăng, kinh có dạy rõ ràng:
“Chưa từng có một mảy may thiện nào từ sự giải đãi lười biếng mà sanh ra;
chưa từng có một chút phước nào từ sự kiêu mạn, tự do tự đắc mà được”.
Đệ tử chúng con tên . . . tuy được làm thân người, nhưng tâm hay trái đạo,
vì sao mà biết? Vì từ sớm đến trưa, từ trưa đến chiều, từ chiều đến tối, từ tối
đến sáng. Cho đến không có một thời giờ một khắc, một niệm, một khoảnh
nào mà chúng con để tâm nhớ tưởng Tam bảo, nghĩ nhớ lý tứ đế, cũng
không có một chút tâm nào nghĩ nhớ báo ơn cha mẹ, không có một chút tâm
nào nghĩ nhớ báo ơn Sư trưởng; Không có một chút tâm nào muốn bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, không có một chút tâm nào muốn học thiền định,
muốn tu trí huệ.
Nay thử đem kiểm điểm lại các pháp thanh bạch thì chúng con không có một
pháp nào đáng kể.
Trái lại những phiền não trọng chướng thì không biết bao nhiêu mà kể, đầy
tai đầy mắt.
Nếu không kiểm soát như thế thì chúng con cũng tự hào rằng: công đức của
chúng ta rất nhiều. Nếu có làm được chút việc thiện gì thì nói ta hay làm
người khác không hay làm; ta hay tu người khác không hay tu; ý chí cao
ngạo, xem như “mục hạ vô nhơn”, quanh mình không còn ai nữa.
Xét lại mà nghĩ, thật là đáng xấu hổ.
Nay đối trước Đại chúng, chúng con xin sám hối các tội lỗi ấy, mong Đại
chúng hoan hỷ bố thí cho, tương lai không còn chướng ngại nữa.
Đại chúng cũng nên tự rửa sạch thân tâm. Theo sự trình bày quả báo như
trước đã thuật đủ thì không thể tự khoan dung mà không cầu xả bỏ tội lỗi.
Đại chúng chớ nói ta không có các tội ấy, ta đã vô tội, cần gì sám hối. Nếu
Đại chúng có nghĩ như thế, nguyện xin từ bỏ ngay tâm niệm ấy đi. Phải
chăng bao nhiêu lầm lỗi vi tế đã kết thành tội lớn đại.
Thoạt vậy giận, hờn, sân tâm liền khởi tập thành tánh quen, khó có thể sửa
đổi mau chóng, không thể buông tâm phóng ý mà không ngăn ngừa.
Nếu hay đè nén nhẫn nhịn thì phiền não có thể trừ. Người nào giải đãi lười
biếng, buông lung thì không thể tế độ được.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ sức từ bi hộ niệm của chư
Phật, chư đại Bồ tát sức bổn thệ nguyện lực mà nói kinh: ‘TỘI NGHIỆP,
BÁO ỨNG, ĐỊA NGỤC’ nên chúng con hết lòng lắng nghe.
“Ta nghe Đức A Nan thuật lại như thế nầy: Một hôm Phật ở tại thành Vương
xá, trong núi Kỳ xà quật, cùng với chư Đại Bồ tát ma ha tát, các vị Thanh
văn và quyến thuộc của các Ngài đông đủ; cũng có các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, chư thiên, quỉ thần, thảy đều đến dự hội đông đủ”.
Lúc bấy giờ có Ngài Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn hôm nay có đủ chúng sanh ở các đường địa ngục, ngã
quỉ, súc sanh, sang, hèn, giàu, nghèo không biết bao nhiêu chủng loại . . .
Phảm có chúng sanh nào nghe được Phật thuyết pháp thì cũng như con thơ
gặp mẹ, như bệnh gặp thuốc, như lạnh có áo, như tối có đèn. Thế Tôn thuyết
pháp lợi ích cho chúng sanh cũng như thế ấy”.
Lúc bấy giờ Phật thấy thời cơ đã đến; biết các vị Bồ tát khuyến mời Phật
thuyết pháp rất ân cần; Phật liền phóng đạo hào quang trắng giữa hai chặn
mày, soi khắp mười phương vô lượng thế giới, địa ngục không còn, thống
khổ cũng hết.
Lúc bấy giờ hết thảy chúng sanh đang chịu tội, tìm ánh sáng quang minh của
Phật mà tới; Nhiễu quanh Phật bảy vòng nhất tâm lạy Phật khuyến mời Phật
thuyết pháp, rộng giáo hóa chúng sanh, khiến chúng sanh mong nhờ nghe
pháp mà được giải thoát.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cũng nên chí thành
khuyến mời chư Phật thuyết pháp như vậy; nguyện cho chúng sanh đều
được giải thoát.
Chúng con cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đảnh lễ Thế tôn, năm vóc
sát đất như núi Thái sơn đổ mả khuyến thỉnh mười phương tận hư không
giới hết thảy chư Phật thuyết pháp. Nguyện Phật đem sức từ bi, cứu các khổ
não cho chúng sanh được an vui.
Lại xin khuyến thỉnh quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Bất thối chuyển Luân thành thủ Phật
Nam mô Đại hưng quang vương Phật
Nam mô Pháp chủng Tôn Phật
Nam mô Nhật Nguyệt đăng minh Phật
Nam mô Tu Di Phật
Nam mô Đại Tu Di Phật
Nam mô Siêu Xuất Tu Di Phật
Nam mô Dụ như Tu Di Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Vi nhiễu Hương Huân Phật
Nam mô Tịnh quang Phật
Nam mô Pháp Tối Phật
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô Đại Tập Phật
Nam mô Hương Quang Minh Phật
Nam mô Đại Quang Minh Phật
Nam mô Vô Lượng Quang Minh Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bố Tát
Nam mô Sư Tử Phấn tấn Bồ Tát
Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ Tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ Tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo cứu hộ hết thảy chúng sanh; diệt trừ hết thảy khổ não,
khiến các chúng sanh liền được giải thoát, bỏ ác theo lành, không làm ác
nữa; Từ nay trở đi không còn đọa địa ngục, ngã quỉ, súc sanh nữa; thân khẩu
ý đều thanh tịnh; không nghĩ đến việc ác của người; xa lìa các nghiệp
chướng; được các nghiệp thanh tịnh; hết thảy tà ma không thể lay chuyển;
thường tu bốn món vô lượng tâm ([1]); tinh tiến dõng mãnh, trồng các căn
lành vô lượng vô biên; xả thân nầy thọ thân khác đều được thường sanh nơi
phước địa; nhớ ba đường khổ, phát tâm bồ đề tu đạo Bồ tát không thôi
không dứt. Lục độ ([2]) tứ đẳng ([3]) thường được hiện tiền. Tam minh ([4])
lục thông, thường được như ý tự tại. Ra vào cảnh giới của chư Phật, chơi
dỡn tự do cùng các vị Bồ tát thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên sanh tâm sợ hãi, sanh
tâm từ bi nhất tâm nhất ý, lắng lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ.
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn phóng đạo bạch hào tướng quang ở giữa hai chặn
mày soi sáng khắp hết thảy chúng sanh trong sáu đường. Khi ấy Ngài Tín
Tướng Bồ tát vì thương sót hết thảy chúng sanh, liền từ tòa ngồi đứng dậy
đến trước Phật quỳ gối chắp tay bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn! Nay có chúng sanh bị các ngục tốt cắt chặt bằm chém
thân thể từ đầu đến chân. Chúng sanh ấy bị chặt và chết ngất thì có gió xảo
phong thổi sống lại. Sống rồi lại bị chặt, chịu khổ báo như thế vô cùng vô
tận không bao giờ ngừng là vì tội gì vậy”.
Phtậ bảo: “Những chúng sanh ấy ở các đời trước không tin Tam bảo, không
biết cúng dường bất hiếu với cha mẹ, sanh tâm ác nghịch; làm nghề hàng
thịt, cắt chặt chúng sanh, vì các nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh, thân thể sần sượng tê cứng cả người, mày râu rụng hết,
toàn thân bầm đỏ, bạn với chim muông, vắng vẻ bóng người bà con xa bỏ,
không ai muốn thấy. Ác báo như thế là bệnh phong hủi. Vì nhơn duyên gì
mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước người ấy không tin Tam bảo, bất hiếu với cha mẹ,
phá tháp hủy chùa, bóc lột người tu hành, chém bắn Thánh Hiền, tổn thương
Sư trưởng, chưa từng biết quấy; vong ơn bội nghĩa, hành động như cẩu
khuyển (chó) làm xấu người trên, không kể thân sơ, không biết hổ thẹn, vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
– Lại có chúng sanh thân hình dài lớn, tai điếc, chân không có, quắn quại, bò
lết mà đi, chỉ ăn đất cát mà sống; bị các sâu trùng nhỏ nhiệm cắn rức; ngày
đêm chịu khổ vô cùng không gián đoạn; vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: “Vì đời trước làm người chỉ biết có mình, không tin lời hay, lời
lành của kẻ khác. Bất hiếu với cha mẹ, trái ý phản nghịch, hoặc làm địa chủ
hay làm quan to, trấn nhậm bốn phương, hoặc làm châu trưởng cai tri đốc
suất dân chúng mà cậy oai ỷ thế, xâm đoạt của người cách vô lý, không đạo
đức, làm cho dân chúng cùng khổ. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như
vậy.”
– Lại có chúng sanh đui cả hai mắt, không thấy biết gì, hoặc bị cây đè, hoặc
sa hầm hố mà chết, chết rồi sống lại; sống lại rồi chết, cứ như thế mãi. Vì
nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: “Vì đời trước không tin tội phước, che ánh sáng của Phật, may bít
mắt người, giam nhốt chúng sanh, lấy bao lấy đẫy bao đầu chúng sanh,
không cho trông thấy. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất dáng sợ hãi.
Chúng con cũng có thể đã làm những tội như thế. Nhưng vì vô minh che lấp
tâm tánh nên không tự nhớ biết đó mà thôi.
Những tội như vậy vô lượng vô biên đến đời sau sẽ chịu khổ báo.
Ngày nay chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ, năm vóc sát đất như
núi Thái sụp đổ, cầu xin sám hối, hổ thẹn ăn năn, cải đổi tâm tánh. Những
tội đã làm rồi nhờ sám hối mà trừ diệt. Những tội chưa làm, từ nay thanh
tịnh. Nguyện xin quy y hết thảy mười phương chư Phật.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Khai quang minh Phật
Nam mô Nguyệt đăng quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang Phật
Nam mô Nhật nguyệt Quang minh Phật
Nam mô Đạo hảo Quang minh Phật
Nam mô Tập âm Phật
Nam mô Tối oai nghi Phật
Nam mô Quang minh tôn Phật
Nam mô Liên hoa quân Phật
Nam mô Liên hoa hưởng Phật
Nam mô Đa Bảo Phật
Nam mô Sư tử hống Phật
Nam mô Sư tử âm vương Phật
Nam mô Tinh tấn quân Phật
Nam mô Kim cang dõng dược Phật
Nam mô Độ nhất thế thuyền tuyệt chúng nghi Phật
Nam mô Bảo đại thị tùng Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Địa Lực Trì dõng Phật
Nam mô Tối dõng dược Phật
Nam mô Sư tử tác Bồ tát
Nam mô Khí ấm cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo ,
nguyện xin Tam bảo dũ lòng đại từ đại bi, gia hộ cứu vớt, khiến các chúng
sanh liền được giải thoát. Vì các chúng sanh mà diệt trừ những nghiệp địa
ngục, ngã quỉ, súc sanh, khiến các chúng sanh rốt ráo không chịu các quả báo dữ nữa, khiến các chúng sanh bỏ khổ trong ba đường ác, đồng đến chỗ
trí huệ, đều được yên ổn, hoàn toàn an vui.
Nguyện xin Tam bảo đem ánh sáng đại quang minh diệt trừ mê mờ rất si ám
cho chúng sanh; phân biệt rộng rãi, giải thích rõ ràng pháp môn vi diệu,
thậm thâm nhiệm mầu cho chúng sanh nghe, khiến chúng sanh đều được
chứng quả vô thượng Bồ đề, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nên chí thành nhất tâm
mà nghe, suy nghĩ cho kỹ:
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn:
Lại có chúng sanh ngọng lịu ấm á, miệng không thể nói, dầu có nói cũng
không rõ ràng. Vì nhơn duyên gì, mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy phỉ báng Tam bảo khinh hủy Thánh đạo,
bàn luận việc xấu tốt của người, tìm việc hay dở của người, vu oan cho kẻ
lương thiện, ghen ghét người hiền. Vì nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh bụng lớn như trống, cổ nhỏ như kim, không thể ăn nuốt
được. Nếu có đồ ăn, đồ ăn biến thành máu mủ. Vì nhơn duyên gì mắc phải
tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước, người ấy trộm cắp đồ ăn của chúng. Khi có đại hội,
sắm các thức ăn ngon, người ấy riêng lấy mà ăn, hoặc lấy mè muối, gạo cơm
ra chỗ khuất mà ăn. Lại thêm keo rít, tiếc của mình, tham của người, thường
ôm lòng độc ác, cho người uống thuốc độc, nghẹt thở không thông. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường bị ngục tốt thiêu đốt, dội nước sắt nóng vào
thân, đóng đinh sắt vào thân; đóng rồi tự nhiên hỏa bốc thiêu cháy thân thể
thảy đều phỏng đỏ. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm thầy châm, lể, tổn thương thân thể của người.
Châm chích không lành, gạt người lấy của, làm cho người đau khổ. Vì nhơn
duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trong cái vạc (cái chảo nấu) nước sôi ngưu
đầu ngục tốt, tay cầm xoa sắt, móc bỏ vào vạc nấu chín rục, rồi thổi cho
sống lại. Sống lại rồi nấu nữa. Vì nhơn duyên gì nên mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy làm nghề hàng thịt, giết chúng sanh, trụng
nước sôi, nhổ sạch lông, giết hại rất nhiều không thể kể xiết. Vì nhơn duyên
ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi.
Chúng con không biết ở trong đường ác nào đã từng làm vô lượng tội nghiệp
như thế. Đời sau quyết phải mắc quả báo ác nghiệt ấy. Ngay trong đời hiện
tại chúng con cũng có thể mắc phải quả báo ác nghiệt ấy. Ấm cúng, ngọng
lịu, miệng không thể nói, hoặc bụng lớn cổ nhỏ, không thể ăn nuốt, mạng
sống vô thường. Ngày nay tuy an vui ngày mai thế nào không thể biết được.
Thình lình gặp phải quả báo đến, không thể thoát được.
Mọi người đều nên hiểu rõ ý ấy, nhất tâm chánh niệm, chớ tư tưởng gì nữa,
chỉ một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy
chúng sanh ở khắp trong bốn loài sáu đường, ngày nay đang chịu khổ, đã
chịu khổ, hay sẽ chịu khổ mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tự tại vương Phật
Nam mô Vô lượng âm Phật
Nam mô Định Quang minh Phật
Nam mô Bảo Quang minh Phật
Nam mô Bảo Cái chiếu không Phật
Nam mô Diệu Bảo Phật
Nam mô Đế Tràng Phật
Nam mô Phạm Tràng Phật
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Thù Thắng Phật
Nam mô Tập Âm Phật
Nam mô Kim cang bộ Tinh tấn Phật
Nam mô Tự tại vương Thần thông Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Tịnh nguyệt tràng xưng quang Phật
Nam mô Diệu Lạc Phật
Nam mô Vô lượng tràng phan Phật
Nam mô Vô lượng phan Phật
Nam mô Đại quang Phổ chiếu Phật
Nam mô Bảo Tràng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin chư Phật, chư Bồ tát, đem sức đại từ đại bi, cứu hộ hết thảy chúng sanh
đang chịu khổ, dùng sức thần thông diệt trừ ác nghiệp cho các chúng sanh,
hoàn toàn không đọa trở lại trong ba đường khổ, đến được chỗ an vui thanh
tịnh, sanh ra chỗ nào cũng được thanh tịnh, công đức đầy đủ, không thể cùng
tận. Xả thân thọ thân hằng gặp chư Phật, đồng với các vị Đại Bồ tát thành
đẳng chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại gia tâm lực, lắng tai
nghe kỹ.
Tín Tướng Bồ tát lại bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có chúng sanh ở
trong hỏa thành tâm can bị thiêu đốt, bốn cửa thành tuy mở, nhưng chạy đến
thì cửa liền tự đóng, chạy khắp đông tây cũng không ra được, bị lửa thiêu
sạch. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người thiêu đốt rừng núi, phá vỡ bờ đê, chiên rán
các thứ trứng gà vịt làm cho chúng sanh bị thiêu, bị đốt mà chết nên phải
mắc tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở núi Tuyết sơn bị gió lạnh thổi, da thịt nức nở,
cầu chết không được, cầu sống không được, khổ sở vô cùng không thể chịu
nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Người ấy đời trước làm giặc, đón đường bóc lột áo quần người
khác để tự tư dưỡng; mùa đông giá lạnh, lột truồng hình người khác làm cho
họ phải chết lạnh và lột da xẻ thịt trâu dê, làm cho chúng sanh đau khổ vô
lượng. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh thường ở trên núi dao, rừng kiếm, rờ đụng vào đâu thì
liền bị cắt đứt đó, thân thể tay chân đều bị chặt nát, đau đớn khổ sở, không
thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp; Vì người ấy đời trước làm nghề sát sanh, phanh thây xẻ thịt chúng
sanh, cắt xẻo bóc lột, cốt nhục chia lìa, đầu mình tan rã, treo lên trên cao,
cân lường mà bán, hoặc treo sống mà bán đau đớn vô cùng chúng sanh
không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên gì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh tai mắt v.v... năm căn không đủ. Vì nhơn duyên gì mắc
phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước nuôi chim bay chó chạy để đi săn bắn. Bắn chim bắn
thú, hoặc bắn bể đầu, hoặc bẫy đứt chân, nhổ sống lông cánh, làm chúng
sanh đau khổ vô cùng không thể chịu nổi. Vì nhơn duyên ấy nên phải mắc
tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy như vậy
rất đáng sợ hãi. Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu
thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh trong mười phương, hoặc đã
chịu khổ, hoặc đang chịu khổ, hoặc sẽ chịu khổ mà quy y thế gian Đại Từ Bi
Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tịnh Quang Phật
Nam mô Bảo Vương Phật
Nam mô Thọ căn Hoa vương Phật
Nam mô Duy Vệ trang nghiêm Phật
Nam mô Khai Hóa Bồ tát Phật
Nam mô Kiên vô khủng cụ Phật
Nam mô Thừa nhất độ Phật
Nam mô Đức nội phong nghiêm vương Phật
Nam mô Kim cang Kiên cường tiêu phục hoại tán Phật
Nam mô Bảo Hỏa Phật
Nam mô Bảo nguyệt quang minh Phật
Nam mô Hiền Tối Phật
Nam mô Bảo Liên Hoa Bộ Phật
Nam mô Hoại ma la võng độc bộ Phật
Nam mô Sư tử Hống lực Phật
Nam mô Bi Tinh tấn Phật
Nam mô Kim bảo quang minh Phật
Nam mô Vô lượng tôn phong Phật
Nam mô Vô lượng Tôn ly cấu vương Phật
Nam mô Đức Thủ Phật
Nam mô Dược vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo,
nguyện xin Tam bảo đem lòng đại từ, đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh
trong mười phương khiến các chúng sanh hiện đang chịu khổ liền được giải
thoát; chúng sanh sẽ chịu khổ hoàn toàn, đoạn trừ phiền não, rốt ráo không
sa đọa trỉ lại trong ba đường ác nữa.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật trừ sạch ba nghiệp chướng diệt hết
năm sợ hãi; hoàn toàn đầy đủ công đức trang nghiêm; nhiếp hóa hết thảy
chúng sanh hướng về vô thượng đạo, thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại lắng lòng mà nghe:
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật. Bạch đức Thế Tôn: Lại có chúng sanh què trệt,
lưng cong, tay chân co quắp, không thể cầm nắm , không thể đi đứng. Vì
nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người độc ác, để binh khí giữa đường, đặt súng
đặt gươm, đào hầm đào hố, hãm hại chúng sanh. Vì ác nghiệp ấy nên mắc
phải tội như vậy.
– Lại có chúng sanh bị các ngục tốt trói buộc thân thể, gông cùm khổ ách,
không thể thoát được. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước người ấy chài lưới chúng sanh, buộc nhốt lục súc,
hoặc làm chủ tể, quyền hành địa phương, cai trị dân chúng, tham lam vơ vét,
giam oan ngưởi vô tội, lương thiện, oán hận không biết kêu ai.
– Lại có chúng sanh hoặc điên, hoặc si, hoặc cuồng, hoặc sợ, không phân
biệt được tốt xấu. Vì nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước làm người uống rượu say sưa, loạn trí loạn tâm, phạm
ba mươi sáu lỗi nên đọa làm người ngu si, cũng như người say không phân
biệt được tốt xấu, thượng hạ tôn ty. Vì ác nghiệp ấy nên mắc phải tội như
vậy.
– Lại có chúng sanh thân lùn, hình nhỏ, âm tạng rất lớn, thả xuống thì thân
đau, phải vắc ra sau lưng mà đi, đi đứng nằm ngồi đều bị trở ngại. Vì nhơn
duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật đáp: Vì đời trước buôn bán vàng ngọc, khen vật báu của mình, chê vật
báu của người, thay đổi thăng đấu, vặn cân bẻ móc, (gian lận thước tấc). Vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như vậy
rất đáng sợ hãi. Cùng nhau nhất tâm, một lòng tha thiết, năm vóc sát đất, đầu
thành đảnh lễ, nguyện vì hết thảy chúng sanh đã chịu khổ, hết thảy chúng
sanh sẽ phải chịu khổ trong sáu đường; và nguyện vì cha mẹ, sư trưởng, tín
thí đàn việt, thiện ác tri thức, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh khắp trong
mười phương mà quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Vô số Tinh tấn hương phong Phật
Nam mô Vô Ngôn Thắng Phật
Nam mô Vô Ngu Phong Phật
Nam mô Nguyệt anh phong Phật
Nam mô Vô Dị quang phong Phật
Nam mô Nghịch không quang minh Phật
Nam mô Tối thanh tịnh vô lượng tràng Phật
Nam mô Hiếu đế trú duy vương Phật
Nam mô Thành tựu nhất thế chư sát phong Phật
Nam mô Tịnh Huệ Đức Phong Phật
Nam mô Tịnh Luân Phan Phật
Nam mô Lưu Ly quang tối phong Phật
Nam mô Bảo Đức Bộ Phật
Nam mô Tối thanh tịnh đức bảo trú Phật
Nam mô Độ bảo quang minh thắng Phật
Nam mô Vô lượng Tàm quý kim tối phong Phật
Nam mô Văn Thù Sư lợi Bồ tát
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Đệ tử chúng con tên . . . ngày nay mong nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực,
nguyện vì hết thảy chúng sanh mà đành lễ quy y cầu xin sám hối.
Những chúng sanh đã chịu khổ rồi, xin nhờ sức đại từ bi của chư Phật, chư
Bồ tát, liền được giải thoát.
Những chúng sanh chưa chịu khổ, từ nay trở đi cho đến ngày thành đạo, rốt
ráo không đọa trở lại trong các đường ác, xa lìa tám nạn khổ; bẩm thọ tám
phước sanh; được các căn lành, thành tựu bình đẳng, đầy đủ trí huệ, thành
tựu biện tài, thanh tịnh tự tại, cùng với chư Phật thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên biết dụng tâm, lắng
lòng mà nghe, Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng: Bạch đức Thế Tôn, lại có
chúng sanh, hình trạng rất xấu, thân đen như mực, hai tai lại xanh, hai vai
nổi lên, mặt phẳng, mũi dẹp, mắt đỏ vàng ngầu, răng nướu sua sún, hơi
miệng tanh hôi, vế ngắn và ủng thủng; bụng lớn, lưng nhỏ, tay chân co quắp;
xương sườn, xương sống nổi lên, tốn vải; ăn nhiều; ghẻ dữ tanh hôi, máu mủ
nhơ nhớp; bệnh thủy thủng, càn tiêu, phung hủi ung thư, bao nhiêu điều ác
độc hung dữ đều dồn vào thân. Dầu muốn thân cận người không để ý. Nếu
người khác làm tội, vô cớ mình cũng liên can mang họa. Hằng không được
thấy Phật, nghe pháp, không biết Bồ tát không biết Thánh Hiền. Ra vào nơi
đau khổ, không bao giờ cùng. Vì nhơn duyên gì mắc phải tội ấy?
Phật dạy: Vì đời trước làm con bất hiếu với cha mẹ; làm tôi không trung
chánh với vua, làm người trên không thương kẻ dưới, làm người dưới không
biết kính kẻ trên, không thành thật, không thủ tín với bạn bè, không nhơn
nghĩa với làng xóm; không chức tước với triều đình; không đạo đức trong sự
xử đoán, không có độ lượng mà lòng dạ đảo điên, sát hại quân thần; khinh
khi tôn trưởng, bán nước buôn dân, phá thành phá lũy, cướp giựt trộm cắp,
ác nghiệp vô lượng.
Lại khen mình chê người, xâm lấn già nua, lấn hiếp cô độc; báng bổ người
hiền, khinh mạn sư trưởng; khi dối kẻ hà tiện.
Tóm lại là phạm hết thảy tội. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải ác báo, tội
nghiệp như vậy.
Lúc bấy giờ những người bị tội nghe Phật dạy như vậy, khóc lóc động địa,
nước mắt trào như mưa, bèn bạch Phật rằng: Nguyện xin Thế Tôn sống mãi
ở đời, thuyết pháp giáo hóa cho chúng con mong được giải thoát.
Phật đáp: Nếu ta ở mãi ở đời, những người bạc phước; không trồng căn lành.
Họ bảo ta còn sống mà không lo nghĩ đến vô thường, tự do tạo ra vô lượng
tội ác, sau ăn năn không kịp.
Thiện nam tử ôi! Ví như con thơ, mẹ thường ở bên mình thì con không nghĩ
đến sự gặp mẹ là khó. Lúc nào mẹ đi vắng, con mới liền sanh tâm nhớ
tưởng, khao khát luyến mẹ. Lúc ấy mẹ trở lại con mới vui mừng.
Thiện nam tử ôi! Ta nay cũng như vậy Ta biết chúng sanh không tìm cầu sự
thật, thường trú chơn tâm, cho nên ta nhập Niết bàn.
Lúc bấy giờ Phật đối trước những chúng sanh đang chịu tội đó mà nói bài kệ
rằng:
Nước chảy không thường đầy,
Lửa mạnh không thường đốt,
Mặt trời mọc rồi lặn,
Mặt trăng tròn rồi khuyết,
Sự tôn trọng giàu sang,
Càng vô thường hơn nữa,
Nghĩ lại phải siêng năng,
Đảnh lễ ngôi Tam bảo.
Lúc bấy giờ Phật nói lời kệ ấy rồi, các người bị tội kia thảy đều buồn rầu mà
bạch Phật rằng: Hết thảy chúng sanh làm những việc lành gì mà xa lìa được
những tội khổ ấy?
Phật dạy: Nầy, thiện nam tử! Phải siêng năng hiếu dưỡng cha mẹ; phụng sự
sư trưởng, quy y Tam bảo, siêng tu hạnh bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn,
thiền định, trí huệ, từ bi, hỷ xả, xem kẻ oán người thân như nhau, không có
thân sơ, không khinh người già nua, cô quả; không khinh kẻ nghèo hèn; ủng
hộ người như giúp đỡ mình, không có tâm ác đối với người.
Nếu các người hay tu hành được như vậy thời cũng đã là báo được ơn chư
Phật; hằng xa lìa ba đường ác, không còn đau khổ nữa. Phật dạy kinh nầy rồi
các vị đại Bồ tát liền được quả vô thượng bồ đề. Các hàng Thanh văn Duyên
giác liền chứng được lục thông, tam minh và tám pháp giải thoát. Còn các
đại chúng khác đều được pháp nhãn tịnh. ([5])
Nếu có chúng sanh nào, nghe được kinh nầy thì không đọa vào ba đường ác,
và không mắc phải tám nạn, địa ngục trống rỗng, thống khổ không còn.
Tín Tướng Bồ tát bạch Phật rằng:
“Bạch đức Thế Tôn, kinh nầy gọi là kinh gì? Bồ tát ma ha tát phải phụng trì
bằng cách nào?”
Phật bảo Tín Tướng Bồ tát: “Thiện nam tử, kinh nầy gọi là Báo ứng Giáo
hóa Địa ngục kinh”. Các ngươi nên phụng trì, và lưu truyền cùng khắp, công
đức vô lượng”.
Bấy giờ Đại chúng nghe Phật dạy lời ấy rồi hết lòng vui mừng, đảnh lễ vâng
lời làm theo.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời Phật dạy như
vậy, rất đáng sợ hãi, sanh tâm từ bi, nương nhờ thần lực của Phật, tu đạo Bồ
tát nhớ địa ngục khổ, phát tâm Bồ đề, vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu
khổ, ở đường địa ngục, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường ngã
quỉ, hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ ở đường súc sanh; rộng ra cho
đến hết thảy chúng sanh cùng khắp mười phương hiện đang chịu khổ ở trong
sáu đường; nhất tâm nhất ý, vì những chúng sanh ấy mà sám hối, khiến
chúng sanh được giải thoát.
Nếu đại chúng không siêng làm phương tiện, chuyển họa thành phước, thì ở
trong mỗi mỗi địa ngục, đại chúng đều có tội phần.
Cùng nhau chí tâm nghĩ đến cha mẹ, sư trưởng, bà con thân thích, sẽ chịu
khổ báo về sau và cũng nghĩ đến tự thân đại chúng hiện tại và vị lai cũng
phải chịu khổ báo như vậy. Cho nên đại chúng phải cùng nhau nhất tâm tha
thiết, năm vóc sát đất, chí thành ân cần vận dụng tư tưởng, nguyện xin một
niệm cảm thấu mười phương Phật; một lạy đoạn trừ vô lượng tội khổ.
Những chúng sanh đã chịu khổ trong sáu đường, xin nhờ Phật lực, Pháp lực,
Hiền Thánh lực khiến các chúng sanh ấy liền được giải thoát. Nếu trong sáu
đường chúng sanh nào chịu khổ, xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực
làm cho các chúng sanh ấy vĩnh viễn đoạn trừ sáu đường đau khổ. Từ nay
trở đi rốt ráo không đọa trở lại trong các đường ác; trừ ba nghiệp chướng,
tùy ý vãng sanh diệt trừ năm điều sợ hãi, tự tại giải thoát siêng tu đạo
nghiệp, không thôi không nghỉ. Diệu hạnh trang nghiêm quá Pháp vân địa
([6]), vào Kim cang tâm ([7]), thành đẳng chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại nhất tâm lưu ý, lắng
lòng mà nghe và suy nghĩ cho kỹ:
Kinh Tạp Tạng chép: Bấy giờ có một con quỉ bạch với Ngài Mục Liên rằng:
“Thân tôi hai vai có mắt, ngực có mũi có miệng mà không có đầu. Vì nhơn
duyên gì mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm học trò nhà hàng thịt, khi giết
trâu bò thì ngươi vui mừng, lấy dây trói buộc mà lôi kéo. Vì nhơn duyên ấy
nên mắc phải tội như vậy. Đó là tội báo mới nụ hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ khác bạch Ngài Mục Liên rằng: “Thân hình tôi như
một khối thịt, không có tay chân, tai, mắt, mũi, lưỡi v.v... Thân thường bị
trùng rúc chim mổ, cắn rức mà ăn, đau đớn vô cùng, không thể chịu nổi. Vì
nhơn duyên gì mà mắc phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi cho người uống thuốc độc đọa thai,
phá sản khiến chúng sanh mạng sống không hoàn toàn. Vì nhơn duyên ấy
nên mắc phải tội như vậy?”
– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Bụng tôi thật lớn, yết hầu
như kim. Cùng năm mãn kiếp không hề ăn uống. Vì nhơn duyên gì mà mắc
phải tội ấy?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi làm chủ hàng xóm, tự ỷ mình hào
quý, say sưa tung hoành, khinh khi kẻ khác, cướp giựt thức ăn uống của
người làm cho đói khát, khốn khổ hết thảy nhơn dân. Vì nhơn duyên ấy nên
mắc phải tội như vậy. Đó là quả báo mới đơm hoa, nó sẽ kết quả ở địa
ngục”.
– Lại có một con quỉ bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, có hai
vành sắt ở dưới hai nách, toàn thân cháy rụi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi chia bánh cho chúng, ngươi trộm lấy
hai cái, kẹp dưới hai nách. Vì nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó
là tội mới đơm hoa, kết quả sẽ ở địa ngục”.
– Lại có một con quỉ, bạch Ngài Mục Liên rằng: “Tôi thường lấy đồ tự bao
bọc đầu lại, sợ người đến giết, sanh tâm sợ hãi. Vì tội gì đến nỗi như thế?”
Ngài Mục Liên đáp: “Đời trước ngươi dâm phạm ngoại sắc, thường sợ người
thấy, hoặc sợ chồng con người bắt được, trói trăn, đánh chết, thường ôm
lòng sợ hãi, cho nên mắc phải tội nầy. Đó là tội mới đơm hoa, nó sẽ kết quả
ở địa ngục”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy, đâu
được không sợ hãi.
Từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay chúng con cũng đã làm vô lượng tội ác
như thế. Những tội ấy đều do vì không có tâm từ bi, ỷ mạnh hiếp yếu, tổn
hại chúng sanh, cho đến tội trộm cắp của người, mê đọa, sa đọa, nịnh hót bài
báng người hiền lành, gây biết bao tội lỗi.
Những tội báo như vậy ở trong địa ngục, quyết phải chịu thống khổ trong ba
đường dữ.
Ngày nay chí tâm một lòng tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ, thay
thế cho hết thảy chúng sanh khắp mười phương, đã chịu khổ báo trong sáu
đường, đang chịu khổ trong sáu đường mà cầu xin sám hối.
Cũng nguyện xin thay thế vì cha mẹ, sư trường và hết thảy bà con quyến
thuộc mà cầu xin sám hối và cũng tự vị bản thân mà cầu xin sám hối. Những
tội đã làm, nguyện xin trừ diệt hết. Những tội chưa làm, không dám làm nữa.
Nguyện xin quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Liên Hoa Tôn Phong Phật
Nam mô Tịnh Bảo Hưng Phong Phật
Nam mô Điện đăng Phan vương Phật
Nam mô Pháp không đăng Phật
Nam mô Nhất thế chúng đức thành Phật
Nam mô Hiền phan Tràng vương Phật
Nam mô Nhất Thế Bảo Trí Sắc trì Phật
Nam mô Đoạn nghi Bạt dục trừ minh Phật
Nam mô Ý vô khủng cụ oai mao bất thọ Phật
Nam mô Sư tử Phật
Nam mô Danh xưng Viễn vặn Phật
Nam mô Pháp danh Hiệu Phật
Nam mô Phụng Pháp Phật
Nam mô Pháp Tràng Phật
Nam mô Tu Di Đăng quang minh Phật
Nam mô Bảo Tạng trang nghiêm Phật
Nam mô Chiên Đàn ma ni quang Phật
Nam mô Kim Hải Tự Tại vương Phật
Nam mô Đại bi quang minh vương Phật
Nam mô Ưu bát la liên hoa thắng Phật
Nam mô Liên Hoa Tu trang nghiêm vương Phật
Nam mô Kim cang kiên cường Tự tại vương Phật
Nam mô Thù thắng Nguyệt vương Phật
Nam mô Nhật nguyệt quang vương Phật
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo,
nguyện xin Tam bảo dủ lòng đại từ đại bi cứu hộ hết thảy chúng sanh, hiện
đang chịu khổ, và sẽ chịu khổ trong sáu đường, khiến các chúng sanh ấy liền
được giải thoát, đem sức thần thông diệt trừ ba đường ác và nghiệp địa ngục,
khiến các chúng sanh ấy từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hoàn toàn
không đọa trở lại trong đường ác, xả thân khổ báo, được thân kim cang, tứ
vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; tứ vô ngại biện, sáu sức
thần thông như ý tự tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, cho đến
khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
Quyển Thứ Ba
– HẾT –
[1]) 4 Vô lượng tâm: Từ, bi, hỷ, xả.
[2]) Lục độ: tức sáu phép ba la mật.
[3]) tứ vô lượng tâm.
[4]) Tam minh: Thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh.
[5] Pháp nhãn tịnh: thấy được chơn đế lý cách rõ ràng.
[6] Pháp vân địa: địa thứ 10 xem ở quyển 2.
[7] Kim cang tâm: Đại tâm của Bồ tát kiên cố như ngọc kim cang không có
gì phá hoại được.
--- o0o ---
QUYỂN THỨ TƯ
CHƯƠNG THỨ BẢY : NÓI RÕ QUẢ BÁO
(tiếp theo)
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại phải chí thành đảnh lễ,
nhất tâm lắng nghe.
Lúc bấy giờ Phật ở thành Vương Xá, trong vườn trúc Ca lan đà, Ngài Mục
Kiền Liên từ thiền định đứng dậy đi dạo trên bờ sông Hằng thấy các ngã quỉ
chịu tội không đồng nhau.
Khi ấy các ngã quỉ đồng sanh lòng cung kính đến hỏi Ngài Mục Liên về
nhơn duyên đời trước. Một ngã quỉ hỏi rằng: “Tôi một đời lại đây, thường bị
đói khát, muốn vào nhà xí, lấy phẩn mà ăn; trên nhà xí đã có con đại quỉ lấy
gậy đánh tôi; tôi không đến gần nhà xí được. Vì cớ gì mà tôi mắc phải tội
ấy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng: Đời trước lúc làm người, ngươi làm chủ chùa, có
khách Tỳ kheo đến xin ăn. Ngươi keo kiết không đãi khách ăn. Chờ khách đi
rồi ngươi mới cho các thầy thường ở trong chùa ăn.
Vì ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng; do nhơn duyên ấy nên mắc phải tội
như vậy.
Đó là hoa báo, quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có một ngã quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời lại đây, trên vai
có cái bình đồng lớn, đựng đầy nước sôi. Tôi tự lấy gáo múc xối từ trên đầu
xuống, đau khổ vô cùng, không thể chịu được. Tôi vì tội gì mà phải như
thế?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc làm người, ngươi làm duy na trong chùa, xem việc trong Đại chúng. Có
một bình sữa, ngươi dấu chỗ kín; đúng giờ không đem chia cho chúng đợi
khách đi rồi, mới đem chia cho các người trong chùa. Sữa là vật chiêu đề
([1]), thuộc của chúng tăng trong mười phương, mọi người đều có phần vì
ngươi vô đạo, tham tiếc của chúng. Do nhơn duyên ấy, nên mắc phải tội như
vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa ngục.
– Lại có quỉ hỏi Ngài Mục Liên rằng: “Tôi một đời trở lại đây, thường nuốt
những hàn sắt nóng. Vì những tội gì mà phải như vậy?”
Ngài Mục Liên đáp rằng:
Lúc làm người ngươi làm một vị Sa di nhỏ, lấy nước trong sạch quấy đường
phèn cho chúng. Đường phèn cứng rắn, ngươi sanh tâm trộm cắp, đập nhỏ
lấy chút ít. Đại chúng chưa uống, ngươi đã uống trộm trước một hớp. Do vì
nhơn duyên ấy nên mắc phải tội như vậy. Đó là hoa báo. Quả báo sẽ ở địa
ngục.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe những việc Ngài
Mục Liên đã nghe đã thấy, rất đáng sợ hãi.
Chúng con có thể làm những tội ấy. Vì vô minh ngăn che chúng con không
tự nhớ biết. Giả sử như chúng con đã tạo vô lượng tội nghiệp như vậy, đời
sau quyết phải thọ lãnh quả báo đau khổ ấy. Vậy nên bây giờ phải chí tâm
tha thiết, đầu thành đảnh lễ hổ thẹn cầu xin sám hối. Nguyện trừ diệt sạch
những tội lỗi ấy và nguyện xin sám hối thế cho hết thảy ngã quỉ khắp mười
phương tận hư không giới.
Lại nguyện xin sám hối thế cho các cha mẹ và các sư trưởng nguyện xin sám
hối thế cho các bậc đồng đàn tôn chứng: thượng trung hạ tòa.
Nguyện xin sám hối thế cho tất cả thiện ác tri thức rộng ra cho đến khắp cả
mười phương tận không giới, vô cùng vô tận hết thảy chúng sanh trong tứ
sanh lục đạo.
Những tội đã làm, nhơn nay sám hối mà được trừ diệt. Những tội chưa làm
thề không dám làm.
Nguyện xin mười phương chư Phật chứng biết cho chúng con.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật
Nam mô Câu Na Hàm mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Sư Tử Phật
Nam mô Minh Viêm Phật
Nam mô Mâu Ni Phật
Nam mô Diệu Hoa Phật
Nam mô Hoa Thị Phật
Nam mô Thiện Túc Phật
Nam mô Đạo sư Phật
Nam mô Đại Tý Phật
Nam mô Đại Lực Phật
Nam mô Túc Vương Phật
Nam mô Tu Dược Phật
Nam mô Danh tướng Phật
Nam mô Đại minh Phật
Nam mô Viêm Kiên Phật
Nam mô Chiếu Diệu Phật
Nam mô Nhật Tạng Phật
Nam mô Nguyệt thị Phật
Nam mô Chúng Viêm Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Sư tử Du Hý Phật
Nam mô Sư tử Phấn tấn Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt mạ
Nam mô Tăng già
Lại quy y như mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo dủ lòng đại
từ bi cứu vớt hết thảy chúng sanh khắp mười phương hiện đương chịu khổ
trong đường ngã quỉ.
Lại nguyện xin cứu vớt hết thảt chúng sanh khắp mười phương hiện đương
chịu khổ vô lượng trong đường địa ngục; trong đường súc sanh và trong nhân loại; làm cho các chúng sanh ấy liền được giải thoát đoạn ba nghiệp
chướng ([2]) trừ năm sợ hãi ([3]) chứng tám giải thoát ([4]) dùng bốn hoằng
thệ ([5]) độ thoát chúng sanh đảnh lễ Thế Tôn, thưa thỉnh giáo lý vi diệu;
không rời đương xứ sạch hết hữu lậu, tùy tâm tự tại, dạo khắp cõi Phật, hạnh
nguyện viên mãn, chóng thành chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, lại chí thành lắng lòng
mà nghe.
Lúc bấy giờ Phật ở thành Vương xá, phía đông nam có một hồ nước bao
nhiêu tiểu dãi ô uế đều thẩy vào hồ ấy, hôi thúi không thể đến gần được. Có
một con trùng lớn sanh ở trong hồ ấy. Thân dài mấy trượng; không có tay
chân, quằn quãi lăn lóc, hằng ngàn người đến xem. Ngài A Nan thấy vậy về
bạch Phật. Phật và Đại chúng cùng nhau đến hồ ấy xem. Đại chúng nghĩ
rằng:
“Nay đây đức Như Lai sẽ nói rõ đầu đuôi việc con trùng ấy cho mọi người
nghe”.
Phật bảo Đại chúng: “Sau khi đức Phật Duy Vệ nhập Niết bàn rồi, có năm
trăm thầy Tỳ kheo đi qua một ngôi chùa. Lúc ghé vào chùa, chủ chùa rất
hoan hỷ vui mừng, mời Đại chúng ở lại để cúng đường. Ông hết lòng thết
đãi không tiếc món gì”.
Sau đó có năm trăm người đi buôn vào biển lấy ngọc, lúc về cũng ghé lại
chùa. Các người ấy thấy 500 Tỳ kheo tu hành tinh tấn liền hân hoan, phát
tâm cúng dường, mới cùng nhau nghĩ rằng: “Phước điền khó gặp chúng ta
nên cúng dường lễ mọn”.
Mỗi người cúng một viên ngọc; cộng được năm trăm ma ni châu, đem gửi
chủ chùa. Sau đó chủ chùa sanh tâm không tốt, lập mưu muốn đoạt lấy một
mình, không đem ra cúng dường chúng tăng.
Đại chúng mới hỏi: Ngọc châu của khách buôn bố thí nên đem ra cúng
dường Đại chúng?
Chủ chùa đáp rằng: “Ngọc châu ấy cúng cho ta, nếu các người muốn đoạt,
thì có phẩn uế cho các ngươi. Nếu các ngươi không đi ngay bây giờ, ta sẽ
chặt tay chân các người quăng vào hầm phẩn”.
Đại chúng nghĩ thương người ấy quá ngu si, bèn làm thinh bỏ đi.
Vì tội ác ấy nên nay chủ chùa kia phải làm thân trùng nầy; sau sẽ vào địa
ngục chịu vô lượng đau khổ.
– Lại nữa, khi ấy Phật ở thành Vương xá, thấy một chúng sanh có cái lưỡi
rất dài lớn. Có đinh sắt đóng vào lưỡi lửa phát cháy hừng hực, chịu đau khổ
suốt ngày đêm.
Ngài Mục Liên bèn hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà chịu khổ như vậy?
Phật đáp:
Người ấy xưa kia từng làm chủ chùa, hay mắng nhiếc, xua đuổi các thầy Tỳ
kheo; ở lâu trong chùa hay khách tăng mới đến cũng vậy và không cho ăn
uống, không bình đẳng cúng dường. Vì nhơn duyên ấy nên nay mắc phải tội
như vậy.
– Lại có một chúng sanh thân thể dài lón, trên đầu có cái vạc nước đồng sôi,
bốc lửa cháy hừng hực, nước đồng sôi chảy tràn ra tứ phía, chảy khắp thân
thể, chúng sanh ấy nương hư không mà đi mãi không nghỉ.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như thế
Phật đáp
Người ấy đời xưa làm Tri sự ở chùa, Đàn việt cúng dầu thắp, Tri sự không
chia cho khách tăng. Đợi các thày khách tăng đi rồi sau đó mới chia cho các
thày thường ở trong chùa.
Vì nhơn duyên ấy nên nay người ấy mắc phải tội như vậy.
– Lại có một chúng sanh bị các hoàn sắt cháy đỏ hừng hực, từ trên đầu mà
vào, từ dưới chân mà ra; nương hư không mà đi người ấy đau khổ vô cùng,
không thề chịu được.
Ngài Mục Liên hỏi Phật: Chúng sanh ấy vì tội gì mà phải chịu khổ như vậy?
Phật đáp rằng:
Người ấy đời trước làm ông Sa di có trộm bảy trái me ([6]) trong vườn
chúng tăng. Sau khi chết rồi, Sa di ấy đã chịu vô lượng khổ trong địa ngục.
Nay nghiệp báo chưa hết, hãy còn dư ươn, nên phải chịu khổ như vậy.
– Lại có một con cá lớn, một thân trăm đầu, mỗi đầu một khác, bị sa vào
lưới người.
Thế Tôn thấy vậy bèn nhập định “Từ tâm Tam muội” gọi con cá ấy. Cá ấy
tức thời ứng khẩu trả lời.
Thế Tôn hỏi cá:
– Mẹ ngươi ở đâu?
– Mẹ tôi làm con trùng rúc trong nhà xí!
Phật bảo các tỳ kheo: Lúc Phật Ca Diếp ra đời, con cá lớn nầy làm vị Tam
tạng Tỳ kheo; vì ác khẩu nên chịu quả báo nhiều đầu. Mẹ nó bấy giờ thọ
hưởng lợi dưỡng của nó, nên đọa làm con trùng rúc trong cầu tiêu.
Phật dạy tiếp rằng: – Mắc phải báo ấy đều do chúng sanh ác khẩu, nói lời
thô tháo cứng xẳng, tuyên truyền bỉ thử, làm cho hai bên tranh đấu loạn lạc
lẫn nhau. Chết rồi vào địa ngục, bị ngục tốt đốt đỏ cái bề sắt (?) trong ngoài
nóng đỏ như nước đồng sôi để nung cái lưỡi người có tội. Quỉ lại đốt đỏ móc
sắt, móc có ba lưỡi sắt bén như mũi nhọn để đoạn cái lưỡi của tội nhơn. Lại
kéo dài cái lưỡi ra như trâu kéo cày.
Lại đốt đỏ cái chày sắt dộng vào yết hầu, trải qua ngàn vạn kiếp. Tội hết mới
ra khỏi địa ngục, làm loài chim muông.
Phật dạy: “Nếu có chúng sanh nào đàm luận việc vua chúa, chánh trị, cha mẹ
và sư trưởng, thì tội lại còn nặng hơn.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy lời ấy, rất
đáng sợ hãi. Bấy giờ Đại chúng đã thấy rõ ràng: thiện ác hai đường không
sai, tội phước và quả báo chắc thật, quyết định không còn nghi ngờ gì nữa.
Vậy nên hết lòng hổ thẹn, siêng năng tu hành, cầu xin sám hối. Đại chúng đã
cùng nhau xem kinh, đã đồng thấy những việc như trên, nếu không cố gắng,
lười biếng muốn thối lui thì việc tu hành không do đâu có kết quả.
Ví như người nghèo thiếu lòng thèm khát các vị cao lương mà thật tế không
có một vị nào rốt cuộc cũng không có ích gì cho sự thèm khát khổ não kia.
Cho nên biết rằng: người nào muốn cầu có pháp môn nhiệm mầu thù thắng,
muốn độ thoát hết thảy chúng sanh, người ấy không thể nói suông rằng: tôi
chỉ tu tâm mà được. Người ấy cần phải có tâm mà cũng cần phải thật hành
bằng sự tướng nữa mới được. Cần phải có sự có lý. Sự lý đi đôi công việc
mới có kết quả hoàn toàn, thành tựu viên mãn.
Vậy nên Đại chúng phải nỗ lực tinh tấn tu hành cầu xin sám hối. Cùng nhau
chí tâm tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo. Nguyện xin thay thế hết thảy
chúng sanh trong đường địa ngục, đường ngã quỉ, đường súc sanh và đường
nhơn loại mà cầu xin sám hối.
Lại nguyện vì cha mẹ, sư trưởng thiện ác tri thức và cùng hết thảy bà con mà
cầu xin sám hối. Những tội đã làm rồi nguyện xin trừ diệt. Những tội chưa
làm thề không dám làm.
Nhất tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đề Sa Phật
Nam mô Minh Diệu Phật
Nam mô Trì man Phật
Nam mô Công đức minh Phật
Nam mô Thị Nghĩa Phật
Nam mô Đăng Diệu Phật
Nam mô Hưng Thịnh Phật
Nam mô Dược Sư Phật
Nam mô Thiện Nhu Phật
Nam mô Bạch Hào Phật
Nam mô Kiên cố Phật
Nam mô Phước oai đức Phật
Nam mô Bất khả hoại Phật
Nam mô Đức Tướng Phật
Nam mô La Hầu Phật
Nam mô Chúng chủ Phật
Nam mô Phạm Thanh Phật
Nam mô Kiên Tế Phật
Nam mô Bất Cao Phật
Nam mô Tác Minh Phật
Nam mô Đại Sơn Phật
Nam mô Kim Cang Phật
Nam mô Tương chúng Phật
Nam mô Vô úy Phật
Nam mô Trân Bảo Phật
Nam mô Sư tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương, tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng đại từ bi lực, đại trí huệ lực, vô lượng tự tại thần
lực không thề tư nghị; độ thoát nhất thế chúng sanh lực, trong lục đạo, diệt
trừ hết thảy đau khổ cho chúng sanh trong lục đạo; khiến các chúng sanh ấy
đoạn trừ hết tội nghiệp trong ba đường ác; rót ráo không tạo năm tội nghịch;
không tạo mười ác nghiệp nữa. Từ nay trở đi các chúng sanh ấy không sanh
vào chỗ khổ báo, được sanh về Tịnh độ; bỏ mạng sống khổ báo được mạng
sống trí huệ; bỏ thân khổ báo được thân kim cang; bỏ khổ ác thú được vui
Niết bàn; nhớ khổ trong ác thú, phát tâm Bồ đề. Bốn vô lượng tâm, sáu ba la
mật thường được hiện tiền. Bốn vô ngại biện, sáu sức thần thông được tự tại
như ý, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, và thắng tấn tu hành đến
khi mãn hạnh thập địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ TÁM : RA KHỎI ĐỊA NGỤC
Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp Đạo tràng nên biết rằng: Vạn pháp
không đồng, công dụng bất nhất, như sáng và tối đối đãi nhau. Tuy nhiên chỉ
có thiện và ác là gồm thâu tất cả.
Làm thiện được quả báo tốt đẹp ở các cõi trời, cõi người. Làm ác thời mắc
quả báo xấu xa, đau khổ kiệt liệt trong ba đường ác.
Đó là hai sự thật rõ ràng trên đời, không phải giả dối. Nhưng người ngu si
lầm lạc phần nhiều sanh tâm nghi ngờ; hoặc cho cõi trời là chuyện bịa đặt;
địa ngục là lời nói dối, không có. Những người ấy không biết suy nhơn
nghiệm quả; không biết xét quả tìm nhơn. Người không biết phân biệt nhơn
quả thì cứ chấp lấy sự hiểu biết sai lầm của thế gian. Không những chấp
không, chấp có mà còn làm thơ làm bài để biếm xích. Tâm họ trái với điều
thiện lợi mà không hề tự biết sai lầm. Giả như có người chỉ bảo cho thì họ
càng chấp chặt lấy thiên kiến; sai lầm còn kiên cố hơn nữa. Những người
như thế là họ tự gieo đầu vào đường ác. Trong nháy mắt liền thẳng xuống
địa ngục, từ thân hiếu tử không thể cứu được. Họ đi vào hầm lửa, vạc dầu
trước hơn ai hết. Họ đi thiêu thân trong lửa nóng vạc dầu sôi mà không tự
biết. Thân tâm tan nát, tinh thần thống khổ, khi ấy ăn năn không kịp.
Ngày nay Đại chúng trong Đạo tràng thấy rõ thiện ác nương nhau như bóng
theo hình, như vang theo tiếng.
Tội phước hai đường tuy khác nhau nhưng cũng phải đợi kỳ trã quả báo
nghiêm nhặt, mong sau mọi người đều sáng suốt tin tưởng không sanh tâm
nghi ngờ.
Sao gọi là địa ngục?
Kinh dạy rằng:
Trong tam thiên đại thiên thế giới, ở giữa khoảng hai núi Thiết vi. chỗ tối
tăm nhất gọi là Địa ngục. Thành bằng sắt, dài rộng một ngàn sáu trăm vạn
dặm. Trong thành chia ra tám vạn bốn ngàn ngăn. Dưới lấy sắt làm đất, trên
lấy sắt làm lưới. Lửa đốt thành ấy trong ngoải cháy đỏ chảy ra nước. Lửa
trên cháy suốt xuống dưới, lửa dưới cháy suốt bốc lên trên.
Tên riêng của mỗi ngục là:
Ngục nhóm họp
Ngục tối tăm
Ngục xe dao
Ngục rừng kiếm
Ngục máy sắt
Ngục rừng gai
Ngục võng sắt
Ngục hang sắt
Ngục hoàn sắt
Ngục đá nhọn
Ngục hầm than
Ngục rừng cháy.
Ngục hổ lang
Ngục kêu la.
Ngục nước sôi
Ngục than nóng
Ngục núi dao
Ngục rừng kiếm
Ngục đá mài lửa
Ngục thành lửa.
Ngục cột trụ đồng
Ngục giường sắt
Ngục xe lửa.
Ngục bánh xe lửa
Ngục uống nước đồng sôi
Ngục khạc ra lửa
Ngục hết sức nóng
Ngục hết sức lạnh,
Ngục rút lưỡi,
Ngục đóng đinh vào thân
Ngục trâu cày
Ngục chém chặt
Ngục đao binh
Ngục mổ xẻ
Ngục sông tro.
Ngục tiểu dãi trào lên
Ngục giá lạnh
Ngục bùn lầy
Ngục ngu si
Ngục khóc lóc
Ngục đui điếc
Ngục câm ngọng
Ngọng lưỡi câu sắt
Ngục mổ sắt nhọn.
Lại có những đại tiểu tiện nê lê a tỳ địa ngục.
Phật bảo đức A Nan:
Sao gọi là A tỳ địa ngục?
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là già
– A : nghĩa là vô
– Tỳ : nghĩa là cứu.
Nói chung lại A Tỳ nghĩa là vô già, vô cứu: không ngăn dứt, không cứu vớt
được.
Lại nữa:
– A là không gián đoạn.
– Tỳ là không lay động.
– A là hết sức nóng nhiệt.
– Tỳ là hết sức khổ não.
– A là không an nhàn.
– Tỳ là không an trú.
Tóm lại: A tỳ nghĩa là hết sức hành hạ, không tạm nghỉ, không gián đoạn,
không lay chuyển; hết sức khổ não, như nung như nấu, không an nhàn,
không chấm dứt, cứ hành phạt mãi mãi nên gọi là A tỳ.
Lại nữa:
– A là đại diện: là lửa dữ.
– Tỳ là mãnh liệt, là nóng dữ.
Lửa dữ nhập tâm, gọi là a tỳ địa ngục.
Phật dạy Ngài A Nan: Địa ngục A tỳ dài rộng bằng nhau ba mươi hai vạn
dặm. Bảy lớp thành sắt, bảy lớp lưới sắt bao bọc ngục a tỳ. Dưới có mười
tám ngăn, xung quanh có bảy lớp thành, đều có đặt rừng dao.
Trong bảy lớp thành lại có rừng gươm. Dưới mười tám ngăn, ngăn có tám
vạn bốn ngàn lớp. Bốn góc đều có bốn đại đồng cẩu, thân dài lớn đến một
vạn sáu ngàn (16.000) dặm, mắt như điện chớp, răng như cây gươm, nanh
như núi dao, lưỡi như mũi sắt nhọn toàn thân chân lông phun lửa dữ, hơi bay
như khói, hơi thúi khó chịu, thế gian không có vật gì thúi bằng.
Lại có mười tám ngục tốt đầu như đầu la sát miệng như miệng dạ xoa. Chó
có sáu mươi bốn con mắt, mắt tung ra xa những hoàn sắt nóng: như xe chạy
xa mười dặm. Răng phía trên cao một trăm sáu mươi dặm. Trên đầu răng
tuông ra lửa dữ, đốt cháy xe sắt phía trước, làm cho bánh xe kia mỗi lỗ lưỡi
tròn hóa làm một ức con dao lửa , kiếm kích sắc bén; những lưỡi nhọn đều
từ trong lửa dữ ấy lưu xuất. Lửa ra như suối chảy đốt cháy ngục thành a tỳ.
Thành cháy đỏ như nước đồng sôi.
Bọn ngục tốt kia đẩu có tám đầu trâu, mỗi mỗi đầu đều có mười tám cái
sừng. Trên đẩu mỗi sừng tuông ra một đống lửa lớn. Đống lửa lớn lại hóa ra
bánh xe dao lớn. Như bao nhiêu bánh xe, mỗi mỗi bánh xe thứ lớp theo nhau
chạy trong lửa dữ ghê gớm, đầy cả a tỳ địa ngục.
Ở dưới đất thì có chó đại đồng cẩu hà miệng le lưỡi. Lưỡi như đòn xóc
nhọn; le ra thì hóa thành vô lượng lưỡi, đầy cả a tỳ địa ngục.
Ở trong bảy lớp thành có bảy lớp cờ. Ở đầu mỗi cờ lửa tuôn ra như suối trào
vọt, nước sắt chảy cả a tỳ địa ngục.
Bốn cửa thành ngục a tỳ, ở trên mỗi ngưỡng cửa có mười tám chảo nước
đồng sôi trào ra rồi chảy tràn đầy cả thành a tỳ.
Trong mỗi ngăn. Địa ngục lại có tám vạn bốn ngàn rắn mãn xà sắt, phun
độc, phun lửa thân hình lớn đầy thành, kêu la như sấm dậy, mưa xuống
những hoàn sắt nóng lớn đầy cả thành a tỳ.
Nỗi khổ trong thành kể đến tám vạn ức thiên. Bao nhiêu thống khổ trong
những thống khổ đều tích tụ ở trong thành nầy.
Lại có năm trăm ức con trùng ở trong thành, mỗi con trùng có tám vạn bốn
ngàn mỏ nhọn. Đầu mỗi mỏ nhọn có lửa tuôn như mưa xối, đầy cả thành a
tỳ.
Mỗi khi trùng ấy rơi xuống thì lửa dữ trong thành a tỳ bốc ngọn lên dữ dội,
hừng hực sáng choang. Lửa mạnh ấy chiếu đến ba trăm ba mươi sáu vạn
dặm. Từ a tỳ ngục xông lên biển cả dưới núi ốc tiêu nước biển cả giọt
xuống, mỗi giọt lớn bằng trục bánh xe to, thành ra những mũi nhọn sắt lớn,
đầy cả thành a tỳ.
Phật bảo Ngài A Nan: Như chúng sanh nào giết cha hại mẹ, nhục nhã sáu
giòng bà con, người ấy khi mạng chung chó sắt hả miệng, hóa làm mười tám
bánh xe, giống như xe vàng, có bảo cái che trên. Hết thảy mũi lửa nhọn kia
hóa làm ngọc nữ. Người có tội kia xa trông thấy, sanh tâm vui mừng. Nghĩ
rằng: “Ta muốn đến đó chơi, Ta muốn đến đó chơi”. Khi đến rồi, thì bị gió
phong đao xẻ thân, lạnh quá chừng. Tội nhơn lại nghĩ: Há được lửa tốt, ngồi
trên xe đốt lên mà hơ! Nghĩ như thế rồi thì liền chết. Trong giây phút lại thấy
mình ngồi trên xe vàng ngắm xem ngọc nữ. Nhưng bị ngọc nữ cầm búa sắt
chém thân. Dưới thân lửa bốc hừng hực, mau như chớp nhoáng, trong nháy
mắt lại rơi vào a tỳ địa ngục.
Từ ngăn trên, chớp mắt đọa xuống ngăn dưới. Thân lớn đầy ngăn. Chó đồng
cẩu lớn tiếng sủa lên và nhai xương nuốt tủy. Ngục tốt la sát cầm xoa sắt lớn
xoa đầu bắt đứng dậy; lửa cháy khắp thân, cháy luôn thành a tỳ. Lưới sắt
tuông mưa dao. Dao theo lỗ chân lông vào trong thân thể, hóa làm vua Diêm
Vương. Vua lớn tiếng bảo rằng: “Kẻ ngu si, giống ngục tốt kia, ngươi ở
dương thế, bất hiếu với cha mẹ, tà mạng không đạo đức nên phải đọa vào
chỗ nầy, gọi là a tỳ Địa ngục. Ngươi là người không biết ơn, không hổ thẹn.
Ngươi chịu khổ não như thế có sướng không?” Nói rồi, biến mất.
Bấy giờ ngục tốt lại đuổi tội nhơn từ ngăn dưới lên ngăn trên. Phải trải qua
tám vạn bốn ngàn ngăn giữa mới qua khỏi lớp lưới sắt cuối cùng một ngày
một đêm mới khắp a tỳ địa ngục. Một ngày một đêm ở địa ngục bằng sáu
chục tiểu kiếp ([7]) ở dương gian. Tội nhơn sống như vậy trong địa ngục
một đại kiếp ([8]).
Người phạm tội ngũ nghịch không biết hổ thẹn nên gây tội ấy. Vì tội ngũ
nghịch nên lúc lâm chung có mười tám thứ phong đao như xe lửa sắt cắt xẻ
thân thể. Tội nhơn vì nóng bức nên nói thế này: “Nếu ta có các thứ hoa sắc
đẹp ấy, cây đại thọ mát mẻ kia, ở đó dạo chơi há không vui sao!”
Nghĩ như thế rồi thì có tám vạn bốn ngàn rừng ác kiếm hóa làm cây báu, hoa
quả tốt tươi, sắp bày ra trước mắt lửa nóng hừng hực hóa làm hoa sen nơi
gốc cây kia. Tội nhơn thấy vậy liền nghĩ thầm: “Ta đã mãn nguyện”.
Trong nháy mắt, tội nhơn liền ngồi trên hoa sen. Trong khoảnh khắc, các
trùng mỏ nhọn, từ trong hoa lửa sanh ra rúc ráy cốt tủy, thấu suốt tâm can.
Tội nhơn phải vịn cây đứng dậy. Các nhành cây hóa thành lưỡi kiếm, róc thịt
chẻ xương, vô lượng rừng đao từ không trung rơi xuống. Những lò hổng xe
lửa mười tám điều đau khổ nhất thời đưa đến.
Những cảnh tượng nầy hiện ra thì tội nhơn bị hãm xuống địa ngục từng
dưới; rồi từ từng dưới lên từng trên. Thân hình lột hết như hoa nở. Trải khắp
ngăn dưới, rồi lên ngăn trên, bị lửa mạnh thiêu đốt dữ dội.
Đến ngăn trên rồi, thân hình tràn khắp ngăn ấy, bị khổ não nung nấu vô
cùng. Tội nhơn phải trợn mắt le lưỡi. Vì phạm tội ngũ nghịch, nên bị vạn ức
đồng sôi, trăm ngàn đao luân, từ trên không rơi xuống, vào trên đầu, ra dưới
chân; đau khổ còn gấp bội hơn trước nữa một trăm , một ngàn vạn phần.
Người phạm đủ năm nghịch tội phải chịu tội đủ năm kiếp .
Lại nữa nếu người nào phá cấm giới của Phật, luống ăn dùng của tín thí, phỉ
báng Tam bảo, tà kiến, không biết nhơn quả, không học trí huệ Bát nhã,
khinh chê mười phương Phật, trộm cắp của pháp, làm việc ô uế bất tịnh
hạnh, không hổ thẹn, hủy nhục bà con, tạo các điều ác, người ấy khi sắp lâm
chung, tội báo bị phong đao xẻ thân, nằm ngửa bất tỉnh, như bị đánh đập.
Tư tưởng hoang mang, si mê lầm lẫn. Thấy nhà cửa và con cái nam nữ, và
lớn nhỏ, cùng tất cả sự vật của mình đều bất tịnh. Tiểu dãi hôi thối, tràn đầy
thân thể. Bấy giờ người ấy nghĩ rằng:
“Sao đây không có thành quách và núi rừng tốt đẹp, để ta dạo chơi mà lại ở
giữa đám bất tịnh ô uế nầy ư?”
Nghĩ như thế rồi, liền bị ngục tối la sát lấy cái xoa sắt lớn đánh ngục a tỳ, và
các rừng đao hóa làm cây báu, và ao hồ mát mẻ, lửa dữ hóa làm hoa sen lá
vàng; những con trùng sắt mỏ nhọn hóa làm chim phù nhan. Những tiếng
thống khổ trong địa ngục như âm thanh ca vịnh.
Tội nhơn trông thấy tốt đẹp như vậy liền nghĩ rằng: “Ta mau đến đó mà dạo
chơi”. Nghĩ xong kiền thấy mình ngồi trên hoa sen lửa. Các trùng sắt mỏ
nhọn từ các lỗ chân lông trong thân rúc ra, cắn rức thân thể. Trăm ngàn bánh
xe sắt từ trên đánh vào thân; hằng hà sa số xoa sắt, khiêu múc tròng mắt.
Chó đồng cẩu trong địa ngục hóa làm trăm ức chó sắt dành nhau cấu xé thân
hình tội nhơn, lấy trái tim mà ăn. Trong nháy mắt, thân thể đã thành cánh
hoa sắt, tràn khắp mười tám ngăn ngục, mỗi mỗi hoa có tám vạn bốn ngàn
lá, mỗi mỗi lá, đầu mình tay chân chi tiết đều ở trong một ngăn; địa ngục
không lớn thân nầy không nhỏ cho nên biến khắp địa ngục.
Những tội nhơn nầy đọa vào địa ngục ấy tám vạn bốn ngàn đại kiếp. Ngục
nầy tiêu diệt rồi lại vào trong mười tám ngăn ngục khác, chịu khổ như trên.
A tỳ ngục nầy về phương Nam cũng có 18 ngăn; phương Tây cũng có mười
tám ngăn, phương Bắc cũng có mười tám ngăn.
Hủy báng các kinh Phương đẳng Đại thừa tạo đủ năm tội nghịch; phá hoại
Hiển Thánh, đoạn các căn lành. Những người như vậy chịu đủ tội lỗi. Thân
lớn khắp A tỳ địa ngục; tứ chi trải khắp cả mười tám ngăn A tỳ địa ngục nầy
chỉ thiêu đốt những chúng sanh tạo giống địa ngục như trên. Khi kiếp địa
ngục sắp hết thì thấy cửa địa ngục phương Đông liền mở. Tội nhơn nhìn
thấy ngoài cửa ấy có dòng nước trong chảy mát mẻ; có rừng cây hoa quả tốt
tươi hiện ra những tội nhơn ở ngăn dưới nhìn thấy thì mắt tạm bớt đổ lửa. Từ
ngăn dưới vươn mình lên quằn quại bò đi, tuột cả thân hình mà chạy lên
ngăn trên, tay vịn bánh xe đao. Bấy giờ trên không trung mưa xuống những
hoàn sắt nóng. Tội nhơn chạy đến cửa phương Đông. Vừa đến cổng thì ngục
tốt la sa tay cầm xoa sắt đâm ngược vào tròng mắt của tội nhơn.
Chó đồng cẩu nhai ngầu trái tim; tội nhơn phải chết ngất. Chết rồi sống lại,
thấy cửa phương Nam mở như cửa phương trước kia không khác.
Cửa phương Tây, phương Bắc cũng đều như vậy. Trải qua thời gian nửa
kiếp, tội nhơn phải chết trong A tỳ địa ngục.
Chết rồi sống lại sanh vào địa ngục giá lạnh rồi chết trong địa ngục hàng
băng này. Chết rồi lại sống; sống rồi lại sanh vào địa ngục hắc ám, một trăm,
một ngản vạn năm mắt không trông thấy, thân làm con đại trùng, quằn quại
bỏ đi; các căn ([9]) ám độn, không hiểu biết gì phải quấy lại bị một trăm một
ngàn hổ lang lôi kéo dành ăn. Chết rồi lại sanh vào loài súc sanh, năm ngán
vạn năm làm thân chim muông. Khổ sở như thế cho đến khi hết tội, được
sanh làm người. Nhưng lại phải đui, điếc, ngọng, lịu, phung hủi, ung thư,
bần cùng hạ tiện. Bao nhiêu suy đồi khổ sở mình phải tự rước lấy. Làm thân
hèn hạ như vậy năm trăm lần sống thác. Lại sanh vào loài quỉ đói. Ở trong
ngã quỉ gặp được thiện tri thức các vị đại Bồ tát quở trách nói rằng:
“Người ở trong vô lượng đời về trước đã tạo ra vô lượng tội, phỉ báng Tam
bảo, không tin nhơn quả nên đọa trong A tỳ địa ngục chịu nhiều khổ não
không thể kể xiết. Nay ngươi nên phát tâm từ bi”.
Bấy giờ các ngã quỉ nghe lời ấy rồi liền xưng Nam mô Phật.
Nhờ sức hồng ân của chư Phật, liền được mạng chung, sanh lên cõi trởi tứ
thiên. Sanh lên đó rồi , ăn năn tự trách, phát tâm Bồ đề.
Tâm quang của các chư Phật không bỏ những người phát tâm nầy, thâu
nhiếp những người phát tâm như vậy và thương mến như La Hầu La. Dạy
bảo tránh xa địa ngục, không cho thân xa đọa như quý tròng con mắt.
Phật bảo Đại vương: “Muốn biết hào quang chư Phật thường chiếu nơi nào
thì hãy xem hào quang ấy thường chiếu những nơi chúng sanh đau khổ như
vậy không gián đoạn, không người cứu vớt. Tâm Phật thường biết nơi đâu?
Thường biết những nơi chúng sanh chịu hành phạt cực hình, cực ác như vậy.
Vậy đem tâm Phật mà trau dồi tâm mình, trải qua nhiều số kiếp, khiến các
người ác kia phát tâm Bồ đề”.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật Thế Tôn nói
các thống khổ như trên thì gia tâm giữ ý, chớ sanh lòng buông lung. Nếu Đại
chúng không siêng năng lập phương tiện tu hành Bồ tát đạo thì ở trong mỗi
địa ngục đều vô tội phần.
Ngày nay Đại chúng nên vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu thống khổ
trong A tỳ đaị ngục, vì hết thảy chúng sanh sẽ chịu thống khổ trong A tỳ địa
ngục, và rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện chịu, và sẽ chịu vô cùng
vô tận thống khổ trong hết thảy địa ngục ở mười phương mà đầu thảnh đảnh
lễ quy y Thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Quá khứ thất Phật
Nam mô Thập phương thập Phật
Nam mô Tam Thập Ngũ Phật
Nam mô Ngũ Thập Tam Phật
Nam mô Bách Thất Thập Phật
Nam mô Trang nghiêm kiếp thiên Phật
Nam mô Hiền kiếp thiên Phật
Nam mô Tinh tú kiếp thiên Phật
Nam mô Thập phương Bồ tát Ma ha tát
Nam mô Thập Nhị Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô biên thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại xin quy y mười phương tận hư không giới vô lượng hình tượng:
Tượng vàng và tượng chiên đàn của vua Ưu Điển.
Tượng đồng của vua A Dục.
Tượng đá của Ngô Trung.
Tượng ngọc của Sư tử.
Tượng vàng, tượng bạc, lượng lưu ly, tượng san hô, tượng hổ phách, tượng
xa cừ, tượng mã não, tượng trân châu, tượng ma ni, tượng vàng từ ma
thương sắc diêm phù đàn ở trong các quốc độ.
Lại quy y hết thảy các tháp thở tóc của mười phương Phật:
Quy y hết thảy các tháp thờ hàm răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ răng.
Quy y hết thảy các tháp thờ móng tay.
Quy y hết thảy các tháp thờ xương trên đảnh.
Quy y hết thảy các tháp thờ xá lợi trong thân.
Quy y hết thảy các tháp thờ cà sa.
Quy y hết thảy các tháp thờ muổng, bình bát.
Quy y hết thảy các tháp thờ bình tắm rửa.
Quy y hết thảy các tháp thờ tích trượng.
Quy y hết thảy các nơi làm Phật sự như vậy.(1 lạy)
Lại quy y nơi tháp Phật giáng sanh, quy y tháp Phật đắc đạo:
Quy y tháp Phật chuyển pháp luân.
Quy y tháp Phật nhập Niết bàn.
Quy y tháp trên trời, tháp ở nhân gian và tất cả bảo tháp ở trong cung Long
Vương.(1lạy)
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới, hết thảy chư Phật:
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Tôn pháp.
Quy y mười phương tận hư không giới hết thảy Hiền Thánh Tăng. (1 lạy)
Nguyện xin Tam bảo đồng đem từ bi lực an ủi chúng sanh lực, vô lượng đại
tự tại lực, vô lượng đại thần lực, thâu nhiếp thọ lãnh chúng con ngày nay
sám hối thế cho hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong A tỳ đại địa ngục,
sám hối thế rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh trong tất cả địa ngục ở
mười phương, nhiều không thể kể xiết; sám hối thế cho cha mẹ, sư trưởng và
tất cả bà con quyến thuộc nguyện xin Tam bảo dùng nước đại bi tẩy trừ tội
lỗi cho hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong A tỳ địa ngục và trong
những địa ngục khác, khiến chúng sanh được thanh tịnh.
Nguyện xin Tam bảo tẩy trừ tội lỗi cho chúng sanh, hiện đồng sám hối trong
Đạo tràng hôm nay; tẩy trừ tội lỗi cho tất cả cha mẹ sư trưởng, cho hết thảy
bà con quyến thuộc của chúng con, khiến tội lỗi được thanh tịnh.
Lại xin tẩy trừ tội lỗi cho tất cả chúng sanh trong sáu đường, khiến chúng
sanh thẳng đến Đạo tràng hoàn toàn thanh tịnh. Từ nay trở đi cho đến ngày
thành Phật chúng sanh đều đoạn trừ được hết khổ não trong a tỳ địa ngục.
Rộng ra nữa là đoạn trừ hết thảy thống khổ nhiều không thể nói, không thể
nói trong các địa ngục, ở mười phương tận hư không giới. Chúng sanh ấy rốt
ráo không còn đọa trở lại trong ba đường ác, rốt ráo không còn đọa trở lại
trong các địa ngục. Rốt ráo không còn tạo trở lại mười ác nghiệp ; không còn
tạo trở lại năm tội nghịch để chịu khổ não. Tất cả các tội, nguyện đều tiêu
diệt, bỏ sống địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí
huệ, bỏ thân địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết
bàn; nhớ khổ địa ngục, phát tâm Bồ đề, tứ đẳng lục độ thường được hiện
tiền; tứ biện lục thông đều được tự tại như ý; đầy đủ trí huệ, tu đạo Bồ tát,
dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu hành mãi lên cho đến mãn
hạnh thập địa vào tâm kim cang, thành đẳng chánh giác để trở lại đời nầy, độ
thoát hết thảy chúng sanh trong mười phương.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng còn có các địa ngục khác,
chịu khổ rất phức tạp, không thể ghi chép. Danh hiệu như vậy, khổ sở vô
cùng. Đại chúng dở xem trong kinh sẽ thấy rõ việc ấy.
Trong kinh Phật dạy rằng: “Một niệm ác của vua Diêm Vương sanh ra đủ
các việc trong địa ngục. Tự thân Diêm Vương chịu khổ cũng không thể kể
xiết”.
Diêm La Đại vương xưa kia là vị Tỳ sa quốc vương, nhơn vì cùng với Duy
Đà thủy chúa chiến đấu thất bại, bèn lập thệ nguyện: “Nguyện ta đời sau làm
chủ ngục trị tội nhơn vậy”.
Mười tám vị đại thần và trăm vạn tùy tùng đồng phát nguyện như vậy.
Tỳ sa vương ấy nay là Diêm la vương, mười tám vị đại thần kia, nay là mười
tám ngục vương vậy.
Trăm vạn chúng tùy tùng nay là ngưu đầu ngục tốt vậy.
Bọn quan thuộc nầy đều lệ thuộc Bắc phương tỳ sa môn thiên vương.
Kinh Trường A Hàm chép:
“Chỗ ở của Diêm La Đại vương tại Diêm phù đề trong núi Kim cang, về
phương Nam Vương cung dài rộng sáu ngàn do tuần” ([10]). Kinh Đại địa
ngục dạy rằng: “Thành quách cung vua Diêm vương, ở trong địa ngục rộng
dài ba vạn dặm; dùng sắt và đồng mà xây dựng”.
Ngày đêm ba thời có chảo đồng lớn đựng đầy nước đồng sôi, tự nhiên để
phía trước vua. Có ngục tốt to lớn nằm trên giường sắt nóng của vua, lấy
móc sắt đánh miệng vua, rót nước đồng sôi vào miệng vua. Từ yết hầu trở
xuống đều cháy tiêu tan. Các Đại thần kia cũng phải chịu tội như vậy.
Mười tám ngục vương ấy tên là:
1.- Ca Diên giữ ngục Nê lê.
2.- Khuất Tôn giữ ngục Đạo sơn.
3.- Phí Thọ giữ ngục Phí sa.
4.- Phí Khúc giữ ngục Phất sí.
5.- Ca Thế giữ ngục Hắc nhĩ.
6.- Hạp Sai giữ ngục Hỏa xa.
7.- Than Vị giữ ngục Hoạch than.
8.- Thích Ca Nhiên giữ ngục Thiết sàng.
9.- Ác Sanh giữ ngục Hạp sơn
10.- Thân Ngâm giữ ngục Hàn băng.
11.- Tỳ Ca giữ ngục Bác bì.
12.- Diêu Đầu giữ ngục Súc sanh.
13.- Đề Bạt giữ ngục Đao binh.
14.- Di Đại giữ ngục Thiết ma.
15.- Duyệt Đầu giữ ngục Khôi hà.
16.- Xuyên Cốt giữ ngục Thiết sách.
17.- Danh Thân giữ ngục Thơ trùng.
18.- Quán Thân giữ ngục Dương đồng.
Những ngục như vậy đều có vô lượng địa ngục khác làm quyến thuộc; mỗi
ngục đều có chủ ngục. Ngưu đầu ngục tốt tánh tình bạo ngược không có một
mảy từ tâm . Thấy chúng sanh chịu ác báo như vậy chỉ sợ chúng sanh không
khổ mà thôi. Nếu hỏi ngục tốt:
“Chúng sanh chịu khổ như vậy rất đáng thương xót, sao các ngươi thường
cứ ôm lòng độc ác khốc liệt, không chút thương tâm?”
Ngục tốt liền đáp:
Những người chịu khổ ấy tội ác như thế nầy: “Bất hiếu với cha mẹ, bài báng
Phật Pháp, Tăng, chê bai Thánh Hiền, nhục mạ lục thân, khinh mạn sư
trưởng, hủy hoại tất cả, nói lời độc ác, nói lời hai lưỡi nịnh hót, tật đố, chia
rẽ tình cốt nhục của người , giận hờn nóng nẩy, sát hại tham dục, dối gạt
khinh khi, tà mạng, tà cầu, lại do vì tà kiến, giải đãi buông lung gây kết
nhiều thù oán”.
Những người như vậy, đến đây chịu khổ rồi, mỗi khi được thoát ra chúng tôi
thường khuyên bảo rằng: “Ở đây cực khổ lắm, không thể chịu được. Các
người nay được ra rồi chớ nên tạo tội mà phải trở vào đây nữa.”
Nhưng các tội nhơn ấy không chịu chừa bỏ ăn năn, ngày nay ra rồi thoạt vậy
lại vào. Lần lựa luân hồi, không biết thống khổ, làm cho chúng tôi phải mỏi
mệt vì các chúng sanh ấy. Kiếp nầy kiếp khác, cứ đối đầu nhau mãi. Vì
duyên cớ ấy ấy nên chúng tôi đối với tội nhơn không có chút thương tâm,
mà còn cố ý làm cho khổ sở thêm nữa.
Chúng tôi mong họ biết khổ, biết hổ, biết thẹn, không trở lại đây nữa.
Chúng tôi xem các chúng sanh ấy thật là chỉ khổ mà không chịu tránh,
không chí quyết làm lành để vào Niết bàn.
Họ đã là vật vô tri, không biết tránh khổ tìm vui, sở dĩ họ phải chịu đau khổ
hơn ở nhơn gian, thì làm sao chúng tôi có thể dung thứ ma sanh tâm thương
được.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hãy đem việc lao ngục ở
thế gian mà so sánh thì có thể biết ngay; tin chắc rằng việc nầy không phải là
luống dối.
Giả sử có người ba phen đến cửa ngục tuy bà con thân tộc nhưng thấy người
ấy cứ vào ra cửa ngục mãi cũng đã chán ngán, không có lòng buồn thương,
luống gì ngưu đầu ngục tốt thấy các chúng sanh đã ra lại vào để chịu thống
khổ mãi mãi.
Vậy đã thoát khỏi địa ngục rồi thì nên tu tâm dưỡng tánh, cải cách tập quán.
Nếu không chừa bỏ thì nhiều kiếp chìm trong biển khổ. Đã vào trong ấy rồi,
cứ thứ lớp mà qua, hết khổ nầy đến khổ khác, không bao giờ dừng nghỉ.
Vì vậy nên oán thù ba đời, nhơn quả theo nhau, hai vừng thiện ác chưa từng
tạm nghỉ. Việc báo ứng trình bày rõ ràng rất dễ trông thấy. Làm ác gặp khổ,
lấy ác trả ác, ở trong địa ngục cùng năm mãn kiếp, chịu thống khổ đủ điều.
Hết tội địa ngục lại làm súc sanh. Hết tội súc sanh lại làm quỉ đói; trải qua vô
lượng sanh tử, vô lượng thống khổ.
Như thế Đại chúng há có thể không lo tu hành Bồ tát đạo cho kịp thời sao?
Chúng con ngày nay, nhất đầu thành đảnh lễ Tam bảo nguyện vì hết thảy
chúng sanh trong đường địa ngục, ngục vương, đại thần, ngưu đầu, ngục tốt
và quyến thuộc của chúng khắp mười phương, nguyện vì hết thảy chúng
sanh trong đường ngã quỉ vương, ngã quỉ thần v.v... và quyến thuộc của ngã
quỉ ở khắp mười phương; nguyện vì hết thảy chúng sanh trong đường súc
sanh, súc sanh thần v.v... và quyến thuộc của chúng sanh khắp mười
phương; rộng ra nguyện vì hết thảy chúng sanh vô cùng vô tận trong mười
phương mà cầu xin sám hối, cải vãng tu lai, không làm ác nữa. Những tội đã
làm nguyện xin diệt trừ, những tội đã làm nguyện xin diệt trừ, những tội
chưa làm thề không dám làm.
Nguyện xin hết thảy chư Phật trong mười phương dùng bất khả tư nghị tự tại
thần lực gia tâm cứu hộ thương xót nhiếp thọ, khiến tất cả chúng sanh tức
thời giải thoát.
Nguyện xin quy y thế gian Đại Từ Bi Phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Hoa Nhật Phật
Nam mô Quân Lực Phật
Nam mô Hoa Quang Phật
Nam mô Nhơn ái Phật
Nam mô Đại oai đức Phật
Nam mô Phạm vương Phật
Nam mô Vô lượng minh Phật
Nam mô Long đức Phật
Nam mô Kiên Bộ Phật
Nam mô Bất Hư Kiến Phật
Nam mô Tinh Tấn Đức Phật
Nam mô Thiện Thủ Phật
Nam mô Hoan Hỷ Phật
Nam mô Bất Thối Phật
Nam mô Sư Tử Tướng Phật
Nam mô Thắng Trí Phật
Nam mô Pháp Thị Phật
Nam mô Hỷ Vương Phật
Nam mô Sa Ngự Phật
Nam mô Ái Tác Phật
Nam mô Đức Tý Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Quán Thị Phật
Nam mô Vân Âm Phật
Nam mô Thiện Tư Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biến Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy tận hư không giới hết thảy Tam bảo. Nguyện xin Tam bảo
dủ lòng Từ bi, tự tại thần lực cứu vớt chúng sanh trong đường địa ngục,
ngục vương, đại thần và quyến thuộc của các vị ấy cùng mười tám địa ngục.
Mười tám ngăn địa ngục nầy đều có mhiều địa ngục khác làm quyến thuộc.
Nguyện xin Tam bảo cứu vớt hết thảy ngưu đầu ngục tốt và tất cả chúng
sanh chịu khổ trong đường địa ngục, khiến các chúng sanh ấy đều được giải
thoát. Tội nhơn khổ quả đồng thời tiêu diệt. Từ nay trở đi, rốt ráo vĩnh viễn
đoạn trừ hết nghiệp địa ngục, rốt ráo không đọa trong ba đường ác, bỏ sống
địa ngục, được sống Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục, được mạng trí huệ, bỏ thân
địa ngục, được thân kim cang, bỏ khổ địa ngục được vui Niết bàn. Nhớ khổ địa ngục, phát tâm bồ đề; tứ đẳng lục độ thường được hiện tiền. Tứ biện lục
thông như ý tự tại.
Dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tiến lên cho đến mãn hạnh thập
địa, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh, đồng nhập kim cang, thành đẳng
chánh giác.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ TƯ
--- HẾT---
[1] Chiêu đề: Của thuộc 10 phương Tăng, do người thí, chỉ có nguyện cúng
chung cho chúng Tăng ở khắp 10 phương, ai gặp thì dùng. Cất mà dùng
riêng là sai với bản nguyện của thí chủ. Nếu thí chủ chỉ nguyện cúng cho
chúng hiện tiền ở trong chùa, thì chúng hiện diện ở đó có quyền xử dụng.
[2] Ba chướng: 1- Phiền não chướng. 2- Nghiệp chướng. 3- Khổ báo
chướng. Vì phiền não tham, sân, si thúc đẩy nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp
nên bị quả báo đau khổ.
[3] Năm sợ hãi: Bồ tát sơ học phát tâm có năm món sợ:
1- Sợ không sống: nên có của không thể thí hết vật sở hữu. 2- Sợ tiếng xấu:
Vì sợ xấu nên không thể chung sống với chúng sanh mà tu (hòa quang đồng
trần). 3- Sợ chết: Tuy phát tâm rộng lớn nhưng sợ chết, nên không thể xả
thân. 4- Sợ đọa ác đạo: Vì sợ chết đọa đường ác nên đối trị các pháp bất
thiện không dám làm để lợi ích chúng sanh. 5- Sợ oai đức của Đại chúng: Vì
sợ có đông người hay sợ người có oai đức nên đối cảnh ấy không dám làm
như Sư tử hống để lợi ích chánh pháp.
[4] Tám giải thoát: 1- Tưởng nội sắc thân mà quán ngoại sắc giải thoát. 2-
Tưởng nội vô sắc thân mà quán ngoại sắc giải thoát. 3- Tịnh giải thoát thân
tác chứng cụ túc trú giải thoát. 4- Không vô biện xứ giải thoát. 5- Thức vô
biên xứ giải thoát. 6- Vô sở hữu xứ giải thoát. 7- Phi tưởng, phi phi tưởng xứ
giải thoát. 8- Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trú giải thoát.
[5] Bốn hoằng thệ: 1- Chúng sanh không số lượng, thệ nguyện độ hết. 2-
Phiền não không cùng tận, thệ nguyện đều dứt sạch. 3- Pháp môn không kể
xiết, thệ nguyện đều tu học. 4- Phật đạo không gì hơn, thệ nguyện đều viên
thành.
[6] Bảy trái me: Có người nghi bảy trái me không đáng gì, mà đọa địa ngục
nên không tin. Họ không biết bảy trái me hay bảy lượng vàng cũng do một
tâm ăn trộm. Me, vàng khác nhưng cái tâm ăn trộm chỉ một, nên tâm làm
chủ động si ám nên đọa địa ngục là chỗ tối tăm.
[7] Tiểu kiếp Người sống từ tám vạn tuổi, cứ 100 năm giảm xuống 1 tuổi,
giảm xuống đến 10 tuổi, rồi cứ 100 năm tăng lên 1 tuổi, tăng đến 8 vạn tuổi.
Một lần tăng, một lần giảm như vậy gọi là một tiểu kiếp. 20 lần tăng giảm
như vậy gọi là một trung kiếp. Bốn trung kiếp hay 80 lần tăng giảm của một
vòng thành, trụ, hoại và không thỉ gọi là một đại kiếp.
[8] Đại kiếp Bằng 80 tiểu kiếp bằng 4 trung kiếp; (1 trung kiếp bằng 20 tiểu
kiếp. Đại kiếp bằng một vòng thành, trụ, hoại và không.
[9] Các căn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý.
[10] Do tuần: (Yojma) theo kinh chép mỗi do tuần có 16 dặm, mỗi dặm có
576 thước tây. Như thế mỡi do tuần hơn chín cây số, đây là tiểu do tuần,
trung do tuần 40 dặm. 1 đại do tuần 60 dặm. (Xem kinh Tâm Địa Quán,
trang 134 của Đại đức Tâm Châu dịch).
--- o0o ---
QUYỂN THỨ NĂM
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hiểu rõ tất cả chúng sanh
đều có oán thù với nhau.
Vì sao mà biềt?
Vì không có oán thù thì không có ác đạo. Nay ác đạo không dứt, ba đường
còn mãi, nên biết oán thù không bao giờ cùng tận .
Kinh dạy rằng:
“Hết thảy chúng sanh đều có tâm. Vì có tâm nên đều được làm Phật”.
Nhưng chúng sanh tâm tưởng điên đảo, tham đắm thế gian, không biết lối ra,
cứ vun trồng gốc khổ não, bồi đắp cội oán thù. Sở dĩ phải luân hồi ba cõi qua
lại sáu đường, xả thân lại thọ thân không bao giờ cùng tận.
Vì sao vậy?
Vì vậy hết thảy chúng sanh từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, mê muội mãi
mãi, vô minh che lấp, nước ái nhận chìm, nên khởi ra ba độc căn, khởi ra
bốn điên đảo. Từ ba độc căn ấy sanh ra mười phiền não ([1]). Y nơi thân
kiến khởi ra ngũ kiến ([2]). Y nơi ngũ kiến khởi ra sáu mươi hai kiến ([3]).
Y nơi thân, khẩu, ý khởi ra mười hạnh ác. Thân, sát, đạo, dâm miệng vọng
ngôn, ỷ ngữ lưỡng thiệt, ác khẩu, ý tham, sân, si.
Tự mình làm mười điều ác, dạy người làm mười điều ác, khen ngợi người
làm mười điều ác. Như vậy, y nơi thân, khẩu, ý khởi ra bốn chục điều ác.
Lại y nơi sáu căn tham đắm sáu trần hơn nữa là mở rộng cửa ác cho tám vạn
bốn ngàn trần lao xâm nhập. Trong khoảng một niệm khởi ra sáu mươi hai
kiến chấp. Trong khoảng một niệm tạo đủ bốn chục điều ác. Trong khoảng
một niệm mở cửa cho tám vạn bốn ngàn trần lao, huống nữa trong khoảng
một ngày thì khởi ra biết bao tội ác; huống nữa trong khoảng một tháng khởi
ta biết bao tội ác; huống nữa một năm khởi ra biết bao tội ác; huống nữa
chung thân lịch kiếp khởi ra biết bao tội ác.
Tội ác như vậy, vô lượng vô biên oán thù theo nhau không bao giờ cùng tận.
Nhưng chúng sanh đồng sanh với ngu si, vô minh che lấp trí huệ, phiền não
che lấp tâm tánh, chúng sanh không tự hiểu biết.
Tư tưởng điên đảo không tin lời kinh, không tin lời Phật, không biết giải
oan, không tông giải thoát.
Chúng sanh tự reo mình vào đường ác, như phủ du tự reo mình vào đèn
sáng, nhiều kiếp mê muội, chịu vô lượng khổ.
Giả sử nghiệp báo hết rồi, được trở lại làm người, thì người ác như thế, trọn
không cải cách, nên Thánh nhân phải sanh tâm thương sót. Như vậy cũng
chỉ vì chúng sanh có oán thù với nhau mà ra.
Chúng con nay đã phát tâm Bồ đề, tu Bồ tát đạo thấy Bồ tát Ma ha tát, lấy
việc cứu khổ làm tư lương, lấy việc giải oan kết làm yếu hạnh. Bồ tát không
xả bỏ chúng sanh mà lấy việc cứu khổ, chịu khổ thế cho chúng sanh làm nền
tảng.
Chúng con ngày nay cũng phải như vậy; phải khởi tâm dõng mãnh, khởi tâm
từ bi, tâm đồng như tâm Phật, nương nhờ Phật lực, dựng phan Đạo tràng,
đánh trống cam lồ, cầm cung trí huệ, nắm tên kiên cố, nguyện vì hết thảy tứ
sanh lục đạo oán thù ba đời, cha mẹ, sư trưởng, lục thân quyến thuộc mà cởi
mở oán thù.
Những oán thù đã kiết đều xả bỏ, những oán thù chưa kiết, rốt ráo không kết
nữa.
Nguyện xin chư Phật, chư Bồ tát, dùng từ bi lực, dùng bổn nguyện lực, dùng
thần thông lực, đồng gia tâm che chở, chiết phục, nhiếp thọ, làm cho vô
lượng oán thù ba đời từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật cởi mở sạch hết,
không còn kết oán thù trở lại, hết thảy khổ não hoàn toàn đoạn trừ.
Cùng nhau chí tâm, một lòng tha thiết, đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện
xin thế cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường; oán thù ba đời;
nguyện xin thế cho cha mẹ, sư trưởng và hết thảy bà con quyến thuộc mà
quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiện Ý Phật
Nam mô Ly Cấu Phật
Nam mô Nguyệt Tướng Phật
Nam mô Đại Danh Phật
Nam mô Châu Kế Phật
Nam mô Oai Mãnh Phật
Nam mô Sư Tử Bộ Phật
Nam mô Đức Thọ Phật
Nam mô Hoan Thích Phật
Nam mô Huệ Tụ Phật
Nam mô An Trú Phật
Nam mô Hữu Ý Phật
Nam mô Ương Già Đà Phật
Nam mô Vô Lượng Ý Phật
Nam mô Diệu Sắc Phật
Nam mô Đa Trí Phật
Nam mô Quang Minh Phật
Nam mô Kiên Giới Phật
Nam mô Cát Tường Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Liên Hoa Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô An Lạc Phật
Nam mô Trí Tích Phật
Nam mô Đức Kỉnh Phật
Nam mô Kiên Dõng tinh tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Tất cả oán thù như vậy nay ở trong lục đạo, những người đã chịu trả oán rồi,
nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh lực, khiến các chúng sanh ấy
điều được giải thoát. Hoặc có chúng sanh nào ở trong lục đạo đang chịu trả
oán, hoặc chưa chịu trả oán, nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Hiền Thánh
lực, khiến các chúng sanh ấy hoàn toàn không trở lại trong các đường ác
nữa, hoàn toàn không có ác tâm đến với nhau nữa, hoàn toàn không làm độc
hại khổ sở nhau nữa; tất cả đều xả bỏ, không còn phân biệt oán thân nữa. Tất
cả tội lỗi đều được tiêu trừ. Tất cả oán thù đều được giải thoát, cùng nhau
đồng tâm, hoà hiệp như nước với sữa, tất cả đều được hoan hỷ như ở Sơ địa
([4]). Thọ mạng vô cùng, thân tâm an lạc mãi, tùy ý sanh lên Thiên cung hay
vãng sanh về Tịnh độ. Tưởng ăn có ăn, tưởng mặc có mặc, không còn nghe
tiếng oán thù đấu tranh nữa.
Thân không bị sự biến diệt xâm lăng, tâm không bị ngoại trần mê hoặc
nhiễm trước. Điều lành tranh nhau nhóm họp. điều ác tranh nhau tiêu tan;
phát tâm Đại thừa tu đạo Bồ tát. Tứ đẳng lục độ đầy đủ, xả bỏ quả báo sanh
tử, đồng đăng Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng biết cái gì là nguồn gốc
của oán thù đau khổ?
Chính vì mắt tham sắc, tai tham tiếng, mũi tham hương, lưỡi tham vị, thân
tham xúc tế nhị, nên chúng sanh thường bị năm ngoại trần ràng buộc nhiều
kiếp ở trong đêm dài mờ mịt, không được giác ngộ và giải thoát.
Lại nữa sáu giòng bà con, tất cả quyến thuộc đều là nguồn gốc oán thù ba
đời của chúng ta vậy.
Tất cả oán thù đều do nhân khởi ra. Nếu không có thân thì không có oán.
Vậy ly thân tức là ly được oán.
Vì cớ gì vậy?
Mỗi người ở một xứ, xa cách tha hương, như thế thì trọn không thể sanh tâm
oán hận. Tâm oán hận sanh ra được đều do thân cận với nhau.
Vì gốc ba độc tham, sân, si nên xúc não nhau; vì xúc não nhau nên phần
nhiều hay sanh tâm oán hận.
Sở dĩ bà con thân thích hay trách lẫn nhau. Hoặc cha mẹ trách con, hoặc con
trách cha mẹ; anh em chị em hết thảy đều hay trách lẫn nhau, và hiềm hận
lẫn nhau.
Có chút gì không bằng lòng liền sanh tâm giận dữ.
Nếu giàu sang phú quý thì nhìn bà con, đua nhau đến xin; khi nghèo thiếu thì
không ai để ý.
Lại nữa càng xin càng lấy làm thiếu; càng được càng lấy làm không đủ.
Trăm lần xin, trăm lần được cũng không lấy làm ơn, hơi không vừa lòng trở
lại giận hờn. Từ đó đã bắt đầu lòng ôm ác niệm, nghĩ tìm cách cố ý kết thù
liên họa, đời đời không thôi.
Suy ra mà biết, oán thù ba đời, thật không ai xa lạ, đều là bà con thân thích,
quyến thuộc chúng ta cả.
Vậy nên biết, quyến thuộc là nhóm oan gia, chúng ta không thể không hết
lòng ân cần sám hối, chí tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo. Nguyện vì tử khi
có thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời, bà con nhiều kiếp ở
trong sáu đường, đã kết oán thù cùng nhau, hoặc là oán thù hay không phải
là oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, hôm nay hoặc ở trong đường địa ngục,
đường ngã quỉ, đường súc sanh, đường a tu la, hay ở trong nhân đạo; hoặc ở
trên các cõi Trời, hoặc ở trong các loài Tiên hay ở trong vòng bà con quyến
thuộc của chúng ta; như thế những người oán thù và quyến thuộc của các
người ấy trong ba đời, ngày nay chúng con tên . . . xin đem tâm từ bi, tâm
không phân biệt oán thân, tâm như tâm Phật, nguyện như nguyện Phật, xin
thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Đức Phật
Nam mô Bảo Tích Phật
Nam mô Hoa Thiên Phật
Nam mô Thiện Tư Nghị Phật
Nam mô Pháp Tự Tại Phật
Nam mô Danh Văn Ý Phật
Nam mô Lạc Thuyết Tụ Phật
Nam mô Kim Cang Tướng Phật
Nam mô Cầu Lợi Ích Phật
Nam mô Du Hý Thần Thông Phật
Nam mô Ly Oán Phật
Nam mô Đa Thiên Phật
Nam mô Di Lâu Tướng Phật
Nam mô Chúng Minh Phật
Nam mô Bảo Tạng Phật
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật
Nam mô Đề sa Phật
Nam mô Châu Giác Phật
Nam mô Đức Tán Phật
Nam mô Nhật Nguyệt Minh Phật
Nam mô Nhật Minh Phật
Nam mô Tinh Tú Phật
Nam mô Sư Tử Tướng Phật
Nam mô Vi Lam Vương Phật
Nam mô Phước Tạng Phật
Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận như không giới hết thảy Tam bảo,
nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Đại địa Bồ tát lực, hết thảy Hiền Thánh
lực, khiến cho cha mẹ, bà con chúng con ở trong sáu đường, nếu người nào
có oán thù và quyến thuộc các người ấy đều đồng thời vân tập đến Đạo tràng
nầy, cùng nhau sám hối tội đời trước, giải các oán thù đã kết. Nếu người nào
thân hình bị câu thúc, trở ngại không thể đến được, nguyện xin nhờ thần lực
của Tam bảo, thâu nhiếp tinh thần của các người ấy, khiến họ đến được Đạo
tràng, đem lòng từ bi thọ lãnh sự sám hối của chúng con ngày nay, nguyện
mong giải thoát hết thảy oán thù.
Đại chúng trong Đạo tràng đều nên tâm niệm nói lời nầy:
Chúng con tên . . . từ vô thỉ, khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối
cha mẹ nhiều đời bà con nhiều kiếp, chú bác cô dì, quyến thuộc nội ngoại, vì
gốc ba độc ([5]) khởi ra mười nghiệp ác, hoặc vì không biết hoặc vì không
tin, hoặc vì không tu, bởi vô minh che lấp trí huệ nên sanh ra oán kết, đối với
cha mẹ, bà con cho đến cả trong lục đạo cũng có oán thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì giận hờn, hoặc vì tham ái,
hoặc vì ngu si, do gốc ba độc mà tạo ra các tội. Tội ác như vậy, vô lượng vô
biên, hổ thẹn, sám hối, nguyện xin xả thí hết.
Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà
cửa, hoặc vì tiền của mà sanh ra nghiệp oán thù, đối với bà con, cha mẹ đem
tâm sát hại đủ điều. Những tội sát ấy không thể kẻ xiết, sanh ra oán thù
không bao giờ hết. Ngày nay hổ thẹn, tỏ bày sám hối, nguyện xin cha mẹ,
sáu dòng bà con, hết thảy quyến thuộc, đem lòng từ bi cho chúng con sám
hối, xả bỏ tất cả tội lỗi, không còn tâm oán hận nữa. Cho đến trộm cắp, tà
dâm, vọng ngữ, thập ác, ngũ nghịch, chúng con đều có làm cả; vì vọng
tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra hết thảy tội.
Những tội như vậy vô lượng vô biên, hoặc đối với cha mẹ mà khởi ra, hoặc
đối với anh em, chị em mà khởi ra, hoặc đối với cô gì, chú bác mà khởi ra,
từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, đối với lục thân quyến thuộc
mà khởi ra oán thù.
Những tội như vậy vô lượng vô biên. Tội nhân khổ quả như thế phải trả báo,
chịu hành phạt, kiếp số lâu mau, oán kiết nhiều ít, chỉ có hết thảy chư Phật
chư Dại Bồ tát trong mười phương mới thấy hết, biết hết.
Như chỗ chư Phật và Bồ tát đã thấy đã biết, tội lượng nhiều ít, oán thù bao
nhiêu, thời gian dài ngắn, đến đời vị lai mới thọ lãnh sự trả thù ấy; ngày nay
chúng con rất hổ thẹn, nghẹn ngào, đau khổ, tự trách tự hối, xin cải vãng tu
lai, không dám làm nữa.
Nguyện xin cha mẹ, bà con quyến thuộc, tất cả thân nhân, đem tâm nhu
nhuyến, tâm điều hòa, tâm lạc thiện, tâm hoa hỷ, tâm phò hộ, tâm như tâm
Phật, cho chúng con xin . . . sám hối; xả bỏ tất cả tội lỗi cho chúng con
không tưởng đến oán thân nữa.
Lại nguyện xin cho cha mẹ bà con tất cả quyến thuộc nếu có bị ai oán thù
trong lục đạo, cũng nguyện xin tất cả chúng sanh trong lục đạo đồng chung
xả bỏ oán thù.
Hết thảy oán thù trong ba đời nhất thời sạch hết. Từ nay trở đi cho đến ngày
thành Đạo, vĩng biệt tam đồ, tuyệt bốn ác thú; tất cả đều hòa hiệp như nước
và sữa, tất cả đều không chướng ngại, như hư không rộng rãi, hằng làm bà
con Phật pháp, quyến thuộc Từ bi. Mọi người đều tu tập vô lượng trí huệ,
thành tựu tất cả công đức, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu Bồ
tát đạo không biết mỏi mệt. Tâm đồng như tâm Phật, nguyện đồng như
nguyện Phật, được pháp tam mật ([6]) của chư Phật, đủ năm phần pháp thân,
cứu cánh vô thượng Bồ đề, thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã giải oán kết với cha mẹ
rồi thứ lại nên giải oán kết với Sư trưởng.
Từ bậc Đại thánh trở xuống, tâm thể chưa được hoàn toàn viên tịch, vô sanh
pháp nhẫn ([7]), còn bị ba tướng thiên diệt.
Ở địa vị đẳng giác rồi, Phật còn phương tiện dùng lời khổ khắc, để cho
những chúng sanh ác độc nhân đó mà ngộ đạo. Bậc Minh Đức giáo hóa quần
sanh còn nhờ lời khổ khắc ấy, huống gì phàm phu, cách tuyệt cảnh thanh
tịnh, làm sao khỏi oán.
Nay thiện ác còn phức tạp, minh bạch chưa phân, làm sao tránh khỏi sự sai
lầm của tam nghiệp, cho nên nghe lời này phải hổ thẹn.
Đối với ơn đức Sư trưởng phải tự trách mình, lòng nên hổ thẹn, không nên
nghi ngờ mà sanh ác tâm.
Trong kinh Phật dạy: “Tuy xuất gia, nhưng chưa được giải thoát, dầu xuất
gia cũng không nên tự phụ mình không có điều ác. Người tại gia cũng không
nên tự cho mình hoàn toàn không có điều thiện”.
Vả thối, không nên nói việc ấy nữa. Hãy nghe lời Phật dạy trong kinh:
Phật bảo Đại chúng: “Các ngươi nên tưởng nhớ ơn Sư trưởng. Cha mẹ tuy
sanh thân nầy, nuôi dưỡng, dạy bảo, nhưng thể làm cho thân nầy ra khỏi ba
đường ác. Lòng từ của Sư trưởng rất lớn, khuyến dụ dẫn dắt kẻ sơ cơ, cho
được xuất gia, rồi truyền trao cho đại giới (giới Tỳ kheo). Đó tức là kẻ sơ cơ
đã hoài thi La hán, sẽ sanh quả La hán, xa lìa đau khổ sanh tử và được yên
vui Niết bàn. Sư trưởng có ơn đức xuất thế ấy, ai hay báo đáp? Nếu người
nào chung thân hành đạo, đó chỉ là tự lợi, chớ chưa phải báo đáp ơn thầy”.
Phật dạy: “Bạn lành trong thiên hạ không ai bằng Sư trưởng”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe Phật dạy ơn đức Sư
trưởng nặng như thế, nhưng chúng con chưa từng khi nào phát tâm nghĩ đến.
Trái lại, có khi Sư trưởng dạy bảo còn không tin, không lãnh, cho đến khi
nói lời thô tháo sanh tâm phỉ báng ngang ngược thị phi, làm suy đồi Chánh
pháp.
Những tội lỗi như thế làm sao thoát được Tam đồ. Khổ báo ấy không ai thay
thế! Đến lúc chết rồi, vui đi khổ đến; tinh thần thảm não, tâm ý hôn mê, tinh
thần không sáng suốt, năm căn tán loạn, muốn đi chân không thể bước;
muốn ngồi thân thể yên; giả sử muốn nghe thuyết pháp tai không thể nghe;
muốn xem cảnh đẹp, mắt không thể thấy. Ngay lúc bấy giờ muốn trở lại sự
lễ sám hôm nay cũng không được; chỉ có những cảnh tượng rùng rợn hung
ác trong địa ngục hiện ra mà thôi.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Người ngu si tự thị không tin tội phước, hủy
báng Sư trưởng, ghen ghét tật đố. Những người như vậy là Ma vương trong
Phật pháp, là dòng giống địa ngục, tự kết oán thù, chịu quả đau khổ vô
cùng”.
Như Hoa Quang Tỳ kheo khéo thuyết pháp bí yếu, có một đệ tử thường ôm
lòng kiêu mạn, Hòa thượng dạy bảo không tin, không nghe, lại nói thế nầy:
“Đại Hòa thượng của ta không có trí huệ, thường hay tán thán những việc
trống rỗng như hư không. Tôi nguyện đời sau không thấy Ngài nữa”.
Người đệ tử ấy, từ ngày đó pháp nói phi là phi pháp, phi pháp nói là pháp.
Tuy trì cấm giới không hủy phạm, nhưng vì hiểu lầm lời thầy nên sau chết
rồi, trong một nháy mắt, liền đọa A tỳ địa ngục, tám mươi ức kiếp, thường
chịu đại thống khổ.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nghe lời kinh dạy thế ấy,
mọi người há không sợ hãi sao?
Chỉ đối với Hòa thượng sanh một lời ác, còn đọa xuống A tỳ địa ngục tám
chục ức kiếp, huống nữa từ khi xuất gia trở lại cho đến ngày nay, tội lỗi đối
với Hòa thượng đã sanh ra ác nghiệp vô lượng vô biên. Quyết định bỏ thân
nầy sẽ đồng tội với người đệ tử kia, sa xuống địa ngục, không còn nghi gì
nữa.
Vì sao vậy? – Vì Hòa thượng và A xà lê thường đem tâm dạy bảo, nhưng
chúng con chưa từng đúng như pháp mà tu hành. Đối với các bậc Sư trưởng
phần nhiều chúng con hay sanh lòng trái nghịch, hoặc các Ngài cung cấp cho
mà không tự biết chán biết đủ, hoặc thầy giận đệ tử, hoặc đệ tử giận thầy,
trong ba đời, sự hỷ nộ vô lượng. Những tội như vậy không thể kể xiết.
Trong kinh Phật dạy: “Sanh một lòng sân, oán thù vô lượng”.
Những oán thù ấy không những trong sáu dòng bà con, mà sư đồ, đệ tử cũng
hiềm hận lắm lắm.
Lại còn những lúc đồng phòng chung ở đối với các bậc thượng tọa, trung
tọa, hạ tọa, chúng con không thâm tín sự xuất gia là pháp viễn ly sanh tử,
không biết nhẫn nhục là hạnh an lạc không biết bình đẳng là đường vào Bồ
đề, không biết xa lìa vọng tưởng là tâm xuất thế, thầy trò đồng phòng chung
ở, vì kiết sử phoền não, nghiệp chướng chưa hết nên hay trái chống nhau,
tâm phân biệt đôi nhiên loạn khởi, nên tranh cãi nhau, sở dĩ vì vậy mà đời
đời không hoà hiệp.
Lại nữa, người xuất gia, hoặc là đồng học nghiệp, hoặc là đồng sư chung học
trong những ngày ấy, thấy người thắng tấn, chúng liền đem lòng độc hại, sân
hận vì ganh tị mà không tự biết đó là sức trí huệ đời trước, cho nên mới có
phước đức chúng con không có thiện căn, tâm hữu lậu của chúng con hay
sanh cao hạ, hay ở đấu tranh, ít khi hòa hiệp, không thể nhường nhịn người
dày đức, chúng con bạc phước, bèn hiềm hận nhau, mình quấy, chỉ nói xấu
người, hoặc vì ba độc mà sàm báng nhau, không có tâm trung tín, không có
ý cung kính, không khi nào nghĩ lại điều trái của chúng con. Cho đến cao
tiếng lớn lời nói điều tho lỗ là điều Phật cấm; những điều Sư trưởng dạy bảo
cũng không tín. Ccá bậc thượng, trung, hạ tọa, ai cũng ôm lòng phẫn hận
chúng con cả. Vì phẫn hận nên lại thị phi nhau, thành ra trong ba đường ác
phần nhiều đều có oán thù.
Thị phi oán thù như thế đều do thầy trò đệ tử chúng con gây ra.
Trong lúc đồng học chung ở thượng trung hạ tòa khởi lên một niệm tâm sâm
hận, oán thù đã vô lượng.
Sở dĩ trong kinh Phật dạy: “Đời nay có ý giận nhau, ghen ghét nhau, tật đố
nhau một chút, đời sau các xấu ấy càng thêm kịch liệt, thành ra oán thù lớn,
huống nữa ác ý đã phát ra trọn đời thì nghiệp báo ấy kể sao cho xiết”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều không tự biết trong
lục đạo đã gây thù kết oán với các bậc Sư trưởng thượng, trung, hạ tòa. Oán
thù ấy không có ngày cùng tận
Sự oán thù này không có hình tướng; thời gian chịu khổ không có kỳ hạn,
không có kiếp số, không thể chịu được. Vậy nên Bồ tát ma ha tát xả tâm oán
thân, dùng tâm từ bi, tâm bình đẳng mà thâu nhiếp tất cả chúng sanh. Ngày
nay Đại chúng đã cùng nhau phát Bồ đề tâm, phát Bồ đề nguyện nên phải
tập tu hạnh Bồ tát tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, tứ hoằng thệ nguyện, tứ
nhiếp pháp đó là sự tu hành căn bổn của chư Phật và Bồ tát đã làm. Như chư
Phật và Bồ tát đã làm chúng con ngày nay cũng tập làm, oán thân bình đẳng,
hết thảy không ngại nhau.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thế phải cứu hộ hết thảy chúng sanh,
khiến các chúng sanh đều được giải thoát.
Cùng nhau tâm đầu thành đảnh lễ Tam bảo, chúng con nguyện vì hết thảy
chúng sanh, kể từ khi có thần thức trở lại đây, trải qua bao nhiêu đời xuất
gia, đối với các bậc Hòa thượng, A xà lê, mà có oán thù đối với các bậc
đồng đàn tôn chứng, mà có oán thù, đối với quyến thuộc đồng học, thượng,
trung, hạ tòa, mà có oán thù, hoặc đối với có duyên hay vô duyên với Phật
pháp mà có oán thù, rộng ra cho đến oán thù ba đời, trong tứ sanh lực đạo,
khắp cùng mười phương, hoặc có oán thù hay không phải oán hoặc khinh
hoặc trọng đối với quyến thuộc của các người oán thù ấy, đệ tử chúng con
tên . . . nếu có oán thủ với tất cả chúng sanh trong lục đạo đến đời vị lai hay
trong hiện tại, chúng con chịu trả quả báo, hôm nay chúng con nguyện xin
sám hối trừ diệt hết.
Nếu thấy tất cả chúng sanh trong lục đạo mỗi mỗi đều oán thù với nhau,
ngày nay đệ tử chúng con tên . . . xin đem lòng từ bi, không phân biệt oán
thân khắp vì oán thù ba đời mà cầu xin sám hối. Nguyện xin cho các chúng
sanh ấy xả bỏ oán thù, không còn nghĩ đến điều ác độc để hại nhau nữa,
không còn ôm lòng độc ác đến với nhau nữa. Nguyện xin hết thảy chúng
sanh, trong lục đạo cũng đồng xả bỏ oan thù, hết thảy đều hoan hỷ với nhau.
Từ nay đã giải oán thù rồi, không còn sân hận nhau, mà cung kính nhau, tâm
nghĩ báo ơn nhau, như tâm chư Phật, như nguyện chư Phật mọi người đều
nhất tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Kiến hữu Biên Phật
Nam mô Điện minh Phật
Nam mô Kim sơn Phật
Nam mô Sư tử Đức Phật
Nam mô Thắng tướng Phật
Nam mô Minh Tán Phật
Nam mô Kiên Tinh tấn Phật
Nam mô Cụ túc Tán Phật
Nam mô Ly úy Sư Phật
Nam mô Ứng Thiên Phật
Nam mô Đại Đăng Phật
Nam mô Thế Minh Phật
Nam mô Diệu Âm Phật
Nam mô Trì thượng Công đức Phật
Nam mô Ly Ám Phật
Nam mô Bảo tán Phật
Nam mô Sư tử Giáp Phật
Nam mô Diệt Quá Phật
Nam mô Trì Cam lồ Phật
Nam mô Nhơn Nguyệt Phật
Nam mô Hỷ Kiến Phật
Nam mô Trang Nghiêm Phật
Nam mô Châu Minh Phật
Nam mô Sơn Đảnh Phật
Nam mô Danh Tướng Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường bất ly thế Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo nguyện
xin nhờ Phật lực, Pháp lực, hết thảy Hiền Thánh lực khiến vô lượng oán thù
ba đời, hoặc oán thù hay không phải oán thù và hết thảy chúng sanh trong hư
không pháp giới đều phát tâm sám hối cởi mở oán kết; tất cả oán thù đều xả
bỏ, không còn phân biệt oán thân tất cả đều hòa hiệp như nước với sữa, tất
cả đều hoan hỷ như ở sơ địa, tất cả đều vô ngại như hư không. Từ nay cho
đến ngày thành Phật hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi, như chư
Bồ tát.
Lại nữa, chúng con xin nhờ công đức nhân duyên lễ bái sám hối hôm nay để
cởi mở oán kết. Nguyện xin chư vị Hòa thượng các bậc A xà lê đồng đàn
Tôn chứng các vị đồng học và hết thảy quyến thuộc của các bậc thượng,
trung hạ tòa, có oán thù cho đến các chúng sanh trong bốn loài sáu đường
mỗi mỗi đều có oán thù ba đời, chưa được giải thoát, ngày nay hoặc còn ở
trong thiên đạo, ở trong tiên đạo còn ở trong A tu la đạo, còn ở trong địa
ngục, còn ở trong ngã quỉ đạo, còn ở trong súc sanh đạo, còn ở trong nhơn
đạo hay còn ở trong bà con quyến thuộc, mười phương ba đời oán thù như
vậy, hoặc oán thù hay không oán thù, mỗi người ấy và bà con quyến thuộc
của các người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả tội chướng, nguyện đều tiêu diệt, tất cả oán thù hoàn toàn giải thoát, kiết tập phiền não
hằng được thanh tịnh, tránh xa bốn ác thú, tự tại thọ sanh, niệm niệm giải
thoát, tâm tâm tự tại, sáu ba la mật đầy đủ trang nghiêm, hạnh nguyện thập
địa, hoàn toàn viên mãn, được mười trí lực ([8]) của Phật, thần thông vô
ngại, chứng quả Bồ đề thành bậc Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đại tràng biết rõ trên đây đã và oán
thù ba đời mà giải oán thích kiết rồi. Từ nay trở xuống, riêng từng cá nhơn
phải tự trong sạch, phải hết lòng cùng nhau tự xét: Vì sao mà không được
giải thoát?
Nghĩ về trước, không thấy được đức Phật đối diện thọ ký cho mình suy sau
cũng không nghe được một pháp âm của Phật phô diễn. Bởi vì tội nghiệp
sâu dày, oán kiết kiên cố cho nên không những không thấy được Phật đời
trước, Phật đời sau, các vị Bồ tát và Hiền Thánh mà còn sợ e không nghe
được âm thanh truyền hưởng vang dội của Tam Tạng kinh điển nữa là khác.
Xa cách Phật pháp thì ác đạo và thù oán không do đâu mà giải thoát. Bỏ thân
mạng nầy rồi chìm xuống biển khổ luân chuyển ba đường trải khắp ác thú,
biết bao giờ trở lại được thân người?
Suy nghĩ như vậy mới thật là đau lòng, tâm tư như vậy mới thật là khổ trí.
Chúng con được hạnh phúc may mắn, mong nhờ thuần phong của Phật, nên
cái ái từ thân xả gia ly tục, không còn tưởng nhớ gì nữa há lại không tranh
thủ thời gian để cầu giải thoát. Nếu ý trí không kiên cường, quyết liệt chịu
khổ, không còn lo sợ, thoạt vậy thân lâm trọng bệnh thân trung ấm hiện ra,
thì ngưu đầu, ngục tốt, la sát, a bàng, hình tướng dễ sợ thình lình tìm đến,
gió phong đao xẻ thân, tinh thần sợ hãi, tán loạn, bà con khóc lóc cũng
không hay biết. Ngay lúc bấy giờ sanh một niệm thiện tâm, cầu lễ sám như
ngày nay cũng không thể được, chỉ thấy vô lượng đau khổ trong ba đường ác
hiện ra.
Ngày nay Đại chúng đều phải nỗ lực tu tập cho kịp thời; nếu cứ tùy ý phóng
túng thì chí hướng thượng phải chậm trễ; cho nên phải cố gắng chịu khổ mà
dõng mãnh tiến lên.
Vì thế trong kinh có dạy: “Từ bi là Đạo tràng vì nhẫn nhục chịu khổ vậy”.
Phát tâm tu theo Đạo tràng nầy thì mọi việc đều xong xuôi”.
Vậy nên biết rằng:”Vạn thiện được trang nghiêm đều nhờ sự cố gắng nhẫn
nại; cũng như muốn qua bể cả, phải nương nhờ ghe thuyền. Nếu có tâm cầu
an vui mà không làm việc gây nhơn cầu vui thì không thể có kết quả an vui.
Lý và sự phải đi đôi với nhau. Người hết lương thực mà chỉ mơ tưởng cao
lương mỹ vị tưởng suông như vậy nào có ích gì cho sự đói khát, cần phải
làm thế nào cho có cao lương mỹ vị thật sự mới được.
Vậy muốn cầu có quả tốt đẹp nhiệm mầu quyết phải lý và sự đồng hành,
không thể thiếu một.
Đại chúng phải cùng nhau sanh tâm tăng thượng, phát ý hổ thẹn mà sám hối
diệt tội giải các oán kiết. Trái lại cứ mê mờ theo thói cũ thì chưa biết ngày
nào tỏ ngộ. Nếu mọi người đều giải thoát mà ta còn trầm luân thì ăn năn
không kịp.
Đại chúng nhất tâm đầu thành đảnh lễ quy y thế gian, Đại từ bi phụ.
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Định nghĩa Phật
Nam mô Thí nguyện Phật
Nam mô Bảo Chúng Phật
Nam mô Chúng Vương Phật
Nam mô Du Bộ Phật
Nam mô An ổn Phật
Nam mô Pháp Sai Biệt Phật
Nam mô Thượng Tôn Phật
Nam mô Cực Cao Đức Phật
Nam mô Thượng Sư Tử âm Phật
Nam mô Lạc Hý Phật
Nam mô Long Minh Phật
Nam mô Hoa Sơn Phật
Nam mô Long Hỷ Phật
Nam mô Hương Tự Tại Vương Phật
Nam mô Đại danh Phật
Nam mô Thiện Lực Phật
Nam mô Đức Man Phật
Nam mô Long Thủ Phật
Nam mô Thiện Hành Ý Phật
Nam mô Nhơn Trang Nghiêm Phật
Nam mô Trí Thắng Phật
Nam mô Vô Lượng Nguyệt Phật
Nam mô Thực Ngữ Phật
Nam mô Nhật minh Phật
Nam mô Dược Vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảt Tam bảo đệ tử
chúng con tên . . . tích tập tội chướng sâu dày hơn đại địa, bị vô minh che
lấp tâm tánh, trong đêm dài mù mịt, do ba độc mà tạo nhơn thù oán, nên mê
muội, chìm sâu trong ba cõi khong có ngày ra.
Ngày nay nhờ sức từ bi của chư Phật, chư đại Bồ tát mới mong giác ngộ,
sanh tâm hổ thẹn chí thành cầu xin tỏ bày sám hối. Nguyện xin chư Phật,
chư đại Bồ tát dủ lòng từ bi thâu nhiếp chúng con, đem sức đại trí huệ, sức
bất tư nghì, sức vô lượng tự tại, sức hàng phục tứ ma, sức diệt trừ phiền não,
sức giải oan, kiết, sức độ thoát chúng sanh, sức an ổn chúng sanh, sức giải
thoát địa ngục, sức tế độ ngã quỉ, sức cứu vớt súc sanh, sức nhiếp hóa A tu
la, sức nhiếp thọ nhơn đạo, sức tận chư Thiên chư Tiên hữu lậu, sức vô
lượng vô biên công đức vô lượng Vô tận trí huệ, nhờ những sức lực ấy khiến
các chúng sanh có oán thù trong bốn loài sáu đường, đồng đến Đạo tràng thọ
lãnh sự sám hối của chúng con hôm nay.
Chúng con tên . . . xả bỏ tất cả sự thù oán, không còn tư tưởng oán thù.
Những nghiệp oán thù đã kết đều được giải thoát. Hằng lìa tám nạn khổ,
không còn bốn ác thú, thường gặp được chư Phật, nghe Pháp, ngộ Đạo, phát
tâm Bồ đề, tu nghiệp xuất thế. Tứ Vô lượng tâm, sáu Ba la mật hết lòng tu
tập, tất cả hạnh nguyện đều được viên mãn, đồng lên Thập địa, đồng vào
Kim cang, đồng thành Chánh giác.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên nhận thấy rằng: Oán
thù theo nhau đều do ba nghiệp ([9]) đày đọa con người tu hành phải chịu
khổ báo, khó chứng đạo quả.
Đã biết nguồn gốc đau khổ đều do ba nghiệp thì phải dõng mãnh diệt trừ ba
nghiệp. Điều kiện thiết yếu dùng để diệt khổ, duy chỉ có phương pháp sám
hối. Cho nên trong kinh Phật khen ngợi rằng: “Ở đời chỉ có hai hạng người
mạnh nhất: Một là hạng người không tạo tội; hai là người tạo tội rồi mà biết
ăn năn, sám hối.
Ngày nay Đại chúng muốn sám hối, thân tâm đều phải trong sạch, y phục
chỉnh tề, sanh lòng hổ thẹn, buồn thảm ảo não, sanh hai niệm tâm thì tội gì
cũng diệt, phước gì cũng sanh.
Những gì là hai?
Một là biết hổ; hai là biết thẹn. Hổ là xấu hổ với trời. Thyẹn là thẹn thùng
với người. Hổ là tự mình hay sám hối, diệt trừ các oán thù. Thẹn là hay dạy
bảo người cởi mở các sự trói buộc. Hổ là hay làm các điều thiện. Thẹn là hay
tùy hỷ các việc thiện của người. Hổ là tự xấu hổ trong tâm. Thẹn là phát lồ,
tỏ bày tội lỗi với người.
Nhờ hai pháp ấy mà người tu hành được pháp an vui vô ngại.
Ngày nay đã sanh tâm đại hổ thẹn, làm lễ đại sám hối, nên phải hết lòng cầu
xin Tứ sanh Lục đạo. Vì sao vậy?
Vì trong kinh Phật dạy rằng: “Tất cả chúng sanh đều là bà con quyến thuộc
với nhau, hoặc đã từng làm cha mẹ, hoặc đã từng làm Sư trưởng, cho đến
hoặc đã từng làm anh em chị em với nhau. Hết thảy chúng sanh đều như thế.
Bởi vô minh che lấp chơn tánh nên không biết nhau. Vì không biết nên hay
sanh ra xúc não và oán thù nhau mãi mãi.
Ngày nay Đại chúng đã hiểu biết ý ấy, nên phải hết lòng thành khẩn tha thiết
dụng tâm, quyết khiến một niệm tâm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn
trừ vô lượng oán thù.
Đại chúng đầu thành đạnh lễ quy y Thế gian đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Định Ý Phật
Nam mô Vô Lượng Hình Phật
Nam mô Minh Chiếu Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Đoạn Nghi Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Bất Hư Bộ Phật
Nam mô Giác Ngộ Phật
Nam mô Hoa Tướng Phật
Nam mô Sơn Chủ Vương Phật
Nam mô Đại Oai Đức Phật
Nam mô Biến Kiến Phật
Nam mô Vô Lượng Danh Phật
Nam mô Bảo Thiên Phật
Nam mô Trú Nghĩa Phật
Nam mô Mãn Ý Phật
Nam mô Thượng Tán Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Vô Cầu Phật
Nam mô Phạm Thiên Phật
Nam mô Hoa Minh Phật
Nam mô Thân Sai Biệt Phật
Nam mô Pháp Minh Phật
Nam mô Tận Kiến Phật
Nam mô Đức Tịnh Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Nam mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam Bảo.
Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ chúng con.
Chúng con tên . . . cầu xin: Những điều sám hối đều được diệt trừ, đều được
thanh tịnh.
Lại nguyện xin cho những người đồng sám hối hôm nay từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, tất cả oán thù đều được giải thoát, tất cả thống khổ đều
được tiêu diệt hoàn toàn; kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh. Xa lìa bốn
ác thú, tự tại thọ sanh đích thân hầu hạ chư Phật, được Phật thọ ký lục độ, tứ
đẳng, nhất thời đồng tu, đủ bốn biện tài, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm
thân, thần thông vô ngại, vào Kim cang tâm. thành bậc Chánh giác.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ NĂM
---HẾT---
[1] 10 phiền não: Tức là 10 sử: Tham, sân, si, mạn, nghi: thân kiến, biên
kiên, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ.
[2] Ngũ kiến: 1- Thân kiến: lầm chấp thân nầy thật có. 2.- Biên kiến: chấp
rhân nầy hoặc chết là hết hoặc chết là còn mãi mãi không luân hồi. 3.- Tà
kiến: không tin nhơn quả, không tin luân hồi hủy báng Tam bảo. 4.- Kiến
thủ: không chịu bỏ ý kiến cũ mặc dầu biết là sai lầm. 5.- Giới cấm thủ: theo
các giới cấm ngoại đạo.
[3] 62 kiến: Đối với năm ấm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) ngoại đạo khởi ra
bốn món chấp: 1- Chấp sắc lớn ngã nhỏ, ngã ở trong sắc. 2- Chấp ngã lớn
sắc nhỏ, sắc ở trong ngã. 3- Chấp ngã ở ngoài sắc, riêng tự tại. 4- Chấp ngã
tức là sắc.
Sắc ấm có 4 chấp. Năm ấm có 20 chấp. Chấp suốt ba đời: quá khứ, hiện tại,
vị lai nhân thành 60 chấp, thêm vào 2 món chấp đoạn, chấp thường nữa
thành ra 62 chấp.
[4] Sơ địa: gọi là Hoan hỷ địa, địa thứ nhất trong hàng thập địa quả vị của
Bồ tát.
Địa này rất vui, vì phát tâm từ bi tu hạnh hỷ xả, nên cảm quả báo ở địa này
thật là vui.
[5] Ba độc: Tham, sân, si.
[6] Tam mật: Thân mật, khẩu mật, và ý mật. Phật lấy tất cả cảnh sắc làm
thân, tất cả âm thanh làm khẩu, tất cả lý tưởng làm ý, và ba điều ấy biến
khắp pháp giới, chỉ riêng Phật đã chứng được nên gọi là Phật.
[7] Vô sanh pháp nhẫn: Nói tắt là vô sanh nhẫn: là cái lý thể thật tướng,
chơn như bất động. Bồ tát từ sơ địa đến bát địa mới chứng được vô sanh
nhẫn, gọi a bệ bạt trí, địa vị bất thối chuyển.
[8] 10 Trí lực của Phật:
1- Trí lực biết chỗ đúng đạo lý hay không đúng đạo lý của sự vật.
2- Trí lực biết nhơn quả nghiệp báo ba đời của chúng sanh.
3- Trí lực biết các môn thiền định giải thoát tam muội.
4- Trí lực biết các căn thắng (hơn) liệt (kém) của chúng sanh.
5- Trí lực biết được sức hiểu biết sai khác của chúng sanh.
6- Trí lực biết mọi cảnh giới sai khác của chúng sanh.
7- Trí lực biết được chỗ sẽ đến của mọi đường chúng sanh.
8- Trí lực biết dùng thiên nhãn không chướng ngại.
9- Trí lực biết được túc mạng vô lậu.
10-Trí lực biết dứt hẳn tập khí.
[9] Ba nghiệp: Hành động củ thân khẩu ý
--- o0o ---
QUYỂN THỨ SÁU
CHƯƠNG THỨ CHÍN : GIẢI OAN THÍCH KIẾT
( Tiếp theo)
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng trước hết là hướng về nơi
tứ sanh lục đạo mà sám hối ác nghiệp của thân.
Kinh dạy rằng:
“Có thân thời có khổ không thân thời không khổ”.
Thế thì thân nầy là nguồn gốc của khổ.
Những ác báo khốc liệt trong ba đường đều do thân mà có. Chứ chưa thấy
việc gì người làm mình chịu, hay mình làm người chịu. Mình làm mình chịu.
Mình gây nhơn mình tự chịu quả.
Nếu tạo thành một nghiệp, tội đã không bờ bến, huống nữa chung thân làm
ác, tội biết bao nhiêu?
Nay ta chỉ biết có thân ta, không biết có thân người, chỉ biết có thân ta đau
khổ, không biết có người đau khổ.
Chỉ biết có ta cầu an vui; không biết người cũng cầu an vui.
Vì ngu si nên chúng ta sanh tâm bỉ ngã, sanh tưởng oán thân, nên có oán thù
cùng khắp lục đạo.
Nếu không giải oán kiết thì biết lúc nào ra khỏi lục đạo; cứ ở mãi trong ấy
kiếp nầy sang kiếp khác, há không đau lòng sao?
Hôm nay Đại chúng khởi tâm dõng mãnh sanh đại hổ thẹn, làm lễ đại sám
hối, quyết lòng khiến một niệm cảm mười phương Phật, một lạy đoạn trừ vô
lượng oán kiết. Đồng nhau một lòng tha thiết đảnh lễ quy y. Thế gian Đại từ
bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Nguyệt Diện Phật
Nam mô Bảo Đăng Phật
Nam mô Bảo Tướng Phật
Nam mô Thượng Danh Phật
Nam mô Tác Danh Phật
Nam mô Vô Lượng Âm Phật
Nam mô Vi Lam Phật
Nam mô Sư Tử Thân Phật
Nam mô Minh Ý Phật
Nam mô Vô Năng Thắng Phật
Nam mô Công Đức Phẩm Phật
Nam mô Nguyệt Tướng Phật
Nam mô Đắc Thế Phật
Nam mô Vô Biên Hạnh Phật
Nam mô Khai Hoa Phật
Nam mô Tịnh Cấu Phật
Nam mô Kiến Nhất Thế Nghĩa Phật
Nam mô Dõng Lực Phật
Nam mô Phú Túc Phật
Nam mô Phước Đức Phật
Nam mô Tùy Thời Phật
Nam mô Quảng Ý Phật
Nam mô Công Đức Kỉnh Phật
Nam mô Thiện Tịch Diệt Phật
Nam mô Tài Thiên Phật
Nam mô Khánh Âm Phật
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực
khiến tất cả chúng sanh có oán thù trong tứ sanh lục đạo đồng đến đạo tràng.
Mọi người trong Đại chúng đều sám tạ, tâm niệm miệng nói lời như thế nầy:
Chúng con tên . . . từ vô thỉ vô minh trú địa (1) trở lại cho đến ngày nay, do
vì nhân duyên ác nghiệp của thân, hoặc đối với các cõi trời, cõi người mà gây thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la loài địa ngục mà gây thù kết oán;
nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, và hết thảy Hiền Thánh lực, khiến
các chúng sanh có tâm oán hận ba đời, ở trong tứ sanh lục đạo, hoặc có oán
thù hay không phải oán thù hoặc khinh hoặc trọng, nhờ sự sám hối hôm nay
mà tội lỗi đều tiêu diệt, thân tâm được thanh tịnh, không còn chịu đau khổ
trong ba cõi. Sanh ra nơi nào cũng thường gặp được chư Phật.
Lại nữa, những người hiện đồng sám hối hôm nay, từ vô thỉ sanh tử trở lại
cho đến ngày nay vì nhơn duyên ác nghiệp của thân mà gây oán kết thù với
hết thảy chúng sanh trong ác đạo; hoặc do vì sân hận, hoặc do vì tham ái,
hoặc do vì ngu si, từ ba độc căn (2) ấy mà sanh ra mười ác nghiệp: ưa giết
hại cầm thú, đoạn mạng trâu dê v.v... hoặc vì ruộng vườn, hoặc vì nhà cửa,
hoặc vì tiền tài, trở lại giết hại lẫn nhau. Lại nữa, từ vô thỉ trở lại cho đến
ngày nay, hoặc vì lợi dưỡng mà giết lầm chúng sanh, hoặc giả làm thầy
thuốc châm chích bách tánh, những tội như vậy, oán thù vô lượng; ngày nay
sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, từ vô thỉ cho đến ngày nay, hoặc làm chúng sanh đói khát, hoặc
giựt lương thực của người, hoặc bức ép chúng sanh uống mặn, nuốt đắng,
hoặc đoạn nước uống của người; bao nhiêu nghiệp ác như vậy, sanh ra oán
thù, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, xa lìa minh sư thân cận bạn ác, do
thân ba nghiệp tạo bao nhiêu tội, buông lòng giết hại người vô tội cách yểu
uổng; hoặc phá triệt ao hồ, bít lấp ngòi rãnh, não hại các loài lớn bé dưới
nước, hoặc thiêu đốt núi rừng, hoặc bủa giăng chải lưới sát hại tất cả chúng
sanh dưới nước. Oán thù như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối
nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ cho đến ngày nay, tâm không từ bi, hạnh không bình đẳng,
vặn căn bẻ móc, vào già ra non, (đong đầy gạt lưng) xâm lấn người hèn hạ,
hoặc phá hoại làng xóm của người, dành giựt cướp đoạt, cắp trộm của người
để cung cấp cho mình, thiếu lòng thành tín, sát hại lẫn nhau. Những oán thù
như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay tâm không từ bi, hạnh không từ bi,
đối với chúng sanh trong sáu đường làm đủ mọi điều khổ sở, hoặc đánh đập
bà con, không kể đạo tình quyến thuộc, hoặc trói buộc giam cầm ngục tối,
hoặc tra khảo ngửa nghiêng, đâm bắn thương tích, hủy hoại thân thể, chém
chặt tàn hại, lột da xẻ thịt, nấu nướng chiên xào.
Những oán thù như vậy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do ba ác nghiệp của thân, bốn ác
nghiệp của miệng, ba ác nghiệp của ý, tạo ra những tội tứ trọng (3) ngũ
nghịch, bao nhiêu điều ác đều làm hết.
Tự ỷ mình tuổi cao mạng lớn, không sợ quỉ thần, chỉ sợ mình không hơn
người, sợ người hơn mình, hoặc ỷ thế cao dòng lớn họ mà khinh người ngạo
vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc ỷ mình nghe nhiều hiểu rộng mà khinh
người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì văn chương kỹ nghệ mà
khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì khoe giàu, xa xỉ mà
khinh người ngạo vật, gây ra oán thù như vậy, hoặc vì ăn nói sắc xảo mà
khinh người ngạo vật gây ra oán thù như vậy.
Những oán thù ấy hoặc đối bên hình tượng Phật Thánh, không tâm cung
kính mà sanh ra, hoặc đối với Hòa thượng, A xà lê mà sanh ra, hoặc đối với
các bậc Thượng tọa, Trung tọa, Hạ tọa chung ở với nhau mà sanh ra; với
quyến thuộc của những người đồng tu học mả sanh ra, hoặc đối với cha mẹ
bà con thân thích mà sanh ra.
Những oán thù như vậy, vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa từ vô thỉ đến ngày nay, hoặc đối với các loài trời, loài người mà
sanh thù kết oán, hoặc đối với loài a tu la, loài địa ngục mà sanh thù kết oán,
hoặc đối với các loài súc sanh, loài ngã quỉ mà sanh thù kết oán, rộng ra cho
đến đối với hết thảy các loài chúng sanh trong mười phương mà gây thù kết
oán.
Những tội ác ấy vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, hoặc vì tật đố,
hoặc vì siểm khúc để cầu cho mình hơn người, hoặc vì danh dự, hoặc vì
quyền lợi mà theo ngoại đạo tà kiến không biết hổ thẹn, gây thù kết oán như
vậy, hoặc nặng hoặc nhẹ, tội nhơn khổ quả, số lượng nhiều ít, chỉ có chư
Phật, chư đại Bồ tát mới thấy hết biết hết.
Nguyện xin chư Phật Đại Bồ tát dủ lòng thương xót chúng con. Như chúng
con từ vô thỉ trở lại đây đã tạo ra bao nhiêu tội lỗi, koặc tự làm, hoặc dạy
người làm, hoặc thấy người làm sanh tâm tùy hỷ; hoặc chúng con tự lấy của
Tam bảo, hoặc dạy người lấy của Tam bảo, hoặc thấy người lấy mà sanh tâm
tùy hỷ, hoặc có che dấu hoặc không che dấu, các tội nói trên, như chỗ chư
Phật, chư đại Bồ tát đã thấy, đã biết, tội lượng nhiều ít, đáng đọa địa ngục,
ngã quỉ, súc sanh, sa vảo các đường ác, biên địa hà tiện để chia các oán thù,
ngày nay chúng con sám hối nguyện xin trừ diệt hết.
Thần lực của chư Phật không thể nghĩ bàn, xin Phật dủ lòng từ bi cứu vớt
hết thảy chúng sanh.
Chúng con tên . . . nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng hết
thảy bà con quyến thuộc mà sám hối tội đã làm cởi mở oán thù. Nguyện xin
Tam bảo khiến hết thảy chúng sanh trong lục đạo, có tâm oán thù chúng con,
đều hoan hỷ xả bỏ tất cả oán thù, không còn sanh tâm phân biệt oán thân, đối
với nhau đều vô ngại như hư không.
Nguyện xin từ nay cho đến ngày thành Phật đoạn trừ hết kiết tập phiền não .
. .
Ba nghiệp thanh tịnh không còn oán hận, tùy ý sanh lên thiên cung bảo điện,
tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường hay tu hành, trăm phước nghiêm thân,
vạn thiện đầy đủ, an trú vào nơi đại định Thủ Lăng Nghiêm, chứng thân kim
cang. Trong khoảng một niệm, hiện thân khắp sáu đường, tế độ hết thảy
chúng sanh đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
Hôm nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã sám hối được thân tội,
thì thân nghiệp được thanh tịnh. Còn lỗi của khẩu nghiệp nay phải sám hối.
Khẩu nghiệp là cái họa môn của hết thảy oán thù. Cho nên các đức Phật đều
dạy không được nói hai lưỡi, nói lời hung ác, nói dối, nói thêu dệt. Nên biết
lời nói dua nịnh quanh co, hoa mỵ hay đem lại thị phi tai họa không phải là
ít, mắc phải quả báo rất nặng.
Than ôi! người đời, tâm ôm lòng ác độc, miệng nói lời ác độc, do ba điều ấy
mà hại chúng sanh, chúng sanh bị độc hại liền kết oán hận, thề quyết báo
thù, hoặc đời nầy toại nguyện, hoặc chết rồi mang theo. Chúng sanh kết oán
như vậy khắp cả lục đạo để báo thù nhau, không bao giờ cùng tận.
Báo thù nhau như vậy đều do túc nghiệp đời trước đã gây ra, chớ không phải
vô cớ, không có nguyên nhơn.
Thân ba nghiệp, miệng bốn nghiệp. Những nghiệp ấy mới thật là nguồn gốc
của tội ác.
Người tại gia không trung hiếu chết vào núi Thái sơn, chịu sự thảm khốc của
lửa nóng nước sôi. Người xuất gia không vì Phật pháp sau sẽ sanh về chỗ
của người ác thường ở để chịu oán thù. Oán thù theo nhau như thế đều do ba
nghiệp.
Trong ba nghiệp ấy khẩu nghiệp nặng nhất, cho nên phải mắc đủ thứ quả
báo đau khổ, trong đêm dài mù mịt mà không hay không biết.
Ngày nay Đại chúng trong đồng nghiệp trong Đạo tràng biết rằng chúng ta
sở dĩ luân hồi mãi trong lục đạo đều do khẩu nghiệp, hoặc buông lời khinh
khi thô tháo, miệng nói sắc xảo biện bác xảo lanh, nói lời phủ phiếm, dối trá
quỉ quyệt, lời nói không đi đôi với việc làm, nên mắc phải ác báo nhiều kiếp
không thôi.
Vậy Đại chúng đâu có thể không sợ hãi, không hết lòng sám hối, không tẩy
trừ tội lỗi ấy đi.
Chúng con từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay khẩu nghiệp bất
thiện, không tốt đối với tứ sanh lục đạo, cha mẹ Sư trưởng tất cả bà con,
không có điều ác gì của các người ấy mà chúng con không tuyên truyền.
Chúng con nói lời thô xẳn phát tiếng bạo hạnh hủy báng chê bai, bạn bè chơi
nhỏi nhóm họp mà nói xấu, nói lời vô nghĩa. Chỉ không nói có, chỉ có nói
không, thấy nói không thấy, không thấy nói thấy. Nghe nói không nghe,
không nghe nói nghe, làm nói không làm. không làm nói làm.
Nói ngược nói xuôi như vậy, đảo lộn trời đất, để lợi mình hại người dèm chê
lẫn nhau.
Nói đến mình thì bao nhiêu phước đức đều quy tụ về cho mình. Nói đến
người thì bao nhiêu đều ác độc đều đổ xô về cho người.
Cho đến khen chê tố cáo Thánh Hiền, so lường vua tôi, cân nhắc cha con, cơ
hiềm Sư trưởng, hủy báng thiện tri thức, vô đạo, vô nghĩa, không ngó lại tai nạn u ách ở đời tán hình mất mạng, đời sau thống khổ vĩnh kiếp mắc phải
quả báo ác.
Vả chăng vừa cười giỡn đó, trong khoảnh khắc liền chịu vô lượng trọng tội,
huống nữa, dùng lời ác mà làm hại cho tất cả.
Đệ tử chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay do khẩu ác nghiệp, đối
với các loài trời, loài người mà có oán thù đối với loài a tu la loài địa ngục
mà oán thù, đối với loài ngã quỉ, loài súc sanh mà có oán thù, đối với cha
mẹ, Sư trưởng và tất cả bà con mà có oán thù, đệ tử chúng con tên . . . do
lòng từ bi, đồng tu như Bồ tát, đồng nguyện như Bồ tát, xin thay thế cho tất
cả chúng sanh mà đảnh lễ quy y, thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Tịnh Đoạn Nghi Phật.
Nam mô Vô Lượng Trì Phật.
Nam mô Diệu Lạc Phật
Nam mô Bất Phụ Phật.
Nam mô Vô Trú Phật.
Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.
Nam mô Chúng Thủ Phật.
Nam mô Thế Quang Phật.
Nam mô Đa Đức Phật.
Nam mô Phất Sa Phật.
Nam mô Vô Biên Oai Đức Phật.
Nam mô Nghĩa Ý Phật,
Nam mô Dược Vương Phật.
Nam mô Đoạn Ác Phật.
Nam mô Vô Nhiệt Phật.
Nam mô Thiện Điều Phật.
Nam mô Danh Đức Phật.
Nam mô Dõng Đức Phật.
Nam mô Hoa Đức Phật.
Nam mô Kim Cang Quân Phật.
Nam mô Đại Đức Phật
Nam mô Tịch Diệt Ý Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Na La Diên Phật
Nam mô Thiện Trú Phật
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Diệu Âm Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hêt thảy Tam bảo.
Nguyện xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực, khiến tất cả
chúng sanh trong tứ sanh lục đạo giác ngộ trở lại mà đến Đạo tràng.
Nếu người nào có thân hình bị câu thúc trở ngại, có tâm mà không đến được
nguyện, Xin nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, Hiền Thánh lực thâu nhiếp
tinh thần của những người ấy khiến tất cả đều đến được Đạo tràng nầy, thọ
lãnh sự sám hối khẩu nghiệp của chúng con; từ vô thỉ vô minh trú địa trở lại
cho đến ngày nay vì nhơn duyên của nghiệp ác khẩu, đối với chúng sanh
trong lục đạo, tạo ra đủ mối oán thù, nguyện xin nhờ sức oai thần của Tam
bảo khiến cho tất cả oán thù kết lại trong ba đời của tứ sanh lục đạo, nhơn
sám hối nầy mà được trừ diệt.
Chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay hoặc vì sân khuể, hoặc
vì tham ái, hoặc vì ngu si, từ ba độc căn, tạo mười ác hạnh, do bốn ác nghiệp
của miệng tạo ra vô lượng tội. Hoặc do ác khẩu mà não loạn cha mẹ, Sư
trưởng quyến thuộc, và tất cả chúng sanh; hoặc đối với cha mẹ khởi ra
nghiệp nói dối; hoặc đối với Sư trưởng khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với
quyến thuộc khởi ra nghiệp nói dối; hoặc đối với tất cả chúng sanh khởi ra
nghiệp nói dối, hoặc thấy nói không thấy, không thấy nói thấy; hoặc nghe
nói không nghe, không nghe nói nghe; hoặc biết nói không biết, không biết
nói biết; hoặc vì kiêu mạn, hoặc vì tật đố khởi ra nghiệp nói dối.
Những tội ác như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ
diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay khởi ra nghiệp hai lưỡi, thọ lãnh
lời ác của người khác không thể che giấu; đến người nầy nói người kia, đến
người kia nói người nầy; làm cho người nầy chia rẽ người kia, làm cho
người kia đau khổ; hoặc vì cười giỡn, làm cho hai bên đấu tranh nhau, cốt
nhục chia lìa; phá quyến thuộc của người, sàm loạn quân thần nhiễu hại tất
cả.
Những tội như vậy vô lượng vô biên ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tạo tội ỷ ngữ, nói lời vô nghĩa, lời
không lợi ích hoặc làm phiền não cha mẹ; hoặc làm phiền não Sư trưởng;
hoặc làm phiền não bạn đồng học, cho đến đối với hết thảy chúng sanh trong
lục đạo khởi tâm não hại.
Như vậy khẩu nghiệp khởi ra oán thù vô lượng vô biên ngày nay sám hối
nguyện xin trừ diệt.
Nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực và hết thảy Hiền Thánh lực, ngày
nay chúng con sám hối, khiến cho tất cả oán thù ba đời trong bốn loài sáu
đường, hết thảy sự gây thù kết oán hoàn toàn giải thoát, bao nhiêu tội nghiệp
đều tiêu trừ, hoàn toản không trở lại gây thù kết oán nữa, không đọa trở lại
trong ba đường ác nữa, rốt ráo không trở lại trong lục đạo hòng làm khổ sở
độc hại nhau nữa.
Từ nay trở đi xả bỏ tất cả oán thù không còn phân biệt oán, thân, tất cả đều
hòa hiệp như nước và sữa, tất cả đều hoan hỷ như ỏ sơ địa hằng làm pháp
thân, từ bi quyến thuộc.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không còn trở lại chịu quả báo trong
ba cõi, đoạn ba nghiệp chướng, trừ năm bố úy, tứ vô lượng tâm, lục ba la
mật tăng tấn thâm tu, hành đạo đại thừa, vào trí huệ Phật. Hết thảy hạnh
nguyện đầy như biển cả. Lục thông, Tam minh, thảy đều thông suốt, chứng
pháp Tam mật đủ năm phần pháp thân, pháp kim cang huệ, thành quả chủng
trí.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã được sám hối thân
nghiệp rồi; khẩu nghiệp rồi; thứ lại sám hối ý nghiệp cho được thanh tịnh.
Hết thảy chúng sanh luân hồi sanh tử, không được giải thoát đều do ý
nghiệp.
Thập ác ngũ nghịch kiết tập kiên cố quyết định đều do ý nghiệp. Cho nên
Phật dạy rằng: Không đọan được tham dục sân nhuế và ngu si tà kiến, thì
sau phải đọa địa ngục chịu khổ vô cùng. Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau
nhận thấy rằng: cái tâm nó thức đẩy cái thức làm việc cũng như vua chỉ huy
tất cả đình thần.
Miệng nói lời ác, thân làm việc ác, nên hay chiêu tập quả báo đau khổ kịch
liệt trong sáu đường.
Nên biết rằng: Thân bị hủy diệt tan mất, việc ấy do tâm tạo. Nay muốn sám
hối trước phải đoạn trừ cái tâm, sau mới đánh dẹp cái ý. Vì cớ gì vậy? Kinh
dạy rằng: “Chế ngự tâm lại một chỗ thì việc gì cũng xong”.
Vậy thì tâm trong sạch, đó là nguồn gốc của giải thoát; ý thanh khiết, đó là
nền tảng của tiến hóa.
Được như thế, thì quả báo kịch liệt nơi tam đồ không lại, mà thống khổ vô
cùng trong ác đạo cũng chẳng qua. Nhưng thân nghiệp, khẩu nghiệp thô
thiển bên ngoài dễ trừ. Ý nghiệp rất vi tế bên trong thật là khó trừ. Như Lai
là bậc Đại Thánh, nhất thế trí. Nhơn đối với thân, khẩu, ý mới không cần giữ
gìn, phàm phu ngu muội mê lầm, dám không cẩn thận hay sao?
Nếu không đánh dẹp ba nghiệp làm cho ba nghiệp thanh tịnh thì chưa thấy
được điều lành của ba nghiệp.
Vì thế nên kinh dạy rằng: “Phòng ngừa cái ý như canh gác cửa thành, giữ
gìn cái miệng như bưng kín miệng bình”.
Như thế, chúng con đâu dám không giữ gìn ba nghiệp hay sao. Chúng con từ
vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thọ thân nầy do vô minh phát khởi ra ái dục,
làm cho thêm lớn đường sanh tử và cũng hay làm điều đủ mười hai điều đau
khổ (4) tám tà (5) tám nạn, luân hồi lưu chuyển trong tam đồ lục đạo, không
có chỗ nào là không trải qua. Chịu vô lượng khổ trong những chỗ như vậy
đều do ý nghiệp cấu tạo sanh ra oán thù. Ý nghiệp niệm niệm phan duyên,
chưa từng tạm xả, kích động lục căn, chạy khắp ngũ thể. Những ác nghiệp
nặng hay nhẹ đều do ý tạo ra cả.
Nếu thân và khẩu chưa vừa ý thì tâm càng thêm giận dữ độc ác, bèn sát hại
nhau, không thương xót.
Như chúng con hơi có chút ghẻ ngứa đã không thể chịu được, giả sử việc ấy
ở nơi người khác thì cho sự đau khổ không bao nhiêu.
Thấy lỗi của người lòng muốn tuyên truyền nói ra, tự mình có lỗi không
muốn người khác nghe biết. Có tâm niệm như vậy thật là xấu hổ.
Lại nữa ý khởi sân hận là mở đường rộng lớn, rước oán tặc vào tâm. Sở dĩ
trong kinh Phật dạy rằng: “Giặc cướp công đức không gì hơn sân khuể”.
Lại nữa kinh Hoa Nghiêm dạy rằng:
Phật tử khởi lên một niệm sân tâm, thì trong tất cả ác tâm không có tâm nào
ác hơn nữa.
– Vì sao vậy?
– Vì khởi lên một niệm sân thì phải chịu một trăm ngàn vạn sự chướng
ngại.
Chướng không thấy Bồ đề
Chướng không nghe được chánh pháp
Chướng làm cho sanh vào đường ác
Chướng sanh ra nhiều tật bệnh.
Chướng bị người hủy báng.
Chướng sanh ra ám độn.
Chướng làm mất chánh niệm.
Chướng làm cho ít trí huệ.
Chướng làm cho gần ác tri thức.
Chướng không ưa việc hiền lành.
Chướng làm cho xa chánh kiến.
Cho đến xa lìa chánh giáo của Phật, vào cảnh giới của ma, trái với thiện tri
thức, các căn khiếm khuyết, sanh vào các nhà làm nghiệp ác, ở nơi biên địa.
Những chướng như vậy đều do sân hận, nhiều không thể kể xiết.
Chúng con từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, lẽ ra cũng có vô lượng vô biên
ác tâm sân hận cho đến khởi sân hận không kể gì bà con họ hàng, huống nữa
là đối với các chúng sanh trong lục đạo. Cho đến do sân hận mà gây ra phiền
não mãnh liệt độc ác mà mình không tự biết. Chỉ về phần sự tướng bên
ngoài không thực hiện được như ý muốn, chớ về tâm tưởng thì không có
việc gì tâm không nghĩ đến.
Giá như điều ác gì tâm đã nghĩ được, đã thực hiện được như ý muốn thì
không ai là không khỏi bị khốn khổ.
Bởi thế cho nên một phen thiên tử (vua) nổi giận thì thây phơi đầy đường
ngàn dặm.
Từ vua trở xuống thì tự do ngang tàng quấy nhiễu chúng sanh, đánh đập, trói
buộc những người có tội. Ngay lúc bấy giờ thì không thể chỉ vào đâu mà nói
rằng: ta làm lành được, chỉ sợ đánh người không đau, không nặng, không
khốc liệt mà thôi. Đó là sự ác độc của ý nghiệp chung cho tất cả loài hữu
tình, trí ngu đều không khỏi. Giàu sang nghèo hèn như nhau mà chưa có một
ngày nào biết hổ thẹn ăn năn. Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo
tràng nhận thấy phiền não sân hận của ý nghiệp rất sâu kín. Dầu chúng ta có
muốn xả bỏ, nhưng gặp cảnh nó cũng sanh tâm, cùng với ác ý hoạt động,
niệm niệm xúc chạm nhau, biết lúc nào thoát ly được khổ não ấy. Đại chúng
đã biết tội nầy không thể để yên vậy mà không lo sám hối, thì ngày nay phải
khấu đầu lễ bái, tỏ hết lòng thành sám hối tội sân hận, nguyện xin trừ diệt.
Mọi người phải đầu thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Vô Sở Phụ Phật.
Nam mô Nguyệt Tướng Phật.
Nam mô Điện Tướng Phật.
Nam mô Cung Kỉnh Phật.
Nam mô Oai Đức Thủ Phật.
Nam mô Trí Nhật Phật.
Nam mô Thượng Lợi Phật.
Nam mô Tu Di Đảnh Phật.
Nam mô Trị Oán Tặc Phật.
Nam mô Liên Hoa Phật.
Nam mô Ứng Tán Phật.
Nam mô Trí Thứ Phật.
Nam mô Ly Kiêu Phật.
Nam mô Na La Diên Phật.
Nam mô Thường Lạc Phật.
Nam mô Bất Thiểu Quốc Phật.
Nam mô Thiên Danh Phật.
Nam mô Kiến Hữu Biên Phật.
Nam mô Thâm Lương Phật.
Nam mô Đa Công Đức Phật.
Nam mô Bảo Nguyệt phật.
Nam mô Sư Tử Tướng Phật.
Nam mô Nhạo Thuyền Phật.
Nam mô Vô Sở Thiểu Phật.
Nam mô Du Hý Phật.
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát.
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo, đem từ bi lực, vô lượng vô biên tự tại lực, nạp thọ chúng con tên . . . ngày nay hướng về tứ sanh lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng,
hết thảy bà con mà sám hối bao nhiêu oán thù do ý nghiệp đã kết lại, hoặc có
oán thù hay không phải oán thù, hoặc khinh hoặc trọng những oán đã kết rồi,
nguyện xin sám hối trừ diệt, những oán chưa kết quyết không dám kết.
Nguyện xin nhờ sức Tam bảo đồng gia tâm nhiếp thọ, thương xót, che chở
cho chúng con được giải thoát.
Đệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, do vì nhơn
duyên ác nghiệp của ý, nên đối với tứ sanh, lục đạo, cha mẹ, Sư trưởng và
tất cả bà con, mà kết các oán thù, hoặc khinh hoặc trọng, ngày nay hổ thẹn,
tỏ bày sám hối, nguyện xin trừ diệt tất cả oán thù.
Lại từ vô thỉ cho đến ngày nay, y nơi gốc ba độc, khởi ra tâm tham, nhơn nơi
tham sử, khởi ra tham nghiệp, hoặc u ẩn hay hiển hiện, cùng tận hư không
giới, hễ nơi nào, lúc nào thấy người có của thì sanh tâm ác, nghĩ rằng: Ta sẽ
lấy của ấy, cho đến của cha mẹ, của Sư trưởng, của bà con, của hết thảy
chúng sanh, của chư Thiên, của chư Tiên, những của ấy đều cho là thuộc về
ta cả.
Tội ác như thế vô lượng vô biên, ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa, tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, khởi ra sân nghiệp ngày đêm
luôn luôn thiêu đốt thân tâm không có một giờ phút nào tạm thời dừng nghỉ.
Có chút gì không bằng lòng, liền nổi giận đùng đùng, đem chúng sanh ra mà
não hại đủ điều, hoặc roi gậy đánh đập, hoặc nhận chìm xuống nước, cho
đến dùng cách xua đuổi, (bức bách) bỏ đói khát, trói buộc, treo lên trên cao
hay nhốt vào phòng tối cho đến chết.
Những tội sân hận như thế vô lượng vô biên, gây ra oán thù không thể kể
xiết, ngày nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, tùy thuận vô minh, làm những
việc ngu si tạo tất cả điều ác; không có trí huệ chân chánh, tin theo lời tà, thọ
lãnh pháp tà, những nghiệp si mê như vậy tạo ra oán thù vô lượng vô biên,
ngày nay sám hối, nguyện xin trử diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, làm mười tà đạo (6), kết hết thảy
oán thù, tạo tất cả ác nghiệp, niệm niệm phan duyên, chưa từng tạm xả, kích
động sáu căn khởi các kiết nghiệp, hoặc thời thân khẩu chưa thỏa mãn thì tâm càng thêm độc ác, cho đến giỡn cười, gây ra thị phi. Không dùng tâm
ngay thẳng làm việc theo người thường ôm lòng siểm khúc không biết hổ
thẹn.
Những tội như vậy, vô lượng vô biên, ở trong lục đạo, chịu đại khổ não,
ngày nay sám hối, nguyện xin trừ diệt.
Đệ tử chúng con tên . . . từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân nghiệp bất
thiện, khẩu nghiệp bất thiện, ý nghiệp bất thiện. Những ác nghiệp như vậy
đối với Phật khởi ra tất cả tội chướng, đối với Pháp khởi ra tất cả tội chướng,
đối với Bồ tát và Hiền Thánh khởi ra tất cả tội chướng. Những tội chướng
như vậy vô lượng vô biên, ngày nay chí thành cầu xin sám hối, nguyện xin
trừ diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, thân ba ác nghiệp, miệng bốn ác
nghiệp, ý ba ác nghiệp, tạo ra tất cả tội ngũ nghịch, tứ trọng, ngày nay sám
hối nguyện xin trử diệt.
Lại nữa từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, sáu căn, sáu trần, sáu thức, vọng
tưởng điên đảo, phan duyên các cảnh, tạo ra tất cả các tội, ngày nay sám hối
nguyện xin trừ diệt.
Lại nữa tử vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, đối với nhiếp oai nghi giới (7),
nhiếp thiện pháp giới (8), nhiếp chúng sanh giới (9), phần nhiều có hủy
phạm, sau nầy thân hoại mạng chung phải đọa ba đường ác, ở trong địa ngục
chịu vô lượng vô biên hằng sa thống khổ. Sau lại đọa vào ngã quỉ sẽ ngu si,
không hiểu biết gì, thường bị đói khát, chịu các nhiệt não, rồi lại đọa làm súc
sanh chịu vô lượng khổ, ăn uống thật bất tịnh, cơ hàn khốn khổ. Tội hết
được sanh làm người, đọa vào nhà tà kiến, tâm thường siểm khúc, tin lời Tà,
mất chánh đạo, chìm vào biển sanh tử không hẹn ngày ra.
Tất cả tội ác, oán thù ba đời như thế nói không thể xiết, chỉ có chư Phật mới
thấy hết biết hết. Như chỗ chư Phật đã thấy đã biết, tội báo nhiều ít, ngày
nay sám hối nguyện xin trừ diệt.
Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát đem đại từ bi lực, đại thần thông lực,
như pháp điều phục chúng sanh lực khiến chúng con tên . . . ngày nay sám
hối tất cả oán thù liền được trừ diệt. Hết thảy chúng sanh trong lục đạo đã
chịu trả oán thù rồi, hay chứa chịu trả oán thù, nguyện xin nhờ sức đại từ bi
lực của chư Phật, chư đại Bồ tát và tất cả Hiền Thánh khiến hết thảy kẻ oán thù ấy hoàn toàn giải thoát. Từ nay trở đi cho đến ngày chứng quả Bồ đề, tất
cả tội chướng hoàn toàn thanh tịnh không sanh vào đường ác, sanh về tịnh
độ, bỏ sống oán thù, được sống trí huệ, bỏ thân oán thù được thân kim cang,
bỏ ác đạo khổ, được Niết bàn vui, nhớ ác đạo khổ, phát bồ đề tâm, tứ đẳng
lục độ thường được hiện tiền tứ biện lục thông được tự tại như ý, dõng mãnh
tinh tấn, không thôi không nghỉ tu lên cho đến mãn hạnh thập địa, trở lại độ
thoát vô biên chúng sanh.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện xin cho tất cả
chúng sanh đời quá khứ, đời hiện tại và cùng tận đời vị lai ở trong bốn loài,
sáu đường, đều được nhờ sự sám hối hôm nay mà thanh tịnh, đồng được giải
thoát, đồng đủ trí huệ, thần thông tự tại. Nguyện xin cho các chúng sanh ấy
từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thường thấy được pháp thân của chư
Phật khắp mười phương, tận hư không giới, thường thấy thân tử ma kim sắc,
ba mươi hai tướng tốt và tám chục vẻ đẹp của chư Phật, phân tán ra khắp
mười phương cứu độ chúng sanh; thường thấy chư Phật phóng bạch hào
tướng quang ở giữa chặn mày, tế độ chúng sanh đau khổ trong địa ngục.
Lại nguyện xin cho Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, nhờ công đức
nhơn duyên sám hối thanh tịnh hôm nay mà từ nay trở đi bỏ thân nầy thọ
thân khác, cũng không vào trong địa ngục để chịu những thống khổ, tiêu
hình hoại thể, trong vạc nước sôi, lò lửa nóng không trải qua đường ngã quỉ
mà chịu các thống khổ đói khát; cổ nhỏ bằng kim, bụng to bằng trống chầu;
không trải qua đường súc sanh để đền nợ cũ, trả mạng xưa, chịu các sự
phanh thây xẻ thịt, lôi kéo khốn khổ.
Nếu ở trong loài người, thì thân không mắc phải bốn trăm lẻ bốn bệnh khổ
não, không chịu khổ đại hàn đại nhiệt khó nhẫn nại; không chịu khổ vì đao
gươm, roi gậy đánh đập, thuốc độc, não hại khốn khổ; không gặp phải tai
nạn đói khát khốn khổ.
Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi giữ giới trong sạch, không làm ô uế
đạo tâm, thường tu nhơn nghĩa, niệm tưởng báo ơn, cúng dường cha mẹ như
cúng dường Phật không khác, phụng sự Sư trưởng như đối chư Phật, kính
trọng quốc chủ như thường trú Pháp thân, đối với mọi người như mình
không khác.
Lại nguyện xin Đại chúng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, hiểu thấu
nghĩa lý sâu mầu của chư Phật, tâm trí không sợ hãi, rõ thông đại thừa,
thông suốt chánh pháp liền tự khai giải, không phải nhờ ai chỉ bày, một lòng kiên cố cầu đạo Bồ đề trở lại hóa độ vô biên chúng sanh, đồng như bậc chư
Phật thành bậc chánh giác.
Ngày nay Đại chúng ẩn thân hay hiện thân trong Đạo tràng xin chứng minh
cho lời phát nguyện mảy mọc sau nầy:
Chúng con tên . . . chánh nguyện:
Nguyện sanh về cảnh của thánh nhơn ở, thường hay kiến lập Đạo tràng,
hưng hiển cúng dường, làm lợi ích rộng lớn cho tất cả chúng sanh. Nguyện
thường được Tam bảo từ bi nhiếp thọ, thường có thế lực giáo hóa dìu dắt
được dễ dàng, thường tu hành tinh tấn, không say đắm cục lạc ở đời; thường
biết các pháp đều không có tự tánh; đối với người oán kẻ thân đều đem điều
lành bình đẳng hóa độ cho đến Bồ đề tâm không thối chuyển.
Từ nay trờ đi, một mảy thiện tâm nào cũng nhờ thiện lực nầy mà thành tựu.
Lại nguyện sanh trong loài người, sanh vào nhà từ thiện. Lại lập từ bi Đạo
tràng, cúng dường Tam bảo, điều thiện nỏ nhiệm nào cũng đem bố thí hồi
hướng cho tất cả chúng sanh. Nguyện cùng với Hòa thượng, A xà lê chung
lo tu hành, không xa lìa nhau, trường trai khổ hạnh tâm không ái nhiễm,
không lập gia đình, trung tín thanh bạch nhơn nhượng hòa bình, tổn mình lợi
người, không cầu danh lợi. Lại nguyện xin xả thân nầy, không mong giảu
thoát, sanh trong loài quỉ thần; nguyện làm vị đại lực Hộ pháp thiện thần, tế
khổ thiện thần, không cần cơm áo, tự nhiên đầy đủ. Lại nguyện xin xả thân
nầy không mong giải thoát, sanh trong loài súc sanh, thường ở núi sâu hang
thẳm ăn cỏ uống nước không thấy thống khổ, khi ra khỏi rừng thì được an
lành, không bị bắt nhốt trói buộc.
Lại nguyện xin xả thân nầy rồi không mong giải thoát, sanh trong loài quỉ
đói, nguyện thân tâm an vui, không có các điều khổ não, giáo hóa những ngã
quỉ đồng khổ, sám hối tội lỗi, phát tâm Bồ đề.
Lại nguyện xin xả thân nầy không mong giải thoát, sanh vào địa ngục, tự
biết đời trước của mình, giáo hóa những người đồng khổ sám hối tội lỗi phát
tâm Bồ đề.
Đệ tử chúng con tên . . . nguyện thường tự nhớ sự phát tâm Bồ đề, làm cho
tâm Bồ đề tương tục không gián đoạn.
Nguyện xin hết thảy chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền cùng
khắp mười phương, dủ lòng từ bi chứng giám cho chúng con.
Lại nguyện cho chư Thiên, chư Tiên, hộ thế tứ vương, chủ thiện phạt ác, thủ
hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ, chứng giám cho chúng
con chí thành đảnh lễ quy y mười phương Tam bảo.
--- o0o ---
TÁN THÁN PHẬT VÀ CHÚ NGUYỆN
Đại Thánh Thế Tôn,
Nguy nga rực rỡ,
Tam đạt (10) chiếu suốt.
Vua trong các Thánh.
Phân thân tế vật,
Hiện tọa Đạo tràng.
Trời người chiêm ngưỡng,
Thọ pháp vô cùng (11)
Bát âm vang dội (12)
Ma quân kinh hoàng
Oai chấn Đại thiên, (13)
Từ hóa lưu phương. (14)
Bi lực độ khắp,
Thâu nhiếp mười phương
Từ hẳn tám khổ (15)
Đến Bồ đề hương.
Cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư,
Phật Thế Tôn, độ người vô lượng, hết khổ sanh tử.
Nay chúng con xin nhờ công đức nhơn duyên sám hối thanh tịnh và tán thán
chư Phật nguyện cho tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo, từ nay trở đi
cho đến ngày thành Phật
đều nhờ thần lực của Phật mà được tùy tâm tự tại.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ SÁU
--- HẾT ---
1 Vô minh trú địa: Tức là căn bản vô minh, cũng tức là pháp chấp, tức là chỗ
y trú của hết thảy phiền não, tức là cái nguyên nhân của biến dịch, sanh tử
nên gọi là trú địa.
2 Ba độc căn: Gốc ba độc tức là tham sâm si.
3 Tứ trọng: Tội sát, đạo, dâm, vọng là bốn tội nặng nhất.
4 12 điều khổ: Tức là 4 khổ và 8 khổ cộng lại: – 1) Sanh, – 2) lão, – 3) bệnh,
– 4) tử khổ, – 5) ân ái biệt ly,
6) oán thù gặp gỡ, – 7) mong cầu không được, 8) năm ấm nung nấu.
5 Tám tà: Trái với tám chánh đạo: – 1) Tà kiến, – 2) tà tư duy, – 3) tà ngữ, –
4) tà nghiệp, – 6) tà phương tiện, – 7) tà niệm, – 8) tà định.
6 10 Tà đạo: 10 ác nghiệp: sát sanh, trộm, dâm, vọng, ỷ ngữ, ác khẩu, lưỡng
thiệt, tham, sân, si.
7 – Nhiếp oai nghi giới, – 8) Nhiếp thiện pháp giới, – 9) Nhiếp chúng sanh
giới gọi là tam tụ tịnh giới, của Bồ tát cũng như: nguyện đoạn nhất thế ác,
nguyện tu nhất thế thiện, nguyện độ nhất thế chúng sanh.
10 Tam đạt: tức tam minh của A la hán, – Thiên nhãn, túc mạng và lậu tận
minh.
11 Xan bẩm vị ương: Thọ lãnh giáo pháp của Phật không cùng tận.
12 Bát âm: Tám thứ âm thanh của Phật đã chứng được: 1) Cực hảo âm, – 2)
Nhu nhuyến âm, – 3) Hòa thích âm, – 4) Tôn huệ âm, – 5) Bất nữ âm (không
phải âm thanh của nữ nhơn) – 6) Bất ngộ âm, – 7) Thâm viễn âm, – 8) Bất
kiệt âm.
13 Đại thiên: Tức tam thiên, đại thiên thế giới, một núi tu di, một mặt trời,
một mặt trăng, bốn đại châu và núi thiết vi làm một tiểu thế giới – 1.000 tiểu
thế giới gọi là một tiểu thiên thế giới – 1.000 tiểu thiên thế giới gọi là một
trung thiên thế giơí – 1.000 trung thiên thế giới gọi là một đại thiên thế giơí.
Cộng chung lại nói là tam thiên đại thiên thế giới.
14 Từ hóa lưu phương: Từ tâm đức Phật giáo hóa chúng sanh để lại danh
thơm bất tuyệt.
15 Từ hẳn tám khổ: Tám khổ xem ở số 4 quyển 6.
--- o0o ---
QUYỂN THỨ BẢY
CHƯƠNG THỨ MƯỜI : TỰ VUI MỪNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, từ khi quy y trở lại đây,
biết chỗ chí đức là nơi nương tựa của tất cả.
Đoạn nghi, sám hối thì tội ác mê lầm đều tiêu diệt. Tiếp đến phát tâm dùi dắt
nhau tu hành thì cởi mở được oán thù được tiêu diêu tự tại.
Như thế thì Đại chúng há lại không hớn hở vui mừng hay sao?
Nay nói ý nghĩa những điều đáng vui mừng sung sướng thì trong kinh chép
rằng: “Có tám nạn khổ: Một là Địa ngục, hai là Ngã quỉ, ba là Súc sanh, bốn
là Biên địa (1) năm là trường thọ Thiên (2), sáu là tuy được thân người mà
câm điếc, ngọng liệu, tàn tật, bảy là sanh vào nhà Tà kiến (3), tám là sanh
trước Phật hay sau Phật.
Vì có tám nạn ấy nên chúng sanh cứ chìm đắm mãi trong biển luân hồi sanh
tử, không thể ra được.
Nay chúng con sanh nhằm đời tượng pháp tuy không gặp Phật, nhưng sự vui
mừng còn nhiều:
Phàm có nạn là tại tâm, nếu tâm sanh nghi ngờ thì không phải nạn cũng
thành nạn.
Nếu tâm không sanh nghi ngờ thì nạn gì cũng thành ra phi nạn.
Vì sao biết được?
Ví như nạn thứ tám, nói rằng sanh trước Phật hoặc sanh sau Phật là nạn.
Nhưng bà già ở thành đông, đồng sanh với Phật một thời, đồng ở với Phật
một xứ mà bà già ấy không thấy Phật. Cho nên biết rằng tâm nghi ngờ là
nạn, vị tất không đồng thời với Phật mà cho là nạn.
Ma Ba tuần ôm lòng ác động trong khi còn sống đã đọa vào địa ngục.
Rồng nghe thuyết pháp còn ngộ được đạo Bồ đề. Vậy chắc gì ở nhơn gian
hay thiên thượng mà liền cho không có nạn. Tâm nếu biết điều thiện thì quả
báo bình đẳng.
Cõi trời Lục dục là cao quý mà đọa địa ngục, súc sanh là thấp hèn mà lên
được Đạo tràng.
Thế nên tâm tà thì khinh nạn thành trọng tâm chánh thì trọng nạn thành vô
ngại.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng vì tâm nghi nên gặp việc
không phải nạn thành ra nạn. Nếu tâm chánh thì nạn thành phi nạn.
Nay chỉ cử ra một điều ấy cũng đủ hiểu rõ; trước Phật hay sau Phật đều là
Chánh pháp; Biên địa, súc sanh đều là Đạo tràng. Nếu tâm chánh thì không
còn nạn nữa; bằng tâm còn nghi ngờ thì nạn thành ra vô lượng.
Những điều vui mừng như thế sự thật không phải là ít, trong nhật dụng hằng
ngày Đại chúng không tự biết công đức của mình.
Nay tôi sơ lược trình bày qua sự vui mừng theo thiển kiến của tôi để Đại
chúng tự suy nghĩ.
Nếu biết được sự vui mừng của mình thì cần phải tu tâm xuất thế.
Tự vui mừng những gì?
- Phật dạy: “Địa ngục khó thoát khỏi; nay chúng ta đã cùng nhau xa lìa được
khổ Địa
ngục. Đó là sự vui mừng thứ nhất.
- Ngã quỉ khó thoát được; nay chúng ta đã thoát được những thống khổ đói
khát của Ngã quỉ. Đó là sự vui mừng thứ hai.
- Súc sanh khó xả bỏ; nay chúng ta đã thoát được quả báo súc sanh. Đó là
quả báo thứ ba.
- Sinh ở Biên địa, không biết nhơn nghĩa; nay chúng ta đồng được chung ở
giữa quốc độ có Phật, Pháp lưu hành; đích thân thừa hưởng được giáo lý
nhiệm mầu của chư Phật. Đó là sự vui mừng thứ tư.
- Sanh lên cõi trời trường thọ, không biết trồng cội phúc: nay chúng ta ở đây
đều được trồng căn lành. Đó là sự vui mừng thứ năm.
- Thân người khó được, một phen mất khó trở lại; nay chúng ta đều được
làm người. Đó là sự vui mừng thứ sáu.
- Sáu căn không đầy đủ thì không trồng được căn lành, nay chúng ta đều
được thanh tịnh, hướng về pháp môn thâm diệu của Phật. Đó là sự vui mừng
thứ bảy.
- Có thế trí biện thông (4) tức là không phải nạn mà thành nạn. Nay chúng ta
nhất tâm nương về chánh pháp. Đó là sự vui mừng thứ tám.
-Trước Phật sau Phật đều là nạn; hoặc cho rằng mắt mình không thấy Phật là
đại nạn. Nay chúng ta đã cùng nhau phát đại thiện nguyện, thệ độ hết thảy
chúng sanh cùng tận đời vị lai; không chấp việc không thấy Phật là nạn. Chỉ
một phen thấy hình tướng Phật, một phen nghe được Chánh pháp, cũng tự
cho đồng như ngày xưa được thấy được nghe đức Phật thuyết pháp đầu tiên
tại vườn Lộc Uyển. Việc làm của chúng ta mục đích là diệt được tội, sanh
được phước là quý; chứ không phải vì không thấy Phật mà cho là nạn.
- Phật dạy: “Thấy được Phật là khó”. Nay chúng ta đã cùng nhau chiêm
ngưỡng được hình tướng Phật. Đó là sự vui mừng thứ chín.
- Phật dạy: “Nghe được pháp Phật là khó”. Nay chúng ta đã cùng nhau
hưởng được Cam lồ pháp vị của Phật. Đó là sự vui mừng thứ mười.
- Phật dạy: “Xuất gia được là khó”. Nay chúng ta được từ thân cát ái trở về
với Đạo. Đó là sự vui mừng thứ mười một.
- Phật dạy: “Lợi cho mình là dễ, lợi cho người là khó”. Nay chúng ta một
lạy, một bái đều vì tất cả chúng sanh khắp mười phương mà hồi hướng công
đức. Đó là sự vui mừng thứ mười hai.
- Phật dạy: “Chịu khổ, chịu cực được là khó”. Nay chúng ta, mọi người đều
kiều cần, siêng năng làm lành không nghỉ, không biếng nhác. Đó là sự vui
mừng thứ mười ba.
- Phật dạy: “Đọc tụng kinh điển được là khó”. Nay chúng ta giờ phút nầy
đang đọc tụng kinh điển của Phật. Đó là sự vui mừng thứ mười bốn.
- Phật dạy: “Tọa thiền là khó”. Nay chúng ta có người tức tâm định ý. Đó là
sự vui mừng thứ mười lăm.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng thấy có nhiều sự vui
mừng như vậy vô lượng vô biên, không phải bấy nhiêu lời đó mà có thể kể
hết được.
Phàm người ở đời vui ít khổ nhiều. Được một điều vui mừng còn hớn hở
thay, huống gì nay chúng ta có nhiều điều vui vô ngại.
Được vô ngại nầy đều nhờ sức oai thần của mười phương Tam bảo. Chúng
ta mọi người đều nên nhớ tưởng ơn đức Phật, Pháp, Tăng. Đại chúng nên tha
thiết đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện xin thay thế hết thảy Quốc vương,
Đế chúa, Thổ cảnh, nhân dân, cha mẹ, Sư trưởng, thượng, trung, hạ tọa, tín
thí đàn việt, thiện ác tri thức, chư Thiên, chư Tiên, hộ thế Tứ vương, thông
minh chánh trực, Thiên địa, hư không, chủ thiện, phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ
phương Long vương, Long thần, Bát bộ, chư đại Ma vương, ngũ đế Đại ma,
nhất thiết Ma vương, Diêm la vương, Thái sơn Phủ quấn, ngũ đạo Đại thần,
Thập bát Ngục vương và các quan thuộc trong địa ngục; rộng ra cho đến vô
cùng vô tận các loài hữu tình, có thần thức, có Phật tánh trong ba cõi sáu
đường; nguyện vì các chúng sanh ấy mà quy y tận hư không giới hết thảy
mười phương Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, đồng đem thần
lực tự tại bất khả tư nghị mà che trở cứu vớt, ; làm cho hết thảy chư Thiên,
chư Tiên, hết thảy Thần vương, Thần tướng, rộng ra cho đến, hết thảy chúng
sanh trong sáu đường từ đây trở đi vượt khỏi biển sanh tử, đến bờ giải thoát
bên kia, hạnh nguyện sớm viên mãn, đồng lên Thập địa, vào Kim cang tâm,
thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI MỘT : TƯỞNG NHỚ ƠN TAM BẢO
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên nhớ tưởng ơn
Tam bảo. Vì sao vậy?
Bởi vì giả sử như không biết Tam bảo, thì làm sao sanh khởi từ tâm, thương
xót chúng sanh. Giả sử không biết Tam bảo thì làm sao sanh khởi bi tâm,
cứu hộ nhiếp thọ hết thảy chúng sanh. Giả sử không biết Tam bảo thì làm
sao sanh khởi tâm bình đẳng quan sát oán thân như nhau. Giả sử không biết
Tam bảo thì làm sao có được diệu trí chứng đạo vô thượng. Giả sử không
biết Tam bảo thì làm sao hiểu rõ được lý nhị không (Nhơn không, Pháp
không) là chơn không chơn thật, vô tướng mà tu hành.
Phật dạy:
“Thân người khó được, nay đã được, lòng tin khó sanh, nay đã sanh”.
Chúng ta ngày nay nhờ quy y Tam bảo, mắt không thấy sắc lửa phun, cảnh
rút lưỡi ở địa ngục, ngã quỉ; tai không nghe tiếng kêu la nhiệt não, khổ sở ở
cảnh địa ngục, ngã quỉ; mũi không ngửi mùi máu mủ tanh hôi, lột da xẻ thịt
ở cảnh địa ngục, ngã quỉ; lưỡi không nếm mùi hôi thúi, hư nát; thân không
xúc chạm cảnh giá lạnh, lò than hồng, vạc dầu sôi ở địa ngục; ý thường biết
Phật là đấng Cha lành, từ bi vô thượng, là đấng Đại Y Vương; ý biết tất cả
Phật pháp, là thuốc hay để trị bệnh cho tất cả chúng sanh; biết các vị Hiền
Thánh là từ mẫu săn sóc bệnh hoạn cho tất cả chúng sanh. Ý thường biết
nghĩ tưởng Tam bảo là ba ngôi báu ủng hộ thế gian; ý thường tưởng nghĩ gì
chúng ta đều biết được hết.
Chúng ta ngày nay tuy sanh ra không gặp Phật, nhằm đời mạt pháp, nhưng
có đủ tín tâm, sáu căn thanh tịnh, không có suy não, đi lại vừa ý, đứng ngồi
tự do, vô ngại. Những quả báo tốt đẹp ấy đều do duyên lành đời trước, nhờ
ơn Tam bảo khiến phát tâm Bồ đề. Những lợi ích như thế vô lượng vô biên,
không thể kể xiết. Vậy chúng ta há lại không lo báo ơn, cúng dường Tam
bảo hay sao?
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nên biết rằng: Cúng
dường là công đức lớn hơn hết thảy trong tất cả các công đức.
Trong kinh Phật dạy: “Nhớ lại đời quá khứ chỉ chúng dường Tam bảo một
mảy may, nhờ phước báo ấy, nay gặp được Phật Thế Tôn”.
Lại nữa, trong kinh cũng chép rằng: “Nếu muốn được quả báo tốt mà xây
tháp, lập tịnh xá, cúng dầu đèn, tràng phan, bảo cái, hoa hương, nệm gối và
bao nhiêu thứ cúng dường khác v.v... cũng chứa phải là báo ơn đức Phật.
“Muốn báo ơn đức Phật, cần phải phát tâm Bồ đề, lập bốn lời thệ nguyện
rộng lớn, tạo vô lượng duyên lành, trau dồi thâm tâm tu hành Tịnh độ. Ấy là
kẻ trí biết báo ơn đức Phật vậy”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ân đức từ bi vô
lượng của đức Phật không thể báo đáp. Các vị Đại Bồ tát nghiền thân cúng
dường mà còn chưa thể báo ơn đức Phật muôn một, huống gì chúng ta là
phàm phu mà có thể báo ơn đức Phật được sao? Đại chúng chỉ y theo lời
kinh dạy mà làm việc lợi ích cho người là hơn hết. Mọi người nên hết lòng
đầu thành đảnh lễ Tam bảo khắp vì hết thảy chúng sanh, vô cùng, vô tận
trong bốn loài sáu đường mà quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đức Bảo Phật
Nam mô Ưng Danh Xưng Phật
Nam mô Hoa Thân Phật
Nam mô Đại Âm Phật
Nam mô Biện Tài Tán Phật
Nam mô Kim Cang Châu Phật
Nam mô Vô Lượng Thọ Phật
Nam mô Châu Trang Nghiêm Phật
Nam mô Đại Vương Phật
Nam mô Đức cao Hạnh Phật
Nam mô Cao Danh Phật
Nam mô Bách Quang Phật
Nam mô Hỷ Diệt Phật
Nam mô Long Bộ Phật
Nam mô Ý Nguyện Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Phật
Nam mô Diệt Hỷ Phật
Nam mô Hỷ Vương Phật
Nam mô Điều Ngự Phật
Nam mô Hỷ Tự Tại Phật
Nam mô Bảo Kế Phật
Nam mô Ly Úy Phật
Nam mô Bảo Tạng Phật
Nam mô Nguyệt Diện Phật
Nam mô Tịnh Danh Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI HAI :CHỦ SÁM LỄ TẠ ĐẠI CHÚNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau sanh lòng
tin kiên cố phát tâm Bồ đề thề không thối chuyển. Đó là một chí khí có năng
lực mạnh không thể nghĩ bàn. Tâm ấy chí ấy chư Phật rất ngợi khen.
Ngày nay tác giả tôi cũng hết lòng tùy hỷ và nguyện đời sau sẽ được gặp
nhau lại. Xả thân nầy thọ thân khác nguyện không rời nhau, cho đến ngày
thành Phật, hằng làm bà con Phật pháp, quyến thuộc từ bi.
Ngày nay tôi lập ra Pháp Sám nầy như giả dối; trí không sáng suốt, thân trái
với hạnh, khinh suất tỏ bày ý ấy. Thật đáng lo sợ, đối với sự thấy nghe của
người.
Sức người hữu hạn mong manh; công việc thì quan trọng rộng lớn, như nước
lửa trái nhau, nên tôi rất ngại ngùng. Nếu không nương nhờ một nguyên nhơn cường tráng thì không thể có kết quả thắng diệu. Thành thật, tôi biết có
sai lầm, nhưng lòng tôi không quên việc thiện. Mong nhờ sức hộ niệm của
Đại chúng đồng làm từ thân. Ngưỡng xin Đại chúng giáng đức xuống Đạo
tràng.
Thời giờ mau chóng thoạt vậy trôi qua, nếu để duyên nghiệp lôi cuốn thì khó
gặp thắng hội.
Vậy tự mình nên phải cố gắng siêng năng khóa lễ, lợi mình lợi người, chớ
hiên ngang bài xích sau không hối hận kịp.
Pháp Âm của Phật một phen lọt vào tai thì công đức phước báo vĩnh kiếp
vẫn còn hoài; một niệm thiện tâm lợi ích cho thân tâm mãi mãi.
Nếu người nào có trí hướng cương quyết thì không có nguyện gì mà không
thành tựu viên mãn.
Đại chúng cùng nhau chí tâm đảnh lễ quy y Thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Oai Đức Tịch diệt Phật
Nam môThọ Tướng Phật
Nam mô Đa Thiên Phật
Nam mô Tu Diệm Ma Phật
Nam mô Thiên Ái Phật
Nam mô Bảo Chúng Phật
Nam mô Bảo Bộ Phật
Nam mô Sư Tử Phân Phật
Nam mô Cực Cao Hạnh Phật
Nam mô Nhân Vương Phật
Nam mô Thiện Ý Phật
Nam mô Thế Minh Phật
Nam mô Bảo Oai Đức Phật
Nam mô Đức Thừa Phật
Nam mô Giác Tưởng Phật
Nam mô Hỷ Trang Nghiêm Phật
Nam mô Hương Tế Phật
Nam mô Hương Tượng Phật
Nam mô Chúng Diệm Phật
Nam mô Từ tướng Phật
Nam mô Diệu Hương Phật
Nam mô Khiên Khải Phật
Nam mô Oai Đức Mãnh Phật
Nam mô Châu Khải Phật
Nam mô Nhơn Hiền Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BA : TỔNG PHÁT ĐẠI NGUYỆN
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại cùng nhau nhờ công
đức nhơn duyên sám hối, phát tâm, nguyện cho mười phương tận hư không
giới hết thảy Thiên chủ hết thảt chư Thần, quyến thuộc của chư Thiên
nguyện cho Tiên chủ, hết thảy chơn Tiên, quyến thuộc của chơn Tiên;
nguyện cho Phạm vương, Đế thích , hộ thế Tứ thiên vương Thần vương,
Thần tướng và quyến thuộc của các vị ấy; nguyện cho các vị thông minh
chánh trực, thiên địa hư không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, hết thảy
Thần vương, hết thảy Thần tướng và quyến thuộc của các vị ấy; nguyện các
vị Diệu hóa Long vương, đầu hóa đề Long vương, Ngũ phương Long vương
Long Thần bát bộ, bát bộ Thần vương bát bộ Thần tướng và quyến thuộc của
các vị ấy; nguyện cho A tu la vương, hết thảy Thần vương, hết thảy Thần
tướng và quyến thuộc của các vị ấy; nguyện cho nhơn đạo hết thảy nhơn
vương, thần dân tướng soái và quyến thuộc của các vị ấy lại nguyện cho
mười phương Tỳ kheo, Tý kheo ni, Thức xoa ma na, Sa di, Sa di ni và quyến
thuộc của các vị ấy; nguyện cho Diêm la vương Thái sơn phủ quân, ngũ đạo
Đại thần, mười tám ngục vương, hết thảy Thần vương, hết thảy Thần tướng
và quyến thuộc của các vị ấy; lại nguyện cho hết thảy chúng sanh trong
đường địa ngục; hết thảy chúng sanh trong đường ngã quỉ, hết thảy chúng
sanh trong đường súc sanh và quyến thuộc của mỗi loài ấy; lại nguyện cho
hết thảy chúng sanh hoặc lớn, hoặc nhỏ, cùng tận đời vị lai trong mười
phương, tận hư không giới và quyến thuộc của các chúng sanh ấy; lại
nguyện cho hết thảy chúng sanh đời sau này nếu trái với lời đại nguyện hôm
nay, tất cả đều được trở lại trong bể đại nguyện này, mỗi mỗi đều đầy đủ
công đức trí huệ.
Những chúng sanh như vậy vô cùng vô tận ở trong ba cõi hay ngoài ba cõi,
nhiếp thuộc vào danh sắc và có Phật tánh thì ngày nay đệ tử . . . mong nhờ
sức đại từ đại bi của mười phương tận hư không giới hết thảy chư Phật,
mong nhờ bổn thệ nguyện lực, vô lượng vô tận trí tuệ lực, vô lượng vô tận
công đức lực, mong nhờ phù hộ chúng sanh lực, an ủy chúng sanh lực tận
chư Thiên chư Tiên lậu lực; nhiếp hóa nhất thế thiện thần lực, cứu bạt nhất
thế địa ngục lực, tế độ nhất thế ngã quỉ lực; độ thoát nhất thế súc sanh lực
của chư Phật, chư Đại Bồ tát và hết thảy Thánh Hiền, mong nhờ những năng
lực ấy làm cho hết thảy chúng sanh đều được như nguyện.
Ngày nay đệ tử tên . . . lại mong nhờ năng lực của Từ bi Đạo tràng, năng lực
quy y Tam bảo, năng lực đọn nghi sanh tín, năng lực sám hối phát tâm, năng
lực giải oan thích kiết, năng lực tự khánh hoan hỷ, năng lực hớn hở chí tâm,
năng lực phát nguyện hồi hướng thiện căn, làm cho hết thảy chúng sanh đều
được như nguyện.
Ngày nay đệ tử chúng con . . . lại mong nhờ năng lực đại từ tâm của bảy
Đức Phật, năng lực đại bi tâm của mười phương chư Phật, năng lực diệt trừ
phiền não của ba mươi lăm đức Phật, năng lực hàng phục ma quân của năm
mươi ba đức Phật, năng lực độ sanh của một trăm bảy chục đức Phật, năng
lực nhiếp thọ chúng sanh của một ngàn đức Phật, năng lực che chở chúng
sanh của mười hai vị Bồ tát, năng lực lưu thông Sám pháp của Vô Biên Thân
Bồ tát và của Quán Thế Âm; nguyện khiến cho tất cả chúng sanh ở trong
mười phương, ba cõi, sáu đường, cùng tận đời vị lai, hoặc lớn hoặc nhỏ,
hoặc thăng hoặc giáng nhiếp thuộc vào danh sắc có Phật tánh, sau ngày sám
hối nầy rồi đều được thân như thân chư Phật, chư Đại Bồ tát thân có trí huệ
rộng lớn, không thể nghĩ bàn; thân có vô lượng lực tự tại, thân lục độ, chánh
hướng bồ đề, thân tứ nhiếp nhiếp thọ hết thảy chúng sanh, thân đại bi diệt
trừ tất cả tội khổ, thân đại từ, cho tất cả an vui, thân công đức lợi ích cho tất
cả; thân trí huệ, thuyết pháp không cùng tận; thân kim cang vật không thể
phá hoại thân; thanh tịnh xa lìa sanh tử; thân phương tiện hiện thần lực tự
tại; thân bồ đề tùy hết thảy thời gian mà hiện ra ba thân bồ đề (5).
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong tứ sanh lục đạo đều được đầy đủ thân
như vậy, thành tựu hoàn toàn thân vô thượng đại trí huệ của chư Phật.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh trong mười phương từ nay trở đi, sanh
ra nơi nào cũng như chư Phật và Bồ tát đều được miệng có công đức bất khả
tư nghị; miệng nói lời như nhuyến; làm an vui tất cả chúng sanh; miệng như
nước cam lồ, làm mát mẻ hết thảy chúng sanh; miệng không nói lời hư dối,
nói lời chân thật; miệng nói lời uyển chuyển đúng như sự thật, dầu trong
mộng cũng không có nói lời hư dối; miệng được tôn trọng; Phạm vương Đế
thích, Tứ thiên vương đều cung kính tôn trọng; miệng nói pháp thậm thâm,
giải rõ pháp tánh; miệng nói lời kiên cố, nói pháp bất thối; miệng nói lời
ngay thẳng, đầy đủ tài hùng biện; miệng trang nghiêm, hay tùy thời, tùy
nghiệp mà thị hiện cùng khắp; miệng của đấng Nhất thế trí hay tùy theo tất
cả chúng sanh đáng độ thoát thì độ thoát ngay.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong bốn loài, sáu đường đều được khẩu
nghiệp hoàn toàn thanh tịnh như chư Phật và Bồ tát.
Lại nguyện cho tất cả chúng sanh trong mười phương, từ nay trở đi, sanh ra
nơi nào đều được như chư Phật và Bồ tát; có tâm đại sáng suốt, trí huệ
không thể nghĩ bàn; tâm thường nhàm chán phiền não, xa lìa phiền não; tâm
mãnh lợi, tâm kiên cường, tâm kim cang, tâm bất thối, tâm thanh tịnh, tâm
minh liễu, tâm cầu thiện, tâm trang nghiêm, tâm quảng đại, có sức đại trí
huệ, nghe được chánh pháp liền tự hiểu rõ; tâm hiền từ đến với người, đoạn
trừ oán kết, thường biết sỉ nhục, thường biết hổ thẹn, không chấp chơn ngã
đồng xem nhau như thiện tri thức. Tâm thấy có người tu bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ đều sanh tâm hoan hỷ; oán thân bình đẳng,
tâm không kiêu mạn, không nói việc thiện ác, xấu tốt của người; không
tuyên truyền bỉ thử hòa hiệp phân ly của người; lời nói mềm mỏng, không ác
độc, tán thán công đức của Phật; ưa đọc kinh điển cao sâu thương xót che
chở chúng sanh như thương mình không khác; thấy người làm phước không
phỉ báng; tâm nhân từ hòa hiệp như các Thánh nhân, đồng với Bồ tát , thành
bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BỐN : LỄ PHẬT THẾ CÁC CÕI TRỜI
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng biết rằng chư Thiên, chư
Tiên, hết thảy Thiện thần đối với chúng sanh có vô lượng ơn đức, không thể
nghĩ bàn; các Ngài muốn cho chúng sanh an vui mãi mãi, thương xót chúng
sanh, ân cần, phù hộ, chỉ biết làm lành cho chúng sanh mà thôi.
Vì sao mà biết?
Vì theo sắc lệnh của Phật thì Phật dạy các vị: Đề đầu Lại tra tứ thiên vương
nên có từ tâm ủng hộ người trì kinh, khiến người nghe danh hiệu Đấng Từ
bi, như quần thần hộ Thiên tử vậy.
- Lại sắc hải long Y bạt la nên có từ tâm ủng hộ người trì kinh như giữ tròng
mắt, thương con đỏ, ngày đêm sáu thời không xa lìa.
- Lại sắc Diêm bà la sát tử vô số độc long và long nữ nên có từ tâm ủng hộ
người trì kinh, như quý đầu não không dám động chạm.
- Lại sắc Tỳ Lưu Lặc Ca Vương nên có từ tâm ủng hộ người trì kinh, như mẹ
hiền thương con lòng không chán, ngày đêm ủng hộ, đứng ngồi như nhau.
- Lại sắc Nan Đà, Bạt Nan Đà, Ta Già La Vương, Ưu Ba Đà, nên co từ tâm
ủng hộ người trì kinh, cung kính cúng dường, đảnh lễ sát đất; cũng như chư
Thiên thờ Đế thích; cũng như con thảo thờ cha mẹ.
Đạo tràng từ bi thí an vui, dạy chúng sanh thân cận Phật Pháp, đời sau ở
trước Phật nhập Tam muội, quyết định được pháp bất thối chuyển. Nếu nghe
được danh hiệu đức Phật và của các Ngài Vô Biên và Quán Thế Âm thì ba
chướng đều tiêu trừ, ác nghiệp cũng hết, ngũ nhãn (6) đầy đủ, chứng quả bồ
đề. Các Thiên, thần vương thương tất cả và thường hay ủng hộ, giúp oai
thần.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, biết chư Thiên, Thần,
Vương có ơn đức che chở như vậy mà chúng sanh chưa từng phát tâm nhớ
tưởng báo đáp ơn đức ấy.
Cổ nhân còn có thể xả thân chỉ vì nhớ ơn của một bữa cơm no lòng. Huống
gì chư Thiên, chư Thần, bát bộ Thần vương, bát bộ Thần tướng đối với
chúng sanh có ơn đức thế ấy! Công đức ơn huệ nầy rộng lớn vô cùng, không
bờ bến.
Chúng con ngày nay sám hối phát tâm v.v... đều nhờ ơn các vị Thiên vương
ấy thầm gia hộ thần lực giúp đỡ cho kẻ tu hành, khiến thiện tâm được thành
tựu. Nếu các Ngài không hộ trợ thì những thiện tâm ấy đã thối chuyển sớm
mất rồi.
Bởi thế nên các vị Đại Bồ tát ma ha tát thường tán thán thiện tri thức là nhân
duyên rất lớn, hay khiến chúng con thẳng đến Đạo tràng. Nếu không có thiện
tri thức chúng con làm sao thấy được Phật, vậy nên dù tan xương nát thịt
cũng không thể báo đáp lòng từ rộng lớn ấy; cũng không thể báo đáp thâm
ơn cao cả ấy.
Các vị Bồ tát ma ha tát còn tỏ lời cám ơn như vậy, huống gì những hạng
dưới hàng Bồ tát, thấp kém hơn mà không biết lo báo ơn sao? Chúng con
cùng nhau hết sức vận tâm tri ân báo ân, không thể bỏ qua sau ăn năn không
kịp.
Như trong phần Tự Vui Mừng ở đoạn trước đã nói rằng: được tái ngộ trùng
phùng là khó, khó được kết quả như ngày nay, còn muốn đợi gì nữa mà
không lo báo ơn.
Như hội sám hối nầy rồi thì biết hội nào gặp lại.
Vậy nên dõng mãnh hy sinh vì người; sự thành có bại, xuân qua đông về,
thời gian biến chuyển, không chờ đợi một ai. Nhân mạng vô thường, chỉ
sống trong hơi thở đâu có lâu dài! Nghĩ lại, một phen này xa nhau, biết bao
giờ gặp lại.
Mọi người nên nỗ lực, nhất tâm tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đảnh lễ,
nguyện xin thay thế hết thảy thiên chủ, hết thảy chư Tiên, và quyến thuộc
của các vị ấy, khắp mười phương, tận hư không giới mà quy y kính lễ thế
gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiện Thệ Nguyệt Phật
Nam mô Phạm Tự Tại Vương Phật
Nam mô Sư Tử Nguyệt Phật
Nam mô Phước Thành Đức Phật
Nam mô Chánh Chủ Phật
Nam mô Vô Thắng Phật
Nam mô Nhật Quang Phật
Nam mô Bảo Danh Phật
Nam mô Đại Tinh Tấn Phật
Nam mô Sơn Quang Vương Phật
Nam mô Thế Minh Phật
Nam mô Điện Đức Phật
Nam mô Đức Tụ Vương Phật
Nam mô Cúng Dường Danh Phật
Nam mô Pháp Tán Phật
Nam mô Bảo Ngữ Phật
Nam mô Cứu Mạng Phật
Nam mô Thiện Chúng Phật
Nam mô Định Ý Phật
Nam mô Hỷ Thắng Vương Phật
Nam mô Sư Tử Quang Phật
Nam mô Phá Hữu Ám Phật
Nam mô Chiếu Minh Phật
Nam mô Thượng Danh Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảt Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ; nguyện cho
mười phương tận hư không giới hết thảy Thiên chủ, hết thảy chư Thiên và
quyến thuộc của các vị ấy, hiện tiền thường không huệ bình đẳng, được sức
trí huệ phương tiện khai thác vô lậu đạo; hạnh nguyện thập địa đều được
ngày càng sáng tỏ, tâm tu lục độ, tứ đẳng, thật hành Bồ tát đạo, vào Phật
hành xứ (7) do tứ hoằng thệ nguyện,không bỏ chúng sanh; biện tài vô ngại, lạc thuyết vô cùng (8) quyền xảo hóa độ, lợi ích chúng sanh; đồng lên Pháp
vân, chứng quả thường trú.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI LĂM : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TIÊN
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đều nên chí tâm một lòng
tha thiết đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện vì hết thảy Tiên chủ, hết thảy
Chơn Tiên và quyến thuộc của Tiên, cùng khắp mười phương tận hư không
giới mà quy mạng kính lễ thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Lợi Huệ Vương Phật
Nam mô Châu Nguyệt Quang Phật
Nam mô Oai Quang Vương Phật
Nam mô Bất Phá Luận Phật
Nam mô Quang Minh Vương Phật
Nam mô Châu Luân Phật
Nam mô Thế Sư Phật
Nam mô Các Thủ Phật
Nam mô Thiện Nguyệt Phật
Nam mô Bảo Diệm Phật
Nam mô La Hầu Thủ Phật
Nam mô Lạc Bồ Đề Phật
Nam mô Đẳng Quang Phật
Nam mô Chí Tịch Diệt Phật
Nam mô Thế Tối Diệu Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Thập Thế Lực Phật
Nam mô Hỷ Lực Vương Phật
Nam mô Đức Thế Phật
Nam mô Đại Thế Lực Phật
Nam mô Công Đức Tạng Phật
Nam mô Chơn Hạnh Phật
Nam mô Thượng An Phật
Nam mô Đề Sa Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy, mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
Tiên chủ, hết thảy Chơn tiên và quyến thuộc của Tiên đều được giải thoát
khách trần phiền não(9) đều được thanh tịnh, hết các duyên chướng ngại,
đều được diệu sắc trạm nhiên như thân tướng của Phật; tứ vô lượng tâm, lục
Ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực đều được
tự tại như ý; ra vào, dạo chơi cảnh giới Bồ tát, lên Pháp vân địa, vào Kim
cang tâm; dùng sức thần thông bất khả tư nghị, trở lại độ thoát hết thảy sáu
đường chúng sanh.
CHƯƠNG THỨ MƯỜI SÁU : LỄ PHẬT THẾ CÁC VỊ TRỜI
PHẠM VƯƠNG, ĐẾ THÍCH V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện vì các vị trời Phạm vương, trời Đế Thích, Hộ thế tứ Thiên
vương và quyến thuộc của các vị trời ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Đại Quang Phật.
Nam mô Điện Minh Phật.
Nam mô Quảng Đức Phật.
Nam mô Trân Bảo Phật.
Nam mô Phước Đức Minh Phật.
Nam mô Tạo Khải Phật.
Nam mô Thành Thủ Phật.
Nam mô Thiện Hoa Phật.
Nam mô Tập Bảo Phật.
Nam mô Đại Hải Phật.
Nam mô Trì Địa Phật.
Nam mô Nghĩa Ý Phật.
Nam mô Thiện Tư Duy Phật.
Nam mô Đức Luân Phật.
Nam mô Bảo Quang Phật.
Nam mô Lợi Ích Phật.
Nam mô Thế Nguyệt Phật.
Nam mô Mỹ Âm Phật.
Nam mô Phạm Tướng Phật.
Nam mô Chúng Sư Thủ Phật.
Nam mô Sư Tử Hạnh Phật.
Nam mô Nan Thí Phật.
Nam mô Ứng Cúng Phật.
Nam mô Minh Oai Đức Phật.
Nam mô Đại Quang Vương Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho các
vị Trời Phạm vương Đế Thích, Hộ Thế Tứ Thiên vương và quyến thuộc của
các vị ấy được các pháp lục độ, tứ đẳng, ngày càng sáng tỏ, tứ vô ngại biện
lạc thuyết vô cùng, được bát tự tại (10) đủ lục thần thông tam muội và tổng
trì móng tâm liền có, từ bi bủa khắp, bách phước trang nghiêm, vạn thiện
viên mãn, tam đạt sáng suốt, ngũ nhãn hoàn toàn, làm Chuyển luân pháp
vương (11) nhiếp hóa lục đạo chúng sanh.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ BẢY
--- HẾT ---
1 Biên địa nơi không có Phật pháp, thường không biết lễ nghi, không có văn
hóa, mỹ tục Trái với Trung quốc là nơi thường có Phật pháp, có lễ giáo.
2 Trường thọ thiên: Cõi trời phi phi tưởng, cõi cuối cùng của vô sắc giới,
không có Phật pháp, hay đọa tà kiến, ngoại đạo.
3 Tà kiến: nhận thức sai lầm, không tin nhơn quả, luân hồi, hay hủy báng
Tam bảo, hay theo ngoại đạo.
4 Thế trí biện thông: biện tài ngôn thuyết lanh lợi theo trí thế gian, bênh vực
sự không tin của mình.
5 Tam thân Bồ đề: tức ba thân của Phật đã chứng được: 1- Pháp thân, 2- Báo
thân, 3- Ứng thân.
6 Ngũ nhãn: nhục nhãn, thiên nhãn, huệ nhãn, pháp nhãn, Phật nhãn. Năm
thứ mắt nhận thấy có năm sức lực sai khác nhau.
7 Phật hành xứ: cảnh giới của Phật.
8 Lạc thuyết vô cùng: hoan hỷ nói pháp, không bao giờ cùng tận. Một món
biện tài trong 4 biện tài của chư Phật.
9 Khách trần phiền não: phiền não làm nhiễm ô tâm tánh như bụi trần che
gương lòng sáng suốt. Phiền não không phải vật.
10 Bát tự tại: 1- Một thân hay hiện làm nhiều thân. 2- Một thân nhỏ như bụi
cát hay hiện đầy tam thiên đại thiên thế giới. 3- Thân to lớn cất lên rất nhẹ
nhàng đến xa vô tận. 4- Hiện ra vô lượng thân theo vô số loại chúng sanh ở
trong một quốc độ. 5- Các căn tai mắt dùng lẫn lộn được (như mắt có thể
nghe, tai có thể ngửi, mũi có thể thấy). 6- Được tất cả các pháp mà tưởng
như không có pháp nào. 7- Nói nghĩa một bài kệ trong kinh trải qua vô
lượng kiếp cũng không hết nghĩa. 8- Thân biến khắp nơi như hư không.
Kiên cố bám víu, chỉ tạm bợ nên gọi là khách. Do mê lý tánh, gặp ngoại
duyên kích thích tâm tánh phát động sanh ra phiền não. Nếu tịnh tâm tu hành
thì phiền não hết.
11 Chuyển luân Pháp vương: Ông vua chuyển bánh xe pháp của Phật (chính
là Đức Phật).
--- o0o ---
QUYỂN THỨ TÁM
CHƯƠNG THỨ MƯỜI BẢY :LỄ PHẬT THẾ A TU LA VÀ HẾT THẢY
THIỆN THẦN
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, năm vóc sát đất, nguyện xin thay thế hết thảy A tu la vương, hết thảy A
tu la và quyến thuộc caủ A tu la khắp mười phương tận hư không giới, lại
nguyện vì hết thảy các vị thông minh, chánh trực, thiên địa hư không, chư
thiện, phạt ác, thủ hộ, trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần tướng, rộng ra
cho đến, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc xa hoặc gần, đông tây nam bắc, tứ duy
thượng hạ, cùng khắp pháp giới, các vị có sức đại thần thông, có sức đại oai
đức như vậy, chúng con nguyện thay thế cho tất cả các vị ấy mà quy y thế
gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Bảo Danh Phật
Nam mô Chúng Thanh Tịnh Phật
Nam mô Vô Biên Danh Phật
Nam mô Bất Hư Quang Phật
Nam mô Thánh Thiên Phật
Nam mô Trí Vương Phật
Nam mô Kim Cang Chúng Phật
Nam mô Thiện Chướng Phật
Nam mô Kiến Từ Phật
Nam mô Hoa Quốc Phật
Nam mô Pháp Ý Phật
Nam mô Phong Hành Phật
Nam mô Thiện Tư Danh Phật
Nam mô Đa Minh Phật
Nam mô Mật Chúng Phật
Nam mô Công Đức Thủ Phật
Nam mô Lợi Ý Phật
Nam mô Vô Cụ Phật
Nam mô Kiên Quán Phật
Nam mô Trú Pháp Phật
Nam mô Châu Túc Phật
Nam mô Giải Thoát Đức Phật
Nam mô Diệu Thân Phật
Nam mô Thiện Ý Phật
Nam mô Phổ Đức Phật
Nam mô Quang Vương Phật
Nam mô Vô Biên Thân Phật
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm ủng hộ che chở, nguyện A
tu la vương, hết thảy A tu la và quyến thuộc của A tu la. Lại xin nguyện cho
các vị thông minh chánh trực, thiện địa hư không, chủ thiện phạt ác, thủ hộ
trì chú, bát bộ thần vương, bát bộ thần tướng và quyến thuộc của các vị ấy,
thoát được khách trần phiền não, thanh tịnh được các chuyện chướng, phát
tâm đại thừa tu đạo vô ngại, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện
tiền, tứ vô ngại biện, sáu thức thần thông đều được như ý muốn, hằng đem
từ bi cứu độ chúng sanh, tu đạo Bồ tát, vào trí huệ Phật, chứng tâm kim cang
thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI TÁM : CÒN THIẾU
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ MƯỜI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ MA VƯƠNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ, năm
vóc sát đất, nguyện vì đại ma vương, ngũ đế đại ma, cho đến đông tây nam
bắc, tứ duy thượng hạ, tận hư không giới, hết thảy ma vương và bà con của
ma mà quy y kính lễ . . . Nhất thế thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Mâu Ni Phật
Nam mô An Tường Hạnh Phật
Nam mô Cần Tinh Tấn Phật
Nam mô Diệm Kiện Phật
Nam mô Đại Oai Đức Phật
Nam mô Chiêm Bặc Hoa Phật
Nam mô Hoan Hỷ Phật
Nam mô Thiện Chúng Phật
Nam mô Đế Tràng Phật
Nam mô Đại Ái Phật
Nam mô Tu Mạn Sắc Phật
Nam mô Chúng Diệu Phật
Nam mô Khả Lạc Phật
Nam mô Thiện Định Nghĩa Phật
Nam mô Ngưu Vương Phật
Nam mô Diệu Tý Phật
Nam mô Đại Xa Phật
Nam mô Mãn Nguyện Phật
Nam mô Đức Quang Phật
Nam mô Bảo Âm Phật
Nam mô Kim Cang Quân Phật
Nam mô Phú Quý Phật
Nam mô Thế Lực Hạnh Phật
Nam mô Sư Tử Lực Phật
Nam mô Tịnh Mục Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm che chở, nguyện cho đại
ma vương, ngũ đế đại ma, hết thảy ma vương và quyến thuộc của ma, từ vô
thỉ trở lại cho đến ngày nay, bao nhiêu chướng duyên thảy đều thanh tịnh,
bao nhiêu tội nghiệp thảy đều tiêu trừ, tất cả khổ não đều được giải thoát,
bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí, sáu
sức thần thông, như ý tự tại, tu đạo Bồ tát không thôi không nghỉ, trước độ
chúng sanh sau thành Phật đạo.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHO NHƠN ĐẠO,
QUỐC VƯƠNG V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau nguyện vì
chư Thiên, chư Tiên Long thần bát bộ mà lễ Phật rồi.
Nay đây nguyện vì nhơn đạo, hết thảy nhơn vương, lễ Phật mà báo ơn nhơn
loại.
Lại nguyện cha mẹ, Sư trưởng và hết thảy nhơn dân mà lễ Phật. Vì sao vậy?
Vì nếu không có quốc chủ thì hết thảy chúng sanh không biết nương nhờ
vào đâu. Nhờ có quốc chủ nên tất cả mọi người đều an cư lạc nghiệp; đi lại
trên đất quốc chủ, sống trên đất quốc chủ, và được nhiều lợi ích khác không
thể kể xiết; cho nên Đại chúng phải có lòng biết ơn và báo ơn.
Kinh dạy rằng:
Nếu người nào, ngày đêm sáu thời hay chịu khổ, vì muốn lợi ích nên nguyện
báo ơn, thì phải phát tâm nghĩ như thế ấy để tu tập hạnh từ bi.
Do nguyện lực ấy, nên nghĩ báo ơn che chở của quốc chủ, nghĩ báo ơn cung
cấp của thí chủ, nghĩ báo ơn sinh thành của cha mẹ; nghĩ báo ơn dạy bảo của
Sư trưởng, nghĩ báo ơn tế độ của chư Phật.
Nếu người nào hay chí tâm thường niệm tưởng như vậy, người ấy nhập đạo
rất mau.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy ơn lành của chư
Phật, Đại thánh khai hóa dụ dỗ chúng ta, ân cần như thế, khiến chúng ta phải
biết báo ơn.
Ngày nay chúng ta sanh vào đời mạt pháp, mong nhờ ơn quốc chủ mà hưng
hiển được Phật pháp; nhờ quốc chủ cúng dường đày đủ, không tiếc của báu,
làm cho khắp cả nhơn dân đều noi gương quốc chủ và sanh tâm quy kính
Phật Pháp Tăng.
Lại nữa người xuất gia được an tâm hành đạo, đi đứng nằm ngồi được tự do,
không bị trở ngại; quốc chủ không cho người xuất gia tham dự việc đời; chỉ
lo khuyên người làm lành, nguyện cho chúng sanh mau thoát khỏi sanh tử
khổ đau; chỉ lo xiển dương vô lượng Pháp môn, chỉ bày đường chơn nẻo
chánh cho trời và người. Nhờ ơn quốc chủ nhiều như vậy thì chúng ta đâu
được không hết lòng lễ Phật để báo ơn quốc chủ, phải cùng nhau chí thành
đảnh lễ nguyện vì quốc chủ mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Ca Diếp Phật
Nam mô Tịnh Ý Phật
Nam mô Tri Thức Đệ Phật
Nam mô Mãnh Oai Đức Phật
Nam mô Đại Quang Minh Phật
Nam mô Phật Quang Diệu Phật
Nam mô Tịnh Tạng Phật
Nam mô Phân Biệt Oai Phật
Nam mô Vô Tổn Phật
Nam mô Mật Nhật Phật
Nam mô Nguyệt Quang Phật
Nam mô Trì Minh Phật
Nam mô Thiện Tịch Hạnh Phật
Nam mô Bất Động Phật
Nam mô Đại Thỉnh Phật
Nam mô Đức Pháp Phật
Nam mô Trang Nghiêm Vương Phật
Nam mô Cao Xuất Phật
Nam mô Diệm Xí Phật
Nam mô Hoa Đức Phật
Nam mô Bảo Nghiêm Phật
Nam mô Thượng Thiện Phật
Nam mô Bảo Thượng Phật
Nam mô Lợi Huệ Phật
Nam mô Nghiêm Độ Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, gia tâm nhiếp thọ nguyện cho quốc chủ
hiện tại thân thể khương kiện, oai đức vang lừng sự nghiệp vĩnh viễn, huệ
mạng vô cùng, từ tâm vô tận, hữu tình quy tâm, Bồ tát thạnh hóa, trời người
ngợi khen, ngưỡng mộ. Tứ đẳng lục độ, ngày càng thêm sáng, tứ vô ngại
biện lạc thuyết vô cùng; được tâm tự tại, đủ sáu thần thông, tam muội tổng
trì móng tâm liền có; từ bi thương đời, ân khắp lục đạo, vạn hạnh sớm viên,
Phật đạo chóng thành.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ QUYẾN THUỘC
CỦA QUỐC CHỦ
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại đầu thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện vì quyến thuộc của quốc chủ và bá quan cùng quyến thuộc của
bá quan mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Hải Đức Phật.
Nam mô Phạm Tướng Phật.
Nam mô Nguyệt Cái Phật.
Nam mô Da Diệm Phật.
Nam mô Vi Lam Vương Phật.
Nam mô Trí Xưng Phật.
Nam mô Giác Tưởng Phật.
Nam mô Công Đức Quang Phật.
Nam mô Thanh Lưu Bố Phật.
Nam mô Mãn Nguyện Phật.
Nam mô Hoa Quang Phật.
Nam mô Thiện Giới Phật.
Nam mô Đăng Vương Phật.
Nam mô Điện Quang Phật.
Nam mô Quang Vương Phật.
Nam mô Quang Minh Phật.
Nam mô Cụ Túc Tán Phật.
Nam mô Hoa Tạng Phật.
Nam mô Phất Sa Phật.
Nam mô Thân Đoan Nghiêm Phật.
Nam mô Tịnh Nghĩa Phật.
Nam mô Oai Mãnh Quân Phật.
Nam mô Phước Oai Đức Phật.
Nam mô Lực Hành Phật.
Nam mô La Hầu Thiên Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm phủ hộ, nguyện cho quyến
thuộc của quốc chủ , bá quan và quyến thuộc của các vị ấy thân tâm an lạc,
sống lâu vô cùng, tu đạo đại thừa, vào trí huệ Phật; giữ bốn hoằng thệ, không
xả bỏ chúng sanh, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền; lục
thông tám đạt, thấu rõ căn tánh đủ nhị trang nghiệm, thần lực tự tại, từ tâm
như Phật nhiếp hóa chúng sanh.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng kế lại nên nhớ nghĩ công
ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ; hoài thai bú mớm, ái trọng tình thâm,
thà cha mẹ chịu nguy thân để con được yên ổn. Đến khi con khôn lớn, cha
mẹ lại lo dạy bảo cho con biết nhơn biết lễ, hết lòng cầu thầy dạy bảo cho
con học hành, nguyện cho con thông đạt nghĩa lý, thấy rộng hiểu sâu, luôn
luôn mong muốn cho con theo kịp với người. Con muốm gì cha mẹ cũng
cung cấp không tiếc gia bửu.
Ngày đêm lo âu, có khi vì con mà cha mẹ phải sanh bệnh khổ, ngủ không
yên giấc. Khi con đi xa, cha mẹ càng trông tưởng.
Trong thiên hạ, ơn cha mẹ là nặng hơn hết.
Sở dĩ Phật dạy:
“Trong thiên hạ, không có ơn nào bằng ơn cha mẹ”
Than ôi! người xuất gia và tại tục chưa thể đắc đạo phải siêng lo tu học, làm
lành không nghỉ, chứa đức không thôi, mới mong báo đáp ơn đức cù lao của
cha mẹ.
Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ Tam bảo mỗi người tự mình nguyện
vì từ khi có thần thức trở lại cho đến ngày nay, cha mẹ nhiều đời bà con
nhiều kiếp và hết thảy quyến thuộc mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật.
Nam mô Trí Tụ Phật.
Nam mô Điều Ngự Phật.
Nam mô Như Vương Phật.
Nam mô Hoa Tướng Phật.
Nam mô La Hầu La Phật.
Nam mô Đại Dược Phật.
Nam mô Túc Vương Phật.
Nam mô Dược Vương Phật.
Nam mô Đức Thủ Phật.
Nam mô Đắc Xoa Ca Phật.
Nam mô Lưu Bố Vương Phật.
Nam mô Phật Quang Phật.
Nam mô Pháp Tạng Phật.
Nam mô Diệu Ý Phật.
Nam mô Đức Chủ Phật.
Nam mô Kim Cang Chúng Phật.
Nam mô Huệ Đảnh Phật.
Nam mô Thiện Chú Phật.
Nam mô Ý Hạnh Phật.
Nam mô Phạm Âm Phật.
Nam mô Sư Tử Phật.
Nam mô Lôi Âm Phật.
Nam mô Thông Tướng Phật.
Nam mô An Ổn Phật.
Nam mô Huệ Long Phật.
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho cha
mẹ bà con chúng con và quyến thuộc của cha mẹ bà con chúng con từ nay
trở đi cho đến ngày thành Phật, hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết
thảy thống khổ đều được giải thoát, kiết tập phiền não hằng được thanh tịnh,
từ dài tứ thú, tự tại vãng sanh, thân cận chư Phật, được Phật thọ ký, tứ vô
lượng tâm lục ba la mật thường được hiện tiền, tứ vô ngại biện, lục thần
thông lực, tự tại như ý, được mười trí lực, tướng tốt nghiêm thân, đồng lên
Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHA MẸ CÁC ĐỜI
TRƯỚC
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng hoặc có người cha mẹ
mất sớm, không thể gặp lại, luống tưởng vậy thôi.
Khi chưa được thần thông thiên nhãn, không biết cha mẹ sau khi mất rồi
thần hồn sanh về đâu?
Chỉ nên vội nhờ sức phước đức truy niệm vói tưởng mà báo ơn; làm lành
không nghỉ, lâu ngày thành công thì quyết được toại nguyện.
Kinh dạy rằng: “Vì vong nhơn mà làm phước cũng như gửi lương hướng
cho người đi xa. Nếu người ấy đã sanh lên trời thì công đức của người ấy
ngày càng lợi ích. Nếu người ấy đọa lạc tam đồ ác đạo, hoặc mắc phải tám
nạn thì được vĩnh viễn xa lìa khổ não. Nếu các người ấy sanh ra gặp Phật,
thọ lãnh chánh pháp thì liền được siêu thoát tỏ ngộ.
Cha mẹ bảy đời, bà con nhiều kiếp thì trừ hết những điều lo sợ, đồng được
giải thoát. Đó là cách báo ơn tối tôn tối thượng, chí từ chí hiếu của người
con trí thức vậy.
Ngày nay Đại chúng nên phải cùng nhau đau thương hoải niệm, áo não khóc
lóc, nghẹn ngào, gieo mình xuống đất, nguyện vì cha mẹ nhiều đời, bà con
nhiều kiếp mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Vương Phật
Nam mô Ngưu Vương Phật
Nam mô Lợi Đà Mục Phật
Nam mô Long Đức Phật
Nam mô Thuật Tướng Phật
Nam mô Trang Nghiêm Phật
Nam mô Bất Một Âm Phật
Nam mô Hoa Đức Phật
Nam mô Âm Đức Phật
Nam mô Sư Tử Phật
Nam mô Trang Nghiêm Từ Phật
Nam mô Dõng Trí Phật
Nam mô Hoa Tích Phật
Nam mô Hoa Khai Phật
Nam mô Lực Hành Phật
Nam mô Đức Tích Phật
Nam mô Thượng Hình Sắc Phật
Nam mô Minh Diệu Phật
Nam mô Nguyệt Đăng Phật
Nam mô Oai Đức Vương Phật
Nam mô Bồ Đề Nhãn Phật
Nam mô Thân Sung Mãn Phật
Nam mô Huệ Quốc Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, cứu vớt tiếp độ cha mẹ và bà con chúng
con nhiều đời nhiều kiếp về quá khứ, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật
Đạo, hết thảy tội nhơn đều được tiêu trử, hết thảy khổ quả đều được sạch
hết, phiền não kiết nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, đoạn ba chướng duyên trừ
năm bố úy, tu đạo Bồ tát rộng độ chúng sanh, bát giải tu tâm, tứ hoằng lợi
vật, thân cận Như Lai, được Phật thọ ký, không rời khỏi chỗ, chứng quả vô
sanh, tùy niệm tiêu diêu, dạo khắp cõi Phật, hạnh nguyện chóng thành, mau
chứng Chánh giác.
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BỐN : LỄ PHẬT THẾ SƯ TRƯỞNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã vì cha mẹ và bà con
mà lễ Phật rồi. Thứ lại nên nghĩ đến ơn đức Sư trưởng. Vì sao vậy?
- Vì cha mẹ tuy có công sanh thành dưỡng dục chúng ta, nhưng không thể
làm thế nào cho chúng ta mau xa lìa đường ác. Cho nên Sư trưởng đối với
chúng ta có ơn đức vô lượng Sư trưởng có lòng đại từ dìu dắt khuyên dỗ,
hằng dạy chúng ta tu thiện muốn chúng ta ra khỏi biển sanh tử, đến bờ giải
thoát bên kia. Mọi điều lợi ích đều khiến chúng ta thấy Phật, trừ hết phiền
não kiết tập an trú vào đạo vô vi.
Ơn đức như vậy, ai hay báo đáp cho cùng tận. Dầu trọn đời tu hành đó chỉ là
tự lợi chớ chưa phải báo đáp ơn Sư trưởng.
Sở dĩ Phật dạy:”Thiện tri thức trong thiên hạ, không ai hơn Sư trưởng, đã tự
độ mình lại hay độ người”.
Chúng ta ngày nay được xuất gia thọ đại giới, hạnh phúc nầy là nhờ ơn Sư
trưởng mà được. Như thế, mọi người há lại không lo đền đáp nhớ tưởng ơn
thầy sao?
Vậy Đại chúng cùng nhau chí tâm một lòng tha thiết, năm vóc sát đất,
nguyện vì Hòa thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng thượng, trung, hạ tòa và
quyến thuộc của các vị ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Tối Thượng Phật
Nam mô Thanh Tịnh Chiếu Phật
Nam mô Huệ Đức Phật
Nam mô Diệu Âm Thanh Phật
Nam mô Đạo Sư Phật
Nam mô Vô Ngại Tạng Phật
Nam mô Thượng Thí Phật
Nam mô Đại Tôn Phật
Nam mô Trí Thế Phật
Nam mô Đại Diệm Phật
Nam mô Đế Vương Phật
Nam mô Chế Lực Phật
Nan mô Oai Đức Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Danh Văn Phật
Nam mô Đoan Nghiêm Phật
Nam mô Vô Trần Cấu Phật
Nam mô Oai Nghi Phật
Nam mô Sư Tử Quân Phật
Nam mô Thiên Vương Phật
Nam mô Danh Thanh Phật
Nam mô Thù Thắng Phật
Nam mô Đại Tạng Phật
Nam mô Phước Đức Quang Phật
Nam mô Phạm Văn Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện Hòa
thượng, A xà lê, đồng đàn tôn chứng, thượng, trung, hạ tòa và các quyến
thuộc của các vị ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, tất cả tội chướng
đều được thanh tịnh, tất cả thống khổ đều được giải thoát, tất cả phiền não
đều được đoạn trừ; tù ý sanh về tịnh độ của chư Phật, hạnh nnguyện Bồ tát
đều được hoàn toàn, tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc
vô tận, thọ mạng vô tận, trí huệ vô tận, tứ vô lượng tâm, lục ba la mật
thường được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực, tự tại như ý, vào
định Lăng Nghiêm, được tâm kim cang, không bỏ thề xưa, trở lại đời nầy,
hóa độ chúng sanh.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI LĂM : LỄ PHẬT THẾ MƯỜI PHƯƠNG
TỲ KHEO VÀ TỲ KHEO NI
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã vì Hòa thượng A xà lê
v.v... mà lệ Phật rồi, sau đây lại phải chí thành đảnh lễ Tam bảo, khắp vì
mười phương tận hư không giới, hiện tại và vị lai hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni thức xoa ma na, sa di, sa di ni cùng quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật,
lại nguyện vì mười phương, tận hư không giới hết thảy Ưu bà tắc, Ưu bà di
và quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật; lại nguyện vì từ xưa đến nay hết
thảy các nhà tín thí đàn việt, thiện ác tri thức với những người có duyên hay
vô duyên với Phật pháp, cùng quyến thuộc của các vị ấy mà lễ Phật. Như
thế, hết thảy nhơn loại trong nhơn đạo và quyến thuộc của nhơn đạo ngày
nay Đại chúng do từ bi tâm khắp vì hết thảy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đăng Vương Phật
Nam mô Trí Đảnh Phật
Nam mô Thượng Vương Phật
Nam mô Địa Vương Phật
Nam mô Chí Giải Thoát Phật
Nam mô Kim Kế Phật
Nam mô La Hầu Nhật Phật
Nam mô Mạc Năng Thắng Phật
Nam mô Mâu Ni Tịnh Phật
Nam mô Thiện Quang Phật
Nam mô Kim Tế Phật
Nam mô Chủng Đức Thiên Vương Phật
Nam mô Pháp Cái Phật
Nam mô Đức Tý Phật
Nam mô Ương Già Đà Phật
Nam mô Mỹ Diệu Huệ Phật
Nam mô Vy Ý Phật
Nam mô Chư Oai Đức Phật
Nam mô Sư Tử Kế Phật
Nam mô Giải Thoát Tướng Phật
Nam mô Oai Tướng Phật
Nam mô Đoạn Lưu Phật
Nam mô Huệ Tạng Phật
Nam mô Trí Tụ Phật
Nam mô Vô Ngại Tán Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia t6m che chở, nguyện cho mười
phương tận hư không giới hết thảy Tỳ, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa
di ni và quyến thuộc của các vị ấy; lại nguyện cho mười phương hết thảy ưu
bà tắc, ưu bà di và quyến thuộc của các vị ấy, lại nguyện cho từ xưa đến nay
hết thảy các nhà tín thí, đàn việt, thiện hữu, ác hữu, cùng các người có duyên
hay vô duyên với Phật pháp và quyến thuộc của các vị ấy, rộng ra cho đến
nhân loại, hết thảy nhân đạo, từ vô thỉ trở lại cho đến ngày nay, bao nhiêu
phiền não điều được đoạn trừ, bao nhiêu duyên chướng đều được thanh tịnh,
bao nhiêu tội nghiệp đều được sạch hết, bao nhiêu thống khổ đều được giải
thoát; xa lìa ba nghiệp, trừ năm sợ hãi; bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật
thường được hiện tiền; bốn vô ngại trí, sáu thức thần thông đều được tự tại,
tu Bồ tát hạnh, vào đạo nhất thừa, độ thoát chúng sanh.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ TỨ CHÚNG QUÁ
KHỨ
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại hết lòng đảnh lễ Tam
bảo. Nguyện vì mười phương tận hư không giới hết thảy Tỳ kheo, Tỳ kheo
ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni đã qua đời rồi; hết thảy ưu bà tắc, ưu bà di,
rộng ra cho đến mười phương hết thảy nhân đạo, hết thảy nhân đạo đã qua
đời rồi và quyến thuộc của các vị ấy, ngày nay Đại chúng do tâm từ bi đồng
như tâm của chư Phật, khắp các người ấy mà quy y thế gian Đại tử bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam Bảo Tụ Phật
Nam mô Thiện Âm Phật
Nam mô Sơn Vương Tướng Phật
Nam mô Pháp Đảnh Phật
Nam mô Giải Thoát Đức Phật
Nam mô Thiện Đoan Nghiêm Phật
Nam mô Cát Thân Phật
Nam mô Ái Ngữ Phật
Nam mô Sư Tử Lợi Phật
Nam mô Hòa Lâu Na Phật
Nam mô Sư Tử Pháp Phật
Nam mô Pháp Lực Phật
Nam mô Ái Nhạo Phật
Nam mô Tán Bất Động Phật
Nam mô Chúng Minh Vương Phật
Nam mô Giác Ngộ Phật
Nam mô Diệu Minh Phật
Nam mô Ý Trú Nghĩa Phật
Nam mô Quang Chiếu Phật
Nam mô Hương Đức Phật
Nam mô Linh Hỷ Phật
Nam mô Bất Hư Hạnh Phật
Nam mô Diệt Khuể Phật
Nam mô Thượng Sắc Phật
Nam mô Thiện Bộ Phật
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, cứu hộ nhiếp thọ, nguyện cho hết thảy
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, thức xoa ma na, sa di, sa di ni và quyến thuộc của các
vị ấy trong đời quá khứ; và nguyện cho hết thảy ưu bà tắc, ư bà di cùng
quyến thuộc của các vị ấy trong đời quá khứ; nếu có người nào bị thống khố
trong đường địa ngục, ngày nay liền được giải thoát; hoặc có người nào bị
thống khổ trong đường ngã quỉ, ngày nay liền được giải thoát; hoặc có người
nào bị thống khổ trong đường súc sanh, ngày nay liền được giải thoát; ra
khỏi tám nạn, ra khỏi tám nạn, sanh vào tám phước, hằng xa lìa đường ác,
hắng sanh về tịnh độ; tài thí vô tận, pháp thí vô tận, phước đức vô tận, an lạc
vô tận, thọ mạng vô tận, trí huệ vô tận, tứ vô lượng, lục ba la mật, thường
được hiện tiền, tứ vô ngại trí, lục thần thông lực, như ý tự tại; thường được
thấy Phật, nghe pháp, tu Bồ tát đạo, dõng mãnh, tinh tấn, không thôi không
nghỉ, tiến lên cho đến địa vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, rộng độ hết
thảy chúng sanh.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ TÁM
--- HẾT ---
QUYỂN THỨ CHÍN
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI BẢY
LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG SANH TRONG ĐỊA NGỤC A TỲ
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy từ phần quy y
trở đi cho đến phần nầy về sau đều trình vạn pháp sai biệt, tội phước bất
nhất, nhưng cũng rõ ràng như sáng và tối, tóm lại mà nói thì chỉ có thiện và
ác mà thôi.
Thiện là con đường tốt đẹp, đi lên các cõi trên, ác là nẻo xấu xa, đọa xuống
các cõi dưới, trong ba dường ác. Tu nhơn nghĩa thì đi về cảnh giới an vui tốt
đẹp, gây tàn hại thì đọa xuống cảnh giới khổ đau hà tiện. Người ở cảnh thù
thắng an vui là do nghiệp thù thắng vui mà được quả báo tốt đẹp, chứ không
phài do sự tranh đua vô đạo, tàn ác bất nhơn mà được.
Người ở cảnh thắng thọ hưởng vui thú nhiệm mầu, tự nhiên, tiêu diêu tự tại,
thẳng đến đạo bồ đề giác ngộ. Người ở cảnh hà liệt đau khổ là do nghiệp xấu
xa, hạ liệt, tàn ác bất nhơn gây ra.
Người ất ở trong hỏa thành lưới sắt; ăn thời ăn hoàn sắt nóng mãnh liệt;
uống thời uống nước đồng sôi dữ dội. Thọ mạng vô tận kiếp số vô cùng chịu
đủ thống khổ.
Thống khổ trong địa ngục không thể kể xiết, không thể chịu nổi. Tinh thần
lìa khỏi thân mạng nầy liền sa đọa vào địa ngục hỏa thành. Quả báo thì có
đao luân gia hình, đền nợ thì có đá lửa mài thân. Mạng sống kéo dài, ôm khổ
mà chịu. Dầu thoát khỏi địa ngục cũng đọa vào ngã quỉ. Thân hình tiều tụy,
ôm lòng đói khát, miệng khạc ra lửa, mạng sống mong manh. Chết rồi lại
đọa làm súc sanh chịu bao khổ sở. Do thịt làm đồ ăn thân hình bị chia xẻ nấu
nướng, yến tiệc linh đình. Hoặc là chở nặng đi xa, làm việc nguy hiểm. Đó
là một nỗi khổ nặng nhất trong ba đường ác. Đau đớn thay cho những kẻ ở
trong đêm dài của dục vọng mờ mịt không có ngày ra mà không tự biết!
Vui khổ rõ ràng như vậy, mà nói không ai tin! Cũng chỉ vì chúng sanh hay
chấp lấy cái bản ngã nhỏ nhen của mình nên không tin, lại nghi ngờ mê
muội.
Bởi nghi ngờ mê muội nên có lam ngưuời không ưa điều lành. Sở dĩ Phật
dạy: “Đời có mười việc chết đọa địa ngục: 1- Ý không chuyên làm lành,
không tu công đức. 2- Tham ăn như cọp đói kia không khác. 3- Say mê tửu
sắc, ôm lòng độc hại. 4- Thường tập ngu si, không nghe lời can gián. 5- Tự ý
sức mình, làm các việc ác. 6- Ưa giết chúng sanh, lấn hiếp người cô quả. 7-
Thường làm bạn với kẻ ác. 8- Xâm lấn phạm vi của người. 9- Lời nói không
chân thật. 10- Không thương mọi loài, làm các nghiệp ác. Những người như
thế, không thể sống lâu, chết vào đường ác”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy: Theo lởi Phật
dạy, mấy ai thoát được. Nếu không thoát được thì ở trong địa ngục đều có
tội phần.
Đại chúng mọi người đều đã lãnh hội được ý ấy, thì tự mình không nên
buông lung phải gấp tu Bồ tát đạo; cần cầu Phật pháp, lợi ích chúng sanh.
Trước là tự diệt tội cho mình, sau lá sanh phước cho người. Đó là tự lợi lợi
tha, mình và người không khác.
Ngày nay khởi tâm dõng mãnh, tâm kiên cố, tâm từ bi, tâm độ hết thảy, tâm
cứu hết thảy. Phát tâm như vậy cho đến khi thành Phật, không quên bổn
nguyện.
Nguyện xin hết thảy mười phương tận hư không giới chư Phật, chư Đại Bồ
tát, đem đại thần thông lực, đại từ bi lựa, đại giải thoát địa ngục lực, tế độ
ngã quỉ lực, cứu tế chúng sanh lực, đại thần chú lục, đại oai mãnh lực, khiến
chúng con tên . . . việc làm đều được kết quả lợi ích, lời nguyện đều được
thành tựu viên mãn.
Chúng con một lòng tha thiết đầu thành đảnh lễ Tam bảo, nguyện vì hết
thảy chúng sanh đang chịu khổ trong địa ngục a tỳ, cho đến hết thảy chúng
sanh đang chịu khổ trong hắc ám địa ngục, trong mười tám địa ngục lạnh,
trong mười tám địa ngục nóng, trong mười tám địa ngục đao luân, địa ngục
rừng kiếm, địa ngục hỏa xa, địa ngục phất sí, địa ngục hầm than mà quy y
Tam bảo.
Những địa ngục ấy lại có tám vạn bốn ngàn địa ngục khác làm quyến thuộc.
Trong ấy có bao nhiêu chúng sanh chịu khổ, chúng con nguyện do bồ đề
tâm, bồ đề hạnh, bồ đề nguyện, xin vì hết thảy chúng sanh ấy mà đảnh lễ
quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đại Âm Tán Phật
Nam mô Tịnh Nguyện Phật
Nam mô Nhật Thiên Phật
Nam mô Lạc Huệ Phật
Nam mô Nhiếp Thân Phật
Nam mô Oai Đức Thế Phật
Nam mô Sát Lợi Phật
Nam mô Đức Thừa Phật
Nam mô Thượng Kim Phật
Nam mô Giải Thoát kế Phật
Nam mô Nhạo Pháp Phật
Nam mô Trú Hạnh Phật
Nam mô Xả Kiêu Mạn Phật
Nam mô Trí Tạng Phật
Nam mô Phạm Hạnh Phật
Nam mô Chiên Đàn Phật
Nam mô Vô Ưu Danh Phật
Nam mô Đoạn Nghiêm Thân Phật
Nam mô Tướng Quốc Phật
Nam mô Liên Hoa Phật
Nam mô Vô Biên Thân Đức Phật
Nam mô Thiên Quang Phật
Nam mô Huệ Hoa Phật
Nam mô Tần Đầu Ma Phật
Nam mô Trì Phú Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi cứu độ dẫn tiếp các chúng sanh chịu khổ
trong A tỳ địa ngục, cho đến trong hắc ám địa ngục, đao luân địa ngục, hỏa
xa địa ngục, phất sí địa ngục và trong các địa ngục quyến thuộc v.v... Xin
nguyện nhờ Phật lực, Pháp lực, Bồ tát lực, nhất thế Thánh Hiền lực, khiến
các chúng sanh hiện đang chịu khổ, ngày nay liền được giải thoát; hoàn toàn
không đọa trở lại trong các địa ngục, hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ,
rốt ráo không tạo nghiệp địa ngục, không sanh vào địa ngục, sanh về Tịnh
độ, bỏ sống địa ngục, được sống trí huệ, bỏ thân địa ngục được thân kim
cang, bỏ khổ địa ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm; tứ vô lượng tâm, lục ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí, sáu
thức thần thông tự tại như ý. Đầy đủ trí huệ, tu đạo Bồ tát, dõng mãnh tinh
tấn không thôi không nghỉ, tiến đến hạnh Thập địa vào tâm Kim cang, thành
bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI TÁM : LỄ PHẬT THẾ CÁC CHÚNG
SANH TRONG ĐỊA NGỤC KHÔI HÀ, ĐỊA NGỤC THIẾT HOÀN
V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo nguyện xin vì những chúng sanh trong:
Địa ngục khôi hà,
Địa ngục rừng kiếm,
Địa ngục rừng gai,
Địa ngục cột đồng,
Địa ngục máy sắt,
Địa ngục lưới sắt,
Địa ngục hang sắt,
Địa ngục hoàn sắt,
Địa ngục đá nhọn.
Những địa ngục như vậy đầy khắp mười phương tận hư không giới.
Ngày nay chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ
trong các địa ngục ấy phát tâm bồ đề mà quy y đảnh lễ thế gian Đại từ bi
phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Phạm Tài Phật
Nam mô Bảo Thủ Phật
Nam mô Tịnh Căn Phật
Nam mô Cụ Túc Luận Phật
Nam mô Thượng Luận Phật
Nam mô Phất Sa Phật
Nam mô Đề Sa Phật
Nam mô Hữu Nhật Phật
Nam mô Xuất Nê Phật
Nam mô Đắc Trí Phật
Nam mô Mô La Phật
Nam mô Thượng Cát Phật
Nam mô Pháp Lạc Phật
Nam mô Cầu Thắng Phật
Nam mô Trí Huệ Phật
Nam mô Thiện Thánh Phật
Nam mô Võng Quang Phật
Nam mô Lưu Ly Tạng Phật
Nam mô Danh Văn Phật
Nam mô Lợi Tịch Phật
Nam mô Giáo Hóa Phật
Nam mô Nhật Minh Phật
Nam mô Thiện Minh Phật
Nam mô Chúng Đức Thượng Minh Phật
Nam mô Bảo Đức Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo, dùng sức Từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, cho các chúng
sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục khôi hả, địa ngục rừng kiếm
v.v... liền được giải thoát, hết thảy khổ quả đều được tiêu trừ. Những nghiệp
địa ngục rốt ráo thanh tịnh; bỏ thân địa ngục được thân kim cang, bỏ khổ địa
ngục, được vui Niết bàn; nhớ địa ngục khổ, phát bồ đề tâm, đồng ra khỏi nhà
lửa, thẳng đến Đạo tràng; cùng với các vị Bồ tát thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ HAI MƯƠI CHÍN : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG NHỮNG ĐỊA NGỤC UỐNG NƯỚC ĐỒNG SÔI, ĐIẠ NGỤC
HẦM HỐ V.V.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện khắp vì hết thảy chúng sanh đọa địa ngục trong mười phương
tận hư không giới.
Địa ngục uống nước đồng sôi,
Địa ngục chúng hiệp,
Địa ngục khiếu hoán,
Địa ngục Đại khiếu hoán,
Địa ngục nóng,
Địa ngục Đại nóng,
Địa ngục hầm than,
Địa ngục rừng cháy, v. v . . .
Những địa ngục ấy có vô lượng vô biên địa ngục khác làm quyến thuộc.
Trong các địa ngục ấy chúng sanh đang chịu khổ, chúng con nguyện đem
sức bồ đề tâm, thay thế hết thảy chúng sanh ấy mà đảnh lễ quy y thế gian
Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Nhơn Nguyệt Phật
Nam mô La Hầu Phật
Nam mô Cam Lồ Minh Phật
Nam mô Diệu Ý Phật
Nam mô Đại Minh Phật
Nam mô Nhất Thế Chủ Phật
Nam mô Lạc Trí Phật
Nam mô Sơn Vương Phật
Nam mô Tịch Diệt Phật
Nam mô Đức Tụ Phật
Nam mô Thiên Vương Phật
Nam mô Diệu Âm Thanh Phật
Nam mô Diệu Hoa Phật
Nam mô Trú Nghĩa Phật
Nam mô Công Đức Oai Tụ Phật
Nam mô Trí Vô Đẳng Phật
Nam mô Cam Lồ Âm Phật
Nam mô Thiện Thủ Phật
Nam mô Lợi Huệ Phật
Nam mô Tri giải Thoát Nghĩa Phật
Nam mô Thắng Âm Phật
Nam mô Lê Đà Hạnh Phật
Nam mô Thiện Nghĩa Phật
Nam mô Vô Quá Phật
Nam mô Hành Thiện Phật
Nam mô Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Kim Cang Huệ Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, nguyện cho hết
thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục uống nước đồng
sôi v.v... hết thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy khổ não đều được
giải thoát, từ nay về sau không còn đọa lại trong các địa ngục, không sanh
vào địa ngục, sanh về Tịnh độ, bỏ mạng địa ngục được mạng trí huệ, tứ vô
lượng tâm lục ba la mật thường được hiện tiền, bốn vô ngại trí sáu sức thần
thông, tự tại như ý; ra khỏi địa ngục, được vào Niết bàn, đồng như chư Phật,
thành đẳng Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH TRONG
CÁC ĐỊA NGỤC, ĐAO BINH, ĐỒNG PHỦ V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ,
nguyện vì hết thảy chúng sanh khắp mười phương, tận hư không giới, hiện
đang chịu khổ trong các địa ngục:
Địa ngục tưởng tượng,
Địa ngục Hắc sa,
Địa ngục đóng đinh vào thân,
Địa ngục giếng lửa,
Địa ngục cối đá,
Địa ngục sỏi bay,
Địa ngục đao binh,
Địa ngục đói khát,
Địa ngục chảo đồng sôi, v.v...
Những địa ngục như thế ấy vô lượng vô biên. Ngày nay chúng con nguyện
xin vì hết thảy chúng sanh trong các địa ngục ấy, đem sức Bồ đề tâm thay
thế các chúng sanh ấy mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Hoa Tạng Phật
Nam mô Diệu Quang Phật
Nam mô Nhạo Thuyết Phật
Nam mô Thiện Tế Phật
Nam mô Chúng Vương Phật
Nam mô Ly Úy Phật
Nam mô Biện Tài Phật
Nam mô Danh Văn Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Minh Phật
Nam mô Thượng Ý Phật
Nam mô Vô Úy Phật
Nam mô Đại Kiến Phật
Nam mô Phạm Âm Phật
Nam mô Thiện Âm Phật
Nam mô Huệ Tế Phật
Nam mô Vô Đẳng Ý Phật
Nam mô Kim Cang Quân Phật
Nam mô Bồ đề Ý Phật
Nam mô Thọ Vương Phật
Nam mô Bàn Đà Âm Phật
Nam mô Phước Đức Lực Phật
Nam mô Thế Đức Phật
Nam mô Thánh Ái Phật
Nam mô Thế Hạnh Phật
Nam mô Hổ Phách Phật
Nam mô Lạc Tri Phật
Nam mô Khí Âm Cái Bồ tát
Nam mô Tịch Căn Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm cứu hộ, xin cho hết thảy
chúng sanh hiện đang chịu khổ trong các địa ngục đao binh v.v... và trong hết thảy địa ngục quyến thuộc, ngày nay liền được giải thoát, bao nhiêu khổ
não đều được đoạn trừ, không sanh vào địa ngục, được sanh về Tịnh độ; bỏ
sống địa ngục được sống trí huệ, nhớ địa ngục khổ phát tâm bồ đề, tu bồ tát
hạnh không thôi không nghỉ; vào đạo nhất thừa, đủ hạnh thập địa, dùng sức
thần thông, tiếp độ chúng sanh, đồng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI MỐT : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG CÁC ĐỊA NGỤC HỎA THÀNH ĐAO SƠN V.V...
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nguyện vì hết thảy chúng
sanh trong các địa ngục cùng khắp mười phương tận hư không giới mà chí
thành lễ Tam bảo.
Địa ngục thành lửa,
Địa ngục hang đá,
Địa ngục nước sôi,
Địa ngục núi đao,
Địa ngục hổ lang,
Địa ngục giường sắt,
Địa ngục gió nóng,
Địa ngục phun lửa.
Những địa ngục ấy có vô lượng vô biên địa ngục khác làm quyến thuộc.
Ngày nay chúng con nguyện vì hết thảy chúng sanh đang chịu khổ trong các
địa ngục ấy đem sức bồ đề tâm mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Lôi Âm Vân Phật
Nam mô Thiên Ái Mục Phật
Nam mô Thiện Trí Phật
Nam mô Cụ Túc Phật
Nam mô Đức Tích Phật
Nam mô Đại Âm Phật
Nam mô Pháp Tướng Phật
Nam mô Trí Âm Phật
Nam mô Vô Hư Không Phật
Nam mô Từ Âm Phật
Nam mô Huệ Âm Sai Biệt Phật
Nam mô Công Đức Quang Phật
Nam mô Thánh Vương Phật
Nam mô Chúng Ý Phật
Nam mô Biện Tài Luân Phật
Nam mô Thiện Tịch Phật
Nam mô Nguyệt Diện Phật
Nam mô Nhật Danh Phật
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Công Đức Tập Phật
Nam mô Hoa Đức Tướng Phật
Nam mô Biện Tài Quốc Phật
Nam mô Bảo Thí Phật
Nam mô Ái Nguyệt Phật
Nam mô Bất Cao Phật
Nam mô Huệ Thượng Bồ tát
Nam mô Thường Bất Ly Thế Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, cho những
chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những địa ngục trên ấy, liền được giải
thoát, rộng ra cho đến hết thảy chúng sanh hiện đang chịu khổ trong những
địa ngục nhiều không thể kể xiết ở khắp mười phương đều nhờ Phật lực,
Pháp lực, Bồ tát lực, và Hiền Thánh lực, khiến các cgúng sanh ấy liền được
giải thoát hằng đoạn trừ hết nghiệp địa ngục trong mười phương.
Từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, rốt ráo không đọa lại trong ba đường
ác, xả thân thọ thân thường được gặp chư Phật, đầy đủ trí huệ, thanh tịnh tự
tại, dõng mãnh tinh tấn, không thôi không nghỉ, tu lên cho đến mãn hạnh
thập địa, vào tâm Kim cang, viên thành giống trí, do thần lực của Phật tùy
tâm tự tại.
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI HAI : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG ĐƯỜNG NGÃ QUỈ
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ,
nguyện vì mười phương tận hư không giới hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và
quyến thuộc của ngã quỉ trong đường quỉ đói đem sức tâm bồ đề mà quy y
thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Sư Tử Lực Phật
Nam mô Tự Tại Vương Phật
Nam mô Vô Lượng Tịnh Phật
Nam mô Đẳng Định Phật
Nam mô Diệt Cấu Phật
Nam mô Bất Thất Phương Tiện Phật
Nam mô Vô Nhiêu Phật
Nam mô Diệu Diện Phật
Nam mô Trí Chế Trú Phật
Nam mô Pháp Sư Vương Phật
Nam mô Đại Thiên Phật
Nam mô Thâm Ý Phật
Nam mô Vộ Lượng Phật
Nam mô Pháp Lực Phật
Nam mô Thế Cúng Dường Phật
Nam mô Hoa Quang Phật
Nam mô Tam Thế Cúng Phật
Nam mô Ứng Nhật Tạng Phật
Nam mô Thiên Cúng Dường Phật
Nam mô Thượng Trí Nhơn Phật
Nam mô Chơn Kế Phật
Nam mô Tín Cam Lồ Phật
Nam mô Kim Cang Phật
Nam mô Kiên Cố Phật
Nam mô Dược Vương Bồ tát
Nam mô Dược Thượng Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi đồng gia tâm nhiếp thọ.
Nguyện cho hết thảy thần ngã quỉ, ngã quỉ và quyến thuộc của ngã quỉ, trong
tất cả đường ngã quỉ đói ở mười phương, tận hư không giới, bao nhiêu tội
chướng đều được tiêu trừ; bao nhiêu khổ nạn đều được giải thoát, thân tâm
thanh tịnh, không còn khổ não; thân tâm no đủ, không còn đói khát, được
pháp vị cam lồ; mắt trí huệ mở; tứ vô lượng tâm, lục ba la mật, thường được
hiện tiền, sáu thức thần thông như ý tự tại, xa lìa đường ngã quỉ, vào cõi Niết
bàn, đồng với chư Phật thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BA : LỄ PHẬT THẾ CHÚNG SANH
TRONG ĐƯỜNG SÚC SANH
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, nguyện khắp vì mười phương tận hư không giới hết thảy đường súc
sanh trong bốn loài chúng sanh, hoặc lớn, hoặc nhỏ, dưới nước trên khô,
giữa hư không; hết thảy súc sanh và quyến thuộc của tất cả chúng sanh ấy,
ngày nay chúng con do sức của tâm bồ đề mà đảnh lễ quy y thế gian Đại từ
bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Bảo Kiên Minh Phật
Nam mô Lê Đà Bộ Phật
Nam mô Tùy Nhật Phật
Nam mô Thanh Tịnh Phật
Nam mô Minh Lực Phật
Nam mô Công Đức Tụ Phật
Nam mô Cụ Túc Đức Phật
Nam mô Sư Tử Hạnh Phật
Nam mô Cao Xuất Phật
Nam mô Hoa Thí Phật
Nam mô Châu Minh Phật
Nam mô Liên Hoa Phật
Nam mô Ái Trí Phật
Nam mô Quy Đà Nghiêm Phật
Nam mô Bất Hư Hạnh Phật
Nam mô Sanh Pháp Phật
Nam mô Tương Minh Phật
Nam mô Tư Duy Nhạo Phật
Nam mô Lạc Giải Thoát Phật
Nam mô Tri Đạo Lý Phật
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Địa Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, cho hết thảy
súc sanh trong bốn loài chúng và quyến thuộc của chúng, trong tất cả đường
súc sanh ở khắp mười phương tận hư không giới, bao nhiêu tội chướng đều
được tiêu trừ, bao nhiêu khổ não đều được giải thoát, đồng xả bỏ ác thú,
đồng chứng được đạo quả; thân tâm an vui như ở đệ tam thuyền; Tứ vô
lượng tâm, lục ba la mật, thường được hiện tiền; bốn vô ngại trí, sáu sức
thần thông, như ý tự tại; xa lìa đường súc sanh, vào đường Niết bàn, nhập
Kim cang tâm, thành bậc Chánh giác.
--- o0o --- CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BỐN : VÌ SÁU ĐƯỜNG CHÚNG SANH
MÀ PHÁT NGUYỆN
Chúng con ngày nay xin nhờ công đức nhân duyên lễ Phật, sám hối thế cho
các vị Trời, các vị Tiên, Long thần, Bát bộ; nguyện xin cho hết thảy chúng
sanh trong bốn loài sáu đường, khắp mười phương, tận hư không giới, cùng
tận đời vị lai, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, không thọ thân hình
cách lầm lạc, oan uổng, không chịu các khổ sở độc hại, không tạo năm tội
nghịch, mười tội ác, không đọa vào ba đường ác nữa.
Nhờ công đức nhân duyên lễ Phật, hôm nay đều được thân nghiệp thanh
tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh, như chư đại Bồ tát ma ha tát; đều như chư đại
Bồ tát ma ha tát được đại tâm; tâm như đại địa, sanh ra các căn lành; tâm
như biển cả, giữ gìn pháp đại trí huệ của chư Phật; tâm như núi Tu di, khiến
tất cả chúng sanh đều an trú nơi vô thượng bồ đề; tâm như ngọc báu ma ni,
xa lìa tất cả phiền não; tâm như ngọc báu kim, cang, quyết định được tất cả
các pháp; tâm kiên cố tà ma ngoại đạo không thể ngăn trở phá hoại; tâm như
liên hoa, hết thảy các pháp không thể làm nhiễm nhớp; tâm như hoa Ưu đàm
bát, trong bao nhiêu kiếp, khó gặp được; tâm như hư không, hết thảy chúng
sanh không thể lường được.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường, từ nay trở đi,
so lường được tánh biết của mình, so lường được tánh quyết định tin hiểu
của mình, trừ bỏ hết các pháp giả dối, thường nghĩ tới lời pháp ngữ. Có của
gì đều bố thí, tâm không luyến tiếc; tâm dõng mãnh, không sợ hãi. Công đức
tu hành đều bố thí, cho tất cả chúng sanh, không đọa lại đường tà; chuyên
tâm một bề chánh đạo; thấy thiện như huyễn hóa, thấy ác như chiêm bao; xa
lìa sanh tử, mau ra ba cõi quan sát rõ ràng, thấu đáo pháp môn, thậm thâm vi
diệu, của Phật; tất cả đều được cúng dường hết thảy chư Phật; lễ phẩm cúng
dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Tôn pháp; lễ
phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết thảy Bồ
tát; lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ; tất cả đều được cúng dường hết
thảy Hiền thánh, lễ phẩm cúng dường đều được đầy đủ.
Nếu tất cả chúng sanh đời vị lai trái với lời đại nguyện của chúng con hôm
nay, đều xin nhờ ơn đức Tam bào, khiến cho tất cả chúng sanh ấy đồng được
vào trong bể đại nguyện nầy; liền được thành tựu công đức trí huệ; nhờ thần
lực của Phật mà tùy tâm tự tại, đồng như chư Phật, đều thành Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI LĂM : CẢNH TỈNH VÔ THƯỜNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã cùng nhau lễ Phật,
sám hối phát nguyện thế cho hết thảy chúng sanh trong lục đạo rồi; bây giờ
cần phải tỉnh ngộ vô thường.
Than ôi! Tội phước trong ba cõi, nhân quả sanh nhau ở ngay tại tâm, không
rời đương niệm, nhân quả ảnh hưởng lẫn nhau, không ngoài thiện ác; không
thể sai lầm.
Nguyện xin Đại chúng nên giác ngộ lý vô thường; phải siêng lo tu hành để
tự cứu lấy bản thân, chớ sanh tâm lười biếng mà không cố gắng.
Người trí thức thường than: “Giả sử người hưởng thú dục lạc trăm, ngàn,
vạn ức năm, rốt cuộc cũng không thể tránh được đau khổ trong ba đường
ác”. Huống gì chúng ta trong khoảng thời gian ngắn ngủi một trăm năm,
nhưng mấy ai sống được một nửa. Thế thì chúng ta không thể tự dung túng
qua ngày không lo tu tập.
Vả lại thế gian huyễn hóa, rốt cuộc tất cả đều tiêu ma. Có rồi hoàn không,
lên cao rồi phải xuống thấp; có sum họp phải có chia ly; có sanh quyết có tử;
cha mẹ vợ con chồng bạn, anh em quyến thuộc, thương yêu đến tận cốt tủy,
đến giờ phút lâm chung, không ai có thể chết thế cho ai.
Quyền cao chức trọng, vinh hoa phú quý, tiền tài bảo vật cũng không thể kéo
dài đời sống cũng không thể dùng lời lẽ, ăn uống cầu chúc để mong thoát
khỏi tử thần. Sống chết là việc vô hình, không ai có thể lư lại được!
Kinh dạy rằng: “Chết là hếr”. Tắt hơi thở rồi, thần thức thoát ly, thân hình
tan rã, nhơn vật như nhau, không ai sống mà không chết. Nhưng trong lúc bỏ
thân mạng sống nầy, khổ não vô cùng. Sáu dòng bà con, nội ngoại, vây
quanh khóc lóc. Người chết khi ấy sợ lắm; không biết nương nhờ ai.
Lúc hơi thở cuối cùng sắp tàn, người chết nhớ lại hết thảy việc thiện ác mình
đã làm trong một đời qua; hành tướng quả báo sum la hiện ra trước mắt.
Người làm lành được thiên thần (thần trời) phù hộ. Người làm ác có ngưu
đầu ngục tốt xua đuổi. Ngục tốt la sát hằng không khoan dung tha thứ. Từ
thân, hiếu tử không thể cứu giúp; vợ chồng ân ái chỉ nhìn nhau, xem cái chết
đến. Gío phong đao xẻ thân đau khổ không thể nói được.
Người chết lúc ấy ruột đau như dao cắt, bao nhiêu thống khổ đồng thời dồn
dập; tinh thần hoảng hốt như điên như cuồng. Dầu muốn khởi tâm nghĩmột
niệm hành làm một mảy phước, lễ Phật một lạy cũng không thể được. Lòng
càng hối hận, khổ não như vậy, không ai chịu thế cho ai.
Kinh Niết Bàn dạy rằng: “Người chết ở nơi chốn hiểm nạn, không có lương
thực; đường đi mờ mịt xa xăm lại không có bạn bè; ngày đêm đi mãi không
biết về đâu, không có phương hướng; thâm thúy tối tăm, không có ánh sáng;
vào vô gián địa ngục; đến rồi không thoát ra được. Sống không tu phước
chết về chỗ khổ, sầu thảm cay chua, không thể liệu trị. Việc ấy không có
hình sắc nên không thể biết trước mà lo sợ”.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã biết quả báo của sự
sống chết như sợi giây xích, không có mối manh, không bao giờ cùng tận.
Chết rồi thần hồn đi ngơ ngác, thui thủi một mình, không biết về đâu, không
ai thất biết, không thể tìm kiếm, không thể ghi nhớ. Chỉ mỗi người tự nỗ lực
siêng năng chịu khổ, chăm lo tu tập, thật hành lục độ, tứ vô lượng tâm v.v...
để làm tư lương riêng về xứ sở. Chớ ỷ mình còn mạnh khỏe mà tự yên tâm.
Phải nên hết lòng tha thiết, đảnh lễ quy y Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Đa Văn Hải Phật
Nam mô Trì Hoa Phật
Nam mô Bất Tùy Thế Phật
Nam mô Hỷ Chúng Phật
Nam mô Khổng Tước Âm Phật
Nam mô Bất Thối Một Phật
Nam mô Đoạn Hữu Ái Cấu Phật
Nam mô Oai Nghi Tế Phật
Nam mô Vô Động Phật
Nam mô Chư Thiên Lưu Bố Phật
Nam mô Bảo Bộ Phật
Nam mô Hoa Thủ Phật
Nam mô Oai Đức Phật
Nam mô Phá Oán Tặc Phật
Nam mô Phú Đa văn Phật
Nam mô Diệu Quốc Phật
Nam mô Hoa Minh Phật
Nam mô Sư Tử Trí Phật
Nam mô Nguyệt Xuất Phật
Nam mô Diệt Ám Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát.
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo đồng gia tâm che chở nguyện cho Đại chúng đồng sám
hối trong Đạo tràng từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật, bao nhiêu tội
nhơn, vô lượng khổ quả đều được đoạn trừ, phiền não kiết nghiệp hoàn toàn
thanh tịnh. Thường được đích thân tham dự các hội thuyết của chư Phật; tu
đạo Bồ tát, tự tại thọ sanh, tứ đẳng lục độ như pháp tu hành; tứ biện lục
thông hoàn toàn đầy đủ, trăm ngàn tam muội, ứng niệm hiện tiền, các môn
tổng trì đều hay chứng nhập, chóng lên Đạo tràng, thành bậc Chánh giác.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI SÁU : LỄ PHẬT THẾ NGƯỜI LÀM
CÔNG QUẢ Ở CHÙA
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng lại chí thành đảnh lễ Tam
bảo, khởi tâm từ bi, không phân biệt oán thân; nguyện vì những người ngày
nay chuyển thân trở lại vào chùa làm việc nấu ăn, gánh nước, bủa củi, tùy hỷ
công đức, vận hết năng lực làm giúp công việc về phước nghiệp khó nhọc,
nguyện khắp vì bà con quyến thuộc các người ấy, lại nguyện vỉ hết thảy
những người hiện đời nầy bị lao ngục, ách nạn khốn khổ, giam cầm trói
buộc và những người bị hành phạt khổ sở. Nghĩ thương các người ấy ở đời
tuy được làm người, nhưng vui ít khổ nhiều, gông cùm xiềng xích chia thể
lìa thân; hoặc là đời nay tạo ác, hoặc là đời trước tạo ác, nghiệp báo còn theo
dõi, hoặc đáng được phóng thích rồi, nhưng không biết do đâu giãi bày, tội
nặng bị xử tử, không người cứu.
Chúng con tên ... ngày nay do tâm từ bi nguyện vì các người ấy và quyến
thuộc của các người ấy, mà quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thứ Đệ Hành Phật
Nam mô Phước Đức Đăng Phật
Nam mô Âm Thanh Trị Phật
Nam mô Kiều Đàm Phật
Nam mô Thế Lực Phật
Nam mô Thân Tâm Trú Phật
Nam mô Thiện Nguyệt Phật
Nam mô Giác Ý Hoa Phật
Nam mô Thượng Cát Phật
Nam mô Thiện Oai Đức Phật
Nam mô Trí Lực Đức Phật
Nam mô Thiện Đăng Phật
Nam mô Kiên Hạnh Phật
Nam mô Thiện Âm Phật
Nam mô An Lạc Phật
Nam mô Nhật Diện Phật
Nam mô Lạc Giải Thoát Phật
Nam mô Giới Minh Phật
Nam mô Trú Giới Phật
Nam mô Vô Cấu Phật
Nam mô Sư Tử Phan Bồ tát
Nam mô Sư Tử Tác Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thyân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, nguyện cho
những người “chấp lai phục dịch” (gánh nước hái củi), tùy hỷ công đức và
quyến thuộc của các người ấy, từ nay trở đi cho đến ngày thành Phật hết
thảy tội chướng đều được tiêu trừ, hết thảy khổ não đều được giải thoát thọ
mạng diên trường, thân tâm an lạc, hằng lìa tai ách, không có phiền não
chướng ngại nữa, phát tâm đại thừa, tu bồ tát đạo, lục độ, tứ đẳng đều được
hoàn toàn xả lý sanh tử, đồng được an vui Niết Bàn.
Lại nguyện trong thiên hạ những người bị hình phạt tù đầy, cầm cố trói trăn,
ách nạn khốn khổ, những người tật bệnh, không được tự tại, và quyến thuộc
của các người ấy, đều nhờ oai lực công đức của chúng con lễ Phật sám hối
hôm nay mà được giải thoát khổ não, những nghiệp nhơn độc ác hoàn toàn
đoạn trừ; ra khỏi lao ngục, vào thiện pháp môn; thọc mạng vô cùng, trí tuệ
vô tận, thân tâm an lạc như ở đệ tam thiền; nhớ lao ngục khổ, tưởng báo ơn
Phật; cải ác tùng thiện, phát tâm đại thừa, hành đạo Bồ tát, vào tâm kim
cương, trở lại độ thoát hết thảy chúng sanh đồng thành Chánh giác thần lực
tự tại.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI BẢY : PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã phát tâm rồi, công việc
sám hối đã xong. Thứ lại nên đem công đức nầy phát nguyện hồi hướng cho
hết thảy chúng sanh. Vì sao vậy?
Vì hết thảy chúng sanh sở dĩ không được giải thoát đều do đắm trước quả
báo, không thể xả bỏ. Nếu có chút thiện mảy phước mà hay hồi hướng được
thì đối với quả báo không sanh tâm đắm trước, liền được giải thoát, thong
thả tự tại.
Vì vậy nên trong kinh tán thán sự tu hành biết hồi hướng là việc đại lợi ích,
cho nên Đại chúng bây giờ cũng phải phát nguyện hồi hướng và khuyến
khích mọi người không nên đắm trước quả báo. Chúng con cùng nhau trước
hết là chí tâm đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Kiên Xuất Phật
Nam mô An Xà Na Phật
Nam mô Tăng Ích Phật
Nam mô Hương Minh Phật
Nam mô Vi Lam Minh Phật
Nam mô Niệm Vương Phật
Nam mô Mật Bát Phật
Nam mô Vô Ngại Tướng Phật
Nam mô Tín Giới Phật
Nam mô Chí Diệu Đạo Phật
Nam mô Nhạo Thật Phật
Nam mô Minh Pháp Phật
Nam mô Cụ Oai Đức Phật
Nam mô Chí Tịch Diệt Phật
Nam mô Thượng Từ Phật
Nam mô Đại Từ Phật
Nam mô Cam Lồ Vương Phật
Nam mô Di Lâu Minh Phật
Nam mô Thánh Tán Phật
Nam mô Quảng Chiếu Phật
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bố Tát
Nam mô Phổ Hiền Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm phù hộ cho chúng con
hết thảy hạnh nguyện đều được viên mãn
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng từ nay cho đến ngảy
thành Phật tu Bồ tát đạo không thôi không nghỉ, trước độ chúng sanh, sau sẽ
thành Phật.
Nếu trong lúc chưa đắc đạo, còn đọa sanh tử, xin nhờ nguyện lực nầy, khiến
chúng con sanh ra nơi nào ba nghiệp thân, khẩu, ý đều được thanh tịnh,
thường phát tâm nhu nhuyến, tâm điều hòa, tâm không buông lung, tâm tịch
diệt, tâm chân thật, tâm không tạp loạn, tâm không tham lam,không keo rít,
tâm đại thù thắng, tâm đại từ bi, tâm an trú, tâm hoan hỷ, tâm độ hết thảy
chúng sanh, tâm giữ gìn bồ đề, tâm thề đồng như tâm chư Phật, phát những
tâm nhiệm mầu thù thắng rộng lớn để chuyên cầu nghe, nhiều, tu định ly
dục, lợi ích an lạc hết thảy chúng sanh, nguyện không bỏ đạo Bồ đề, thành
bậc Chánh giác.
--- o0o ---
PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG THẾ CHO CHÚNG SANH
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng chí thành đảnh lễ, quỳ gối
chắp tay, tâm niệm miệng nói theo lời nầy.
- Mười phương chư Thiên chư Tiên có công đức hạnh nghiệp gì, chúng con
nay xin hồi hướng thế, đồng quy Chánh giác đạo.
- Mười phương Long vương quỷ thần có thiện nghiệp gì thù thắng, chúng
con nay xin hồi hướng thế, đồng quy nhất thừa đạo.
- Mười phương các Nhơn vương, có tu hạnh nghiệp gì về đạo bồ đề, chúng
con nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.
- Các loài chúng sanh trong lục đạo có mảy may thiện nghiệp gì, chúng con
nay xin hồi hướng thế, đồng quy y vô thượng đạo.
- Mười phương đệ tử Phật, thiện lai chúng tỳ kheo vô trước tứ sa môn và
những vì cầu Duyên giác thừa, ẩn hiện hóa chúng sanh, hiểu rõ pháp nhân
duyên, như vậy và hết thảy đều hồi hướng Phật đạo.
- Mười phương chư Bồ tát, dọc tụng thọ trì kinh, nhập thiền, xuất thiền,
khuyến hóa chúng sanh làm hết thảy điều phước thiện như vậy, hết thảy tam
thừa Thánh chúng, có bao nhiêu cội phước đức, đều xin hồi hướng cho tất cả
chúng sanh đồng quy y vô thượng đạo.
- Các vị trên trời và dưới nhơn gian, tu thánh đạo có bao nhiêu công đức
thiện nghiệp, nay chúng con khuyên hồi hướng vô thượng đạo.
- Những vị phát tâm và sám hối, tự mìnhtu và khuyên người tu, dầu được
mảy may phước như vi trần, cũng đem thí hết cho chúng sanh. Nếu chúng
sanh không thành Phật, chúng con thề không bỏ bồ đề nguyện.
- Bao giờ chúng sanh thành Phật hết, chúng con mới chứng quả vô thượng
bồ đề.
- Nguyện xin chư Phật chư Đại Bồ tát, vô lậu các thánh nhơn, đời nầy và đời
sau, duy nguyện xin nhiếp thọ.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng cùng nhau chí tâm đảnh lễ
Tam bảo, nguyện xin thay thế các vị quốc chủ và quyến thuộc của quốc chủ
mà hồi hướng; nguyện xin thay thế cha mẹ và bà con mà hồi hướng.
- Nguyện xin thay thế Sư trưởng và chư vị đồng học mà hồi hướng.
- Nguyện xin thay thế các nhà tín thí đàn việt, thiện ác tri thức mà hồi
hướng. Nguyện xin thay thế Hộ thế tứ Thiên vương mà hồi hướng.
- Nguyện xin thay thế ma vương trong mười phương mà hồi hướng.
- Nguyện xin thay thế các vị thông minh chánh trực, thiên địa hư không, chủ
thiện phạt ác, thủ hộ trì chú, ngũ phương long vương, long thần bát bộ mà
hồi hướng.
- Nguyện xin thay thế các vị Linh kỳ, u hiển mà hồi hướng.
- Nguyện xin hồi hướng thế cho mười phương tận hư không giới hết thảy
chúng sanh.
- Nguyện xin chư Thiên, chư Tiên, long thần bát bộ, hết thảy chúng sanh, từ
nay trở đi cho đến ngày chứng quả bồ đề, hằng thể hội được pháp môn vô
tướng, không còn có tâm đắm trước quả báo nữa.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ CHÍN
--- o0o ---
QUYỂN THỨ MƯỜI
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI TÁM : BỒ TÁT HỒI HƯỚNG
Ngày nay Đại chúng đã cùng nhau chịu khó nhọc, chịu cực khổ tu tập được
vô lượng căn lành như vậy, bây giờ mỗi người lại nên suy nghĩ như thế nầy:
Chúng con đã ... tu tập được bao nhiêu căn lành đều vì lợi ích cho hết thảy
chúng sanh, khiến các chúng sanh hoàn toàn thanh tịnh.
Chúng con nhờ các căn lành tu tập sám hối khiến chúng sanh trừ diệt được
vô lượng khổ não ở các cảnh địa ngục, ngã quỉ, súc sanh, diêm la vương
v.v... đem công đứv sám hối nầy làm nhà cửa rộng lớn cho chúng sanh,
khiến chúng sanh diệt trừ được khổ ấm, làm việc đại cứu hộ, khiến chúng
sanh thoát phiền não; làm chỗ đại quy y; khiến chúng sanh xa lìa sợ hãi; làm
chỗ đại chỉ thú, khiến chúng sanh được trí huệ; làm chỗ đại an ổn, khiến
chúng sanh được chỗ cứu cánh an ổn; làm đuốc lớn soi sáng khiến chúng
sanh diệt trừ si ám; làm ngọn đèn đại minh đăng, khiến chúng sanh được an trú hoàn toàn cảnh giới thanh tịnh; làm vị đại đạo sư, khiến chúng sanh vào
pháp môn phương tiện, được thân trí thanh tịnh.
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng nhận thấy các pháp như
vậy là các vị Bồ tát ma ha tát vì kẻ oán người thân mà tu hành, đem các căn
lành đồng chung hồi hướng cho tất cả chúng sanh, đối với các chúng sanh
bình đẳng, không sai khác, vào pháp quán bình đẳng, không có tư tưởng oán
thân, thường đem con mắt từ ái mà ngó chúng sanh. Nếu chúng sanh ôm
lòng oán giận Bồ tát, sanh tâm ác nghịch, thì Bồ tát là bậc Thiện tri thức khó
điều phục tâm tánh của chúng sanh, bằng cách khéo nói pháp thâm diệu. Ví
như biển cả, các thứ độc hại của chúng sanh không thể phá hoại. Tâm Bồ tát
cũng vậy, những chúng sanh ngu si, không trí huệ, không biết báo ơn, không
thể phá hoại tâm của Bồ tát.
Những chúng sanh ấy sanh ra vô lượng ác độc cũng không thể làm động
loạn đạo tâm của Bồ tát. Ví như mặt trời sáng chiếu khắp tất cả chúng sanh;
mặt trời không vì kẻ mắt mù mà không chiếu. Đạo tâm của Bồ tát cũng vậy,
không vì người ác mà thối tâm. Bồ tát không vì chúng sanh khó điều phục
mà thối bỏ căn lành.
Bồ tát ma ha tát đối với các căn lành, lòng tin rất thanh tịnh, trưởng dưỡng
đại bi, đem các căn lành ấy, dùng thân tâm mà hồi hướng khắp cho hết thảy
chúng sanh.
Bồ tát không phải nói suông nơi miệng mà đối với các chúng sanh đều phát
tâmhoan hỷ, tâm minh tịnh, tâm nhu nhuyến, tâm từ bi, tâm ái niệm, tâm
nhiếp thủ, tâm nhiêu ích, tâm an lạc, tối thắng, đem các căn lành hồi hướng
cho chúng sanh.
Bồ tát ma ha tát phát tâm hồi hướng căn lành như vậy, chúng con nay cũng
phải mong học phương pháp hồi hướng ấy, cho nên tâm niệm miệng nói lời
nầy: “Nếu chúng con có bao nhiêu công đức đều hồi hướng cho chúng sanh;
khiến chúng sanh đồng được thanh tịnh thú (1) , được thanh tịnh sanh, đầy
đủ công đức, hết thảy các pháp thế gian không thể phá hoại; công đức trí huệ
vô cùng, vô tận, thân khẩu ý nghiệp hoàn toàn trang nghiêm, thường thấy
chư Phật đem hết lòng tin, kiên cố lãnh thọ chánh pháp; xa lìa các điều nghi
ngờ; nhớ giữ không quên Chánh pháp, thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh, tâm
thường an trú nơi thiện căn thắng diệu, hằng xa lìa sự nghèo thiếu, đầy đủ
thất thánh tài (2); tu học hết thảy các pháp Bồ tát đã học, được các căn lành;
thành tựu pháp bình đẳng được pháp giải thoát nhiệm mầu nhất thế chủng trí (3). Đối với các chúng sanh được mắt từ ái; thân căn thanh tịnh; lời nói biện
tài, trí huệ sáng suốt, phát sanh các phép lành tâm không đắm nhiễm; vào
pháp thậm thâm, thâu nhiếp hết thảy chúng sanh, đồng an trú nơi cảnh vô sở
trú của chư Phật.
Những điều hồi hướng đông như mười phương Bồ tát ma ha tát đã hồi
hướng; rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư không.
Nguyện xin cho chúng con tên . . . đồng được như sở nguyện mãn bồ đề
nguyện, tứ sanh, lục đạo, chúng sanh cũng đồng được như sở nguyện.
Lại nguyện xin chí thành đảnh lễ quy y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Oai Đức Phật
Nam mô Kiến Minh Phật
Nam mô Thiện Hành Báo Phật
Nam mô Thiện Hỷ Phật
Nam mô Vô Ưu Phật
Nam mô Bảo Minh Phật
Nam mô Oai Nghi Phật
Nam mô Lạc Phước Đức Phật
Nam mô Công Đức Hải Phật
Nam mô Tận Tướng Phật
Nam mô Đoạn Ma Phật
Nam mô Tận Ma Phật
Nam mô Quá Suy Đạo Phật
Nam mô Bất Hoại Ý Phật
Nam mô Thủy Vương Phật
Nam mô Tịch Ma Phật
Nam mô Chúng Thượng Vương Phật
Nam mô Ái Minh Phật
Nam mô Phước Đăng Phật
Nam mô Bồ Đề Tướng Phật
Nam mô Trí Âm Phật
Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát
Nam mô Bất Hưu Tức Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ khiến cho tâm
hồi hướng của chúng con được thành tựu hoàn toàn.
Nếu chúng con tên . . . có đủ vô lượng tội, đại ác nghiệp, đáng thọ vô lượng
vô biên thống khổ trong đường ác, không thể thoát được, trái với tâm bồ đề,
trái với hạnh bồ đề, trái với nguyện bồ đề, nguyện xin mười phương chư đại
Bồ tát, hết thảy Thánh Hiền, vì từ bi tâm, không trái với bổn nguyện, giúp
đỡ chúng con tên . . . ở trong ba đường ác kia cứu các chúng sanh làm cho
các chúng sanh đều được giải thoát thề không vì khổ mà bỏ chúng sanh.
Nguyện xin Bồ tát gánh nặng cho chúng con, chúng con được mãn nguyện
bình đẳng độ thoát hết thảy chúng sanh, khỏi sanh lão bệnh tử, ưu bi khổ
não, vô lượng ách nạn.
Nguyện các chúng sanh đều được thanh tịnh, đầy đủ căn lành, rối ráo giải
thoát, xả bỏ ma quân, xa lìa bạn ác gần gũi bạn lành, chân thật quyến thuộc,
thành tựu tịnh nghiệp, diệt hết các khổ, đầy đủ vô lượng hạnh nguyện của Bồ
tát, thấy Phật hoan hỷ, chứng nhất thế trí, trở lại độ thoát hết thảy chúng
sanh.
--- o0o ---
CHƯƠNG THỨ BA MƯƠI CHÍN : PHÁT NGUYỆN
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng đã phát tâm hồi hướng
rồi, thứ lại phát nguyện như thế nầy:
Luận ra: Các điều ác phát sanh đều do sáu căn . Vậy biết sáu căn là tội gốc
của tai họa. Tuy vậy nếu biết dùng sáu căn, thì sáu căn cũng hay chiêu tập vô
lượng phước nghiệp, cho nên kinh: “Thắng Man” dạy rằng:”Giữ gìn sáu căn,
cho trong sạch thân khẩu ý”.
“Căn cứ vào lẽ ấy để chứng minh sáu căn là cội gốc sanh ra các điều lành”.
Vậy nên đối với sáu căn mà phát đại thệ nguyện:
Trước hết
--- o0o ---
PHÁT NGUYỆN VỀ NHÃN CĂN (con mắt).
Nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng và hết thảy chúng
sanh trong bốn loài sáu đường ở khắp mười phương, từ nay trở đi cho đến
ngày thành Phật, mắt thường không thấy sắc huyễn, dối trá tham dục không
nhàm chán; mắt không thấy sắc siểm nịnh khuất khủc ủy mỵ, không thấy sắc
xanh vàng trắng đỏ (v.v...) mê hoặc người đời; mắt không thấy sắc có hình
trạng xấu xa, sân hận đấu tranh; không thấy sắc đánh đập làm tổn hại người khác; mắt không thấy sắc làm người ngu si, không tin mà nghi ngờ ám muội;
mắt không thấy sắc kiêu mạn, không khiêm tốn, không kính nhường, mắt
không thấy sắc tà kiến của chín mươi sáu món ngoại đạo.
Nguyện cho hết thảy chúng sanh từ nay trở đi, mắt thường thấy sắc vắng
lặng pháp thân thường trú của mười phương Phật; mắt thường thấy ba mươi
hai tướng tốt, tử ma kim sắc và tám chục vẻ đẹp của chư Phật; mắt thường
thấy sắc của chư Thiên chư Tiên dâng ngọc báu, rải hoa trời cúng Phật; mắt
thường thấy năm sắc hào quang trong miệng Phật tuông ra thuyết pháp độ
người; mắt thường thấy sắc Phật phân thân tán thể cùng khắp mười phương;
mắt thường thấy chư Phật phóng hào quang trên nhục kế cảm triệu người có
duyên đến pháp hội; mắt thường thấy sắc của mười phương Bồ tát, Bích chi,
La hán, Thánh chúng; mắt thường được cùng với chúng sanh và quyến
thuộc, quan sát sắc thân của Phật; mắt thường thấy chúng thiện vô giáo giả
sắc; mắt thường thấy sắc thất giác tịnh hoa; mắt thường thấy sắc diệu quả
giải thoát, mắt thường thấy sắc của Đại chúng trong Đạo tràng ngày nay
hoan hỷ tán thán Phật pháp, đảnh lễ thọ trì; mắt thường thấy tứ chúng vây
quanh Phật để nghe Pháp, sanh tâm khát ngưỡng; mắt thường thấy hết thẩy
người tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn; mắt thường thấy hết thảy các
tịnh mạc, thiền tư, tu tạp trí huệ; mắt thường thấy sắc của hết thảy chúng
sanh được pháp vô sanh nhẫn; hiện tiền được thọ ký thì sanh tâm hoan hỷ;
mắt thường thấy sắc bổ xứ của hết thảy các vị chứng được Kim cang huệ,
đoạn trừ vô minh, u ám; mắt thường thấy hết thảy sắc mộc dục pháp lưu bất
thối.
Đã phát nguyện về mắt rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y thế
gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiện Diệt Phật
Nam mô Phạm Tướng Phật
Nam mô Trí Hỷ Phật
Nam mô Thần Tướng Phật
Nam mô Như Chúng Vương Phật
Nam mô Trì Địa Phật
Nam mô Ái Nhật Phật
Nam mô La Hầu Nguyệt Phật
Nam mô Hoa Minh Phật
Nam mô Dược Sư Thượng Phật
Nam mô Trì Thế Lực Phật
Nam mô Phước Đức Minh Phật
Nam mô Hỷ Minh Phật
Nam mô Hảo Âm Phật
Nam mô Pháp Tự Tại Phật
Nam mô Phạm Âm Phật
Nam mô Diệu Âm Bồ tát
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm che chở, khiến đệ tử tên .
. . được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.
--- o0o --- THỨ LẠI PHÁT VỀ NHĨ CĂN (lỗ tai)
Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng và rộng ra
khắp hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường ở khắp mười phương từ
nay trở đi cho đến ngày thành đạo, tai thường không nghe tiếng khóc lóc
buồn rầu đau khổ; tai không nghe tiếng kêu la thống thiết trong địa ngục; tai
không nghe tiếng vạc nước sôi trào vọt trong địa ngục tai không nghe tiếng
cắt xẻ, mũi nhọc, núi đao, rừng kiếm; tai không nghe tiếng vô lượng khổ sở
trong mười tám ngăn địa ngục; tai không nghe tiếng nhiệt não đói khát của
ngã quỉ kiếm ăn không được; tai không nghe tiếng ngã quỉ hành động, thân
thể chi tiết bị lửa đốt vang dội như tiếng năm trăm cỗ xe kêu; tai không nghe
tiếng của súc sanh thân dài năm trăm do tuần, bị các sâu trùng nhỏ rúc rỉa
khổ sở; tai không nghe tiếng kêu la đau khổ của trâu, ngựa, lừa, lạc đà v.v...
thường chở nặng đi xa, bị roi, gậy đánh đập. Bởi kiếp trước mắc nợ người
không trả; tai không nghe tiếng đau thương của các cảnh ái ân ly biệt, của
oán thù gặp gỡ, của tám nỗi khổ v.v... hành hạ kiếp người; tai không nghe
tiếng rên siết của khổ báo do bốn trăm lẻ bốn bệnh hành hạ thân thể; tai
không nghe tiếng của hết thảy điều ác hành hạ chúng sanh; tai không nghe
tiếng chuông, linh, ốc, trống, cầm, sắc, không hầu, lâm, lang, ngọc bội làm
mê hoặc chúng sanh.
Nguyện xin hết thảy chúng sanh từ nay trở đi, tai thường nghe được tám thứ
âm thanh của chư Phật thuyết pháp; tai thường nghe được những tiếng:
“Khổ, không, vô thường, vô ngã?” tai thường nghe được tám mươi bốn ngàn
pháp ba la mật; tai thường được nghe nói các pháp chỉ là giả danh, không có
thật thể, không có tự tánh; tai thường nghe chư Phật thuyết pháp chỉ dùng
một âm thanh, mà vô lượng chúng sanh tùy theo nghiệp báo của mỗi loài mà
tự hiểu; tai thường nghe nói hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh; Phật tánh
ấy là Pháp thân thường trú bất diệt; tai thường nghe tiếng mười phương Bồ
tát tu hạnh nhẫn nhục, tinh tấn; tai thường nghe nói: được pháp vô sanh giải,
khéo nhập Phật huệ, vượt ra ba cõi; tai thường nghe tiếng các vị pháp thân
Bồ tát vào dòng pháp lưu, chơn tục đồng quán, niệm niệm đầy đủ muôn
hạnh; tai thường nghe tiếng của các vị Bích chi, La Hán và bốn quả Thanh
văn thuyết pháp; tai thường nghe Trời Đế Thích thuyết Bát nhã; tai thường
nghe các vị đại sĩ trên hàng thập địa bổ xứ trên cung trời Đâu Suất thuyết
pháp, bất thối chuyển địa hạnh, tai thường nghe nói vạn hạnh đồng qui về
cõi Phật; tai thường nghe chư Phật khen ngợi hết thảy chúng sanh hay tu
hạnh thập thiện, tùy hỷ.
Nguyện xin cho chúng sanh thường được nghe tiếng chư Phật khen ngợi:
“Lành thay! Người ấy không bao lâu sẽ thành Phật!”
Đã phát nguyện về nhĩ căn rồi; Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiện Nghiệp Phật
Nam mô Ý Vô Mậu Phật
Nam mô Đại Thí Phật
Nam mô Minh Tán Phật
Nam mô Chúng Tướng Phật
Nam mô Đức Lưu Bố Phật
Nam mô Thế Tự Tại Phật
Nam mô Đức Thọ Phật
Nam mô Đoạn Nghi Phật
Nam mô Vô Lượng Phật
Nam mô Bảo Nguyệt Bồ tát
Nam mô Nguyệt Quang Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến đệ tử
chúng con tên ... được như sở nguyện mãn bồ đề nguyện.
--- o0o ---
KẾ ĐẾN NGUYỆN VỀ TỈ CĂN (lỗ mũi)
Ngày nay nguyện xin Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng rộng ra khắp
hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, cùng tận mười phương, từ
nay trở đi cho đến ngày thành Phật, mũi thường không nghe mùi ăn uống
ngon lành do sự sát sanh hại mạng; mũi thường không nghe mùi săn bắn,
thiêu đốt, sát hại chúng sanh; mũi thường không nghe mùi ba mươi sáu vật
trong thân thể như đẫy da hôi thúi; mũi thường không nghe mùi gấm vóc lụa
là mê hoặc lòng người; mũi thường không nghe mùi lột da, xẻ thịt, thui
nướng trong địa ngục; mũi thường không nghe mùi ngã quỉ đói khát ăn uống
phẩn uế máu mủ tanh hôi; mũi thường không nghe mùi tanh tao bất tịnh của
súc sanh; mùi thường không nghe mùi hôi hám của bệnh nhân lở loét nằm
trên giường chiếu ô uế , không người chăm nom săn sóc, không thể lại gần;
mũi thường không nghe mùi hôi thối của thây ma sình chướng lên, sâu dòi
rứt rỉa thối nát.
Nguyện xin Đại chúng chúng sanh trong sáu đường từ nay trở đi, mũi
thường được ngửi mùi hương chiên đàn vô giá, thơm khắp mười phương thế
giới, mũi thường được ngủi mùi hương thơm của hoa ưu đàm bát năm sắc;
mũi thường được ngửi mùi hương thơm của các thứ hoa trong vườn hoan hỷ
của chư Thiên; mũi thường được ngửi mùi hương thơm trong thời thuyết
pháp ở cung trời Đâu suất; mũi thường được ngửi mùi hương trong khi chư
thiên chơi giỡn ở Diệu Pháp đường, mũi thường được ngửi mùi hương ngũ
giới, thập Thiên, lục niệm của chúng sanh tu hành ở mười phương; mũi
thường được ngửi mùi hương của những người tu hành thất phương tiện,
thập lục hạnh; mũi thường được ngửi mùi hương phước đức của các vị Bích
Chi Phật của các bậc hữu học, vô học trong mười phương; mũi thường được
ngửi mùi hương của các bậc Tứ Hướng, Từ quả chứng pháp vô lậu; mũi
thường được ngửi mùi hương của vô lượng Bồ tát lên các Địa vị hoan hỷ, ly
cấu, Phát quang, Diệm Huệ, Nan thắng, Hiện Tiền, Viễn Hành, Bất động,
Thiện Huệ, Pháp Vân; mũi thường được ngửi mùi hương năm phần pháp
thân: giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến của các Thánh nhơn; mũi
thường được ngửi mùi hương bồ đề của chư Phật; mũi thường được ngủi
mùi hương của ba mươi bảy phẩm trợ đạo, (4) mười hai nhân duyên quán,
(5) và sáu pháp Ba la mật, (6) mũi thường được ngửi mùi hương của các pháp đại bi, (7) tam niệm (8) thập lực (9) tứ vô sở úy (10) và mười tám pháp
bất cộng (11) của chư Phật; mũi thường được ngửi mùi hương của tám vạn
bốn ngàn (12) pháp Ba la mật; mũi thường được ngửi mùi hương của pháp
thân thường trú (13) vô lượng nhiệm mầu cùng khắp mười phương của chư
Phật.
Đã phát nguyện về tỉ căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ thế
gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Lê Đà Pháp Phật
Nam mô Ứng Cúng Dường Phật
Nam mô Độ Ưu Phật
Nam mô Nhạo An Phật
Nam mô Thế Ý Phật
Nam mô Ái Thân Phật
Nam mô Diệu Túc Phật
Nam mô Ưu Bác La Phật
Nam mô Hoa Anh Phật
Nam mô Vô Biên Biện Quang Phật
Nam mô Tín Thánh Phật
Nam mô Đức Tinh Tấn Phật
Nam mô Diệu Đức Bồ tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dùng sức từ bi, đồng gia tâm nhiếp thọ, khiến cho đệ tử
tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.
--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THIỆT CĂN (lưỡi)
Lại nguyện xin ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra
cho đến hết thảy chúng sanh trong sáu đường, khắp mười phương, từ nay trở
đi cho đến ngày thành đạo, lưỡi không nếm vị nơi thân thể của hết thảy
chúng sanh bị thương hay bị giết; lưỡi không nếm hết thảy vị bị tự tử; lưỡi
không nếm vị huyết tủy của các loài chúng sanh; lưỡi không nếm vị thuốc
độc của oan gia đối đầu; lưỡi không nếm vị ngon lành hay sanh tham ái
phiền não.
Nguyện xin lưỡi thường nếm trăm món cam lồ mỹ vị; lưỡi thường hay nếm
vị ăn uống tự nhiên của chư Thiên; lưỡi thường hay nếm vị cơm thơm ngon
ở cõi Phật Hương Tích; lưỡi thường hay nếm các vị ăn uống của chư Phật;
lưỡi thường hay nếm các vị đồ ăn do sức huân tu giới, định, huệ của pháp
thân hiện ra; lưỡi thường hay nếm pháp hỷ, thuyền duyệt thực; lưỡi thường
hay nếm vị ngon ngọt điều hòa của vô lượng công đức bồi bổ tư nhuần huệ
mạng; lưỡi thường hay nếm vị giải thoát bình đẳng một màu; lưỡi thường
hay nếm vị thù thắng nhiệm mầu, tối thượng an vui Niết Bàn, của chư Phật.
Đã phát nguyện về Thiệt căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Chơn Thật Phật
Nam mô Thiên Chủ Phật
Nam mô Lạc Cao Âm Phật
Nam mô Tín Tịnh Phật
Nam mô Bà Kỳ La Đà Phật
Nam mô Phước Đức Ý Phật
Nam mô Diệm Xí Phật
Nam mô Vô Biên Đức Phật
Nam mô Tu Thành Phật
Nam mô Sư Tử Du Phật
Nam mô Bất Động Phật
Nam mô Tín Thanh Tịnh Phật
Nam mô Hư Không Tạng Bồ tát
Nam mô Tát Đà Bà Lôn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin tam bảo dủ lòng từ bi, thương xót che chở, khiến chúng con tên .
. . được như sở nguyện, mãm bồ đề nguyện.
--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ THÂN CĂN
Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho
đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài, sáu đường ở khắp mười phương, từ
nay trở đi cho đến ngày thành Phật, thân thường không giác xúc các cảnh ngũ dục tà mỵ; thân thường không giác xúc các cảnh vạc nước sôi, lò than
nóng, nước giá lạnh trong các Địa ngục; thân thường không giác xúc các
cảnh ngã quỉ đói khát, trên đầu lửa đốt, miệng nuốt nước đồng sôi, cháy nát
tâm can, thân thể; thân thường không giác xúc các cảnh súc sanh bị lột da xẻ
thịt đau đớn khổ sở, thân thường không giác xúc các cảnh khổ não, do bốn
trăm lẻ bốn bệnh hoành hành; thân thường không giác xúc các cảnh đại hàn,
đại nhiệt, không thể kham chịu; thân thường không giác xúc các cảnh muỗi
mòng rận chí, sâu trùng cắn rứt; thân thường không giác xúc các cảnh dao
gậy, thuốc độc làm hại; thân thường không giác xúc các cảnh đói khát khốn
khổ đủ điều.
Nguyện xin thân thường giác xúc y phục nhiệm mầu của chư Thiên; thân
thường giác xúc vị cam lồ tự nhiên; thanh thường giác xúc cảnh thanh
lương, không lạnh không nóng; thân thường giác xúc cảnh không đói không
khát, không bệnh, không não; thân thường giác xúc cảnh không dao gậy khổ
sở; thân thường giác xúc cảnh thức ngủ điều yên ổn, không lo không sợ;
thân thường giác xúc cảnh gió nhẹ thổi mát ở các cõi Tịnh độ của mười
phương Phật; thân thường giác xúc cảnh tắm rửa thân tâm trong ao thất bảo
ở các cõi Tịnh độ của mười phương Phật; thân thường giác xúc cảnh không
đau khổ vì sanh già, bệnh, chết; thân thường giác xúc cảnh thân bay đi nghe
pháp với chư vị Bồ tát một cách tự tại; thân thường giác xúc cảnh chư Phật
nhập Niết Bàn cách tự tại.
Đã phát nguyện về thân căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Hạnh Minh Phật
Nam mô Long Âm Phật
Nam mô Trì Luân Phật
Nam mô Tài Thành Phật
Nam mô Thế Ái Phật
Nam mô Pháp Danh Phật
Nam mô Vô Lượng Bảo Minh Phật
Nam mô Vân Tướng Phật
Nam mô Huệ Đạo Phật
Nam mô Diệu Hương Phật
Nam mô Hư Không Âm Phật
Nam mô Hư Không Phật
Nam mô Việt Tam Giới Bồ tát
Nam mô Bạt Đà Bà La Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm phù hộ, nhiếp thọ, khiến
chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.
--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ Ý CĂN
Lại nguyện ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho
đến hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường, ở khắp mười phương, từ
nay trở đi cho đến ngày thành đạo, ý thường được biết thân sát đạo dâm;
khẩu vọng ngôn, ỷ ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu là hoạn nạn; ý thường được biết
giết cha hại mẹ, giết A la hán, làm thân Phật xuất huyết, phá sự hòa hiệp của
chúng Tăng, hủy báng Tam bảo, không tin nhân quả đều là tội đọa vô gián
địa ngục; ý thường được biết người chết rồi không mất; ý tin có nhân quả và
sự báo ứng; ý thường được biết xa ác tri thức, ưa gần thiện tri thức; ý thường
được biết theo tà sư ngoại đạo là phi pháp; ý thường được biết các pháp tam lậu (14) ngũ cái ([15]) thập triền ([16]) là hay chướng ngại đạo; ý thường
biết tam đồ là chỗ khổ báo kịch liệt, tàn khốc của sanh tử đáng sợ.
Nguyện xin ý thường biết hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh (tánh cách
làm Phật); ý thường biết chư Phật là Đấng Cha lành, Đại Từ bi, là Đấng Vô
thượng Y vương; ý thường biết hết thảy Tôn pháp là thuốc hay dùng trị bệnh
của chúng sanh; ý thường biết hết thảy Hiền Thánh là mẹ lành săn sóc bệnh
hoạn cho chúng sanh; ý thường biết quy y Tam bảo, thọ năm cấm giới, rồi tu
thập thiện là những pháp hay chiêu tập quả báo tốt đẹp ở cõi người và cõi
Trời; ý thường biết chưa khỏi sanh tử nên tu theo bảy pháp phương tiện
([17]) nên quán sát các pháp noản, đảnh ([18]); v.v. . . ý thường biết nên tu
các pháp vô lậu, khổ nhẫn, mười sáu thánh tâm ([19]) thì trước phải tu mười
sáu quán hạnh ([20]) quán sát tứ đế ([21]); ý thường biết tứ đế là bình đẳng
vô tướng ([22]) cho nên chứng được tứ quả ([23]); ý thường biết tổng tướng
([24]) biệt tướng ([25]) của tất cả các pháp; ý thường biết mười hai nhân
duyên, nhân quả ba đời, xoay vần luân chuyển không bao giờ ngừng; ý
thường biết tu hành lục độ tám vạn tế hạnh; ý thường biết đoạn trừ tám vạn
bốn ngàn trần lao; ý thường biết thể nhập được vô sanh nhẫn ([26]) thì quyết
định dứt được sanh tử; ý thường biết được thứ lớp, đầy đủ phẩm vị, giai cấp
của các Thập trú Bồ tát ([27]); ý thường biết dùng tâm Kim cang ([28]) đoạn
trừ si ám vô minh ([29]) mà chứng được quả Phật vô thượng; ý thường biết
thể tánh một phen chiếu sáng cùng cực rồi thì muôn đức đầy đủ; hoạn lụy
nhiều kiếp đều sạch hết; chứng quả Đại Niết bàn; ý thường biết được mười
trí lực ([30]) bốn vô úy ([31]) mười tám bất cộng ([32]) vô lượng công đức,
vô lượng trí huệ, vô lượng thiện pháp của chư Phật.
Đã phát nguyện về ý căn rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ
Nam mô Di Lặc Phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thiên Vương Phật
Nam mô Châu Tịnh Phật
Nam mô Thiện Tài Phật
Nam mô Đăng Diệm Phật
Nam mô Bảo Am Thanh Phật
Nam mô Nhãn Trụ Vương Phật
Nam mô La Hầu Thủ Phật
Nam mô An Ổn Phật
Nam mô Sư Tử Ý Phật
Nam mô Bảo Danh Văn Phật
Nam mô Đắc Lợi Phật
Nam mô Biến Kiến Phật
Nam mô Mã Minh Bồ tát
Nam mô Long Thọ Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi, đồng gia tâm che chở nhiếp thọ, khiến
chúng con tên . . . được như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện.
--- o0o ---
THỨ LẠI PHÁT NGUYỆN VỀ KHẨU NGHIỆP
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, rộng ra cho đến hết thảy
chúng sanh trong bốn loài sáu đường khắp mười phương, từ nay trở đi cho
đến ngày thành Phật, miệng thường không hủy báng Tam bảo; miệng không
hủy báng người hoằng thông giáo pháp, không nói việc xấu ác của người ấy;
miệng không nói làm lành không được quả báo an vui; làm ác không được
quả báo khổ sở; miệng không nói người chết mất hẳn, không chuyển sanh, không luân hồi; miệng không nói việc không lợi ích, có tổn hại cho người;
miệng không nói kinh sách của tà ma, ngoại đạo làm ra; miệng không dạy
người làm mười ác nghiệp, không dạy người tạo tội ngũ nghịch; miệng
không tán dương người làm ác; miệng không nói việc chơi cười giỡn cợt,
không lý thú của thế tục; miệng không dạy người tin theo thầy tà, quỉ thần,
đồng bóng; miệng không bình luận nhân vật xấu tốt; không giận hờn mắng
nhiếc cha mẹ, Sư trưởng, Thiện tri thức; miệng không khuyên người tạo tội,
không cấm người làm phước.
Nguyện xin miệng thường tán thán Tam bảo; tán thán người hoằng thông
giáo pháp, nêu cao công đức truyền giáo ấy; chỉ bày quả báo thiện ác lành
dữ cho người; miệng thường giác ngộ cho người biết rằng thân nầy chết rồi,
thần thức không mất; miệng thường phát ra lời lành khiến người nghe được
lợi ích; miệng thường diễn nói mười hai bộ kinh của Phật, miệng thường nói
hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh, sẽ được thường, lạc, ngã, tịnh; miệng
thường dạy người hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Sư trưởng; thường khuyên
người quy y Tam bảo, thọ trì năm giới, thập thiện lục niệm; miệng thường
tán tụng kinh điển; nói các việc lành; miệng thường dạy người gần thiện tri
thức; xa ác tri thức; miệng thường nói vô lượng công đức của hàng thập trú
Bồ tát và Phật địa; miệng thường khuyên người tu hạnh Tịnh độ; trang
nghiêm quả Phật; miệng thường dạy người lễ bái Tam bảo; miệng thường
dạy người xây dựng hình tượng, làm các việc cúng dường; miệng thường
dạy người làm các việc thiện gấp như cứu lửa cháy dầu; miệng thường dạy
người cứu giúp người nghèo khổ, không tạm nghỉ.
Đã phát nguyện về miệng rồi, Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ quy y
thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Thế Hoa Phật
Nam mô Cao Đảnh Phật
Nam mô Vô Biên Biện Tài Thành Phật
Nam mô Sai Biệt tri Kiến Phật
Nam mô Sư Tử Nha Phật
Nam mô Lê Đà Bộ Phật
Nam mô Phước Đức Phật
Nam mô Pháp Đăng Cái Phật
Nam mô Mục Kiền Liên Phật
Nam mô Vô Ưu Quốc Phật
Nam mô Ý Tứ Phật
Nam mô Lạc Bồ Đề Phật
Nam mô Sư Tử Du Hý Bồ tát
Nam mô Sư Tử Phấn Tấn Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo, dủ lòng từ bi cho chở nhiếp thọ, khiến chúng con tên .
. . được như sở nguyện, mãn Bồ đề nguyện.
--- o0o ---
CHƯ HẠNH PHÁP MÔN
Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh trong bốn loài sáu đường khắp mười
phương, từ khi phát nguyện nầy về sau, tất cả chúng sanh đều đầy đủ chư
hạnh phàp môn:
- Muốn có lòng tin Tam bảo cương quyết thì có cung kính pháp môn.
- Muốn không lòng nghi ngờ thì có kiên cố pháp môn.
- Muốn đoạn sự sanh tâm làm ác thì có sám hối pháp môn.
- Muốn lời nguyện được thanh tịnh thì có niệm hối pháp môn.
- Muốn không hủy phá ba nghiệp thì có hộ thân pháp môn.
- Muốn tịnh bốn nghiệp thì có hộ khẩu pháp môn.
- Muốn tâm thanh tịnhthì có hộ ý pháp môn.
- Muốn nguyện vọng được đầy đủ thì có bồ đề pháp môn.
- Muốn tất cả không hại thì có bi tâm pháp môn.
- Muốn lập đức hóa độ thì có từ tâm pháp môn.
- Muốn không hủy báng người khác thì có hoan hỷ pháp môn.
- Muốn không khinh dể người khác thì có chí thành pháp môn.
- Muốn diệt ba đường ác thì có Tam bảo pháp môn.
- Muốn hoàn toàn không giả dối thì có chơn thật pháp môn.
- Muốn không lòng bỉ ngã thì xả hại pháp môn.
- Muốn không do dự thì có tâm bỏ sự ràng buộc pháp môn.
- Muốn diệt trừ đấu tránh kiện tụng thì có ý vô tránh pháp môn.
- Muốn tu hạnh bình dẳng thì có ứng chánh pháp môn.
Lại nguyện xin cho hết thảy chúng sanh đầy đũ vô lượng pháp môn sau nầy:
- Tâm xu hướng pháp môn là quán tâm như huyễn.
- Ý đoạn pháp môn là xả bỏ cội gốc bất thiện.
- Thần túc pháp môn là thân tâm đều khinh tiện.
- Tín căn pháp môn là nguyện không thối chuyển.
- Tấn căn pháp môn là không xả pháp lành.
- Niệm căn pháp môn là khéo tạo đạo nghiệp.
- Định căn pháp môn là nhiếp tâm vào chánh đạo.
- Huệ căn pháp môn là quán lý vô thường khổ, không v.v...
- Tín lực pháp môn là vượt hẳn oai thế của ma vương.
- Tấn lực pháp môn là một phen tới không bao giờ lui.
- Niệm lực pháp môn là chưa tằng bỏ quên thiện niệm.
- Định lực pháp môn là diệt các vọng tưởng.
- Huệ lực pháp môn là xoay vần qua lại (vận chuyển tư tưởng).
- Truy giác pháp môn là tích cực tu hành Phật đạo.
- Chánh định pháp môn là nhập được tam muội.
- Tịnh tánh pháp môn là không ưa tu theo các thừa giáo pháp khác.
Nguyện xin cho chúng sanh đều được một trăm lẻ tám pháp môn như vậy
của Bồ tát ma ha tát; thanh tịnh Phật độ, khuyến hóa người xan tham, tật đố,
thảy đều thoát khỏi tám nạn; thảy đều nhiếp phục được người tranh tụng, sân
khuể; siêng làm các việc lành, khéo nhiếp phục người lười biếng; thảy đều
được định ý thần thông, thâu nhiếp các loạn tưởng, không cho vọng động.
Đã phát nguyện về ý căn rồi, Đại chúng lại cùng nhau chí thành đảnh lễ quy
y thế gian Đại từ bi phụ:
Nam mô Di Lặc phật
Nam mô Thích Ca Mâu ni Phật
Nam mô Pháp Thiên Kính Phật
Nam mô Đoạn Thế Lực Phật
Nam mô Cực thế Lực Phật
Nam mô Huệ Hoa Phật
Nam mô Kiên Am Phật
Nam mô An Lạc Phật
Nam mô Diệm Nghĩa Phật
Nam mô Ái Tịnh Phật
Nam mô Tàm Quý Nhan Phật
Nam mô Diệu Kế Phật
Nam mô Dục Lạc phật
Nam mô Lâu Chí Phật
Nam mô Dược vương Bồ tát
Nam mô Dược thượng Bồ tát
Nam mô Vô Biên Thân Bồ tát
Nam mô Quán thế Âm Bồ tát
Lại quy y như vậy mười phương tận hư không giới hết thảy Tam bảo.
Nguyện xin Tam bảo dủ lòng từ bi cứu hộ nhiếp thọ khiến các chúng sanh
trong bốn loài sáu đường, khắp ba cõi, nhờ sức công đức nhân duyên phát
tâm, phát nguyện của Đạo tràng sám hối nầy, đều đầy đủ phước đức trí huệ,
nhờ sức thần thông mà được tùy tâm tự tại.
--- o0o --- PHẦN CHÚC LỤY
Ngày nay Đại chúng đồng nghiệp trong Đạo tràng, đã vì chúng sanh trong
bốn loài, sáu đường mà phát thệ nguyện rồi; thứ lại xin đem các chúng sanh
ấy phó chúc cho các vị ại Bồ tát. Nguyện xin chư Đại Bồ tát dủ lòng từ bi,
đồng gia tâm nhiếp thọ cho chúng sanh được nhờ công đức sám hối phát
nguyện nầy.
Lại nguyện xin dủ lòng từ bi niệm lực khiến hết thảy chúng sanh ấy đều
muốn cầu vô thượng phước điền; hết lòng tin rằng: cúng dường Phật được
vô lượng phước báo; khiến biết hết thảy chúng sanh một lòng hướng về đức
Phật được vô lượng quả báo thù thắng thanh tịnh; nguyện xin cho chúng
sanh đối với các Phật sự không có tâm keo rít mà phát tâm đại bố thí, không
luyến tiếc gì.
Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh đối với hết thảy cơ sở Phật giáo, phát
tâm làm các việc phước điền vô thượng, xa lìa hạnh nguyện của Tiểu thừa;
tu Bồ tát đạo được vô ngại giải thoát, thành nhất thế chủng trí của chư Phật.
Lại nguyện xin hết thảy chúng sanh đối các cơ sở Phật giáo trồng vô lượng
căn lành; được vô lượng phước đức, trí huệ của Phật.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh thâu nhiếp lấy trí huệ sâu xa, nhìn vào
vô thượng chí vương được đầy đủ thanh tịnh.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh được thần lực vô ngại tự tại, dạo chơi
khắp hết thảy chỗ của chư Phật đã đến.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh nhiếp thủ lấy giáo lý Đại thừa, được vô
lượng chủng trí, an trú bất động.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh thành tựu hoàn toàn phước điền đệ nhất,
hay xuất sanh ra hết thảy trí huệ.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh đối với hết thảy chư Phật không có tâm
hiềm khích, ân hận mà lại trồng các căn lành, tham cầu trí huệ của Phật.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh dùng được phương tiện nhiệm mầu đi
đến hết thảy cõi nước trang nghiêm của chư Phật; trong một niệm đã đi sâu
vào pháp giới không biết mỏi mệt.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh được thân tướng trang nghiêm, không ai
có thể so sánh kịp; hay đi khắp hết thảy mười phương thế giới không nhàm
chán.
Lại nguyện cho hết thảy chúng sanh đều thành tựu được thân tướng rộng
lớn, đi lại tùy ý ; đều được thần lực của Phật; trang nghiêm hoàn toàn cảnh
giới giải thoát, trong khoảng một niệm thực hiện được rõ ràng sức thần
thông tự tại của chư Phật, khắp hư không pháp giới.
Đã phát đại nguyện như thế ấy rồi, rộng lớn như pháp tánh, cứu cánh như hư
không; nguyện cho các chúng sanh đồng được như sở nguyện, mãn bồ đề
nguyện. Đại chúng cùng nhau chí thành đảnh lễ Tam bảo.
Thảng hoặc như đệ tử tên . . . bị các quả báo khổ sở không thể cứu chúng
sanh, nguyện xin đem các chúng sanh ấy phó thác cho:
Vô lượng vô biên, tận hư không giới pháp thân Bồ tát.
Vô lượng vô biên tận hư không giới vô lậu sắc thân Bồ tát.
Vô lượng vô biên tận hư không giới phát tâm Bồ tát.
- Hưng chánh Pháp Mã Minh Đại sư Bồ tát.
- Hưng tượng Pháp Long Thọ Đại sư Bồ tát.
- Mười phương tận hư không giới Vô Biên Thân Bồ tát.
- Mười phương tận hư không giới Quán Thấ Âm Bồ tát.
Văn Thù Sư Lợi Bồ tát
Phổ Hiền Bồ tát
Sư Tử Du Hý Bồ tát
Sư Tử Phấn tấn Bồ tát
Sư Từ Phan Bồ tát
Sư Tử Tác Bồ tát
Kiên Dõng Tinh Tấn Bồ tát
Kim Cang Huệ Bồ tát
Khí Ấm cái Bồ tát
Tịch Căn Bồ tát
Huệ Thượng Bồ tát
Thường Bất Ly Thế Bồ tát
Dược Vương Bồ tát
Dược Thượng Bồ tát
Hư Không Tạng Bồ tát
Kim Cang Tạng Bồ tát
Thường Tinh Tấn Bồ tát
Bất Hưu Tức Bồ tát
Diệu Âm Bồ tát
Bảo Nguyệt Bồ tát
Nguyệt Quang Bồ tát
Bạt Đà Bà Lôn Bồ tát
Việt Tam Giới Bồ tát.
Lại xin phú chúc hết thảy chúng sanh ấy cho tất cả mười phương tận hư
không giới chư Đại Bồ tát.
Nguyện xin chư Đại Bồ ma ha tát dùng bổn thệ nguyện lực, thế độ chúng
sanh lực mà nhiếp thọ mười phương vô cùng vô tận hết thảy chúng sanh;
nguyện xin chư Bồ tát ma ha tát không xả bỏ chúng sanh, xem chúng sanh
đồng như thiện tri thức, không có quan niệm chia rẽ; nguyện xin cho chúng
sanh biết ơn chư Bồ tát, thân cận cúng dường chư Bồ tát. Nguyện xin chư
Bồ tát thương xót nhiếp thọ, khiến các chúng sanh ấy được tâm ngay thẳng,
theo dõi Bồ tát, không xa lìa Bồ tát. Nguyện xin cho chúng sanh biết vâng
lời Bồ tát dạy bảo, không dám trái nghịch; được tâm kiên cố, không bỏ thiện
tri thức, xa lìa tõi lỗi, tâm không thối chuyển; khiến chúng sanh vì thiện tri
thức, không tiếc thân mạng, xả bỏ hết thảy, không trái ý thiện tri thức.
Nguyện cho chúng sanh tu tập đại từ, xa lìa các điều ác; nghe chánh pháp
của Phật đều hay thọ trì; nguyện khiến chúng sanh thiện căn nghiệp báo
đồng như Bồ tát; hạnh nguyện đồng như Bồ tát; rốt ráo thanh tịnh, đầy đủ
thần thông, tùy ý tự tại; tu đạo đại thừa cho đến khi chứng được hoàn toàn
nhất thế chủng trí; ở trong thời gian ấy không có lười biếng; cỡi nghiệp trí
huệ đến chỗ an ổn, được vô ngại đạo, hoàn toàn tự tại.
Trước hết là quy y Tam bảo, đoạn nghi, sanh tín, sám hối, phát tâm, hiển quả
báo, xuất địa ngục, giải oán, tự khánh (vui mừng) phát nguyện, hồi hướng
cho đến cuối cùng là phần chúc lũy nầy, như thế, có bao nhiêu công đức đều
đem bố thí cho hết thảy chúng sanh, tận hư không giới, khắp mười phương.
Nguyện xin đức Di Lặc Thế Tôn chứng giám cho chúng con, mười phương
chư Phật, thương xót che chở cho chúng con. Những điều chúng con sám hối
đều được thành tựu; nguyện cho chúng sanh đồng với Từ bi phụ. Sanh đến
cõi nầy tham dự Hội Phật thuyết pháp đầu tiên; nghe pháp ngộ đạo; công
đức trí huệ hết thảy đều đầy đủ, cùng với chư Bồ tát, bình đẳng không sai
khác, nhập kim cang tâm, thành bậc chánh giác.
--- o0o ---
TÁN PHẬT CHÚ NGUYỆN
Đa già a già độ, a la ha tam miệu tam Phật đà, mười hiệu đầy đủ, độ người
vô lượng dứt sạch sanh tử.
Nguyện xin nhờ công đức nhân duyên sám hối hôm nay cho các chúng sanh
và mọi người đều được hoàn toàn như sở nguyện, mãn bồ đề nguyện:
1.- Đệ tử chúng con tên . . . những lời thệ nguyện hôm nay đã phát ra,
nguyện xin nguyện nào cũng đồng như mười phương tận hư không giới hết
thảy chư Phật, chư đại Bồ tát đã phát thệ nguyện.
2.- Chư Phật, chư đại Bồ tát đã có phát thệ nguyện không thể cùng tận,
chúng con hôm nay thệ nguyện cũng như vậy, rộng như pháp tánh, cứu cánh
như hư không; cùng tận đời vị lai, hết thảy số kiếp, chúng sanh không thể
tận, chúng con nguyện cũng không thể tận.
3.- Thế giới không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
4.- Hư không không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
5.- Pháp tánh không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
6.- Niết bàn không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
7.- Phật ra đời không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
8.- Trí huệ chư Phật không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
9.- Tâm tưởng biết không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận;
10.- Trí sanh khởi không thể tận, chúng con nguyện cũng không thể tận, Thế
gian đạo chủng, Pháp đạo chủng, trí huệ đạo chủng không thể tận, chúng con
nguyện cũng không thể tận.
Nếu mười điều ấy có thể cùng tận, lời nguyện của chúng con mới có thể
cùng tận. Mười điều ấy không cùng tận, nguyện chúng con không bao giờ
cùng tận, hết thảy đều Hòa nam Tam thừa Thánh chúng.
TỪ BI ĐẠO TRÀNG SÁM PHÁP
QUYỂN THỨ MƯỜI
--- HẾT ---
1 Thanh tịnh thú: Chỗ ở, nơi thác thai được thanh tịnh, tức là Y báo, Chánh
báo, Tịnh độ.
2 Thất thánh tài: Bảy thứ của báu, của Thánh nhơn sau khi đã lên địa vị
“Kiến đạo” rồi. Các kinh chia 7 thứ này có hơi khác nhau: 1.- Tín, 2.- Giới,
3.- Đa văn, 4.- Tàm, 5.- Quí, 6.- Xả, 7.- Huệ.
3 Nhất thế chủng trí: Trí huệ của Phật (Xem chú thích quyển 9 số 2)
4 37 phẩm trợ đạo: 37 pháp giúp cho đi đến Niết Bàn như con đường đạo lộ.
37 là: Tứ niệm xứ, Tứ Chánh cần, Tứ Như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất
Bồ đề phần và Bát Thánh đạo vậy.
5 12 nhân duyên quán: Quán sát 12 nhân duyên:
1.- Vô minh, 2.- Hành, 3.- Thức, 4.- Danh sắc, 5.- Lục nhập, 6.- Xúc, 7.-
Thọ, 8.- Ái, 9.-Thủ, 10.- Hữu, 11.- Sanh, 12.- Lão tử.
6 Sáu Ba la mật: Tức Lục độ: 1.- Bố thí, 2.- Trì giới, 3.- nhẫn nhục, 4.- Tinh
Tấn, 5.- Thiền định, 6.- Trí huệ.
7 ,8 Đại bi Tam miệu: Tâm đại bi của Phật thường an trú bất động trong 3
trường hợp sau đây:
1.- Phật giáo hóa chúng sanh tin Phật, Phật cũng không vui mừng, tâm
thường an trú nơi chánh niệm, chánh trí. 2.- Chúng sanh không tin Phật, Phật
cũng không buồn phiền, tâm thường an trú nơi chánh niệm, chánh trí. 3.-
Chúng sanh có khi tin, có khi cũng không tin, Phật cũng không vui mừng và
cũng không buồn phiền, tâm thường an trú nơi chánh niệm, chánh trí.
9 Thập lưc: Tức 10 trí lực của Phật. (xem chú thích số 8, quyển 5)
10 Tứ vô sở úy: Bốn món không sợ 1.- Nhất thế trí vô úy: Hiểu biết tất cả
Pháp thế và Xuất thế. 2.- Lậu tận vô úy: Dứt sạch các giống sanh tử hữu lậu.
3.- Thuyết chướng đạo: Nói rõ các đạo lý hay chướng ngại các tà ma ngoại
đạo. 4.- Thuyết tận khổ đạo: Nói rõ đạo giáo hay diệt hại các thống khổ. --
Phật đứng dậy: Phật đối giữa đại chúng tự tuyên bố 4 điều ấy một cách hùng
hồn, không sợ sệt.
11 –18 pháp bất cộng: 1.- Thân không lỗi. 2.- Miệng không lỗi. 3.- Niệm
không lỗi. 4.- Không có tâm tưởng khác. 5.- Không có tâm bất định. 6.- Không có tâm không biết mà đã xả. 7.- Sự muốn không giảm. 8.- Tinh tấn
không giảm. 9.- Niệm không giảm. 10.- Huệ không giảm. 11.- Giải thoát
không giảm. 12.- Giải thoát tri kiến không giảm. 13.- Tất cả thân nghiệp đều
hành động theo trí huệ. 14.- Tất cả khẩu nghiệp đều hành động theo trí huệ.
15.- Tất cả ý nghiệp đều hành động theo trí huệ. 16.- Trí huệ biết đời vị lai
không ngại. 17.- Trí huệ biết đời quá khứ không ngại. 18.- Trí huệ biết đời
hiện tại không ngại.
12 8.400 pháp môn là pháp môn tu hành đối trị với 8.400 phiền não.
13 Pháp thân thường trú tức là chơn thân, thật tướng của Phật, cũng gọi là
Phật tánh hay Pháp tánh.
14 Tam lậu: 1.- Dục lậu: chúng sanh bị vô minh ái nhiễm ràng buộc nên ở
mãi trong Dục giới, không ra được. 2.- Hữu lậu: Chúng sanh bị vô minh,
phiền não tạo nghiệp chịu quả nên không ra được các cõi sắc giới và Vô sắc
giới. 3.- Vô minh lậu: Chúng sinh bị vô minh che lấp tâm tánh nên không ra
khỏi ba cõi.
[15] Ngũ cái: Năm món ngăn che tâm tánh: 1.- Tham dụ. 2.- Giận nóng. 3.-
Ngủ nghỉ, tâm hôn trầm, tán loạn.4.- Trạo hối: Trong tâm có xao động, ăn
năn. 5.- Nghi ngờ: Không phân biệt được chơn ngụy, do dự, không quyết
định.
[16] 10 triền: 10 giây ràng buộc: 1.- Vô tàm: Có tội lỗi mà không biết hổ. 2.-
Vô quý: Có tội lỗi người khác biết được mà không biết thẹn. 3.- Tật: Thấy
người có đức hạnh hay ghen tị, ghen ghét. 4.- Xan: Keo kiết không biết bố
thí. 5.- Hối: Ăn năn tội lỗi đã làm. Sám hối nên dứt tâm. 6.- Thùy miên: hôn
mê, không tỉnh táo, không xét được thâm tâm. 7.- Trạo cử: trong tâm xao
động. 8.- Hôn trầm: Tinh thần hôn mê không biết gì. 9.- Sân hận: Đối nghịch
cảnh không nhẫn nhục mà hay sân hận. 10.- Phú: che dấu tội lỗi. - Mười
pháp nầy trói buộc chúng sanh trong luân hồi đau khổ.
[17] Bảy phương tiện:
1.- Ngũ đình tâm quán: a) Quán bất tịnh: để đối trị tâm tham dục. b) Quán từ
bi: để đối trị lòng hay giận hờn. c) Quán sổ tức: để đối trị tâm tán loạn. d)
Quán nhân duyên: để đối trị tâm si mê. đ) Quán niệm Phật: để đối trị nghiệp
chướng.
2.- Biệt tướng quán: Quán sát riêng từng món ví như quán Tứ niệm xứ:
Quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã.
3.- Tổng tướng quán: Trong một niệm quan sát tổng quát 4 pháp một lần:
Thân thọ tâm pháp. Như quán thân bất tịnh thì biết cả thọ, tâm, pháp cũng
vậy.
[18] 4.- Noãn vị: Lấy chỗ biệt tướng, tổng tướng, và quán cảnh Tứ đế, phát
trí hiểu được một phần tương tợ Phật tánh, hàng phục được chút đỉnh phiền
não. Cũng như hai cây gỗ cọ nhau mới thấy hơi nóng nóng.
5.- Đảnh vị: Theo noãn pháp tu tiến lên có phần thắng tấn, định huệ được rõ
ràng, như lên đỉnh núi thấy rõ 4 phương.
6.- Nhãn vị: Bởi công tu từ trước có phần thắng tấn, với cảnh Tứ đế, có
kham nhẫn làm vui.
7.- Thế đệ nhất vị: Tu Tứ đế đến đây sắp thấy Pháp tánh, vào Sơ quả đối với
thế gian là hơn hết.
[19] 16 Thánh tâm: 16 hành tướng quán sát Tứ đế để vào địa vị kiến đạo sau
khi đoạn được kiến hoặc.
[20] 16 hành quán: 16 phương pháp quán sát lý Tứ đế khổ trí nhẫn v.v...
[21] Tứ đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo là 4 sự thật quyết định.
[22] Bình đẳng vô tướng: Về phương diện Đại thừa thì Tứ đế có tính cách
bình đẳng, vô tướng, vô lượng, vô tác, nên Tứ đế không có nghĩa tiêu cực
mà là tích cựa, phát từ bi tâm cứu độ chúng sanh trước khi thành Phật.
[23] Tứ quả: 4 quả vị của Tiểu thừa:
1.- Sơ quả gọi là Tu đà hoàn hay nhập lưu, còn 7 phen sanh tử nữa mới
chứng A la hán.
2.- Nhị quả hay là Tư đà hàm, gọi là nhất lai: còn một phen sanh tử nữa mới
chứng A la hán.
3.- A na hàm hay là Bất lai: không sanh lại nữa, chết rồi chứng quả A la hán.
4.- A la hán gọi là vô sanh: hết sanh tử luân hồi.
[24]Tổng tướng. (xem chú thích số 17, Bảy phương tiện, quyển này)
[25] Biệt tướng (xem chú thích số 17, Bảy phương tiện, quyển này)
[26] Vô sanh nhẫn: cũng gọi là vô sanh pháp nhẫn: Chứng được Phật tánh là
lý tánh, bất sanh, bất diệt. Từ sơ địa đến Bát địa Bồ tát mới vào được Vô
sanh nhẫn.
[27] Thập trú: Địa vị này sau khi đã qua khỏi địa vị Thập tín, thắng tấn lên
đến Phật địa, đã vào không lý bát nhã rồi, an trú vào đó mà sanh công đức
nên gọi là “địa”.
[28] Kim cang tâm: Tâm của Bồ tát kiên cố không thể phá hoại.
[29] Vô minh: Không sáng, cội gốc của si mê, căn bản của tham, sân, si,
phiền não do vô minh mà sanh. Đến địa vị Phật mới hết vô minh, sanh giác
ngộ.
[30] 10 trí lực:(xem chú thích số 8 quyển 5).
[31] 4 món vô úy(xem chú thích số 10 quyển này).
[32] 16 pháp bất cộng(xem chú thích số 11 quyển này).
--- o0o ---
Hết
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét