1
THẬP CHÚ
1. Như Ý Bảo Luân Vương Ðà La Ni …………………………………………………………………….Page 2
2. Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú ………………………………………………………………………...Page 3
3. Công Ðức Bảo Sơn Thần Chú ……………………………………………………………………….....Page 4
4. Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú Thần Chú …………………………………………………................Page 5
5. Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà Ra Ni ………………………………….Page 6
6. Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn ……………………………………………………………………....Page 7
7. Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn ………………………………………………………………………Page 8
8. Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn ………………………………………………………………………...Page 9
9. Vãng Sanh Quyết Ðịnh Chơn Ngôn …………………………………………………………………...Page 10
10. Thiên Nữ Thần Chú ………………………………………………………………………………..…Page 11
Ghi Chú …………………………………………………………………………………………………….Page 12 2
1. Như Ý Bảo Luân Vương Ðà La Ni
Âm Hán:
Nam Mô Phật Ðà Da. Nam Mô Ðạt Ma Da. Nam Mô Tăng Dà Da. Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát ma
ha tát, cụ đại bi tâm giả. Ðát diệt tha. Án chước yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha bát đẳng mế, rô
rô rô rô, để sắc tra thước ra a yết rị, sa dạ hồng phấn ta ha.
Án, bát đạp ma chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lặc; đà bát đẳng mế hồng.
Âm Phạn:
Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya. Namo Avalokitesvaraya bodhisattvaya
mahasattvaya, maha karunikaya.Tadyatha: OM CHAKRA, VARTTI, CHINTAMANI, MAHA
PADMA, RURU, TISTA, JVALA AKARSAYA, HUM, PHAT, SVAHA.
Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng. Con xin quy mạng Đức Chuyển luân vương như ý bảo châu
đại liên hoa là Bậc đã xa lìa nội trần và ngoại trần. Con xin an trụ theo ánh lửa rực rỡ của Ngài để triệu
thỉnh chư Phật, Bồ Tát, Hiền Thánh Chúng, tám bộ Trời Rồng, chư vị Hộ Pháp giúp cho con phá bại
tâm chấp ngã, phát khởi tâm bồ đề, thành tựu cát tường.
Xuất Xứ: Như Ý Tâm Đà La Ni Kinh.
Nội dung kinh này nói về Bồ tát Quán Tự Tại được sự chấp thuận của Đức Phật liền tuyên thuyết Vô
Chướng Ngại Quán Tự Tại Liên Hoa Như Ý Bảo Luân Vương Đà La Ni . Đức Phật lại bảo: Nếu người
nào tụng chú này 1 biến thì trừ được tội, qua được tai nạn, thành tựu sự nghiệp. Còn nếu ngày nào cũng
tụng 108 biến thì sẽ có cảm ứng khiến thấy được thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà và núi Bổ
Tát La nơi Bồ tát Quán Thế Âm cư ngụ, khỏi đọa vào đường ác.
Sự Linh Ứng:
Những người trì tụng mà rõ được nghĩa thâm mật của chú này thì cái thắng lợi ấy cũng thí như cây như
ý mà sanh ra những ngọc bảo châu như ý, tùy nguyện muốn cầu việc gì cũng được. Người nào nhất
tâm trì tụng chú này, thì các thứ tai nạn đều được tiêu diệt mà đến lúc lâm chung lại được thấy đức
Phật A Di Ðà và ngài Quán Thế Âm tiếp dẫn về cõi Tịnh Ðộ.
3
2. Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú
Âm Hán:
Nam mô tam mãn đà, mẫu đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá, ta nẳng nẫm, đát điệt tha:
Án khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát nhập phạ ra,
để sắt sá để sắt sá, sắt trí rị sắt trí rị, ta phấn tra ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ ha.
Âm Phạn:
Namah samanta, Buddhanam, apratihatasa, sananam, tadyatha:
OM KHA KHA, KHAHI, KHAHI, HUM HUM, JVALA JVALA, PRAJVALA PRAJVALA, TISTA
TISTA, SITIRI SITIRI, SPHATI SPHATI, SHANTIKA, SRIYE SVAHA.
Nghĩa:
Hỡi ánh lửa rực rỡ của Như Lai Vô Kiến Đỉnh Tướng đã thiêu cháy mọi năng chấp, sở chấp hãy tỏa
sáng rực rỡ khiến cho con được an trú trong sự gia trì này nhằm phá tan sự trì độn chậm chạp của Nội
Chướng và Ngoại Chướng. Đồng thời khiến cho con dứt trừ được mọi tai nạn, thành tựu sự an vui tốt
lành.
Xuất Xứ:
Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni.
Thần chú tiêu trừ các tai nạn, thành tựu việc cát tường. Một trong 4 Đà La Ni thông dụng trong Thiền
lâm, cũng là pháp Tức Tai trong Mật giáo. Thần chú này xuất phát từ Kinh Xí Thạnh Quang Đại Oai
Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni và Kinh Đại Oai Đức Kim Luân Phật Xí Thạnh Quang Như Lai
Tiêu Diệt Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni.
4
3. Công Ðức Bảo Sơn Thần Chú
Âm Hán:
Nam mô Phật đà da, nam mô Đạt ma da, nam mô Tăng dà gia.
Án tất đế, hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
Âm Phạn:
Namo Buddhaya, Namo Dharmaya, Namo Sanghaya.
OM SIDDHI, HOH DHURU, SUDHURU, GARJA, GARBHA, SADHARI, PURNI, SVAHA.
Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Vinh quang thay sự thành tựu! Hãy vui vẻ ôm giữ, khéo ôm giữ kho tàng Chân Như! Hãy khéo giữ gìn
tự tính an lạc của Đại Niết Bàn.
Xuất Xứ:
Kinh Ðại Tập (Sutrasamuccaya)
Nếu người tụng chú này một biến, công đức cũng bằng như lễ Ðại Phật Danh kinh bốn vạn năm
ngàn bốn trăm biến. Lại như chuyển Ðại Tạng 60 vạn 5 ngàn 4 trăm biến. Tạo tội quá mười cõi sát độ,
đọa vào A Tỳ địa ngục chịu tội, kiếp hết lại sanh nơi khác để chịu tội. Niệm chú này một biến, tội kia
đều được tiêu diệt, không còn đọa vào địa ngục, khi mạng chung quyết định vãng sanh Tây phương thế
giới, được thấy Phật A Di Ðà, thượng phẩm thượng sanh.
Sự Linh Ứng:
Tập Viên Nhơn vãng sanh" có dẫn trong kinh Ðại Tập nói rằng: "Nếu người tụng chú này một biến, thì
cái công đức cũng như lễ kinh Ðại Phật Danh bốn vạn năm ngàn bốn trăm biến (45.400), còn như
phạm tội nặng đáng đọa vào địa ngục A tì, mà nhất tâm trì tụng chú này, thì trong lúc mạng chung chắc
đặng sanh về bực thượng phẩm thượng sanh bên cõi Tịnh độ mà đặng thấy Phật A Di Ðà .
Câu nói trên đây, đã được ở các bộ Ðại Tập trong đại tạng mà chưa thấy, hoặc giả có kinh Ðại Tập nào
khác nữa mà chưa nhập tạng chăng.
5
4. Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần Chú Thần Chú
Âm Hán:
Khể Thủ quy y Tô tất đế, đầu diện đảnh lễ thất cu chi. Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề, duy nguyện từ
bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đề, cu chi nẩm đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề, ta bà
ha.
Âm Phạn:
NAMO SAPTÀNÀM, SAMYAKSAMBUDDHÀYA, KOTINÀM, TADYATHÀ: OM CALE CULE
CUNDHE SVAHA.
Nghĩa:
Quy mạng bảy trăm triệu đấng Chính Đẳng Chính Giác - Chân ngôn nói rằng: Khi Thân, Khẩu, Ý hợp
nhất với sự Giác Ngộ Phật Tính sẽ đi thẳng vào Tự Tính thanh tịnh của Tâm Bồ Đề và thọ nhận mùi vị
an lạc của Đại Niết Bàn.
Xuất Xứ:
Phật Mẫu Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh
Người trì tụng thần chú này đủ chín chục muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, ngũ nghịch, tiêu
trừ tai nạn, bịnh hoạn, tăng nhiều phước thọ.
6
5. Thánh Vô Lượng Thọ Quyết Định Quang Minh Vương Đà Ra Ni
Âm Hán:
Án, nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp, điệp tá ra tể dã, đát
tháp cả đạt dã, a ra ha đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã tháp.
Án, tát rị ba, tang tu cát rị, bót rị thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ
thuật đế, mã hắt nại dã, bát rị ngỏa rị tá hắt.
Âm Phạn:
OM NAMO BHAGAVATE, APARAMITA, AJURJNÀNA, SUVINE, SCITA TEJA RÀJAYA,
TATHÀGATÀYA, ARHATE, SAMYAKSAMBUDDHÀYA,
OM SARVA SAMSKÀRA PARI’SUDDHA, DHARMATE, GAGANA, SAMUDGATE
SVÀBHAVA, VISUDDHE, MAHÀ NAYA, PARIVERE, SVÀHÀ.
Nghĩa:
Quy mạng lễ Đức Thế Tôn VÔ LƯỢNG THỌ TRÍ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG Như Lai
Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác.
OM, tất cả hoạt động Tâm Ý đều là Pháp Tính cực thanh tịnh. Thanh tịnh như Tự Tính thắng thượng
của Hư Không. Hãy phát khởi Thắng Nguyện rộng lớn để mau chóng đạt được sự an lạc thanh tịnh của
Đại Niết Bàn.
Xuất xứ:
Thánh vô lượng thọ quyết định quang minh vương Như Lai đà la ni kinh.
7
6. Dược Sư Quán Đảnh Chơn Ngôn
Âm Hán:
Nam mô Bạc-già-phạt-đế, bệ sát xả lụ-rô, thích lưu-li, bát lạt bà, hắt ra xà giã, đát tha yết đa gia, a ra
hát đế, tam miệu tam bột đà gia, đát điệt tha. Án bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam một yết đế tóa ha.
Nam Mô Dược Sư Lưu ly Quang Vương Phật!
Âm Phạn:
NAMO BHAGAVATE, BHAISAIJYA GURU, VAITURYA, PRABHA, RAJAYA
TATHAGATAYA, ARHATE, SAMYAK SAMBUDDHAYA, TADYATHA. OM BHAISẠIJYE,
BHAISAIJYE, BHAISAIJYA, SAMUDGATE SVÀHÀ.
Nghĩa:
Quy mạng Đức Thế Tôn Dược sư lưu ly quang vương Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác -
Chân ngôn nói rằng: Xin Ngài hãy ban cho con thuốc diệt trừ bệnh Quả Báo, bệnh Nghiệp Ác, bệnh
Kiến Tư, bệnh Trần Sa, bệnh Vô Minh để cho con mau chóng phát sinh được đạo quả Vô Thượng Bồ
Đề.
Xuất Xứ:
Kinh Dược Sư
Nếu ai có bịnh chi, chỉ chuyên nhứt tâm đọc thần chú này 108 biến để chú nguyện vào ly nước sạch rồi
uống thì các bệnh đều tiêu trừ. Còn người nào chuyên tâm trì tụng trọn đời thì được không đau ốm, đến
lúc mạng chung được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly bên Đông Phương của Phật Dược Sư.
8
7. Quán Âm Linh Cảm Chơn Ngôn
Âm Hán:
Án, ma ni bát di hồng, ma hắt nghê nha nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi đạt rị cát, tát nhi cáng
nhi tháp, bốc rị tất tháp cát nạp, bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu thất ban nạp, nại ma lô kiết, thuyết ra da , tá
ha.
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm ứng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Âm Phạn:
OM MANI PADME HÙM, MAHÀ JNÀNA, KETU SAVÀDA, KETU SÀNA,
VIDHÀRIYA, SARVÀRTHA, PARISÀDHAYA, NÀPURNA, NÀPARI, UTTÀPANÀ, NAMAH
LOKE’SVARÀYA, SVÀHÀ.
Nghĩa:
OM MA NI BÁT MÊ HÙM là tính chất mầu nhiệm của cây phướng Đại Trí. Hãy ngồi dưới cây
phướng ấy, xa lìa mọi sự chấp giữ mà thành tựu trong khắp các cõi. Hãy luyện các căn cho thanh tịnh
để thành tựu viên mãn các pháp và siêu việt tất cả. Con xin quy mạng công đức nội chứng của Đức
Thế Tự Tại. Nguyện cho con được thành tựu như Ngài.
Xuất Xứ:
Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương
Phật bảo Trừ Cái Chướng Bồ Tát rằng: Sáu chữ Ðại Minh Ðà La Ni này khó được gặp gỡ, nếu có
người nào được sáu chữ Ðại Minh Vương đây, thì người đó tham, sân, si, độc không thể nhiễm ô. Nếu
đeo mang trì giữ nơi thân, người đó cũng không nhiễm trước bịnh ba độc. Chơn ngôn này vô lượng
tương ưng, với các Như Lai mà còn khó biết, huống gì Bồ Tát làm thế nào biết được. Ðây là chỗ bổn
tâm vi diệu của Quán Tự Tại Bồ Tát.
9
8. Thất Phật Diệt Tội Chơn Ngôn
Âm Hán:
Ly bà lỳ bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nể đế, ma ha dà đế, chơn lăng càng đế, ta
bà ha.
Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Thế Nhứt Thiết Phật.
Âm Phạn:
REPA REPATE, KUHA KUHATE, TRANITE, NIGALA RITE, VIMARITE, MAHA GATE,
SANTIM KRITE, SVAHA.
Nghĩa:
Mọi đường lối và tính chất của sự thấp hèn đều tuân theo sự hấp thụ điều cao quý và tính chất cao quý
mà vận chuyển thành ánh sáng rực rỡ vinh quang. Đây là con đường rộng lớn hay chận đứng mọi tai
họa để viên mãn phước trí.
Xuất xứ :
Đại phương đẳng đà la ni kinh
Đây là bài chú của bảy đức Phật đã nói từ những đời quá khứ. Thần chú này hay diệt được các tội tứ
trọng, ngũ nghịch và được vô lượng phước, nếu thành tâm trì tụng.
10
9. Vãng Sanh Quyết Ðịnh Chơn Ngôn
Âm Hán:
Nam mô a di đa bà dạ, đá tha dà đá dạ, đá địa dạ tha: A di rị đô bà tỳ, A di rị đá tất đam bà tỳ, A di rị
đá tì ca lan đế, A di rị đá tì ca lan đá, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.
Âm Phạn:
NAMO AMITÀBHÀYA TATHÀGATÀYA TADYATHÀ: AMRITOD BHAVE AMRITA
SAMBHAVE AMRITA VIKRÀNTE AMRITA VIKRÀNTA GAMINI GAGANA KÌRTIKARE
SVAHA.
Nghĩa:
Quy mạng A Di Đà Như Lai. Chân ngôn nói rằng: Hiện lên cam lộ, phát sinh cam lộ, cũng mãnh cam
lộ, đạt đến cam lộ dũng mãnh, rải khắp hư không, thành tựu cát tường.
Xuất xứ:
Kinh niệm Phật ba la mật
Người chuyên tụng chú này được Phật A Di Đà thường ngự trên đỉnh đầu ủng hộ, hiện đời an ổn, khi
mạng chung được tuỳ ý vãng sanh.
11
10. Thiên Nữ Thần Chú
Âm Hán:
Nam Mô Phật Đà Da. Nam Mô Đạt Ma Da. Nam Mô Tăng Dà Da.
Nam Mô thất lỵ, ma ha để tỷ da, đát nể dã tha, ba lỵ phú lầu na giá lỵ, tam mạn đà, đạt xá ni, ma ha tỳ
ha ra dà đế, tam mạn đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca rị dã, ba nể ba ra, ba nể tát rị phạ lặt tha, tam mạn đà, tu
bác lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt mạ đế, ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế, lâu phã tăng kỳ đế, hê đế
tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà, a tha nậu đà la ni.
Âm Phạn:
NAMO BUDDHÀYA, NAMO DHARMÀYA, NAMO SANGHÀYA.
NAMO SRÌ MAHÀ DEVÀYA, TADYATHÀ, PARIPÙRNA, CALE, SAMANTA DARSANI,
MAHÀ VIHARA GATE, SAMANTA, VIDHÀNA GATE,MAHÀ KARYA PATI, SUPARIPÙRE,
SARVATHA, SAMANTA, SUPRATI, PÙRNA, AYANA, DHARMATE, MAHÀ VIBHASITE,
MAHÀ MAITRE UPASAMHÌTE, HE ! TITHU, SAMGRHÌTE, SAMANTA ARTHA
ANUPALANI.
Nghĩa:
Quy y Phật, Quy Y Pháp, Quy y Tăng.
Quy y Cát Tường Đại Thiên. Chú nói như vậy:
Hỡi Đấng quyền năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng !
Đấng chủ tể Đại Tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp nẻo rộng lớn !
Hãy khéo léo làm cho tất cả đều được đầy đủ.
Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng.
Hãy thể hiện lòng Đại Từ làm cho Lý Pháp Tính tỏa sáng màu nhiệm rộng lớn khiến cho con và chúng
sinh được thích ứng với sự lợi ích chân chính.
Mừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương. Đấng chân chính gìn giữ sự lợi ích. Hãy giúp cho con
và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản lợi ích.
Xuất xứ:
Kinh Kim Quang Minh.
Trong kinh này nói những kẻ tụng chú này, phàm muốn cần dùng điều chi thì đều được đầy đủ. 12
Ghi Chú:
Trong thời công phu khuya ở đa số các chùa đều có tụng chú Lăng Nghiêm, đại bi và thập chú. Từ lâu tôi vẫn có ý tìm lại những bản
tiếng Phạn (Sanskrit) của những bài chú này. Trong quyển "Nhị Khóa hiệp giải" có nói rõ về xuất xứ của các bài chú này, nhưng
đương nhiên là không có tiếng Phạn. Sau này Hòa thượng Thiền Tâm trong Kinh Niệm Phật Ba la mật, có phiên âm lại bài chú Vãng
Sinh cho giống với tiếng Phạn hơn. Các thần chú đều được chư tổ phiên âm từ Phạn sang Hán, rồi từ Hán sang Việt. Trải qua hai lần
phiên âm như vậy nên cũng cùng một chữ Phạn mà khi sang tiếng Việt thì biến thành nhiều dạng, thí dụ như chữ Svaha, biến thành:
xóa ha, tóa ha, tát bà ha, ta phạ ha, tá hắt. Chữ Om biến thành Án, Úm, v.v...
Theo giáo lý Mật tông hay Chân ngôn tông thì việc tụng và phát âm thần chú rất quan trọng. Vì Phạn âm (đúng hơn là Phạm âm, tức
âm thanh của Phạm thiên) có năng lực rung cảm với pháp giới và chư thiên long bát bộ. Do đó chúng ta thấy các vị Lama Tây Tạng
phải luyện giọng để tụng và phát âm các bài chú một cách rất đặc biệt.
Không phải là chuyên tu về Mật tông nên chúng ta không thể và cũng không cần phải tụng giống như các Lama, nhưng ngày nay đa
số chúng ta đều đọc được chữ quốc ngữ dựa trên các mẫu tự La tinh (a,b,c,d, ...), và tiếng Anh, tiếng Pháp, nên đều có thể đọc được
ít nhiều tiếng Phạn (la tinh hóa), mặc dù không chính xác lắm. Chúng ta tụng các thần chú Lăng Nghiêm, đại bi, thập chú vì theo
truyền thống do chư tổ để lại, và chúng ta đặt hết niềm tin nơi các ngài. Nhờ lòng tin kiên cố mà có cảm ứng. Chính vì thế mà sự
phiên âm hay phát âm không thành vấn đề, đọc là xóa ha, toá ha, hay tát bà ha cũng được.
Ngày nay với phương tiện truyền thông internet, chúng ta có thể sưu tầm, tra khảo nhiều tài liệu mà không cần phải mất công đi xa.
Nhân tìm thấy tài liệu trên website của chùa Tịnh luật (www.tinhluattemple.org) nên tôi sưu tập và biên soạn lại 10 bài thần chú này
để làm tài liệu tham khảo cho những vị nào muốn biết rõ hơn về cách chuyển âm cũng như xuất xứ. Về nghĩa thì chư tổ chủ trương
không dịch nghĩa mà chỉ dịch âm, đó là vì tâm con người hay phân biệt chấp trước và đóng khung sự vật. Một khi biết được nghĩa
rồi thì xem thường mà không tu hành thực tập nữa (sở tri chướng). Sự dịch nghĩa ở đây chỉ đại khái trên văn tự để biết một chút ý
nghĩa của bài chú. Vì thật ra kinh chú của chư Phật và Bồ tát thì vô lượng nghĩa. Những ai đã quen trì tụng thần chú bằng tiếng Tàu,
hay tiếng Việt thì cứ tiếp tục, ở đây không có ý khuyên quý vị phải đổi cách tụng. Tụng chú không phải là một cứu cánh, mà chỉ là
phương tiện trợ đạo. Người tụng chú mà tâm tham lam, ác độc, ích kỷ, không diệt trừ ngã mạn, kiêu căng, không tu sửa tánh tình,
không từ, bi, hỷ, xả, không giữ gìn ba nghiệp thanh tịnh thì dù có tụng hàng trăm ngàn biến, thọ hàng trăm lễ quán đảnh, có được
thần lực này nọ thì cũng chỉ là tà đạo, không phải là đạo Phật.
Các bài chú tiếng Phạn được trình bày ở đây với tính cách tài liệu tham khảo, chưa chắc đúng hẳn 100%, nhưng ít ra cũng cho ta
thấy được một chút mặt mũi nguyên bản và nguồn gốc của chúng. Nếu quý vị nào có tài liệu chính xác hơn thì xin hoan hỷ gửi cho
tôi để bổ chính lại. Xin đa tạ.
Thích Trí Siêu
29/5/04
Được trích từ:
http://www.tangthuphathoc.net/darani/thapchu.htm
http://trisieu.free.fr/phatphap/10_chu.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét