CHƯ THIÊN HỘ PHÁP BỘ
Bản cập nhật tháng 6/2014
http://kinhmatgiao.wordpress.com 1
THAY LỜI TỰA
Giáo Điển của Phật Giáo ghi nhận có rất nhiều chư Thiên và Quỷ Thần là các vị
hộ trì Phật Pháp và bảo vệ Thế Gian. Trong đó mười hai vị Trời (thập nhị Thiên) tức
12 loại Thiên Thần, là 12 Tôn thuộc Hộ Thế Thiên Bộ trong Mật Giáo, tức là tất cả vị
thống lãnh các hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Tinh Tú, Minh Quan….. Nguyên là chư
Thần trong Thần Thoại của Ấn Độ cổ đại được Mật Giáo dùng làm chư Thần thủ hộ
các phương vị, tức chư Thiên ở tám phương (bát phương Thiên) với phương trên
(thượng phương Thiên) phương dưới (hạ phương Thiên) kèm theo Nhật Thiên, Nguyệt
Thiên
Chư Thiên thủ hộ tám phương (Bát Phương Thiên) chỉ Đế Thích Thiên (Indra) ở
phương Đông, Hoả Thiên (Agni) ở phương Đông Nam, Diễm Ma Thiên (Yama) ở
phương Nam, La Sát Thiên (Naiṛiti, hay Nṛti) ở phương Tây Nam, Thuỷ Thiên
(Varuṇa) ở phương Tây, Phong Thiên (Vāyu) ở phương Tây Bắc, Tỳ Sa Môn Thiên
(Kubera, hay Vaiśravaṇa) ở phương Bắc, Y Xá Na Thiên (Iśāna) ở phương Đông Bắc.
Phương bên trên là Phạm Thiên (Brahma), phương bên dưới là Địa Thiên
(Pṛithivi)
Mười vị Trời trên, gia thêm Nhật Thiên (Āditya), Nguyệt Thiên (Candra) hợp
làm 12 Thiên.
_ Trong 12 Thiên này thì:
Đế Thích Thiên là vị chủ thống nhiếp Thiên Quỷ trong tất cả ngọn núi thuộc
nhóm núi Tu Di (Sumeru)
Hoả Thiên là vị chủ của Thần lửa (Hoả Thần) với các chúng Thần Tiên Trì
Minh (Vidya-ṛṣī) 2
Diễm Ma Thiên là vị chủ của Ngũ Đạo Minh Quan, Thái Sơn Phủ Quân (Citra-
gupta), Tư Mệnh, Hành Dịch Thần, các hàng Quỷ đói
La Sát Thiên là vị chủ của hàng La Sát (Rākṣasa) với loài Quỷ ăn uống máu
Thuỷ Thiên là vị chủ của loài Rồng ở dòng nước, dòng thác, sông lớn, sông do
con người đào, biển lớn
Phong Thiên là vị chủ của Thần Gió (Phong Thần) với Vô Hình Lưu Hành Thần
Tỳ Sa Môn Thiên là vị chủ của hàng Dạ Xoa (Yakṣa), loại Quỷ Thần ăn nuốt
Y Xá Na Thiên là vị chủ của chúng Ma (Māra)
Phạm Thiên là vị chủ tất cả chư Thiên Tĩnh Lự (Dhyāna:Thiền Định) thuộc cõi
Sắc (Rūpa-dhātu)
Địa Thiên là vị chủ của chư Thần trên mặt đất, dưới gốc cây với chư Thần ở bãi
cát hoang vắng (Dã sa)
Nhật Thiên là vị chủ của mọi vì sao (chúng tinh), bảy Diệu, các Chấp, tất cả
Quang Thần (vị Thần toả ra ánh sáng) dạo trên hư không
Nguyệt Thiên là vị chủ 28 Tú, 12 Cung Thần, tất cả chúng Tú trụ trên hư không
Mười hai Thiên này tổng nhiếp tất cả chư Thiên, Quỷ, Thần hộ giúp cho đời. Nếu
cúng dường sẽ hay miễn trừ mọi loại tai ách, đạt được lợi ích
_ Trong Mật Giáo lại có Pháp cúng dường mười hai vị Trời này, xưng là Thập
Nhị Thiên Pháp, hoặc Thập Nhị Thiên Cúng,
Nếu cầu nguyện tiêu trừ tai hại, quốc thổ an thái...thì nên cúng dường 12 Thiên,
xưng là Thập Nhị Thiên Cúng, thường phụ tuỳ theo Đại Pháp mà tu
Man Đa La 12 Thiên là:
A_Lớp bên trong:
1_Chính Đông: Nguyệt Thiên. Chữ chủng tử là CA (ᘔ)
2_Chính Nam: Địa Thiên. Chữ chủng tử là PṚ (⹘)
3_Chính Tây: Nhật Thiên. Chữ chủng tử là Ā (゛)
4_Chính Bắc: Phạm Thiên. Chữ chủng tử là BRA(᧸)
B_Lớp thứ hai:
1_ Phương Đông: Đế Thích Thiên. Chữ chủng tử là I (㘳)
2_Phương Đông Nam: Hỏa Thiên. Chữ chủng tử là A (ㅥ)
3_Phương Nam: Diêm Ma Thiên. Chữ chủng tử là YAṂ (ᜎ)
4_Phương Tây Nam: La Sát Thiên. Chữ chủng tử là NI (㍅), hay NṚ (⹔)
5_Phương Tây: Thủy Thiên. Chữ chủng tử là VA (テ)
6_Phương Tây Bắc: Phong Thiên. Chữ chủng tử là VĀ (ᜩ)
7_Phương Bắc: Tỳ Sa Môn Thiên. Chữ chủng tử là VAI (ᜯ)
8_Phương Đông Bắc: Y Xá Na Thiên. Chữ chủng tử là Ī (㘴)
[Nếu muốn an bố thêm 4 vị Thiên Vương thì ở lớp thứ ba bên ngoài:
1_ Phương Bắc: Đa Văn Thiên. Chữ chủng tử là VAI (ᜯ)
2_ Phương Đông: Trì Quốc Thiên. Chữ chủng tử là DHṚ(⹐)
3_ Phương Nam: Tăng Trưởng Thiên. Chữ chủng tử là VI (ᜪ)
4_ Phương Tây: Quảng Mục Thiên. Chữ chủng tử là VI (ᜪ)]
3
[Thập Nhị Thiên Man Đa La này minh họa phương Đông ở bên trên, chuyển
theo bên phải là Đông Nam, Nam, Tây Nam, Tây, Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc
Bên ngoài là 4 vị Thiên Vương]
_Hoặc Man Đa La 12 Thiên được minh họa theo cách khác là:
_ Phương pháp cúng dường (Pūja) ấy tuỳ theo điều mong cầu mà có sự sai khác,
như Pháp Tức Tai thì dùng Đế Thích Thiên làm chủ, Pháp Tăng Ích thì dùng Phạm
Thiên làm chủ, Pháp Giáng Phục thì dùng Y Xá Na Thiên làm chủ, Pháp Kính Ái thì 4
dùng Tỳ Sa Môn Thiên làm chủ. Nếu muốn trừ bệnh nóng lạnh thì tuỳ dùng Nhật
Nguyệt Thiên làm chủ.
Ngoài ra còn dùng Bất Động Ngũ Đại Minh Vương làm chủ của 12 vị Trời.
Mật Giáo Nhật Bản còn thờ phụng 12 Thiên chung với các Tôn khác
_Lại nữa, trong Mật Giáo còn ghi nhận 20 Thiên thủ hộ bốn phương là:
.)5 Thiên thủ hộ Phương Đông là: Đế Thích Thiên, Phạm Thiên, Kim Cương Tồi
Thiên, Câu Ma La Thiên, Na La Diên Thiên 5
.)5 Thiên thủ hộ phương Nam là: Huỳnh Hoặc Thiên, Tuệ Tinh Thiên, Kim
Cương Thực Thiên, Nguyệt Thiên, Nhật Thiên
.)5 Thiên thủ hộ phương Tây là: La Sát Thiên, Phong Thiên, Kim Cương Y
Thiên, Hỏa Thiên, Đa Văn Thiên
.)5 Thiên thủ hộ phương Bắc là: Kim Cương Diện Thiên, Diệm Ma Thiên, Điều
Phục Thiên, Tỳ Na Dạ Ca Thiên, Thủy Thiên
Trong thời gian gần đây, với sự yêu cầu của các bạn đồng tu muốn tự mình nắm
vững hơn về ý nghĩa của Hồng Danh, Tôn Hình, Chân Ngôn, Thủ Ấn của chư Thiên và
các Quỷ Thần hộ Pháp… nên tôi cố gắng sưu tầm, phiên dịch, tổng hợp và ghi chép lại
vào tập sách này
Điều không thể tránh khỏi là tập ghi chép vẫn còn nhiều thiếu sót. Ngưỡng mong
các Bậc Cao Tăng Đại Đức, chư vị Thiện Tri Thức hãy rũ lòng Từ Bi chỉ dạy, giúp cho
tôi kịp thời sửa chữa những lỗi lầm và hoàn thiện phần ghi chép này.
Mọi Công Đức có được trong tập ghi chép này, con xin kính dâng lên hương linh
của Thân Phụ (Nguyễn Vũ Nhan) và Thân Mẫu (Vũ Thị Ni) là hai bậc ân nhân đầu
tiên của con.
Con xin kính dâng các Công Đức có được lên Thầy Thích Quảng Trí và Thầy
Thích Pháp Quang là các bậc Thầy luôn theo dõi, hỗ trợ và thúc đẩy con nghiên cứu
Phật Pháp cho chính đúng.
Tôi xin cám ơn em Mật Trí (Tống Phước Khải) và các con tôi đã nhiệt tình hỗ
trợ tài liệu, phương tiện giúp cho việc hoàn tất bản ghi chép này.
Tôi xin chân thành cám ơn nhóm Phật Tử của Đạo Tràng Phổ Độ đã hỗ trợ phần
vật chất cho tôi trong thời gian soạn dịch kinh bản.
Tôi xin chân thành cám ơn người bạn đường Ngọc Hiếu (Vũ Thị Thanh Hà) đã
cam chịu mọi sự khó khăn trong cuộc sống để giúp tôi an tâm trên con đường tìm hiểu
Chính Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Cuối cùng nguyện xin hồi hướng Công Đức này đến toàn thể chúng hữu tình
trong ba cõi sáu đường đều mau chóng xa lìa mọi ách nạn khổ đau, thường được an
vui, thọ hưởng Pháp Vị Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Cuối mùa Xuân năm Giáp Ngọ (2014)
Huyền Thanh (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi
6
ĐẾ THÍCH THIÊN
Đế Thích Thiên, tên Phạn là Śakra-devānāṃ-indra, dịch âm là Thích Ca Đề
Hoàn Nhân Đà La. Lược xưng là Thích Đề Hoàn Nhân, Thích Ca Đề Bà. Lại xưng là
Đế Thích (Śakra), Thiên Đế Thích và còn có tên gọi riêng là Nhân Đà La (Indra),
Kiều Thi Ca (Kauśika), Sa Bà Bà, Thiên Nhãn (Sahasra-netra)...
Nguyên Indra là vị Thần của Ấn Độ Giáo, là Thần Lôi Vũ có địa vị tối cao
trong các chư Thần, ngồi trên con voi ba đầu sáu ngà (Airavat), vung múa Chày Kim
Cương ngăn trị loài Ma ác và đấu tranh với hàng A Tu La (Asura) nên còn được xem
là vị Thần chiến tranh
Trong tín ngưỡng của Ấn Độ thì Thiên Đế Thích (Indra) [hoặc Phong
Thiên:Vāyu], Nhật Thiên (Sūrya, hoặc Mithra) và Hỏa Thiên (Agni) được hợp xưng
là Phệ Đà Tam Tôn (Veda-trimurti). Trong đó: Agni cai quản Hạ Giới, Indra (hoặc
Vāyu) cai quản không trung, Sūrya cai quản Thiên Giới.
Hệ thống Phệ Đà (Veda) ghi nhận Indra là vị Thần quốc gia của Ấn Độ và thống
lãnh chư Thần bảo hộ ở phương Đông. Vợ của Đế Thích là Indrī
Trong Ṛg-veda có 250 bài Thánh Ca được dành riêng cho Indra
7
_Thần Chú tán tụng Đế Thích là:
Oṃ_ Sahasra-netrāya vid mahe
Vajra-hastaya dhī mahi
Thanno indra prachodayath
OṂ_ LAṂ INDRAYA NAMAḤ
_Sau này khi du nhập vào Phật Giáo thì Indra trở thành vị Hộ Pháp (Dharma-
pāla) và được xưng là Đế Thích Thiên, là một trong 12 vị Trời, Chủ của cõi Tam
Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśa). Cõi này còn có tên là Đao Lợi Thiên, Đế Thích
Thiên, Dạ Xoa Bí Mật Kim Cương Thủ… Đây là tầng Trời thứ hai trong 6 tầng Trời
của Dục Giới (Kāma dhātu). Đế Thích trấn giữ phương Đông, cư trú tại thành Thiện
Kiến (Sudṛśa) thuộc cõi Trời Đao Lợi (Trāyastriṃśa) trên đỉnh núi Tu Di (Sumeru), 4
phương của đỉnh núi đều có thành quách của 8 Thiên, chính giữa là thành Thiện Kiến
là nơi cư ngụ của vua Trời Đế Thích, 4 góc của đỉnh núi đều có một ngọn cao 500 Do
Tuần có Thần Dạ Xoa tên là Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi) cư trú và phòng hộ chư
Thiên.
Đế Thích Thiên là một trong 8 Thiên, một trong 12 Thiên, một trong 20 Thiên,
một trong 28 Bộ của Thiên Thủ Quán Âm
8
_Theo sự ghi chép của Kinh Điển thì Đế Thích nguyên là vị Bà La Môn
(Brāhmaṇa) ở nước Ma Già Đa (Magadha), tên là Ma Già, họ là Kiêu Thi Ca
(Kauśika), tính ưa thích làm chuyện tốt lành, đối với người xuất gia với kẻ nghèo túng
khốn khổ thì đều tùy theo Duyên mà vui vẻ trợ giúp. Ông với 32 người bạn cùng nhau
tu Phước Đức. Do khi còn sống 33 người có đầy đủ Phước Đức cực lớn, cho nên sau
khi chết đồng sinh lên cõi Trời Đao Lợi là tầng trời thứ hai trên đỉnh núi Tu Di
(Sumeru), trong nhóm đó thì Ma Già Bà La Môn được làm Thiên Chủ, 32 người bạn
thành bậc Phụ Thần.
Cõi Trời Đao Lợi có 32 cung Trời, Đế Thích Thiên trụ tại thành Thiện Kiến
(hay thành Hỷ Kiến) ở trung ương thống lãnh tất cả. Chu vi vây quanh có 32 cung
Trời, phân biệt do 32 vị Phụ Thần trấn thủ. Do 33 vị này nên tầng trời ấy có tên gọi là
Tam Thập Tam Thiên (Trāyastriṃśa)
Chính Pháp Niệm Xứ kinh , quyển 25 ghi nhận 33 Thiên là :
1 ) Trụ Thiện Pháp Đường Thiên
2 ) Trụ Phong Thiên
3 ) Trụ Sơn Đỉnh Thiên
4 ) Thiện Kiến Thành Thiên (nơi cư ngụ của Đế Thích)
5 ) Bát Tư Địa Thiên
6 ) Trụ Câu Tra Thiên
7 ) Tạp Điện Thiên
8 ) Trụ Hoan Hỷ Viên Thiên
9 ) Quang Minh Thiên
10 ) Ba Lợi Gia Đa Thọ Viên Thiên
11 ) Hiểm Ngạn Thiên
12 ) Trụ Tạp Hiểm Ngạn Thiên
13 ) Trụ Ma Ni Tạp Thiên
14 ) Du Hành Địa Thiên
15 ) Kim Điện Thiên
16 ) Man Ảnh Xứ Thiên
17 ) Trụ Nhu Nhuyễn Địa Thiên
18 ) Tạp Trang Nghiêm Thiên
19 ) Như Ý Địa Thiên
20 ) Vi Tế Hành Thiên
21 ) Ca Âm Hỷ Lạc Thiên
22 ) Uy Đức Luân Thiên
23 ) Nguyệt Hành Thiên
24 ) Diễm Ma Sa La Thiên
25 ) Tốc Hành Thiên
26 ) Ảnh Chiếu Thiên
27 ) Trí Tuệ Hành Thiên
28 ) Chúng Phần Thiên
29 ) Trụ Luân Thiên
30 ) Thượng Hành Thiên
31 ) Uy Đức Nhan Thiên
32 ) Uy Đức Diễm Luân Thiên
33 ) Thanh Tĩnh Thiên
Đế Thích Thiên là vị chủ thống nhiếp Thiên Quỷ trong tất cả ngọn núi thuộc
nhóm núi Tu Di (Sumeru) bên cạnh có 10 vị Đại Thiên Tử hầu cận. Cứ nửa tháng, vào
ba ngày Trai thì ra lệnh cho bốn vị Thiên Vương, Thái Tử, Thị Giả... xem xét việc Tà 9
Chính của vạn dân trong Thiên Hạ. Nếu nghe chúng sinh trong Thế Gian làm nhiều
việc ác, bất hiếu với cha mẹ, chẳng kính bậc Sư Trưởng, chẳng tu Trai Giới, chẳng bố
thí cho người nghèo túng... thời vị Trời này lo buồn vì các Thiên Chúng bị giảm tổn
còn chúng A Tu La được tăng ích. Nếu biết được có nhiều người hiếu thuận với cha
mẹ, tôn kính phụng sự bậc Sư Trưởng, siêng tu Trai Giới, bố thí cho kẻ nghèo túng
thời rất vui vẻ vì các Thiên Chúng được tăng tích còn chúng A Tu La bị tổn giảm. Lại
nếu có người phần lớn tu Đức, tinh tiến chẳng lười biếng thời vị Trời này ban Sắc cho
vị Thần Tư Mệnh tăng thêm tuổi thọ, ngược lại sẽ chẳng giúp đỡ hoặc chặt đứt sinh
mệnh của kẻ ấy
_Sau khi Đức Thích Tôn thành Đạo thì Đế Thích Thiên thành vị Thần Thủ Hộ
của Đức Thích Tôn. Khi Đức Phật Đà lên cõi Trời Đao Lợi vì mẹ nói Pháp thời Đế
Thích Thiên cầm cái lọng báu theo hầu Đức Phật.
.)Kinh Đế Thích Sở Vấn ghi chép là: “Khi ấy Đế Thích Thiên Chủ lại bảo Thiên
Chúng của cõi Trời Đao Lợi rằng: “Này Nhân Giả! Các ông nên tác Phạm Âm
(Brahma-ghoṣa) ba lần Quy Phật. Ý ấy thế nào? Vì nay Đức Phật Thế Tôn đã được
Phạm Trú, Niết Bàn vắng lặng”
Lúc đó Thiên Chúng tùy theo Đế Thích nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, liền cúi
đầu mặt lễ hai bàn chân của Đức Phật, đứng ở trước mặt Đức Phật, khác miệng đồng
tiếng, liền tác Phạm Âm (Brahma-ghoṣa), ba lần Quy Phật là:
“Na mô na mạc (1) tát đa tát muội, bà nga phộc đế (2) đát tha nga đa dã (3) a
la ha đế, tam miểu tam một đà dã (4)”
ソᜀ ソᜃ ᚌ㐶Ჶ ᛬ᗰテᚒ ᚌᚙᗰᚍᜅ⇰ᚒ ᝌᢐ㎲㳆㛱㗚
*)Namo namaḥ tattve-bhagavate, Tathāgatāya arhate samyaksaṃbuddhāya
(Quy mệnh kính lễ Đức Thế Tôn của bản tính chân thật. Ngài là đấng Như Lai,
Ứng Cúng, Chính Đẳng Chính Giác)”
[Câu Quy Y Phật này còn được xưng tụng trước tiên trong các buổi lễ]
_Đế Thích Vấn Kinh nói rằng: “Vị Dược Xoa Thiên này ở trong đêm dài, Tâm
ấy chất trực, Phu Nhân của Đế Thích là Xá Chi (Śaci) cũng được xưng là Dược Xoa”
Như Tỳ Bà Sa Luận nói: “Thiên Đế Thích cũng yêu quý Thiết Chi Thanh Y
Dược Xoa. Đế Thích vốn là Trời Nhân Đà La (Indra) trong Phệ Đà (Veda), tay cầm
chày Kim Cương nên được xưng là Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi). Theo truyền thuyết
của Phật Giáo thì Đế Thích thuộc tám Bộ Trời Rồng, đặc biệt là vua của chúng Dược
Xoa (yakṣa)” 10
HÌNH TƯỢNG CỦA ĐẾ THÍCH THIÊN
Hình tượng của Đế Thích Thiên có nhiều dạng, thông thường là hình người Trời
cỡi con voi trắng, tay phải cầm cái chày Tam Cổ, tay trái để ở trên háng.
_Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Đông, Đế Thích cõi
Bạch Tượng Vương trụ trong mây ngũ sắc, thân làm màu vàng, tay phải cầm Tam Cổ
để ngang trái tim, tay trái nâng háng trái, rũ bàn chân trái xuống dưới. Ba vị Thiên Nữ
đều đưa tay cầm hoa sen. Hoặc dùng cái bàn chứa đầy nhóm hoa tạp, cái bàn chứa đầy
hoa sen xanh”
_Hình tượng cỡi voi ba đầu sáu ngà
11
_Hình tượng cầm chày Kim Cương có Dạ Xoa theo hầu
_Hình Tượng có hai tay cầm vỏ ốc, tượng trưng cho việc trợ giúp hoằng hóa
Chính Pháp
_Sau khi Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc thì tín ngưỡng của dân gian đã đem
dung hợp Thiên Đế Thích với Ngọc Hoàng Thượng Đế của Đạo Giáo và phụng thờ
Tôn Tượng theo dánh vẻ vua chúa
12
13
_Trong 12 Thiên thì Đế Thích Thiên là vị chủ thống nhiếp Thiên Quỷ trong tất
cả ngọn núi thuộc nhóm núi Tu Di (Sumeru), thủ hộ phương Đông
Chữ chủng tử là: I (㘳)
14
Đông Phương Đế Thích Thiên Ấn: Tay phải giống như trước, Dựng thẳng 5
ngón tay trái dính nhau, co lóng giữa của 2 ngón Địa (ngón út) Thủy (Ngón vô danh).
Đem Phong (ngón trỏ) vịn dính lưng Hỏa (ngón giữa), co lóng giữa của ngón Không
(ngón cái).
Chân Ngôn là :
“Án, nhân nại la gia, sa phộc hạ”
㛸 㘳ᦽ㗚 㛿
OṂ _ INDRĀYA SVĀHĀ
Lại có Chân Ngôn là: “Án, chước yết tha, sa phộc ha”
㛸 デᣰ 㛿
OṂ _ ŚAKRA SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Đế Thích Thiên có thân màu vàng, đầu đội
mão báu, khoác áo Yết Ma, tay phải để trước ngực cầm chày Độc Cổ, tay trái nắm
quyền để bên cạnh eo.
Mật Hiệu là: Kim Cương Khí Trượng
Chữ chủng tử là: YA (ㆎ), hay YU (ᜈ)
Tam Muội Gia Hình là: chày Độc Cổ
15
Tướng Ấn là: Nhẫn Nhục Ba La Mật Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Đế Thích Thiên có chữ chủng tử là: DHA
(ᚰ)
Tam Muội Gia Hình là: chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Nhẫn Nhục Ba La Mật Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Đế Thích Thiên có chữ chủng tử là: DHA (ᚰ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
16
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿 ᚰ
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ_ DHA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Đế Thích Thiên có chữ chủng tử là: DHA (ᚰ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Nhẫn Nhục Ba La Mật Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Đế Thích Thiên
có chữ chủng tử là: DHA (ᚰ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
17
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿 ᚰ
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ_ DHA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-Samaya) thì Đế
Thích Thiên có chữ chủng tử là: DHA (ᚰ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜈᚰ 㛿 ᚰ
OṂ _ VAJRA-YUDHA SVĀHĀ_ DHA
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Đông của Thai Tạng Giới Man Đa
La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Đế Thích Thiên có thân màu thịt đỏ, hiện hình phẫn
nộ, tay trái nắm quyền để bên eo, khoác Thiên Y và Giáp Trụ.
18
Chữ chủng tử là: ŚA (デ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ.
Tướng Ấn là: Nhẫn Ba La Mật Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁᜴ᣱᜄ㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ŚAKRĀYA - SVĀHĀ
ĐẾ THÍCH THIÊN PHI
Đế Thích Thiên Phi tên Phạn là Aindrī, dịch âm Áng Nại Lê. Lại xưng là Đế
Thích Nữ, là vợ của Đế Thích Thiên, một trong 7 Mẫu Nữ Thiên.
Tôn này chủ về Định Đức của Đế Thích Thiên
Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây của Thai Tạng Giới Man Đa La
(Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Đế Thích Thiên Phi có thân màu thịt trắng, tay phải cầm
hoa sen búp nụ, ngửa lòng bàn tay trái lên trên (hình bên trên)
Chữ chủng tử là: AI (ㆣ) 19
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen búp nụ.
Tướng Ấn là: Nhẫn Ba La Mật Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁᜴ᣱᜄ㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ŚAKRĀYA - SVĀHĀ
20
HỎA THIÊN
Hoả Thiên, tên Phạn Là Agni (dịch âm là A Kỳ Ni) hoặc Agna (dịch âm là A
Nga Na) là một vị Thần Kỳ của Ấn Độ cổ, là dạng Thần Cách Hóa của Lửa.
Vào thời đại Phệ Đà (Veda) thì vị Trời này được sùng bái rộng rãi, ngay trong
Kệ Tụng của Phệ Đà thì số bài khen vịnh vị Trời này gần sát với Trời Đế Thích và
được xem là bậc dẫn đầu của chư Thần trên mặt đất.
Lê Câu Phệ Đà (Ṛg-veda) còn xem vị Trời này là bậc trẻ tuổi nhất trong các vị
Thần
_Vị Trời này cùng với Trời Đế Thích (Indra) [hoặc Phong Thiên:Vāyu], Nhật
Thiên (Sūrya, hoặc Mithra) hợp xưng là Phệ Đà Tam Tôn (Veda-trimurti). Trong đó:
Agni cai quản Hạ Giới, Indra (hoặc Vāyu) cai quản không trung, Sūrya cai quản Thiên
Giới. 21
Nét đặc sắc của Agni là dùng nhiều loại hình thái hiển hiện ở trường sở chẳng
đồng, gồm 5 hình thức tự nhiên và 5 hình thức cúng tế.
.)Năm hình thức tự nhiên là: Lửa trần gian (Agni), sấm sét trong hư không
(indra), mặt trời ở Thiên Giới (Sūrya), lửa nhuần khắp (Vaiskvānara) lửa tàn phá
(Vedevāgni)
.)Năm hình thức cúng tế là: Lửa thiêng trong các buổi lễ (Brahlāgni), lửa trao
cho thiếu niên tu học (Brahma-carya), lửa trong lễ khai hóa (Upanayaha), lửa dùng
trong từng nhà không bao giờ được tắt (Gārhapatyāgni), lửa cúng tế Tổ Tiên hoặc vong
linh (Pakṣināgni), lửa thiêng trên giàn hỏa táng (Kravydāgni)
Trong đó, ngọn lửa thiêng trong cuộc tế lễ mới được coi là hiện thân đích thực
của Thần lửa Agni.
Do vậy Thần lửa Agni được tượng trưng cho ánh sáng phá trừ hắc ám, sức tịnh
hóa thiêu hủy thứ chẳng sạch (bất tịnh). Có lúc Agni là vị Thần, vị Sứ Giả của nhân
gian, bậc trung gian giữa thế giới loài người và thế giới Thần Thánh, có khi là vị Thần
của gia đình ban ân huệ cho người có niềm tin và đem đến sự phồn vinh giàu có, có lúc
là vị Thần thủ hộ ngăn che chướng ngại giúp cho nhà cửa bình an.
-Theo Ấn Độ Giáo thì: Agni là phương tiện chuyển tải giữa người hành lễ và chư
thiên. Cho nên, ông còn có tên là Vahni có gốc từ chữ VHNI nghĩa là người chuyển
tải, điều này được biểu tượng bằng con mắt thứ 3 (ajñakhya-cakra), nhờ đó mà lời cầu
nguyện được chuyển tới chư thiên. Cũng vậy, việc cúng tế Agni là thiết yếu để nhận sự
ban phát của chư thiên, và mục đích tối hậu của sự giác ngộ đối với người hành lễ qua
sự ân sủng của Śiva. Điều đó thể hiện qua śloka đầu tiên trong Ṛg-Veda dùng để dâng
hiến đến Agni:
Agnimīḻe purohitaṁ yajñasya devaṁṛtvijaṁ| hotarāṁ ratnadhātamam||
Toàn bộ phần Saukta đầu của Ṛg-Veda chỉ được dành để dâng hiến riêng cho
Agni, do đó nó thể hiện tầm quan trong của cúng tế Agni. 22
Trong vũ trụ Agni được sinh ra từ Mahāṛṣi Kaśyapa. Theo thiên văn, Kaśyapa
Gotra được đồng nhất với Sūrya và Śani. Đồng nhất với Sūrya bởi vì Kāśyapa là cha
của 12 Adityas và Agni. Với Śani bởi vì cũng là cha của Asura, Daitya và Danava.
_Agni có 2 vợ (śakti) tên là Svāhā và Svadhā, cả 2 đại diện cho sự dâng hiến đến
với chư thiên và tổ tiên (pitri) một cách thành kính. Do đó, các thần chú đều kết thúc
bằng 1 trong 2 từ này để ám chỉ đối tượng dâng tế là chư thiên hoặc tổ tiên. Ví dụ: Oṃ
agnaye svāhā hoặc Oṃ pitṛbhyo svadhā.
SVĀHĀ là một Thần Nữ Tính, con của Dakṣa, và là vợ của Thần lửa Agni.
Agni và Svāhā có 3 người con là Pavaka, Pavamaṇa và Śuci. Có khi Svāha được xác
định là Uma hoặc Parvati
Trong Brahma-vaivarta-pūraṇa thì Svāhā là một hiện thân của Prakṛti, một
Śakti (quyền năng) mà nếu như không có nó thì Agni không thể nào tạo lửa được. Ba
người con của Agni và Svāhā là 3 thể lửa trong nhà: Dakṣina, Garhaptya và
Ahavaniya. Khi hành lễ dâng lên Agni thì chữ Svāhā phải được đọc lên, nếu không
việc dâng lễ sẽ không hiệu quả.
Trong một ghi nhận khác, Svāhā là dạng thức các phối ngẫu của 6 thánh triết
(Ṛṣī) và đồng trú với Agni. Bà hiện thân ở dạng một con chim (suparṇi) và mang hạt
giống của Agni. Vì vậy mà Skanda đã được sinh ra. Skanda xác định sự đồng hành
giữa bà và Agni và nói rằng tất cả sự tế lễ cần được thực hiện dưới tên của Svāhā
Truyền thuyết khác nói rằng bà đã thuyết phục Agni xác thực (cho mọi người
biết) mối quan hệ trường tồn giữa bà và Agni. Do vậy mà Agni đã tuyên bố rằng: Khi
đọc thần chú tế lễ bằng lửa đến các chư Thiên (chư Thần) đều phải tuân theo công
thức kết thúc với tên của bà ta (Svāhā).
_Agnikoṇa dùng để xác định 1 trong 10 phương và phương của Agni là một
Digpala. Digpala nghĩa thần bảo hộ phương hướng và ở đây ám chỉ Agni thần của
phương đông nam. Digpala là những chư thiên cai quản các phương của nghiệp lực và
phối ngẫu của họ là những người ban quả cho các đạo lộ của nghiệp. Không có quả nào
được trổ ra mà không do một trong các Digpala ban phát. Do đó Agni có tầm quan
trọng trong việc quyết định quả của nghiệp lực.
Vai trò này của Agni cũng rất giống với vai trò của Igni trong tiếng Latin.
Agni gắn liền với âm RA có liên quan mật thiết đến thần mặt trời của Ai Cập:
Rishi cai quản ngõ đi đến chư thần, đường đi đến chư thần có tên là RA (lửa) và đường
mang chư thần đến bản thân là LA (đất).
Âm RA được hiện diện trong các chữ chủng tử, ví dụ: Hrīṃ (ha+ra+ī+m), Śrīṃ
(śa+ra+ī+m) và Krīṃ (ka+ra+ī+m).
Agni được mô tả có 7 lưỡi (jihva) dùng để chấp nhận sự dâng cúng của con người
và mang đến các chư thiên. Ở dạng thức này Agni có tên là Vahni. Bảy cái lưỡi đại
diện 7 ngày trong tuần dùng để cúng tế.
Danh sách 1: Saptajihva bīja
Lưỡi | Chủng tử | Graha
Hiraṇyā | hrūṃ | Nhật
Gaganā | srūṃ | Nguyệt
Raktā | śrūṃ | Hỏa
Kṛṣṇā | vrūṃ | Thủy
Suprabhā | lrūṃ | Mộc 23
Bahurūpā | rrūṃ | (Kim)
Atiraktā | yrūṃ | (Thổ)
Tên Sanskrit của các ngày trong tuần là Vāra. Từ Vāra là thể thu gọn của
Vāsara. Vāsa nghĩa là ở, cư ngụ, trú… và Ra biểu thị cho Agni (hỏa thiên) giống như
thần mặt trời Ai Cập. Do đó từ Vāsara mang ý nghĩa là Trú Xứ của Hỏa Thiên. Tương
tự, một ngày trong tuần (Vāra) là một trú xứ của Agni, tất cả chức năng của ngày trong
tuần xuất phát từ quy luật hình thành này.
Bảy lưỡi (jihva) có tên là: Hiraṇyā, Gaganā, Raktā, Kṛṣṇā, Suprabhā,
Bahurūpā và Atiraktā. Mỗi lưỡi có một bīja (chủng tử) hay thần chú đơn âm có chứa
chủng tử Yrūṃ, và mang tiền tố là 1 trong 7 bán nguyên âm.
_Theo Jyotiṣis thì trong Siva Purāṇa cho chúng ta 8 bīja cho 8 phương:
Danh sách 2: Graha | Chủng âm
Nhật | Brūṃ
Nguyệt | Drūṃ
Hỏa | Bhrūṃ
Thủy | Hrūṃ
Mộc | Stūṃ
Kim | Śrūṃ
Thổ | Ḍrūṃ
La Hầu | Prūṃ
Ai đọc tụng những chủng tử này được đồng nhất với Lagna như trong danh sách
sẽ nhận được phương hướng và sự giác ngộ ngay trong đời, thông qua sự cầu nguyện
Agni.
Người hành lễ cần phải phân loại và hiểu được chủ đề mà họ sẽ học hiểu trong
khi cầu. Chủng âm này được đọc tụng trước ngọn đèn nhằm làm sáng ngọn đèn giác
ngộ bên trong hành giả. Đọc tụng các âm này cùng mang lại sức mạnh lớn lao về thể
chất lẫn tinh thần. Đối với những ai thuộc Aquarius Lagna, họ cần chọn Rāhu (sao La
hầu) hoặc Thổ diệu là Thần hộ Lagna của mình.
_Thần chú của Hỏa Thiên: (Agni Mantra)
Thần chú đơn giản là Oṃ_agnaye namaḥ hay Oṃ_ jatavedase namaḥ. Nhưng
phổ thông hơn trong tuyền thống Jyotish là chaitanya (tỉnh giác) mantra, gồm 9
âm: Oṃ Hūṃ Rāṃ chaitanyayai namaḥ|
Oṃ (1) Hūṃ (1) Rāṃ (1) chaitanyayai (4) namaḥ (2) = gồm 9 âm. Do đó năng
lượng của Thần Chú sẽ trải qua 9 hành động: tìm một Guru (Đạo Sư), mở rộng thế
giới quan, mở rộng chư thiên quan, xác định tương lai, và nhận được Vijṅāna (tri
thức) hoặc kiến thức tâm linh cao như dikṣa và pratibha.
PHÁP HỘ MA CĂN BẢN CỦA ẤN ĐỘ GIÁO
Agnihotra (Homa) bao gồm hai lần cúng dường lửa chính xác tại hai thời điểm
mặt trời mọc và mặt trời lặn cùng với việc sử dụng 2 bài tiểu chú.
Đây là hộ ma dùng để chữa bệnh và tịnh hóa. Cũng được xem như là một hình
thức cúng dường tro.
24
Nguyên liệu:
- Thau bằng đồng hình kim tự tháp (ngửa) làm lò lửa.
- Phân bò khô
- Bơ nguyên chất (làm từ sữa bò không pha muối)
- Gạo lức
- Thần chú Agnihotra
- Thời gian: Mặt trời mọc và mặt trời lặn.
Tạo lửa cho Agnihotra
Để tạo ra lửa Agnihotra thì cần phải sắp xếp các mảnh phân bò sao cho luồng
không khí được thông thoáng.
Trét một chút bơ sữa lỏng trên mỗi cái bánh phân bò. Đặt một cái bánh phân bò ở
dưới đáy của lò kim tự tháp. Thêm hai bánh nhỏ ở góc đối lập. Tiếp tục thêm miếng ở
góc xen kẽ (xem hình).
Để đốt cháy các bánh phân: trét bơ vào một mẩu phân nhỏ và bật lửa đốt, sau đó
đưa nó xuống giữa các lớp phân đã sắp xếp. Cần phải làm sao cho các vật liệu được đốt
cháy hoàn toàn và không bị dư sót.
Đốt cháy vài phút trước khi thời điểm hành lễ bắt đầu. Không sử dụng bật lửa
hoặc bếp ga để mồi lửa. 25
Sau mỗi lần thực hiện Agnihotra cố gắng dành nhiều phút để thiền định. Bạn có
thể ngồi trong im lặng cho đến khi ngọn lửa tắt hẳn. Thu thập tro và giữ nó trong một
thùng chứa làm bằng thủy tinh, đất nung hoặc gỗ. Không được giữ tro trong thùng
chứa làm bằng nhựa hoặc kim loại khác với đồng hoặc vàng. Tro có thể được sử dụng
làm thuốc. Tại Nam Mỹ, nó được gọi là "tro phép mầu".
Gạo
Sử dụng gạo nâu. Gạo bị chà bóng sẽ mất giá trị dinh dưỡng. Lựa hạt gạo không
bị mẻ khuyết hoặc hư hỏng để làm Agnihotra. Nếu gạo bị hư, cơ cấu năng lượng tinh tế
của nó bị biến đổi, vì vậy tro sẽ không thích hợp cho việc chữa bệnh.
Phân
Có một số cách để sấy phân bò. Cần làm cho các bánh phân khô và mỏng để dễ
cháy.
Sử dụng phân tươi từ bò con đực hoặc cái. Sử dụng găng tay cao su để chọn
những phân không bị xen lẫn bụi bẩn, cỏ hay đá. Luôn tâm niệm về điều tốt trong khi
thu thập phân, bởi việc này làm tăng tác dụng chữa bệnh của nó. Trét phân lên một bề
mặt phẳng và đặt nó dưới ánh nắng mặt trời gắt. Phơi phân trong khoảng bốn ngày,
phụ thuộc vào khí hậu của bạn. Khi phân đã khô, bẻ vỡ ra và kiểm tra bên trong phân
khô hay chưa bằng cách nghe âm thanh rỗng khi bạn chạm vào nó với ngón tay của
bạn.
Bơ
Bơ được làm từ bơ nguyên chất không ướp muối, nấu trong một nồi điện, hoặc
trên một bếp lò nhiệt độ rất thấp. Trên bếp, để xoong nồi cách khoảng hai inch phía
trên nguồn nhiệt. Khi bơ sữa đã trở nên lỏng thì có thể được lọc thông qua vải bông,
hoặc bộ lọc cà phê, hoặc khăn giấy trắng. Hãy cẩn thận không để pha trộn bất kỳ chất
lỏng khác. Bơ sữa lỏng không cần phải làm lạnh.
Thần chú:
.)MẶT TRỜI MỌC
Sūryāya svāhā
(Cúng phần gạo lần đầu)
Sūryāya idaṃ na mama
Prajāpataye svāhā
(Cúng phần gạo lần sau)
Prajāpataye idaṃ na mama 26
.)MẶT TRỜI LẶN
Agnaye svāhā
(Cúng gạo lần đầu)
Agnaye idaṃ na mama
Prajāpataye svāhā
(Cúng gạo lần sau)
Prajāpataye idaṃ na mama
[Bản dịch của Tống Phước Khải]
_Trong hệ Mật Giáo thì Agni là một trong tám vị Hộ Thế Thiên, một trong Hộ
Pháp Thần Vương ở mười phương, một trong 20 Thiên. Trong Thai Tạng Giới Man đa
La thì Hỏa Thiên có vị trí ở góc Đông Nam của Ngoại Kim Cương Bộ Viện
_Căn cứ theo tín ngưỡng “đám lửa bay lên hư không có thể đến được cõi
Trời”, nên người Ấn Độ cổ đại xác nhận Hỏa Thiên là vị Sứ Giả trung gian giữa Thần
và Người, vì thế khi thực hành nghi thức cúng tế thì thường chiêu thỉnh Hỏa Thần. Do
tư tưởng này diễn biến nên đem vật thể ném vào trong lửa để cúng dường chư
Thần...và phương cách này gọi là Hộ Ma (Homa).
Hê Mật Giáo nương theo phong tục này, ngay lúc tu Pháp Hộ Ma thời trước tiên
đặt bày đoạn Hỏa Thiên để cúng dường Hỏa Thiên, sau đó mới cúng dường Bản Tôn.
Như Đại Nhật Kinh, quyển 6, phẩm Xuất Thế Hộ Ma nói rằng: “Bà La Môn xác
nhận có 44 loại Hỏa Thiên, nhưng Mật Giáo chỉ ghi nhận có 12 loại Hỏa Thần”
Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 20 giải thích trong ấy, thứ nhất là Hỏa Thần... và nói
rằng: “Vị Hỏa Thần này tức có tên gọi là Trí (Jñāna), tướng ấy đoan nghiêm làm màu
Kim Cương, dùng vòng hoa Viên Sĩ tự vây quanh mình, ở trong ánh sáng này lặng yên
chính thọ Tam Muội. Do trụ Tam Muội này cho nên viên mãn Tính của Trí. Ánh sáng
Trí này tức là tên gọi riêng của Tỳ Lô Giá Na vậy”.
Ý của điều này tức là: Do lửa hay thiêu hủy vật thể, nhân đây dùng lò Hộ Ma làm
cái miệng của Hỏa Thiên để đưa vật cúng vào nhằm biểu thị cho việc dùng lửa Trí
thiêu đốt hết phiền não.
_Lại nhân vào việc lửa phát ra sức nóng, cùng với sự lạnh ấm, thời tiết có quan
hệ. Nhân đây diễn sinh do sự vui giận của vị Trời này mà có tư tưởng hoặc thuận hoặc
nghịch của sự lạnh ấm.
Như Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi
Hỏa Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là nhiệt khí (sức nóng) của thân người tùy thời
thêm bớt, hai là Thời Tiết chẳng nghịch. Khi vị Trời này giận thời cũng có hai điều hao
giảm. Một là sức nóng của thân người thêm bớt chẳng đúng thời. Hai là tự nhiên phát
lửa thiêu đốt các vật”
Do đó, nếu bị nạn về nước thì cầu Hỏa Thiên
27
HÌNH TƯỢNG CỦA HỎA THIÊN
Hình tượng của Hỏa Thiên có nhiều dạng: Hình tượng một mặt hai tay, hình
tượng có một mặt ba cái miệng bốn cánh tay. Hình tượng có ba mặt bốn cánh tay hoặc
bốn mặt bốn cánh tay...
_Hình tượng hai mặt bốn cánh tay
_Hình tượng hai mặt bảy cánh tay
28
_Hình tượng ba mặt hai cánh tay
_Hình tượng bốn mặt bốn cánh tay
29
_Hình tượng một mặt hai cánh tay:
.)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 5 nói rằng: “Góc Đông Nam xếp bày các chúng
Hỏa Thiên trụ trong đám lửa, vầng trán với hai cánh tay đều có vẽ ba vạch tro, tức Bà
La Môn dùng ba ngón tay lấy tro, tự bôi vẽ thân tượng vậy. Tất cả có màu đỏ thẫm,
ngang trái tim cú Tam Giác Ấn ngay trong vòng tròn lửa, tay trái cầm tràng hạt, tay
phải cầm cái Táo Bình. Đây là một thân của Phổ Môn (Viśva-mukha) để dẫn nhiếp lửa
cúng tế Vi Đà Phạm Chí, phương tiện mở bày Pháp Vi Đà của Phật, cho nên Đàn lửa
Đại Tuệ này là tiêu xí của tịnh tu Phạm Hạnh (Brāhma-caryā)”
.)Dược Sư Lưu Ly Quang Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh Niệm
Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp nói rằng: “Hỏa Thần Đại Phạm Tiên ở Đông
Nam có thân màu hồng, cầm bình Quân Trì, cỡi trên tòa Cổ Dương màu hồng”
.)Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Quỹ Pháp nói rằng: “Phương Nam, Hỏa Thiên ở
trên tòa Sơn Dương, thân màu hồng, tay cầm lò lửa”.
_Hình tượng một mặt bốn cánh tay:
.)Thanh Long Quỹ, quyển Hạ nói rằng: “Hành Giả ở góc Đông mà làm tượng
Hỏa Tiên trụ trong lửa rực sáng, có ba điểm tro làm tiêu xí, thân sắc đều đỏ thẫm, để
Tam Giác Ấn tại trái tim, tay phải cầm tràng hạt, tay trái cầm cái Táo Bình, ngửa lòng
bàn tay, tay trái cầm cây gậy, dùng con dê xanh làm tòa ngồi” 30
.)Du Già Hộ Ma Nghi Quỹ nói rằng: “Hỏa Thiên có bốn cánh tay. Bên phải: tay
thứ nhất Thí Vô Úy, tay thứ hai cầm viên ngọc. Bên trái: tay thứ nhất cầm cây gậy
Tiên, tay thứ hai cầm cái bình Quân Trì”
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Đông Nam, Hỏa
Thiên cỡi con dê xanh, màu thịt đỏ, toàn thân rực lửa. Hai tay bên phải: một tay cầm
cây trúc xanh, một tay cầm bình Quân Trì. Hai tay bên trái: Một tay giương chưởng,
một tay cầm tràng hạt. Có 2 vị Thiên Nữ cầm hoa trời, hai bên trái phải đặt vị Tiên khổ
hạnh, rũ bàn chân trái đạp xéo bàn chân phải”
_Hình tướng sắc vẻ tùy theo Pháp: Tức Tai, Tăng Ích... mà có sự sai khác
.)Kinh Đại Ma Lý Chi, quyển 2 nói rằng: “Khi làm Tức Tai thời là Diệt Tội
Hỏa Thiên, khi làm Pháp Tăng Ích thời có màu vàng sáng với thân tướng viên mãn,
khi làm Pháp Kính Ái thời tượng có màu hồng của mâm hoa Mạn Độ Ca và xưng là Vi
Ca Mục Ca Hỏa Thiên, khi làm Giáng Phục ắt thân khoác áo màu đen, miệng ló
nanh bén nhọn và xưng là Phẫn Nộ Hỏa Thiên”
.)Kinh Nhất Thiết Như Lai Đại Bí Mật Vương Vị Tằng Hữu Tối Thượng Vi
Diệu Đại Mạn Noa La, quyển 3, Phẩm Hộ Pháp ghi nhận là: “Khi làm Pháp Tăng
Ích thời Hỏa Thiên hiện thân màu vàng đậm, tay cầm chày Kim Cương, trụ tại cung
Trời của mình, làm tướng tự tại. Khi làm Pháp Tức Tai thời Hỏa Thiên hiện thân màu 31
trắng, khoác Thiên Y trắng, tay cầm bình Át Già, tự tại mà trụ. Khi làm Pháp Kính Ái
thời Thân Hỏa Thiên có màu như đám tro, trụ tại cung Trời”
_Trong 12 Thiên thì Hoả Thiên là vị chủ của Thần lửa (Hoả Thần) với các chúng
Thần Tiên Trì Minh (Vidya-ṛṣī), thủ hộ phương Đông Nam
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Đông Nam Phương Hỏa Thiên Ấn: Tay trái nắm quyền đặt ở eo trái. Dựng
thẳng 5 ngón tay phải cùng dính nhau. Co Không (ngón cái) dính trong lòng bàn tay,
co lóng giữa của ngón Phong (ngón trỏ) cùng với Sa Bà Ha (Svāhā) triệu mời.
Chân Ngôn là :
“Án, a ngã na duệ, sa bà ha”
㛸 ㅥἕᜊ 㛿
OM _ AGNÀYE SVÀHÀ 32
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Hỏa Thiên là một trong bốn vị Hộ Pháp của
vòng Kim Cương, đại biểu cho Đức đặc biệt của Hỏa Đại (Tejo-dhātu) là thiêu đốt mọi
sự ô uế khiến cho Tâm không còn bụi dơ.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, hiện hình Tiên Nhân, phía sau lưng có lửa rực,
khoác áo Yết Ma
Chữ chủng tử là: RA (), hay A (゚)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen, Tam Giác Hỏa Diễm
Tướng Ấn là: Tay trái để trước ngực ngửa lòng bàn tay cùng hợp 2 ngón cái và
ngón giữa, duỗi 3 ngón còn lại. Tay phải giương lòng bàn tay, duỗi thẳng ngón út,
ngón vô danh, ngón giữa, co ngón cái vào lòng bàn tay, co ngón trỏ triệu vời ba lần.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁゚ἔᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AGNAYE_ SVĀHĀ
Cũng trong Hội này, Hỏa Thiên là một trong 20 Thiên hộ thế, có vị trí ở phương
Tây của Ngoại Đàn
Tôn hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái nắm quyền, duỗi ngón trỏ hướng lên trời, tay
phải cầm Tam Giác Hỏa Diễm
33
Mật Hiệu là: Kim Cương Hỏa
Chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Giác Ấn
Tướng Ấn là: Tay phải tác Thí Vô Úy Ấn, co ngón cái vào tâm lòng bàn tay,
ngón trỏ tác câu triệu, ngang vai phải. Tay trái đem ngón giữa, ngón cái chụm lại thành
dạng Tam Giác, kèm duỗi ba ngón còn lại, mặt ấn ngửa lên lên ngang trái tim .
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Hỏa Thiên có chữ chủng tử là: NAṂ (ᛆ)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Giác Ấn
34
Tướng Ấn là: Tay phải tác Thí Vô Úy Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Hỏa Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Tay trái cầm cây gậy, tay phải cầm viên ngọc.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ_ LA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Hỏa Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Tay trái cầm cây gậy, tay phải cầm viên ngọc.
35
Tướng Ấn là: Tay phải tác Thí Vô Úy Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Hỏa Thiên có
chữ chủng tử là: RAṂ ()
Tôn Hình: Tay trái cầm cây kiếm, tay phải nâng Tam Giác Hỏa Diễm.
Tam Muội Gia Hình là: Tam Giác Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ_ RAṂ
36
)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Hỏa
Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tam Muội Gia Hình là:Tam Giác Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅㗍ㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-ANALA SVĀHĀ_ LA
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở góc Đông Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Hỏa Thiên có thân màu thịt đỏ, hiện hình Tiên
Nhân ngồi trong lửa rực, có một mặt 4 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất để trước ngực
cầm Tam Giác Ấn, tay thứ hai cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất để ở đầu gối cầm
Táo Bình, tay thứ hai cầm cây gậy Tiên.
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là:Tam Giác Ấn.
37
Tướng Ấn là: Hỏa Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゚ἔᜊ 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ AGNAYE_ SVĀHĀ
Ý NGHĨA CHÂN NGÔN CỦA HỎA THIÊN
_Đại Nhật Kinh, quyển 2 ghi nhận Chân Ngôn của Hỏa Thiên là:
“Nam ma tam mạn đa bột đà nam (Namaḥ samanta-buddhānāṃ) A Yết Na
Duệ (Agnaye) sa ha (Svāhā)”
Đại Nhật Kinh Nghĩa Thích, quyển 6 nói rằng:
Nam ma tam mạn đa bột đà nam (Namaḥ samanta-buddhānāṃ) nghĩa là Quy
mệnh chư Phật
A Yết Na Duệ (Agnaye) nghĩa là Lửa.
Dùng chữ A (゚) làm chủng tử biểu thị cho tất cả Pháp vốn chẳng sinh, tức là
quy vào Thể của Trí Kim Cương
Yết (ᗰ:GA) nghĩa là Hành (Gati: hướng đi, lối nẻo), do các Pháp vốn chẳng
sinh, tuy đủ vạn Hạnh nhưng không có chỗ để thực hành, nên nói là không có Thầy
mà tự giác ngộ (vô sư tự giác), tức đồng với Đại Không mà tràn khắp tất cả nơi chốn,
cho nên cùng đồng Thể với Đại Không của chữ Na (ソ:NA).
Lại dùng các Pháp không có chỗ để thực hành, cho nên ở ba cõi chẳng động
chẳng xuất ra, mà đến Tát Bà Nhược Địa (Sarva-jñā-bhūmi: Nhất Thiết Trí Địa),
không có thứ bậc (thừa) với người của thứ bậc (thừa giả) tức là nghĩa của chữ Duệ
(ᜊ:YE).
Lại chữ Duệ (ᜊ:YE) là tiếng của Tam Muội, khi thêm vào nhằm nói rõ Định
Tuệ của Thừa (Yāna) này đều ngang bằng, khi chư Phật thực hành Bồ Tát Đạo
(Bodhisatva-mārga) thời đều dùng lửa Tuệ như vậy thiêu đốt tất cả sự dơ bẩn của Tâm
rồi thắp lên ánh sáng của Chính Pháp (Saddharma), thế nên nói như thật tức là Chân
Ngôn.
Nếu Triệu Thỉnh thì thêm chữ Y Hệ Y Hệ (Ehyehi)
Nếu Phát Khiển thời thêm chữ Ca Xa Ca xa (Gaccha gaccha)”
38
HỎA THIÊN PHI
Hỏa Thiên Phi, tên Phạn là Agnayī, dịch âm là A Nga Nẵng Duệ. Lại xưng là
Hỏa Thiên Hậu, là vợ của Hỏa Thiên, biểu thị cho Định Đức của Hỏa Thiên
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở góc Đông Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì thân màu thịt trắng. Co hai cánh tay rồi ngửa lòng
bàn tay, ngồi trong lửa rực.
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Táo Bình.
Tướng Ấn là:Hỏa Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゚ᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ AGNIYE_ SVĀHĀ
39
QUYẾN THUỘC CỦA HỎA THIÊN
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở góc Đông Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
.)Bà Tô Đại Tiên (Vasu-mahā-ṛṣī) là quyến thuộc của Hoả Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, thân trên không mặc áo. Tay phải cầm hoa sen, tay
trái cầm tràng hạt.
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Chuỗi tràng hạt.
Tướng Ấn là: Nhất Thiết Chư Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸᜬ㪤×ᜨᝎ⼈゠㫈㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VASIṢṬA ṚṢIṂ _ SVĀHĀ
40
.)Bà Tô Tiên Hậu (Vasvī hay Vasiṣṭha) là vợ của Bà Tô Tiên.
Tôn Hình: Thân màu thịt. Tay phải để trước ngực cầm hoa sen khép cánh với lá
sen. Tay trái để bên eo cầm hoa sen nở rộ. Giao ống chân mà ngồi.
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen nở rộ.
Tướng Ấn là: Nhất Thiết Chư Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
41
.)A Nghệ La Tiên, tên Phạn là Aṅgira-ṛṣi, lại xưng là Ương Kỳ La Tiên, Ương
Yết La Tư Tiên, Ương Kỳ Lạt Tứ Tiên. Dịch ý là Thân Hãn Dịch Tiên.
A Nghệ La Tiên là vị Tiên Nhân thuộc Ấn Độ cổ xưa, một trong 7 vị Đại Tiên,
một trong 10 vị Đại Tiên, một trong 10 vị Prajāpati. Do chẳng sinh từ bào thai mà sinh
ra từ mồ hôi (hãn dịch) nên có tên gọi này.
Tôn này là một trong 5 vị quyến thuộc của Hoả Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, hiện hình Tiên Nhân. Tay phải cầm xương quai
hàm, dựng thẳng trên đầu gối phải. Tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có cái bình.
(hình bên trái)
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Hồ Bình.
Tướng Ấn là:Thành Tựu Trì Minh Tiên Chúng.
Chân Ngôn là:
㫘 ゚Ⳇᜐ ᛸ ゠㫈㖁 㛿㐷
OṂ_ AṄGIRA MAHĀ-ṚṢIṂ_ SVĀHĀ 42
.) A Nghệ La Tiên Hậu (Aṅgirasī-ṛṣi) là vợ của A Nghệ La Tiên.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, hiện hình Thiên Nữ, tay phải dựng duỗi 5 ngón để
ngang ngực, ngón cái vịn lóng thứ hai của ngón trỏ. Tay trái tác Dữ Nguyện Thủ. (hình
bên phải)
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Hồ Bình.
Tướng Ấn là:Thành Tựu Trì Minh Tiên Chúng.
Chân Ngôn là:
㫘 ゚Ⳇᜐ ᛸ ゠㫈㖁 㛿㐷
OṂ_ AṄGIRA MAHĀ-ṚṢIṂ_ SVĀHĀ
.)Cù Đàm Tiên, tên Phạn là Gautama-ṛṣi, lại xưng là Cù Đàm Đại Tiên, Cù
Đàm Tiên. Là vị Tiên Nhân ở thời đại rất cổ xưa của Ấn Độ, một trong 7 vị Đại Tiên,
một trong 10 vị Prajāpati
Tôn này là một trong 5 vị quyến thuộc của Hoả Thiên 43
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ. Tay phải nắm quyền để ngang ngực, co khuỷu tay
phải để trên đầu gối phải. Tay trái cầm cái bình. (hình bên trái)
Chữ chủng tử là: GAU (ᗹ)
Tam Muội Gia Hình là: Thí Vô Uý Ấn.
Tướng Ấn là:Thành Tựu Trì Minh Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᗹᚌᛸ ᛸ ゠㫈 ᗰ₠㖁㛿
OṂ_ GAUTAMA MAHĀ-ṚṢIṂ GARGHA_ SVĀHĀ
.)Cù Đàm Tiên Hậu (Gautamī-ṛṣī) là vợ của Cù Đàm Tiên.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, hiện hình Thiên Nữ, hai tay cầm cây kích Độc Cổ.
(hình bên phải)
44
Chữ chủng tử là: GAU (ᗹ)
Tam Muội Gia Hình là: Thí Vô Uý Ấn.
Tướng Ấn là:Thành Tựu Trì Minh Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᗹᚌᛸ ᛸ ゠㫈 ᗰ₠㖁㛿
OṂ_ GAUTAMA MAHĀ-ṚṢIṂ GARGHA_ SVĀHĀ
.) A Điệt Lý Tiên (Atreye-ṛṣi) là một trong 5 vị quyến thuộc của Hỏa Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ. Co dựng cánh tay phải nắm Liên Hoa Quyền để
ngang vai, duỗi thẳng ngón út. Tay trái nắm quyền để ngang eo cầm hoa sen chưa nở.
Chữ chủng tử là: A (゚)
Tam Muội Gia Hình là: Hồ Bình. Hay hoa sen chưa nở
45
Tướng Ấn là: Thành Tựu Trì Minh Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ゚ᦪᜊ ᛸ ゠㫈㖁 㛿
OṂ_ ATREYE MAHĀ-ṚṢIṂ _ SVĀHĀ
.)Tỳ Lý Cù Tiên (Bhṛgautama-ṛṣi) là một trong 5 vị quyến thuộc của Hoả
Thiên.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ. Co khuỷu tay phải đè lòng bàn tay trên đùi phải.
Tay trái nắm quyền để ngang eo cầm lá sen, trên lá sen có chày Tam Cổ.
Chữ chủng tử là: BHṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.Hay chày Tam Cổ trên lá sen.
Tướng Ấn là: Thành Tựu Trì Minh Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᗹᚌᛸ ᛸ ゠㫈㖁 㛿
OṂ_ BHṚGAUTAMA MAHĀ-ṚṢIṂ _ SVĀHĀ 46
DIỆM MA THIÊN
Diệm Ma Thiên, tên Phạn là Yama, dịch âm là Dạ Ma, Diễm Ma, Diêm Ma,
Viêm Ma. Dịch ý là Thiện Thời Phần, Thiện Thời, Thiện Phần, Diệu Thiện, Diệu Thời
Phần, Diệu Xướng, Xướng Lạc… là tầng Trời thứ ba trong sáu tầng Trời của Dục Giới
(Kāma-dhātu). Lại xưng là Diệm Ma Thiên, Diễm Ma Thiên, Tô Dạ Ma Thiên
(Suyama-deva), Tu Dạ Ma Thiên, Tu Viêm Thiên, Ly Tránh Thiên
_Lập Thế A Tỳ Đàm Luận, quyển 6 với Tuệ Uyển Âm Nghĩa, quyển Thượng
ghi nhận là: “Cõi Trời này có ánh sáng rực rỡ, không có phân chia ngày đêm. Người
Trời ở trong cõi ấy giờ giờ phút phút thọ nhận sự hoan lạc chẳng thể nghĩ bàn, sống thọ
200 tuổi, thân dài hai Do Tuần. Áo dài bốn Do Tuần, rộng hai Do Tuần, nặng ba Thù
(1/8 lạng). Có việc hôn sự là nam lấy vợ, nữ lấy chồng”
_Chương Sở Tri Luận, quyển Thượng ghi là: “Cõi Tam Thập Tam Thiên
thường tranh đấu với A Tu La (Asura), còn Dạ Ma Thiên thì xa lìa sự tranh đấu cho
nên xưng là Ly Tránh Thiên. Chúng sinh được sinh vào cõi Trời này liền chẳng sát
sinh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm… phần lớn ưa thích tu hành, lại tự mình hay giữ
Giới, dạy bảo người khác trì Giới, tu trì lợi ích cho ta và người”
_Theo Ấn Độ Giáo thì Yama là vị Trời Dạ Ma, một vị Thần Quang Minh. Sau
khi mất, Ngài vào cõi U Minh làm Chủ Tể của cõi Hắc Ám chuyên phán xét tội ác của
người chết nên có tên là Tử Vương (Mṛtyu-rāja). Ở Địa Ngục thì Yama chuyên cai trị
Nam Tội Nhân, còn em gái là Yami chuyên cai trị Nữ tội nhân, nên được gọi là Song
Vương. Hai anh em đều là con của Nhật Thần (Vivasvat) và Thời Gian Thần
(Saranyu)
Do Yama chuyên trừng phạt cột trói tội nhân nên có tên là Phộc Vương
(Bandha-rāja). Vì phán quyết và ngăn chận hạnh ác của những người bị đọa vào Địa
Ngục nên có tên là Già Chỉ Vương hoặc Tịnh Tức Vương . Do Yama luôn thẩm vấn và
phán xét tội nhân một cách vô tư nên có tên là Bình Đẳng Vương (Samatā-rāja). 47
Truyền Thuyết cho rằng: Yama nguyên là vị vua của xứ Vệ Xá Li (Vaiśali).
Trong một trận chiến tranh đẫm máu, Ngài nguyện làm vua của Địa Ngục và được tái
sinh làm Diêm Vương thống lãnh 18 Âm Cung, 8 vị Tướng Quân và 8000 ngục tốt.
Ngài cư trú trong cái thành to lớn làm bằng 7 báu, ngang dọc 60 Do Tuần , thọ hưởng
sự vui sướng vô thượng. Nhưng mỗi ngày 3 lần, Yama và các Tướng Sĩ phải chịu hình
phạt bị đổ đồng sôi vào miệng cho đến khi đền trả hết tội ác. Do Yama nhận chịu cả 2
Quả Báo sướng khổ nên có tên là Song Vương.
_Sau này tuy Mật Giáo ghi nhận Yama vào Thiên Bộ là Diệm Ma Thiên (Yama-
deva) nhưng Giáo Đồ Phật Giáo vẫn xem Ngài là Thủy Tổ của Thế Giới Quỷ, Tổng
Quản của Âm Giới, Thần Chủ của Địa Ngục (Naraka, hay Niraya) ở núi Thiết Vi
(Cakravāḍa-parvata). Thuộc Hạ thân cận của Ngài là Hắc Ám Thiên Nữ (Kāla-rātrī),
Thái Sơn Phủ Quân (Citra-gupta) và 2 vị Thần chuyên ghi chép việc Thiện Ác có tên
chung là Song Đồng.
Yama-rāja là một trong 8 vị Trời Hộ Thế, một trong 20 Thiên, một trong 12
Thiên. Là vua của chúng Quỷ
_Theo truyền thống văn hóa của Trung Hoa thì Diệm Ma Thiên tức là vua Diêm
La. Tổng cộng có mười vị Diêm Vương ở mười điện cai quản âm phủ hay U Minh
Giới, cõi này chỉ có một cái thành chính tên là Phong Đô, mười vị Diêm Vương đều
được xưng là Phong Đô Đại Đế
HÌNH TƯỢNG CỦA DIỆM MA THIÊN
Hình tượng của Diệm Ma Thiên được thờ phượng theo nhiều dạng thức khác
nhau
Hình tượng Diệm Ma Thiên của Ấn Độ: Thân màu xanh, có bốn cánh tay cầm
khí trượng, ngồi trên con trâu
Thần Chú tán tụng Yama:
Oṃ- Sūrya-putrāya vid mahe
Mahā-kālāya dhī mahe
Thanno yama prachodayath 48
_Hình tượng của Thập Điện Diêm Vương theo truyền thống văn hóa Trung
Hoa
.)Điện thứ nhất: Tần Quảng Vương
Tần Quảng Vương chuyên trong coi sổ sách sinh tử: sống thọ, chết yếu của nhân
gian, cai quản chung sự tốt xấu ở cõi U Minh. Cái điện Quỷ Phán ở con đường đen tối
(hắc lộ) tại suối vàng ngay bên ngoài tảng đá ngầm màu mỡ trong biển lớn.
Phàm ngày người thiện lành chết thì có tiếp dẫn vãng sinh, nam nữ đều phải đi
qua hai cái bình, giao cho điện thứ mười dẫn đi đầu thai vào cõi người. Hoặc nam
chuyển làm nữ, nữ chuyển làm nam, y theo nghiệp duyên phân biệt, thọ nhận quả báo.
Phàm người ít ác thì khiến vào Điện có cái đài cao tên là Nghiệt Kính Đài, đài
cao một trượng (10/3 m), gương lớn 10 Vi (50 tấc hay năm chét tay), bên trên có bảy
chữ nằm ngang viết là Nghiệt kính đài tiền vô hảo nhân (Trước đài Nghiệt Kính
không có người tốt), áp giao hồn có nhiều điều ác, tự nhìn thấy việc gian hiểm của
Tâm mình, khi ấy mới biết vạn lạng vàng ròng chẳng thể đem theo, một đời chỉ có tội
lỗi theo thân. Sau khi vào đài soi chiếu thì phân xử giải qua viện thứ hai, dùng hình
phạt chịu đau khổ trong ngục
49
.)Điện thứ hai: Sở Giang Vương
Sở Giang Vương Trông coi Địa Ngục Hoạt Đại bên dưới tảng đá ngầm ở chính
Nam tại đáy biển lớn. Tầng này dài rộng 500 Do Tuần, xếp bày 16 Địa Ngục nhỏ bên
dưới là: Hắc Vân Sa Tiểu Địa Ngục, Phẩn Niếu Nê Tiểu Địa Ngục, Ngũ Xoa Tiểu Địa
Ngục, Cơ Ngạ Tiểu Địa Ngục, Khát Tiểu Địa Ngục, Nùng Huyết Tiểu Địa Ngục, Đồng
Phủ Tiểu Địa Ngục, Đa Đồng Phủ Tiểu Địa Ngục, Thiết Khải Tiểu Địa Ngục, U
Lượng Tiểu Địa Ngục, Kê Tiểu Địa Ngục, Hôi Hà Tiểu Địa Ngục, Chước Triệt Tiểu
Địa Ngục, Kiếm Diệp Tiểu Địa Ngục, Hàn Băng Tiểu Địa Ngục
Phàm người gây thương tích cho kẻ khác, hoặc gian dâm, hoặc sát sinh sẽ bị đọa
vào Địa Ngục này, sau đó chuyển đến 16 Tiểu Địa Ngục, Hết hạn kỳ sẽ bị giải đến
Điện thứ ba
.
50
.)Điện thứ ba: Tống Đế Vương
Tống Đế Vương cai quản Hắc Thằng Đại Địa Ngục bên dưới tảng đá ngầm ở
phía Đông Nam dưới đáy biển lớn. Tầng này dài rộng 500 Do Tuần cũng có 16 Tiểu
Địa Ngục là: Hàm Lỗ Tiểu Địa Ngục, Ma Hoán Già Nữu Tiểu Địa Ngục, Xuyên Lặc
Tiểu Địa Ngục, Đồng Thiết Quát Kiểm Tiểu Địa Ngục, Quát Chi Tiểu Địa Ngục, Kiềm
Tễ Tâm Can Tiểu Địa Ngục, Oạt Nhãn Tiểu Địa Ngục, Sản Bì Tiểu Địa Ngục, Nguyệt
Túc Tiểu Địa Ngục, Cước Giáp Tiểu Địa Ngục, Đảo Điếu Tiểu Địa Ngục, Phân Cốt
Tiểu Địa Ngục, Thư Chú Tiểu Địa Ngục, Kích Tất Tiểu Địa Ngục, Bào Tâm Tiểu Địa
Ngục
Phàm những người trên Dương Thế ngỗ nghịch bất hiếu, xúi người kiện tụng, phụ
ân bạc nghĩa… đều bị đọa vào Địa Ngục này chịu hình phạt treo cổ, móc mắt , lóc
xương… hết hạn kỳ sẽ bị chuyển đến Điện thứ tư
51
.)Điện thứ tư: Ngũ Quan Vương
Ngũ Quan Vương cai quản địa ngục Hợp Đại bên dưới tảng đá ngầm ở chính
Đông dưới đáy biển lớn. Tầng này cũng dài rộng 500 Do Tuần, cũng có 16 Tiểu Địa
Ngục là: Trì Tiểu Địa Ngục, Miêu Liên Trúc Tiêm Tiểu Địa Ngục, Phí Thanh Nhiễu
Thủ Tiểu Địa Ngục, Chưởng Bạn Lưu Dịch Tiểu Địa Ngục, Đoạn Cân Dịch Cốt Tiểu
Địa Ngục, Yển Kiên Loát Bì Tiểu Địa Ngục, Tỏa Phu Tiểu Địa Ngục, Tồn Phong Tiểu
Địa Ngục, Thiết Y Tiểu Địa Ngục, Mộc Thạch Thổ Ngõa Áp Tiểu Địa Ngục, Kiếm
Nhãn Tiểu Địa Ngục, Phi Hôi Tắc Khẩu Tiểu Địa Ngục, Quán Dược Tiểu Địa Ngục,
Du Hoạt Điệt Tiểu Địa Ngục, Thích Chủy Tiểu Địa Ngục, Toái Thạch Mai Thân Tiểu
Địa Ngục
Phàm những người trên Dương Thế: đầu cơ tích trữ, buôn bán gian trá...ṣẽ bị đọa
vào Địa Ngục này, sau đó tiếp tục chịu khổ ở các Địa Ngục khác, hết kỳ hạn sẽ bị
chuyển đến Điện thứ năm
52
.)Điện thứ năm: Diêm La Vương
Diêm La Thiên Tử vốn ngự ở điện thứ nhất nhưng vì thương người chết oan hay
trả hồn về sống lại kêu oan, nên bị giáng xuống quản Đại Địa Ngục Khiếu Hoán và 16
Tiểu Địa Ngục Chu Tâm là: Cát Thủ Bất Kính Quỷ Thần Sai Nghi Hữu Vô Nhân Quả
Báo Ứng Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Sát Hại Sinh Mệnh Đẳng Tâm Tiểu Địa
Ngục, Cát Thủ Thiện Nguyện Vị Hoàn Chư Ác Tiên Hành Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục,
Cát Thủ Cận Tà Bột Mậu Tập Thuật Vọng Tưởng Trường Sinh Đẳng Tâm Tiểu Địa
Ngục, Cát Thủ Khi Thiện Phạ Ác Hận Tha Nhân Bất Tốc Tử Vong Đẳng Tâm Tiểu
Địa Ngục, Cát Thủ Kế Giảo Di Họa Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Tổn Nhân Lợi
Kỷ Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Khan Lận Vật Cố Sinh Tử Hoãn Cấp Đẳng
Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Thâu Đạo Muội Lại Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ
Vong Ân Báo Oán Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Hảo Đầu Đổ Thắng Khiên Liên
Diên Lũy Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Biển Dụ Hoặc Chúng Đẳng TâmTiểu
Địa Ngục, Cát Thủ Ngận Độc Giáo Toa Dĩ Vị Năng Hại Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục,
Cát Thủ Tật Thiện Đố Hiền Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục, Cát Thủ Chấp Mê Bất Cải Phỉ
Báng Đẳng Tâm Tiểu Địa Ngục
Những ai đến Điện này đều được dẫn đến Vọng Hương Đài để nghe và thấy tất
cả những điều, những tai ương mà họ đã gây ra trên trần gian, sau đó được đưa vào địa
ngục này, sau khi thẩm tra kỹ càng mới chuyển đến Tiểu Ngục Chu Tâm, mổ bụng
moi tim, ruột ném cho chó ăn. Hết kỳ hạn lại chuyển qua Điện thứ sáu.
53
.)Điện thứ sáu: Biện Thành Vương
Biện Thành Vương cai quản Đại Địa Ngục Khiếu Hoán bên dưới tảng đá ngầm ở
chính Bắc dưới đáy biển lớn, dài rộng 500 Do Tuần, bốn chung quanh xếp bày 16 Tiểu
Địa Ngục là: Thường Quỵ Thiết Sa Tiểu Địa Ngục, Thỉ Nê Tẩm Thân Tiểu Địa Ngục,
Ma Tồi Lưu Huyết Tiểu Địa Ngục, Kiềm Chủy Hàm Tiểu Địa Ngục, Cát Thận Thử
Giảo Tiểu Địa Ngục, Cức Võng Hoàng Toản Tiểu Địa Ngục, Đối Đảo Nhục Tương
Tiểu Địa Ngục, Liệt Bì Kỵ Lôi Tiểu Địa Ngục, Hàm Hỏa Bế Hầu Tiểu Địa Ngục, Tang
Hỏa Hồng Tiểu Địa Ngục, Phẩn Ô Tiêu Địa Ngục, Ngưu Điêu Mã Táo Tiểu Địa Ngục,
Phi Khiếu Tiểu Địa Ngục, Đầu Thoát xác Tiểu Địa Ngục, Yêu Trảm Tiểu Địa Ngục,
Bác Bì Tuyên Thảo Tiểu Địa Ngục.
Kẻ ngỗ nghịch bất hiếu bị quỳ chông, nhốt trong hầm phân, cưa đôi thân thể….
tiếp tục chịu khổ ở các Tiểu Địa Ngục, hết hạn kỳ sẽ bị chuyển qua Điện thứ bảy
54
.)Điện thứ bảy: Thái Sơn Vương
Thái Sơn Vương cai quản địa ngục Nhiệt Não bên dưới tảng đá ngầm ở Tây Bắc
dưới đáy biển lớn, chu vị dài tộng 500 Do Tuần kèm xếp bày 16 Tiểu Địa Ngục là:
Tuất Tự Thôn Tiểu Địa Ngục, Liệt Hung Tiểu Địa Ngục, Địch Thối Hỏa Bức Khanh
Tiểu Địa Ngục, Quyền Kháng Phát Tiểu Địa Ngục, Khuyển Giảo Hĩnh Cốt Tiểu Địa
Ngục, Úc Thống Khốc Cẩu Đôn Tiểu Địa Ngục, Tắc Đỉnh Khai Ngạch Tiểu Địa Ngục,
Đỉnh Thạch Tồn Thân Tiểu Địa Ngục, Đoan Bảo Thượng Hạ Trác Giảo Tiểu Địa
Ngục, Vụ Bì Trư Đà Tiểu Địa Ngục, Điếu Giáp Túc Tiểu Địa Ngục, Bạt Thiệt Xuyên
Tai Tiểu Địa Ngục, Trừu Tràng Tiểu Địa Ngục, Loa Đạp Miêu Tước Tiểu Địa Ngục,
Lạc Thủ Chị Tiểu Địa Ngục, Du Phủ Cổn Phanh Tiểu Địa Ngục
Phàm những kẻ trộm cắp, vu cáo, dối trá, mưu đoạt tiền của hại mạng đều bị đọa
vào Địa Ngục này bị đun nấu trong vạc đồng…và tiếp tục chịu khổ ở các Tiểu Địa
ngục, hết hạn kỳ bị chuyển qua Điện thứ tám
55
.)Điện thứ tám: Đô Thị Vương
Đô Thị Vương cai quản đại địa ngục Đại Nhiệt Não bên dưới tảng đá ngầm ở
chính Tây dưới đáy biển lớn. Ngục này dài rộng 500 Do Tuần kèm xếp bày 16 Tiểu
Địa Ngục là: Xa Băng Tiểu Địa Ngục, Muộn Oa Tiểu Địa Ngục, Toái Quả Tiểu Địa
Ngục, Khổng Tiểu Địa Ngục, Tiễn Chu Tiểu Địa Ngục, Thường Thanh Tiểu Địa Ngục,
Đoạn Chi Tiểu Địa Ngục, Tiên Tạng Tiểu Địa Ngục, Chá Tủy Tiểu Địa Ngục, Ba
Tràng Tiểu Địa Ngục, Phần Tiểu Địa Ngục, Khai Sanh Tiểu Địa Ngục, Quả Hung Tiểu
Địa Ngục, Phá Đỉnh Khiêu Xỉ Tiểu Địa Ngục, Cát Tiểu Địa Ngục, Cương Xoa Tiểu
Địa Ngục
Phàm những ai sống trên trần gian bất hiếu khiến cho cha mẹ , người thân phiền
muộn sẽ bị đọa vào ngục này và bị gia hình ở các tiểu ngục. Kẻ bất hiếu chịu hết mọi
hình thức đau khổ sẽ bị giải đến Điện thứ mười, thay đổi hình dạng vĩnh viễn làm loài
súc sinh.
56
.)Điện thứ chín: Bình Đẳng Vương
Bình Đẳng Vương cai quản Đại Địa Ngục A Tỳ bên dưới tảng đá ngầm ở Tây
Nam dưới đáy biển lớn có vườn chồng chất vây quanh, dài rộng 800 Do Tuần bên
trong lưới sắt chặt kín kèm xếp bày 16 Tiểu Địa Ngục là: Xao Cốt Chước Thân Tiểu
Địa Ngục, Trừu Cân Lôi Cốt Tiểu Địa Ngục, Nha Thực Tâm Can Tiểu Địa Ngục, Cẩu
Thực Tràng Phế Tiểu Địa Ngục, Thân Thiển Tiên Nhiệt Du Tiểu Địa Ngục, Não Cô
Bạt Thiệt Xỉ Tiểu Địa Ngục, Thủ Não Điền Tiểu Địa Ngục, Chưng Đầu Quát Não Tiểu
Địa Ngục, Dương Súc Thành Diêm Tiểu Địa Ngục, Mộc Giáp Đỉnh Tiểu Địa Ngục,
Ma Tâm Tiểu Địa Ngục, Phí Thang Lâm Thân Tiểu Địa Ngục, Hoàng Phong Tiểu Địa
Ngục, Hiết Câu Tiểu Địa Ngục, Nghị Chú Ngao Đam Tiểu Địa Ngục, Tử Xích Độc Xà
Toản Khổng Tiểu Địa Ngục.
Phàm những kẻ phóng hỏa giết người, vi phạm chính pháp...sẽ bị đưa đến Điện
này, bắt lõa thể ôm cột đồng nung đỏ thiêu đốt bỏng rát đến tận tim gan, sau đó bị giải
đến Địa Ngục A Tỳ chịu hình phạt….Khi hết hạn kỳ được đua qua Điện thứ mười,
chuyển thế đầu thai trả nợ cho người bị hại
57
.)Điện thứ mười: Ngũ Đạo Chuyển Luân Vương
Chuyển Luân Vương chuyên phán quyết các quỷ hồn, làm rõ việc thiện ác, quyết
định đẳng cấp, rồi cho lên đầu thai ở bốn Đại Châu, Nam hay nữ, sống lâu hay chết
yểu, giàu sang phú quý hay nghèo hèn, lần lượt được ghi vào danh sách. Những con
quỷ mà có nghiệp ác, khiến cho nó sáng sinh ra chiều đã chết. Hết kỳ hạn trở lại làm
người, đầu thai vào nơi sống rất man rợ, bẩn thỉu, nghèo túng…
Phàm kẻ được cho đi đầu thai, trước tiên giao cho Mạnh Bà ở bên dưới Đài Đồ
Vong cho uống nước canh mê khiến cho quên đi việc của đời trước
58
_Hình tượng Diệm Ma Thiên theo Tạng Truyền Phật Giáo là thân người đầu trâu,
có hai tay hoặc bốn tay, cong chân phải duỗi chân trái theo thế chữ Đinh (丁), đứng
trên con trâu, con trâu đè trên xác người
59
_Theo Mật Giáo Đông Độ thì Diệm Ma Thiên có hình tượng là: thân người có hai
tay, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, tay trái cầm cây gậy đầu người (Nhân Đầu Bổng)
ngồi trên con trâu, hoặc đứng trên hoa sen
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Nam, Diễm Ma
Thiên cỡi con trâu. Tay phải cầm cây phướng đầu người, ngửa lòng bàn tay trái. Có
hai Thiên Nữ theo hầu, hai Sứ Giả Quỷ cầm đao nâng kích, sắc màu đen, rũ bàn chân
phải
60
_Trong 12 Thiên thì Diễm Ma Thiên là vị chủ của Ngũ Đạo Minh Quan, Thái
Sơn Phủ Quân (Citra-gupta), Tư Mệnh, Hành Dịch Thần, các hàng Quỷ đói… thủ hộ
phương Nam
Chữ chủng tử là YAṂ (ᜎ)
Nam Phương Diễm Ma Thiên Ấn:
Chắp 2 tay lại. Co lóng giữa của 2 Địa (2 ngón út) sao cho dính lưng nhau, cũng
co dính lưng 2 Phong (2 ngón trỏ), đem 2 ngón cái đè lóng giữa 2 Phong (2 ngón trỏ)
liền thành.
Chân Ngôn là :
Án, diễm ma gia, sa phộc ha
㛸 ᜎ㗚 㛿
OṂ _ YAMMĀYA SVĀHĀ
[Hoặc Chân Ngôn là:
㛸 㗚㗚 㛿
OṂ _ YAMĀYA SVĀHĀ ]
61
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Diệm Ma Thiên có thân màu đen đỏ, tay
phải cầm cây gậy Đàn Noa (Daṇḍa), đầu gậy có nửa vành trăng, trên trăng có đầu
người. Tay trái nắm quyền để ngang eo.
Mật Hiệu là: Kim Cương Cát La
Chữ chủng tử là: YAṂ (ᜎ) hay KA (ᗘ)
Tam Muội Gia Hình là: Đàn Noa (Daṇḍa: Nhân Đầu Bổng). Biểu thị cho nghĩa
chúng sinh khó có thể được giải thoát mà thường hay bị nguy khốn ở cảnh giới Địa
Ngục.
Tướng Ấn là Đàn Noa Ấn: Chắp 2 tay lại. Co lóng giữa của 2 Địa (2 ngón út) sao
cho dính lưng nhau, cũng co dính lưng 2 Phong (2 ngón trỏ), đem 2 ngón cái đè lóng
giữa 2 Phong (2 ngón trỏ) liền thành.
62
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Diệm Ma Thiên có chữ chủng tử là: KA
(ᗘ)
Tam Muội Gia Hình là: Đàn Noa (Daṇḍa: Nhân Đầu Bổng)
Tướng Ấn là: Đàn Noa Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Diệm Ma Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
63
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ _LA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Diệm Ma Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Đàn Noa Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Diệm Ma Thiên
có chữ chủng tử là: KA (㒕)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
64
Tam Muội Gia Hình là: Đàn Noa (Cây gậy có đầu người).
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿 㒕
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ _LA
)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Diệm
Ma Thiên có chữ chủng tử là: RA ()
Tam Muội Gia Hình là: Đàn Noa (Cây gậy có đầu người).
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗙㇶ 㛿 㒕
OṂ _ VAJRA- KĀLA SVĀHĀ _RA
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Diệm Ma Thiên (Yama) có thân màu thịt, hiện
hình phẫn nộ, tay trái cầm cây gậy đầu người, tay phải để trước ngực ngửa lòng bàn tay
tác Dữ Nguyện Ấn. Ngồi trên con trâu trắng, buông rũ bàn chân trái (hình bên trái)
65
Chữ chủng tử là: VAI (ᛧ), hay YAṂ (ᜎ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy đầu người. Biểu thị cho nghĩa chúng sinh khó có
thể được giải thoát mà thường hay bị nguy khốn ở cảnh giới Địa Ngục.
Tướng Ấn là: Đàn Noa Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜯᜨᵘᚍᜄ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VAIVASVATĀYA SVĀHĀ
Hoặc Chân Ngôn là: (Trích trong Đà La Ni Tập Kinh)
㫘 ㆎ㈦ᜑㅼ 㒂ᤈ ᜫ↨ ゛ᗰ㜯 㛿
OṂ_ YAMA-RĀJA UGRA-VĪRYA ĀGACCHA SVĀHĀ
_Lại dùng vị Trời này làm Bản Tôn của Pháp tu thì xưng là Diệm Ma Thiên
Pháp. Tu Pháp này có thể kéo dài tuổi thọ, trừ tai nạn. Nếu vì cầu Minh Phước
(Phước ở cõi Âm) ấy thời xưng là Minh Đạo Cúng, hoặc Lạp Chúc Cúng, Chỉ Chúc
Cúng. Khi hành Pháp thời trước tiên ở trên Đàp sắp bày vị trí ngồi của Diệm Ma
Thiên Mạn Trà La, tiếp theo bày vật cúng, cúng phẩm. Ở chính giữa dựng một cây
nến sáp (lạp chúc). Sau đó xướng tụng Tôn Danh kèm thực hành nhúm lửa
_Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi
Diễm Ma Thiên vui thời người không bị chết đột ngột, dịch khí chẳng phát. Khi Trời
này giận thời người bị chết không đúng thời, dịch khí tràn đầy”. Nên nếu muốn trừ
Dịch (bệnh dịch) thì cầu Diễm Ma Thiên
DIỆM MA THIÊN MẠN TRÀ LA
Dùng Diệm Ma Thiên làm trung tâm của Biệt Tôn Mạn Trà La đã dựng lập. Lại
vì cầu Minh Phước, kéo dài tuổi thọ, trừ tai nạn mà tu Diệm Ma Thiên Pháp
_Kim Cương Đỉnh Du Già Hộ Ma Nghi Quỹ ghi chép rằng: “Chủ Tôn Diễm
Ma Thiên cỡi con trâu. Tay phải cầm cây phướng đầu người, ngửa lòng bàn tay trái, rũ
bàn chân phải. Có hai Thiên Nữ theo hầu, có hai Sứ Giả Quỷ theo hầu”
_Đồ Tướng của Nhật Bản Giác Thiền Sao ghi nhận là: “Chính giữa là Diệm Ma
Thiên ngồi trên lưng con trâu, hai bên trái phải có hai người vợ. Bên ngoài đều an
Thành Tựu Tiên (Siddhi-ṛṣī), Giá Văn Trà (Camuṇḍa). Phần bên trên, ở chính giữa 66
có Thái Sơn Phủ Quân (Citra-gupta), bên trái là Tỳ Na Dạ Ca (Vinayāka), bên phải
là Noa Cát Ni (Ḍākiṇī). Phần bên dưới, ở chính giữa có Ngũ Đạo Đại Thần ngồi ở
trên cái giường, bên phải là Tư Mệnh, bên trái là Tư Lục
DIỆM MA THIÊN PHI
Diệm Ma Thiên Phi, tên Phạn là Yamī. Lại xưng là Dạ Ma Thiên Phi, Dạ Ma Nữ,
Diệm Ma Nữ. Là một trong bảy vị Mẫu Thiên
Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Nam của Thai Tạng Giới Man Đa
La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Dạ Ma Thiên Phi biểu thị cho Định Đức làm hình
hiền từ nhẫn nại
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình Thiên Nữ, tay trái cầm cây kích Tam Cổ.
(hình bên phải)
67
Chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuỳ.
Tướng Ấn là:Chuỳ Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ⹄㛯㖁㛿㐷
OṂ_ MĀTṚBHYAḤ_ SVĀHĀ
_ Hắc Ám Thiên Nữ (Kāla-rātrī):
Kāla-rātrī lại xưng là Hắc Dạ Thiên, Ám Dạ Thiên, thuộc một trong 7 vị Mẫu
Thiên, là hậu phi của Diêm Ma Vương.
Tôn này có Bản Thệ là gia hộ cho chúng sinh tiêu trừ sự sợ hãi, lỗi lầm, tai vạ
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải ngửa lòng bàn tay, tay trái cầm cây gậy, đầu
cây gậy là cái vòng, bên trong có hình đầu người. Giao hai ống chân mà ngồi, ngửa
nhìn Diêm Ma Vương (hình bên trái)
Chữ chủng tử là: KA (㒕) 68
Tam Muội Gia Hình là: Cây phướng. Hay cây gậy, bên trên có cái vòng
Tướng Ấn là:Tay trái nắm quyền, dựng đứng ngón giữa.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᗙᜑ㰽ᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ KĀLA-RĀTRĪYE SVĀHĀ
69
QUYẾN THUỘC CỦA DIỆM MA THIÊN
.)Thái Sơn Phủ Quân (Citra-gupta):
Citra-gupta dịch âm là Chất Đa La Cấp Đa, dịch ý là Phụng Giáo Quan. Lại xưng
là Thái Sơn Phủ Quân, hoặc xưng là Chất Đát La Cấp Đa Tấn Ngục Giả.
Trung Quốc gọi Tôn này là Chủ Ty Thần của Đông Nhạc Thái Sơn thuộc Minh
Phủ.
Phật Giáo đem Thái Sơn Phủ Quân phối trí với vị thư ký của Diêm Ma Vương,
ghi chép các nghiệp thiện ác của nhân gian, cũng là một trong 10 vị vua của Minh Giới
(cõi âm) và xưng là Thái Sơn Vương
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải cầm cây bút, tay trái cầm cây gậy Đàn Noa,
đầu gậy có cái vòng, trong cái vòng hiện mặt người (hình bên phải)
Chữ chủng tử là: CI (ᘖ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy đầu người.
Tướng Ấn là:Liên Hoa Hợp Chưởng.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᘖ㜂ᗴ〝ᜄ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ CITRA-GUPTĀYA - SVĀHĀ
70
.)Quỷ Chúng (Mṛtyu-gaṇa hoặc Mṛtyu)
Tôn Hình: Thân hình màu thịt, hiện tướng quỷ đói, quỳ trước mặt Thái Sơn Phủ
Quân, tác tư thế khẩn cầu (hình bên trái)
Chữ chủng tử là: MR (), hay RO ()
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuông.
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㜮ᠨᗰ 㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_MṚTYU-GAṆA_ SVĀHĀ
Hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛊ᜵ᘔᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_PIŚĀCA GATI _ SVĀHĀ
.)Đoạt Nhất Thiết Mệnh (Mṛtyu):
Mṛtyu là một trong các quyến thuộc của Diệm Ma Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình quỷ đói, tay phải cầm cái túi da, tay trái cầm
hoa (hình bên trái)
71
Chữ chủng tử là: MṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Kiếp Ba (Kapāla:cái bát)
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㜮ᠨ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_MṚTYU_ SVĀHĀ
Hayᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛊ᜵ᘔᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_PIŚĀCA GATI _ SVĀHĀ
_ Tỳ Xá Già (Piśāca):
Piśāca lại xưng là Tất Xá Già Quỷ, Tý Xa Giá Quỷ. Dịch ý là Quỷ ăn máu thịt,
Quỷ ăn tinh khí con người, Quỷ điên cuồng, Quỷ hút máu.
Piśāca nguyên là ma quỷ trong thần thoại cổ xưa của Ấn Độ. Bụng của nó như
biển xanh, cổ họng như cây kim... thường cùng với A Tu La, La Sát dắt díu nhau.
Trong Phật Giáo thì quỷ đói tức là loài quỷ này. Quỷ này ăn nuốt tinh khí của
con người, ăn máu thịt là loại hơn hết trong hàng quỷ đói 72
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình quỷ đói, tay phải cầm một đoạn của cánh tay
bị chặt đứt. Tay trái cầm vật khí chứa đầu máu (hình ở giữa)
Chữ chủng tử là: PI (ᛊ)
Tam Muội Gia Hình là: Kiếp Ba (Kapāla:cái bát)
Tướng Ấn là:Tỳ Xá Già Ấn (Mãn Nguyện Dương Trượng Ấn)
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛊᘖᛊᘖ㐷㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_PIŚĀCA GATI _ SVĀHĀ
73
LA SÁT THIÊN
_La Sát, tên Phạn là Rākṣasa, dịch âm là La Xối Bà, La Xoa Bà, La Khất Sát Bà,
A Lạc Xối Bà, La Sát Sa… dịch ý là Tác Khả Úy, Hộ Giả, Tốc Tật Quỷ... lại chỉ loài
Quỷ ác ăn thịt người. La Sát Nữ có tên Phạn là Rākṣaṣī, dịch âm là La Xoa Tư, La
Xối Tư, La Sát Tư, La Sát Kỳ… thuộc một trong tám Bộ do bốn vị Thiên Vương thống
lãnh.
Các La Sát Vương (Rākṣa-rāja) có lưng đen như cây sơn, ngực trắng như mặt
trăng, mắt như lửa rực, tóc trên đầu rối loạn như cột bụi gai, ló nanh chó lên trên như
cây kiếm, mười móng ngón tay sắc như mũi nhọn, mười móng ngón chân ngang dọc
như cây kiếm, dùng sắt thiếc ràng buộc cái đầu, nhanh chóng đi đến
Tuy La Sát là loài Quỷ ác, nhưng ở trong Phật Điển, ngược lại thường có thể thấy
sự ghi nhận các La Sát Vương với chúng La Sát… thệ nguyện thủ hộ Phật Pháp với
người hành Chính Pháp, thành vị Thần Hộ Pháp của Phật Giáo, họ thường đến tham dự
Pháp Hội, tùy theo Đức Phật, nghe Pháp, vui vẻ phụng hành. Như mười vị La Sát Nữ
thủ hộ Kinh Pháp Hoa với mọi loài La Sát Nữ được nêu lên trong Đại Khổng Tước
Chú Vương Kinh … cùng nhau thủ hộ người tu hành
_La Sát Thiên, tên Phạn là Rākṣasādhipati, dịch âm là La Sát Sa Địa Bà Đế,
dịch ý là La Sát Chủ. Lại có tên Phạn là Nairṛtī (hoặc Nṛtye) dịch âm là Niết Lý Để,
Niết Lý Đế, Nễ Lý Đế. Tức là La Sát Chủ Thiên trong Mật Giáo, tên gọi của Quỷ
Vương thuộc một trong tám hàng Trời ở tám phương, một trong 12 Thiên, một trong
20 Thiên… là hàng Trời thủ hộ phương Tây Nam. Do điều này mà phương Tây Nam
có tên gọi là phương Niết Lý Để hay phương La Sát
_Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi La
Sát Thiên vui thời các Đạm Hoàn Quỷ Túy cũng vui, chẳng phun khí độc, chẳng gây
tạo hạnh ác. Khi vị Trời này giận thời thảy đều hiện loạn”. Nên nếu muốn trừ trừ các
nạn Dược Xoa, La Sát..cầu Tỳ Sa Môn La Sát Thiên
74
HÌNH TƯỢNG CỦA LA SÁT THIÊN
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Tây Nam, La Sát Chủ
Thiên cỡi sư tử trắng, thân mặc giáp trụ, tay phải cầm đao khiến dựng thẳng, tay trái
đem ngón cái đè hai ngón giữa và ngón út, màu thịt đỏ. Hai thiện nữ hầu hai bên trái
phải, hai La Sát Quỷ cầm Tam Cổ Kích”
_Trong 12 Thiên thì La Sát Thiên là vị chủ của hàng La Sát (Rākṣasa) với loài
Quỷ ăn uống máu, thủ hộ phương Tây Nam
Chữ chủng tử là NṚ (⹔), hay NI (㍅)
75
Tây Nam Phương La Sát Thiên Ấn:
Tay phải nắm quyền đặt ở eo lưng. Dựng thẳng 5 ngón tay trái dính nhau, co lóng
giữa của Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh), đem đầu ngón Không (ngón cái) đè móng
2 ngón Địa Thủy (ngón út và ngón vô danh) liền thành.
Chân Ngôn là:
“Án, địa lị để duệ, sa phộc ha”
㛸 ⹔ᠪ 㛿
OṂ _ NṚTYE SVĀHĀ
Hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛃᠪ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_NAIRṚTYE_ SVĀHĀ 76
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì La Sát Thiên có thân màu thịt trắng, tay trái
nắm quyền, tay phải cầm cây gậy
Mật Hiệu là: Kim Cương Mẫu Sa La
Chữ chủng tử là: DAṂ (ᚮ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
Tướng Ấn là: Tay trái tác Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ
77
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì La Sát Thiên có chữ chủng tử là: DAṂ
(ᚮ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
Tướng Ấn là: Tay trái tác Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì La Sát Thiên có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿 ᜨ
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ_ VA
78
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì La Sát Thiên có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Tay trái tác Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì La Sát Thiên có
chữ chủng tử là: RA ()
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
79
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ_ RA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-Samaya) thì La Sát
Thiên có chữ chủng tử là: ḌA (㰬)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄セⴤ 㛿㰬
OṂ _ VAJRA-DAṆḌA SVĀHĀ_ ḌA
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì La Sát Thiên (Nirṛtiḥ) có thân màu thịt đỏ, trợn
mắt nhìn áo giáp. Hướng cánh tay trái ra bên ngoài, đem ngón cái vịn ngón út ngón vô
danh, dựng ngón trỏ ngón giữa, tác Đao Ấn. Tay phải cầm cây kiếm để cạnh eo, ngồi
trên đài tròn.
Chữ chủng tử là: NṚ (⹔) hay RĀ (ᜑ) 80
Tam Muội Gia Hình là: cây kiếm
Tướng Ấn là: Đao Ấn Tay phải nắm quyền an ở eo phải. Tay trái dựng đứng năm
ngón dính nhau, lóng giữa của Địa Thủy (ngón út và ngón vô danh), đem đầu ngón
Không (ngón cái) đè móng Địa Thủy (ngón út và ngón vô danh) liền thành.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜑᝤᝍᚲᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RĀKṢASA ADHIPATAYE_
SVĀHĀ
Hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛃᠪ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_NAIRṚTYE_ SVĀHĀ
Hay ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁⹔ᠪ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NṚTYE SVĀHĀ
QUYẾN THUỘC CỦA LA SÁT THIÊN
La Sát Nữ có tên Phạn là Rākṣaṣī, dịch âm là La Xoa Tư, La Xối Tư, La Sát Tư,
La Sát Kỳ… là nữ La Sát
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) ghi nhận hai nữ La Sát tuỳ tòng Niết Lý Để Vương
(Nairṛtī: La Sát Thiên)
Hai nữ La Sát này đều có thân màu thịt, hiện hình Thiên Nữ. Một vị dùng tay trái
cầm vật khí chứa đầy máu, quỳ thẳng lưng trên toà. Một vị dùng tay phải cầm cây
kiếm, dựng đầu gối trái mà ngồi
81
Chữ chủng tử là: ()
Tam Muội Gia Hình là: cây Kiếm
Tướng Ấn là: La Sát Nữ Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜑᝤᝎᗰᚂ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RĀKṢASI-GAṆIMI SVĀHĀ
_Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây Nam của Thai Tạng Giới Man
Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) ghi nhận hai La Sát là quyến thuộc của Niết Lý Để
Vương (Nairṛtī: La Sát Thiên)
La Sát Đồng Nam (Rākṣasa) có thân màu thịt trắng, hiện hình đồng tử. 82
Chữ chủng tử là: RA ()
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy.
Tướng Ấn là: Đao Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜑᝤᝍᚲᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RĀKṢASĀDHIPATAYE SVĀHĀ
83
La Sát Đồng Nữ (Rākṣasī) có thân màu thịt trắng, hiện hình đồng nữ
Chữ chủng tử là: RA ()
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy.
Tướng Ấn là: La Sát Nữ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜑᝤᝎᗰᚾᛊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RĀKṢASI GANIPI - SVĀHĀ
84
MƯỜI LA SÁT NỮ THỦ HỘ KINH PHÁP HOA
_Pháp Hoa Thập La Sát Pháp ghi nhận hình tượng của mười La Sát Nữ là:
1_Lam Bà (Lambā): Hình như Dược Xoa (Yakṣa), áo màu xanh, tay phải cầm
chày Độc Cổ để ngang vai phải, tay trái cầm tràng hạt (niệm châu). Dựng đứng đầu gối
trái mà ngồi, khuôn mặt có màu thịt.
2_Tỳ Lam Bà (Vilambā): Hình như Long Vương, như mặt trăng tròn đầy, như
hướng về biển lớn. Tay phải cầm Phong Vân (gió mây), tay trái nắm tràng hạt (niệm
chau), áo có màu xanh lục biếc, khuôn mặt màu trắng đứng trước đài gương.
3_Khúc Xỉ (Kūṭadantī): Hình như Thiên Nữ Tiên, áo màu xanh, cúi mặt xuống,
phía trước nâng hương hoa, quỳ dài hoặc ngồi Bán Già.
4_Hoa Xỉ (Puṣpa-danti): Hình như Ni Nữ, áo màu tía, tay phải cầm hoa, tay trái
cầm cái bàn hoa, hơi cúi mặt
5_Hắc Xỉ (Makuṭa-danti): Hình như Thần Nữ, áo màu tuyệt đẹp, tay phải cầm
cây xoa, tay trái cầm bình Quân Trì giống như hình Thủ Hộ, ngồi Bán Già.
6_Đa Phát (Keśīni): Hình như Đồng Tử, mặt như trăng tròn đầy có màu thịt như
Càn Đạt Nữ , tay phải cầm cái vòng bằng đồng, tay trái như múa, quỳ dài.
7_Vô Yếm Túc (Acalā): Hình như hình của Đỉnh Kinh, luôn thủ hộ, áo màu đơn
sơ kém cỏi hơn.
8_Trì Anh Lạc (Mālā-dhāri): Hình như Cát Tường Thiên Nữ, hai tay trái phải
cầm Anh Lạc (chuỗi ngọc), áo màu vàng ròng, mặt có màu thịt, ngồi Kiết Già.
9_Bạch Hạnh Đế (Kuntī): Hình như hình Đỉnh Minh Nữ, áo màu xanh hồng, tay
phải nắm cái xiêm, tay trái cầm chày Độc Cổ như hình đánh đập vật, ngồi dựng đầu
gối. 85
10_Đoạt Nhất Thiết Y Chúng Sinh Tinh Khí (Sarvasattvojahāri): Hình như Nữ
Phạm Thiên Đế Thích, khoác áo sắt, mặc giáp. Trên đỉnh xuất ra cái đầu ngựa, hình
phẫn nộ, tay phải cầm chày, tay trái cầm Tam Cổ, áo màu tạp sắc, ngồi Kiết Già.
_Theo truyền thống của Thiên Đài Tông với Nhật Liên Tông của Phật Giáo
Nhật Bản thì hình tượng của mười nữ La Sát là:
1_Lam Bà La Sát Nữ (Lambā): Lại xưng Hữu Kết Phộc La Sát Nữ có tay phải
đè cây kiếm, tay trái cầm quyển kinh. Chữ chủng tử là A
86
2_Tỳ Lam Bà La Sát Nữ (Vilambā) lại xưng là Ly Kết La Sát Nữ có hai tay
gõ đánh cái Nạo Bạt (một loại nhạc cụ). Chữ chủng tử là SAḤ
3_Khúc Xỉ La Sát Nữ (Kūṭa-dantī) lại xưng là Thí Tích La Sát Nữ có tay
cầm lẳng hoa. Chữ chủng tử là HRĪḤ
4_Hoa Xỉ La Sát Nữ (Puṣpa-danti) lại xưng là Thí Hoa La Sát Nữ cí tay phải
rũ xuống bên dưới, co bàn tay trái cầm viên ngọc báu. Chữ chủng tử là TRĀḤ
87
5_ Hắc Xỉ La Sát Nữ (Makuṭa-danti) lại xưng là Thi Hắc La Sát Nữ có tay
trái cầm cây phướng báu, co bàn tay phải để ở trước ngực. Chữ chủng tử là VAṂ
6_Đa Phát La Sát Nữ (Keśīni) lại xưng là Bị Phát La Sát Nữ có tay phải cầm
cây phướng báu, co bàn tay trái để trước ngực. Chữ chủng tử là AḤ
7_Vô Yếm Túc La Sát Nữ (Acalā) lại xưng là Vô Khán La Sát Nữ có tay trái
cầm cái bình nước, tay phải cầm cành hoa sen. Chữ chủng tử là SRĀ
88
8_Trì Anh Lạc La Sát Nữ (Mālā-dhāri) lại xưng là Trì Hoa La Sát Nữ có hai
tay cầm chuỗi Anh Lạc. Chữ chủng tử là SA
9_Cao Đế La Sát Nữ (Kuntī) lại xưng là Hà Sở La Sát Nữ có hai tay nâng
rương Kinh. Chữ chủng tử là MAṂ
10_Đoạt Nhất Thiết Chúng Sinh Tinh Khí La Sát Nữ (Sarva-sattvoahāri) lại
xưng là Nhất Thiết Tinh La Sát Nữ có hai tay đều hợp mười ngón. Chữ chủng tử là
Hūṃ
89
Pháp Hoa Thập La Sát Chú:
㆚ᚎ ㆚ᚎ ㆚ᚎ ㆚ᚎ ㆚ᚎ ㍅㍅㍅㍅㍅㍅
᜔᜔᜔᜔ ⽈⽈⽈⽈⽈
ITIME ITIME ITIME ITIME ITIME _NIME NIME NIME NIME NIME
NIME _ RUHE RUHE RUHE RUHE _ STUHE STUHE STUHE STUHE STUHE
_Diệu Pháp Liên Hoa Tam Muội_ Phẩm Tam Ma Gia Bí Mật của Đà La Ni
ghi nhận là: Kim Cương Tát Đoả bạch Thế Tôn rằng: “Nhóm mười vị La Sát (Rākṣasī:
Nữ La Sát) có nguồn gốc thế nào ?”
Đức Tỳ Lô Giá Na Phật bảo rằng: “Mười nữ La Sát vốn có ba loại Giác. Một là
Đẳng Giác, hai là Diệu Giác, ba là Bản Giác.
Bốn nữ La Sát đầu tiên là bốn vị Đại Bồ Tát của nhóm Tịnh Hạnh, nữ La Sát
thứ năm là Thích Ca Mâu Ni, bốn nữ La Sát ở giữa là bốn vị Đại Bồ Tát của tám
cánh sen (bát diệp), nữ La Sát thứ mười là Đa Bảo Như Lai.
Lại mười nữ La Sát là hình của mười Như Thị Tôn, tám nữ La Sát là Như Thị
của tám cánh sen, Cao Đế thứ chín là Như Thị thứ chín, nữ La Sát thứ mười là Bản
Mạt Cứu Cánh Đẳng vậy.
90
THỦY THIÊN
Thủy Thiên, tên Phạn là Varuṇa, dịch âm là Phộc Lỗ Noa, Phộc Lâu Na, Bà Lỗ
Noa, Phộc Lỗ Noa Long Vương. Varuṇa dịch ý là nước, là tên của vị Thần Rồng tại
nước có lực dụng tự tại, nên gọi là Thủy Thiên (Varuṇa-deva), là một trong 20 Thiên
của Mật Giáo, một trong tám vị Trời Hộ Thế, tức là vị Thần thủ hộ phương Tây, là vua
của loài Rồng
_Nguồn gốc của Thủy Thiên rất cổ xưa, thoạt tiên ngay trong Lê Câu Phệ Đà
(Ṛg-veda) thì Thủy Thiên là vị Thần Tư Pháp cai quản ban đêm, còn Mật Đặc Lạp
(Mitra) là vị Thần đồng bạn cai quản ban ngày...nguyên ở tại Thiên Giới. Sau này
trong A Thát Bà Phệ Đà (Atharva-deva) thì Thủy Thiên lại thành vị Thủy Thần, ngay
trong Ma Ha Bà La Đa (Mahā-bharata) lại là vị chủ của Thủy Giới, tức là vua của
loài Rồng (Nāga). Lại được ghi nhận là vị Thần thủ hộ của phương Tây, chủ của sông
nước, chủ quản Tế Tự, duy trì Đạo Đức.
Theo sách Manu thì vị Thần này dùng sợi dây cột trói kẻ có tội, nên có tên gọi là
Nāga-pāśa (Sợi dây Pháp Thuật của Rồng)
.)Thần Chú tán tụng Thủy Thiên là:
Oṃ_ Jala bimbhaya vid mahe
Nīla puruṣāya dhī mahe
Thanno varuṇa prachodayath
_Trong Phật Điển, tên gọi của Thủy Thiên được xuất hiện rất sớm
.)Trường A Hàm, quyển 20, Phẩm Đao Lợi Thiên nhắc đến Thủy Thần là một
trong bốn vị Đại Thần
.)Tạp A Hàm, quyển 35 xếp bày Tôn này cùng với Đế Thích (Indra), Y Xá Na
(Īśana) là các vị Thần ủng hộ cho người dân
.)Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, quyển 9, phẩm Chư Thiên Dược
Xoa Hộ Trì ghi nhận nhóm Nhật Thiên (Sūrya-deva), Nguyệt Thiên (Candra-deva),
Phong Thiên (Vāyu-deva) cùng với Thủy Thần 91
.)Kinh Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương có nhắc đến vị Long Vương
(Nāga-rāja) cư trú trong ao Vô Nhiệt Não (Anavatapta)
.)Kinh Đại Tam Ma Nhạ ghi nhận mười vị Trời thuộc nhóm Phộc Lỗ Ni
(Varuṇī), Tô Ma (Soma). Địa Thiên (Pṛthivī), Thủy Thiên…
.)Kinh Tú Diệu, quyển Thượng ghi nhận vị Trời này là Nguy Tú (Śatabhikṣak)
là vì sao cai quản 28 Tú
_Đến thời kỳ Mật Giáo thì dùng Tôn này làm vị Long Vương thủ hộ phương Tây
được ghi nhận trong hai Bộ Man Đa La là Thai Tạng Giới (Garbha-dhātu) và Kim
Cương Giới (Vajra-dhātu), phát huy thuộc tính của vị Thần Phộc Lỗ Noa mà Thần
Thoại của Ấn Độ Giáo đã nói
.)Kinh Đại Nhật, quyển 1, phẩm Cụ Duyên nói rằng: “Phộc Lỗ Noa Long
Vương dùng sợi dây Rồng (Nāga-pāśa: Long sách) làm Ấn
.) )Kinh Đại Nhật, quyển 5, phẩm Bí Mật Mạn Trà La nói rằng: “Phộc Lỗ cầm
sợi dây, ở ngay trong Đàn tròn. Ông! Đại Ngã nên biết chữ chủng tử xoay quanh”
.)Đại Nhật Kinh Sớ nói rằng: “Phộc Lỗ Noa là vị Long Vương thủ hộ phương
Tây, cầm sợi dây làm Ấn”
.)Hiền Kiếp Thập Lục Tôn ghi là: “Thủy Thiên cầm sợi dây”
.)Đà La Ni Tập Kinh, 12 ghi nhận Thủy Thiên Pháp Ấn Chú
HÌNH TƯỢNG CỦA THỦY THIÊN
Hình tượng của Thủy Thiên được ghi nhận khác nhau
_Hình tượng tại Ấn Độ
92
93
-Hình tượng của Thủy Thiên trong Mật Tông Phật Giáo
.)Phần cuối của Bí Tạng Ký ghi là: “Thủy Thiên có màu xanh, hình có chín đầu
Rồng”
Lại nói là: “Thủy Thiên có màu xanh, tay trái nắm quyền, tay phải cầm sợi dây”
.)Hình tượng của Hiện Đồ Thai Tạng Giới Man Đa La ghi rằng: “Thân màu
xanh nhạt, tay trái nắm quyền đặt ở eo, tay phải cầm sợi dây rắṅ, ngồi trên lá sen”
.)Đà La Ni Tập Kinh, quyển 11 nói rằng: “Dùng gỗ Bạch Đàn làm tượng ấy,
thân cao năm Thốn (5/3 dm) tựa hình Thiên Nữ, mặt có ba con mắt, đầu đội mão Trời,
thân khoác áo Trời, dùng Anh Lạc trang nghiêm, dùng hai tay nâng viên ngọc báu Như
Ý”
.)Bách Nhị Thập Tôn Pháp nói rằng: “Tiếp đến Đạo Trường Quán, trên Địa
Kết có bức tường Kim Cương, bên trong có biển lớn, trong nước có lầu gác bảy báu,
trong gác báu có tòa lá sen, trên tòa có chữ BA ( ) [?chữ VA (ᜨ)], Chữ BA biến
thành sợi dây Rồng,sợi dây Rồng biến thành Thủy Thiên màu xanh lục nhạt, tay phải
cầm cây đao, tay trái cầm sợi dây Rồng, trên mão đội đầu có chín con Rồng, cỡi trên
con rùa mà trụ trong nước, các Rồng quyến thuộc vây quanh”
_Phật Giáo Nhật Bản ghi nhận Thủy Thiên ngồi trên một con rùa hoặc một con
Rồng ở giữa sóng nước, tay phải cầm một thanh gươm thẳng đứng, tay trái cầm sợi dây
hay con rắn, những con rắn phóng ra từ tóc của Thủy Thiên,
94
Đôi khi Thủy Thiên đứng trên con rùa hoặc con Rồng, cầm sợi dây trong tay,
hoặc ngồi và cầm hoa sen nâng đỡ ba viên ngọc.
95
_Thánh Vô Động Tôn An Gia Trấn Quốc ghi rằng: “ Phương Tây: làm cây cờ
màu đỏ, trên cờ vẽ Thủy Thiên ngồi trên con rùa, tay phải cầm sợi dây rắn, tay trái
chống eo, trên đầu của vị Trời ấy có bảy đầu rồng dạng như con rắn”.
96
_Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: Phương Tây, Thủy Thiên trụ ở
trong nước, cỡi con rùa, màu xanh lục nhạt, tay phải cầm đao, tay trái cầm sợi dây
Rồng (Long Sách) trên mão có 5 con Rồng. Bốn vị Thiên Nữ cầm hoa màu nhiệm
Tướng Ấn là: Tay phải như trước. Tay trái nắm quyền không cho ngón Không
(ngón cái) vào trong lòng bàn tay, Phong (ngón trỏ) liền dựng đứng hơi co lóng giữa
liền thành.
Chân Ngôn là:
Nam mạc tam mãn đa một đà nam. Phộc lỗ noa dã, sa-phộc ha
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㙝᜔ᚁ㗚 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VARUṆĀYA SVĀHĀ
_Trong 12 Thiên thì Thuỷ Thiên là vị chủ của loài Rồng ở dòng nước, dòng thác,
sông lớn, sông do con người đào, biển lớn… thủ hộ phương Tây
Chữ chủng tử là VA (ᜨ)
97
Tây Phương Thủy Thiên Ấn: Tay phải như trước. Tay trái nắm quyền đừng cho
ngón Không (ngón cái) vào trong lòng bàn tay, dựng thẳng ngón Phong (ngón trỏ) rồi
hơi co lóng giữa liền thành.
Chân Ngôn là :
“Án, phộc lỗ noa gia, sa phộc ha”
㛸 㙝᜔ᚁ㗚 㛿
OṂ _ VARUṆĀYA SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Thủy Thiên là một trong bốn vị Hộ Pháp của
vòng Kim Cương, đại biểu cho Đức đặc biệt của Thủy Đại (Ab-dhātu) là trong sạch,
thấm ướt đất tâm của tất cả chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu xanh, trên đỉnh đội 7 con rắn, khoác áo Yết Ma
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa Sen
Tướng Ấn là: Tay trái tác Quyền, duỗi ngón giữa rồi hơi co lại
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜨ᜔ᚁㆎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VARUṆĀYA SVĀHĀ
98
Cũng trong Hội này, Thủy Thiên lại là một trong 20 Thiên Hộ Thế và được an bày
riêng tại phương Bắc
Tôn Hình:Thân màu xanh lợt, tay phải cầm sợi dây Rồng (Long Sách), tay trái
nắm quyền, ngồi trên lá sen
Mật Hiệu là: Long Kim Cương
Chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng (Long Sách)
Tướng Ấn là:Thủy Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ
99
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Thủy Thiên có chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng (Long Sách)
Tướng Ấn là:Thủy Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Thủy Thiên có chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿 㗍
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ_ NA
100
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Thủy Thiên có chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội. Phần đội trên đầu có Rồng.
Tướng Ấn là:Thủy Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Thủy Thiên có
chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội, bộ phận trên đầu có đội đầu
Rồng.
101
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿 㗍
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ_ NA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Thủy
Thiên có chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᚽᗰ ᜨ᥄ 㛿 㗍
OṂ _ NĀGA-VAJRA SVĀHĀ_ NA
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Thủy Thiên có 2 vị trí
-Ở cạnh Nam của cửa Tây: Thủy Thiên có thân màu tím đen. Tay trái để ngang
ngực cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao. Tay phải cầm cây kiếm
102
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng (Long Sách).
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᜬᚰᩂ㖁㛿㐷
OṂ_ BUDHA-ŚRI_ SVÀHÀ
Hay: ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゚ᛒᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ APAṂPATAYE SVĀHĀ
-Ở cạnh Bắc của cửa Tây: Thủy Thiên có thân màu thịt, trên đầu có 7 cái đầu
Rồng, tay phải cầm sợi dây Rồng, tay trái nắm quyền để trên đùi. (hình bên phải)
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ), hoặc A (゚) 103
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng.
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゚ᛒᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ APAṂPATAYE SVĀHĀ
Pháp cúng dường Thủy Thiên lại xưng là Thủy Thiên Cúng, tức Mật Giáo dùng
Thủy Thiên làm Bản Tôn để tu Pháp cầu mưa
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm ghi rằng: “Khi
Thủy Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là thân người chẳng bị khát. Hai là mưa thấm
ướt theo Thời. Khi vị Trời này giận thời cũng có hai điều hao giảm. Một là thân người
bị khô khát. Hai là Khí Giới bị hạn hán, Thần Hạn hán (bạt), vạn vật khô hết. Hoặc
tuôn mưa lớn, Thế Giới ngập nước tuôn chảy làm tổn hoại cây cỏ chẳng kịp cung cấp
cho chúng sinh”
Do vậy nếu bị nạn về lửa, hoặc cầu mưa ngưng mưa... thì cầu cúng Thủy Thiên
Theo Phật Giáo Nhật Bản thì Thủy Thiên còn được xem như người thầy thuốc và
người bảo vệ chống lại bệnh tật.
104
THỦY THIÊN PHI
Thuỷ Thiên Phi tên Phạn là Varuṇanī, lại xưng là Long Vương Phi, là vợ của
Thủy Thiên
-Tại cạnh Bắc của cửa Tây trong Ngoại Bộ Kim Cương Viện của Thai Tạng
Giới thì Thủy Thiên Phi có thân màu thịt vàng trắng, trên đầu có 9 cái đầu Rồng, tay
phải cầm sợi dây Rồng, tay trái để trên đùi (hình chính giữa)
Chữ chủng tử là: ME ()
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng.
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゚ᛒᛈᚌᜊ㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ APAṂPATAYE SVĀHĀ
Thuỷ Thiên Phi Quyến Thuộc (Varuṇanī-parivāra):
Varuṇanī-parivāra là quyến thuộc của Thuỷ Thiên Phi.
Tôn hình: Thân màu thịt, trên đầu có 8 cái đầu Rồng, tay phải cầm cây kích, tay
trái cầm sợi dây Rồng (hình bên trái) 105
Chữ chủng tử là: ME ()
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Rồng.
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᗼ ᜴ᚿᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ MEGHA-ŚANĪYE SVĀHĀ
106
PHONG THIÊN
Phong Thiên, tên Phạn là Vāyu, dịch âm là Phộc Du, Bà Dữu, Bà Dũ, Phạt Do.
Lại xưng là Phong Thần, Phong Đại Thần.
Phong Thần có khởi nguồn rất xa xưa tại Ấn Độ, sớm thấy tên ấy trong Lê Câu
Phệ Đà (Ṛg-veda), và thường xuất hiện trên cùng một cỗ xe với Indra, do chính Indra
cầm cương. Bài Thánh Ca dành cho Phong Thần rất ít.
Theo truyền thuyết của Ấn Độ Giáo thì Phong Thần (Vāyu) được sinh ra từ hơi
thở của Puruṣa và là vị Thần cai quản không trung, cùng với Nhật Thiên (Sūrya) là vị
Thần cai quản Thiên Giới, Hỏa Thiên (Agni) là vị Thần cai quản Hạ Giới… được hợp
xưng là Phệ Đà Tam Tôn.
Theo Bhagavad-pūraṇa: Do Nārada yêu cầu Vāyu san bằng đỉnh núi Tu Di
(Sumeru) nên Vāyu đã tung ra một cơn bão kéo dài tới một năm, nhưng Garuḍa, chim
Thần của Viṣṇu dùng cánh của mình ngăn che ngọn núi khiến cho các cuộc tấn công
không có hiệu quả. Khi ấy Nārada khuyên Vāyu hãy tấn công ngọn núi khi Garuḍa
vắng mặt nên ngọn núi bị hớt mất đỉnh đầu, rơi xuống biển thành hòn đảo Laṅkā. Vì
thế Vāyu có các biệt hiệu là “Người mang hương thơm” hay “Kẻ vận động vĩnh hằng”
Người Ấn Độ thường thờ phượng Vāyu qua hình tượng ngồi trên lưng con hươu
nhỏ có hai cái sừng dài, tay cầm bông hoa với cây cờ, hoặc cầm cây gậy
107
_Phong Thiên lại có một tên Phạn nữa là Vāta đều do chữ Phạn Vā nghĩa là thổi
chuyển hóa mà thành, tức là dạng Thần Cách Hóa uy lực chuyển động khi gió thổi gấp
rút.
Phong Thiên là một trong các vị Thần chủ về sự trường sinh; hay ban cho con
người: danh dự, tràn đầy Phước, con cháu hoặc sống lâu.
.)Thần Chú của Phong Thiên là:
Oṃ_ Yaṃ vāyuve namaḥ
_Sau khi du nhập vào Phật Giáo thì Phong Thiên thường được ghi nhận trong
một số Phật Điển, riêng Mật Giáo thì ghi nhận Phong Thiên là vị Thần thủ hộ phương
Tây Bắc
.)Trường A Hàm, quyển 20, phẩm Đao Lợi Thiên ghi nhận Phong Thiên là
một trong bốn vị Đại Thần
.)Tân dịch Hoa Nghiêm Kinh, quyển 01 nêu lên mười loại Phong Thần là: Vô
Ngại Quang Minh Chủ Phong Thần, Phổ Hiện Dũng Nghiệp Chủ Phong Thần, Phiêu
Kích Vân Tràng Chủ Phong Thần, Tịnh Xí Nghiêm Chủ Phong Thần, Đao Năng KIệt
Thủy Chủ Phong Thần, Đại Thanh Biến Hống Chủ Phong Thần, Thụ Diểu Thùy Kế
Chủ Phong Thần, Sở Hành Vô Ngại Chủ Phong Thần, Chủng Chủng Cung Điện Chủ
Phong Thần, Đại Bái Chiếu Chủ Phong Thần
.)Tân dịch Hoa Nghiêm Kinh, quyển 03 lại nói mười loại Phong Thần này đều
có các loại Giải Thoát Môn, hiện ra ở đời khiến cho chúng sinh vị mê chướng ngăn
che nặng nề đều được giải thoát
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi
Phong Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là thân người nhẹ nhàng an ổn, cử động tùy
theo Tâm Ý. Hai là Khí Giới không có nghiêng động mà tùy Thế Gian có gió lạnh ôn
hòa chẳng gây hao giảm cho loài Tình (Hữu Tình) Phi Tình (Vô Tình). Khi vị Trời này
giận thời cũng có hai điều hao giảm. Một là thân người với âm thanh chẳng được tùy ý.
Hai là gió lớn thổi tràn tàn phá Thế Gian. Hoặc chẳng nổi gió khiến cho cây cỏ chẳng
thuận theo Thời”.
108
Do vậy muốn trừ oán tai dùng Phong Thiên và đối với Trời này cầu nhóm Phong
nạn.
Phong Thiên còn được coi là Tôn bảo vệ ngăn chống thiên tai.
_Trong mười hai Thiên thì Phong Thiên là vị chủ của Thần Gió (Phong Thần)
với Vô Hình Lưu Hành Thần, thủ hộ phương Tây Bắc
Chữ chủng tử là: VĀ (ᜩ)
Tây Bắc Phương Phong Thiên Ấn: Tay phải như trước. Dựng thẳng 5 ngón tay
trái cùng dính nhau, co lóng giữa của Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh) liền thành.
Chân Ngôn là :
“Án, phộc gia phệ, sa phộc ha”
㛸 ᜩᜅ㊞ 㛿
OṂ _ VĀYĀVE SVĀHĀ
109
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Tây Bắc, Phong
Thiên ở trong mây cỡi con chương (Loài như hươu nhỏ không có sừng, lông hơi vàng
vàng) mặc giáp trụ, tay trái nâng háng, tay phải cầm Độc Cổ Đầu Sang, trên cây sang
có Phi Thiên. Hai vị Thiên Nữ theo hầu cùng với chúng Dược Xoa
Tướng Ấn là: Tay phải như trước. Tay trái dựng đứng năm ngón dính nhau, co
lóng giữa của Địa (ngón út) Thủy (ngón vô danh) liền thành.
Chân Ngôn là:
Nam mạc tam mãn đa một đà nam. Phộc gia phệ, sa-phộc ha
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜩᜅ㋥ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VĀYĀVE SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Phong Thiên là
một trong 20 Thiên và vị Trời thủ hộ phương Tây Bắc
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Phong Thiên là một trong bốn vị Hộ Pháp
của vòng Kim Cương, đại biểu cho Đức đặc biệt của Phong Đại (Vāyu-dhātu) là xa lìa
Nhân Duyên
Tôn Hình: Thân màu vàng lợt, hiện hình phẫn nộ, đầu đội chày Độc Cổ, khoác áo
Yết Ma.
Chữ chủng tử là: KṚṬ (㫶) hay VĀ (ᜩ), HA (ㇻ) 110
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen, phan phướng
Tướng Ấn là: Tay trái dơ cánh tay lên nắm quyền, duỗi ngón út với ngón vô danh
đứng song song.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜩᜄᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VĀYAVE_ SVĀHĀ
Cũng trong Hội này, Phong Thiên là một trong 20 Thiên hộ thế, có vị trí ở
phương Tây của Ngoại Đàn
Tôn hình: hình La Sát, thân màu thịt đỏ, tay phải tác Phong Tràng, tay trái nắm
quyền
Mật Hiệu là: Kim Cương Phong
Chữ chủng tử là: NI (ᚾ)
Tam Muội Gia Hình là: Phong Tràng
111
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Phong Thiên có chữ chủng tử là: NI (ᚾ)
Tam Muội Gia Hình là: Phong Tràng
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Phong Thiên có chữ chủng tử là: LA(ㇶ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
112
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿 ㇶ
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ_ LA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Phong Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Phong Thiên có
chữ chủng tử là: PA(ᛈ)
Tôn Hình: Hai tay cầm cây kích Tam Cổ
113
Tam Muội Gia Hình là: Phong Tràng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿 ᛈ
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ_ PA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Phong
Thiên có chữ chủng tử là: LA(ㇶ)
Tam Muội Gia Hình là: Phong Tràng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥅ᚾㇶ 㛿 ㇶ
OṂ_ VAJRĀNILA SVĀHĀ_ LA
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala):
.)Tại góc Tây Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Phong Thiên có thân màu
đen đỏ, đầu đội mão, khoác Thiên Y, khôi giáp, dây thắt lưng tung múa tuỳ theo gió
thổi. Tay phải cầm cây gậy, đầu gậy có nửa mặt trăng, trên trăng có ngôi sao. Tay trái
để trên đùi.
114
Chữ chủng tử là: VĀ (ᜩ)
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng.
Tướng Ấn là: Nguyệt Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜩᜄᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VĀYAVE_ SVĀHĀ
PHONG THIÊN PHI
Phong Thiên Phi, tên phạn là Vāyavī là vợ của Phong Thiên, chủ về Định Đức
của Phong Thiên
.)Tại góc Tây Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Phong Thiên Phi có thân
màu thịt, tay phải cầm cây gậy, đầu gậy có cái túi nhỏ
115
Chữ chủng tử là: VĀ (ᜩ)
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng.
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜩᜄᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VĀYAVE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁 ᜩᜄᜫ㖁㛿㐷
OṂ_ VĀYAVĪ_ SVĀHĀ
116
QUYẾN THUỘC CỦA PHONG THIÊN
Phong Thiên Quyến Thuộc (Vāyava): là quyến thuộc của Phong Thiên, chủ về
việc ban cho chúng sinh: Danh Dự, Phước Đức, con cháu, sự sống lâu và giải thoát
được sự mê chướng.
.)Tại góc Tây Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Phong Thiên Quyến
Thuộc có thân màu thịt, hiện hình Đồng Tử, tay trái nắm quyền để trên đùi. Tay phải
cầm cây gậy, đầu gậy có nửa vành trăng, bên trên có vành mặt trời
Chữ chủng tử là: VĀ (ᜩ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây phướng
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜩᜄᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VĀYAVE_ SVĀHĀ
117
.)Tại góc Tây Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Phong Thiên Quyến
Thuộc có hai Tôn hình:
1_Thân màu thịt, hiện tướng Đồng Tử. Tay trái để trước ngực cầm cây gậy, trên
đầu gậy có hình nửa vành trăng, trên trăng có mặt trời. Tay phải để trước ngực hướng
tâm lòng bàn tay ra ngoài. Thiên Y trên thân tung bay theo gió
2_Thân màu thịt, hiện tướng Đồng Tử. Tay phải để trước ngực cầm cây gậy. Tay
trái nắm đuội gậy, đầu gậy có nửa vành trăng, trên trăng có hình mặt trời.
Chữ chủng tử là: VĀ (ᜩ) 118
Tam Muội Gia Hình là: Cây phướng
Tướng Ấn là: Phong Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜩᜄᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VĀYAVE_ SVĀHĀ
119
TỲ SA MÔN THIÊN
Tỳ Sa Môn Thiên, tên Phạn là Vaiśravaṇa, dịch âm là Tỳ Xá La Bà Na, Tì Thất
La Muộn Nang, Phệ Thất La Mạt Noa, Phệ Thất La Bà Na, Phệ Thất La Ma Noa, Phệ
Thất La Mạt Na, Tỳ Xá La Môn, Tì Sa Môn, Tỳ Sa Môn. Dịch ý là Đa Văn, Phổ Văn,
Chủng Chủng Văn hoặc Bất Hảo Thân. Ngoài ra Câu Phệ La (Kubera, hoặc Kuvera),
Cưu Tì La, Câu Tì La, Kim Tì La…. là tên gọi riêng của Ngài, hoặc xưng là Câu Tỳ
La Tỳ Sa Môn (Kubera-vaiśravaṇa). Trong các tên gọi trên thì Tỳ Sa Môn Thiên và
Đa Văn Thiên rất thường thấy
Tỳ Sa Môn Thiên là một trong bốn vị Đại Thiên Vương, một trong 8 Phương
Thiên, 12 Thiên hoặc 20 Thiên …thống lãnh hai chúng Thần: Dạ Xoa (Yakṣa) và La
Sát (Rākṣasa). Là vị Thiên Vương thủ hộ ở phương Bắc của cõi Diêm Phù Đề
(Jambu-dvīpa), là vị Thiên Thần lương thiện luôn hộ giữ Đạo Tràng của Như Lai để
nghe nhiều Pháp Phật. Do sức Phước Đức của Tỳ Sa Môn Thiên Vương nổi tiếng bốn
phương, cho nên có tên là Đa Văn Thiên.
Có khi Ngài cũng được xem là vị Thần Chiến Thắng và nhận sự tôn sùng. Trong
Tạng Mật lại là Bản Tôn Tài Thần, hay ban cho tiền của không tận. Tại vùng đất Ấn
Độ, Tây Vực, Trung Quốc và Nhật Bản thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương đều nhận được sự
cung phụng rất phổ biến qua tên gọi của Tài Thần, (hay Phước Thần Kubera) là đấng
hay ban Phước, hộ giữ tiền của cho chúng sinh…nên lại được xưng là Tài Bảo Thiên
Vương
_Theo truyền thống Ấn Độ thì Vaiśravaṇa được sùng mộ sâu xa như Kubera là vị
Thần của sự giàu có thịnh vượng, Ngài là con của vị Hiền Giả Visravas được Brahma
phong cấp Thần. Vaiśravaṇa khởi hành từ núi Kailasa trong dãy Himalayas và trở
thành vua của xứ Laṅka (đôi khi được đồng hóa với Śrī-laṅka ngày nay), Thần ngự
trên núi Alaka ở rặng Himalayas với một đạo quân Yakṣa và Kiṃnara đông đảo. Đoàn
quân Yakṣa được điều khiển bởi 28 vị tướng thuộc quyền của Tổng Tư Lệnh Pañcika 120
và binh đoàn này đã sớm sát nhập vào đội quân của Vaiśravaṇa. Do truyền thuyết Tỳ
Sa Môn Thiên từng thống lãnh quân Dạ Xoa đánh bại Quỷ La Phạ Noa (Ravāṇa) nên
còn có tên gọi là Võ Thần (hay Vũ Thần)
.)Theo truyền thống khác thì Vaiśravaṇa chính là Thiên Thần Kubera (còn gọi
là Thí Tài Thiên) là vị Thần tài bảo giữ gìn bảo hộ cho phương Bắc. Do vậy người
dân Ấn Độ còn thờ phụng Ngài qua danh xưng Kubera-vaiśravaṇa với nhiều hình
thức đa dạng
121
_ Thần Chú của Kubera-vaiśravaṇa là:
Namo vayaṃ vaiśravaṇāya
Kurvaṇa sāmin kamana-mahā-mayam agnaṃ
Kāmeśvare vaiśravaṇa utha dhātu
Kuberāya vaiśravaṇāya mahā-rāja yena māhā
Oṃ_ Śrīṃ Hrīṃ Eiṃ kubera lakṣmiye kamala-dhāriṇiye dhana akra śiniye
svāhā
(Kính lễ Đấng Tỳ Sa Môn Thiên của chúng tôi
Hành động chuyển hóa ước vọng như ngọn lửa trị liệu to lớn
Nữ Thần Ái Dục cư trú ở Thế Giới của Tỳ Sa Môn Thiên
Đấng Kubera-Tỳ Sa Môn là bậc đại vương bởi sự to lớn ấy
Oṃ: Nhiếp triệu
Śrīṃ: chủng tử cát tường
Hrīṃ: chủng tử của âm thanh Đại Huyễn Hóa
Eiṃ: chủng tử của âm thanh hạt giống của sự chuyển biến nguyên thủy
Kubera: Tài Thần Kubera
Lakṣmiye: Cát Khánh Thiên Nữ
Kamala dhāriṇiye: nhóm cầm nắm hoa sen màu vàng
Dhana akra śiniye svāhā: Quyết định làm cho tôi trở thành người đàn ông giàu có
hoàn hảo nhất)
_Theo Giáo Điển của Phật Giáo thì Tỳ Sa Môn Thiên Vương cư ngụ tại 3 thành:
Khả Úy, Thiện Kính, Chúng Quang ở Thủy Tinh Đóa thuộc tầng thứ tư tại phía Bắc
của núi Tu Di (Sumeru). Mỗi cái thành đều ngang dọc khoảng 60 do tuần, trong đó có
7 lớp lan can, võng lưới, cây trồng thành hàng…. Dùng để trang sức, toàn bộ đều do 7
báu hình thành, đoan nghiêm thanh tịnh; muôn chim cùng nhau kêu hót cảnh sắc rất
xinh đẹp.
*)Tỳ Sa Môn Thiên Vương có 5 vị Thái Tử là: Tối Thắng, Độc Kiện, Na Tra
(Nalakūbara, Nalakūvara, Narakuvera, Nalakūvala Naṭakuvera hay Naḍakuverā),
Thường Kiến và Thiền Kỳ; thường có 5 Đại Quỷ Thần theo hầu bên trái bên phải, 122
phân biệt là: Na Đô Lâu, Đàn Đà La, Ê Ma Bạt Đà, Đề Kê La, Tu Dật Lộ Ma… ngoài
ra còn có 28 Sứ Giả thuộc cõi Trời của Ngài, phụ giúp Ngài bảo hộ chúng sinh.
Mỗi nửa tháng, vào 2 ngày trai với ngày mùng 8, ngày 14, ngày 15 …. bốn vị
Thiên Vương của nhóm Tỳ Sa Môn thường dùng 8 ngày này sắc lệnh cho các Sứ Giả
đi tuần tra thế gian, xem xét nhân gian, ai là người hiếu kính cha mẹ, tôn kính Sa Môn
và trưởng lão Bà La Môn? Ai là người thọ nhận Trai Giới và hành bố thí? Sau khi Sứ
Giả tuần tra về báo, nếu như Thiên Vương nghe thấy ở nhân gian làm ác thì không vui
mừng, nếu nghe được làm lành thì sinh lòng vui vẻ. Ngày 14 bốn vị vua cử Thái Tử đi
tuần tra thiên hạ; nhưng đến ngày 15, thì đích thân Tứ Thiên Vương đi tuần tra xem
xét, sau đó đến Điện Thiện Pháp, bẩm cáo rõ ràng tất cả sự việc cho Đế Thích Thiên
Vương
*) Kinh Điển của Phật Giáo từng ghi nhận: trong chư Thần của cõi Trời ấy thì
Tỳ Sa Môn là vị Thần Kỳ rất có nhiệt tâm hộ trì cho Giáo Đồ Phật Giáo.
Như đối với người trì tụng và người phụng hành Kinh Kim Quang Minh, Kinh
Pháp Hoa thì Tỳ Sa Môn Thiên đều từng ở trước mặt Đức Phật, thệ nguyện hộ trì
Kinh Hiền Ngu ghi nhận: Tỳ Sa Môn Thiên đã trợ giúp cho vị nữ tín đồ Ưu Ba
Tư Na cúng dường các Tôn Giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên
Kinh Tăng Nhất A Hàm ghi nhận Tỳ Sa Môn Thiên đã trợ giúp cho vị Phạm Chí
tu đắc quả A La Hán (Arhat)
Kinh A Tra Nẵng Chỉ (Aṭanitiya) ghi nhận Tỳ Sa Môn Thiên ở trước mặt Đức
Phật thệ nguyện bảo hộ cho Đồ Chúng Phật Giáo trong khi tu hành Kinh này thời đều
tránh được sự quấy phá của các hàng Phi Nhân, Quỷ Thần
*)Kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương (ĐTK_No.1244) ghi nhận Tỳ Sa Môn Thiên
Vương có thệ nguyện giúp cho chúng sinh có được tiền của, giàu có an vui.
“Bấy giờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở trước Đức Phật, chắp tay bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Con vì lợi ích an vui, tài bảo giàu có, hộ trì cho chúng Hữu Tình ở đời vị
lai, nên nói Tự Chân Ngôn (Chân Ngôn của mình), Chân Ngôn này của con như báu
Chân Đà Ma Ni (Cintā-maṇi:viên ngọc Như Ý) hay mãn mọi nguyện. Xin Đức Thế
Tôn nghe rồi hãy hứa cho con nói “
Đức Phật bảo: “Lành thay! Lành thay Thiên vương! Ông hay thương nhớ Hữu
Tình, ông cứ theo ý mình mà nói”
Khi ấy Tỳ Sa Môn Thiên Vương vui vẻ vô lượng, liền ở trước Đức Phật, nói Tâm
Chân Ngôn (Citta-mantra) là :
Nẵng mô la đát nẵng đát la dạ dã (1) nẵng mô phệ thất la ma noa dã (2) ma
ha la nhạ dã (3) tát phộc tát đát phộc nẵng ma (4) xá bả lý bố la noa dã (5) tất địa
ca la dã (6) tô khiên ná ná dã (7) đát sa một nẵng tắc cật lý đát phộc (8) y hàm,
phệ thất la ma noa, hột lý nãi dã (9) ma sao đa dĩ sái nhĩ (10) tát phộc tát đát
phộc, tô khư phộc hám (11) đát nễ dã tha (12) Án – tất địa, tất địa, (13) tô mẫu, tô
mẫu (14) tả tả tả tả (15) tả la, tả la (16) sa la, sa la (17) yết la, yết la (18) chỉ lý, chỉ
lý (19) củ lỗ, củ lỗ (20) mẫu lỗ, mẫu lỗ (21) chủ lỗ, chủ lỗ (22) sa đà dã át tham
ma ma (23) ninh để dã, mạt tha nỗ bà phộc, sa phộc hạ (24) phệ thất la ma noa dã,
sa phộc hạ (25) đà nẵng ná dã, sa phộc ha (26) ma noa la tha (27) bả lý bố la ca
dã, sa phộc hạ (28)
ᚼᜀᜐᾰᦤᜅᜄ ᚼᜀᜯ㬣㍨ᚁᜄ ᛸᜑᘭᜄ ᝌ⇀ᝌᲱᚽ᜵ᛈᜒᛍᜐᚁᜄ
ᝎᗘᜑᜄ 㫾ᗤ ᚤᚥᜄ ᚌở ᚼᜃ㬐Ჰ ゜㫁 ᜯ㬣㍨ᚁ ⺈ᚤᜄ ᜨ㝅 ゜ᣀ
ᝌ⇀ᝌᲰ 㫾ᗥ ᜨᝢ
ᚌ㜀ᚙ 㛸 ᝎ㙰 㫾㙰 ᘔᘔᘔᘔ ᘔᜐ㙰 ᝌᜐ㙰 ᗘᜐ㙰 ᗚᜒ㙰 ᗜ᜔㙰
㪧᜔㙰 㮲᜔㙰 ᝍᚰᜄ ゚ⅆ ᛸᛸ ᚾᠤ ᛸᚘᛄ᛭ᜨ ᵙ 123
ᜯ㬣ᛸᚁᜄ ᵙ
ᚰᚼᚥᜄ ᵙ
ᛸᛄᜐᚘ ᛈᜒᛍᜐᗙᜄ ᵙ
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO VAIŚRAVAṆĀYA MAHĀ-RĀJĀYA
SARVA-SATVĀNĀM ĀŚĀ PARIPŪRAṆĀYA SIDDHI KARĀYA –
SUKHA DADĀYA – TASMAI NAMAḤKṚTVA
IMĀṂ VAIŚRAVAṆĀ-HṚDAYAM ĀVARTTA IṢYA MI – SARVA
SATVA SUKHĀ VA HAṂ
TADYATHĀ : OṂ – SIDDHI SIDDHI – SUMU SUMU – CA CA CA CA –
CARA CARA – SARA SARA – KARA KARA – KIRI KIRI – KURU KURU –
MURU MURU – CURU CURU – SĀDHAYA-ARTHAM MAMA – NITYA
MATHANO BHĀVA – SVĀHĀ.
VAIŚRAVAṆĀYA – SVĀHĀ
DHANADĀYA – SVĀHĀ
MANORATHA PARIPŪRAKĀYA – SVĀHĀ
Bấy giờ, Tỳ Sa Môn Thiên Vương nói Chân Ngôn này xong, liền bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Nay con nói về Pháp thọ trì Chân Ngôn.
Trước tiên nên lấy An Tất Hương, Bạch Đàn Hương, Long Não Hương, Đa Diệp
La Hương, Huân Lục Hương, Tô Hợp Hương, hoà các thứ Hương này cúng dường con
là Tỳ Sa Môn Thiên Vương.
Nếu Nghinh Thỉnh thì kết Căn Bản Ấn, đưa hai ngón trỏ hướng về thân mình
triệu ba lần.
Liền tụng Chân Ngôn 7 biến rồi buông Ấn trên đỉnh đầu.
Đát nễ dã tha (1) nẵng mô phệ thất la ma noa dã (2) nẵng mô đà nẵng ná dã
(3) đà mật thấp phộc la dã (4) A diệp tha diệp tha (5) A bả lý nhĩ đa, đà mật thấp
phộc la (6) bát la ma ca lỗ nê ca (7) tát phộc tát đáp phộc hứ đa tức đa (8) ma
ma, đà nẵng ma noa, bát la duệ tha (9) sa phộc diễm ma diệp tha, sa phộc hạ (10)
ᚌ㜀ᚙ ᚼᜀᜯ㬣㍨ᚁᜄ ᚼᜀᚰᚼᚥᜄ ᵙ ᚰᛂ㜅ᜑᜄ ㅥᗘ⇘㙰
ㅥ㍷ᜒㅑ ᚰᛂ㜅㍤ ㍷㍤ᛸ ᗙ᜔ᚂᗘ ㍖㎉㍖Ჰ ㅑ ᘖ㎮ ᛸᛸ ᚰ㗍 ᛸᛀ
㎢ᜄ㒛 ᵘᜎ ㅥᗘ⇘ ᵙ
TADYATHĀ: NAMO VAIŚRAVAṆĀYA
NAMO DHANADĀYA – DHANEŚVARĀYA
AKARṢA AKARṢA – APARIMITA DHANEŚVARA – PARAMA
KĀRUṆIKA _SARVASATVA HĪTA CITTA – MAMA DHANAM
ANUPRAYACCHA SVAYAṂ AKARṢA – SVĀHĀ.
Hành Giả niệm tụng thường không gián đoạn cho đến khi con của Tỳ Sa Môn
Thiên Vương là Tán Nễ Sa (? Śaṇḍika) hiện hình đồng tử bảo người Trì Tụng rằng:
“Ngươi có việc gì mà triệu thỉnh cha của Ta?”
Người Trì Tụng đáp: “Tôi vì cúng dường Tam Bảo, xin trao tài bảo cho tôi” 124
Trong khoảng khắc, Đồng Tử Tán Nễ Sa quay về nơi cư ngụ của Tỳ Sa Môn
Thiên Vương nói với vua cha rằng: “Người Trì Tụng cầu các tài bảo để cúng dường,
làm lợi ích cho Hữu Tình”
Tỳ Sa Môn Thiên Vương bảo Đồng Tử Tán Nễ Sa rằng: “ Ngày ngày con đưa
100 tiền vàng cho người Trì Tụng cho đến khi người ấy kết thúc tuổi thọ”
Đồng Tử Tán Nễ Sa ấy ngày ngày đưa 100 tiền vàng cho người Trì Tụng và đặt
tiền ở cạnh đầu người đó
Tiền vàng ấy khác với loại Hương Khí. Trước tiên, nguyện đạt được việc ấy, trừ
việc tự lấy dùng, ngoài ra nên hành xả thí chẳng nên chất chứa mà ôm ấp tính keo kiệt.
Thường đối với tất cả Hữu Tình khởi Tâm Đại Bi, đừng sinh ganh ghét . Ở nơi vắng
lặng dùng hương hoa, thức ăn uống, đèn sáng thù thắng .... như Pháp cúng dường ba
báu Phật, Pháp, Tăng, lại thêm suy tư không gián đoạn về Tỳ Sa Môn Thiên Vương và
các quyến thuộc.
*)Tỳ Sa Môn Thiên Vương từng nhận sự phó chúc của Đức Phật, ở đời vị lai nếu
có vị vua Tà Kiến hủy diệt Phật Giáo thời cần phải đi đến hộ trì Phật Pháp. Ngoài ra,
Ngài cùng với Thái Tử Na Tra đều có Nguyện Lực Tùy Quân Hộ Pháp
.)Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương Tùy Quân Hộ Pháp Nghi Quỹ
(ĐTK_No.1247) ghi rằng:
Bấy giờ Thái Tử Na Tra (Nalakuvera, hay Naḍa-kuvera) tay cầm cây kích, dùng
ánh mắt ác nhìn bốn phương rồi bạch Phật rằng: “ Con là Thái Tử thứ ba của Thiên
Vương Phệ Thất La Ma Na La Gia (Vaiśravaṇa-rāja: Tỳ Sa Môn Vương) ở phương
Bắc.
Người cháu thứ hai, Thiên Vương tổ phụ của con, với con là Na Tra mỗi ngày ba
lần cùng nhau bạch với Đức Phật rằng: “Con hộ trì Phật pháp, muốn nhiếp phục người
ác hoặc kẻ khởi Tâm chẳng lành. Ngày đêm con thủ hộ cho Quốc Vương, Đại Thần
với hàng trăm Quan Liêu cùng nhau giết hại, đánh lấn. Trong nhóm như vậy, chúng
con, Na tra dùng mũi nhọn của cây gậy Kim Cương đâm vào con mắt và trái tim của
họ.
Nếu có kẻ khởi Tâm chẳng lành và Tâm giết hại bốn Chúng: Tỳ Khưu, Tỳ khưu
Ni, Ưu bà Tắc, Ưu Bà Di thì con cũng dùng cây bổng Kim Cương đánh vào đầu kẻ ấy”
Khi ấy Tỳ Sa Môn Thiên Vương với người cháu và Na Tra bạch Phật rằng :
“Thế Tôn! Con vì chúng sinh Bất thiện ở đời vị lai mà giáng phục, cột trói, diệt tan hết
thảy nhóm ấy, con cũng hộ trì Quốc giới, nên nói Tự Tâm Bạo Ác Chân Ngôn.
Nguyện xin Đức Thế Tôn nghe và hứa cho con nói”
Đức Phật bảo: “Lành thay! Lành thay Na Tra Thiên Vương! Ông vì giáng phục
sự đánh lấn và giết hại của tất cả Quốc Vương, Đại Thần, hàng trăm Quan Lại, Pháp
này cũng có điều trái ngược với Phật. Tuy nhiên, vì sự giáng phục nên tùy theo ý của
ông”
.)Phần gần cuối của Tỳ Sa Môn Nghi Quỹ (ĐTK-No.1249) ghi chép rằng:
“Đời Đường, Thiên Bảo Nguyên Đới, năm Nhâm Ngọ, Đại Thạch Khang gồm
năm nước vây thành An Tây.
Năm ấy tháng hai ngày 11 có Biểu thỉnh binh cứu viện. Thánh Nhân bảo Nhất
Hạnh Thiền Sư rằng:” Hòa Thượng! An Tây bị nước Đại Thạch Khang vây, có Biểu
thỉnh binh. Thành An Tây cách Kinh Đô một vạn hai ngàn dặm, binh trình tám tháng
mới đến, An Tây ấy không do Trẩm cai quản”
Nhất Hạnh nói: “Bệ hạ! Sao chẳng thỉnh Thần Binh của Bắc Phương Tỳ Sa Môn
Thiên Vương ứng viện?”
Thánh Nhân nói: “Làm sao Trẩm thỉnh được?” 125
Nhất Hạnh nói: “Muốn kêu gọi, nhờ Hồ Tăng Đại Quảng Trí liền thỉnh được”
Có Sắc gọi được Đại Quảng Trí đến nói rằng: “Thánh Nhân đã kêu gọi Thần
Tăng, há chẳng có duyên với thành An Tây bị giặc của năm nước vây thành sao?”
Thánh Nhân nói: “Đúng vậy”
Đại Quảng Trí nói: “Bệ hạ cầm lò hương vào trong Đạo Trường nói bệ hạ thỉnh
Thần Binh của Bắc Phương Thiên Vương cứu. Hãy mau vào Đạo Trường thỉnh”
Chân Ngôn chưa đủ 14 biến, Thánh Nhân chợt thấy có Thần Nhân gồm 600
người mặc giáp đứng ở trước Đạo Trường.Thánh Nhân hỏi Tăng rằng: “Đây là người
nào?”
Đại Quảng Trí nói: “Đây là Độc Kiện, con thứ hai của Bắc Phương Tỳ Sa Môn
Thiên Vương thống lãnh Thiên Binh cứu viện thành An Tây nên đến từ biệt”
Thánh Nhân bày thức ăn phát khiển.
Đến ngày của tháng 4 năm ấy, An Tây có biểu đến trình rằng: “Trước đây vào
ngày 11 tháng hai sau giờ Tỵ trước giờ Ngọ, ở phía Đông Bắc cách thành 30 dặm có
mây mù Đẩu ám, trong mây mù có người, thân dài một trượng, ước chừng có 1500
người đều mặc áo giáp vàng. Đến giờ Dậu, sau đó đánh trống, thổi tù và phát tiếng kêu
lớn, âm thanh chấn động 300 dặm, đất rung chuyển, núi lở rồi dừng trú 3 ngày, năm
nước sợ hãi lui quân hết, rút binh trong các doanh trại và con chuột vàng ấy cắn dây
cung nõ, khí giới bị hư hao gãy hết chẳng thể dùng, có người già sợ quá đi không nỗi,
binh do Thần cai quản muốn hao bớt. Trong hư không bảo rằng: “Hãy tản đi, chẳng
nên giết hại”. Tìm tiếng nói, ngoái nhìn trên lầu cửa Bắc của thành có ánh sáng lớn,
thấy thân của Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở trên lầu, với hình dạng của Thiên Vương
Thần ấy. Kính cẩn dâng biểu tiến lên bậc trên”.
Trung Hoa Thiên Bảo 14 ghi chép: “Ở Nội Cung Dường Tăng Đại Bi Xứ sao
chép được Kinh với Tượng”
Đến Đại Lịch năm thứ 5, ở Tập Châu thấy Nội Cung Phụng Tăng Lương Bí Pháp
Sư dời đến trú ở chùa Khai Nguyên thuộc Tập Châu xem xét Kinh Tượng và bản Đại
Bi giống nhau. “Xưa kia để phòng bị cứu viện quốc giới, vâng theo giáo sắc của Phật,
sai con thứ ba là Na Tra nâng Tháp theo hầu Thiên Vương”
Tam Tạng Đại Quảng Trí nói: “Ngày mồng một mỗi tháng là ngày mà Thiên
vương và các Thiên, Quỷ, Thần tập hội - Ngày 11 là ngày con thứ hai Độc Kiện từ biệt
vua cha đi tuần giới – Ngày 15 là ngày bốn vị Thiên Vương tập hội – Ngày 21 là ngày
Na Tra và vua cha giao tháp. Ngày ấy nên dùng sữa, cháo cúng dường. Không có sữa
ắt dùng tô mật, cháo cúng dường Thiên Vương ấy, có Thiên Linh quái lạ vâng theo Sắc
tuyên nói giao phó 10 Đạo Tiết Độ, quân sở tại lãnh lệnh đến Hình Tượng, cầu nguyện
cúng dường”
Thiên Bảo năm đầu ghi chép: “Ngày 23 tháng 4, Nội Yết Giả Giám Cao Tuệ
Minh, nghi con thứ hai của Thiên vương là Độc Kiện thống lãnh Thiên Binh hộ quốc
giới ấy, con thứ ba của Thiên vương là Na Tra (Nala-kuvera, hay Naḍa-kuvera) nâng
Tháp thường theo hầu Thiên Vương, Cát Tường Thiên Nữ (Śrī-devī) là Công Đức
Thiên tự có Chân Ngôn, Bà Du Tiên (Vasu-ṛṣī)...”
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi Tỳ
Sa Môn vui thời chúng Dược Xoa vui, chẳng hại người dân chẳng hành độc thũng. Khi
giận thời đều loạn”
Do vậy, nếu cầu Kính Ái, dùng Tỳ Sa Môn làm đầu. Còn lại hồi thuận mà cúng
126
HÌNH TƯỢNG CỦA TỲ SA MÔN THIÊN VƯƠNG
Tạo Tượng của Tỳ Sa Môn Thiên Vương giống như là tạo tượng của vị Thần
Vương, thông thường đều khoác giáp trụ đội Mão Tướng, tay phải cầm cây gậy báu,
tay trái ngửa nâng cái Tháp báu, chân đạp lên hai con Quỷ.
Tôn tượng: Thân khoác giáp trụ, đội mão Tỳ Lô, tay phải cầm cái lọng (hay cái
tháp) biểu thị cho Phước Đức, hướng lòng bàn tay trái về bên phải duỗi năm ngón tay
ngang eo. Bàn chân trái đạp lên con quỷ Dạ Xoa
127
Ý nghĩa của hình tượng:
Cái lọng tượng trưng cho sự học bao la, sự nghe bao quát, che chở giúp đỡ cho
khắp chúng sinh.
Duỗi năm ngón tay phải hướng xuống bên dưới tượng trưng cho sự thí Phước
hộ Tài (ban cho Phước Đức, giúp cho có tiền của)
Chân đạp lên con Quỷ Dạ Xoa tượng trưng cho sự chận đứng việc nhiễm ô hư
hoại.
Các biểu tượng này minh hoạ cho việc nhìn nghe cẩn thận, tham cứu kỹ lưỡng
phát huy Tri Kiến bao quát, thực hiện công việc giúp ích mọi người hoàn hảo, tăng
trưởng Phước Đức và dứt bỏ sự ô nhiễm hư hoại.
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi nhận là: “Phương Bắc, Tỳ Sa Môn
Thiên ngồi trên hai con Quỷ, thân mặc giáp trụ, lòng bàn tay trái nâng cái tháp, tay
phải cầm cây gậy báu, thân màu vàng. Hai vị Thiên Nữ cầm nhóm hoa báu
128
Tướng Ấn là: Hư Tâm Hợp Chưởng, hợp 2 Địa (2 ngón út) vào trong lòng bàn
tay cài chéo nhau, dựng Không (ngón cái) co bên cạnh Phong (ngón trỏ) cách khoảng
một thốn (1/3 dm)
Đa Văn Thiên Vương Chân Ngôn là :
“Nẵng mạc tam mãn đa mẫu đà nẫm. Vị thất-la ma noa dã, sa-phộc hạ”
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜯᩀ㙝ᚁ㗚 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ
_Trong 12 Thiên thì Tỳ Sa Môn Thiên là vị chủ của hàng Dạ Xoa (Yakṣa), loại
Quỷ Thần ăn nuốt, thủ hộ phương Bắc
Dạ Xoa (Yakṣa), còn phiên âm là Dạ Xoa, dịch nghĩa là Năng Đạm Quỷ (quỷ ăn
nuốt), Tiệp Tật Quỷ (quỷ nhanh lẹ), Dũng Kiện (mạnh mẽ), Khinh Tiệp (nhẹ nhàng,
lanh lẹ) .... Đây là một loại Quỷ Thần (gồm ba loại Địa Hành, Không Hành và Phi
Hành) thuộc tám Bộ Trời Rồng, được thống lãnh bởi Bắc Phương Tỳ Sa Môn thiên
vương. Họ có hình mạo giống người, nhưng dữ tợn, tuy vậy, vẫn có những vị phát tâm
hộ pháp. Do Tỳ Sa Môn Thiên thống lãnh các Dạ Xoa nên đôi khi Kinh gọi ngài là Dạ
Xoa Vương. Do Ngài bảo hộ phương Bắc nên có tên gọi là Bắc Phương Đa Văn
Thiên Vương.
129
Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Ấn :
Chắp 2 tay lại sao cho 10 ngón tay cài chéo nhau trong lòng bàn tay. Dựng thẳng
2 Thủy (2 ngón vô danh) sao cho đầu ngón dính nhau, hơi co cứng 2 Phong (2 ngón
trỏ), đưa ngón Không bên trái (ngón cái trái) vào trong lòng bàn tay phải và đè lên
móng Hỏa trái (ngón giữa trái), đưa ngón Không bên phải (ngón cái phải) vào trong
lòng bàn tay trái vượt lên lưng ngón Không trái (ngón cái trái) và đè ngón Hỏa phải
(ngón giữa phải), 2 Phong (2 ngón trỏ) cùng với Ha (: HĀ) triệu mời.
Chân Ngôn là :
“Án, phệ thất la phộc na gia, sa phộc ha”
㛸 ᜯᩀ㙝ᚁ㗚 㛿
OṂ _ VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ
_Tại Nhật Bản nhận định Tỳ Sa Môn Thiên Vương là một trong bảy vị Phước
Thần và thờ phụng Ngài qua Tôn Tượng có hai cánh tay, trái nâng cái tháp báu, tay
phải cầm cây gậy, đang dẫm lên hai nữ La Sát: Lambā và Vilambā, ở giữa là cái đầu
của Địa Thiên Pṛthivi hay của Vinayāka
130
Ngài ra Nhật Bản còn thờ phượng hình tượng Đao Bát Tỳ Sa Môn với thân có
bốn đầu, 12 cánh tay cầm khí trượng, ngồi trên con sư tử
_Tại Trung Hoa, do nhận định Na Tra là người con thứ ba của vị Tể Tướng đời
Đường Lý Tịnh (571_649) nên Tỳ Sa Môn Thiên được đồng hóa với Lý Tịnh và xưng
là Thác Tháp Thiên Vương, một trong các vị Võ Tướng của Ngọc Hoàng Thượng Đế
_Mật Giáo Tây Tạng thờ phượng Tỳ Sa Môn Thiên qua hình tượng Tài Bảo
Thiên Vương có thân màu vàng sáng, một mặt hai cánh tay, đầu đội mão Ngũ Phật,
thân khoác áo giáp vàng rực, đeo các loại câu báu Anh Lạc, tay phải cầm cây phướng
báu, tay trái cầm con chồn Mangoose phun ra mọi loại châu báu, ngồi trên đất hoặc
ngồi trên sư tử, hoặc đứng trên mặt đất
131
_Theo truyền thống khác thì Tài Bảo Thiên Vương là thân hóa hiện của Đức
Phật Bảo Sinh (Ratna-saṃbhava) ở phương Nam, nên lại có tên gọi là Nam Thông
Tạ, có bộ thuộc của Bát Lộ Tài Thần vây quanh, hợp trợ cho Tài Bảo Thiên Vương
cứu độ chúng sinh nhằm thỏa mãn nguyện ước của chúng sinh
Y theo Kinh Điển ghi chép thì ngay lúc Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (śākya-
muṇi) còn tại thế thì Thiên Vương ở trước mặt Đức Phật, thệ nguyện hộ trì Phật Pháp 132
kèm ban cho tư lương, tiền tài, của cải khiến cho kẻ ấy thành tựu Pháp Thế Gian, cho
nên bên ngoài tuy hiển tướng Tài Bảo Thiên nhưng thực chất là giúp cho chúng sinh
được lợi ích an vui, xa lìa các ách nạn, hay mãn các Thắng Nguyện, được Đại Trí Tuệ
cho đến Thiên Nhãn Thông, sống lâu đến Câu Chi tuổi…tức biểu thị cho nơi hóa hiện
của Đức Phật Đà vậy
Phàm người đã từng thọ nhận Pháp Quán Đỉnh của Tài Bảo Thiên Vương. Nếu
ở trước mặt Bản Tôn cầu khẩn kèm siêng năng trì tụng Chú Ngữ của Ngài, thường
hành Từ Bi Hỷ Xả, khéo thực hành lợi lạc cho tất cả chúng sinh, Do nương nhờ vào
sức mạnh gia trì của Bản Tôn Tài Bảo Thiên Vương với Bát Lộ Tài Thần…ắt sự
nghiệp được thuận lợi, đường công danh rộng mở, cầu tiền của được mãn nguyện, mau
chóng được tương ứng.
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Tỳ Sa Môn
Thiên là một trong 20 Thiên và vị Trời thủ hộ phương Bắc
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Tỳ Sa Môn Thiên có thân màu vàng ròng,
tay trái nâng cái tháp, tay phải cầm cây gậy báu
Mật Hiệu là: Kim Cương Đại Ác
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ) hay VAI (ᛧ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy báu
Tướng Ấn là Tháp Bảo Bổng Ấn: Nội Phộc, dựng hai ngón giữa đều hợp nhau,
gọi là Tháp Bảo Bổng Ấn, ngón giữa như hình báu.
133
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Tỳ Sa Môn Thiên có chữ chủng tử là:
VAI (ᛧ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy báu
Tướng Ấn là: Phổ Thông Căn Bản Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Tỳ Sa Môn Thiên có chữ chủng tử là: VAI (ᛧ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿 ᛧ
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ_ VAI 134
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Tỳ Sa Môn Thiên có chữ chủng tử là: VAI (ᛧ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Phổ Thông Căn Bản Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Tỳ Sa Môn
Thiên có chữ chủng tử là: VAI (ᛧ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy báu
135
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿 ᛧ
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ_ VAI
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Tỳ Sa
Môn Thiên có chữ chủng tử là: VAI (ᛧ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy báu
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛳᜨ 㛿 ᛧ
OṂ _ VAJRA- BHAIRAVA SVĀHĀ_ VAI
.)Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Bắc
của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Tỳ Sa Môn Thiên là vị Trời thủ hộ Phương Bắc
Tôn Hình là: Thân màu vàng, khoác giáp trụ, tay phải cầm cây gậy báu, tay trái
cầm cái tháp báu
Hiện tướng phẫn nộ: biểu thị cho sự ngăn chận điều ác, phát khởi điều lành
Khoác giáp trụ: biểu thị cho sự dùng Giới Đức tự bảo hộ cho mình và cho người
Cái tháp báu: biểu thị phước đức đa văn, bảo hộ tài bảo cho mình và cho người
Cây gậy báu: biểu thị cho sự chế phục chúng Ma
136
.) Chữ chủng tử là: VAI (ᜯ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái tháp báu.
Tướng Ấn là Già Đà Bổng Ấn: Chắp hai tay lại giữ rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng)
hai ngón út cài chéo nhau để ở trong lòng bàn tay, kèm dựng hai ngón cái rồi dựng
đứng hai ngón giữa, hai ngón vô danh sao cho đầu ngón cùng hộp nhau. Tiếp đến co
hai ngón trỏ lại sao cho cạnh ngón cách lưng hai ngón giữa khoảng một thốn (1/3 dm),
chẳng dựa vào nhau.
Chân Ngôn là:
㗍ᜃ ᝌ㈦ⴼ 㳆㪤 ᛧᩀ㉷ᚁㆎ㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ – VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ
_Kinh Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ, quyển Thượng (ĐTK_No.999) ghi chép
là: “Bạch Thế Tôn! Nếu có các loài Dạ Xoa làm các điều mỵ khiến chúng sanh có
những loại hình tướng hoặc hay cười vui, hoặc sợ sệt, hoặc khóc lóc, hoặc nói bậy bạ
luôn mồm, hoặc điên loạn, hoặc không ngủ nghỉ, hoặc thân lạnh cóng, hoặc ngửa mặt
ngó hư không, hoặc ngó sao, hoặc chạy nhảy lung tung, ngày thì buồn rầu, đêm lại vui
vẻ, hoặc hung hăng, đều là do các loài Dạ Xoa làm mỵ, ở trong thế gian không ai ngăn
cấm được. Con có Thần Chú hay điều phục, cúi mong Đức Thế Tôn cho con nói ra”
Liền nói Chú rằng:
- Án, a lị a la ni đạp đọa nhạ để lê a khư ninh, ma khư ninh, khư khư ninh,
khư san si ha rị tịnh nga lê, đế minh ra ra nể tất san đô mản đát ra, bạt na sa phạ
ha sa, phạ tát để dã tát đệ phệ thất ra, ma nõa tả ma ha ra nhạ tả nẵng ma ma lê
ninh thấp phạ lị dã địa bà để duệ nẵng sa phạ ha.
OṂ_ SIDDHE SUSIDDHE, SATTVE ARE, ARANI , VARE, MAHĀ-VARE,
JAMBHE, JAṬILE, AKHANE, MAKHANE, KHAKHANE, KHARADDE,
KHARAṄGI, HARI PIṄGALE, TIMIṄGILE, TIMIṄGILIN, MAṄGALE, SVÀHÀ
SIDDHYANTU MANTRAPADĀ SVASTYANTU MAMA
SAPARIVĀRASYA SARVASATTVĀNĀÑCA VAIŚRAVAṆASYA MAHĀ-
RĀJASYA NĀMĀVALENAIŚCARYĀDHIPATENA CA SVĀHĀ
137
PHƯƠNG PHÁP KHẤN CẦU TỲ SA MÔN THIÊN VƯƠNG GIÚP ĐỠ
Tỳ Sa Môn Thiên Vương cũng là một trong những vị Thần của cõi Trời đối với
Phật Giáo Đồ rất là nhiệt tâm hộ trì. Trong bốn vị Đại Thiên Vương thì Ngài cùng với
Phật Giáo Đồ có quan hệ rất là mật thiết.
Tỳ Sa Môn Thiên Vương ngoài tính cách được xưng là Tài Thần ra, đồng thời
cũng người thủ hộ khiến cho chúng sinh được lợi ích an vui, xa lìa các ách nạn, hay
mãn các Thắng Nguyện, đạt được Trí Tuệ lớn, cho đến Thiên Nhãn Thông, sống lâu
nhiều tuổi (trường thọ).
Nếu như hành giả mong ước được sự hộ thủ của Tỳ Sa Môn thì nguyên tắc trọng
yếu nhất là phải thực hành các Hạnh lành hợp với Chính Pháp, lại phải gia sức khấn
cầu hy vọng sẽ được sự gia hộ của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, tự mình cũng có thể căn
cứ vào phương thức của Kinh Điển đã ghi chép để khấn cầu:
1_ Cung phụng Tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương, thường xuyên trì tụng Kinh Tỳ
Sa Môn Thiên Vương và y theo chỉ thị của Kinh này mà khấn cầu.
2_ Cung phụng tượng Tỳ Sa Môn Thiên Vương, thường xuyên trì tụng Tỳ Sa
Môn Thiên Vương Tâm Chú.
3_ Trì tụng Kinh Kim Quang Minh, Kinh Đại Tập và Kinh Pháp Hoa ….
Kinh Điển Đại Thừa.
4_ Hành Giả có thể khấn cầu được Đức Thượng Sư truyền thụ Pháp Tỳ Sa Môn
Thiên Vương hoặc hành Pháp Hộ Ma của Tỳ Sa Môn Thiên Vương
5_ Thông thường ở Đạo Trường cũng có thể cung phụng Tượng Tỳ Sa Môn
Thiên Vương và Tôn phụng làm Thần Hộ Pháp của Đạo Trường.
.) Tỳ Sa Môn Thủ Ấn:
.) Tỳ Sa Môn Thiên Vương Tâm Chân Ngôn là:
㗍ᜃ ᝌ㈦ⴼ 㳆㪤 ᛧᩀ㉷ᚁㆎ㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ – VAIŚRAVAṆĀYA SVĀHĀ
.)Tỳ Sa Môn Thiên Vương Tâm Trung Tâm Chân Ngôn là:
㫘 ᚤⴤᚰᜑ㗚 㛿
OṂ_ DAṆḌA-DHARĀYA SVĀHĀ
138
QUYẾN THUỘC CỦA TỲ SA MÔN THIÊN VƯƠNG
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Bắc
của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Câu Phì La (Kubera), dịch ý là Bất Hảo Thân
được xem là đồng Tôn với Tỳ Sa Môn Thiên, thủ hộ phương Bắc
Tôn hình: Thân màu thịt, tay phải cầm cây kiếm, ngửa lòng bàn tay trái để trên
đùi.
Chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
Tướng Ấn là: Câu Phì La Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜨ㪤㖁ᜄᝪ㫭ᜑᜄ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ – YAKṢEŚVARĀYA_ SVĀHĀ
139
Câu Phì La Nữ (Kuberā):
Kuberā là Nữ Tôn của Kubera, biểu thị cho Định Đức của Kubera
Tôn hình:Thân màu thịt, tay phải cầm cây gậy
Chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là: Xương đỉnh đầu (Đỉnh Cốt)
Tướng Ấn là: Câu Phì La Nữ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜨ㪤㖁ᜄᝤᛢᠽᚰᜒ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ – YAKṢA-VIDYĀ-DHARI_ SVĀHĀ
140
TÀI BẢO THIÊN VƯƠNG
Tài Bảo Thiên Vương, tên Tây Tạng là Lãng Thê Sắc…lại xưng là Tỳ Sa Môn
Thiên Vương, Đa Văn Thiên Vương, thuộc một trong bốn vị Đại Thiên Vương, là
Ngoại Thần của Đế Thích Thiên. Do hay hộ trì Thế Gian cho nên lại xưng là Hộ Thế
Giả. Tên Phạn là Tỳ Sa Môn (Vaiśravaṇa), dịch là Đa Văn biểu thị cho tên gọi của
Phước Đức vang dội ở bốn phương.
Tài Bảo Thiên Vương là một thân biến hóa của Tỳ Sa Môn Thiên Vương
(Vaiśravaṇa) dùng hiện bày thân phần Hộ Pháp Xuất Thế Gian, thân ấy ở cung Liễu
Diệp tại phương Bắc trong Tịnh Thổ của Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi-
bodhisatva) cùng với Kim Cương Thủ Bồ Tát có ngọn nguồn rất sâu xa, thuộc vào Bộ
thuộc của Kim Cương Thủ Bồ Tát, đồng thời có đủ Phước Đức lớn, chuyên môn bảo
hộ tài phú của chúng sinh, lại kèm chức vụ chủ quản tiền tài, tên Phạn xưng là
Kubera, là bậc thủ hộ tất cả tài phú trên đời, là vị Thiện Thần trong coi tài bảo phú
quý, hộ trì Phật Pháp
Thiên Vương Lãng Thê Sắc chẳng những là vị Thần thủ hộ của cõi Trời mà còn
là vị Thần Tài Phú của nhân gian, lại xưng là Tài Thần Lãng Sắc. Đấy cũng chính là
nguyên nhân mà ảnh hưởng và danh tiếng của Ngài ở đất Tây Tạng, khu vực núi Tuyết
vượt hơn hẳn ba vị Thiên Vương còn lại.
_Trong Tạng Mật, Nam Phương Bảo Sinh Phật và Bắc Phương Bất Không Thành
Tựu Phật của Ngũ Phương Phật không có hai không có khác, hóa hiện làm ba loại Hóa
Thân chẳng đồng là Ngoại, Nội, Mật để độ hóa hữu tình thời Tài Bảo Thiên Vương là
sự hóa hiện bên ngoài (Ngoại Hóa Hiện) lại xưng là Nam Thông Tạ.
.)Ngoại Hóa Hiện: là một trong bốn vị Đại Thiên Vương, tên Phạn là Tỳ Sa Môn
(Vaiśravaṇa) là Ngoại Thần của Thiên Đế Thích, cư ngụ tại Thủy Tinh Đóa ở núi Tu
Di (Sumeru), là vị Thần thủ hộ Phương Bắc của Diêm Phù Đề (Jaṃbu-dvīpa), tên là
Dạ Xoa Bộ Chủ. Lại do Phước Đức của Thiên Vương vang dội khắp bốn phương nên
xưng là Đa Văn Thiên Vương, chức phận chủ yếu là trông coi kho tàng tiền của châu
báu trong cảnh Dạ Xoa ở phương Bắc với Sự Nghiệp Bộ (Karma-kulāya) của sự giáng
phục, có thể dùng diệt trừ Quỷ Thần, Ác Sát (hung thần ác) gian trá xảo quyệt
.)Nội Hóa Hiện: là Ý của tất cả chư Phật hóa hiện ra Mật Chủ Kim Cương Thủ
(tướng phẫn nộ của Đại Thế Chí Bồ Tát) là Tổ Sư rộng truyền Mật Pháp trên Thế Gian
.)Mật Hóa Hiện: Bên trong Pháp Phục Tàng do con Rồng Tát Trữ Ba của Tổ
Sư Y Cát Đà lấy ra có ghi chép: Trong vô số kiếp trước đã thành Phật, hiệu là Đa Bảo
Phật (Prabhūtaratna-buddha, hay Bahu-ratna-buddha), phát nguyện hiện làm tướng
Chuyển Luân Vương (Cakra-varttin-rāja) tiêu trừ mọi loại nghèo túng với mọi loại
chướng ngại thuộc tài vật của chúng sinh, viên mãn bảy Thánh Tài ()
Ngoài ra, ở trong Hán Truyền Phật Giáo thì Ngài là Hóa Thân của Quán Thế Âm
Bồ Tát. Ở trong Thần Thoại của Ấn Độ thì Ngài cũng là vị Thiện Thần ban Phước hộ
giúp tiền của
_Y theo Kinh Điển đã ghi chép: Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi)
hiện bày Niết Bàn (Nirvāṇa) thời phó chúc cho bốn vị Đại Thiên Vương: “Ở đời vị lai
có vua chúa Tà Kiến hủy diệt Phật Pháp thời đều nên hộ trì Phật Pháp”. Ngay lúc đó,
Thiên Vương đỉnh lễ trước mặt Đức Phật rồi ở trước mặt Đức Phật lập Thệ Nguyện sẽ
thống lãnh quyến thuộc, nguyện hộ trì Phật Pháp, bảo hộ cho Đệ Tử của Phật Môn ở
phương Bắc, khiến cho Chính Pháp trụ lâu ở Thế Gian, kèm theo cung cấp Tư Lương 141
Tài Bảo cho chúng sinh khiến cho họ thành tựu Pháp Thế Gian. Bởi thế, tướng bên
ngoài ấy tuy hiển hiện dung mạo Tài Bảo Thiên Vương nhưng thật chất là nơi hóa
hiện của Đức Phật Đà. Chung quanh Tài Bảo Thiên Vương có Bát Lộ Tài Thần làm
Bộ Thuộc hiệp trợ Tài Bảo Thiên Vương hóa độ chúng sinh nhằm thỏa mãn nguyện
ước của chúng sinh, là Thủ Lãnh của chúng Tài Thần
Tài Bảo Thiên Vương có bốn vị Vương Phi, bốn người con, lại có tám vị Đại
Dược Xoa thành tựu sự nghiệp, tám vị Đại Long Vương ban cho tài bảo, Ngũ Tính
Tài Thần cùng với tám Bộ Trời Rồng, quyến thuộc của các Lộ Tài Thần nhiều vô tận
Thiên Vương có thân màu vàng như đồng với một dạng vàng ròng xán lạn huy
hoàng. Từ trên thân phóng bắn ra vạn đường tia sáng mãnh liệt, đầu đội mão năm Phật
có vàng ròng và đá báu trang sức, trên khôi giáp vàng chóe khoác thêm áo Trời bằng
sợi tơ của loài hoa quý. Hai mắt tròn trong, râu tóc mọc đầy ở cổ họng, mặt hơi giận
dữ, cỡi con sư tử trắng bờm xanh há miệng lớn, tay phải cầm cây phướng báu chuyển
động không dừng, cây phướng báu chuyển động liền liên tục sinh ra tài phú rải bày
trên đất chẳng dứt, tay trái ôm một con chồn sóc phun ra vật báu, từ trong miệng của
con chồn sóc hay phun ra châu báu chẳng cạn chẳng thể dùng hết được.
Ý nghĩa của hình tượng:
.)Thân màu vàng biểu thị cho Pháp Tăng Ích (Puṣṭika)
.)Đầu đội mão năm Phật có vàng ròng và đá báu trang sức biểu thị cho năm
Trí của Phật
.)Cây phướng báu chuyển động không dừng biểu thị cho việc ban tài phú và
sự đầy đủ cho con người cùng với mưa móc trân quý chẳng thể khuyết thiếu trong
Phong Điều Vũ Thuận 142
.)Con chồn sóc phun ra vật báu biểu thị cho việc hay ban cho tài bảo không
cùng tận
.)Cỡi con sư tử trắng bờm xanh há miệng lớn biểu thị cho việc chẳng những có
thể giảng nói Phật Pháp mà còn hay phun ra các loại tài vật châu báu
.)Trên thân phóng bắn ra vạn đường tia sáng mãnh liệt biểu thị cho kho tàng
của Trời (thiên khố) chứa tài bảo vô tận là sở hữu của Ngài.
_Chữ chủng tử của Tài Bảo Thiên Vương là: VAI
_Tài Bảo Thiên Vương Thủ Ấn: chia mở ngón trỏ, hợp ngón giữa ngón vô danh
dựng đứng, cột buộc ngón út bên trong, hai ngón cái kèm nhau.
_Căn Bản Chú:
“Ông, bối hạ oa na dã, thoa cáp”
OṂ_ VAIŚRAVAṆAYE SVĀHĀ
_Chú giải Chú Ngữ:
Ông (OṂ): Niệm OṂ là chữ chủng tử, là âm căn bản của năng lượng sinh mệnh
nguyên thủy của vũ trụ, âm ấy hàm chứa công năng vô cùng vô tận
Bối (VAI): Sự nghiệp thuận lợi
Hạ oa (ŚRAVA): giương mở lớn toan tính rộng rãi
Na dã (ṆĀYA): Cầu tài mãn nguyện
Thoa cáp (SVĀHĀ): mau hay tương ứng
_Trường Chú là:
TADYATHĀ: HILI MAṆI-BHADRA, HILI MILI MAṆI-BHADRA, KILA
MAṆI-BHADRA, KILI KILI MAṆI-BHADRA, KURU MAṆI-BHADRA, KURU 143
KURU MAṆI-BHADRA, TURU MAṆI-BHADRA, TURU TURU MAṆI-
BHADRA, SURU MAṆI-BHADRA, SURU SURU MAṆI-BHADRA, CURU
MAṆI-BHADRA, CURU CURU MAṆI-BHADRA
OṂ_ EHYEHI TIṢTA TIṢṬA, AVADĀRA TIṢṬAḤ MECAYA
TADYATHĀ: BUDDHANI BUDHANI, SURA ME SURA DERE, SURA-
PUṢPE, HILI MILI SVĀHĀ
BÁT LỘ TÀI THẦN
Bát Lộ Tài Thần lại xưng là Bát Tuấn Tài Thần, Tài Thần Bát Đại Tướng.
Tám vị Tài Thần này là Bạn Thần của Tài Bảo Thiên Vương gồm có: Đông Lộ
Hoàng Khố Thần, Nam Lộ Hoàng Khố Thần, Tây Lộ Bạch Khố Thần, Bắc Lộ Hắc
Khố Thần, Đông Nam Lộ Hoàng Khố Thần, Tây Nam Lộ Hắc Khố Thần, Đông
Bắc Lộ Bạch Khố Thần, Tây Bắc Lộ Hoàng Khố Thần…. đều trông coi kho tàng của
Trời (thiên khố) ở tám phương, lắng nghe lệnh tế độ cho Hành Giả học Phật bị thiếu
tiền của, giải cứu tất cả chúng sinh nghèo cùng khốn khổ. Các vị này có dung mạo
mười phần tương tự như Tài Bảo Thiên Vương, thân khoác áo giáp hoa quý, cỡi con
tuấn mã đồng với màu sắc của thân mình, tay phải đều cầm một món Pháp Khí, tay trái
cầm con chồn sóc phun ra vật báu, đều ở tại phương của mình.
144
145
.) Tài Thần ở phương Đông là Bảo Tạng Thần (Jambhala), là một vị Thần màu
vàng, tay phải cầm châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con
tuấn mã màu vàng
Thần Chú là: “Ông, tạng ba lạp trát lệnh trát gia, hồng”
OṂ _ JAMBHALA JALENDRĀYE HŪṂ
.)Tài Thần ở phương Đông Nam là Dương Đạt Hiệp, thân màu vàng, tay phải
khua múa cây kiếm báu (hay cầm cung tên), tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu,
cỡi trên con tuấn mã màu vàng
Thần Chú là: “Ông, tam ba trát na gia, hồng”
OṂ _ JAMBHA-JANAYE HŪṂ 146
.) Tài Thần ở phương Nam là Khang Ngõa Tang Bố Tuyết Sơn Thần, thân màu
vàng, tay phải cầm cái hộp châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi
trên con tuấn mã màu vàng
Thần Chú là: “Ông bố lánh ba trát gia, hồng”
OṂ_ PŪRṆA-BHADRĀYE HŪṂ
.)Tài Thần ở phương Tây Nam là Thố Nhiếp, thân màu vàng (hay màu xanh
đậm), tay phải cầm cây mâu màu hồng, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi
trên con tuấn mã màu vàng (hay màu xanh đậm)
Thần Chú là: “Ông, cổ hắc nha đáp na gia, hồng”
OṂ_ GUHYE-DANAYE HŪṂ 147
.)Tài Thần ở phương Tây là La Bố Tang Thần, thân màu trắng, tay phải cầm
châu báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã màu trắng
Thần Chú là: “Ông, mã ni ba trát gia, hồng”
OṂ _ MAṆI-BHADRĀYE HŪṂ
.)Tài Thần ở phương Tây Bắc là A Đan, thân màu trắng vàng, tay phải nâng cung
điện (hay cầm Xuân Bồi Thiên Trượng), tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu,
cỡi trên con tuấn mã màu trắng vàng
Thần Chú là: “Ông, ba trát ca gia, hồng”
OṂ_ PAÑCIKAYE HŪṂ
148
.)Tài Thần ở phương Bắc là Sửu Thân (Kubera), thân màu đen, tay phải khua
múa cây kiếm báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã
màu đen
Thần Chú là: “Ông, cổ bối lạp gia, hồng”
OṂ_ KUBERAYA HŪṂ
.)Tài Thần ở phương Đông Bắc là Chiêm Bố Khâm Ba, thân màu trắng, tay phải
múa cây kiếm báu, tay trái cầm con chồn sóc phun ra vật báu, cỡi trên con tuấn mã
màu trắng
Thần Chú là: “Ông, tỷ trát côn trát lợi gia, hồng”
OṂ_ PICI KUṆḌALIYE HŪṂ
Tài Bảo Thiên Vương Đàn Thành 149
_ Thần Chú của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần được ghi nhận trong
Đàn Thành này là:
.)Trung ương Tài Bảo Thiên Vương
OṂ_ VAIŚRAVAṆAYE SVĀHĀ
.)Đông Lộ Tài Thần:
OṂ JAMBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ
.) Nam Lộ Tài Thần:
OṂ_ PŪRṆA-BHADRĀYE SVĀHĀ
.)Tây Lộ Tài Thần
OṂ MAṆI-BHADRĀYE SVĀHĀ
.)Bắc Lộ Tài Thần
OṂ_ KUBERAYA SVĀHĀ
.)Đông Nam Lộ Tài Thần
OṂ JAMBHA-JANAYE SVĀHĀ
.)Tây Nam Lộ Tài Thần 150
OṂ_ GUHYE-DANAYE SVĀHĀ
.)Tây Bắc Lộ Tài Thần
OṂ_ PAÑCIKAYE SVĀHĀ
.)Đông Bắc Lộ Tài Thần
OṂ_ PICI KUṆḌALIYE SVĀHĀ
_Tài Bảo Thiên Vương có uy quang hách dịch giống như tia sáng do mười vạn
mặt trời phát ra. Ngài có đủ Phước Đức lớn, chuyên môn thủ hộ tài phú của chúng
sinh. Ngài chưởng quản sự chuyển hóa Công Đức và Phước Báo của con người, Thế
Gian, phát rải tài phú cho nhân gian, hộ trì Phật Pháp, tiêu trừ sự khiêu chiến của Ma
Chướng tịnh hóa Trời, Người thành tựu cảnh địa Đại Quang Minh. Ngài có thể dùng
các loại thân tướng biến hóa ứng với nhu yếu của người tu trì rồi hay ban cho các loại
thành tựu của tài bảo với giáng phục cừu địch…Niệm nhiều tên gọi của Thiên Vương
thì có thể được Phước, hoặc là niệm Chú Ngữ của Tài Bảo Thiên Vương thì có thể
được gia trì. Tu trì Pháp này có thể lập được Phước Báo
Phàm người từng thọ nhận sự Quán Đỉnh của Tài Bảo Thiên Vương. Nếu ở trước
mặt Bản Tôn cúng phụng, y chỉ, cầu xin kèm tinh cần trì tụng Tán Từ với Chú Ngữ,
thường hành Từ Bi Hỷ xả, khéo hành lợi lạc cho tất cả chúng sinh. Nhờ do Đại Lực
gia trì của Bản Tôn Tài Bảo Thiên Vương với Bát Lộ Tài Thần thì xa lìa các nguy ách
chướng nạn, lại chẳng bị tất cả Thần ác, Ma Chướng gây hại, mau mãn các Thắng
Nguyện, đắc được Đại Trí Tuệ, Phước Đức Thọ Mệnh tăng thượng, hay ban cho Hành
Giả có Tâm Bi tiền của vô tận, tu hành Phật Pháp không có chướng ngại, hưng tịnh sự
nghiệp của Thế Gian Pháp, tài nguyên rộng tiến, việc việc thuận lợi, viên mãn không
có trở ngại 151
BẢO TÀNG THẦN
Bảo Tàng Thần có tên Phạn là Jambhala, hay Jaṃbhala là vị Thần chuyên giúp
cho người tu hành cầu phước đức, phú quý và được ghi nhận là Pháp tối thượng của
Thế Gian.
_Trong Thần Thoại của Ấn Độ Giáo thì Jambhala được coi là vị Thần Tài
Kubera. Kubera được vị thần sáng tạo của Ấn Độ là Đại Phạm Thiên sai bò mẹ mang
thai và sinh ra. Thần vốn hiền lành, không thích tranh đấu nên bị người em khác mẹ là
La Sát Vương đuổi đến Laṅka (nay là Śrilaṅka), về sau Thần di cư đến Cương Nhân
Ba Tề (núi thần của Phật giáo tại A Lý - Tây Tạng). Mặc dù bị đuổi khỏi gia đình,
nhưng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm
Thiên ban cho sự trường sinh bất tử, trong coi kho báu của Thế Gian và cũng là vị
Thần bảo hộ phương Bắc. Tại Ấn Độ, Kubera được sùng kính không kém gì Thần đầu
voi Ganeśa.
Thần Chú tán tụng Kubera là:
Oṃ_ yakṣa-rājaya vid mahe
Vaiśravaṇāya dhī mahi
Thanno kuberaḥ prachodath
OṂ_ YAKṢAYA KUBERAYA VAIŚRAVAṆĀYA DHANA-DHANYADI
PADAYEḤ DHANA-DHANYA SAMRĪDHING ME DEHI TAPAYA SVĀHĀ 152
_Trong Mật Tông Phật Giáo thì Kubera được nhận định là Tỳ Sa Môn Thiên
Vương (Vaiśravaṇa) là một trong bốn vị Thiên Vương hộ thế, thủ hộ phương Bắc và
được xưng là Tài Bảo Thiên Vương. Cũng có thuyết cho rằng Kubera là một Hóa
Thân (Nirmāṇa-kāya) của Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) hoặc chư Phật
.)Truyền thống Hoa Văn ghi nhận Pháp tu Bảo Tàng Thần qua hai bộ Kinh do
Truyền Giáo Đại Sư Pháp Thiên (Dharma Deva) dịch là:
1_ Phật nói Kinh Bảo Tàng Thần Đại Minh Mạn Noa La Nghi Quỹ (2 quyển)
2_ Phật nói Kinh Thánh Bảo Tàng Nghi Quỹ (2 quyển)
Theo truyền thống này thì Bảo Tàng Thần Jambhala chính là một Hóa Thân của
Tỳ Sa Môn Thiên Vương, có thân màu mây xanh, dùng nhiều loại vật báu trang sức,
tay phải làm dạng Thí Vô Úy bên trong bàn tay có quả Am Ma Lặc, tay trái cầm cái
bình chứa đầy báu, ngồi Kiết Già trên tòa Sư Tử.
153
Chủng Tử là: JAṂ (ᘶ)
Chân Ngôn căn bản là:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO MAṆI-BHADRĀYA MAHĀ-YAKṢA-SENAPATĀYE
OṂ_ JAMBHALA JALENDRĀYA SVĀHĀ
Quyến thuộc của Bảo Tàng Thần gồm có 8 vị Dạ Xoa được gọi là Bát Tuấn Tài
Thần hay Bát Lộ Tài Thần hộ giữ các phương cùng nhau cứu giúp chúng sinh khiến
cho họ được sung túc, thỏa mãn mọi sự mong cầu. Tên các vị ấy là:
1_ Cát Lê Dạ Xoa (Kili)
2_ Ma Lê Dạ Xoa (Malli)
3_ Xá-Dã Ma Dạ Xoa (? Śyama)
4_ Diệu Mãn Dạ Xoa (Maṇibhadra: Bảo Hiền)
5_ Mãn Hiền Dạ Xoa (Pūrṇabhadra)
6_ Hoạch Tài Dạ Xoa (Dhanādaya)
7_ Đại Tài Dạ Xoa (Mahā-dhanāda)
8_ Đại Phước Nhất Thiết Trang Nghiêm Đại Dạ Xoa Vương (Mahā-puṇya-
sarva-vyuha-mahā-yakṣa-rāja)
Hành Giả muốn được sự gia trì của Tài Bảo Thiên Vương và Bát Lộ Tài Thần thì
cần phải quy y Tam Bảo, giữ gìn Giới Cấm, phát nguyện làm việc hiền thiện, bố thí
tiền của, làm việc lợi ích cho chúng sinh và chuyên Tâm trì niệm Chân Ngôn, nuôi
dưỡng chí hướng thượng...thì sự nghiệp sẽ được thuận lợi, tài sản dồi dào, tránh được
các tai nạn, gia đình an ổn, đạt được các sự mong cầu 154
Chân Ngôn của 8 Đại Dạ Xoa Quyến Thuộc là:
OṂ _ DHANĀDAYA SVĀHĀ _ MAHĀ-DHANĀDAYA SVĀHĀ _
MAṆIBHADRĀYA SVĀHĀ _ PŪRṆĀYA SVĀHĀ _ JAMBHALA
MUKHYAṂDRĀYA SVĀHĀ _ JAMBHALA JALENDRĀYA SVĀHĀ
OṂ_ ŚIVE KUṆḌALIṆI SVĀHĀ
OṂ_ KILI MALLINI SVĀHĀ
_Theo Tạng Truyền Phật Giáo thì Jambhala được coi là vị Thần của cải vật chất
và tinh thần, đặc biệt là hay giúp cho chúng sinh giảm bớt hoặc dứt trừ mọi sự bất hạnh
và chướng ngại đồng thời giúp cho chúng sinh mau chóng đạt được sự an vui hạnh
phúc. Jambhala được ghi nhận là một Tôn thuộc bộ tộc của Tỳ Sa Môn Thiên
Vương (Vaśravaṇāya-devarāja) và cũng là một Tôn trong Bảo Bộ (Ratna-kulāya) của
Đức Phật Bảo Sinh (Ratna-saṃbhava)
Người dân Tây Tạng rất sùng bái Pháp tu Tài Bảo qua sự thờ phụng 5 vị Bảo
Tàng Thần, thường gọi là Ngũ Tính Tài Thần và được phân biệt qua màu sắc của thân
là Tài Thần màu xanh, Tài Thần màu trắng, Tài Thần màu đỏ (hay hồng), Thần Tài
màu vàng và Thần Tài màu đen.
Năm vị Bảo Tàng Thần này là những biểu hiện lòng Từ Bi của chư Phật Bồ Tát
nhằm hướng dẫn chúng sinh trên con đường Giác Ngộ. Bản chất của các vị ấy là sự
rộng lượng và đại diện cho các hoạt động mang lại lợi ích cho chúng sinh, nguyện
vọng của họ là giúp đỡ tiền của cho người nghèo túng, bệnh tật và dần dần hướng dẫn
họ phát khởi Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta)
155
1_Lục Tài Thần (Thần Tài màu xanh): là hóa thân của Đức Phật Bất Không
Thành Tựu (Amogha-siddhi)
Tôn này thường được hiển thị với vị phối ngẩu (Ḍākiṇī) của mình. Thân màu
xanh, có một đầu hai cánh tay ba con mắt, đầu đội mão báu, thân mặc Thiên Y. Tay
phải cầm báu Như Ý, tay trái ôm con con Chồn phun ra vật báu, co chân trái co vào
bên trong, chân phải đạp lên báu Hải Loa Bảo (con Ốc biển), vị phối ngẫu cầm hoa
sen hiển thế song vận, ngồi trong vành trăng trên Hoa Sen.
Lục Tài Thần là sự biểu hiện của Đức Phật Bất Không Thành Tựu (Amogha-
siddhi) thọ nhận lời căn dặn của Đức Phật Thích Ca, vì tất cả sự nghèo túng của mọi
người chuyển Đại Pháp Luân, ban cho Thế Tài (tiền của ở Thế Gian) và Pháp Tài (tiền
tài của Pháp). Ngài luôn yêu phụng quyến thuộc của Đức Thích Ca Mâu Ni với tất cả
người nghèo khổ.
Công Đức của Lục Tài Thần là: Khiến cho tất cả sự nghiệp thành công viên mãn,
Tịnh Hóa chướng ngại của vận ác, thành tựu tất cả nguyện vọng, khiến cho các chúng
sinh được hưởng thụ sự tăng trưởng giàu có.
Chủng Tử : JAṂ (ᘶ)
Chân Ngôn là: OṂ_ JAMBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ
Hay OṂ_ KARMA-JAMBHALA AḤ SVĀHĀ
156
2_Bạch Tài Thần (Thần Tài màu Trắng): Thân màu trắng, tay trái cầm cây kích
và ôm con con Chồn phun ra vật báu, tay phải cầm cây gậy báu, ngồi trên lưng con sư
tử tuyết hay con Rồng
Hoặc Tôn Hình: Thân màu trắng có một mặt hai cánh tay, diện mạo nửa giận nửa
cười, ba con mắt to trợn lên trên, tóc dựng đứng, dùng Mão Ngũ Phật trang sức trên
đầu, thân trên khoác tơ lụa, dùng lụa Ba Sạ Lặc Ca làm quần, các loại vật báu làm
trang sức. Tay phải cầm cây Gậy báu, tay trái cầm cây Kích Tam Xoa, chân phải co
chân trái duỗi phân nửa. Cỡi con Rồng, dùng Hoa Sen vành trăng làm tòa, thân trắng
như ánh sáng mặt trăng.
Bạch Tài Thần là sự biểu hiện lòng Từ Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm hay giúp
cho chúng sinh loại bỏ sự đau khổ của nghèo đói và bệnh tật, tịnh hóa nghiệp ác, ngăn
chận các tai nạn và phát triển Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta)
Tương truyền là lúc bấy giờ Tôn Giả A Để Giáp (Atiśa) đi đến bái kiến Thánh
Địa của Quán Thế Âm Bồ Tát, trên đường đi gặp một người bệnh nghèo túng đói rét 157
sắp chết, A Để Giáp nghĩ rằng phải giúp đỡ ông ấy, mình bỏ thân này không phân vân
tiếc rẻ, thế là Ngài liền nghĩ đến cắt thịt của mình để bố thí. Nhưng người đói rét từ
chối thà mình bị chết đói cũng chẳng nhẫn tâm ăn thịt của A Để Giáp. A Để Giáp cảm
thấy chính mình không có sức cứu trợ chúng sinh bị khốn khổ, cảm nhận được sự tức
giận trong lòng với thương xót, chẳng cầm được sự thương cảm con mắt rơi lệ.
Lúc ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát dùng Tâm Đại Bi hóa hiện làm người đi đường, đi
đến hỏi rõ mọi việc, A Để Giáp thành thật bẩm cáo, người đi đường nghe xong, chẳng
cầm được sự phát tâm của A Để Giáp cảm động con mắt rơi lệ. Lúc đó, sự việc phát
sinh thật là kỳ diệu, người đi đường bỗng nhiên hiện ra tướng báu trang nghiêm của
Quán Thế Âm Bồ Tát, giọt nước mắt bên con mắt trái hóa hiện làm Độ Mẫu (Tārā),
giọt nước mắt bên con mắt phải hóa hiện làm Bạch Tài Thần (Śveta-jambhala), Bồ
Tát còn căn dặn Bạch Tài Thần tự mình Quán Đỉnh cho A Để Giáp, truyền dạy pháp
tu, dùng sự viên mãn giúp đỡ chúng sinh xa lìa nghèo túng, đầy đủ tâm nguyện của
Phước Đức.
Công Đức của Bạch Tài Thần là: dùng thân màu trắng, biểu thị hay khiến cho tất
cả chúng sinh có đủ Tài Bảo của sự trắng sạch tốt đẹp (tức Trí Tuệ giải thoát), tay phải
cầm cây Gậy báu biểu thị quy tụ tất cả công đức của Tài Thần, hay cứu độ sự khổ của
chúng sinh trong lúc đói rét.
Chủng Tử : JA (ㅼ)
Chân Ngôn là: OṂ_ PADMAKRODHA ĀRYA JAMBHALA HṚDAYA
HŪṂ PHAṬ
3_Hồng Tài Thần (Tài Thần màu Hồng): là Hóa Thân của Kim Cương Tát Đỏa
(Vajra-satva)
Tôn này thường được hiển thị với vị phối ngẩu (Ḍākiṇī) của mình là Tài Nguyên
Thiên Mẫu. Thân màu hồng đỏ, có một mặt hai cánh tay, ba con mắt, mặt hay giận dữ,
dùng các loại vật báu để trang sức, đầu đội Mão Ngũ Phật, tay phải cầm báu Ma Ni,
tay trái ôm con Chồn nhả ra vật báu, chân phải duỗi chân trái co, Tài Nguyên Thiên
Mẫu có tay trái cầm chén sọ người chứa đầy máu, tay phải cầm Norbu Mebar hiển
thế song vận theo tư thế đứng múa, đứng trong vành trăng trên Hoa Sen.
158
Vì Tài Nguyên Thiên Mẫu biểu thị cho sự chủ quản về tiền của giàu có của loài
người, cho nên Pháp Môn này biểu thị cho sự yêu thương thường đem lại hạnh phúc
hôn nhân, gia đình hài hòa, thu hút sự nổi tiếng và giàu có. Do vậy thời xưa, các bậc
Vương Giả hoặc hàng Quý Tộc thường tu theo Pháp này
Theo truyền thuyết thì pháp tu này được kế thừa từ Pháp tu theo hình tượng song
vận Gaṇa-pati đỏ của Ấn Độ Giáo. Trong đó Gaṇa-pati (vị trông coi kho tàng trên
Trời của của cha mình là Maheśvara) ôm vị phối ngẫu của mình là Mahā-rakta (người
phụ trách sự giàu có trong thế giới con người), biểu thị cho việc được hưởng sự giàu
sang, được sự tôn trọng và cũng được sự hỗ trợ của nhiều người
Tu tập Pháp Hồng Tài Thần, trì tụng niệm Chú, có thể nhận được sự giúp đỡ của
Hồng Tài Thần, tiền của dồi dào, hay miễn trừ sự nghèo túng và tất cả khó khăn về
kinh tế. Nhưng Pháp tu này cũng tùy theo sự phát tâm tu của hành giả mà có thể nhận
được quả báo chẳng giống nhau, nếu như phát khởi Tâm Bồ Đề vô thượng thì có thể
chứng được Phước Đức viên mãn ở Thế Gian và Xuất Thế Gian, nếu cầu tiền của giàu
có ở Thế Gian thì cũng có thể mãn túc, nếu là người nghèo túng thì cũng có thể nhận
được lợi ích là thức ăn vật chất đầy đủ.
Chủng Tử : JAṂ (ᘶ) hoặc BAṂ (ᜲ)
Chân Ngôn là: OṂ_ JAMBHALA JALENDRĀYA DHANAṂ MEDEHI
HRĪḤ ḌĀKIṆĪ JAMBHALA SAMBHARA SVĀHĀ
4_Hoàng Tài Thần (Thần Tài màu vàng): được coi là vị Thần phổ biến và mạnh
mẽ nhất trong các vị Thần giàu có. Tôn này là Hóa Thân Đức Phật Bảo Sinh (Ratna-
saṃbhava) [hoặc là Hóa Thân của của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa)], Chủ
về việc nắm giữ sự giàu có tiền của, hay khiến tất cả chúng sinh thoát khỏi sự nghèo
túng, làm ăn phát đạt. Lại hay giúp cho tăng trưởng Phước Đức, Thọ Mạng, Trí Tuệ,
Vật Chất, giàu có (phong phú) về tinh thần và Tâm Linh.
Hình Tượng Tôn này là thân màu vàng, bụng to thân nhỏ, hai tay có sức mạnh, da
màu vàng ròng. Tay phải cầm viên ngọc báu Ma Ni, tay trái ôm con chồn phun ra viên
ngọc báu. Đầu đội Mão báu Ngũ Phật, thân mặc Thiên Y màu xanh lam, dùng Hoa Sen
với viên ngọc báu, anh lạc để trang sức. Trước ngực đeo xâu chuỗi Ô Ba Lạp, dùng thế 159
ngồi Như Ý chân trái co lại, chân phải đạp nhẹ lên báu Ốc Biển, ngồi trong vành trăng
trên Hoa Sen.
.)Ý nghĩa của hình tượng này là:
Thân màu vàng, bụng to thân nhỏ, hai tay có sức mạnh, da màu vàng ròng
biểu thị cho sự giàu có sang trọng
Gương mặt mang vẻ kiêu hãnh ngồi trong tư thế vương giả: biểu thị cho sự tự
do trong Luân Hồi thông qua sự thực hành và thành tựu của Ngài
Đội mão Ngũ Phật: biểu thị cho việc phá vỡ sự giả hợp của năm Uẩn, hiển bày
năm Trí của Như Lai
Cầm quả trái hay ngọc Như Ý tỏa sáng: biểu thị cho việc gặt hái kết quả từ
những nỗ lực của bản thân để đạt được sự thành tựu giác ngộ
Ôm con chồn phun ra vật báu: biểu thị cho sự thịnh vượng tốt lành đang đến
Chân đạp lên báu ốc biển: biểu thị cho việc đã đạt đến sự thịnh vượng tột đỉnh,
nhưng lúc nào ta cũng ở bên trên nó và không còn bị lệ thuộc vào sự trói buộc của nó
nữa
_Chủng Tử : JAṂ (ᘶ)
Chân Ngôn là: OṂ_ JAMBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ
Kinh Điển ghi nhận rằng: “Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở núi Linh Thứu
tuyên nói Kinh Đại Bát Nhã thời các hàng Ma, Quỷ, Thần…. đều đi đến gây chướng
ngại, khiến núi cao sạt lở, đại chúng kinh hoàng, lúc này Hoàng Tài Thần liền hiện
thân che chở bảo hộ. Sau đó, Đức Thế Tôn căn dặn Hoàng Tài Thần ở đời vị lai nên
giúp ích cho tất cả chúng sinh nghèo túng, làm Đại Hộ Pháp”. 160
Thành tâm trì tụng Hoàng Tài Thần Tâm Chú thời có thể nhận được sự giúp đỡ
che chở của Ngài, hay làm ăn phát đạt, miễn trừ sự nghèo túng, cho đến tất cả khó
khăn về kinh tế. Nếu như hay phát khởi Tâm Bồ Đề Vô Thượng, phát nguyện cứu độ
tất cả chúng sinh thoát khỏi sự nghèo túng thì Phước Đức lại chẳng thể giới hạn đo tính
được.
5_Hắc Tài Thần (Thần Tài màu đen): là sự biểu hiện của Đức Phật Bất Động
(Akṣobhya), là người đứng đầu trong năm vị Bảo Tàng Thần, chủ về tài năng và quyền
thế. Có rất nhiều người cho rằng Hắc Tài Thần là vị Thần Tài khi bố thí tiền của thì lập
tức có hiệu nghiệm, cho nên gọi Ngài là Tài Thần Vương.
Tương truyền ngày xưa ở Ấn Độ có một vị Quốc Vương, vì quốc khố trống rỗng,
tài chính khó khăn, đi đến bước đường cùng, suy nghĩ lao mình xuống sông tự tử. Lúc
này trong nước xuất hiện một vị Đồng Tử 6 tuổi màu đen, ngăn cản không cho Quốc
Vương tự sát. Vị Đồng Tử hỏi rõ nguyên nhân mọi việc xong, liền đem Pháp làm giàu
truyền hết cho Quốc Vương. Lúc đó, bên cạnh hàng cây hiện rõ một gian phòng bằng
thủy tinh, Quốc Vương liền bước vào làm nơi để tu hành, nhưng Quốc Vương chẳng
theo lời căn dặn tu cho hết sáu tháng, chỉ tu trì được 2 tháng chẳng thấy công hiệu, lấy
làm thất vọng, lại suy nghĩ tìm cách nào ngắn hơn. Vị Đồng Tử màu đen lại hóa hiện ở
trước mặt ông, khuyên bảo ông phải kiên trì chớ có nản lòng, nhất định Công Đức sẽ
viên mãn. Ngay lúc vị Quốc Vương trở lại trong phòng thời nhìn thấy bên trong chất
đầy châu báu, vị Đồng Tử màu đen này tức là Hắc Tài Thần vậy.
_Do sự truyền thừa của Hắc Tài Thần có rất nhiều loại, cho nên hình tượng cũng
có khác nhau.
Hình tượng Hắc Tài Thần thường thấy là: Thân lõa thể màu đen thấp bé mập mạp,
bụng to lớn, tóc mảu hồng, có một mặt hai cánh tay, mặt giận dữ có ba con mắt, đội
mão Đức Phật Bất Động, cổ đeo con rắn, tay phải cầm cái chén sọ người chứa đầy
máu, tay trái ôm con Chồn phun ra vật báu, chân phải co chân trái duỗi, đạp lên Tòa có
xác chết trong vành trăng trên Hoa Sen.
161
.)Ý nghĩa của hình tượng này là:
Thân màu đen: biểu thị cho sự dùng Thắng Nghĩa Trung xa lìa tất cả Biến Kế
Sở Chấp, tức là Tự Tính của Ý Kim Cương, là “Tự Tính trong sạch không nhiễm
bẩn”.
Đội mão Phật Bất Động: biểu thị cho nghĩa Tâm không bị lay động bởi mọi sự
huyễn hóa
Thân lõa thể: biểu thị cho cho Đại Bi không bị che chắn, không nhiễm dơ cho dù
là một hạt bụi, tất cả không có chỗ chướng ngại
Cầm cái chén sọ người: biểu thị cho Tâm Bi
Ôm con chồn phun ra vật báu: biểu thị cho việc làm thỏa mãn mọi mong cầu
của chúng sinh về tiền của
Đạp lên xác người: biểu thị cho việc chinh phục cái tôi của con người và loại bỏ
sự tham lam của con người
Chủng Tử : HŪṂ (㜪)
Chân Ngôn là: OṂ_ INDRAYANI MUKHAṂ BHRAMARI SVĀHĀ
Bản khác ghi nhận Chân Ngôn này là: OṂ_ INDRANI MUKHAṂ
BHRAMARI SVĀHĀ
Hoặc Chân Ngôn là:
OṂ_ JAMBHALA-JALENDRĀYE VAŚU-DHARIṆI SVĀHĀ
Tu trì pháp môn Hắc Tài Thần, có thể nhận được sự giúp đỡ che chở của Ngài,
tiêu trừ oán địch, trộm cắp, bệnh Ma…. chướng ngại, khiến hưởng thụ sự tăng trưởng
tiền của giàu có.
*)Tôn Tượng năm vị Bảo Tàng Thần:
162
Chân Ngôn tụng chung cho Tôn Tượng này là:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO MAṆI-BHADRĀYA MAHĀ-YAKṢA-SENAPATĀYE
OṂ_ JAṂBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ
Ý nghĩa Chú Ngữ của Ngũ Tính Tài Thần là :
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO MAṆI-BHADRĀYA MAHĀ-YAKṢA-SENAPATĀYE
OṂ_ JAṂBHALA JALENDRĀYE SVĀHĀ
Namo ratna-trayāya: Quy mệnh Tam Bảo
Namo Maṇi-bhadrāya mahā-yakṣa-senapatāye: Kính lễ Bảo Hiền Đại Dược
Xoa Quân Chủ
Oṃ: là chiêu dẫn Trì Minh, nhiếp triệu Trì Minh
Jaṃ: là đào bới khoáng vật bị chôn vùi dưới đất
Bha: là cứu độ sự sợ hãi
La: là đề phòng sự trộm cắp
Ja: là ban cho đứa con
Len: là ban cho thọ mệnh
Dra: là cứu giúp sự nghèo túng
Ya: là chiêu dẫn Phước Thọ
Svāhā: là cát tường như ý
163
TAM DIỆN LỤC TÝ HỒNG TÀI THẦN
Tam Diện Lục Tý Hồng Tài Thần là vị Thần Tài màu hồng có ba mặt sáu cánh
tay, đại biểu cho Tâm Đại Bi câu nhiếp tất cả Tài Bảo của ba cõi, mãn túc tất cả Tâm
Nguyện của chúng sinh thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian.
Tam Diện Lục Tý Hồng Tài Thần là một vị Tài Thần đặc biệt có riêng ở phái
Ninh Mã Ba (Nyingma) của Mật Giáo Tây Tạng, rất ít thấy ở tự viện và các giáo phái
khác của Tạng Mật
Pháp Môn Tam Diện Lục Tý Hồng Tài Thần ban đầu được Đại Sư Liên Hoa
Sinh (Padma-saṃbhava) cất giữ trong tu viện Tang Gia (Samye), sau đó do đệ tử là
Thông Tuệ phát hiện ra Mật Giáo mà Liên Sư đã cất giữ nên truyền thừa tiếp tục cho
đến ngày nay.
Đại Bảo Phục Tàng Tập ghi nhận Tôn này là thân Hóa Hiện của Đức Phật A Di
Đà (Amitābha), là Bản Tôn của Tăng Nghiệp (Tăng Ích) và Hoài Nghiệp (Kính Ái).
Tôn này có thân màu hồng đỏ, ba mặt, sáu cánh tay, bốn chân, hai con mắt vừa vui vừa
giận. Mặt chính giữa màu hồng, mặt bên phải màu trắng, mặt bên trái màu xanh lam.
Đầu đội mão tơ, thân đeo bó hoa, dùng tám con Rồng và châu báu làm vật trang sức.
Hai tay để ngang ngực cầm con Thổ Bảo Thử (?con chồn sóc) từ trong miệng phun ra
châu báu chẳng dứt. Bên phải: hai tay còn lại phân biệt cầm báu Như Ý và móc câu
Kim Cương (Kim Cương câu). Bên trái: hai tay còn lại phân biệt cầm cái bát đầu lâu
chứa đầy vật báu và sợi dây báu. Co gập chân bên phải duỗi chân bên trái, dẫm đạp lên
Dạ Xoa nam nữ, đứng thẳng tại vành mặt trăng trên hoa sen, hiện rõ tướng dũng mãnh
164
Ý nghĩa của Tôn Tượng:
.)Thân màu hồng đỏ biểu thị cho Tâm Đại Bi (Kāruṇa-citta) câu nhiếp tất cả
Công Đức và tài bảo trong ba cõi Dục Giới (Kāma-dhātu), Sắc Giới (Rūpa-dhātu), Vô
Sắc Giới (Arūpa-dhātu)
.)Hai mắt vừa giận vừa vui: biểu thị cho năng lực giáng phục tội dơ phiền não
với năng lực viên mãn Giới Luật thanh tịnh
.)Mặt chính giữa màu hồng: là Hồng Tài Thần độ hóa loài người, biểu thị cho
Ngữ (Vāk) của chư Phật với Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara)
.)Mặt bên phải màu trắng: là Bạch Tài Thần độ hóa hàng Thiên Thần, biểu thị
cho Thân (Kāya) của chư Phật với Bồ Tát Văn Thù (Maṃjuśrī)
.)Mặt bên trái màu xanh lam: là Lam Sắc Hắc Tài Thần độ hóa loài Rồng, biểu
thị cho Ý (Citta: Tâm) của chư Phật với Bồ Tát Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi)
.)Bí Mật Phật Mẫu Cổ Lỗ Cổ Liệt (Kurukulle) ở trái tim biểu thị cho Tam Xứ
Không Hành Tổng Tập độ hóa được Ý (Manas) của tất cả chúng sinh
.)Hai tay ôm con Thổ Bảo Thử biểu thị cho việc ban cho Phước Tài Bảo đầy đủ
khắp ba cõi
.)Tay cầm báu Như Ý biểu thị cho việc mãn túc tất cả Tâm Nguyện của chúng
sinh
.)Tay cầm móc câu Kim Cương biểu thị cho việc câu triệu hữu tình ở ba cõi
.)Tay cầm cái bát đầu lâu chứa đầy vật báu biểu thị cho việc có thể khắc trừ
chướng ngại Ma Oán vô hình hoặc hữu hình, đồng thời biểu thị cho sức mạnh Giác
Ngộ của Phật Pháp
.)Tay cầm sợi dây báu: biểu thị cho ý nghĩa nhiếp phục chúng sinh
.)Bốn chân dẫm đạp lên Dạ Xoa nam nữ biểu thị cho sự chiến thắng các
chướng ngại và đạt được hết thảy sự giàu sang
_Tam Diện Lục Tý Tài Thần Tâm Chú là:
OṂ_ JAMBHALA JALENDRĀYA DHANAṂ MEDHI HRĪḤ SVĀHĀ
OṂ ĀḤ HŪṂ
Tu trì Giáo Pháp và tụng niệm Chân Ngôn của Tam Diện Lục Tý Hồng Tài Thần
sẽ giúp cho mọi sự nghiệp được thành tựu, hóa giải vận xấu ác, thu hút quý nhân, tiền
của, thức ăn uống…đem lại cuộc sống giàu sang, tăng trưởng nghiệp tốt lành, Phước
Đức, tuổi thọ, Trí Tuệ.
Tùy theo sự phát Tâm của người tu hành mà quả báo đạt được chẳng giống nhau.
Nếu như phát Tâm Vô Thượng Bồ Đề ắt có thể được chứng Phước Đức viên mãn của
Thế Gian với Xuất Thế Gian. Nếu chỉ cầu tài phú của Thế Gian thì có thể được mãn
túc. Nếu là người nghèo túng thì có thể đạt được lợi ích sung túc thực vật.
_Tu tập Pháp này dễ được tương ứng, hay được Công Đức của ba vị Thần Tài:
Hồng, Bạch, Hắc…hỗ trợ, chẳng bị sinh hoạt kinh tế áp bức, hay phòng giữ được Pháp
Tài không cho chảy mất, thu hút được mọi loại thọ dụng được sung túc, đầy đủ danh
lợi, Phước Đức, thọ mệnh, Trí Tuệ, vật chất với tinh thần thượng đẳng… để có thể yên
tâm hướng theo Đạo.
165
QUYẾN THUỘC DƯỢC XOA CỦA TỲ SA MÔN THIÊN
Các quyến thuộc Dược Xoa do Tỳ Sa Môn Thiên Vương thống lãnh và cùng nhau
thủ hộ Phật Pháp với chúng sinh giới là:
A_Tám vị Dược Xoa Đại Tướng là tám anh em của Tỳ Sa Môn Thiên Vương
1 ) Maṇi-bhadra (Bảo Hiền)
2 ) Pūrṇa-bhadra (Mãn Hiền)
3 ) Pāñcika (Mật Chủ, Mật Thân)
4 ) Śātāgirī (Uy Thần, Chúng Đức)
5 ) Hemavanta (Ứng Niệm, Chủ Tuyết Sơn Giả)
6 ) Viśakha (Đại Mãn, Trì Pháp)
7 ) Āṭavaka (Vô Tỷ Lực, Vô Tỷ Thân)
8 ) Pañcala (Mật Nghiêm)
*)Chân Ngôn chung của tám anh em Thiên Vương là:
INDRA, SOMA, VARUṆAḤ, PRAJĀPATI, BHĀRAD-VĀJAḤ, IŚAṆA,
ŚCANDANAḤ, KĀMAḤ, ŚREṬḤA, KUṆI-KAṆṬHA NIKAṆṬHAKAḤ
VADIRMAṆI, MĀṆI-CARAḤ, PRAṆĀDA, UPAPĀÑCAKAḤ, SĀTĀGĪRI,
HEMAVANTA, PŪRṆAḤ KHADIRA, KOVIDA, GOPĀLA-YAKṢA, ĀṬAVAKA,
NARARĀJA, JINĀRGARBHA, PAÑCĀLAGAṆḌA, SUMUKHA, DĪRGHA-
YAKṢA, SAPARIJANA, CITRASENA, ŚIVA, GANDHARVA, TṚPHALĪ,
CATṚKAṆṬHAKAḤ, DĪRGHA-ŚAKTI-ŚCA, MĀTALIḤ SVĀHĀ
B_Hai mươi tám vị Phương Bá Dược Xoa trấn hộ mười phương dưới sự thống
lãnh của Chính Liễu Tri Dược Xoa Đại Tướng (Saṃjñeya hay Pāñcika) là:
.) 4 Vị Dược Xoa ở Phương Đông là: Đại Trường (Dīrgha), Diệu Mục (Sunetra),
Viên Mãn (Pūrṇa), Hoàng Sắc (Kapila)
.) 4 Vị Dược Xoa ở phương Nam là: Sư Tử (Siṃha), Tiểu Sư Tử (Upasiṃha),
Loa (śaṅkhara), Chiên Đàn (Candana)
.) 4 Vị Dược Xoa ở phương Tây là: Sư Tử (Hari), Sư Tử Kế (Harikeśa), Tự Tại
(Prabhū), Thanh Sắc (Piṅgala)
.) 4 Vị Dược Xoa ở phương Bắc là: Năng Trì (Dharana), Trì Hỷ (Dharananda),
Cần Hộ (Udyogapāla), Thiên Danh (Viṣṇu)
.) 4 Vị Dược Xoa ở 4 phương bàng là: Hữu Ngũ (Pāñcika), Ngũ Xứ (Pañcala-
ganda), Bình Sơn (Satagiri), Tuyết Sơn (Hemavata)
.) 4 Vị Dược Xoa ở phương trên là: Nhật Thần (Sūrya), Nguyệt Thần (Soma),
Hỏa Thần (Agni), Phong Thần (Vāyu)
.) 4 Vị Dược Xoa ở phương dưới (trên mặt đất) là: Địa (Bhūma), Diệu Địa
(Subhūma), Hắc (Kāla), Tiểu Hắc (Upakāla)
Chính Liễu Tri Đại Tướng cùng với 27 vị Dược Xoa thường âm thầm hộ vệ cho
người Thuyết Pháp khỏi suy tổn, hưởng yên vui đồng thời cũng hộ vệ cho người nghe
Pháp.
C_Kinh Tỳ Sa Môn (ĐTK_No.1245) ghi nhận các vị Dược Xoa Đại Tướng thủ
hộ Hành Giả tu trì Kinh Pháp là:
“Thế Tôn! Nay con lại nói về Đại Tướng Dược Xoa, các vị ấy tên là : Ấn Nại-La
(Indra), Tô Mô (Soma), Phộc Lỗ Noa (Varuṇa), Bát-La Nhạ Bát Đế (Prajāpati), Bà
La Nại Phộc Nhạ (Bhara-dvāja), Y Xá Nẵng (Īśāna), Thất-Tả Nan Nẵng (Scaṇḍana),
Ca Ma Thất Lý Sắt Xá (Kamaśreṣṭha), Câu Nhĩ Kiến Trụ (Kinnughaṇṭu), Nễ Quân 166
Tra (Nighaṇṭu), Ma Ni Lý Ma Ni Lý (Maṇili-maṇili), Ma Ni Tả La (Maṇivara), Bát-
La Noa Na (Pranāda), Ô Ba Bán Tả Ca (Upa-pāñcika), Sa Đa Nghĩ Lý (Śātāgirī),
Hứ Ma Phộc Đa (Hemavanta), Bố La Noa Khư (Pūrṇaka), Nỉ La Câu Vĩ Tra (Nīla-
kuveṭa), Ngu Ba La Dã Xoa (Gopāla-yakṣa), A Tra Phộc Câu (Āṭavaka), Nẵng La
(Naḍa), La Tổ (Atha), Nhĩ Na Lý (Netrī), Sa Bà (Śiva), Tức Đát-La Tế Nẵng (Citra-
sena), Hiến Đà Lý-Vũ (Gandharva), Nỉ Lý-Già (Dīrgha), Xá Cật-Đế (Śākti), Ma Đa
Lệ (Mātali), Bán Tả La Hiến Noa (Pañcāla-canda), Tô Ma Nẵng (Sumana), Nỉ Lý-
Già Dã Xoa (Dīrgha-yakṣa), và các quyến thuộc, Đế-Lý Phả Lệ Tả, Đế-Lý Kiến Tra
(Śrīsaka) v.v... cho đến Thế Gian Hành Giả đều là quyến thuộc. Nếu có kẻ não loạn
hữu tình mà chẳng buông rời, nghe Chân Ngôn này thì đầu bị bể vỡ làm 07 phần như
cành cây A Lê (Arjaka)
Chân Ngôn là:
“Đát nễ dã tha: Hứ lệ, di lệ, Hứ di lệ, cát lý-đế, mẫu lệ, Hứ lệ, cát lý-đế, mẫu
lệ – Án – Đống di, đống di, ô đống ma, ô đống di, ô xí di xí, ngu nổ hứ, bộ-lăng nga
lý Ất-lý sử, tán đa nhĩ, sa-phộc hạ”
*) TADYATHĀ: HILI MILI , HILI MILI KĪRTI MŪLE _ HILI KĪRTI MULE
_ OṂ _ TUMBE TUMBE, OTUMBE OTUMBE , OGHE MIGHE, GUNU HINI,
BHṚṂGHARE ṚṢĪ ŚĀNTA ME _ SVĀHĀ
Thế Tôn! Nếu có Thanh Văn, Bật Sô, Bật Sô Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di đối với
Kinh này thọ trì, đọc tụng, lễ kính, cúng dường, rộng vì người nói thì các Dược Xoa
với cha mẹ, anh em, hàng nam nữ quyến thuộc đều chẳng thể làm hại.. Nếu có kẻ gây
não loạn liền bị mất uy lực, chẳng thể được Dược Xoa Tam Muội (Yakṣa-samādhi),
đầu bị bể làm 07 phần như cành cây A Lê (Arjaka), cũng chẳng thể đến trú trong Đại
Thành A Noa Ca Phộc Đế”.
D_Ma Ha Phệ Thất La Mạt Na Dã Đề Bà Hát La Xà Đà La Ni Nghi Quỹ
(ĐTK_No.1246) ghi nhận Pháp cầu 28 vị Sứ Giả (Ceṭaka) là:
Phàm lúc muốn Khu Sử Quỷ Thần, trước tiên, nên làm riêng một vị trí ở ngoài
Đàn, đặt một chén đèn, một bát nước sạch, một bó cỏ sạch. Bày trên mặt đất xong, làm
49 cái bánh dầu, 49 cái bánh không dính dầu, rải dính trên cỏ, hô Danh Tự của các Quỷ
Thần để thí thực. Sau đó có thể sai khiến Quỷ Thần
(1) Nếu muốn rộng tụng các Tạng Kinh Luận liền hô Quảng Tụng Sứ Giả
(2) Nếu muốn hay luận nghĩa liền kêu gọi Luận Nghĩa Sứ Giả
(3) Nếu cầu Thông minh Trí Tuệ liền kêu gọi Thông Minh Đa Trí Sứ Giả
(4) Nếu cầu kho báu che dấu trong đất, liền kêu gọi Phục Tàng Sứ Giả
(5) Nếu muốn vào núi: Tọa thiền, bay, luyện, học theo Tiên, liền kêu gọi Thuyết
Pháp Sứ giả.
(6) Nếu muốn cầu vật báu của cung Rồng, liền hô Long Cung Sứ Giả
(7) Nếu muốn cầu Pháp: ẩn hình, bay lên cung Trời, biến hóa, liền hô Ẩn Hình
Sứ Giả
(8) Nếu cầu Cấm Chú Quỷ Thần với pháp Đạp Thang Cấm hỏa (đạp lên nước
sôi, cấm lửa), liền hô Cấm Chú Sứ Giả
(9) Nếu cầu thức ăn uống, tiền tài, quần áo, liền hô Kỳ Cập Kỳ Sứ Giả
(10) Nếu cầu hiểu biết rộng, liền hô Bác Thức Sứ Giả
(11) Nếu muốn cầu hưng thắng, liền hô Thắng Phương Sứ Giả
(12) Nếu cầu sinh lợi, liền hô Hưng Sinh Lợi Sứ Giả
(13) Nếu cầu chủng điền (ruộng gieo hạt), nhiều danh vọng lợi ích, liền hô Điền
Vọng Lợi Sứ Giả 167
(14) Nếu cầu quan vị cao, liền hô Cao Quan Sứ Giả
(15) Nếu cầu giàu có , liền kêu gọi Hữu Ty Mệnh Sứ Giả
(16) Nếu muốn biết về người chết, người chưa chết, liền kêu gọi Tả Ty Mệnh
Sứ Giả
(17) Nếu cầu Trấn Trạch (trấn nhà cửa), Nhương Tai (đẩy lui tại nạn), áp đảo
chuyển hung thành cát, liền hô Bắc Đẩu Sứ Giả
(18) Nếu muốn biết văn án cát hung của Địa Ngục, liền hô Ngũ Quan Sứ Giả
(19) Nếu cầu Trường sinh bất tử, liền hô Thái Sơn Sứ Giả
(20) Nếu cầu dời núi lấp biển, liền kêu gọi Kim Cương Sứ Giả
(21) Nếu cầu biết tâm của người khác với ý của Quỷ Thần, liền hô Thần Thông
Sứ Giả
(22) Nếu cầu nước, lửa, đao, tên, thuốc độc chẳng thể gây tổn hoại, liền hô Tọa
Thiền Sứ Giả
(23) Nếu cầu mọi người yêu thích, liền hô Đa Mỵ Sứ Giả
(24) Nếu cầu làm Đại y vương, liền hô Thần Tiên Sứ Giả
(25) Nếu cầu mùi thơm xông ướp toàn thân, liền hô Hương Vương Sứ Giả
(26) Nếu cầu nương theo Thần Thông để phi hành mười phương, liền hô Tự Tại
Sứ Giả
(27) Nếu cầu giáng phục Ma ác, liền hô Đại Lực Sứ Giả
(28) Nếu cầu giáng phục oan gia, liền hô Trì Trai Sứ Giả
Như trên là 28 loại Sứ Giả riêng biệt, nếu lúc hô thời Chú này hô chung hết.
Chú là:
Nam mô phật đà la ni – Nam mô pháp Đà La Ni, Nam mô Tăng Đà La Ni –
Nam mô tát bà ma ha yết la ha hát la xà, hỗ trợ cho tôi … Hồng hồng – Hàm hàm
– phấn
㗍ᜀ ᜬ ᚱᚃ
㗍ᜀ ᚰ↝ ᚱᚃ
㗍ᜀ ᗽ ᚱᚃ
㗍ᜀ ᝌ㊱ ㈦ ᤈ ᜑㅼ 㗴 㫁 㰵㰵 㱲㱲 㗑㪪
NAMO BUDDHĀ-DHĀRAṆĪ
NAMO DHARMĀ DHĀRAṆĪ
NAMO SAṂGHĀ DHĀRAṆĪ
NAMO SARVA MAHĀ-GRAHĀ-RĀJA – RAKṢA MĀṂ (….) HUṂ HUṂ –
HŪṂ HŪṂ – PHAṬ.
1) Án – Phệ thất la mạt na dã – đề bà, hát la xà, đà la ni nhiếp lục – Tát bà
ma ha lực, yết la ha thần, hát la xà, hỗ trợ cho tôi (…) Hồng hồng, Hàm hàm,
phấn.
OṂ– VAIŚRAVAṆĀYA-DEVARĀJA-DHĀRAṆĪ Nhiếp lục – SARVA
MAHĀ-BALA-GRAHĀ-DEVATĀ-RĀJA RAKṢA MĀṂ – HUṂ HUṂ HŪṂ
HŪṂ PHAṬ.
2) Án – A lợi gia bà lộ chỉ đế nhiếp bà la dạ, đà la ni Hàm hàm hàm hàm –
phán phán phán phán.
OṂ – ĀRYA AVALOKITEŚVARĀYA-DHĀRAṆI HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ
- PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ.
3) Án – Ma ha khẩn hát la xà đà la ni, nhiếp lục, Hàm hàm hàm hàm, phấn.
OṂ – MAHĀ-ADHIRĀJA-DHĀRAṆĪ, Nhiếp lục, HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ -
PHAṬ
168
4) Án – Đề bà hát la xà đà la ni, nhiếp lục, hàm hàm hàm hàm, phấn.
OṂ – DEVARĀJA-DHĀRAṆĪ Nhiếp lục, HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ - PHAṬ
5) Án – Cù bà na già thần tiên, yết la ha, hát la xà, nhân hát la xà, nhiếp lục,
hàm hàm hàm hàm, phấn phấn phấn phấn.
OṂ – DEVA NĀGA DEVATĀ ṚṢĪ GRAHĀ-RĀJA – NĀRARĀJA Nhiếp
lục, HŪṂ HŪṂ HŪṂ HŪṂ - PHAṬ PHAṬ PHAṬ PHAṬ.
6) Án – Ma ha lực tướng quân đà la ni, nhiếp lục, Hàm hàm hàm, cấp cấp.
OṂ– MAHĀ-BALA-SENAPATI-DHĀRAṆĪ Nhiếp lục, HŪṂ HŪṂ HŪṂ –
Cấp cấp.
7) Án – Dược xoa hát la xà, sắc sắc sắc sắc
OṂ – YAKṢA-RĀJA – Sắc sắc sắc sắc
8) Án _La sát hát la xà, hoán hoán hoán hoán
OṂ_ RĀKṢASA-RĀJA – Hoán hoán hoán hoán
9) Án – Tát bà ma ha lực hát la ha. Thần, hát la xà, hộ trợ cho tôi (…), sử
dịch – Đà la ni, nhiếp lục đà la ni – Như trì giả, đả đầu phá tác thất phần, cấp bà
ha”
OṂ– SARVA MAHĀ-BALA-GRAHĀ-DEVATĀ-RĀJA, Hỗ trợ cho tôi sai
khiến DHĀRAṆĪ, Nhiếp Lục DHĀRAṆĪ – Như chậm trễ, đánh vào cái đầu, phá làm
7 phần – SVĀHĀ.
Chín đạo Đà La Ni như trên, mỗi mỗi đều tụng một biến , tức 28 loại Sứ Giả trên
kia không có ai không đến.
Nếu lúc hô triệu Quỷ thần, cần yếu là đợi đến đêm tối, trải cỏ sạch trên mặt đất ở
ngoài Đàn, để một bát nước sạch, 49 cái bánh dầu, 49 cái bánh không có dầu, với nhiều
quả trái. Sau đó vào Đàn tụng Chú. Nếu thấy Quỷ Thần, cần yếu nên tác Thệ Nguyện
sâu nặng. Sau đó cho ăn, sao chép Danh Tự của họ thì có thể được sử hô (sai khiến kêu
gọi)
169
TÁN CHI DƯỢC XOA ĐẠI TƯỚNG
_ Tán Chi, tên Phạn là Saṃjñeya, dịch âm là Tăng Thận Nhĩ Gia, Tán Chi Quỷ
Thần. Lại xưng là Tán Chi Ca Đại Tướng, Tán Chi Đại Tướng, Tán Chi Quỷ Thần Đại
Tướng Quân, Ngài Nghĩa Tịnh dịch là Tăng Thận Nhĩ Gia Dược Xoa Đại Tướng.
Dịch ý là Chính Liễu Tri tức hiểu thấu sự sai biệt của Thể Tính của tất cả các Pháp.
Tôn này là một trong tám vị Đại Tướng của Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên
Vương, trông coi chung 28 Bộ Chúng. Vị Đại Tướng này chẳng bỏ sót sức lực nào,
thống lãnh chư Thần trong 28 Bộ Dược Xoa tùy theo nơi chốn, ẩn hình ủng hộ vị Thầy
nói Pháp với cướp giúp kẻ trai lành, người nữ thiện lìa khổ được vui.
Kinh Kim Quang Minh, Phẩm Tán Chi Quỷ Thần ghi nhận là: “Tán Chi Đại
Tướng hướng về Đức Phật Đà tuyên nói lời thề Hộ Pháp: Nếu nơi nào có Bản Kinh
này thì Chính Liễu Tri Tán Chi Đại Tướng với chúng Quỷ Thần trong 28 Bộ do mình
thống lãnh đều ủng hộ người nói Pháp, khiến cho tiêu diệt các ác, đắc được nhóm
Công Đức chẳng thể nghĩ bàn”
_Tán Chi cũng có tên Phạn là Pāñcika. Lại xưng là Bán Chỉ Ca, Bán Chỉ Ca Đại
Tướng, Ban Chỉ Kha, Tán Chi, Tán Chi Ca, Ban Xà Ca, Đức Xoa Ca, Tán Chi Tu Ma,
Mật Thần, Tán Chi Ca Quỷ Thần…
.)Tôn này nguyên là vị Thần Dạ Xoa trong Bà La Môn Giáo ở Ấn Độ, thống lãnh
chúng Dạ Xoa (Yakṣa) của Vaiśravaṇa (Tỳ Sa Môn Thiên) với 27 Đại Tướng Dạ
Xoa. Ông kết hôn với Nữ Thần Hāritī và sinh ra 500 người con.
Pāñcika thường được minh họa theo hình tượng cầm một cây giáo hoặc một túi
đồ trang sức (hay là tiền của) cùng với Hāritī biểu thị cho tình yêu của hôn nhân. Khi
được mô tả cầm cây giáo thì Pāñcika biểu thị cho vị đứng đầu chúng Dạ Xoa
170
171
Sau khi được du nhập vào Phật Giáo thì Pāñcika được coi là vị Đại Tướng thứ ba
trong tám vị Đại Dạ Xoa quyến thuộc của Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên Vương,
thống lãnh 28 Bộ Thiên Chúng thường tuần hành Thế Gian thưởng Thiện phạt ác… là
chồng của Quỷ Tử Mẫu (Hāritī)
.)Căn cứ vào sự ghi chép của Ha Lý Để Mẫu Kinh thì Quỷ Tử Mẫu tên là
Hoan Hỷ, dung mạo đoan nghiêm, có năm ngàn quyến thuộc, thường trụ tại nước
chấn Na (Cina) hộ trì Thế Giới, là con gái của Sa Đa Đại Dược Xoa Tướng (Śata),
sau này là vợ của bán Chi Ca Đại Dạ Xoa Tướng, sinh ra 500 đức con
.)Tạp Bảo Tàng Kinh, quyển 9 ghi nhận là: “Quỷ Tử Mẫu là vợ của Lão Quỷ
Thần Vương Ban Xà Ca”
.)Đại Nhật Kinh Sớ 5 nói rằng: “Bán Chỉ Ca, xưa nói là Tán Chi”
.)Tỳ Gia Tạp Sự 31 nói rằng: “Xưa kia ở bên trong thành Vương Xá, bên cạnh
một ngọn núi có vị Thần Dược Xoa tên là Sa Đa (Śata). Tại nước Kiền Đà Đa La ở
phương Bắc lại có một vị Dược Xoa tên là Bán Già La (Pāñcala), Sa Đa lấy vợ sinh ra
người con gái có dung mạo đoan nghiêm, người nhìn thấy đều yêu thích, Khi sinh ra
thời các chúng Dược Xoa thảy đều vui mừng, cha mẹ đặt tên gọi là Hoan Hỷ (tức Quỷ
Tử Mẫu Thần). Vợ của Bán Già La có thai, đủ tháng sinh ra đức con tên là Bán Chi
Ca (Pāñcika). Xưa kia hai người từng hứa hẹn kết thông gia, cho nên Bán Chi Ca lấy
Hoan Hỷ làm vợ”
.)Đại Dược Xoa Nữ Hoan Hỷ Mẫu tinh Ái Tử thành tựu Pháp nói là: “Đức
Phật đến Tinh Xá Trúc Lâm trong thành Vương Xá vì các Người, Trời diễn nói Pháp
yếu. Thời có vị Đại Dược Xoa nữ tên là Hoan Hỷ, dung mạo đoan nghiêm có năm
ngàn quyến thuộc, thường trụ ở nước Chấn Na (cina) hộ trì Thế Giới, là con gái của
Sa Đa Đại Dược Xoa Tướng, lấy Bán Chi Ca Đại Dược Xoa Tướng (tên là Tán Chỉ)
sinh ra năm trăm người con”
_Có Thuyết nói Pāñcika là con thứ của Quỷ Tử Mẫu, cha tên là Đức Xoa Ca
(Takṣa) nhưng đa số đều công nhận Bán Chi Ca là chồng của Quỷ Tử Mẫu
.)Đà La Ni Tập Kinh 7 nói là: “Chồng của Quỷ Tử Mẫu tên là Đức Xoa Ca” 172
.)Đà La Ni Tập [Phái Giác Nang, vị Tổ sư đời thứ tư Đa La Na Tha từ trong
Kinh Điển Mật Giáo rút Đà La Ni Chú cùng với chương tiết vựng… tập thành một bộ
Kinh Tịch] nói là: “Quỷ Tử Mẫu có ba người con trai, con trưởng tên là Duy Xa Văn,
con kế tiếp tên là Tán Chi Đại Tướng, con kế tiếp tên là Ma Ni Bạt Đà... hay ở mười
phương Thế Giới che chắn giúp đỡ tất cả chúng sinh trừ hoạn nạn, suy ách. Thường ở
dưới đất hoặc ở trên Trời đều có 500 quyến thuộc, thống lãnh Quỷ Thần của 28 Bộ, tūy
theo nơi chốn có Kinh Điển lưu bày thì cùng với các Quỷ Thần đi đến chỗ ấy ủng hộ
người nói Pháp, tiêu diệt các ác khiến cho được an ổn. Luôn luôn dùng ba mật của
Thân Khẩu Ý gia bị cho người ấy là: tinh khí của mọi mùi vị theo lỗ chân lông đi vào
thân tức là Thân Mật gia bị. Ngôn từ trang nghiêm, biện thuyết chẳng bị đứt đoạn tức
là Khẩu Mật gia bị. Tâm tiến mạnh mẽ sắc bén tức là Ý Mật Gia Bị cho đến khiến
cho người nghe thọ nhận được niềm vui của Người, Trời… mau được Bồ Đề. Các vị
ấy đối với sự thưởng thiện phạt ác ắt có Công rất lớn vậy”
_Hình tượng của Pāñcika thường được làm theo dạng thức của vị Kim Cương,
mặt màu hồng đầy vẻ nộ khí, tay cầm chày Giáng Ma hoặc cây giáo hoặc cây đao
173
Lại có người vẽ Bán Chi Ca với Kim Cương Mật Tích Lực Sĩ chung trong một
bức họa và xưng là Hanh Cáp Nhị Tướng
174
_SAṂJÑEYA Dược Xoa Đại Tướng Minh Chú:
NAMO BUDDHĀYA
NAMO DHARMĀYA
NAMO SAṂGHĀYA
NAMO BRAHMĀYA
NAMO INDRĀYA
NAMAḤ CATURNAṂ_ MAHĀ-RĀJĀNĀṂ
TADYATHĀ : HILI HILI HILI HILI
MILI MILI MILI MILI
GAURI MAHĀ-GAURI
GĀNDHĀRI MAHĀ-GĀNDHĀRI
DRĀVIḌI MAHĀ-DRĀVIḌI
DAṆḌA KHUKUNTE
HA HA HA HA HA
HI HI HI HI HI
HO HO HO HO HO
HURU DAME-GHŪḌA ME
CA CA CA CA
CI CI CI CI
CU CU CU CU
CAṆḌEŚVARA
ŚIKHARA ŚIKHARA UTTIṢṬHATI
BHAGAVAN SAṂJÑEYA SVĀHĀ
175
NA TRA THÁI TỬ
Na Tra Thái Tử, tên Phạn Nalakūvara hoặc Nalakūbala là vị Thiện Thần hộ trì
Phật Pháp, thủ hộ quốc giới với quốc vương.
Lại xưng là Na Tra Thiên Vương, Na Noa Thiên (Naḍakūvara, hay Naṭakūvara)
Na La Cưu Bà, Na La Củ Bạo La, Na La Cưu Bát La, Na La Cưu Bạt La, Na La Câu
Phạt La… là một trong 5 vị Thái Tử của Tỳ Sa Môn Thiên (Vaiśravaṇa)
Na Tra Thái Tử tay cầm bổng kích, đưa hai mắt quán sát bốn phương, ngày đêm
thũ hộ quốc vương, đại thần, trăm quan liêu thuộc cho đến Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu
Bà Tắc, Ưu Bà Di…
Nếu người đối với nhóm ấy khởi Tâm chẳng lành hoặc giết hại thì Na Tra dùng
chày Kim Cương đâm đánh vào trái tim hoặc cái đầu của người ác đó.
Na Tra từng lóc thịt đáp trả cho mẹ, chẻ xương trả lại cho cha. Sau đó hiện Bản
Thân vận Đại Thần Thông vì cha mẹ nói Pháp. Lại thường trao răng nanh Phật cho
Luật Sư Đạo Tuyên và tùy theo hầu thân ấy.
_Tỳ Sa Môn Nghi Quỹ ghi rằng: Tam Tạng Đại Quảng Trí nói: “Ngày mồng
một mỗi tháng là ngày mà Thiên vương và các Thiên, Quỷ, Thần tập hội - Ngày 11 là
ngày con thứ hai Độc Kiện từ biệt vua cha đi tuần giới – Ngày 15 là ngày bốn vị Thiên
Vương tập hội – Ngày 21 là ngày Na Tra và vua cha giao tháp. Ngày ấy nên dùng sữa,
cháo cúng dường. Không có sữa ắt dùng tô mật, cháo cúng dường Thiên Vương ấy, có
Thiên Linh quái lạ vâng theo Sắc tuyên nói giao phó 10 Đạo Tiết Độ, quân sở tại lãnh
lệnh đến Hình Tượng, cầu nguyện cúng dường” 176
_ Nguồn gốc tên của Natra:
Natra là tên phiên ngắn của tên Dạ Xoa, Ấn Độ là Nalakūbara (cũng gọi là
Nalakūvara, Narakuvera, Nalakūvala, và Natakuvera (Pali). Naṭakuvera hay
Naḍakuverā là con của Vua Trời Vaiśravaṇa (Kubera). Ở Trung Quốc thì Vua Trời
Vaiśravaṇa được nhận diện với tể tướng nhà Đường Lý Tịnh (571-649)
Một cuộc khảo sát một loạt bản dịch tiếng Hán của Tantra nguyên thủy
Mahāmāyūrī vidyārājñī sūtra, mô tả sự cải cách dần dần tên Hán của Nalakubara như
sau: Từ Na La Cưu Bà La 那羅鳩婆羅, đến Nại La Câu Phạt La 捺羅俱跋羅, và
Na Tra Củ Phiệt La 那吒矩韈囉, đến Na Tra 那吒, và được thêm bộ khẩu vào thành
Ná Tra 哪吒.
_Na Tra trong Mật Giáo:
1. Kinh Mahāmāyūrī vidyārājñī định nghĩa Nalakubara là Đại Tướng Dạ Xoa (Dạ
Xoa Đại Quân Chủ, Đại Dược Xoa Tướng, Sanskrit là Mahāyakşasenāpati)
2. Hai kinh mật giáo (đã mất) nói về Nalakubara được liệt kê trong Danh Mục
Phật giáo Trung Hoa:
a_Na Tra Thái Tử cầu thành tựu Đà La Ni Kinh
b_Na Tra Câu Bát La cầu thành tựu Kinh
3. Kinh Mật giáo Tây Tạng đề cập Nalakubara được bảo tồn trong bản dịch Tây
Tạng Mahāyakşa-senāpati-nartakapara-kalpa
4. Nhà Sư Mật Giáo nổi tiếng là Bất Không, lập luận rằng Thần Tướng Na Tra
giúp đỡ binh sĩ Trung Quốc bảo vệ biên cương Tây Bắc vào giữa thế kỷ 18.
5. Hình dạng phẫn nộ của Na Tra gồm 3 đầu 6 tay đã mang ảnh hưởng sâu đậm
trong trí tưởng tượng của Trung Hoa, thủ phủ Bắc Kinh thế kỷ 13 đã được tưởng tượng
theo điều này, và vì vậy được biết với tên Na Tra Thành (thành phố Nalakubara) (xem
nghiên cứu của Hok Lam Chan)
_Dạ Xoa Nalakubara trong văn học Sanskrit cổ:
Nalakubara thuộc về phân hệ không rõ ràng nửa quỷ nửa thần được gọi là Dạ
Xoa. Chuyện rắc rối của gia đình ông ta được nhắc đến bởi ông chú ác quỷ Ravāṇa, kẻ
đã hiếp người yêu của Nalakubara, cô gái điếm Rambha. Các cốt chuyện Nalakubara
thường được xây dựng trên chuyện trắc trở về tình ái của Dạ Xoa.
_Kṛṣṇa, Nalakubara và Natra:
Câu chuyện nổi tiếng về Nalakubara (được xây dựng dựa trên Bhagavata Pūraṇa)
đồng hóa ông với thiên thần trẻ con vĩ đại của Ấn là Kṛṣṇa, cũng giống như Na Tra,
Kṛṣṇa bắt đầu sự nghiệp bằng việc giết rồng. Bài kinh mật thế kỷ thứ 10 bởi
Devasantika có lẽ cung cấp mối liên hệ giữa Nalakubara và Kṛṣṇa, kinh đó mô tả một
thiên thần trẻ con uy dũng tên là Nana, mang đặc tính của cả hai.
(Bản dịch của Tống Phước Khải)
_Thân phận của Na Tra: Trong Kinh Thư của Phật Giáo có hai loại ghi chép
1_Vị Thái Tử thứ ba của Hộ Thế Thiên Vương Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên
Vương
Phật Sở Hành Tán, quyển 01 ghi là:
“Tỳ Sa Môn Thiên Vương
Sinh Na La Cưu Bà
Tất cả các Thiên Chúng
Thảy đều rất vui vẻ”
2_ Người cháu thứ hai của vị Thái Tử thứ ba 177
Có điều dân gian đều nhận vị ấy là Thái Tử thứ ba của Bắc Phương Thiên Vương.
Na Tra Thiên Vương cùng với Tỳ Sa Môn Thiên Vương đồng là vị Đại Hộ Pháp
của người tu hành trong thời Mạt Thế, phát nguyện giúp người giúp nước.
.)Triệu Na Tra Thiên Vương Chú là:
“Án, na tra câu phạt la khả khả khả khả hồng ba đa duệ sa ha”
Oṃ_ Nalakūvala ha ha ha ha hūṃ pataye svāhā
HÌNH TƯỢNG CỦA NA TRA THÁI TỬ
Hình tượng của Na Tra không được lưu truyền rộng rãi. Dân gian Trung Hoa
thường hình dung Na Tra như là một vị Thiên Tướng khôi ngô tuấn tú, tay phải cầm
Trường Thương Hỏa Tiễn Thần Phong, tay trái cầm Càn Khôn Quyện, vai đeo dải lụa
Hỗn Thiên Lăng, lưng giắt Cửu Long Thần Chạo và Cục Kim Chuyên, chân đi bánh xe
Phong Hoả. 178
Na Tra thường biến hình ba đầu sáu tay rất hung tợn, tay cầm sáu thứ binh khí:
Trảm Yêu Kiếm, Khảm Yêu Đao, Phộc Yêu Sách, Giáng Yêu Chử, Tú Cầu và Hỏa
Luân.
-Hình tượng Na Tra giáng phục Rồng
179
Trong Tôn Giáo dân gian ở Đài Loan thì Na Tra được xưng là Trung Đàn
Nguyên Soái, rộng nhận cúng dường.
Na Tra được mô tả là một vị thần có pháp lực cao cường, đứng vào hàng những vị
thần cao cấp nhất của Thượng giới.
Đạo Giáo Trung Hoa ghi nhận Thần Chú của Na Tra Thái Tử là
1_ Thỉnh Na Tra Thần Chú:
“Phụng thỉnh Đại La Tam Thái Tử
Thái Tử thất tuế triển Thần Thông
Đầu Phộc song kế, hồng yêu đái
Tay chấp Kim Sinh Phao Tú Cầu
Đại đao kiếm kích như vân vũ
Tam Đàn diện tiền triển uy linh
Thiên binh vạn tướng tùy ngô chuyển
Bài binh tẩu mã đáo Đàn tiền
Đệ Tử nhất tâm phần hương thỉnh 180
Na Tra Thái Tử giáng lâm lai
Thần Binh hỏa cấp như luật lệnh”
2_Trung Đàn Nguyên Soái Giáng Ma Thần Chú:
Thiên Địa chính khí
Nhật Nguyệt quang minh
Ngọc Hư phù mệnh
Hiệu triệu lôi đình
Tả hữu Lục Giáp
Hữu hữu Lục Đinh
Thành Hoàng Cảnh Chủ
Thổ Địa Kỳ Linh
Văn ngô danh hiệu
Thính ngô hiệu lệnh
Trung Đàn Nguyên Soái
Thống lãnh Thiên Binh
Trận bài Bát Quái
Khí bố Ngũ Hành
Kim Quang chiếu diệu
Khu tán yêu tinh
Dân an quốc thái
Hải yến hà thanh
Nguyên Hanh Lợi Trinh
Cấp cấp như Nguyên Thủy Thiên Tôn Luật Lệnh”
TÔN THẮNG THÁI TỬ
Tôn Thắng Thái Tử là vị Thiện Thần hộ trì Phật Giáo, thủ hộ quốc gia. Lại xưng
là Như Ý Thắng Vương, Như Ý Thiên Vương, Cam Lộ Thái Tử.
Hoặc nói là Tôn Thắng Thái Tử với Thái Tử Na Tra của Tỳ Sa Môn Thiên
Vương là đồng Tôn
_Hình tượng rất đáng sợ, có bốn mặt tám cánh tay
Mặt chính là tướng Bồ Tát bình chính viên mãn
Mặt bên trái màu xanh đen, mở miệng lớn, có nanh cọp mọc ngược, mắt tròn lớn,
lông my chỉa cứng
Mặt bên phải là tướng của Tự Tại Thiên màu đỏ trắng
Bên trên mặt chính là tướng Dược Xoa cực ác, mắt màu hồng như máu, răng nanh
sắc bén
Toàn thân màu đỏ đen, tóc màu tơ xanh, trên đỉnh có 7 mặt trời cùng chiếu sáng,
chân đạp trên bàn đá lớn
Tám tay:
Tay thứ nhất của hai bên đều cầm đao
Tay thứ hai của hai bên cầm Bạt Chiết La Xoa
Tay thứ ba của hai bên chắp lại để ngay trước ngực
Tay thứ tư của hai bên đều cầm cây thương.
Lại dùng mây ngũ sắc tán rũ làm lọng, chư Thiên quyến thuộc vây quanh.
Ấn Tướng là: Hai tay chắp lại để ở trước ngực, hai ngón cái cài chéo nhau (bên
phải đè bên trái) cắm vào trong lòng bàn tay, kèm thẳng hai ngón trỏ, các ngón còn lại
giao chéo nhau thành quyền.
Chữ chủng tử là RA (㇂) 181
Chân Ngôn là: “Án, na la câu bạt la, sa phộc hạ”
Oṃ_ Nalakūvara svāhā
Tôn Thắng Thái Tử là Bản Tôn của Pháp Sở Tu: chiến tranh hoặc trấn định biên
loạn, xưng là Tôn Thắng Thái Tử Pháp
Theo sự lưu truyền, vào thời Đường Huyền Tông, Luật Sư Đạo Tuyên y theo
Mật Pháp của Tôn này, bình định việc loạn.
Nam mô Man Đà La Chủ Tôn Thắng Thái Tử Đề Bà La Nhạ, Bồ Đề Tát Đỏa
Bà Gia, Ma Ha Tát Đỏa Bà Gia 182
Y XÁ NA THIÊN
Y Xá Na Thiên, tên Phạn là Īśāna, dịch âm là Y Xá Na, dịch ý là Lạc Dục hay
Tự Tại, hoặc Chúng Sinh Chủ tức nghĩa là người Tư Phối. Lại xưng là Y Già Na
Thiên, hoặc Y Sa Thiên. Là vị Thần Hộ Pháp của Mật Giáo, là một trong Hộ Thế Bát
Phương (tám vị hộ giúp đời ở tám phương), một trong 12 vị Trời, hoặc một trong Thần
Hộ Pháp ở mười phương, thủ hộ phương Đông Bắc.
_Lại có thuyết nói vị Trời ấy khi xưa được xưng là Ma Hê Thủ La Thiên
(Maheśvara), tức Đại Tự Tại Thiên
.)Thập Nhị Thiên Cúng Nghi Quỹ ghi rằng: “Phương Đông Bắc, Y Xá Na
Thiên. Xưa gọi là Ma Hê Thủ La Thiên, cũng gọi là Đại Tự Tại Thiên cỡi con bò
Hoàng Phong, tay trái cầm chén Kiếp Ba chứa đầy máu, tay phải cầm Tam Kích Sang,
màu thịt xanh nhạt, ba mắt phẫn nộ, hai răng nanh ló lên trên, dùng đầu lâu làm Anh
Lạc, trong cái mão trên đầu có hai vành trăng ngửa. Hai vị Thiên Nữ cầm hoa.
Chân Ngôn của vị Trời này là: “Nam mạc tam mạn đa đà nam, y xá nẵng duệ,
sa-bà ha” 183
.)Pháp Toàn “Thanh Long Tự Nghi Quỹ” nói vị Trời ấy là Hóa Thân (Nirmāṇa-
kāya) của Ma Hê Thủ La Thiên.
Chân Ngôn là: “Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam, lỗ nại la dã, sa bà hạ”
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm ghi rằng: “Khi Y
Xá Na Thiên vui thời chư Thiên cũng vui, Ma Chúng chẳng loạn. Xưa gọi là Ma Hê
Thủ La (Maheśvara).
Đức Phật nói: “Nếu cúng dường Ma Hê Thủ La (Đường gọi là: Đại Tự Tại)
tức đã cúng dường tất cả chư Thiên”
Khi Trời này giận thời chúng Ma đều hiện ra, quốc thổ hoang loạn”
_Vị Trời này có vị trí ở góc Đông Bắc tại Ngoại Bộ Kim Cương Viện trong Thai
Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala). Y Xá Na Phi, Thường Tuý Thiên,
Hỷ Diện Thiên, Khí Thủ Thiên, Khí Thủ Hậu, Đại Hắc Thiên, Tỳ Na Dạ Ca đều là
quyến thuộc của Ngài.
_Ma Hê Thủ La (Maheśvara) tức là Trời Đại Tự Tại. Lại gọi là Tự Tại Thiên, Tự
Tại Thiên Vương, Thiên Chủ. Truyền thuyết cho rằng đây là Thân Phẫn Nộ (Krodha-
kāya) của Lỗ Nại La Thiên (Rūdra). Do địa phương cư trú chẳng đồng nên lại có tên
khác là Thương Yết La (Śaṃkara) và I Xá Na (Īśāna)
Vị Trời này nguyên là Thần Chủ Thấp Bà (Śiva) của Bà La Môn Giáo và xưng
tán vị Trời này là Bản Thể của Thế Giới. Tất cả vật Hữu Mệnh hoặc Vô Mệnh trong
Tam Giới đều do Ma Hê Thủ La Thiên sinh ra.
Lại dùng Thân của Ma Hê Thủ La mà nói: Hư Không là cái đầu, Đất là cái thân,
Nước là thứ tiểu tiện, tất cả Chúng Sinh là loài trùng trong bụng, Gió là mạng sống,
Lửa là hơi ấm, Tội Phước là nghiệp, tất cả Sinh Diệt Niết Bàn đều là Ma Hê Thủ La
Phàm tất cả sự vui buồn sướng khổ của Nhân Gian đều do vị Trời này. Lúc vị
Trời này vui thì tất cả chúng sinh đều được an lạc. Khi vị Trời này giận thì chúng Ma
hiện ra, đất nước nhiễu loạn, tất cả Chúng Sinh đều tùy theo mà chịu khổ. Nếu Thế
Giới này đoạn diệt thì tất cả vạn vật cùng quy vào trong Trời Đại Tự Tại. Sự tận diệt
này là cách thức biểu hiện của Đại Tự Tại Thiên Thần.
Xong trừ sát thương, bạo ác… là tính cách bên ngoài. Vị Thiên này cũng có đủ
tính cách cứu hộ trị liệu nên dùng diện mạo của vị Thần Cát Tường để hiện ra.
Sau này, khi đã du nhập vào Phật Giáo thì vị Thần Thấp Bà (Śiva) liền trở thành
vị Thần Hộ Pháp của Phật Giáo. Ngài là vị Thần có uy lực to lớn, biết rõ lượng nước
mưa của Đại Thiên Thế Giới và cư ngụ tại Trời Tứ Thiền thuộc Sắc Phạm Thiên Giới
(Rūpa-brahma-loka)
Trong kinh điển, Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) tức vị vua của tầng trời cao nhất
trong Sắc Giới, là chúa tể của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới, vị này vừa là Thần Hộ
Pháp, vừa là Ma Vương lợi hại nhất. Đây là vị Bồ Tát hiện thân Trời này nhằm hóa độ
những ngoại đạo sùng bái Đại Tự Tại Thiên, tức những kẻ thường được gọi là Đồ
Thán Ngoại Đạo (ngoại đạo bôi than hay tro lên thân) hay Tự Tại Ngoại Đạo, hay
Shaivist.
HÌNH TƯỢNG CỦA Y XÁ NA THIÊN
Hình tượng nguyên bản của Y Xá Na Thiên là toàn thân màu xanh đen, có ba con
mắt, trên búi tóc có vành trăng, tay cầm Tam Cổ Kích, cỡi con bò trắng 184
Hình tượng cỡi con bò trắng biểu thị cho Pháp Lực thanh trừng các loài Ma ác
khiến cho Thế Gian được thanh tịnh.
_Tại Ấn Độ: Hình tượng của Đại Tự Tại Thiên thường được minh họa chung với
người vợ
185
.)Thần Chú của Đại Tự Tại Thiên là:
Oṃ namaḥ śivāya
Hình tượng của vị Trời này còn có rất nhiều dạng như: bốn cánh tay, tám cánh
tay…lại có tượng 18 cánh tay nhưng phần lớn chẳng nhìn thấy
186
_ Đại Tự Tại Thiên Chú là:
OṂ_ VETALA ŚANI PRAMARTHANI CCHINDANI CCHINDANI,
BHINDANI BHINDANI SVĀHĀ
Tụng Chú 108 biến tức tâm vui vẻ.
_Trong 12 Thiên thì Y Xá Na Thiên là vị chủ của chúng Ma (Māra), thủ hộ
phương Đông Bắc
Chữ chủng tử là Ī (㘴)
187
Đông Bắc Phương Y Xá Na Ấn là: Tay phải nắm quyền an ở eo phải. Tay trái
dựng đứng năm ngón tay dính nhau, co lóng giữa của hai ngón Địa Thủy (ngón út và
ngón vô danh), ba ngón Hỏa (ngón giữa) Phong (ngón trỏ) Không (ngón cái) đều hơi
cách nhau liền thành.
Chân Ngôn là:
Nam mạc tam mạn đa một đà nam. Y xá nẵng duệ, sa-phộc ha
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㘴᜵ᚽᜊ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ ĪŚĀNĀYE SVĀHĀ
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Y Xá Na Thiên có thân màu đen xanh, hiện
tướng phẫn nộ, quát mắng ba độc Tham Sân Si, trên mặt có 3 mắt, thân dùng đầu lâu
làm Anh Lạc, tay trái cầm vật khí chứa đầy máu ngựa thồ để uống, tay phải cầm cây
kích Tam Cổ
Ý nghĩa của hình tượng:
Ba mắt: biểu thị cho sự giáng phục ba vọng chấp: thô, tế, cực tế
Đầu lâu: biểu thị cho vô minh căn bản. Dùng đầu lâu làm Anh Lạc biểu thị cho
nghĩa phiền não tức Bồ Đề
Tay trái cầm vật khí chứa đầy máu ngựa thồ để uống: biểu thị cho ăn nuốt hết
phiền não
Tay phải cầm cây kích Tam Cổ: biểu thị cho việc dùng cái Mâu của ba Bình
Đẳng giết hại phiền não, hai chướng Sở Tri, nghĩa là không có Nhân Chấp, Pháp
Chấp. 188
Chữ chủng tử là Ī (㘴)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Kích Tam Cổ, biểu thị cho việc điều phục chúng
sinh.
Tướng Ấn là Y Xá Na Thiên Ấn: Tay phải nắm quyền để ở eo lưng, tay trái đều
co ngón vô danh, ngón út, dựng thắng ba ngón còn lại và hơi rời nhau. Đây tức là hình
Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁᜔ᦽᜄ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ RUDRĀYA SVĀHĀ
ĐẠI TỰ TẠI THIÊN PHI
Đại Tự Tại Thiên Phi, tên phạn là Umā
Umā nguyên là Tôn được sùng bái đặc biệt của Bà La Môn Giáo Thần Phi Phái
thuộc Ấn Độ cổ đại. Lại xưng là Đỗ Nhĩ Gia (Durgā) hoặc Tuyết Sơn Thần Nữ
(Pārvati). Trong thần thoại Ấn Độ thì Ô Ma Phi có đầy đủ sức Thần Lực lớn, thường
nhận lời thỉnh cầu của chư Thiên đánh lui A Tu La Thiên mà hiển hiện hình tượng 10
cánh tay, tóc rối loạn, cỡi sư tử, chặt đầu giết A Tu La Vương.
Sau này khi du nhập vào Mật Giáo thời sức uy thần chẳng có đủ như xưa, được
ghi nhận là Phi của Đại Tự Tại Thiên, mẹ của Tỳ Na Dạ Ca (Vinayāka).
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Ô Ma Phi có thân màu thịt trắng, cỡi con dê,
tay trái cầm cây kích Tam Cổ (hình bên trái)
189
Chữ chủng tử là: U (㒂)
Tam Muội Gia Hình là: Cái bát
Tướng Ấn là: Đại Tự Tại Thiên Phi Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ゞᛸᘬ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ UMA JAMI SVĀHĀ
Hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ゞᛸᚪᜪ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ UMA-DEVI SVĀHĀ 190
_ Y Xá Na Thiên Phi, tên Phạn là Īśānī, là vợ của Y Xá Na Thiên
Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Y Xá Na Thiên Phi thì biểu thị cho Định
Đức của Y Xá Na Thiên
Tôn hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái cầm cây kích Tam Cổ, tay phải cầm cái bát
Chữ chủng tử là Ī (㘴)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Tam Cổ.
Tướng Ấn là: Y Xá Na Thiên Phi Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㈂㍈ᚪᜪ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ UMĀ-DEVI SVĀHĀ 191
QUYẾN THUỘC CỦA Y XÁ NA THIÊN
_Hỷ Diện Thiên tên Phạn là Nandī-mukha
Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Hỷ Diện Thiên là quyến thuộc của Y Xá Na
Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải duỗi ra, hướng lòng bàn tay lên trên, tay trái
nắm quyền, duỗi thẳng ngón trỏ biểu thị cho sự vui thích.
Chữ chủng tử là: NA (ソ), hay RO ()
Tam Muội Gia Hình là: cái chén (hay cái cốc).
Tướng Ấn là Kim Cương Hợp Chưởng.
192
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
_ Thường Túy Thiên tên Phạn là Sadāmada
Tôn này là vị Thần Dạ Xoa trụ ở tầng thứ ba của núi Tu Di. Lại xưng là Thường
Túy Thần, Thường Phóng Dật Thiên, Hằng Túy Thiên, Hỷ Lạc Thiên.
Tôn này chủ về Đức vốn mê (Bản Mê) của Y Xá Na Thiên, tức vốn mê say rượu
vô minh ba độc, là cội nguồn của tất cả sinh tử phiền não, cho nên xưng là Thường
Túy. Tôn này là quyến thuộc của Y Xá Na Thiên
Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Thường Tý Thiên có thân màu thịt, ngồi trên
cái ống tròn, tay phải nắm quyền để trên đùi cạnh eo.
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) hay RO ()
Tam Muội Gia Hình là: cái chén.
Tướng Ấn là: Kim Cương Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ 193
_Khí Thủ Thiên Hậu tên Phạn là Karoṭapāṇinī, là Phi Hậu của Khí Thủ Thiên,
cùng với Khí Thủ Thiên đều cầm vật khí chứa rượu, đồng là quyến thuộc của Y Xá Na
Thiên
Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Khí Thủ Thiên Hậu có thân màu thịt, tay phải
cầm cái chén, tay trái duỗi năm ngón tay để cạnh eo.
Chữ chủng tử là: KA (ᗘ) hay RO ().
Tam Muội Gia Hình là: cái chén.
Tướng Ấn là: Kim Cương Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
_ Khí Thủ Thiên, tên Phạn là Karoṭapāṇi
Tôn này là quyến thuộc của Y Xá Na Thiên, tay cầm vật khí chứa rượu cho nên
xưng là Khí Tửu Thiên
Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Khí Thủ Thiên có thân màu thịt, tay phải cầm
cái chén, tay trái dựng chưởng, hướng lòng bàn tay ra ngoài.
194
Chữ chủng tử là: KA (ᗘ) hay RO ().
Tam Muội Gia Hình là: cái chén.
195
Tướng Ấn là: Kim Cương Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
_Cưu Ma Lợi, tên Phạn là Kaumārī. Lại xưng là Câu Ma Lợi Thiên, Câu Ma La
Thiên, Kiêu Ma Lợi Thiên. Là một trong các quyến thuộc của Đại Tự Tại Thiên, một
trong 7 Mẫu Nữ Thiên
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm cây thương, tay phải nắm quyền (hình bên
phải)
Chữ chủng tử là:KAU (ᗡ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kích Độc Cổ.
Tướng Ấn là: Cưu Ma Lợi Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᗡᜓ㖁㛿㐷
OṂ _ KAUMĀRĪ _ SVĀHĀ 196
_Giá Văn Trà, tên Phạn là Cāmuṇḍā, dịch âm là Tả Muộn Noa, Giả Môn Noa,
Già Muộn Noa... tức Tật Đố Nữ, Nộ Thần. Là quyến thuộc của Diễm Ma Thiên, người
đứng đầu trong 7 Mẫu Nữ Thiên.
Tôn hình: Thân người đầu heo, thân màu đen đỏ. Tay phải cầm đầu lâu và cái
bát. Tay trái nắm quyền để ở đầu gối (hình ở giữa)
Chữ chủng tử là: CA (ク)
Tam Muội Gia Hình là: Xương đầu lâu.
Tướng Ấn là: Giá Văn Trà Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᘕ㪧ⴥᜊ㖁 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ CĀMUṆḌĀYE _ SVĀHĀ
197
KỸ NGHỆ THIÊN NỮ
Kỹ Nghệ Thiên Nữ lại xưng là Kỹ Nghệ Thiên, là Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya)
Thiên nữ trên búi tóc của Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) có dung nhan đoan chính,
đeo rũ chuỗi Anh Lạc màu nhiệm, hai tay đeo vòng xuyến. Tay trái dâng Hoa Trời cho
Thiên Vương cùng nhìn dung mạo đáng yêu.Tay phải hướng xuống dưới thành thế
nắm quần
Tôn này có kỹ nghệ bậc nhất mà các Thiên Chúng không thể hơn được
_Ma Hề Thủ La Đại Tự Tại Thiên Vương Thần Thông Hóa Sinh Kỹ Nghệ
Thiên Nữ Niệm Tụng Pháp ghi chép là:
“Bấy giờ Ma Hề Thủ La Thiên Vương (Maheśvara-deva-rāja) ở trên Trời Đại
Tự Tại cùng với các Thiên Nữ vây quanh, thần thông du hý tấu các kỹ nhạc. Đột nhiên
ở trong búi tóc hóa ra một vị Thiên Nữ dung mạo đoan chính, kỹ nghệ bậc nhất mà tất
cả chư Thiên chẳng thể hơn được, ở trong Đại Chúng nói rằng: “Nay tôi vì muốn lợi
ích cho tất cả. Hết thảy nguyện cầu về việc sung túc, tốt lành, giàu vui…tùy tâm mong
cầu thảy đều đầy đủ, nơi các nghề nghiệp mau được thành tựu. Tôi có Pháp yếu của Đà
La Ni bí mật, nay sẽ nói”
Liền nói Đà La Ni là:
“Nẵng mô ốt chi ma mạo, thí khư địa vĩ, bát-la bát địa-dã, thí ca la giả, lỗ-
lâm. Đát nễ-dã tha: Thấp-phộc nhạ để lệ phệ la ma nhạ lý nễ hồng, phát tra, sa-
phộc hạ”
㗍ᜀ 㒂㜲デ㈦ ᜶ᗦᚪᡸ ᧡ᛈぎㆎ ᜵ᣱㆎ 㱭 ᚌᠼᚙ ᵘㅼᙓᗢ
ᛈ㈦ᘭᜒᚃ 㜪 㗑㪪 㛿
NAMO UCCHĪŚAMA_ ŚIKHI-DEVYA-PRĀPATTIYA ŚAKRĀYA_ ṬRŪṂ
TADYATHĀ: SVAJAṬĪKAṂ PARAMA- JĀRIṆĪ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Lúc đó Chúng Kỹ Nghệ Thiên Nữ nói Đà La Ni này xong, liền bảo các Thiên
Chúng: “Nếu có người muốn tụng trì Đà La Ni của Tôi. Trước tiên nên xây dựng Đạo
Trường, như Pháp nghiêm sức, đem mọi loại hương hoa để cúng dường. Ở 14 ngày
hoặc 7 ngày thọ trì Trai Giới, đoạm sự dâm dục, tụng Đà La Ni này mãn một vạn biến 198
hoặc mười vạn biến. Trong khoảng trung gian đừng uống rượu, ăn thịt với thứ huân uế,
chí tâm tụng trì ắt Thiên Nữ hiện ra trước mặt gia bị, tất cả nguyện cầu thảy đều mãn
túc. Từ đây về sau không có chướng ngại cho đến vợ con, huân uế cũng chẳng kiêng
bỏ. Nếu có thể Tịnh Trì thì mau chóng có hiệu nghiệm, sau này sẽ khiến thành tựu mọi
chỗ dùng.
[NAMO: Quy mệnh kính lễ
UCCHĪ-ŚAMA : Hàng có phương cách giúp cho trở nên xuất chúng
ŚIKHIDEVYA : Vị Trời sinh ra từ búi tóc trên đầu
PRĀPATTIYA: Nhóm nhiệt tình sùng mộ
ŚAKRYA: Hàng Trời Đế Thích
ṬRŪṂ: Chủng tử
TADYATHĀ: Liền nói Chú là
SVAJAṬĪKAṂ : Người thuộc đẳng cấp cao quý
PARAMAJĀRIṆĪ: Người đàn bà anh hùng
HŪṂ : khủng bố
PHAṬ : Phá bại
SVĀHĀ: Quyết định thành tựu]
Nếu người muốn cầu Phước Đức thì nên tu Pháp của Kỹ Nghệ Thiên Nữ. Xưa
nay người Nhật Bản theo công việc của Kỹ Nghệ, phần lớn đều cầu niệm vị Thiên Nữ
này
199
TỲ NA DẠ CA
Tỳ Na Dạ Ca tên Phạn là Vinayāka, tức Hoan Hỷ Thiên, tên gọi đầy đủ là Đại
Thánh Hoan Hỷ Tự Tại Thiên (Mahārya-nandikeśvara). Lại xưng là Hoan Hỷ Tự Tại
Thiên, Nan Đề Tự Tại Thiên (Nandikeśvara), gọi đơn giản là Thánh Thiên, Thánh
Tôn. Hoặc được xưng là Nga Na Bát Để (Gaṇa-pati), có ý nghĩa là người dạy dỗ, hoặc
dịch là Thường Tùy Ma. Là vị Thần Hộ Pháp của Phật Giáo, lại xưng là Tượng Đầu
Tài Thần (Tài Thần Đầu Voi).
Tôn này nguyên là tên xưng riêng của Thần Thấp Bà (Śiva) thuộc Ấn Độ Giáo.
Theo truyền thống của Bà La Môn Giáo thì Vinayāka hay Gaṇapati là vị Thần Kỳ
(Địa Thần) trong thần thoại Ấn Độ, xưng là Cam Ni Sa (Ganeśa), dịch âm là Thành
Ni Sa (dịch âm hoặc tác Thành Ni Sa). Tương truyền là con của Thần Thấp Bà (Śiva:
tức là Đại Tự Tại Thiên) và Phi Ô Ma (Umā, hay Pārvati), anh em của Ngài cùng nhau
cai quản Quyến Thuộc của cha ngài là Đại Tự Tại Thiên. Hình tượng ấy là đầu voi
bụng lớn, thiếu một cái Ngà, có bốn cánh tay, cỡi con Chuột.
200
Liên quan đến nguồn gốc Tôn Hình này là đầu Voi, tương truyền lúc Ganeśa sinh
ra thời Thần Śiva ra ngoài, hai cha con chẳng biết nhau. Một hôm khi Umā đi tắm thời
Thần Śiva từ bên ngoài trở về, Ganeśa lại giữ ở cửa, ngăn cản không cho Śiva bước
vào nên cxảy ra chuyện đánh nhau, trong lúc giận dữ Śiva chém rơi đầu của Ganeśa.
Khi cơn giận dữ nguôi đi thời Śiva mới biết Ganeśa chính là con của mình, liền đồng ý
đem cái đầu bị chém của một động vật nhìn thấy cho Ganeśa thế làm đầu, động vật ấy
là con Voi có cái đầu nhìn thấy ấy rất vừa vặn, do đó Ganeśa liền trở thành dạng khuôn
mẫu thân người đầu voi.
Còn như nguyên nhân Ganeśa thiếu mất một cái Ngà, tương truyền là có một lần
Thần Śiva ngủ ở núi Khai Lạp Sa thời Ba Lạp Tu Lạp Mã đến thăm Śiva lại gặp
Ganeśa cản trở. Thế là hai người liền phát sinh tranh chấp, do đó trong lúc tranh chấp
Ganeśa bị gãy một cái Ngà.
Sau này Ganeśa được thờ phụng là vị Thần diệt trừ chướng ngại, phủi sạch mọi sự
mê mờ hiển lộ Trí Tuệ. Thông thường ở một số quyển đầu của tác phẩm văn học Ấn
Độ, thường kèm có dâng văn kính lễ của Ganeśa và cầu Ngài trừ khử chướng hại.
.)Thần có có chữ chủng tử là GAḤ, GUṂ hay GAṂ
.)Thần Chú tán tụng Ganeśa là:
“Oṃ_ Ekadantaya vid mahe
Vakratundaya dhī mahi
Thanno danti prachodayatha”
“Oṃ_ śrī-kāla svarūpāya vid mahe
Kālāthīthāya dhī mahi
Thanno kāla-yoga śodasa gaṇapati prachodayath”
OṂ_ GUṂ GAṆAPATAYE NAMAḤ
Truyền thống Ấn Độ còn thờ phụng Ganeśa như là một vị Thần Tài hoặc Phước
Thần hay ban bố của cải vật chất với sự giàu sang cho chúng sinh. Do đó thờ phụng
riêng hình tượng của Ngài hoặc thờ chung với hai Nữ Thần Lakṣmi (Cát Tường
Thiên) và Śarasvati (Biện Tài Thiên)
201
.)Thần Chú căn bản của Ganeśa là:
Oṃ_ Gaṃ gaṇapataye namaḥ
Oṃ_ Śrīṃ Hrīṃ Klīṃ Glauṃ gaṇapataye vara varada sarva janamme
vaśamanaya svāhā
_Trong Phật Giáo thì Tỳ Na Dạ Ca (Vinayāka) được xưng là Nga Na Bát Đề
(Gaṇapati: Chúng Chủ), là Hoan Hỷ Thiên tức là con của Thấp Bà (Śiva) và Ba La
Hoà Để (Pārvati)
Nga Na Bát Để dịch ý là Quân Đội, ý tức là vị Tướng trong quyến thuộc của Tự
Tại Thiên. Do cùng với anh là Tắc Kiền Đà (Skanda) chung nhau cai quản quyến
thuộc của cha là Đại Tự Tại Thiên mà được tên gọi này.
Phật Giáo ghi nhận hai truyền thuyết mà Tỳ Na Dạ Ca được Đức Quán Thế Âm
Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) cảm hóa là: 202
1_ Tỳ Na Dạ Ca Thiên trước khi bị giáng phục, thường đi theo chúng sinh, rình
rập gây chướng ngại…. các vị Phạm Vương, Đại Long Vương đều không biết phải làm
thế nào, chỉ có Thập Nhất Diện Quán Âm và Quân Trà Lợi Minh Vương mới có
thể giáng phục được. Do vậy Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện tướng 11 đầu thuần hóa
kẻ tạo sự hủy diệt là Vinayāka. Ngài chặt cái đầu của hắn và lấy cái đầu của Ngài đặt
vào cái đầu của hắn, do đó mang tướng Vinayāka
2_Đức Quán Thế Âm Bồ Tát hiện tướng thân nữ quyến dụ Vinayāka để ngăn hắn
tạo nghiệp.
“A Sa Phộc Sao, Tỳ Na Dạ Ca Mật Truyện” ghi chép rằng:
Đất này có núi, tên núi là Tỳ Na Dạ Ca, có ý nghĩa là núi Đầu Voi, lại tên là núi
Chướng Ngại, bởi vì trong đó phần nhiều có Tỳ Na Dạ Ca ở. Thiên Vương của họ tên
là Hoan Hỷ (Nandi) cùng với vô lượng đại chúng Quyến Thuộc của Ngài đều nhận
được sắc mệnh của Đại Tự Tại Thiên, muốn đi về Thế Giới cướp đoạt khí của chúng
sinh, mà gây chướng ngại.
Bấy giờ, Quán Tự Tại Bồ Tát vì Tâm xông ướp Đại Bi cho nên dùng sức gốc rễ
Từ Bi (Từ Bi Căn), hóa hiện làm thân nữ Tỳ Na Dạ Ca, đi đến chỗ ở của Hoan Hỷ
Vương. Khi Đại Thánh Hoan Hỷ Thiên Vương nhìn thấy phụ nữ này thì Tâm dục nổi
dậy, muốn chạm đến Tỳ Na Dạ Ca Nữ ấy và ôm lấy thân thể nàng thời cô gái đó chẳng
chịu. Lúc vị vua ấy liền mở lời kính yêu thì cô gái ấy nói rằng: “Tuy Tôi thuộc giống
Chướng Nữ, nhưng từ xưa đến nay tôi hay thọ nhận sự dạy bảo của Đức Phật, được
quần áo Cà Sa, nếu quả thật ông muốn chạm đến thân tôi thì có thể thuận theo sự dạy
dỗ của tôi được không? Lại cũng giống như tôi, cho đến hết đời vị lai có thể vì (tôi)
làm vị Hộ Pháp được không? Lại theo tôi cùng hộ giúp cho tất cả Hành Nhân, đừng
gây chướng ngại được không? Y theo tôi về sau, đừng làm việc độc hại chúng sinh
nữa, nếu ông có thể nhận lời dạy bảo như vậy thì tôi với ông sẽ kết làm bạn thân”
Khi ấy, Tỳ Na Dạ Ca nói: “Tôi y theo Duyên, hôm nay may mắn gặp bạn, từ nay
về sau, nghe theo lời bạn nói, tu trì thủ hộ Phật Pháp”.
Thời Tỳ Na Dạ Ca Nữ vui mừng mỉm cười và ôm choàng lấy Ngài.
Đây là nhân duyên ôm nhau của Quán Tự Tại Bồ Tát biến đổi, độ hóa Đại Thánh
Hoan Hỷ Thiên”.
Nhưng về ý nghĩa rốt ráo thì cả hai Avalokiteśvara (chủng tử Hrīḥ) và Gaṇapati
(chủng tử Gaḥ) đều là sự thị hiện của Đại Nhật Như Lai (Vairocana-tathāgata) nhằm
biểu thị một biểu hiện của “sự thật tạm thời”
_Cả hai truyền thống Bà La Môn Giáo và Phật Giáo đều công nhận Nga Na Bát
Để có sự nghiệp gây chướng ngại cho kẻ khác, hoặc bài trừ sức của các thứ chướng 203
ngại cho nên lại xưng là Tỳ Na Dạ Ca (Vinayāka) với nghĩa là trừ chướng ngại, hoặc
bài trừ.
HÌNH TƯỢNG CỦA TỲ NA DẠ CA
Nghi Quỹ phẩm hình tượng của Đại Thánh Hoan Hỷ Song Thân Tỳ Na Dạ
Ca Thiên (ĐTK_No.1274) ghi nhận là:
“Hình tượng Song Thân Thiên Vương ấy là hai vị Trời vợ chồng cùng đứng ôm
nhau. Tượng ấy dài 7 tấc (7/3 dm) hoặc 5 tấc (5/3 dm), hai vị Trời đều có thân người
đầu voi, mặt vị Trời nam gục trên vai phải của vị Trời nữ rồi khiến hiện ở lưng của vị
Trời nữ, mặt của vị Trời nữ gục trên vai phải của vị Trời nam rồi khiến hiện ở lưng của
vị Trời nam… đều cùng hiện lộ bàn chân gót chân, chân tay mềm mại giống như người
nữ đoan chính mập mạp mạnh mẽ. Đầu của vị Trời nam không có vòng hoa, vai khoác
Cà Sa màu đỏ. Đầu của vị Trời nữ có vòng hoa nhưng chẳng khoác Cà Sa, tay chân có
vòng Anh Lạc, cũng dùng hai bàn chân đạp lên đầu ngón chân của vị Trời nam
Hai vị Trời này đều có màu thịt trắng, mặc quần màu đỏ, đều đưa hai bàn tay trợ
nhau ôm trên eo lưng, tay phải che lưng tay trái. Hai vị Trời đưa đầu ngón giữa phải
đến trên lưng lóng giữa của ngón giữa trái. Tượng ôm nhau này biểu thị cho sự yêu
thích của sáu chỗ.
Sự yêu thích của sáu chỗ là:
1_ Dùng cái mũi (cái vòi) đều tiếp chạm cái lưng yêu thích
2_ Ức ngực hợp sự yêu thích
3_ Dùng tay ôm cái eo yêu thích
4_ Dùng cái bụng hợp sự yêu thích
5_ Dùng hai bàn chân theo đuổi sự yêu thích
6_ Mặc quần màu đỏ là vị Trời biểu thị cho sự kính yêu.
Có Hành Giả tạo cúng tượng Lục Ái Kính. Người này ắt được quốc vương, đại
thần, hậu, phi, cung nữ cùng với tất cả các người kính yêu. Phát Tâm tin tưởng dũng
mãnh, đừng sinh một niệm nghi ngờ ngưng trệ, thường thường chứng nghiệm rất nhiều
_ Nếu người muốn tu Pháp Điều Hòa trừ chướng nạn thì nên tạo cúng tượng Lục
Tý Thiên. Hình ấy có thân người đầu voi, đầy đủ sáu cánh tay. 204
Sáu cánh tay là: Bên trái: tay bên trên cầm cây đao, tay tiếp theo cầm cái chậu
đựng đầy quả phẩm, tay bên dưới cầm bành xe. Bên phải: tay bên trên cầm cây gậy, tay
tiếp theo cầm Bả Chiết La (Vajra:chày Kim Cương), tay bên dưới cầm sợi dây
_ Lại Tượng có bốn cánh tay. Tượng ấy có thân người đầu voi, đầy đủ bốn cánh
tay là: Bên phải: tay thứ nhất cầm cây búa, tay thứ hai cầm cái chậu chứa đầy Hoan Hỷ
Đoàn. Bên trái: tay thứ nhất cầm cái nanh (hoặc cầm cái chày), tay thứ hai cầm cây gậy
báu.
_ Lại y theo Kinh Bất Không Phẫn Nộ Vương Quán Tự Tại Bồ Tát minh họa
tướng của Tứ Tý Thiên. Đây là Tỳ Na Dạ Ca Kim Cương (Vināyaka-vajra), hình ấy
có thân người đầu voi, đầy đủ bốn cánh tay. Bên trái: tay thứ nhất cầm chày Kim
Cương, tay tiếp theo cầm cây búa. Bên phải: tay thứ nhất cầm sợi dây, tay thứ hai cầm
Tam Xoa Kích.
Nghi Quỹ Phẩm Hình Tượng này hay bí mật lựa chọn người có căn khí để trao
truyền. Vị Đại Thánh Thiên Vương này là Thân biến hóa tự tại của Đại Tự Tại Thiên
(Maheśvara)
Bí Pháp nói rằng: “Do sáu Thông tự tại cho nên gọi là Thánh Thiên, do Trí Tuệ
tự tại cho nên gọi là Tự Tại Thiên, do thành tựu kính yêu cho nên gọi là Song Thân Tỳ
Na Dạ Ca Vương, do thành tựu năm loại lúa đậu cho nên gọi là Lục Tý Thiên” 205
Lại như Kinh đã nói: “Ma Hê Thủ La có Trí tự tại, khi Đại Hải Long Vương tuôn
mưa thời đều hay phân biệt chính xác số lượng ấy, ở trong một Niệm đều biết rõ ràng”.
Y theo vị Thánh này nói, do Trí Tuệ tự tại cho nên dùng tên gọi là Đại Tự Tại
Thiên.
_ Tiếp lại minh họa hình tượng Lục Tý Tỳ Na Dạ Ca ở bốn phương
Đông Phương Tồi Toái Thiên cũng gọi là Vô Đài Đại Tướng. Hình ấy như
người Trời, trên mão Trời có để đầu con voi, tay trái cầm dù lọng, tay phải cầm cây
kiếm
Nam Phương Ẩm Thực Thiên cũng gọi là Nghiêm Kế Đại Tướng. Hình ấy như
người Trời, trên mão Trời có để đầu con voi, tay trái cầm sợi dây, tay phải cầm vòng
hoa.
Tây Phương Y Phục Thiên cũng gọi là Đỉnh Hành Đại Tướng. Hình ấy như
người Trời, trên mão Trời có để đầu con rồng, tay trái cầm cây cung, tay phải cầm mũi
tên.
Bắc Phương Tượng Đầu Thiên cũng gọi là Kim Sắc Già Na Bát Để. Hình ấy
có thân người đầu voi, tay trái viên ngọc Lưu Ly trắng, tay phải cầm cây gậy báu.
Hoặc có đầy đủ sáu cánh tay như lúc trước đã minh họa.
_ Lại có tượng sáu mặt sáu cánh tay như Kinh đã nói
Bí mật của Pháp này (Mãn Hiền có tay phải cầm cây gậy báu, Ái Tử có tay trái
cầm chày Tam Cổ)”
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Tỳ Na Dạ Ca có thân màu thịt trắng, mình
người đầu voi, tay phải cầm cây kích có móc câu (câu kích) để trên vai. Tay trái cầm rễ
củ cải. 206
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Rễ củ cải
Tướng Ấn là: Tỳ Na Dạ Ca Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛸᗰ ㆼスᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MAHĀ-GAṆA-PATAYE_SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Tỳ Na Dạ Ca
(Vinayāka) là một trong 20 Thiên hộ thế, trong 5 loại Thiên là Thủy Cư Thiên, thủ hộ
phương Bắc
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Tỳ Na Dạ Ca có thân màu thịt trắng, thân
người đầu voi, tay trái cầm rễ cây củ cải (La Bốc Căn), tay phải ngửa lòng bàn tay
nâng viên Hoan Hỷ, ngồi trên lá sen
207
Mật Hiệu là: Kim Cương Tần Na Dạ Ca
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ) hay GAḤ (ᗻ)
Tam Muội Gia Hình là: Rễ củ cải
Tướng Ấn là: Tỳ Na Dạ Ca Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Tỳ Na Dạ Ca có chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Rễ cây củ cải (La Bốc Căn)
Tướng Ấn là: Tỳ Na Dạ Ca Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ
208
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Tỳ Na Dạ Ca có chữ chủng tử là: KA (㒕)
Tôn Hình: Tay phải cầm rễ củ cải, tay trái cầm viên Hoan Hỷ.
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿 㒕
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ_ KA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Tỳ Na Dạ Ca có chữ chủng tử là: KA (㒕)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Tỳ Na Dạ Ca Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ
209
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Tỳ Na Dạ Ca có
chữ chủng tử là: RA ()
Tôn Hình: Tay phải cầm rễ củ cải, tay trái nắm quyền để ngang eo.
Tam Muội Gia Hình là:Viên Hoan Hỷ.
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ_ RA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Tỳ Na
Dạ Ca có chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là:Viên Hoan Hỷ.
Chân Ngôn là:
㫘 㜫 ᗻ 㜪 㛿 ᜪ
OṂ _ HRĪḤ GAḤ HŪṂ SVĀHĀ_ VI
210
TỲ NA DẠ CA PHÁP
.)Kinh Phật nói Kim Sắc Ca Na Bát Để Đà La Ni (ĐTK_No.1269) ghi chép là:
“Như vậy tôi nghe. Một thời Đức Phật ngự tại Đại Hội trong vườn Trúc Lâm ở
Già Lan Đà thuộc nước Xá Vệ nói Pháp. Đức Phật vì thương xót tất cả chúng sinh mà
nói Đà La Ni này phó chúc cho Kim Sắc Ca Na Bát Để (Suvarṇa-rūpa-gaṇapati)
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Chân Ngôn là :
“Nẵng mô suất đổ để (1) Ca tra, ca tra (2) Để Tra, ma tra (3) Khởi-lị vĩ noa
(4) Khởi-lị vĩ noa (5) Bạn nhạ, bạn nhạ (6) Nẵng mô suất đổ để (7) Hộ lỗ nại la (8)
Bả nhạ ni duệ (9) Sa-phộc ha (10) A đô đa (11) Lãng noa khất-sám chất đa (12)
Yết la sa ma nga tha để (13) ma ha dã (14) Ma ha tất-để (15) Nhược khất-xoa
nẵng (16) Bát la cú bả dã nhĩ (17) Cự lỗ, cự lỗ (18) Tổ lỗ, tổ lỗ (19) Mô lỗ, mô lỗ
(20) Nẵng mô, nẵng mô (21) Sa-phộc ha (22)”
ソᜀ⽈ᚒ ㅵㅿㅵㅿ ᛸㅿᛸㅿ 㬊㪶㬊㪶 ᛒㅼᛒㅼ
ソᜀ⽈ᚒ ᝠ᜔ᚤ㇂ ㆼㅼᚂᜊ 㛿
ㅥᜈス ⵔᝮ ᘖが ナᜑ ナᝌ ᛸᗰᘔᚎ ᛸナ㗚 ᛸ⽆ 㯲ᝦソ 㛺ᗜㆼ㗚
ᜫ ᗜ᜔ᗜ᜔ 㮲᜔㮲᜔ 㪧᜔㪧᜔ ソᜀ ソᜃ 㛿
NAMO STUTE _ KAṬA KAṬA _ MAṬA MAṬA _ GṚHṆA GṚHṆA _
PAṂJA PAṂJA
NAMO STUTE _ HORUDARA _ PAJAṆIYE _ SVĀHĀ
AYUTA _ MINDAKṢAṂ CITTA _ HARĀ HASA MAGACATI _ MAHĀ-
HAYA _ MAHĀ-STI _ DUḤKṢINA _ PRAKUPAYA VĪ _ KURU KURU _ CURU
CURU _ MURU MURU _ NAMO NAMAḤ _ SVĀHĀ
[Bản Phạn: ārya-mahāgaṇapati-hṛdayaṃ-sūtra ghi nhận câu Chú này là:
oṃ namo 'stu te mahā-gaṇapataye svāhā /
oṃ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ /
oṃ namo gaṇapataye svāhā /
oṃ gaṇādhipataye svāhā /
oṃ gaṇeśvarāya svāhā /
oṃ gaṇapati-pūjitāya svāhā /
oṃ_ kaṭa kaṭa, maṭa maṭa, dara dara, vidara vidara, hana hana, gṛhṇa
gṛhṇa, dhāva dhāva, bhañja bhañja, jambha jambha, tambha tambha, stambha
stambha, moha moha, deha deha, dadāpaya dadāpaya, dhanasiddhi me
prayaccha /
oṃ rudrāvatārāya svāhā /
oṃ adbhuta-vindukṣubhita-citta mahā-hāsam āgacchati /
mahābhaya mahābala parākramāya mahāhasti-dakṣiṇāya dadāpaya svāhā /
oṃ namo 'stu te mahā-gaṇapataye svāhā /
oṃ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ gaḥ /
oṃ namo gaṇapataye svāhā /
oṃ gaṇeśvarāya svāhā /
oṃ gaṇādhipataye svāhā /
oṃ gaṇapatipūjitāya svāha /
oṃ suru suru svāhā / oṃ turu turu svāhā / oṃ muru muru svāhā //
Đức Phật bảo: “Này Xá Lợi Phất! Đây là Kim Sắc Ca Na Bát Để trừ Chướng
Nạn Chân Ngôn. Nếu có chúng sinh thọ trì Chân Ngôn thì các Pháp đã làm không có
gì không thành đại nguyện, cứ nghiệm sẽ biết. 211
Nếu quyết định có chướng nạn liền vào ngày 2, ngày 8, ngày 15 của kỳ Bạch
Nguyệt hoặc Hắc Nguyệt lấy phân bò xoa tô Đàn, dâng mọi thứ cúng dường thì điều đã
làm được thành tựu”
Kim Sắc Ca Na Bát Để bạch Phật rằng: “Con sẽ ủng hộ cho người trì Chân Ngôn.
Nếu có chúng sinh trì Chân Ngôn này thì tiền của, vật dụng, vàng bạc, châu báu, nô tỳ,
tùy tùng… con đều cung cấp đầy đủ chẳng để cho thiếu thốn, ngoài ra còn khiến cho
tất cả Pháp Chân Ngôn mau chóng thành tựu như ý”
.)Sử Chú Pháp Kinh (ĐTK_No.1267) ghi chép là:
Một thời Tỳ Na Dạ Ca ở núi Kê La tập các đại chúng, Phạm Thiên,Tự Tại
Thiên,Thích Đề Hoàn Nhân với vô lượng ức số nhóm Quỷ,Thần...Từ chỗ ngồi đứng
dậy cúi đầu làm lễ Đại Tự Tại Thiên rồi thỉnh rằng:” Nay tôi muốn nói chú NHẤT TỰ
để nhiêu ích cho chúng sinh.Nguyện xin ấn khả và nghe điều tôi nói “.
Chư Thiên nói: “Lành thay ! Như điều ông nói”.
Tỳ Na Dạ Ca được nói nên vui mừng hớn hở, liền nói TỲ NA DẠ CA NHẤT TỰ
CHÚ là:
㛸 ᗻ ᗰ 㜫 㛸 ゖ ᛔ㪪
Án ngược già hiệt lị án ha hồng phán tra.
*) OṂ_ GAḤ GA HRĪḤ OṂ HA HŪṂ PHAṬ
Nếu muốn tác Pháp này. Trước tiên nên làm Tượng hoặc dùng Bạch Lạp với
vàng, bạc, đồng, cây hoa đều khắc làm hình tượng, đó là tướng ôm nhau hoà hợp của 2
thân vợ chồng và làm Tượng thân người đầu voi. Làm tượng đó ngay thẳng chẳng
được trả giá.
Làm tượng xong, vào ngày mồng một của tháng Bạch Nguyệt ở trong tĩnh thất
dùng phân bò xoa tô làm cái Đàn tròn, lớn nhỏ tùy ý. Nên lấy một thăng dầu mè, dùng
Chú trên chú vào dầu sạch ấy. Sau đó lấy Tượng thả vào trong cái bát dầu rồi an trí
trong Đàn. Dùng cái khóa bằng đồng sạch, như cái thìa đồng để khuấy dầu và rưới lên
đầu của thân hai đầu voi 108 lần. Sau đó ngày ngày khiến chú vào dầu cũ 108 biến,
trong một ngày rưới 7 lần. Bình thường buổi sáng 4 lần, giờ ngọ (11g_13g) 3 lần, cộng
thành 7 lần. Như vậy tác pháp cho đến 7 ngày thì tùy theo tâm mong cầu, nguyện thành
liền được vừa ý.
Lúc chính thức rưới dầu thì mỗi mỗi phát nguyện, dùng Tô Mật hòa với bột gạo
làm bánh tròn trịa; gốc cỏ La Bặc và chén nhỏ rót rượu, nước tương. Ngày như vậy
thành HIẾN THỰC (Dâng thức ăn) ắt nên tự ăn thì mới đuợc khí lực”.
212
MA HA CA LA
Ma Ha Ca La, tên Phạn là Mahā-kāla, dịch âm là Ma Ha Ca La, Ma Hạp Khát
Lạp, dịch ý là Đại Hắc, Đại Thời. Lại xưng là Đại Hắc Thần, Đại Hắc Thiên Thần,
hoặc Ma Ha Ca La Thiên... có đủ tính cách của Thần chiến đấu, Thần Phước Đức và
Thần Âm Phủ.
_ Trong Ấn Độ Giáo thì Mahā-kāla là tên gọi riêng của Thần Thấp Bà (Śiva);
hoặc là hóa thân (hoặc Thị Giả) của Đột Ca (Durga), vợ của Thấp Bà, chủ về sự phá
hoại, chiến đấu.
_Truyền thống Phật Giáo thì coi là Mahā-kāla hóa thân của Đại Tự Tại Thiên
(Maheśvara), hoặc là hóa thân của Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana-buddha)…. Các
thuyết đều nói khác nhau, trong đó có khi dùng Đại Hắc Thiên làm Phước Thần để
cung phụng, ước chừng có mấy loại cách nói như sau:
.)Đại Nhật Kinh Sớ nói là Phẫn Nộ Thần giáng phục Trà Cát Ni (Ḍākiṇī).
.) Có thuyết nói Thiên Thần này là hóa thân của Ma Hê Thủ La (Maheśvara: Đại
Tự Tại Thiên), cũng tức là Tủng Gian Thần, Chiến Đấu Thần. Trong đây cho rằng
Đại Hắc Thiên Thần là do sự hóa hiện của Ma Hê Thủ La cùng với vô lượng Quyến
Thuộc các Quỷ Thần thường du hành lúc nửa đêm trong rừng, ăn thịt uống máu người
sống, đủ đại lực, nên rất dũng mãnh trong các pháp chiến đấu đều hay được thắng lợi,
cho nên Đại Hắc Thiên Thần tức là Chiến Đấu Thần.
.)Căn cứ vào sự ghi chép của Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập, Phẩm Phân Bố
Diêm Phù Đề thì Đại Hắc Thiên Nữ cùng với Thiện Phát Càn Thát Bà…. đều hộ trì
dưỡng nuôi nước Ba La Nại.
.)Đại Hắc Thiên lại xưng là Mã Cáp Ca Lạp (Mahā-kāla), là vị Chủ Tôn Hộ
Pháp trọng yếu của Mật Giáo Tây Tạng.
.)Ở Nhật Bản lại dùng Đại Hắc Thiên là một trong 7 vị Phước Thần, cho rằng
Đại Hắc Thiên chính là Phước Thần ban cho thế gian sự Phú Quý, Quan Vị, trong
dân gian nhận được sự sùng bái tín ngưỡng rất lớn.
Trong Đông Mật tương truyền Tôn này là Đại Nhật Như Lai vì giáng phục Ma
ác mà thị hiện Thiên Thần có hình Dược Xoa phẫn nộ.
.)Trong Tạng Mật thì tương truyền Ngài là Đại Hộ Pháp do sự hóa hiện của
Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôn này đồng với Bản Tôn của pháp tu ở 2 hệ Mật Giáo tại Tây Tạng, Trung
Quốc và Nhật Bản đều coi trọng như nhau.
Bởi vì Tôn này thống lãnh vô lượng Quyến Thuộc Quỷ Thần, mà sở trường là
thuật dùng thuốc (Dược Thuật) ẩn hình bay đi. Do đó có thể lúc chiến đấu, chúng sinh
nên hướng về Ngài khấn cầu sự gia trì. Lại hay khiến thức ăn uống thường đầy đủ, vì
thế chùa chiền ở Ấn Độ và trong dân gian ở Tỉnh Giang Nam của Trung Quốc, thường
có người cúng bái ở nhà bếp.
Đồng thời vị Thần cũng là một trong những Địa Thần (Thần Kỳ) thường được
Phật Giáo Đồ cúng bái ở nghĩa địa. Lại tương truyền vị thần này cùng với Quyến
Thuộc của Ngài, Thất Mẫu Thiên Nữ hay ban cho kẻ nghèo túng được Phước Đức
lớn. Do đó Đại Hắc Thiên có cả bốn tính cách là Chiến Đấu Thần, Trù Phòng Thần
(vị Thần ở nhà bếp), Tủng Gian Thần (vị Thần ở nghĩa địa, nơi có mồ mả, nơi chứa
xác người chết) và Phước Đức Thần đều nhận được sự tín ngưỡng ngang nhau .
213
HÌNH TƯỢNG CỦA ĐẠI HẮC THIÊN
_Tuệ Lâm Âm Nghĩa, quyển 10 ghi nhận là: Tượng có 8 cánh tay, thân màu
mây đen xanh, 2 tay để ngang ngực cầm Tam Kích Xoa, tay thứ 2 bên phải cầm con
Dê đực xanh, tay thứ 2 bên trái nắm búi tóc của 1 con Quỷ đói, tay thứ 3 bên phải cầm
cây Kiếm, tay thứ 3 bên trái cầm Khiết Tra Võng Ca (Khatvāṅga), tức là Độc Lâu
Chung, là tiêu chí của sự phá hoại tai họa, 2 tay ở sau mỗi tay ở trên vai cùng giương
một tấm da voi trắng tư thế như khoác áo, dùng Rắn độc xuyên qua đầu lâu làm Anh
Lạc, ló nanh cọp lên trên, tác hình Đại Phẫn Nộ, dưới chân có Địa Thần Nữ Thiên đưa
2 tay nâng đỡ bàn chân.
Ngoài ra y theo “ Đại Hắc Thiên Thần Pháp “ ghi chép, là màu xanh có 3 mặt 6
cánh tay, tay bên phải bên trái của mặt ở phía trước cầm cây Kiếm để ngang, lần lượt
tay trái nắm lấy búi tóc của người, tiếp theo tay phải cầm con Dê cái, 2 tay sau cùng ở
sau lưng giương tấm da Voi, dùng đầu lâu làm anh lạc. Tôn hình trong Thai Tạng
Giới Hiện Đồ Mạn Trà La được ghi chép tương đồng, chỉ trừ con Dê và đầu người ở
bên trái bên phải thì ngược nhau.
.)Kinh Tối Thắng Tâm Minh Vương nói là Đại Hắc Thiên khoác tấm da Voi,
cầm một cây Thương nằm ngang với một đầu xuyên qua đầu người, một đầu xuyên
qua con Dê.
.)Các Phái của Mật Giáo Tây Tạng lưu truyền hình tượng đều khác nhau, tác dụng
tính chất cũng khác nhau. Bởi vì truyền thừa của các Phái khác nhau, cho nên đối với
hình tượng và tính đặc biệt của Đại Hắc Thiên cũng có các cách nói khác nhau như: 214
Nhị Tý Đại Hắc Thiên, chủ yếu hộ trì Hỷ Kim Cương Hành Giả.
Tứ Tý Đại Hắc Thiên, chủ yếu hộ trì Đại Thủ Ấn Hành Giả.
215
Lục Tý Đại Hắc Thiên, là vị Hộ Pháp chủ yếu của phái Cách Lỗ và Hương Ba
Cát Cử.
Bạch Sắc Lục Tý Đại Hắc Thiên, là vị Hộ Pháp chủ yếu của phái Cát Cử và Tát
Ca. Trong đó Bạch Mã Cáp Ca Lạp là tên nổi tiếng của Bản Tôn Tài Bảo.
Ngoài ra có khi dùng vị Trời này làm Tài Phước Thần, chủ quản việc ăn uống.
216
.)Trong Nam Hải Ký Quy Truyện thì nói là hình Thần Vương, cầm túi vàng,
ngồi trên cái giường nhỏ mà thòng một chân xuống.
Ngoài ra một loại là tạo hình Phước Thần có hình mạo người bình thường, đầu
đội mũ tròn, lưng vác túi, cầm cái chùy nhỏ, đạp lên túi gạo. Ở Pháp Tu thì hình phẫn
nộ phần nhiều dùng ở Giáng Ma, Điều Phục Pháp; chủ về cầu Phước Đức thì nên cúng
bái Phước Thần.
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Đông
Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Ma Ha Ca La có thân màu đen, hiện tướng
phẫn nộ, 3 mặt 6 cánh tay. Mặt chính giữa có 3 con mắt, hai mặt trái phải đều có 2 con
mắt. Hai tay thứ nhất cầm cây kiếm đặt nằm ngang, chuôi kiếm là hình Tam Cổ. Hai
tay kế tiếp: tay phải nắm đầu tóc con người, tay trái cầm sừng con dê. Hai tay kế tiếp
cầm tấm da voi giăng trương sau vai. Tóc lửa dựng đứng, dùng đầu lâu làm chuỗi Anh
Lạc, rắn làm vòng đeo cánh tay, ngồi trên toà tròn
217
Chữ chủng tử là: MA (ᛸ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái túi
Tướng Ấn là:Đại Hắc Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᛸᗙ㇁㖁㛿
OṂ _ MAHĀ-KĀLĀYA_ SVĀHĀ
ĐẠI HẮC THIÊN THẦN PHÁP
[Phạn Hán văn: Chùa Gia Tường_ THẦN KHẢI ghi chép
Sưu tập Thủ Ấn, đồ hình và Phạn Việt dịch: HUYỀN THANH]
_ Đại Hắc Thiên Thần (Mahā-kāla-devatā) là thân biến hóa của Đại Tự Tại
Thiên (Maheśvara-deva) đều được an trí ở các chốn Già Lam (Saṃghārāma) trong
năm nước Thiên Trúc với triều Ngô.
Có người nói rằng: Đại Hắc Thiên Thần là Hóa Thân của Kiên Lao Địa Thiên
(Dṛḍha-pṛthivī) được an ở chốn Già Lam, mỗi ngày thổi cơm dâng phần, cúng dường
vị Trời này
Trong Thệ Mộng Trung Ngữ Từ nói rằng: “Nếu an trí Ta (Đại Hắc Thiên Thần)
ở chốn Già Lam, ngày ngày kính cúng thì trong ngôi chùa của Ta khiến trụ Chúng
(Saṃgha) có nhiều vị Tăng (Bhikṣu), mỗi ngày đều nuôi dưỡng Chúng cả ngàn người,
cho đến nhà của con người cũng như thế vậy.
Nếu người ba năm chuyên Tâm cúng Ta thì Ta sẽ đến chốn này, trao cho người
cúng sự phú quý của Thế Gian cho đến quan vị , tước lộc …thảy đều ban cho.
Thể của Ta làm năm thước (5/3m), hoặc ba thước (1m), hoặc hai thước năm tấc
(25/3dm) cũng được thông miễn. Phàm màu sắc đều làm màu đen, mão đội đầu đều
màu đen; khiến mặc quần đùi chẳng rũ xuống, khiến mặc quần áo đi săn bắn, ống tay
áo nhỏ mịn. Tay phải nắm quyền rút về eo bên phải, tay trái cầm cái túi lớn từ trên
lưng khiến treo trên vai. Cái túi ấy có màu lông chuột rũ xuống dưới, bên trên thắt
lưng.
Như vậy làm xong, ở nhà ăn của Đại Chúng, lễ cúng thì nhà cửa, phòng xá đều tự
nhiên thịnh vượng tụ tập phun vọt ra.
Lại nếu người thường trì niệm Chú của Ta, bốn mùa bày biện đủ món ăn ngon,
rượu, canh, cơm, thức ăn cho đến một trăm mùi vị…vào lúc canh năm thời chẳng cần
biết Chúng có nhiều người cúng Ta, đều quyết định ban cho sự giàu có.
Chú ấy là:
“Án, mật chỉ, mật chỉ xá bà lệ, đa la yết đế, sa-bà ha” 218
*) Oṃ_ micchi micchiśvare tāragate _ svāhā
Ấn: Hai tay tác Nội Phộc, duỗi hai Địa (2 ngón út) hai Thủy (2 ngón vô danh)
đưa qua lại
Cúng Dường Ấn: dùng Pháp thường đồ (đường lối thông thường)
Người lễ cúng cần phải đối với vị Thần này: tưởng thành cha mẹ, đối với Tam
Bảo thành vị bảo vệ bên ngoài, đối với mọi người thành cha mẹ vậy.
Ngoài ra, từ lâu đã nghe biết phong tục của Thiên Trúc kèm với phong tục trong
triều đại của Ta, các chùa đều an trí vị Trời này rất nhiều. Nhân vì chặt đứt sự nghi ngờ
của người đời sau, nên dùng Dã Khách Mộng Sự dẫn tìm, đưa tặng cho yên lòng vậy.
_ Đại Hắc Thiên Thần Pháp.
Thầy nói rằng: “Điều này rất bí mật, chẳng thể truyền thụ cho Đệ Tử chưa nhập
thất, ngàn vàng đừng truyền, nỗ lực khen ngợi (Thiên Tán: bài tán chư Thiên)
Chủng tử là ᛸ(MA)
_ Đại Hắc Thiên Thần.
.)Di Giới Tạng Phạm Hiệu nói là Ma Ha Ca La Thiên (Mahā-kāla), cũng nói
là Đại Hắc Thiên Thần, dùng Phổ Ấn, Tam Ma Gia Hình là cây kiếm, màu xanh có
ba mặt sáu cánh tay. Hai tay trái phải phía trước để nằm ngang cầm cây kiếm, tay trái
tiếp theo cầm đầu người (nắm búi tóc), tay phải tiếp theo cầm con dê cái, hai tay trái
phải tiếp theo giương tấm da voi ở phía sau lưng, dùng đầu lâu làm chuỗi Anh Lạc.
Bản xưa nói là: “ màu đen lợt vậy”
.)Nhân Vương Kinh Lương Bí Sớ ghi rằng: “Nói “Trủng gian” (gò mả) là nơi
cư trú. Nói “Ma Ha” phiên dịch là to lớn. Nói “Ca La” là Hắc Thiên. Câu trên là Phạn
Ngữ, câu bên dưới là ngôn ngữ thuộc đời Đường
Đại Hắc Thiên Thần là Đấu Chiến Thần. Nếu lễ vị Thần ấy thì tăng uy đức,
làm việc đều thắng, cho nên hướng về vị Thần ấy cúng bái. Vì sao lại biết? Tam Tạng
trích dẫn sách Phạn, nói rằng:
.)Kinh Khổng Tước Vương nói: “Ở phía Đông của Quốc Thành tại nước Ô Thi
Ni, có một khu rừng tên là Sa Ma Xa Na (Śmaśāna), đây nói là Thi Lâm (khu rừng
chứa xác người chết). Khu rừng ấy dài rộng đủ một do tuần, có vị Đại Hắc Thiên
Thần (Mahā-kāla) là Thân biến hóa của Ma Hề Thủ La (Maheśvara:Đại Tự Tại
Thiên) cùng với các Quỷ Thần, vô lượng quyến thuộc…ban đêm thường du hành trong
rừng, có Đại Thần Lực, có nhiều loại châu báu, có thuốc ẩn hình, có thuốc sống lâu, du
hành bay trên hư không, đem các thuốc Huyễn Thuật cùng mua bán với con người, chỉ
nhận lấy máu thịt của con người, trước tiên quy ước cân lượng rồi mua bán nhóm
thuốc. Nếu người muốn đi đến thì dùng Đà La Ni gia trì thân mình xong rồi mới đi đến
mua bán. Nếu chẳng gia trì thì các Quỷ Thần kia liền tự ẩn hình, trộm lấy máu thịt của
người, khiến giảm cân lượng. Tức lấy máu thịt trên thân người ấy, tùy lấy tùy hết,
chẳng đủ số theo quy ước lúc trước, cho đến lấy hết máu thịt của một người mà cân
lượng chẳng đủ số, nên chẳng thể đổi được thuốc. 219
Nếu người gia trì mua được Bảo Bối với các thứ thuốc thì tùy theo Ý muốn làm,
đều được thành tựu. Nếu hướng đến sự cúng tế thì chỉ cần máu thịt của con người,
khiến cho vị Thần ấy có Đại Lực, liền gia hộ cho người đã làm Pháp dũng mãnh đấu
chiến, đều được thắng. Cho nên Đại Hắc Thiên Thần tức là Đấu Chiến Thần.
Vị Trời này tức là quyến thuộc của bảy Mẫu Thiên (v.v….) có bảy chị em
1_ Tả Bí Noa (Cāmūṇḍā)
2_ Kiều Phệ Lý (Kauverī)
3_ Phệ Sắt Noa Vi (Viṣṇavī)
4_ Kiều Ma Lý (Kaumarī)
5_ Ấn Trà Lý (Indrī)
6_ Lao Trà Lý (Raudrī)
7_ Mạt La Hứ Nhĩ (Brāhmī)
Bảy tên gọi đó đều là Chân Ngôn vậy
_ Đại Nhật Kinh Sớ nói rằng:
“Trà Cát Ni Chân Ngôn. Đây là Thế Gian có tạo ra Pháp Thuật này, cũng là
Chú Thuật tự tại hay biết được con người sắp hết mạng, tức biết trước sáu tháng. Biết
xong, liền làm Pháp lấy trái tim của người ấy để ăn. Sở dĩ như thế, vì trong thân người
có Hoàng (?khí vui ?phân màu vàng ?kim loại vàng), ấy là Hoàng của con người
giống như con bò có Hoàng vậy.
Nếu người được ăn thì hay được sự thành tựu rất lớn, một ngày dạo vòng bốn khu
vực, tùy theo Ý đã làm đều được. Cũng hay được mọi thứ trừng trị con người.
Kẻ có hiềm thù dùng Thuật trừng trị khiến cho bị bệnh khổ, nhưng Pháp ấy
chẳng được giết người, chủ yếu là y theo Phương Thuật mà tự mình tính toán. Người
sắp chết thì cách sáu tháng liền biết, biết xong dùng Thuật lấy trái tim của người ấy,
tuy lấy trái tim ấy nhưng có Pháp Thuật, chủ yếu dùng vật khác thay thế thì người này,
mạng cũng chẳng kết thúc, đến khi hợp với giờ chết thời mới tan hoại.
Đại Đô là Dạ Xoa Đại Tự Tại, nơi người đời đã nói là Đại Cực, thuộc Ma Ha Ca
La, ấy là Đại Hắc Thần vậy. Đức Tỳ Lô Giá Na (Vairocana) dùng Pháp Môn Giáng
Phục Tam Thế muốn khuất phục loài kia (Ḍākiṇī), cho nên hóa làm Đại Hắc Thần
hơn hẳn loài kia (Ḍākiṇī) vô lượng thị hiện, dùng tro xoa bôi Thân ở ngay trong vùng
hoang vắng, dùng Thuật đều triệu tất cả Thành Tựu, bay trên hư không, đi trong nước
đều không có ngăn ngại, la mắng các Trà Cát Ni (Ḍākiṇī): “Do ngươi thường ăn nuốt
con người, cho nên nay Ta cũng sẽ ăn nuốt ngươi”. Liền ăn nuốt Trà Cát Ni, nhưng
chẳng khiến cho bị chết, lại thả ra đều khiến cho loài kia không được ăn thịt (đoạn
nhục)
Loài kia bạch Phật rằng: “Con phải ăn thịt thì mới sống được. Nay lại như thế thì
làm sao cứu giúp được mình?!”
Đức Phật nói: “Nghe nói ngươi ăn trái tim của người chết”
Loài ấy nói: “Khi con người sắp chết thì các hàng Trời, Dạ Xoa đều biết mạng
của kẻ kia đã hết, nên tranh nhau đến muốn ăn thời con làm thế nào để được?!”
Đức Phật nói: “Vì ngươi, nói Pháp Chân Ngôn với Ấn. Sáu tháng chưa chết thì
liền hay biết. Biết xong, dùng Pháp gia hộ đừng khiến cho người khác sợ hãi bị tổn
hoại, đến khi hết mạng thời nghe ngươi lấy ăn, như vậy khéo dẫn dắt khiến cho kẻ kia
được vào Đạo”
Có Chân Ngôn này: Ha-lợi (Ha là quyết định thực hành, Lợi là dơ bẩn) Ha (thực
hành trừ sự dơ bẩn của Tà Thuật kia)
*) Hrīḥ haḥ”
220
.)Du Kỳ Kinh Sớ nói rằng: “Hồng Ca La (Hūṃ-kāra) [tên gọi Giáng Tam Thế,
nghĩa của Giáng Phục]. Ca La (lại nói là Hắc Ám)”
.)Đại Nhật Kinh Sớ nói rằng: “Ma Ha Ca La Đại Hắc Thiên Thần”.
Lại nói là “Đại Ám Dạ Thiên” là do chữ Ca La (Kāla) được phiên dịch thành
Hắc Ám
.)Nhân Vương Sớ nói rằng: “Ma Ha Ca La Thần” ……
Ma Ha Ca La dùng Phổ Ấn
“Án, ma ha ca la dã, sa-bà ha”
*) Oṃ _ Mahā-kālāya _ svāhā
.)Nam Hải Truyện nói rằng:
“Lại nữa, tại các chùa lớn ở phương Tây (Ấn Độ), bên cạnh cây cột nhà bếp, hoặc
ở trước cửa kho lớn, đều có khắc hình biểu thị trên tấm gỗ, hoặc hai thước (2/3m) ba
thước (1m), làm hình dạng Thần Vương ngồi, cầm cái túi vàng ròng, ngồi trên cái
giường nhỏ, duỗi một chân xuống đất, thường lấy dầu lau phết làm hình màu đen, hiệu
là Mạc Ha Ca Ca (Mahā-kāla) tức là Đại Hắc Thần.
Đời xưa tương truyền rằng: “Vị Thần đấy là Bộ Thuộc của Đại Thiên, có Tính
yêu thích Tam Bảo, hộ trì năm Chúng khiến cho không hao tổn một sợi lông, người
mong cầu đều được toại nguyện, chỉ đến lúc ăn thời nhà bếp thường dâng tiến hương
hỏa (hương và lửa đèn), hết thảy thức ăn uống đều bày ra trước mặt Ngài.
_ Bản thân từng được nghe nói tại chùa Ba Thiền Na ở xứ Đại Niết Bàn, mỗi
ngày thường có hơn một trăm vị Tăng thọ thực. Vào dịp lễ bái của hai kỳ Xuân Thu,
bất chợt có 500 vị Tăng Đồ đến dự, ngay lúc ấy không thể nấu nướng kịp. Vị Tri Sự
bảo nhà bếp rằng: “Có việc bề bộn gấp rút này, biết phải làm như thế nào đây?!”.
Khi ấy có một bà lão là người thanh tịnh, bảo rằng: “Đây chỉ là việc thường tình,
không có gì phải lo lắng”. Rồi bà lão mới thắp nhiều hương, xếp bày đầy thức cúng tế,
bạch với Hắc Thần rằng: “Đại Thánh! Ngài ngự ở trên! Vì chư Tăng ở bốn phương
đến lễ bái Thánh Tích, nên đừng khiến cho thức ăn uống cúng dường bị thiếu. Lòng
nhân từ đấy, cầu mong Ngài có thể biết”.
Rồi vẫn mời Đại Chúng ngồi xuống, đem thức ăn thường dùng của chùa, thực
hiện theo thứ tự. Do Đại Chúng đều được đủ các món ăn vẫn như ngày thường, cho
nên thảy đều xướng lên rằng: “Khéo thay! Sức lực của Thiên Thần làm giúp cho lễ bái
yết” và nhìn thấy vị Thần màu đen (Hắc Thần) với thấy thức ăn ở trước mặt tạo thành
đống to lớn”
Xin hỏi sự kiện ấy có Ý gì? Do đâu mà có quả báo này?
Mặc dù Hoài Bắc trước kia không có, nhưng phần lớn tại Giang Nam đều có nơi
an trí (tượng Thần), người cầu xin rất hiệu nghiệm. Đường lối của vị Thần (Thần Đạo)
chẳng phải là hư dối.
Rồng Mục Chân Lân Đà ở Chùa Đại Giác cũng đồng với sự sai khác này vậy.
_ “Án, mật chỉ, mật chỉ xá bà lệ, đa la yết đế ha, sa bà ha”
*) Oṃ_ micchi micchiśvare tāragate_ svāhā
_ “Án, ma ha ca la gia, sa bà ha”
Oṃ_ Mahā-kālāya_ Svāhā
_ Khẩu Truyền nói rằng: “Pháp Thường Đồ (đường lối thông thường) là Thập
Bát Đạo (18 Đạo Khế)” 221
Khẩu Truyền nói rằng: “Kinh Nhân Vương nói Ma Ha Ca La ở gò mả là Đại
Hắc Thiên Thần”
Lý Thú Thích nói rằng: “Bảy Mẫu Nữ Thiên là quyến thuộc của Ma Ha Ca La
Thiên, có thể cư ngụ ở phương Đông Bắc, rất bí mật, rất bí mật”
_ Thầy nói rằng: “Pháp này là Pháp rất ư bí mật. Người chẳng nhập thất lại còn
là người kém Phước không có tên tuổi thì chẳng thể truyền thụ, cho dù dốc sức đem cả
ngàn vàng đến thì cũng đừng truyền thụ”.
Trước tiên có thể chuẩn bị cúng một mặt
Tiếp đến có thể chuẩn bị chút ít quả trái
Tiếp đến chuẩn bị một chén nước thơm (có thể rải thêm lên cây gậy)
Tiếp đến một chén hương hoa bôi, một chén vòng hoa, một chén hương đốt, một
chén rượu (nếu không có thì dùng Trà)
Tiếp đến một chén gạo sạch (như cơm), một vốc tiền bạc (hoặc dùng thêm vải
lụa, dùng Phổ Cúng Dường Minh)
Tiếp đến ở trong cái buồng, rửa tay xúc miệng
Tiếp đến Hộ Thân (Tịnh ba nghiệp, ba Bộ, Bị Giáp như Thập Bát Đạo)
Tiếp đến vào Đường (lễ đường) [cầm tràng hạt với cái chày]
Tiếp đến lễ Phật rồi ngồi xuống
Tiếp đến dùng hương xoa bôi bàn tay
Tiếp đến gia trì vào nước thơm (dùng Biện Sự Ấn Minh)
Tiếp đến rưới vảy vật cúng khiến cho sạch sẽ (tịnh cúng vật)
_ Tiếp đến Gia Trì Phạn Thực Chân Ngôn. Tay trái nắm quyền để ở eo lưng,
tay phải dựng năm ngón, co lóng ngón giữa, đem Không Chỉ (ngón cái) để ở móng
ngón Hỏa (ngón giữa). Mỗi lần tụng Chân Ngôn thì chà xát trên móng ngón giữa sáu
lần, duỗi các ngón còn lại. Sau đó dùng ngón cái, ngón trỏ búng tay ba lần duỗi ra.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ⇀ᚌᚙᗰᚍᜨ᜔ᗚᚒ 㛸 ᝌ᛬ᜐ ᝌ᛬ᜐ ゖ
“Nẵng mạc tát phộc đát tha nghiệt đa, phộc lộ chỉ đế. Án, tam bà la, tam bà la,
hồng”
*) Namaḥ sarva-tathāgatāvalokite. Oṃ sabhara sabhara hūṃ
[Bản khác ghi nhận bài Chú này là:
Namaḥ sarva tathāgata avalokite_ Oṃ_ sambhāra sambhāra hūṃ]
_ Tiếp đến Thí Cam Lộ Ấn Minh. Tác Thí Vô Úy Ấn xong, tay phải dựng
giương năm ngón tay, chỉ thẳng lên trên.
222
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᩝᛈᜄ ᚌᚙᗰᚍᜄ ᚌ㜀ᚍ 㛸 ᩝᩝ ᧠ᩝ ᧠ᩝ ᵙ
“Nẵng mạc tô-lỗ bả dã, đát tha nghiệt đa dã. Đát nễ-dã tha: Án, tô-lỗ, tô-lỗ, bát-la
tô-lỗ, bát-la tô-lỗ, sa-phộc hạ”
*) Namaḥ srūpaya tathāgatāya. Tadyathā: Oṃ_ srū srū, prasrū prasrū,
svāhā
[Bản khác ghi nhận bài Chú này là:
Namaḥ Surūpaya tathāgatāya
Tadyathā: Oṃ_ suru suru _ prasuru prasuru _ svāhā]
_ Tiếp đến Tông Tự Tâm Thủy Luân Quán. Trước tiên tác Thí Vô Úy Ấn,
quán chữ ᜲ(Vaṃ) trong tâm của lòng bàn tay phải, tụng chữ ᜲ(Vaṃ). Chú này tụng
bảy lần, liền mở năm ngón tay, hướng xuống dưới, đến bên trong (?che bên trên) vật
khí chứa thức ăn rồi Quán.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼᜬ㪤 ᜲ
“Nẵng mạc tam mạn đa một đà nam_ Tông”
*) Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Vaṃ
_ Tiếp đến Khuyến Thỉnh (Dùng Kiên Thật Hợp Chưởng) chí Tâm cẩn thỉnh
Ma Ha Ca La Đại Hắc Thiên Thần cùng với các quyến thuộc đi đến, giáng xuống chốn
này, thọ nhận sự cúng dường này (3 lần) 223
Chân Ngôn là:
㛸 ᛸ ᗘᜐᜄ イ㫱
“Án, ma ha ca la gia, duệ hề duệ” (3 lần_ Phổ Ấn Minh)
*) Oṃ_ maha-karaya (?mahā-kālāya) ehyehi
Dùng hai Không (2 ngón cái) chiêu mời (3 lần)
_ Tiếp đến Át Già (lấy rải lên cây gậy, tụng Khuyết Già Minh, rưới vảy ở trước
chỗ ngồi ba lần)
Tiếp đến Tòa hoa (lấy một bông hoa trong buồng, tụng Hoa Tòa Minh để ở chỗ
ngồi, hoặc cũng dùng Ấn Minh)
Tiếp đến hương xoa bôi
Tiếp đến vòng hoa
Tiếp đến hương thiêu đốt
Tiếp đến thức ăn uống (Quả trái mới, tiếp đến rượu, tiếp đến thức ăn uống)
Tiến đến đèn sáng
Tiếp đến tiền bạc(hoặc dùng thêm vải lụa)
Tiếp đến Phổ Cúng Dường (như Thập Bát Đạo vậy)
Tiếp đến Tán Ấn (dùng Phổ Chư Thiên Tán)
Tiếp đến Đế Duyên Độ (dùng Phổ Ấn)
Tiếp đến Tâm Kinh (dùng Phổ Ấn)
Tiếp đến tùy Ý cầu nguyện
Tiếp đến Căn Bản Ấn Chân Ngôn (đồng Ấn)
Tiếp đến Niệm Tụng (ít nhất là 100 biến)
Tiếp đến Át Già (như lúc trước)
Tiếp đến Khải Bạch (dùng Phổ Ấn)
“Vật cúng dường đã bày
Có thể cười thô xấu
Duyên bám níu Giác Quán
Phần lớn chẳng như Pháp
Gây não loạn Minh Chúng
Nguyện xin rủ Từ Bi
Ban cho sự vui vẻ”
_ Tiếp đến Lễ bái
Tiếp đến Phát Khiển. Tay phải nắm Quyền, đem ngón cái vịn ngón trỏ, ngửa
lòng bàn tay, búng ngón tay phát ra tiếng, làm bảy lần .
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ 㪧ᝤ 㬋
“Án, bạt chiết-la, mẫu khất-xoa, mục”
*) Oṃ _ vajra mukṣa bhuḥ (?muḥ)
_ Tiếp đế Hộ Thân (ba Bộ, Bị Giáp như lúc trước)
Tiếp đến ngồi xuống
_ Chư Thiên Tán:
゚ᜎᚐ ᚪᜨ ᝌᗰᩘᗢ ᚼ㪯 ᝌᗘᜐᚤᜅ ᧠ᜨᜐ ᚰ㮙 ⸈ᚌᚲᗘᜐ ᜪᚰ
㮙 ᘔ ᧠ᝌᛸ ឃ ᚾᚌ ᛰᚌᚌ ᧠ᗘᝀᜄ ᚌᚦ㬣 ᛸᚙᜄ ᚰᜂ 224
“A diễn đổ, nê phộc, tả nga tố la khẩn. na la nại-la sa yết la na du, bát-la phộc la,
đạt ma chỉ-lý đa, địa già-la, vĩ đạt ma tả, bát la sa ma, tao xí-dã, nễ-minh đa, bộ đa
minh đa, bát-la ca xả dạ, đát nễ hạ thất-la, ma noa dã, đà hàm”
*) Ayaṃtu deva, sagasrakaṃ, narendra, sakaradayā_ pravara dharma-
kṛtadhikara, vidharma ca prasama saukhyai nimeta bhūtameta, prakaṣaya
tadihaśra mathāya dhamaṃ
_ĐẠI HẮC THIÊN THẦN PHÁP (Hết)_
Nói chung: Khiên (phần sau của cái áo) Quần (cái xiêm, cái váy, cái quần), hòa
chung tên thì gọi là Đồn (đồ vật từ phần eo lưng trở xuống), cũng nói là Quần
_ Thừa An năm thứ ba, tháng hai, ngày 18_ Ở Phương Đông của viện Thắng Câu
Chi tại chùa Đề Hồ_ Viết chép xong trong hai tháng
_ Vĩnh Chính năm thứ ba, Bính Dần, tháng hai, ngày mồng hai_ Ở viện Tịch
Tĩnh, trên chùa Đề Hồ_ Cốc Hàng Viện Trừng Huệ Pháp Ấn trao truyền xong_
Khoái Du
_ Minh Hòa năm đầu tiên, Giáp Thân, Trọng Thu, ngày mồng hai_ Dùng dùng
bản Hoặc Cổ ghi chép, một lần kiểm tra và hiệu đính xong_ Sa Môn Trí Hảo.
_ Hưởng Hòa cải nguyên, mùa Thu, tháng tám, sau ngày mồng năm, gom 15 Bản
kiểm tra hiệu đính xong, giao cho khắc bản khiến cho con người biết được sự linh
nghiệm của Thiên Tôn.
Lại có Bát Tý Thiên.
Hy Lân Âm Nghĩa nói rằng: Kinh nói rằng: “Ma Ha Ca La Đại Hắc Thiên Thần
là dùng cả hai thứ tiếng Phạn Hán nêu lên vậy. Vị Thần này có màu mây đen xanh,
sống đến vô lượng tuổi, có tám cánh tay đều cầm khí trượng khác nhau, xỏ xuyên qua
đầu lâu dùng làm chuỗi Anh Lạc, làm hình vị Trời phẫn nộ, dưới bàn chân có Địa
Thần Nữ Thiên dùng hai bàn tay nâng đỡ bàn chân của Ngài”
Phong Sơn Trường Cốc, Viện Tổng Trì_ Cần Tức Khoái Đạo ghi chép
_ Một lần dùng bút kiểm tra hiệu đính xong_ Từ Thuận
Người tu theo Đông Mật và Tạng Mật đối với Pháp Đại Hắc Thiên rất là coi
trọng, hành giả tu Pháp này thường dùng để khấn vái trừ Ma, tu hành thành tựu sự
thắng lợi và cầu Phước.
_QUYẾN THUỘC CỦA ĐẠI HẮC THIÊN_
ĐỒ CÁT NI
Đồ Cát Ni, tên Phạn là Ḍākiṇī, dịch âm là Noa Cát Ninh, Noa Cát Ni, Noa Chỉ
Nễ, Đồ Kỳ Ni, Đồ Chỉ Ni, Trà Cát Nễ, Đà Kỳ Ni, Tra Chỉ Ni... tên Tây Tạng là
Mkhaḥ-ḥgrōma hay Khandroma, dịch ý là Không Hành Mẫu, là Phật Mẫu hoặc
Minh Phi của Tạng Truyền Phật Giáo
Tùy theo truyền thống Tôn Giáo và văn học cụ thể mà Ḍākiṇī được ghi nhận là:
loài quỷ Dạ Xoa, các linh hồn có nữ tính, phù thủy, tôi tớ của Kāli hoặc các vị Thần hỗ
trợ trong việc phát triển tâm linh
_ Theo Ấn Độ Giáo, thuật ngữ Ḍākiṇī thường mang các ý nghĩa tiêu cực, mặc dù
trong Mật Tông của Ấn Độ Giáo thì Ḍākiṇī là những người bảo vệ những bí ẩn sâu sắc
hơn về bản thân, thông qua đó những bí mật của biến đổi nội tâm được tiết lộ. 225
.)Trong tranh ảnh của dân gian Ấn Độ thì Ḍākiṇī là một con quỷ cái đang tiến
hóa trong Thế Giới Thần Thành và là hàng ca múa phục vụ cho Nữ Thần Kāli trong
các nghi lễ và ma thuật, được thực hiện tại nơi hỏa táng hay nghĩa trang. Khi ấy Kāli
thường được hiển thị qua nghệ thuật với một con cọp còn Ḍākiṇī thường được mô tả
qua hình ảnh con chó rừng (cũng như chim Carrion) vì thói quen ma quái của họ ám
ảnh những bữa ăn ở nơi hoang vắng
226
Một truyền thuyết cho rằng Ḍākiṇī và Śākiṇī là vợ của Tripurasura. Sau khi
Tripurasura bị Śiva giết thì họ được Śiva cho phép cư ngụ trong khu rừng mà không
phải sợ bất kỳ sự đe dọa nào và mọi người phải xưng tụng tên của họ trước khi ghé
thăm các đền thờ của Bhima-śaṅkara, vì thế các khu rừng xung quanh đền có tên gọi là
rừng Ḍākiṇī
.)Trong Ấn Độ Giáo, những người tìm kiếm sự thành tựu của quyền lực thường
phải đối mặt với những thách thức từ Ḍākiṇī, Śākiṇī với số phụ nữ phẫn nộ hoặc bán
phẫn nộ khác như Kākiṇī, Kāmiṇī….. Hành Giả phải đánh bại hoặc vượt qua họ thì
mới được sự thành tựu (siddhi) và trở thành một vị Đại Thành Tựu có quyền năng
kiểm soát các yếu tố thiên nhiên. Có rất nhiều câu Chú và sotra trong Thánh Kinh của
Ấn Độ Giáo được tin là đánh bại và tự bảo vệ mình trước Ḍākiṇī, Śākiṇī và những
người khác. Vị Thần được tôn thờ nhằm giúp cho Hành Giả vượt thoát hoặc chiến
thắng ma quỷ như Bhūta, Preta, Piśāca, Vetala, Brahama-rākṣasa và các năng lực tiêu
cực mạnh mẽ khác như Ḍākiṇī, Śākiṇī, Kākiṇī, Kāmiṇī… là Thần Hầu Hanuman.
Trong ý nghĩa sâu xa thì Ḍākiṇī, Śākiṇī, Kākiṇī, Kāmiṇī được xem là các năng
lực Śakti có quyền hạn kiểm soát các Luân xa (cakra) khác nhau. Như vậy Ḍākiṇī là
những người bảo vệ những sự bí ẩn sâu sắc của bản thân và thông qua họ thì những bí
mật biến đổi nội tâm mới được khai mở. Khi một người có thể đánh thức được
Kuṇḍalini (biểu thị cho năng lực sáng tạo ra vũ trụ cư ngụ ở đốt xương sống cuối
cùng) và di chuyển nó đến luân xa Sahasrara-cakra ở đỉnh của sọ não thì mới trở
thành một Yogi thực thụ
Khi Hành Giả thực hành Mật Pháp quan hệ tình dục theo Tantra của Ấn Độ Giáo
thì có thể cần đến sự trợ giúp của Ḍākiṇī là một phụ nữ được đào tạo trong Yoga của
Mật Thừa, hoặc thậm chí là một Ḍākiṇī thật thể.
Ḍākiṇī là một vị Thần Kỳ rất được sùng bái trong Mật Giáo Tả Đạo Phái của Ấn
Độ cụ thể là Pháp thực hành “Ngũ MA tự du già hạnh” (Pañca-śakti) tức là: ăn thịt
(Māṃṣa), ăn cá (Matsya), uống rượu (Madya), kết Thủ Ấn (Mudrā), giao hợp
(Maithuna) xong sẽ được đến sự vui thích
.)Tại Bengal và một số địa phương khác ở Ấn Độ thì Ḍākiṇī được xem như là
một nữ phù thủy
_Tại Nhật Bản, trong những năm đầu của Thế Kỷ thứ 9, thông qua Đại Sư
Không Hải (Kukai) thì Ḍākiṇī được xuất hiện qua các hình tượng Ḍākiṇī của Ấn Độ
Giáo. Đến thời đại Heian thì Ḍākiṇī được pha trộn với hình ảnh của con cáo và phụ nữ
lõa thể nửa thân trên và được gọi là Dakini-ten (Trà Cát Ni Thiên: Ḍākiṇī-deva),
Shinkoò-bosarsu (Thần Hồ Vương Bồ Tát), Kiko-Tenno (Quý Hồ Thiên Vương)…ḷà
vị Thần có liên quan đến Inari và Daikoku-ten (Mahā-kāla: Đại Hắc Thiên).
227
Trong thời Trung cổ, Hoàng đế của Nhật Bản sẽ hát trước một hình ảnh của con
cáo Dakini-ten trong buổi lễ đăng quang của mình
Mặc dù Dakini-ten được cho là một vị thần Phật giáo mạnh mẽ, nhưng những
hình ảnh và các câu chuyện xung quanh nó ở Nhật Bản lại được rút ra từ thần thoại
Kitsune của địa phương. Nổi tiếng nhất trong số này có lẽ là câu chuyện của Abe
Không Seimei, của Onmyoji (phù thủy, nhà chiêm tinh, trừ quỷ), người được cho là
con trai của một con cáo trắng đầu tiên kết hôn với một người đàn ông đã cứu cô từ các
thợ săn.
Nghi thức Ḍākiṇī được phân cấp vào các phép thuật khác nhau được gọi Dakini-
ten, Izuna, và Akiba. Những người cảm thấy sự sai trái trong làng của họ thì có thể đi
đến một Yamabushi tìm người thực hành ma thuật đen, và anh ta phải bẫy được một
Kitsune (con cáo) để làm vật trung gian nhằm giúp cho anh ta giải quyết được công
việc của mình.
228
Người dân Nhật Bản còn thờ phượng Dakini-ten như là vị Thần giám hộ, bảo vệ
hoặc thậm chí là vị cứu tinh của những cánh đồng lúa. Ngoài ra còn dựng lập các cáo
giám hộ Dakini-Inari là vị Thần canh giữ cửa nẻo, hoặc chăm sóc thôn làng, hoặc bảo
vệ các kho lúa gạo, tài sản, đền đài miếu mạo…
229
_Trong Tạng Truyền Phật Giáo thì Ḍākiṇī được gọi là Không Hành Nữ
(Mkhaḥ-ḥgrōma hay Khandroma) biểu thị cho sự chuyển động của năng lượng trong
không gian, là một vị Nữ Thần của Mật Thừa được mô tả như một hiện thân của năng
lượng Giác Ngộ tương tự như một nữ tính. Trong mỗi hình thức khác nhau thì Ḍākiṇī
có thể là một vị Hộ Pháp (Dharma-pāla) có sức mạnh đặc biệt và trách nhiệm bảo vệ
sự toàn vẹn của khẩu truyền, một Đạo Sư (Guru) truyền giáo Kim Cương Thừa
(Vajra-yāna) cho các môn đệ của mình và cùng họ cam kết Samaya (Bản Thệ). Trí tuệ
Ḍākiṇī có thể là một vị Thần Thiền Định (Bản Tôn), một nữ thần Yoga như Vajra-
yoginī.
.)Theo ngôn ngữ bí truyền của Tạng Mật thì Ḍākiṇī được chia ra làm bốn dạng
chính :
1_Dạng thức khởi đầu: là Trí Tuệ Bát Nhã (Prajña) của Ḍākiṇī, tức là thấu đạt
sự trống rỗng hay bản chất trống rỗng của thực tế theo học thuyết của Đại Thừa
(Mahā-yāya)
2_Dạng thức bên trong: là Ḍākiṇī của Mạn Đà La, một vị Thần Thiền Định
(Bản Tôn), một bậc giác ngộ hoàn toàn giúp cho Hành Giả nhận ra Đức Phật của riêng
mình.
3_Dạng thức bên ngoài: là hình thức vật lý của các Ḍākiṇī đã đạt được thông
qua giai đoạn thực hành Tantra như sáu Yoga của Naropa tương thích với cơ thể của
một Hành Giả đã tương ứng với Tâm Giác Ngộ
4_Dạng thức bên ngoài của bên ngoài: là dạng thức con người, là một Yoginī,
một Kāma-mudra (Ái Dục Ấn), một người phối ngẫu của một Hành Giả hoặc một Đại
Thành Tựu Giả
.) Trong truyền thống khác thì Ḍākiṇī được phân loại theo ba Thân của một
Đức Phật:
1_Pháp Thân Ḍākiṇī: tức là Phổ Hiền (Samanta-bhadra) đại diện cho Pháp
Giới (Dharma-dhātu) nơi mà tất cả các hiện tượng xuất hiện
2_Báo Thân Ḍākiṇī: là Bản Tôn được sử dụng như các vị Thần Thiền Định
giúp cho Hành Giả thực hành Mật Thừa
3_Hóa Thân Ḍākiṇī: là người phụ nữ được sinh ra với tiềm năng đặc biệt, các
Yogiṇī, vợ của các bậc Thầy, hoặc thậm chí cho đến tất cả phụ nữ và chúng được chia
thành 5 Ḍākiṇī của năm Bộ là:
a) Buddha-ḍākiṇī: Ḍākiṇī của Phật Bộ (Buddha-kulāya)
b) Vajra-ḍākiṇī: Ḍākiṇī của Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya)
c) Ratna-ḍākiṇī: Ḍākiṇī của Bảo Bộ (Ratna-kulāya)
d) Padma-ḍākiṇī: Ḍākiṇī của Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya)
e) Viśva-ḍākiṇī: Ḍākiṇī của Yết Ma Bộ (Karma-kulāya)
.)Trong Anuttarayoga Tantra: Để được kết hợp với năng lượng trong tất cả các
chức năng của mình, thì Ḍākiṇī được liên kết với sự mặc khải của Tantra
Anuttarayoga, đại diện cho các con đường chuyển hóa, nhờ đó năng lượng của cảm
xúc tiêu cực hoặc phiền não (Kleśa) được chuyển hóa thành năng lượng phát sáng của
nhận thức giác ngộ, năng suất các kinh nghiệm sâu sắc nhất của ánh sáng rõ ràng.
.)Trong Dzogchen: thì Ḍākiṇī là giai đoạn cuối cùng của con đường tu học Kim
Cương Thừa (Vajra-nāya). Đầu tiên là Guru (Đạo Sư) tương ứng với việc thực hiện
sự thật ban đầu của thật tế được trao truyền bởi các vị Thầy giúp cho Hành Giả có
được những Tantra bên trong (Peyi-yeshe) thuộc sự trong sáng của Tính Không
(Śūnyatā). Thứ hai là Devatā (Hóa Thần) tương ứng với Thiền Định trong chừng mực 230
các Devatā là phương pháp được sử dụng để phát triển việc thực hiện ban đầu của thật
tế. Thứ ba là Ḍākiṇī trong chừng mực Ḍākiṇī là nguồn gốc của các hoạt động dựa trên
việc thực hiện Guru và Thiền Định của Devatā
_Trong thực tế phần lớn Ḍākiṇī thường được biểu thị dưới dạng thân người đầu
thú, hoặc người nữ đang nhảy múa…nhưng nhìn chung vẫn là một hình thức phẫn nộ
và vẫn là một phần của Mật Tông Ấn Độ Giáo
Ḍākiṇī có đầu sư tử
Ḍākiṇī có đầu chim
231
Thần Chú thường thấy của Ḍākiṇī là:
Oṃ Oṃ Oṃ_ sarva buddha ḍākiṇiye, vajra-vairocaṇiye, Hūṃ Hūṃ Hūṃ
phaṭ phaṭ phaṭ svāhā
_Theo Mật Giáo Đông Độ thì Ḍākiṇī là loài quỷ Dạ Xoa, hoặc loài Ly Mỵ ở
những nơi hoang vắng hoặc nghĩa địa có sức Thần Thông, thích ăn trái tim và máu thịt
của con người
.) Trong phần chú giải Thần Chú Thủ Lăng Nghiêm, Ngài Bất Không ghi
nhận Ḍākiṇī là loài Ly Mỵ
.) Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 10 ghi nhận rằng: “Đồ Cát Ni là quyến thuộc của
Đại Hắc Thiên, là một loài quỷ Dạ Xoa có sức Thần Thông, hay biết được kỳ hạn chết
của con người trước 6 tháng, liền chuẩn bị trước để lấy trái tim của kẻ ấy mà ăn rồi
thay thế bằng vật khác, cho đến khi người ấy mệnh chung thời bắt đầu thông báo điều
hư hoại”
Người tu Pháp này có thể được Thần Thông, thành tựu lớn. Đức Đại Tỳ Lô Giá
Na Phật vì trừ loài này cho nên dùng Pháp Môn của Giáng Phục Tam Thế hoá làm Đại
Hắc Thần để thâu nhiếp khiến chúng quy mệnh Đức Phật.
.)Trong Thai Tạng Giới Man Đa La, tại phương Nam của Ngoại Bộ Kim
Cương Viện thì Ḍākiṇi được ghi nhận là loài quỷ Dạ Xoa, là quyến thuộc của Đại Hắc
Thiên, có thân màu thịt đỏ, hiện hình quỷ đói, tay phải cầm cái bát, tay trái để trước
ngực. Hoặc tay phải cầm một đoạn chân bị chắt đứt, há miệng để ăn. Tay trái cầm cánh
tay bị chặt đứt. Hoặc tay phải nâng cái bát, tay trái cầm con dao
232
Chữ chủng tử là: DA (セ)
Tam Muội Gia Hình là: Kiếp Ba (Kapāla:cái bát)
Tướng Ấn là: Đồ Cát Ni Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᩧᝣ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HRĪḤ HAḤ_ SVĀHĀ
233
CƯU MA LA THIÊN
Cưu Ma La Thiên, tên Phạn là Kumāra. Lại xưng là Cu Ma La Thiên, Cưu Ma
La Già Thiên, Câu Ma La Thiên.... dịch ý là Đồng Tử Thiên. Tôn này là một trong 20
Thiên hộ thế, tức là Phạm Thiên ở cõi Sơ Thiền. Do dung mạo như Đồng Tử nên có
tên gọi này.
.)Trong Ấn Độ Giáo thì Kumāra có tên Phạn là Skanda, là con trai của Śiva và
Pārvati, anh em với Ganeśa.
Skanda nguyên là vị Chiến Thần có 6 đầu 12 cánh tay, tay cầm vũ khí, cỡi chim
công, chống lại những kẻ ngu dốt và đem lại sức mạnh cho những ai tìm kiếm tâm linh.
Người ta còn gọi Tôn này là Kārttikeya (người có sáu mặt)
Thần Chú căn bản của Skandha là:
Oṃ_ śaravaṇa bhavaya namaḥ
Hay Oṃ_ Jaya jaya, mahā-vīra bhagavaṃ śrī-skanda namo namaḥ 234
Thoạt tiên vị Thần này được sùng bái và lưu hành ở Nam Ấn Độ, đến sau thế kỷ
thứ năm thì lưu truyền đến Bắc Ấn Độ, được du nhập vào Phật Giáo Đại Thừa và trở
thành vị Thần chủ hộ chốn Già Lam (Vihara-pāla). Từ đây Skanda được gọi là Tắc
Kiến Đà Thiên, Tư Kiến Đà Thiên, Kiến Đà Thiên, Vi Đà Thiên. Hoặc xưng là Vi
Tướng Quân, Vi Thiên Tướng Quân, Cưu Ma La (Kumāra), Thiện Phạm
(Subrahma)… là một trong 8 vị Đại Tướng Quân của Nam Phương Tăng Trưởng
Thiên Vương, vị đứng đầu trong 32 vị Đại Tướng Quân của bốn vị Thiên Vương. Bình
sinh rất thông tuệ, sớm lìa trần dục, tu hành nghiệp Đồng Chân của Phạm Hạnh trong
sạch, nhận sự giao phó của Đức Phật trấn hộ ba châu: Đông Thắng Thân Châu, Tây
Ngưu Hóa Châu, Nam Thiệm Bộ Châu… do vậy có tên gọi là Tam Châu Cảm Ứng
Vi Đà Tôn Thiên Hộ Pháp
Tương truyền khi Đức Phật vào Niết Bàn thời Tiệp Tật Quỷ trộm lấy hai răng
nanh của Đức Phật thì Vi Đà Thiên liền gấp rút đuổi theo và thu hồi lại
.)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 5 ghi nhận Tắc Kiến Na (Skanda) là Đồng Tử
Thiên (Kumāra)
.)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 10 nói rằng: “Câu Ma La (Kumāra) tác Ấn Thước
Để, là con của Đại Tự Tại”
.)Nhiếp Đại Nghi Quỹ, quyển 2 nói rằng: “Tắc Kiến Phiên Đồng Tử có ba
đầu, cỡi con chim công”
.)Phần cuối của Bí Tạng Ký ghi là: “Cưu Ma La Thiên có hình Đồng Tử màu
vàng, sáu mặt, cầm cây kiếm, cỡi con chim công”
.)Trí Độ Luận 2 nói rằng: “Cưu Ma La Thiên, đời Tần nói là Đồng Tử. Vị Trời
này cầm con gà, nâng cái chuông, nắm cây phan, cỡi chim công”
_Hình tượng của Vi Đà Thiên có hai loại đã được Trung Quốc hóa là hình dáng
như võ tướng, mặc giáp trụ, chắp hai tay trước ngực, đặt cái chày Giáng Ma nằm
ngang trên hai cổ tay... hoặc tay trái chống eo, tay phải cầm cái chày Giáng Ma chống
xuống đất.
Sau này hình thành thêm Tôn Tượng Vi Đà Hộ Pháp dựng chày, chắp tay…
235
236
237
.)Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Tây
của Ngoại Kim Cương Bộ Viện thì Câu Ma La Thiên có thân màu vàng, hiện hình
Đồng Tử có 6 mặt. Tay phải cầm cây kích Tam Cổ, cỡi con Công
Chữ chủng tử là: SKA (⺐)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Độc Cổ.
Tướng Ấn là: Kim Cương Hợp Chưởng.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Cưu Ma La Thiên tức Sơ Thiền Phạm
Vương, là một trong 20 Thiên
Tôn Hình: Thân màu lục xanh, hiện hình Đồng Tử, Tay trái nắm quyền để ngang
eo, tay phải để trước ngực cầm cái chuông, dùng lá sen làm tòa ngồi
238
Mật Hiệu là: Kim Cương Linh
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ) hay GHAṂ (ᘆ)
Tam Muội Gia Hình là: cái chuông
Tướng Ấn là: Quyền trái đè eo, 5 ngón tay phải co móc hướng xuống dưới, đưa
ngón cái vào khoảng giữa của 4 ngón, 4 ngón tay làm cái chuông, ngón cái là hạt của
chuông (Linh Tử) như hình đánh chuông.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Cưu Ma La Thiên có chữ chủng tử là:
GHA (ㅸ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuông
239
Tướng Ấn là: Quyền trái đè eo, 5 ngón tay phải co móc hướng xuống dưới, đưa
ngón cái vào khoảng giữa của 4 ngón, 4 ngón tay làm cái chuông, ngón cái là hạt của
chuông (Linh Tử) như hình đánh chuông.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Cưu Ma La Thiên có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿 ᜨ
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ_ VA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Cưu Ma La Thiên có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
240
Tướng Ấn là: Quyền trái đè eo, 5 ngón tay phải co móc hướng xuống dưới, đưa
ngón cái vào khoảng giữa của 4 ngón, 4 ngón tay làm cái chuông, ngón cái là hạt của
chuông (Linh Tử) như hình đánh chuông.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Cưu Ma La
Thiên có chữ chủng tử là: GHA (ㅸ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuông Tam Cổ
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿 ㅸ
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ_ GHA
241
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Cưu
Ma La Thiên có chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuông Tam Cổ
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᘆゴ 㛿 ᜪ
OṂ _ VAJRA-GHAṂṬA SVĀHĀ_ VI
Trong Phật Môn thì người niệm Thánh Hiệu của Vi Đà Bồ Tát chẳng nhiều. Có
điều mỗi khi gặp nạn gấp thì ngoài việc trì niệm Thánh Hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, ắt
nên trì niệm thêm Vi Đà Bồ Tát Tâm Chú và Vi Đà Giáng Ma Chú thời sẽ được cảm
ứng.
.)Vi Đà Bồ Tát Tâm Chú:
Oṃ_ Skanda-rāja sva-siddhi hūṃ
.) Vi Đà Bồ Tát Giáng Ma Chú:
Oṃ_ Skandha cchinda mahā-cchinda svāhā
242
PHẠM THIÊN
Phạm Thiên tên Phạn là Brahmā (dịch âm là Phạm La Hạ Ma, Bà La Hạ Ma,
Một La Hàm Ma, Phạm Ma), dịch ý là trong sạch, ly dục. Hay Mahā-brahma-deva
(dịch âm là Ma ha Phạm La Hạ Ma, Ma Ha Bà La Hạ Ma, Ma Ha Một La Hạ Ma),
dịch ý là cực trong sạch tinh.
Do vị Trời này lìa khỏi sự âm dục của Dục Giới (Kāma-dhātu), trong sạch, tịch
tĩnh cho nên gọi là Phạm Thiên
Lại xưng là Phạm Vương (Brahma-rāja), Phạm Thiên (Brahma-deva), Đại
Phạm (Mahā-brahma), Phạm Đồng Tử (Brahma-kumāra), Thế Chủ Thiên (Prajāpai-
deva), Sa Bà Thế Giới Chủ (Sāhaṃpati), Tạo Thư Thiên, Tịnh Thiên. Ngoài ra còn có
khu vực người Trung Hoa xưng gọi Ngài là Tứ Diện Phật
_Theo Ấn Độ Giáo thì Phạm Thiên là vị Chủ Tể sáng tạo ra Trời Đất và muôn
vật. Sau này khi du nhập vào Phật Giáo thì Phạm Thiên là vị Chủ Tể của cõi Sơ Thiền
thuộc Sắc Giới (Rūpa-dhātu) và là một trong 8 Thiên, một trong 12 Thiên, một trong
20 Thiên, một trong 28 Bộ của Thiên Thủ Quán Âm
1_Phạm Thiên là bậc sáng tạo ra vũ trụ:
_Trong truyền thuyết xưa của Ấn Độ: Ở thời Sơ Kiếp, Đại Phạm Thiên được hạ
sinh từ cõi Trời Quang Âm (Ābhāsvara-deva), tạo ra vạn vật. Ngài dùng sự tồn tại
đơn độc to lớn của nơi chốn (xứ thái độc tồn) mà tự nhận mình là Đấng Sáng Tạo của
vũ trụ, tất cả chúng sinh trong đời sau đều là sự hóa sinh của Ngài, đã trải qua hết, biết
nghĩa lý của tất cả Kinh Điển, thống lãnh Đại Thiên Thế Giới, dùng sự tôn hào phú quý
cùng tột làm nơi cư ngụ của mình.
Người Ấn Độ cổ đại đã Thần Cách Hóa cội nguồn Phạm (cội nguồn tinh khiết)
của vạn hữu thành vị Thần Kỳ của sự sinh sản, là vị Thấn tối cao của Bà La Môn
Giáo, là một trong ba vị Đại Thần Kỳ của Ấn Độ Giáo tức là Phạm Thiên (Brahma),
Thấp Bà (Śiva), Tỳ Thấp Nô (Viṣṇu).... trong đó
.)Phạm Thiên là nguồn lực sáng tạo ra vũ trụ, biểu thị cho đặc tính hoạt động,
tình cảm với tác dụng diều hòa (rajas)
.) Thấp Bà (Śiva) là nguồn lực hủy diệt, biểu thị cho đặc tính tối tăm, hủy diệt
(Tamas)
.) Tỳ Thấp Nô (Viṣṇu) là nguồn lực bảo tồn, biểu thị cho đặc tính sáng suốt,
thuần khiết (Sattva)
243
Sâm Lâm Thư (Araṇyaka) ghi nhận là: “Vạn vật từ Phạm Thiên (Brahma) mà
sinh ra, y theo Phạm Thiên mà tồn tại, khi hủy diệt thời quay trở về với Phạm Thiên”
_Thần Thoại Ấn Độ ghi nhận vị Phạm Thiên này được sinh ra từ Quả trứng vàng
[còn gọi là Kim Thai (Hiraṅya-garbha: bào thai vàng), hay Phạm Noãn (quả trứng
tinh khiết], còn cái vỏ trứng thì chia ra làm hai phần là Trời và Đất. Từ đây Phạm
Thiên tạo ra núi cao, biển sâu, ban sinh khí cho chư Thần, tạo ra thể xác và sự sống cho
muôn loài, trao quyền hành cho chư Thần, quy định trật tự vũ trụ.
_Thuyết khác cho rằng: Phạm Thiên là Tự Ngã sinh ra, không có mẹ. Ngay tại
bờ mé khởi đầu của vũ trụ, trong hoa sen trên rốn của Tỳ Thấp Nô sinh ra Phạm
Thiên, hình tượng này tượng trưng cho ý nghĩa tái sinh do những mầm mống của kiếp
trước được bảo tồn trong Tỳ Thấp Nô (Viṣnu). Vì vậy Phạm Thiên có tên gọi là
Nabhija (ý là từ lỗ rốn sinh ra), hay Abjaja (ý là từ hoa sen sinh ra)
Lại từ trong trái tim, bàn tay, bàn chân của chính mình sinh ra 10 người con (có
thuyết nói 20 người) tiếp liền đến vợ là Văn Nghệ Thần Nữ (Śarasvatī: Biện Tài
Thiên Nữ) được sinh ra từ ngón tay cái. Do nơi sinh ra lại ở trong nước nên vị Nữ Thần
này được xưng là Kanja (ý là ngay trong nước sinh ra)
Phạm Thiên là đấng chí cao, tồn tại Phạm (Brahma) hòa với Tự Tính năng
lượng của Âm Tính (Prakṛti) hoặc con người của Ảo Tượng (Maya). Nhân đây Phạm
Thiên được xưng là Sinh Chủ (Prajāpati), con cháu của Ngài lại phân biệt sinh ra
Thiên Thần, người Phàm, Yêu Ma, cầm thú cùng với vạn vật trong vũ trụ. Cuộc đời
của Phạm Thiên chia ra ngày và đêm, ngày tức đêm ngủ, khi Phạm Thiên thức thì vạn
vật sinh trưởng, khi Phạm Thiên ngủ thì vũ trụ tiêu tan, rồi sẽ tái sinh trở lại khi Phạm
Thiên tỉnh giấc.
Hình tượng của Phạm Thiên có thân màu đỏ, thoạt tiên có 5 cái đầu, sau này bị vị
Thần Thấp Bà (Śiva) hủy đi một cái nên còn lại thân có bốn đầu, bốn cánh tay. Vì thế
Phạm Thiên còn được gọi là Tứ Đầu Thần (Catur-ānana:vị Thần có bốn đầu với hàm
râu dài) hay Tứ Diện Thần (Catur-mukha: vị Thần có bốn mặt). Thân màu đỏ tượng
trưng cho nguyên lý sáng tạo. Bốn cái đầu tượng trưng cho bốn Bộ Phệ Đà (Veda),
bốn chủng tính (Bà La Môn, Sát Đế Lợi, Thủ Đà, Chiên Đà La). Bốn cánh tay phân
biệt cầm giữ: Kinh Điển Phệ Đà, hoa sen, cái muỗng nhỏ, tràng hạt (hay cái bình nước,
hoặc cái bát)
244
_Thần Chú của Phạm Thiên (Brahma-mantra):
Oṃ_ Eiṃ Hrīṃ Śrīṃ Klīṃ sauth sat chid ekaṃ brahma
2_Trong Phật Giáo gọi chung Sơ Thiền Thiên (Pramatha-dhyāna-deva) trong
Sắc Giới (Rūpa-dhātu: cõi Sắc) là Phạm Thiên.
Chúng sinh trong cõi Trời này lại chia ra làm ba:
.)Đại Phạm Thiên (Mahā-brahma-deva) tức chủ của Sơ Thiền Thiên, cũng là vị
Đại Phạm Thiên Vương làm chủ tể của Thế Giới Sa Bà (Sāha-loka-dhātu). Lại được
sinh ra từ Nhân Duyên rộng tốt (quảng thiên), đích xác là bậc được sinh ra đầu tiên rồi
ẩn mất cuối cùng, được Trung Gian Định có Uy Đức thù thắng
.)Phạm Phụ Thiên (Brahma-purohita-deva) tức hàng Phụ Bật Thần (bầy tôi)
trợ giúp cho Đại Phạm Thiên
.)Phạm Chúng Thiên (Brahmakāyika-deva) tức tất cả chư Thiên Tĩnh Lự
(Dhyāna:Thiền Định) do Đại Phạm Thiên cai quản
Lại ở trong Kinh Trường A Hàm, quyển 20, phẩm Đao Lợi Thiên ghi nhận
ngoài ba hàng Trời trên, còn nêu ra Phạm Thân Thiên (Brahma-kāyika) tổng tộng là 245
bốn hàng Trời. Lại dùng cõi Trời này là Thế Giới mà Đại Phạm Thiên đã cư trú, rồi
xưng là Phạn Giới (Brahma-loka), hoặc Phạm Thế Thiên
Thông thường gọi là Phạm Thiên, phần lớn đều chỉ Đại Phạm Thiên Vương. Lại
xưng là Phạm Vương (Brahma-deva), Thi Khí (Śikhin, hay Śikhī) hoặc Thế Chủ
(Prajāpati).
_Theo Phật Giáo thì vị Đại Phạm Thiên này tin sâu Chính Pháp, mỗi khi gặp
Phật ra đời đều trước tiên thỉnh chuyển Pháp Luân (Dharma-cakra: bánh xe Pháp)
cùng với Đế Thích Thiên (Indra) đều là Thần Hộ Pháp (Dharma-pāla-devatā) của
Phật Giáo.
Y theo sự ghi chép của Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 4 thì khi Đức Phật lên
cung Trời Đao Lợi vì mẹ nói Pháp suốt ba tháng, lúc quay lại nhân gian thì Đại Phạm
Vương cầm cây phất trắng theo hầu bên phải Đức Phật
HÌNH TƯỢNG CỦA ĐẠI PHẠM THIÊN
Hình Tượng của Đại Phạm Thiên được thờ phượng theo nhiều dạng thức khác
nhau như bốn mặt hai tay, bốn mặt, bốn tay, bốn mặt sáu tay, bốn mặt tám tay….
_Hình tượng bốn mặt bốn tay, ngồi trên tòa ngỗng
246
_Hình tượng bốn mặt bốn tay, ngồi trên tòa ngỗng
247
_Hình tượng bốn mặt sáu tay
_Hình tượng bốn mặt tám tay
_Đại Nhật Kinh Sớ, Quyển 5 ghi nhận là: “Đại Phạm Thiên Vương đội mão búi
tóc, ngồi trên xe bảy con ngỗng, có bốn tay. Bên phải: một tay cầm tràng hạt, một tay
cầm hoa sen nở rộ. Bên trái: một tay cầm bình Quân Trì, một tay tác Ấn chữ Án”
_Trong 12 Thiên thì Phạm Thiên là vị chủ của tất cả chư Thiên Tĩnh Lự
(Dhyāna:Thiền Định) thuộc cõi Sắc (Rūpa-dhātu) thủ hộ phương bên trên
Chữ chủng tử là: BRA (᧸) 248
_ Phạm Thiên Ấn:
Tay phải nắm quyền đặt ở lưng eo phải, duỗi năm ngón của bàn tay trái rồi hơi co
lại thành Ấn của nửa hoa sen (Bán Liên Hoa)
Chân Ngôn là :
“Án, một la hàm ma ninh, sa phộc ha”
㛸 ᧸㬍ᚆ 㛿
OṂ _ BRAHMAṆE SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Phạm Thiên là
một trong 20 Thiên, thủ hộ phương trên
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Phạm Thiên có thân màu thịt trắng, tay phải
cầm hoa sen hồng, tay trái ngửa lòng bàn tay trước rốn.
249
Mật Hiệu là: Tịch Mặc Kim Cương
Chữ chủng tử là: PRA (㛺), hay MAU (ᜁ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hồng
Tướng Ấn là: Nguyệt Diệu Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Phạm Thiên có chữ chủng tử là: MO (ᜀ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hồng
Tướng Ấn là: Nguyệt Diệu Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ
250
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Phạm Thiên có chữ chủng tử là: MAI ()
Tôn Hình:Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ_ MAI
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Phạm Thiên có chữ chủng tử là: MAI ()
Tôn Hình:Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Tướng Ấn là: Nguyệt Diệu Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Phạm Thiên có
chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình:Tay phải cầm phan phướng, tay trái tác Kim Cương Quyền để cạnh eo.
251
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hồng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿 㛺
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ_ PRA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Phạm
Thiên có chữ chủng tử là: MO (ᜀ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hồng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜁ㗍 㛿 ᜀ
OṂ _ VAJRA-MAUNA SVĀHĀ_ MO
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Đông của Thai Tạng Giới Man Đa
La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Đại Phạm Thiên có thân màu thịt, đầu đội mão tóc búi,
có 4 mặt, mỗi mặt đều có 3 mắt, thân có 4 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất tác Dữ
Nguyện Ấn, tay thứ hai cầm cây kích. Bên trái: tay thứ nhất cầm hoa sen, tay thứ hai
cầm cái bình.
252
Chữ chủng tử là: BRA (᧸)
Tam Muội Gia Hình là :Hoa sen hồng, tay Thí Nguyện.
Tướng Ấn là: Nguyệt Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁 㛺ᘭᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PRAJĀPATAYE_ SVĀHĀ
_Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Phạm
Thiên là chủ của cõi Thượng Thiên, là cha của chúng sinh. Trời này vui thời Khí Thế
Gian an ổn không có loạn động, tại vì sao? Vì Vào thời Kiếp Sơ, Trời này thành lập
Khí Thế Gian vậy. Chúng sinh không loạn dùng Chính Trị Thế (Trị đời bằng Chính
Pháp), sao lại thế? Vì vua cha vui vẻ vậy. Khi vị Trời này giận thời Thế Gian chẳng
yên, có mọi thứ bệnh cho đến cây cỏ thảy đều héo úa rơi rụng, chúng sinh mê hoặc tên
gọi như người say”. Do vậy nếu cầu Tăng Ích, dùng Phạm Thiên làm chủ. 253
PHẠM THIÊN PHI
Phạm Thiên Phi tên Phạn là Brāhmī, dịch âm là Một La Hám Nhĩ, Mạt La Hứ
Nhĩ, Mạt La Nhĩ…tức là vợ của Phạm Thiên, cũng là một trong bảy vị Mẫu Thiên.
Lại xưng là Phạm Thiên Hậu, Phạm Thiên Nữ hoặc Đại Phạm Minh Phi.
Phạm Thiên (Brāhma) vốn trong sạch lìa Dục nên không có Phi, Hậu. Nhưng do
sự sùng phụng của Thế Gian mà Phạm Thiên có Hậu, Phi.
Đại Nhật Kinh Sớ 2 nói rằng: “Phạm Thiên Hậu là Tôn Thần do Thế Gian
phụng thờ, Nhưng trong Phật Pháp thì Phạm Vương vốn lìa Dục nên không có Hậu,
Phi”.
Do đó trong Mật Giáo xưng Phạm Thiên Phi nhằm biểu thị cho Đức thuộc tính
nữ của Phạm Thiên.
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây của Thai Tạng Giới Man Đa
La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Phạm Thiên Phi có thân màu thịt trắng, tay phải co
cánh tay nắm quyền, tay trái co cánh tay để ngang ngực cầm hoa sen (hình bên dưới)
Chữ chủng tử là: BRA (ᨴ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa nở.
Tướng Ấn là: Phạm Thiên Nữ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁 㛺ᘭᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PRAJĀPATAYE_ SVĀHĀ
254
BIỆN TÀI THIÊN
Biện Tài Thiên, tên Phạn là Sarasvatī-devī, dịch âm là Tát La Tát Phạt Để, Tát
La Sa Bà Để, Sai La Sa Phộc Để, Tô La Sa Phộc Đái. Dịch ý là Diệu Âm Thiên, Diệu
Âm Nhạc Thiên, Mỹ Âm Thiên, Đại Biện Tài Thiên, Đại Biện Tài Thiên Nữ, Đại Biện
Tài Thiên Thấn, Đại Biện Tài Thiên Vương, Đại Thánh Biện Tài Thiên Thần. Lược
xưng là Biện Thiên, tục xưng là Biện Tài Thiên
_Theo Ấn Độ Giáo và Bà La Môn Giáo cổ đại thì Biện Tài Thiên (Sarasvatī) là
Văn Nghệ Thần Nữ. Là Nữ Thần chủ về học vấn biện tài, âm nhạc, Phước Đức.
.)Theo Lê Câu Phệ Đà (Ṛg- Veda) thì Tôn này là tên gọi của con sông và là vị
Thần Sông Rạch hay trừ uế cho con người; ban cho con người sự giàu có, tiền của, con
cháu và sự dũng cảm.
.)Theo Phạm Thư và Ma Ha Bà La Đa (Sử Thi Mahā-Bharata) thì Tôn này là
Ngôn Ngữ Thần Nữ. Sau này là vợ của Phạm Thiên tức là Nữ Thần của ngôn ngữ và
tri thức. Tương truyền Tôn này là người sáng tạo ra Mẫu Tự Thiên Thành Thể và
Phạn Ngữ, chưởng quản thi ca âm nhạc. Là người bảo hộ cho kẻ học nghệ thuật hòa
tấu. Sau này lại là Nữ Thần của trí tuệ và hùng biện.
Hiện nay, Ấn Độ Giáo thờ phượng Tôn Tượng cỡi con chim nhạn (Haṃsa: con
ngỗng), có bốn cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất cầm hoa, tay thứ hai cầm rương Kinh
Phạn. Bên trái: tay thứ nhất cầm vòng hoa của Đại Tự Tại Thiên, tay thứ hai cầm cái
Tiểu Cổ (một loại nhạc khí)
255
Lại có tượng được Phạm Thiên ôm, hoặc cỡi chim công, khảy đàn Tỳ Bà,
phương trước mặt có thị giả cầm cây cờ.
256
Có lúc lại thấy Tôn này là vợ của Tỳ Thấp Noa (Viṣṇu) cùng với Cát Tường
Thiên Nữ (Śrī-devī) đồng nhận Tín Ngưỡng phổ biến.
Có lúc lại thấy Sarasvatī được phụng thờ chung với Cát Tường Thiên Nữ và Tài
Thần Ganeśa
_Thần Chú của Biện Tài Thiên Nữ là:
Oṃ_ Eiṃ Sarasvatiye svāhā
257
Khi du nhập vào Phật Giáo thì Biện Tài Thiên là người thủ hộ thọ trì Kinh Kim
Quang Minh (Suvarṇa prabhāsottama- Sūtra)
Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, quyển 7, Phẩm Biện Tài Thiên Nữ
ghi nhận là: Phàm là người tuyên giảng Kinh Kim Quang Minh này thì Thiên Nữ ấy
đều hay đến hộ trì rồi làm cho vị đó được tăng tiến Trí Tuệ, đầy đủ ngôn thuyết biện
tài. Phàm người quên mắt quên mất câu văn của Kinh thì Thiên Nữ lại hay đến trợ giúp
làm cho nhớ lại, giữ gìn, khai ngộ. Như chúng sinh, giả sử nghe đến Kinh ấy thì người
đó nhận được sự gia trì của vị Thiên Nữ ấy mà hay được biện tài thông lợi chẳng thể
nghĩ bàn cùng với Đại Trí Tuệ không cùng tận, thậm chí cho đến khéo hiểu mọi Luận
với các kỹ thuật, hay ra khỏi sinh tử, mau đến Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề. Ngay
trong sự sinh hoạt của đời hiện tại ắt được tăng thêm thọ mệnh, khiến vật mà thân này
cần dùng đều được viên mãn đầy đủ.
.) Phẩm này cũng ghi nhận hình tượng của Biện Tài Thiên Nữ là: Thân có tám
cánh tay cầm các vũ khí: cung, tên, đao, cây giáo, cây búa, cái chày, bánh xe sắt, sợi
dây”
_ Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện ở phương Tây của Thai Tạng Giới Man Đa
La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Biện Tài Thiên Nữ có thân màu thịt trắng, tay trái
cầm cây đàn Tỳ Bà, tay phải búng gảy
Chữ chủng tử là: SU (㫾), hoặc SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đàn Không Hầu
258
Tướng Ấn là: Diệu Âm Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᝌᜐᵘᠫ㖁㛿
NAMAH SAMANTA BUDDHÀNÀM _ SARASVATYAI - SVÀHÀ
Tu tập một Pháp Thiên Nữ này, ngoại trừ tác dụng của việc Tăng Ích, Tức Tai…
còn có thể khiến cho người thành nhà thanh nhạc lớn, hoặc nhà đại hùng biện.
Mật Giáo của Nhật Bản đối với Tôn này rất sùng bái và có chẳng ít truyền thuyết
về Tôn này khác với Phật Điển của Ấn Độ. Ví dụ như thuyết của Biện Tài Thiên
Thập Ngũ Đồng Tư và Nhật Bản Bản Bang Ngũ Biện Tài Thiên đều là truyền
thuyết đặc biệt chỉ có ở Nhật Bản.
259
ĐỊA THIÊN
Địa Thiên, tên Phạn là Pṛthivi hay Pṛthivī, dịch âm là Tỳ Lý Để Tỳ, Tất Lý Thể
Vĩ, Tất Lý Thể Vi, Bát Lý Thể Phệ, Bệ Lý Thể Vi, Bỉ Lý Thể Vi, Bát La Thể Phệ.
Dịch ý là bền chắc như Đại Địa, cho nên gọi là Kiên Lao Địa Thần. Lại xưng là Địa
Thần Thiên, Kiên Lao Thần, Trì Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Địa Đa Đại Thần, Đại
Địa Thần Nữ. Là một trong 20 Thiên. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho
Thể Tính của đất là bền chắc chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng
hay giữ gìn vạn vật.
Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn
Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (Ṛg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều
khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính
chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi…
Lê Câu Phệ Đà (Ṛg-veda) ghi nhận vị Thần này là mẹ của chư Thần và tôn xưng
là Địa Mẫu (Bhūmī)
Người Ấn Độ thờ phượng Tôn này qua hình tượng Nữ Thần hay bà mẹ đỡ đầu và
luôn xưng gọi bà qua các tên gọi Dhra, Dharti, Dhrithri với ý nghĩa là người bảo hộ
cho tất cả.
260
Với tư cách là Pṛthivi-devi thì bà cùng với Lakṣmi là hai người vợ của Thần
Viṣṇu và bà được xem là một hình thức khác của Lakṣmi. Các tên gọi khác của bà là
Bhūmī, Bhū-devi, Bhūma-devi
261
Với tư cách là Pṛthivi mata (Địa Mẫu: mẹ đất) thì bà biểu lộ sự tương phản với
Dyaus pita (Thiên Phụ: cha Trời). Trong Ṛg-veda thì trời và đất là hai trạng thái cân
bằng trong một Thể kép có tính đối ngẫu, biểu thị cho ý tưởng hai nửa cái vỏ của sự
hoàn hảo. Bà không phải là vợ của Dyaus mà là mẹ của Indra và Agni.
262
Tùy theo phong tục, khi Indra giết Dyaus pita thì bà tán đồng và kết hôn với
Indra. Bà được liên kết với con bò Prithu, một Hóa Thân của Viṣṇu, sữa được vắt từ
con bò là thực phẩm mà bà đã ban cho.
Tại Indonesia thì bà được nhận biết qua tên gọi Lbu-pertiwi (mẹ đất)
Thần Chú tán tụng Địa Thiên:
Oṃ_ Pṛthivi-devya vid mahe
Sahasra mūrthaye ca dhī mahe
Thanno pṛthivi prachodayath 263
_Theo Phật Giáo thì Địa Thiên được xem là một vị Bồ Tát (Bodhisatva) hoặc là
vị Thần Hộ Pháp (Dharma-pāla-devatā), ngay trong Kinh Điển thường có thể thấy tên
gọi với thế lực Công Đức của Tôn này
.)Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, phẩm Địa Thần Hộ Pháp nói rằng:
“Đức Phật bảo Kiên Lao Địa Thần: “Ông có Đại Thần Lực mà ít có chư Thần theo
kịp. Tại sao thế? Vì đất đai ở Diêm Phù (Jambu-dvīpa) đều mong ông hộ giúp, cho
đến cỏ cây, cát đá, lúa, mè, tre trúc, lau sậy, gạo thóc, vật báu… đều từ đất mà có, hết
thảy đều do sức của ngươi. Ông lại thường khen ngợi việc lợi ích của Địa Tạng Bồ
Tát (Kṣiti-garbha-bodhisatva). So với Địa Thần bình thường thì Công Đức cùng với
Thần Thông của ông nhiều hơn gấp trăm ngàn lần”
.)Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, quyển 9 ghi chép rằng: “Khi Đức
Phật Đà mới thành Đạo thì vị Địa Thần này vì chứng minh cho nên từ dưới đất hiện ra,
khom mình cung kính, nâng cái bình bảy báu chứa đầy hương hoa, cúng dường Đức
Thế Tôn”
.)Đại Đường Tây Vựu Ký, quyển 8 ghi chép rằng: “Khi Đức Thích Ca thành
Đạo thời Địa Thần từ dưới đất nhảy vọt lên, chúng nhận sự thành Đạo, giáng phục các
Ma”
.)Đại Tỳ Ba Sa Luận, quyển 183 cũng nói rằng: Địa Thần luôn hộ vệ Đức Phật
Đà và thông báo cho chư Thiên biết việc Đức Phật Đà chuyển bánh xe Pháp (Dharma-
cakra: Pháp Luân)
.)Tân dịch “Hoa Nghiêm Kinh, quyển 01” ghi nhận các vị Địa Thần là: Phổ
Đức Tịnh Hoa Chủ Địa Thần, Kiên Phước Trang Nghiêm Chủ Địa Thần, Diệu Hoa
Nghiêm Thũ Chủ Địa Thần, Phổ Tán Chúng Bảo Chủ Địa Thần, Tịnh Mục Quán Thụ
Chủ Địa Thần, Diệu Sắc Thắng Nhãn Chủ Địa Thần….kèm theo nói xưa kia nhóm
Thần ấy đều phát Nguyện sâu nặng, nguyện thường gần gũi chư Phật, đồng tu Phước
Nghiệp”
.)Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, quyển 8 nói rằng: “Kiên Lao
Địa Thần tức là chọn lấy Đức bền chắc của vị ấy”. Trong Kinh kể lại vị Thần này hộ trì
tuyên nói thọ trì Kim Quang Minh Kinh, và nói nếu như có người nào thuyết Pháp
hay phát triển rộng lớn Kinh này, thời Ngài thường theo bảo vệ lâu dài, ẩn nấp thân
mình dưới Pháp Tòa, đầu đội bàn chân của vị đó.
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi
Địa Thiên vui thời có hai lợi ích. Một là Thân người bền chắc, sắc đẹp sức lực tăng
trưởng. Hai là Khí Giới, Địa Chủng tăng trưởng mùi vị, sức lực. Khi Trời này giận thời
có hai diều hao giảm. Một là thân người loạn hoại, sắc đẹp sức lực bị giảm bớt. Hai là
mùi vị, sức lực của Khí Giới (giới vật chất) và đất đều trái ngược gốc”
_Sau này Phật Giáo coi vị này là một vị Bồ Tát như ở trong “Pháp Hoa Kinh,
quyển 7, phẩm Phổ Môn”, “Bất Không Quyến Sách Thần Biến Chân Ngôn Kinh,
quyển 9, Phẩm Quảng Đại Giải Thoát Mạn Noa La” đều có tên gọi Trì Địa Bồ Tát
HÌNH TƯỢNG CỦA ĐỊA THIÊN
_Hình tượng của Địa Thiên có nhiều loại, hoặc là thân nam, hoặc là thân nữ...
trong các Kinh ghi chép chẳng giống nhau.
.)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 4 ghi rằng: “Khi Đức Thế Tôn mới ngồi tại Đạo
Trường thời Ma Vương (Māra-rāja) sợ Đức Thích Ca đắc Đạo cho nên thống lãnh các
quân Ma, Ma nữ …hướng về Đức Thích Ca thay phiên nhau tấn công hoặc dụ dỗ khiến
cho mê mờ… nhưng đều bị thất bại. Cuối cùng Ma Vương lo buồn bực tức, đối trước 264
Đức Thích Ca ngông cuồng gầm lên là: “Nghiệp Ta đã làm, ngươi lấy cái gì làm bằng
chứng? Phước Nghiệp của ngươi, lấy ai làm bằng chứng?”. ĐứcThích Ca rũ bàn tay
Vô Úy chỉ xuống đất. lúc đó Đại Địa chấn động nổ vang, Kiên Lao Địa Thần từ trong
đất, ló nửa thân thể ra, hướng về Đức Phật cung kính đỉnh lễ và xướng lên rằng: “Ta là
người chứng minh”. Khi ấy Đức Thích Ca được Đạo thành Phật, còn Kiên Lao Địa
Thần tức là hình tượng người nữ”
.) Phần cuối của Kiên Lao Địa Thiên Nghi Quỹ (ĐTK_No.1286) ghi nhận là:
“Pháp có thể vẽ tượng của Kiên Lao Địa Thần: Vị Trời nam có màu thịt, tay trái cầm
cái bình chứa đầy hoa, hướng lòng bàn tay phải ra ngoài. Vị Trời nữ có màu thịt trắng,
tay phải ôm ngang trái tim, tay trái cũng ôm ngay bắp đùi”
265
_ Ngoài ra Địa Thiên còn được thờ phụng qua Tôn Tượng có sáu cánh tay
_Người dân Trung Hoa thờ phụng Địa Thiên qua dáng vẻ của vị vương phi với
thị nữ theo hầu cận và tôn xưng là Địa Mẫu Thần, Đại Địa Nữ Thần, Địa Mẫu Chí
Tôn
266
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala), tại Thành Thân
Hội (Karma) thì Địa Thiên là một trong bốn vị Hộ Pháp của vòng Kim Cương, đại biểu
cho Đức đặc biệt của Địa Đại (Pṛthivi-dhātu) là hay sinh ra, nâng đội vạn vật
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, hiện hình Thiên Nữ, đầu đội mặt trăng lưỡi liềm,
khoác áo Yết Ma
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) hay PṚ (⹘)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen, Hiền Bình
267
Tướng Ấn là: Bát Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ⹘ᚚ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PṚTHIVYE SVĀHĀ
_ Trong 12 Thiên thì Địa Thiên là vị chủ của chư Thần trên mặt đất, dưới gốc cây
với chư Thần ở bãi cát hoang vắng (Dã sa), thủ hộ phương dưới
Chũ chủng tử là PṚ (⹘)
268
Hạ Phương Địa Thiên Ấn: Chắp 2 tay lại. 4 ngón từ Phong (ngón trỏ) trở xuống
cùng dính đầu ngón, phương trước mở lớn, 2 Không (2 ngón cái) đều dính bên cạnh
Phong (ngón trỏ).
Chân Ngôn là :
“Án, tất-lị thể vĩ duệ, sa phộc ha”
㛸 ⹘ᚚᜫᜊ 㛿
OṂ _ PṚTHIVĪYE SVĀHĀ
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) tại phương Đông
của Ngoại Viện Kim Cương Bộ thì Địa Thiên có thân màu thịt đỏ, đội mão báu, tay
trái cầm cái bát, trong bát có hoa tươi. Hướng lòng bàn tay phải ra bên ngoài để trước
ngực. Ngồi trên toà hình tròn.
269
Chữ chủng tử là: PṚ (⹘), hay RO ()
Tam Muội Gia Hình là: Cái bát.
Tướng Ấn là: Bát Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁⹘ᚚᜫᜊ㖁 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PṚTHIVĪYE SVĀHĀ
KIÊN LAO ĐỊA THẦN HẬU
Kiên Lao Địa Thần Hậu tên Phạn là Dharī, là vợ (Hậu) của Kiên Lao Địa
Thần, chủ quản Đức của Đại Địa hay sinh ra và nuôi lớn vạn vật.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, đầu đội mão báu, tay phải để trước ngực, tay trái để
trên đùi, ngồi trên tòa tròn.
270
Chữ chủng tử là: DHA (ᚰ), hay RO ()
Tam Muội Gia Hinh là: cái bát.
Tướng Ấn là: Bát Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁⹘ᚚᜫᜊ㖁 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PṚTHIVĪYE SVĀHĀ
PHÁP TU CỦA KIÊN LAO ĐỊA THIÊN
_Kiên Lao Địa Thiên Nghi Quỹ ghi chép là:
“Bấy giờ Kiên Lao Địa Thần (Dṛḍha-pṛthivīye) với Đại Công Đức Thiên
(Mahā-śrī-deva) đều từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:
Thế Tôn ! Nếu có Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, Đồng Nam,
Đồng Nữ ….. thường nhiếp năm Căn, buộc niệm chí tâm lễ bái, cúng dường Con (Kiên
Lao Địa Thiên), Địa Thiên với Công Đức Thiên và niệm tụng Chân Ngôn của con thời
con luôn luôn rời khỏi địa vị , cung cấp đầy đủ khiến cho trong thân người ấy tăng ích
thọ mệnh. Tinh khí sung dật của đất ấy làm cho trong thân của Hành Giả được khỏe
đẹp, được niệm, được vui, được tinh tiến, được Đại Trí Tuệ, được biện tài, được ba
Minh sáu Thông, người Trời yêu kính, được Phước Đức to lớn không thể so sánh
không thể cùng tận
Ví như Phước Đức của Luân Vương Thánh Chủ được chốn chốn nơi nơi là chỗ
cư trú của Hành Giả
Ví như vườn tược của Trời Đao Lợi, Đời này, đời khác với ngàn đời, vạn đời vô
cực được Phước Đức rộng lớn cực nhiều , ngày ngày nuôi dưỡng được ngàn vạn quyến
thuộc với vô lượng vô biên loài Hữu Tình bị gian nan. Trong cuộc sống riêng thời kho
thóc luôn dư đầy, bảy loại Trân báu nhiều vô hạn, voi báu, ngựa báu, bánh xe báu,
người nữ báu tùy theo tâm, chẳng cần kêu gọi tự nhiên đi đến. Mọi thứ đầy đủ cho đến
hết hạn tử sinh
Vị Tỳ Khưu hành Pháp như vậy. Hoặc cần dùng mọi loại vàng bạc châu báu, mọi
thứ tư sinh, mọi loại lúa gạo thì được cung cấp đầy đủ.
Như vậy buộc niệm từ đầu đêm cho đến giữa đêm, cuối đêm, ngồi nằm đi đứng
niệm Pháp, tâm không không duyên theo bên ngoài thời khi Hành Giả xây dựng chùa
chiền, tịnh xá, phòng ốc, rừng cây hoặc cần quần áo, thực phẩm, giường ghế nằm ngồi,
thuốc thang chữa bệnh, mọi loại tư sinh sẽ được cung cấp không hề thiếu thốn . thân
được an ổn không có lo buồn, tâm thường vui vẻ được ruộng Phước tốt, thành tựu Pháp
Khí 271
Nan cho như vậy xong đời sau được quả báo lớn, thâm tâm vui Pháp chẳng sinh
vào nẻo ác, chẳng gây tạo Pháp ác. Con hộ giúp như vậy khiến cho người ấy liền tu
được Tâm Từ Bi , tăng trưởng mọi loại thắng diệu như vậy không hề giảm bớt
Đức Phật bảo: “Lành thay ! Lành thay ! Đây là tâm tinh tiến của các ông. Ở trong
Đại Thừa mau hay tăng trưởng sức lực của Phước
Bấy giờ Địa Thần Kiên Lao với Công Đức Thiên cùng nhau bạch Phật rằng:”Vì
muốn lợi ích an vui cho nên nói Tâm Chân Ngôn”
Lúc ấy Đức Phật bảo Địa Thần, Công Đức rằng:”Lành thay ! Các ông vì lợi ích
cho tất cả chúng sinh muốn nói Thần Chú. Các ông hãy tùy theo ý của mình mà nói”
Liền nói Chú là:
Nẵng mạc tam mạn đa mẫu đà nam (1) Án (2) bát-la bà (3) la đát-nễ (4)
thiết-lý tam mạn đa (5) A đà a đà (6) a đậu a đậu (7) bỉ lý đế tỳ, bỉ lý đế tỳ duệ (8)
sa ha
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㫘 ᧠᛬ ᜐᾶ ᩃ ᝌᛸⴼ ゚ᚰ ゚ᚰ ゚㬃 ゚㬃 ⹘ᚚᜪ
⹘ᚚᜫᜊ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ OṂ_ PRABHA-RATNE ŚRĪ
SAMANTA_ ADHA ADHA ADHU ADHU PṚTHIVI PṚTHIVĪYE SVĀHĀ
Trì Chú này đủ mười vạn biến làm Pháp tối sơ (Pháp thực hành ban đầu) .Người
tụng Chú cúng dường Địa Thiên được phú quý vô cực, bảy trân (châu báu) vô hạn,
mau thành tất cả Tất Địa (Siddhi)”
_Nếu như có chúng sinh nào lễ bái cung kính cúng dường và niệm tụng Địa Thiên
Chân Ngôn thời Địa Thiên sẽ thường xuyên ban cho người đó địa vị và giàu có, khiến
trong thân thể tăng ích sống lâu và nơi ở được tràn đầy tinh khí của đất, thân thể hành
giả được khỏe mạnh, được Trí Tuệ lớn, được Biện Tài Vô Ngại, được hàng Trời Người
yêu kính, được Phước Đức lớn vô tận không gì sánh được, nhân đây cũng là Hộ Pháp
Tài Thần của Tăng Ích. Vì muốn cầu Phước, đất nước được mùa hoặc trấn giữ đất đai
mà tu pháp cúng dường, xưng là Địa Thiên Cúng hoặc Thổ Cúng.
272
TRÌ THẾ BỒ TÁT
_Trì Thế Bồ Tát có tên Phạn là Ārya Sutāre (Thánh Thiện Cứu Độ) hay
Sudhāre (Thiện Trì), Dhāra-loka-jvala (Trì Thế Quang Minh), nhưng trong các Kinh
bản thì thường dùng tên gọi là Vasudhāra hoặc Vasudhāri (Danh xưng này tương
đương với các vị Thần Đất hay bảo vệ mùa màng thuộc truyền thống Ấn Độ)
Vasudhāri nguyên là vị Nữ Thần Tài Phú (tiền của giàu sang) của Ấn Độ Giáo,
Tôn Tượng Vasudhāri ở Ấn Độ:
Thần Chú của Vasudhāri là:
㛸 ᩃ 㙝㫾ᚱ㇂ ㇂㜁 ㍅ᚱソ ㅵ《ᦦ 㛿
OṂ_ ŚRĪ VASUDHĀRA RATNA NIDHĀNA KASHETRI SVĀHĀ
Sau này khi du nhập vào Phật Giáo thì Vasudhāra hay Vasudhāri được ghi nhận
là vị Thần chuyên chủ quản tiền của giàu sang của thế gian, hay vì chúng sinh mang
đến các loại tiền của giàu sang và trân bảo. Tại đất Hán thì Tôn này được xưng là Trì
Thế Bồ Tát, Vũ Bảo Bồ Tát. Tại đất Tây Tạng thì Tôn này được xưng là Tài Nguyên
Thiên Mẫu, Tài Nguyên Phật Mẫu, Tài Bảo Phật Mẫu, Tài Tục Phật Mẫu, Bảo Nguyên
Độ Mẫu…
_Hệ thống Hán Truyền Phật Giáo ghi nhận là:
.)Bạch Bảo Khẩu Sao ghi chép là: “Trì Thế có nghĩa là: Tiêu diệt hết thảy tai
họa bệnh tật của Chúng Sinh. Vì kẻ bần cùng liền tuôn mưa tất cả loại trân bảo, lúa
gạo, lúa mạch… khiến cho họ thọ nhận các sự vui thích, an ổn, giàu có. Do Tôn này
hay hộ trì Thế Gian nên được gọi là Trì Thế. Vị Bồ Tát này nơi cúng dường của người
cầu Phước”
.)Theo Tạng Ngữ thì Trì Thế là ý tứ của vật báu tuôn như mưa (vũ bảo)
273
_Có thuyết cho rằng Trì Thế Bồ Tát (Dhāra-loka-jvala-bodhisatva) là hóa thân
của Bảo Sinh Như Lai (Ratna-saṃbhava-tathāgata). Hoặc cho rằng Trì Thế là một
Tôn trong Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya)”.
.)Biệt Tôn Tạp Ký ghi nhận Tôn Tượng của Trì Thế Bồ Tát là:
Thân hình và dung mạo có màu xanh, màu vàng. Ngồi Kiết Già trên tòa sen, thân
đeo mọi thứ Anh Lạc, vòng xuyến, các vật trang nghiêm. Tay phải cầm quả Phả La
(Trái Thạch Lựu), tay trái tác thế Dữ Nguyện. Tượng có 4 đầu, khuôn mặt chính mỉm
cười theo thế xem xét Chú Sư. Bên dưới tòa sen có hai vị Long Vương (Nāga-rāja):
Một vị dùng tay nâng cái hộp bảy báu, một vị cầm cái bình báu. Hai vị Long Vương ấy
đều có thân người và ngâm nửa mình trong nước, trên đầu có một đầu Long Xà đeo
viên ngọc báu.
Bên phải Tượng là vị Trời Đại Thắng Thiên (Mahā-jaya-veva) có một tay cầm
hoa sen, một tay tác thế triệu mời.
Ở phía trên Tượng , hai bên có hai vị Thiên Tiên tuôn mưa 7 báu tràn đầy trong
hư không.
Bên trái của tượng Trì Thế là cái tháp Suất Đổ Ba (Stūpa)
Bên trên Đại Thắng Thiên có một Thiên Nhân cầm viên ngọc báu chắp tay hướng
về Đại Thắng Thiên
_ Hoặc ghi nhận Tôn Tượng là: Thân hình màu vàng, một mặt hai tay: Tay phải
cầm trái Thạch Lựu, tay trái tác thế Thí Vô Úy. Ngồi Kiết Già trên tòa sen, đầu đội
mão, thân khoác áo lụa mỏng , trang sức bằng mọi thứ anh lạc vòng xuyến châu báu…
274
Trì Thế Đà La Ni Pháp còn được gọi là Vũ Bảo Đà La Ni Pháp. Đây là Pháp
tu cầu về Phước Đức, rất có lợi ích cho người tu tại gia. Pháp này được thành lập từ 4
bản Kinh:
1_ Trì Thế Đà La Ni Kinh (Vasudhārā-dhāraṇī-sūtra) do Tam Tạng Pháp Sư
HUYỀN TRANG dịch thuật vào đời Đường
2_ Phật Thuyết Vũ Bảo Đà La Ni Kinh do ngài Đại Quảng Trí BẤT KHÔNG
dịch vào đời Đường.
Hai bản Kinh này là hai bản dịch khác nhau của cùng một bản, chỉ sai khác về
bài Chú dài ngắn (2 bản Chú bằng chữ Tất Đàn đều được ghi nhận trong Đại Chính
Tạng, sách 20, trang 669). Ngoài ra bản dịch của ngài BẤT KHÔNG có ghi thêm 3 câu
Chân Ngôn của Trì Thế Bồ Tát mà bản dịch của ngài HUYỀN TRANG không có.
3_ Phật Thuyết Đại Thừa Thánh Cát Tường Trì Thế Đà La Ni Kinh do ngài
PHÁP THIÊN dịch vào đời Tống.
4_ Thánh Trì Thế Đà La Ni Kinh do ngài THI HỘ dịch vào đời Tống
Hệ thống Mật Giáo dựa vào 4 bản dịch này mà thành lập Bản Tôn của Pháp tu
này là Trì Thế Bồ Tát hoặc Bảo Sinh Như Lai. Ngài NGHĨA TỊNH đã biên soạn thêm
bộ Trì Thế Đà La Ni Biệt Hạnh Công Năng Pháp.
_ Trì Thế Bồ Tát có chủng tử là chữ DA (ᚤ) mang nghĩa “Thí Dữ (ban cho)
bất khả đắc” biểu thị cho việc ban bố mọi thứ trân bảo cho chúng sinh
_ Tam Ma Gia Hình của Ngài là quả Phả La tức là trái Thạch Lựu . Đây là loại
trái cây chứa đầy hạt bên trong nên được biểu thị cho nghĩa Tăng Ích. Do đó Thế của
nó giống như viên ngọc báu.
_ Ấn Căn Bản của Trì Thế Bồ Tát là: Đem ngón vô danh vịn vằn lóng trên của
ngón cái, lại đem ngón cái đè trên móng ngón vô danh (hai tay như nhau). Cùng hợp cổ
tay, đem hai ngón út cài buộc dính trên lưng lóng giữa của ngón giữa sao cho đầu hai
ngón giữa dính nhau, kèm cứng song song hai ngón cái và hai ngón trỏ.
275
Chân Ngôn của Ấn trên là:
Căn Bản Chú :
㛸 㙝㫾ᚱᜒ 㛿
OṂ_ VASUDHĀRI SVĀHĀ
Tâm Chân Ngôn:
㛸 ᩃ 㙝㫾 㛿
OṂ_ ŚRĪ-VASU SVĀHĀ
Tâm Trung Tâm Chân Ngôn :
㛸 㙝㫾 㛿
OṂ_ VASU SVĀHĀ
_ Ngày bắt đầu tu hành thì có các thời gian sau:
Biệt Hạnh Pháp ghi là: Bắt đầu từ ngày mồng một của tháng ba
Lại ghi rằng: Bắt đầu tu hành từ ngày 14 của kỳ Bạch Nguyệt (15 ngày đầu của
tháng) cho đến hết ngày 15 thì xong
Hoặc bắt đầu từ ngày mồng 8 cho đến hết ngày 15 thì xong
_ Về phương hướng thì quay mắt hướng về mặt trời mà tụng Chú.
Lại ghi là: Trước Tháp Xá Lợi, an trí Tượng hướng mặt về phương Tây. Chú Sư
ngồi trước Tượng và hướng về mặt Tượng (tức là Chú Sư hướng mặt về phương Đông)
_ Bài Tán Thán Bồ Tát là:
ㅵᛸ㗟 㪧ᗪ
KAMALA MUKHE
ㅵᛸ㗟 ᜤᘔソ
KAMALA LOCANA
ㅵᛸᝌソ
KAMALĀSANA
ㅵᛸ㗟 ナ⽄
KAMALA HASTA
ㅵᛸ㗟 チ㪧㍅
KAMALA BHAMUNI
ㅵᛸ㗟 ㅵᛸ㗟チ㙝
KAMALA KAMALA-SAṂBHAVA
ㅵᛸ㗟 ㈰㇂
KAMALA KṢARA
ソᜀ⽈ᚒ
NAMOSTUTE
Kinh ghi: “Nếu hay chí thành cúng dường Tam Bảo, niệm tụng Đại Đà La Ni
Kinh như vậy bảy ngày đêm không gián đoạn thì chư Thiên, Long Thần đều sinh
vui vẻ, âm thầm đến tuôn mưa tài bảo lúa gạo. Diệt trừ hết thảy bệnh dịch, nạn đót
khát và diệt trừ tất cả tội chướng. Tất cả hiểm họa đều được an ninh, tăng dần
Phước Tuệ, mong cầu như ý, mau chứng Vô Thượng Chính Đẵng Bồ Đề”
276
_Theo Tạng Truyền Phật Giáo, căn cứ vào sự ghi chép của Bản Tục: “Ở trong
Kiếp quá khứ lâu xa, khi Đức Phật Ca Diếp (Kāśyapa) trụ ở đời thời vị Thiên Mẫu này
dùng Công Đức Bố Thí (Dāna) thù thắng cho nên chuyển sinh đến cõi Trời Tam Thập
Tam Thiên. Nếu hay thành tâm cúng dường thì Hành Giả hay được mang đến tiền của
giàu sang và các loại trân bảo”.
Khi Đức Phật Thích Ca (Śākya-muṇi) trụ ở đời thời Tài Nguyên Thiên Mẫu lại
sinh ra từ trong nước, tên là Cam Đăng Lạp Ma, cũng là Hằng Hà Thiên Nữ. Ngài
cũng hiện hóa làm một trong 21 vị Độ Mẫu
Do sự truyền thừa chẳng đồng nhau cho nên sự hóa hiện của Tài Nguyên Thiên
Mẫu cũng chẳng tương đồng. Có lúc hóa hiện hình tượng một mặt hai cánh tay, có lúc
hóa hiện hình tượng một mặt sáu cánh tay, hoặc hình tượng ba mặt sáu cánh tay, hoặc
đồng thời hiện ra hình tượng Song Thân Song Vận với Thần Tài.
Hình tượng của Tài Nguyên Thiên Mẫu là toàn thân hiển màu vàng sáng, khoác
áo Trời (Thiên Y) đeo mọi loại châu báu Anh Lạc làm vật trang sức, Thần Thái trang
nghiêm an tịnh, kết tòa Như Ý, an trụ trong vành trăng trên hoa sen
_Hình tướng một mặt hai cánh tay thì tay phải cầm quả hay mãn túc tất cả Tâm
Nguyện, tay trái kết Thí Y Nguyện Ấn kèm vịn hoa Ổ Bà La (Utpāla), cành hoa men
theo cánh tay rồi nở rộ ở bên lỗ tai, trên hoa có báu Ma Ni, đầy đủ mọi loại châu báu
Anh Lạc trang sức của Báo Thân Phật (Saṃbhoga-kāya-buddha), an trụ ở vành trăng
trên hoa sen
277
_Hoặc hiện hình tượng có thân màu vàng sáng, khoác áo Trời (thiên y), thân đeo
rất nhiều châu báu Anh Lạc để trang sức, tay phải tác Thí Nguyện Ấn, tay trái cầm cái
bình báu kèm vịn một bông lúa men theo cánh tay trổ bên lỗ tai, ngồi theo tư thế Du
Hý tại vành trăng trên hoa sen
Ý nghĩa của hình tượng:
.)Thân màu vàng sáng biểu thị cho Kim Cương Như Ý Bộ (Vajra-maṇi-
kulāya) của Đức Phật Bảo Sinh (Ratna-saṃbhava) ở phương Nam
.)Tay phải tác Thí Nguyện Ấn biểu thị cho nguyện vọng ban bố tiền của và sự
thành tựu cho chúng sinh
.)Tay trái cầm cái bình báu kèm vịn bông lúa biểu thị cho nguồn Tư Lương Trí
Tuệ thành Phật có được từ sự Bố Thí rộng rãi
_Hoặc hiện hình tượng có thân màu vàng sáng, khoác áo Trời (thiên y), thân đeo
rất nhiều châu báu Anh Lạc để trang sức, tay phải tác Thí Nguyện Ấn kèm vịn bông
lúa, tay trái cầm cái cái bát chứa đầy vật báu, ngồi theo tư thế Kim Cương Kiết Già tại
vành trăng trên hoa sen 278
Trong hình tượng này thì tay phải tác Thí Nguyện Ấn kèm vịn bông lúa biểu thị
cho sự ban cho ngũ cốc được mùa đem lại sự trù phú no ấm. Tay trái cầm cái bát
chứa đầy vật báu biểu thị cho sự cầu tài tiến bảo, đạt được sự giàu có.
.)Hình tượng một mặt hai cánh tay (Hoàng Sắc Tài Tục Mẫu): Thân ấy màu
vàng rực rỡ, dùng các loại Anh Lạc quý báu để trang nghiêm, dùng tòa Như Ý, an trú
trong vành trăng trên Hoa Sen. Tay phải kết Thắng Thí Diệu Ấn hoặc cầm Quả hay
mãn túc tất cả tâm nguyện; tay trái cầm bông Lúa (hoặc cái bình báu) hay kết Bố Thí
Ấn
279
Tài Tục Mẫu dung mạo hiền hòa, ban cho Hành Giả tiền của viên mãn tốt lành,
tay phải kết Thí Thắng Ấn biểu thị ban cho thành tựu Tài Bảo, tay trái cầm cái Bình
báu biểu thị Bố Thí thịnh vượng giàu sang đầy đủ là tiền của Trí Tuệ để thành Phật.
Thân của Tài Tục Mẫu biểu thị Tài Lưu (tiền của lưu chuyển) của Phật Mẫu, lời nói
biểu thị Phật Pháp như Cam Lộ chảy thông suốt, Ý biểu thị tiêu trừ tất cả tội ác, ánh
sáng chiếu soi công đức vô thượng.
Tu trì Pháp Phật Mẫu này, hay chặt đứt tất cả sự lười biếng, chướng ngại và tâm
tạp loạn của người tu hành, có thể tăng trưởng công đức đã nhiếp của Giới Định Tuệ và
tất cả Phước của Tuệ Tài (tiền tài của Trí Tuệ) hay được Tài Phú với Phật Pháp tôn
quý và hay chặt đứt phiền não và tập khí của chúng sinh, nhập vào Viên Mãn Vô
Thượng Phật Đạo.
.) Hình tượng một mặt sáu cánh tay: Bên phải: tay thứ nhất để ngang ngực kết Vô
Uy Ấn, tay thứ hai cầm châu báu, tay thứ ba cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất rũ
xuống dưới cầm cái tịnh bình, tay thứ hai cầm bông lúa (quả Tuệ), tay thứ ba cầm
quyển Kinh Bát Nhã
280
_Hình tượng ba mặt sáu cánh tay: Bên phải: tay thứ nhất tác Thí Nguyện Ấn, tay
thứ hai cầm viên ngọc báu Ma Ni, tay thứ ba cầm tràng hạt. Bên trái: tay thứ nhất để ở
eo lưng cầm cái bình báu, tay thứ hai cầm bông lúa (quả Tuệ), tay thứ ba cầm quyển
Kinh Bát Nhã
Ý nghĩa của 6 Pháp Khí:
.)Tay kết Thí Nguyện Ấn biểu thị cho nguyện vọng bố thí cho chúng sinh
.)Tay cầm viên ngọc báu Ma Ni biểu thị cho sự tốt lành, dùng để cầu hạnh phúc
bình an, nạp tiến tài bảo
.)Tay cầm tràng hạt biểu thị cho sự tịnh hóa các phiền não
.)Tay cầm cái bình báu (hay Tịnh bình) biểu thị cho sự cung kính đối với Phật
Pháp, đồng thời tượng trưng cho sự giàu có
.)Tay cầm bông lúa biểu thị cho Pháp Khí nguyên bản của Thiên Nữ là giúp cho
ngũ cốc được mùa đem lại sự sung túc ấm no
.)Tay cầm quyển Kinh Bát Nhã biểu thị cho Trí Tuệ siêu việt của Phật Pháp
_Hình tượng Song Thân Song Vận
Tài Nguyên Thiên Mẫu có tay trái cầm chén sọ người chứa đầy máu, tay phải
cầm Norbu Mebar hiển thế song vận với Hồng Tài Thần theo tư thế đứng múa, đứng
trong vành trăng trên Hoa Sen. 281
.)Thần Chú của Bản Tôn Hồng Tài Thần: OṂ_ JAMBHALA JALENDRAYA
DHANAṂ MEDHI HRĪḤ
.)Thần Chú của Tài Nguyên Thiên Mẫu: OṂ_ ḌĀKIṆĪ –JAMBHALA
SAMBHĀRA SVĀHĀ
Vì Tài Nguyên Thiên Mẫu biểu thị cho sự chủ quản về tiền của giàu có của loài
người, cho nên Pháp Môn này biểu thị cho sự yêu thương thường đem lại hạnh phúc
hôn nhân, gia đình hài hòa, thu hút sự nổi tiếng và giàu có. Do vậy thời xưa, các bậc
Vương Giả hoặc hàng Quý Tộc thường tu theo Pháp này
_Thần Chú của Tài Nguyên Thiên Mẫu là:
.)Thần Chú ngắn:
OṂ_ VASU-DHARE SVĀHĀ
.)Tùy Tâm Chú:
OṂ_ LAKṢMA (?Lakṣmī) BHŪTA-MAṆI VASINIYE SVĀHĀ
.)Thần Chú dài:
OṂ_ VASU-DHARI KṢETRE SVĀHĀ
Tụng niệm Thần Chú của Tài Nguyên Thiên Mẫu có thể đạt được vô số lợi ích,
tiền của, phước báo
_Tài Nguyên Thiên Mẫu thuộc Tác Mật của Mật Chú Bộ, quan hệ với Phật Bộ
Tôn của Du Già Mật Tục, ở trong sáu đường chuyên coi sóc Nhân Đạo, cai quản tài
phú của Thế Gian và là Phật Mẫu của Ngũ Lộ Tài Thần 282
Bản nguyện của Tài Nguyên Thiên Mẫu là hay khiến cho hết thảy ước nguyện
của chúng sinh được viên mãn. Tay kết Bố Thí Ấn tượng trưng cho bố thí tiền của, bố
thí pháp, bố thí sự không sợ hãi, siêng năng hành “Bố Thí Ba La Mật”. Nếu có người
nào cúng dường, lễ bái, làm theo như vậy (y chỉ), và tu pháp trì Chú của Tài Nguyên
Phật Mẫu ắt hay đạt được mọi Tâm Nguyện, khiến tiền của dồi dào, không lo sợ thiếu
thốn.
Nếu người tu trì sau khi được sức gia trì của Tài Nguyên Thiên Mẫu thì đem tài
bảo đã đạt được, rộng thực hành Bố Thí Ba La Mật ắt mới có thể cùng với Thiên Mẫu
tương ứng thành tựu, chứng được Bồ Đề Thắng Quả.
_Bản Phạn Vasudhārādhāraṇī ghi nhận một số Chân Ngôn của Tài Nguyên
Thiên Mẫu là:
.)Căn Bản Minh là:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMO DEVI DHANADADUHITE VASUDHĀRE DHANADHĀRĀṂ
PĀTAYA, KURU KURU, DHANEŚVARI DHANADE RATNADE HE
HEMADHANA RATNA-SĀGARA MAHĀ-NIDHĀNE NIDHĀNA-KOṬI-ŚATA-
SAHASRA-PARIVṚTE EHYEHI BHAGAVATI PRAVIŚYA MATPURAṂ
MADBHAVANE MAHĀ-DHANA-DHĀNYA-DHĀRĀṂ PĀTAYA KURU
KURU.
OṂ_ HRAṂ TRAṬA KAILAVĀSINĪYE SVĀHĀ
.) Đại Minh là:
OṂ_ VASUDHĀRE MAHĀ-VṚṢṬINIPĀTINI VASU SVĀHĀ
.)Căn Bản Tâm là:
OṂ_ VASUDHĀRE SARVĀRTHA-SĀDHINI, SĀDHAYA SĀDHAYA,
UDDHARA UDDHARA, RAKṢA RAKṢA, SARVĀRTHA-NIDHAYANTRAṂ
VATA ṬATA VAVA TAṆḌA DAṆḌA SVĀHĀ
.)Tối Thắng Tâm
OṂ NAMO BHAGAVATYAI ĀRYALEVAḌIKE YATHĀ JĪVASAṂ-
RAKṢAṆI PHALA-HASTE DIVYA-RŪPE DHANADE VARADE ŚUDDHE
VIŚUDDHE ŚIVA-KARI ŚĀTIKARI BHAYA-NĀŚINI BHAYA-DŪṢAṆI
SARVA-DUṢṬĀN BHAÑJA BHAÑJA, MOHAYA MOHAYA, JAMBHAYA
JAMBHAYA, STAMBHAYA STAMBHAYA, MAMA ŚĀTIṂ VAŚYAṂ
RAKṢĀṂ KURU SVĀHĀ
.)Căn Bản Chú:
OṂ_ ŚRIYE SVĀHĀ
OṂ _DHANA-KARI DHĀNYA-KARI RATNA-VARṢAṆI SVĀHĀ
.)Thành Tựu Chú là:
OṂ VASUDHĀRE SVĀHĀ_ HṚDAYAṂ_ LAKṢMYAI SVĀHĀ_ OṂ
UPA-HṚDAYAṂ_ OṂ LAKṢMI- BHŪTALANIVĀSINE SVĀHĀ 283
NHẬT THIÊN
Nhật Thiên, tên Phạn là Āditya, dịch âm là A Nễ Để Gia, nghĩa đen là nhóm
được phân phối không cùng tận, tượng trưng cho các ý thức vô hạn.
_Theo Ấn Độ Giáo thì Dyaus (Thiên phụ, tinh thần) kết hợp với Aditī (Hư Không
Mẫu, không gian vô tận, ý thức vô hạn) sinh ra các Āditya (người con của ý thức vô
hạn) vận chuyển lôi cuốn Thế Gian, sản sinh và nuôi dưỡng vạn vật…. Người Ấn Độ
đã Thần Cách Hóa sức sáng tạo này và gọi Āditya là các vị thần mặt trời. Sau này
Āditya được đồng nhất với Sūrya, và Āditya trở thành tên gọi riêng của Sūrya
Sūrya (Thái Dương Thần) là vị Thần cai quản Thiên Giới, cùng với Phong Thần
(Vāyu) là vị Thần cai quản không trung, Hỏa Thiên (Agni) là vị Thần cai quản Hạ
Giới… được hợp xưng là Phệ Đà Tam Tôn. Trong đó Sūrya là nguồn sống của vũ trụ,
là Minh Trí của tất cả sinh vật.
Sūrya được thờ phượng qua hình dáng vị Thần có thân màu đồng đỏ, tóc và râu
màu vàng, đội vương miện, đeo vòng, ngồi trên xe có bảy con ngựa kéo, tỏa ánh sáng
chói lọi khắp nơi
Theo truyền thuyết thì Sūrya (Thần mặt trời) có ba người vợ là Saraṇyu hay
Saṃjña (Nữ Thần Tri Thức), Rājñī (Phi Hậu), Prabhā (Nữ Thần ánh sáng). Do Nữ
Thần Saṃjña không thể chịu đựng được sức nóng của chồng nên đã bỏ trốn vào rừng
tu và nhờ các Thiên Thần tạo ra Chāya (Nữ Thần bóng tối) có dung mạo giống hệt
Saṃjña để đánh lừa Sūrya. Khi Sūrya biết được sự thật, liền đi tìm Saṃjña. Nữ Thần
Tri Thức biến thành con ngựa cái chạy trốn thì Sūrya liền biến thành con ngựa đực
đuổi theo giao phối và sinh ra vị Thần có mình người đầu ngựa là Aśvin, vị Thần của
nhà nông và cũng là Thầy Y chữa bệnh cho chư Thần.
Sūrya có nhiều người con, trong đó Saraṇyu có 3 người con Yama, Yamī và
Vaivasvata-manu. Chāya có 4 người con là Sāvarni-manu, Śani (Thổ Tinh), Tapti
và Viṣṭi 284
12 Thần Chú kính lễ Thần Mặt Trời Sūrya là:
1_Oṃ Mitrāya namaḥ
2_Oṃ Ravaye namaḥ
3_Oṃ Sūryayāya namaḥ
4_Oṃ Bhānave namaḥ
5_Oṃ Khagāya namaḥ
6_Oṃ Puṣṇe namaḥ
7_Oṃ Hiraṅya-garbhāya namaḥ
8_Oṃ Mārichāye namaḥ
9_Oṃ Ādityāya namaḥ
10_Oṃ Sāvitre namaḥ
11_Oṃ Ārkāya namaḥ
12_Oṃ Bhāskarāya namaḥ
9 vị sao (Nava-grahā: cửu Diệu) được xem là quyến thuộc của Thần Mặt Trời
Sūrya
Trái qua phải: Sūrya, candra, maṅgala, budha, Vṛhaspati
285
Trái qua phải: Śukra, Śani, rāhu, ketu
1_Thần Chú tán tụng Nhật Diệu (Sūrya):
Oṃ_ Aśva-dhvaja vid-mahe
Pasa-hasthaya dhī mahi
Thanna Sūrya prachodayath
OṂ_ HRAṂ HRĪṂ GRŪṂ SAḤ SŪRYA NAMAḤ
2_Thần Chú tán tụng Nguyệt Diệu (Candra):
Oṃ_ Padma-dhvaja vid-mahe
Hema rūpaya dhī mahe
Thanna Soma prachodayath
OṂ_ ŚRAṂ ŚRĪṂ ŚRŪṂ SAḤ CANDRAYA NAMAḤ
3_Thần Chú tán tụng Hỏa Diệu (Maṅgala):
Oṃ_ Vīra-dhvaja vid-mahe
Vighna hasthaya dhī mahi
Thanno bhauma prachodayath
OṂ_ KRAṂ KRĪṂ KRŪṂ BHAUMAYA NAMAḤ
4_Thần Chú tán tụng Thủy Diệu (Budha):
Oṃ_ Gaja-dhvaja vid-mahe
Śuka hasthaya dhī mahi
Thannna Budha prachodayath
OṂ_ BRAṂ BRĪṂ BRŪṂ SAḤ BUDHAYA NAMAḤ
5_Thần Chú tán tụng Mộc Diệu (Vṛhaspati):
Oṃ_ Vṛśabha-dhvaja vid mahe
Ghṛṇi hasthaya dhī mahi
Thanno Guru prachodayath
OṂ_ JHRAṂ JHRĪṂ JRŪṂ SAḤ GURAVE NAMAḤ
286
6_Thần Chú tán tụng Kim Diệu (Śukra):
Oṃ_ Aśva-dhvaja vid mahe
Dhanur hasthaya dhī mahi
Thanna Śukra prachodayath
OṂ_ DRAṂ DRĪṂ DRŪṂ ŚUKRAYA NAMAḤ
7_Thần Chú tán tụng Thổ Diệu (Śani):
Oṃ_ Kaka-dhvaja vid mahe
Khaḍga hasthaya dhī mehi
Thanno Maṇḍa prachodayath
OṂ_ PRAṂ PRĪṂ PRŪṂ SAḤ ŚANAIŚCARAYA NAMAḤ
8_Thần Chú tán tụng La Hầu (Rāhu)
Oṃ_ Nāga-dhvaja vid mahe
Padma hasthaya dhī mehi
Thanno Rāhu prachodayath
OṂ_ BHRAṂ BHRĪṂ BHRŪṂ SAḤ RAHAVE NAMAḤ
9_Thần Chú tán tụng Kế Đô (Ketu):
Oṃ_ Aśva-dhvaja vid mahe
Śūla hasthaya dhī mehi
Thanna Ketu prachodayath
OṂ_ ṢRAṂ ṢRĪṂ ṢRŪṂ SAḤ KETAVE NAMAḤ
287
_Theo Phật Giáo thì Nhật Thiên có tên Phạn là Āditya dịch âm là A Nễ Để Gia,
là dạng Thần cách hóa của mặt trời. Lại xưng là Nhật Thần, Nhật Thiên Tử, là vị Thiên
Tử cư ngụ ở cung mặt trời (nhật cung), lệ thuộc Tứ Thiên Vương. Sau này Āditya
thành tên gọi riêng của Sūrya
Kinh Trường A Hàm, quyển 22, phẩm Thế Bản Duyên ghi chép là: “Nhật
Thiên Tử do đời trước dùng Tâm hiền thiện cúng dường Sa Môn, Bà La Môn, cứu giúp
người nghèo khốn mà cảm được quả báo sinh vào cung mặt trời. Chỗ ở của vị ấy là
cung điện thuần bằng vàng ròng, hay phóng ra ánh sáng của thân chiếu soi bốn Thiên
Hạ, hưởng thọ 500 ngàn tuổi. Khi vị ấy ra ngoài thời có các Đại Thiên Thần dẫn
đường, hoan lạc chẳng mệt mỏi”
Sūrya, dịch âm là Tô Lợi Gia, Tu Lợi, Tu Dã...lại xưng là Nhật Thiên, Nhật
Thiên Tử. Tên gọi riêng là Bảo Quang Thiên Tử, Bảo Ý Thiên Tử là thân biến hóa của
Quán Thế Âm Bồ Tát trụ ở trong cung Thái Dương, mặt trời là cung điện của vị Trời
ấy
.)Lập Thế A Tỳ Đạm Luận, Phẩm Nguyệt Hành nói rằng: “Nhật Cung…
Cung điện ấy nói tên gọi là Tu dã (Sūrya), vị Nhật Thiên Tử này trụ ở trong đó, cũng
có tên gọi là Tu Dã (Sūrya)”
.)Pháp Hoa Văn Cú 2 nói rằng: “Bảo Quang là Bảo Ý Nhật Thiên Tử, do Quán
Thế Âm ứng làm”
.)Pháp Hoa Nghĩa Sớ 1 nói rằng: “Bảo Quang Thiên Tử là Nhật Thiên Tử vậy.
Có Kinh nói rằng Quán Thế Âm tên là Bảo Ý, làm Nhật Thiên Tử”
Sau này Mật Giáo dùng Nhật Thiên là một trong 12 Thiên Hộ Thế, một trong 20
Thiên. Tức Đại Nhật Như Lai (Vairocana-tathāgata) vì lợi ích chúng sinh cho nên trụ
ở Phật Nhật Tam Muội tùy duyên hiện ra ở đời, lúc phá các ám tối thời Tâm Bồ Đề
tự nhiên khai hiển, giống như ánh sáng mặt trời chiếu soi chúng sinh, cho nên xưng là
Nhật Thiên.
.)Phần cuối của Bí Tạng Ký ghi là: “Nhật Thiên có thân màu thịt đỏ, tay phải
cầm hoa sen, ngồi trên xe có bốn (?ba) con ngựa”
288
.)Cúng Dường Thập Nhị Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm nói rằng: “Khi
Nhật Thiên vui thời ánh sáng chẳng làm tổn hại vật, người giận chẳng ngu độn, Hữu
Tình, Phi Tình thảy đều khoái lạc. Khi vị Trời này giận thời mất độ không có ánh sáng,
tuy có mắt nhưng chẳng thể thấy vật, lạnh khổ thông nhau lấn bức”
Do vậy, nếu cầu Trí, dùng Nhật Thiên. Hoặc nếu muốn trừ bệnh nóng lạnh (hàn
nhiệt), tùy dùng Nhật Nguyệt Thiên (Nhật Thiên trừ lạnh, Nguyệt Thiên trừ nóng)
_Trong 12 Thiên thì Nhật Thiên là vị chủ của mọi vì sao (chúng Tinh), bảy Diệu,
các Chấp, tất cả Quang Thần (vị Thần toả ra ánh sáng) dạo trên hư không
Chữ chủng tử là Ā (゛)
289
Nhật Thiên Ấn: Phước Trí (2 tay) ngửa Thủy (ngón vô danh) vào Không (ngón
cái) giữ sát Hỏa Luân (ngón giữa) muốn cùng kèm nhau. Thủy (ngón vô danh) Hỏa
(ngón giữa) tự giữ nhau.
Chân Ngôn là :
“Nẵng mạc tam mạn đa mẫu đà nẫm. A nễ đát-dã dã, sa-phộc hạ”
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁゛ᚦᠥ㗚 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ ĀDITYĀYA SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Nhật Thiên là
một trong 20 Thiên, có vị trí ở phương Đông
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Nhật Thiên có thân màu thịt trắng, tay phải
để trước ngực ngửa lòng bàn tay , bên trên có vành mặt trời, tay trái nắm quyền để ở eo
Mật Hiệu là: Kim Cương Quân Trà Lợi
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Vành mặt trời
290
Tướng Ấn là: Nhật Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Nhật Thiên có Chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là: Vành mặt trời
Tướng Ấn là: Nhật Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Nhật Thiên có Chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
291
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿 ᗜ
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ _ KU
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Nhật Thiên có chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Nhật Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Nhật Thiên có
chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
292
Tam Muội Gia Hình là:Vành mặt trời
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ_ KU
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Nhật
Thiên có chữ chủng tử là: KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là:Vành mặt trời
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗜⴤ 㛿 ᗜ
OṂ _ VAJRA-KUṆḌALI SVĀHĀ_ KU
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) tại phương Đông
của Ngoại Viện Kim Cương Bộ thì Nhật Thiên có thân màu thịt đỏ, khoác Thiên Y,
hai tay đều cầm hoa sen, ngồi trên xe có năm con ngựa kéo. Hai bên có hai vị Phi là
Thệ Gia (Jayā) và Vi Thệ Gia (Vijaya)
293
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Kim Cương Luân.
Tướng Ấn là: Co hai ngón vô danh chạm lưng ngón, hai ngón cái đè bên cạnh hai
ngón vô danh, Hai đỉnh đầu ngón giữa trụ nhau, dựng thẳng hai ngón trỏ hai ngón út.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゛ᚦᠥᜅᜄ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ ĀDITYĀYA SVĀHĀ
NHẬT THIÊN PHI
Nhạ Gia, tên Phạn là Jayā, dịch âm là Nhạ Gia, Thệ Gia, Xả Gia, Bán Giả Gia.
Dịch ý là Thắng, Tôn Thắng. Là một trong 4 chị em Nữ Thiên, một trong hai Phi của
Nhật Thiên. Biểu thị cho Định Đức của Nhật Thiên
Tôn Hình: Thân hiện màu thịt.
294
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay JA (ᘬ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây cung.
Tướng Ấn là:Như Lai Ngữ Môn Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᘬᜄᛢᘬᜄ㖁㛿㐷
OṂ_ JAYA VIJAYA SVĀHĀ
Hay 㫘㖁 ᗰ㖲ᛉㆅ㖁㛿㐷
OṂ_ MAHĀ-GAṄAPĀTHA SVĀHĀ
_Vi Xà Gia, tên Phạn là Vijayā, dịch âm là Nị Giả Gia, Vĩ Nhạ Gia, Tỳ Xã Gia,
Vi Thệ Gia, Vi Nhạ Dã. Dịch ý là Tối Thắng, Vô Thắng. Là một trong 4 chị em Nữ
Thiên, là em gái của Jayā, một trong hai Phi của Nhật Thiên. Biểu thị cho Trí Đức của
Nhật Thiên
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm cây cung, tay phải cầm mũi tên, hướng
mặt về bên phải.
295
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung tên.
Tướng Ấn là: Như Lai Ngữ Môn Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᘬᜄᛢᘬᜄ㖁㛿㐷
OṂ_ JAYA VIJAYA SVĀHĀ
Hay 㫘㖁 ᗰ㖲ᛉㆅ㖁㛿㐷
OṂ_ MAHĀ-GAṄAPĀTHA SVĀHĀ 296
BẮC ĐẨU THẤT TINH
Bắc Đẩu Thất Tinh chỉ bảy ngôi sao tụ thành hình cái Đấu (cái muỗng) ở phương
Bắc, tức cách Bắc Cực khoảng cách khoảng chừng 30 độ, gồm có: Thiên Xu, Thiên
Toàn, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hành, Khai Dương, Dao Quang.
Ở trong Thiên Văn Học, xưng là Đại HùngTinh, tên gọi thông tục là: Tham
Lang Tinh, Cự Môn Tinh, Lộc Tồn Tinh, Văn Khúc Tinh, Liêm Trinh Tinh, Vũ
Khúc Tinh, Phá Quân Tinh…
_Thời Cổ Đại, trong Tinh Tú Quán dùng:
Thiên Xu (Tham Lang Tinh) làm Chính Tinh của bảy ngôi sao, chủ vể Dương
Đức
Thiên Toàn (Cự Môn Tinh) làm Pháp Tinh chủ về âm hình (dạng bệnh ngầm
bên trong, hay bệnh rét lạnh)
Thiên Cơ (Lộc Tồn Tinh) là Lệnh Tinh chủ về phạt hại
Thiên Quyền (Văn Khúc Tinh) là Phạt Tinh chủ về Thiên Lý (lý của Trời)
Ngọc Hành (Liêm Trinh Tinh) là Sát Tinh chủ về trung ương, bốn phương
Khai Dương (Vũ Khúc Tinh) là Nguy Tinh chủ về năm loại lúa đậu thức ăn của
Trời
Dao Quang (Phá Quân Tinh) là Bộ Tinh chủ về binh lính
_Các Pháp: Tôn Tinh Vương Pháp, Bắc Đẩu Pháp, Bắc Đẩu Hộ Ma Pháp…
đều cầu niệm bảy vì sao này.
Ngoài ra, ở trong rừng Thiền (Thiền lâm) có một từ “Bắc Đẩu lý Tạng Thân”
(Thân ần chứa bên trong Bắc Đẩu) nhằm chỉ Thần Thông diệu dụng của vị Thiền Tăng, 297
giống như con Linh Dương treo cái sừng ở trong sao Bắc Đẩu, rốt ráo không có dấu
vết.
Vân Môn Khuông Chân Thiền Sư Quảng Lục ghi rằng:
.)Hỏi: “Như thế nào là câu thấu suốt Pháp Thân?
Sư (Vân Môn) nói: “Bắc Đẩu lý Tạng Thân”
_Phật nói Kinh Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh (ĐTK_No.1307) đã phối hợp 7
vì sao Bắc Đẩu với 7 vị Phật Dược Sư là:
_ Pháp Bắc Đẩu Thất Tinh Diên Mệnh đã phối hợp 7 vì sao Bắc Đẩu với 7 vị
Phật Dược Sư là:
1_ Tham Lang Tinh là Vận Ý Thông Chứng Như Lai Phật ở Thế Giới Tối
Thắng thuộc phương Đông
2_ Cự Môn Tinh là Quang Âm Tự Tại Như Lai Phật ở Thế Giới Diệu Bảo
thuộc phương Đông
3_ Lộc Tồn Tinh là Kim Sắc Thành Tựu Như Lai Phật ở Thế Giới Viên Mãn
thuộc phương Đông
4_ Văn Khúc Tinh là Tối Thắng Cát Tường Như Lai Phật ở Thế Giới Vô
Ưu thuộc phương Đông
5_ Liêm Trinh Tinh là Quảng Đạt Trí Biện Như Lai Phật ở Thế Giới Tĩnh
Trụ thuộc phương Đông
6_ Vũ Khúc Tinh là Pháp Hải Du Hý Như Lai Phật ở Thế Giới Pháp Ý thuộc
phương Đông
7_ Phá Quân Tinh là Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Phật ở Thế Giới Lưu
Ly thuộc phương Đông.
_ Người sinh vào giờ Tý (? Năm Tý) thì hướng vào vì sao này (Tham Lang
Tinh) mà hạ sinh. Lộc Thực là: lúa mùa (Thử: giống lúa Hoàng Mễ). Nếu có ách nạn
nên cúng dường Kinh này và đeo Bản Tinh Phù sẽ được đại cát
_ Người sinh vào giờ Sửu, giờ Hợi cùng hướng vào vì sao này (Cự Môn Tinh)
mà hạ sinh. Lộc Thực là: Hạt dẻ. Nếu có ách nạn nên cúng dường Kinh này và đeo Bản
Tinh Phù sẽ được đại cát
_ Người sinh vào giờ Dần, giờ Tuất cùng hướng vào vì sao này (Lộc Tồn Tinh)
mà hạ sinh. Lộc Thực là: Gạo tẻ (Cánh mễ). Nếu có ách nạn nên cúng dường Kinh này
và đeo Bản Tinh Phù sẽ được đại cát 298
_ Người sinh vào giờ Mão, giờ Dậu cùng hướng vào vì sao này (Văn Khúc
Tinh) mà hạ sinh. Lộc Thực là: Hạt đậu nhỏ (Tiểu Đậu). Nếu có ách nạn nên cúng
dường Kinh này và đeo Bản Tinh Phù sẽ được đại cát
_ Người sinh vào giờ Thìn, giờ Thân cùng hướng vào vì sao này (Liêm Trinh
Tinh) mà hạ sinh. Lộc Thực là: Hạt mè (Ma Tử). Nếu có ách nạn nên cúng dường Kinh
này và đeo Bản Tinh Phù sẽ được đại cát
_ Người sinh vào giờ Tỵ, giờ Mùi cùng hướng vào vì sao này (Vũ Khúc Tinh)
mà hạ sinh. Lộc Thực là: Hạt đậu lớn (Đại Đậu). Nếu có ách nạn nên cúng dường Kinh
này và đeo Bản Tinh Phù sẽ được đại cát
_ Người sinh vào giờ Ngọ thì hướng vào vì sao này (Phá Quân Tinh) mà hạ
sinh. Lộc Thực là: Hạt đậu nhỏ. Nếu có ách nạn nên cúng dường Kinh này và đeo Bản
Tinh Phù sẽ được đại cát.
_ Pháp Bắc Đẩu Thất Tinh của Nhật Bản đã phối hợp 7 vì sao Bắc Đẩu với các
vị Quán Âm (hoặc Bồ Tát) là:
1_ Tham Lang Tinh là Đại Bạch Y Thiên Thủ Quán Âm (hay Nhật Luân Bồ
Tát)
Tôn hình:
Chữ chủng tử: VAI (ᜯ), VIḤ (㫮), AṂ (㖝)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚱ㇂ᚿᚱ㇂ᚿ 㜪
OṂ _ DHĀRAṆĪ DHĀRAṆĪ HŪṂ
hay
㫘 ᚎ㇂ ⹘ᚃオᜊ 㛿
OṂ_ TIRA PṚṆĪKAYE _ SVĀHĀ
299
2_ Cự Môn Tinh là Mã Đầu Quán Âm (hay Nguyệt Luân Bồ Tát)
Tôn hình:
Chữ chủng tử: TRA (ᦤ), TAṂ (ᚖ), VI (ᜪ), TROṂ ()
Chân Ngôn là:
㫘 ᗜ᜔ ᛸ㇂ᚌ 㜪
OṂ _ KURU MARATA HŪṂ
hay
㫘 ᦤ ᦤ ナᚂ 㛿
OṂ _ TRA TRA HANI _ SVĀHĀ
3_ Lộc Tồn Tinh là Bất Không Quyến Sách Quán Âm (hay Quang Minh
Chiếu Bồ Tát)
Tôn hình:
300
Chữ chủng tử: KA (オ), VĪ (ᜫ), RI (ᜒ)
Chân Ngôn là:
㫘 㛺ᚌキ 㜪
OṂ _ PRATAGHA HŪṂ
Hay 㫘 オオオオ ᜒナ ᜒナ㗚 ᜒᚂ 㛿
OṂ_ KA KA KA KA RIHA RIHAYA RIṆI _ SVĀHĀ
4_ Văn Khúc Tinh là Thập Nhất Diện Quán Âm (hay Tăng Trưởng Bồ Tát)
Tôn hình:
Chữ chủng tử là: PRA (㛺), VAU (ᜱ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᦦᛸ㇂ㅿ 㜪
OṂ _ TRIMARAṬA HŪṂ
hay 㫘 㛺㛺 ᛬㗚㇂ ᛬㗚㇂ᚂ 㛿
OṂ _ PRA PRA BHAYARA BHAYARAṆI _ SVĀHĀ
5_ Liêm Trinh Tinh là Thủy Diện Quán Âm Thâm Sa Đại Vương (hay Y Hỗ
Chúng Bồ Tát)
Tôn hình:
Chữ chủng tử: TRŪ (ᦩ), HAḤ (ᝣ), TRAḤ () 301
Chân Ngôn là:
㫘 ᚴㅿ㇂㍅ 㫘
OṂ _ DHUTARAṆI OṂ
hay 㫘 オオオ ᜒ ᜒ㗚 ᜒᚂ 㛿
OṂ_ KA KA KA RIHĀ RIHĀYA RIṆI_ SVĀHĀ
6_ Vũ Khúc Tinh là A Lỗ Lực Ca Quán Âm (hay Địa Tạng Bồ Tát)
Tôn hình:
Chữ chủng tử: NA (ソ), TA (ᚌ), A (ㅥ))
Chân Ngôn là:
㫘 ᗰᦩ 㜪
OṂ _ GATRŪ HŪṂ
hay 㫘 ᚓᚓ ᜒᜒ オオ ᜒナ ᜓナ㗚 ᜒᚂ 㛿
OṂ _ TAI TAI RI RI KA KA RIHA RĪHAYA RIṆI _ SVĀHĀ
7_ Phá Quân Tinh là Hư Không Tạng Bồ Tát (hay Kim Cương Thủ Bồ Tát)
Tôn hình:
302
Chữ chủng tử: VAI (ᜯ), HI (), VA (テ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᛬ᝌᛸ ᝢㅿ 㜪
OṂ _ BHASAMA HAṂṬA HŪṂ
hay 㫘 ᛬ᚓ ᦤ᛬ᚓ ᛬ᜒ᛬ᜒ ᛸ᛬ᜒ ᘔᜒᚂ 㛿
OṂ _ BHATAI TRABHATAI, BHARI BHARI MAHĀ-BHARI CARIṆI _
SVĀHĀ
_Bắc Đẩu Thất Tinh Hộ Ma Bí Yếu Nghi Quỹ (ĐTK_No.1306) ghi chép là:
“Nay Ta vì chúng sinh bạc phước của thời Mạt Thế nên nói thứ tự Nghi Tắc Cúng
Dường Hộ Ma của Bắc Cực Thất Tinh.
Ở trong Tịnh Thất làm một Thủy Đàn hoặc tròn hoặc vuông đều đủ một khuỷu
tay. Dùng 5 vị: Mao Hương, Cam Tùng, Hắc Bệ, Bạch Giao, Bạch Đàn hòa hợp làm
bùn xoa tô. Bên trong Đàn Trường ấy để một cái lò. Thức ăn uống, quả trái chia ra 7
phần để thiêu đốt. Thức ăn là: cơm, thực phẩm, quả trái, bánh, Tô Mật… hoặc ngũ cốc
và Nhũ Mộc. Tùy theo Nhân Mệnh Tinh Tướng (Tướng ngôi sao giữ mạng người)
mà lựa chọn dùng.
Trước tiên nói lời bày tỏ (Khải Từ) là: “Chí Tâm phụng thỉnh Bắc Cực Thất
Minh Na La, Tham Lang, Cự Môn, Lộc Tồn, Văn Khúc, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá
Quân Tôn Tinh. Vì chủ nhà (họ tên…) cầu Tức Tai , Giải Thoát, thọ mệnh lâu dài,
được thấy trăm Thu.
Nay làm Mạn Trà La , nguyện xin rũ thương giáng lâm chốn này nạp thọ Hộ
Ma, ủng hộ Thí Chủ (họ tên…) được tùy theo Tâm mà ngưng dứt tai nạn, giải thoát,
tăng trưởng thọ mệnh” (3 lần)
_ Tiếp kết Ấn là: Chắp tay giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) đem 2 ngón cái vịn
móng 2 ngón vô danh. Hai ngón giữa, 2 ngón út như cánh sen. Hơi mở co 2 ngón trỏ
rồi đưa qua lại.
(Triệu Bắc Đẩu Ấn)
_ Tiếp tụng Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Chân Ngôn và Triệu Bắc Đẩu Thất
Tinh Chân Ngôn.
Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Chân Ngôn là:
ᚼᜀ ᝌᛸⴼ ᚤᜐ ᚤᜐ ᛈᘔᜐ 㭽
NAMO SAMANTA _ DARA DARA PACARA _ HŪṂ
[Thủ Ấn này bổ sung thêm vào Kinh Bản
Bắc Đẩu Nhất Tự Đỉnh Luân Vương Ấn:
Hai tay tác Nội Phộc, dựng cứng hai ngón giữa như hình cây kiếm, co cong hai
ngón trỏ duỗi thẳng lóng bên trên đều vịn móng ngón cái. Đây là Bát Bức Luân Ấn
303
Triệu Bắc Đẩu Chân Ngôn là :
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᚤᜐᚼ イ㫱 ᛈ゜ ゜ ᚤ゜ ᗘ゜ ᜐ゜ ᨘᚌᜐ
ᗼᜐᝢ 㛿
NAMAḤ SAMANTA DARANA EHYEHI, PA I, HA I, DA I, KA I, RA
I, MROTARA GHARAHAṂ _ SVĀHĀ
Dùng tay lấy cây, lúa gạo, Tô Mật, dầu… ném vào trong lò để thiêu đốt. Mắt
chuyên nhìn vì sao Bản Mệnh. Nếu nghiêng động biến màu, lòe sáng chớp nhoáng,
hình dáng trắng vàng liền nên nguyện Như Lai, y theo Pháp trước, 7 ngày đêm mà làm.
ắt nên như việc, nếu không Tinh Tạng mất đi chẳng nhìn thấy (Quyết ghi là : Chẳng
cầu).
Nói Bắc Đẩu Thất Tinh là Tinh của mặt trời, mặt trăng với 5 vì sao . Xưa kia bao
quát chiếu diệu đến 8 phương, bên trên tỏa sáng (Diệu) chốn Thiên Thần, bên dưới
thẳng đến Nhân Gian để quản lý Thiện Ác mà phân chia Họa Phước. Nơi triều tông
của Quần Tinh là nơi phủ ngưỡng (cúi đầu kính mến) của vạn linh.Nếu có người hay lễ
bái cúng dường thì trường thọ phú quý. Người chẳng tôn kính thì vận mệnh chẳng
được dài lâu.
Đây dùng Lộc Mệnh Thư ghi rằng: “Đời có Ty Mệnh Thần mỗi khi đến ngày
Canh, Tân thì bên trên hướng về Thiên Đế bày tỏ tội ác của chúng sinh. Người có tội
nặng ắt tuần tự nhìn nhận tính toán, Người tội nhẹ thì gỡ bỏ, ghi chép vào Toán Thư
(Sách ghi chép tính toán) rồi báo cho Chủ Mệnh”.
Chính vì thế cho nên Đức Thế Tôn vì chúng sinh chết yểu, mệnh ngắn, phước
mỏng ở thời Mạt Thế mà nói Nhất Tự Đỉnh Luân Vương, Triệu Bắc Đẩu Thất Tinh,
Nghi Tắc cúng dường Hộ Ma để cúng dường, khiến cho Mệnh thuộc Tinh Số xóa bỏ
Tử Tịch (sách ghi ngày giờ chết) quay lại giao cho Sinh Tịch (sách ghi đời sống lâu
dài)”
_Bắc Đẩu Thất Tinh Niệm Tụng Nghi Quỹ ghi chép là:
“Bấy giờ Đức Thế Tôn vì tất cả chúng sinh bạc phước ở thời Mạt Thế mà nói
Giáo Pháp Chân Ngôn. Thời tất cả Nhật, Nguyệt, Tinh Tú đều vân tập trước sau vây
quanh, khác miệng cùng lời bạch rằng: “Nguyện xin Đức Thế Tôn vì chúng con mà nói
Thần Chú”
Khi ấy Đức Thế Tôn nói Bát Tinh Chú (? Thất Tinh Chú) là :
Án, táp đá nhi nẵng dã, bán nhạ, mật nhạ dã, nhiễm phổ tha ma, sa-phộc nhĩ
nẵng, la khất-sơn, bà phộc đổ, sa ha
㛸 ᝌ〜 ᘮᚽ㗚 チៜ ᜪㅼ㗚 ᘶ㪦ㆅᛸ 㛿ソ ㇂㈰ チ㙝ᚐ 㛿
OṂ_ SAPTA JINĀYA BHAÑJAYA VIJAYA JAṂPUTHAMA SVĀMINA
(Danh vị…) RAKṢA BHAVATU _ SVĀHĀ
ẤN MINH ấy trích trong Kinh Kim Cương Đỉnh, Phẩm Thất Tinh 304
[Bắc Đẩu Thất Tinh Tổng Ấn :
Hai tay: 2 Hỏa (2 ngón giữa) 2 Không (2 ngón cái) cùng vịn nhau, 2 Thủy (2
ngón vô danh) hợp mặt ngón, 2 Địa (2 ngón út) 2 Phong (2 ngón trỏ) đều trương thẳng
liền thành An (Trích trong A Đà Mật Kinh hoặc Khẩu Quyết …. )]
Đức Phật bảo nhóm Tham Lang, Phá Quân rằng: “Nếu có kẻ trai lành, người nữ
thiện thọ trì Thần Chú ấy thì các ngươi có ủng hộ không?”
Lúc đó 8 Nữ (Bát Nữ) bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Nếu có người mỗi ngày tụng
Thần Chú này thì quyết định trừ diệt hết thảy tội nghiệp, thành tựu tất cả nguyện cầu.
Giả sử lại có người, nếu có thể mỗi ngày tụng Thần Chú này 108 biến liền được Tự
Thân với tất cả Quyến Thuộc ủng hộ. Nếu hay tụng 500 biến sẽ có sức đại uy thần,
trong khoảng chu vi 500 Do Tuần, tất cả Ma Vương với các Ma Chúng, tất cả loài gây
chướng, vô lượng Quỷ ác chẳng dám gần gũi, thường được ủng hộ. Bắc Đẩu Bát Nữ,
tất cả Nhật Nguyệt Tinh Tú, các Trời Rồng Dược Xoa, loài hay gây chướng nạn… đều
bị hoại đứt trong một thời.
Nếu có người muốn cúng dường. Trước tiên phát Tâm bạt tế, ở nơi vắng lặng
thanh tĩnh dùng hương hoa, thức ăn uống cúng dường , tụng trì Thần Chú, kết An Khế.
Như vậy cúng dường thời 8 Nữ với tất cả Quyến Thuộc đều hiện thân tùy ý phụng sự
người tu, thành tựu vô lượng nguyện cầu. Như hàng La Nhạ (Rāja: vua chúa) liền
được vương vị huống chi là chút ít Quan Vị vinh diệu của Thế Gian”
.) Nếu La Hầu (Rāhu), Kế Đô (Ketu) ám cung Bản Mệnh Tinh của Hành Giả thì
nên tụng Bắc Đẩu Chân Ngôn này.
305
CỬU DIỆU
Chín sao Diệu, tên Phạn là Nava-grahani chỉ 9 loại thiên thể của nhóm Nhật,
Nguyệt, Hỏa Tinh. Do chín Diệu này tùy chạy theo mặt trời mà chẳng cách lìa, đầy đủ
ý nắm giữ, cho nên người xưa xưng là chín Chấp.
Y theo Đường Thư (Lịch Chí), quyển 18 ghi chép: “Đời Đường, năm Khai
Nguyên thứ sáu (7180 Thái Sử Giám Cù Đàm Tất Đạt từng phụng chiếu dịch Cửu
Chấp Lịch bao quát Lịch Pháp là một loại Phạn Lịch của loại tựa như Hồi Hồi Lịch
với Thái Dương Lịch, ấy là Cửu Diệu tức y theo Phạn Lịch mà lập Lịch tượng. Thứ
tự như sau:
1_Nhật Diệu, tên Phạn là Āditya hay Sūrya, tên Tạng là Di-ma, tức Thái
Dương (Mặt trời), phối bày ở phương Sửu Dần
2_Nguyệt Diệu, tên Phạn là Soma, tên Tạng là Zla-ba, tức Thái Âm (Mặt trăng)
phối bày ở phương Tuất Hợi
3_Hỏa Diệu, tên Phạn là Aṅgāraka, tên Tạng là Mig-dmar, là Huỳnh Hoặc
Tinh (Hỏa Tinh) phối bày ở phương Nam
4_Thủy Diệu, tên Phạn là Budha, tên Tạng là Lhag-pa, là Thần Tinh, phối bày
ở phương Bắc
5_Mộc Diệu, tên Phạn là Bṛhaspati hay Vṛhaspati, tên Tạng là Phur-ba, là
Tuế Tinh, phối bày ở phương Đông
8_Kim Diệu, tên Phạn là Śukra, tên Tạng là Pa-ba-saṅs, là Thái Bạch Tinh,
phối bày ở phương Tây
7_Thổ Tinh, tên Phạn là Śanaiścara, tên Tạng là Spen-pa, là Trấn Tinh, phối
bày ở phương Trung Ương
(7 vì sao bên trên, gọi là Thất Diệu)
8_La Hầu, tên Phạn là Rāhu, tên Tạng là Sgra-can, tức Hoàng Phan Tinh hay
Thực Thần gặp mặt trời mặt trăng đều ăn nuốt, phối bày ở phương Đông Bắc
9_Kế Đô, tên Phạn là Ketu, tên Tạng là Mjug-riṅ, tức Tuệ Tinh hay Báo Vĩ
Tinh, phối bày ở phương Tây Nam
_Quan hệ với tính chất của Cửu Diệu
.)Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 4 nói rằng: “Nhật, Nguyệt, Hỏa, Thủy, Mộc, Kim,
Thổ là Thất Diệu cùng với La Hầu, Kế Đô hợp làm Cửu Chấp. La Hầu là Giao Hội
Thực Thần. Kế Đô phiên dịch đúng là Kỳ (cây cờ), Kỳ Tinh là Tuệ Tinh vậy. Ngoài
hai Chấp này ra, bảy Diệu còn lại đều theo thứ tự trực nhật, loại tính ấy cũng có thiện
ác”
.)Kinh Tú Diệu, quyển Hạ nói rằng: “Một ngày một di chuyển, bảy ngày giáp
vòng lại chỗ ban đầu, chỗ dùng ấy mỗi mỗi đều có sự thích hợp, chẳng thích hợp”
.)Kinh Khổng Tước, quyển Hạ cũng nói là: “Này A Nan Đà! Ông nên xưng
niệm tên gọi của chín loại Chấp Diệu (Nava-grahā). Chấp Diệu Thiên này khi tuần 306
hành 28 Tú (Aṣṭa-viṃśatīnāṃ-nakṣatrānāṃ) thời hay khiến cho ngày đêm, thời phần
tăng giảm. Hết thảy sự sung túc, tằn tiện, khổ, vui của Thế Gian đều trước tiên biểu thị
cho tướng ấy. Các vị ấy tên là:
Nhật (Sūrya), Nguyệt (Soma) với Huỳnh Hoặc (Aṅgāraka)
Thần (Budha), Tuế Tinh (Vṛhaspati), Thái Bạch (Śukra)
Trấn (Śanaiścara) với La Hầu (Rāhu), Tuệ (Ketu)
Đây gọi là Chấp Diệu (Grahā)
Nhóm Cửu Diệu này có uy lực lớn, hay bày việc tốt xấu”
Do đây có thể biết, thời Cổ Đại thường y theo Cửu Diệu chiêm bốc việc tốt xấu,
họa phước
.)Bản Địa Thuyết của Nhật Bản ghi nhận là:
“Nhật là Quán Âm (hoặc Hư Không Tạng hay Văn Thù Sư Lợi)
Nguyệt là Thế Chí (hoặc Thiên Thủ Quán Âm hay A Di Đà Phật)
Hỏa là Bảo Sinh Phật (Hoặc A Lỗ Ca Quán Âm hay Dược sư Phật)
Thủy là Diệu Trang Nghiêm Phật (hoặc Thủy Diện Quán Âm)
Mộc là Dược Sư Phật (hoặc Mã Đầu Quán Âm hay bất Động Minh Vương)
Kim là A Di Đà (hoặc Bất Không Quyến Sách hay Thế Chí Bồ Tát)
Thổ là Tỳ Lô Giá Na Phật (hoặc Thập Nhất Diện Quán Âm hay Tỳ Sa Môn
Thiên)
La Hầu là Tỳ Bà Thi Phật
Kế Đô là Bất Không Quyến Sách (hoặc Đại Nhật Phật)”
Lại có phối trí với số tuổi của con người mà phân biệt pháp tốt xấu, đưa ra nhóm
Thất Diệu Nhương Tai Quyết
Ngoài ra, y theo Cửu Diệu với Thần Tượng sở thuộc ấy, hội thành Mạn Trà La
(Maṇḍala) và xưng là Cửu Diệu Mạn Trà La. Có điều trong đồ hình thiếu mất Nguyệt
Diệu mà dùng Kiếm Bà (Kampa) thay thế
Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 4 nói rằng: “Chấp Diệu như vậy tức là mội loại
Thiện Tri Thức Môn trong Mạn Trà La. Các Bản Tôn ấy liền hay thuận theo sự
nghiệp của Thế Gian mà làm phương tiện gia trì. Vì A Xà Lê khéo chọn lựa thời cát
tường cho nên cùng với Chân Ngôn Bản Thệ ấy, Pháp Nhĩ tương quan để làm gia trì,
được lìa các chướng vậy”
1_Nhật Diệu (Āditya hay Sūrya): Lại xưng là Nhật Thiên Diệu, Nhật Tinh, Nhật
Tinh (tinh tuý của mặt trời), Thái Dương Mật Nhật Tinh . Là quyến thuộc của Nhật
Thiên của Mật Giáo, hoặc đồng Thể với Nhật Thiên.
Tôn này biểu thị cho Tâm Bồ Đề trong sạch.
Tôn Hình: Thân màu thịt. Tay phải cầm vành mặt trời, Tay trái để ở eo, khoác
Thiên Y. Dùng cỗ xe có ba con ngựa làm toà ngồi.
307
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Văn Thù Sư Lợi là:
308
Chữ chủng tử là: RO (), hay SU (㫾), hay A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là:Vành mặt trời.
Tướng Ấn là:Kim Cương Hợp Chưởng.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᝑ↩ㆎ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SŪRYĀYA_ SVĀHĀ
Hay ソᜀ ㇂ᾰᦤᜅ㗚
ソᜃ ᝑ㛽 ᝌ㛼 ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚
㛸 ㅥᜀᗼᣌ 㗣ᦦ 㛿
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ SŪRYA SARVA NAKṢATRA-RĀJĀYA.
OṂ _ AMOGHA-SYA ( Danh vị… ) ŚATRI _ SVĀHĀ
2_ Nguyệt Diệu (Soma) tức Thái Âm
Tôn hình: Thân màu thịt, tay phải cầm nửa vành trăng, tay trái nắm quyền để
ngang ngực.
309
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của A Di Đà là:
Chữ chủng tử là: SU (㫾), hay SĀ (ᝍ)
Tam Muội Gia Hình là: Con thỏ trên nửa vành trăng.
Tướng Ấn là: Nguyệt Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
310
hay 㫘㖁㈦ᩂ㖁㛿㐷
OṂ_ SOMA-ŚRI_ SVĀHĀ
Hoặc 㛸 ᘔ㪯 ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚 㗣ᦦ 㛿
OṂ _ CANDRA-NAKṢATRA-RĀJĀYA ( Danh vị… ) ŚATRI _ SVĀHĀ
3_Hoả Diệu (Aṅgāraka): Lại xưng là Huỳnh Hoặc Tinh.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm cây kích (hình bên phải)
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Dược Sư Phật là:
311
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Độc Cổ.
Tướng Ấn là: Hỏa Thiên Triệu Thỉnh Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ㅥⳅ㒕ᩂ ㅥឈ㖁㛿㐷
OṂ _ AṄGĀRAKA-ŚRI-AROGYA _ SVĀHĀ
4_ Thuỷ Diệu (Budha):Lại xưng là Thuỷ Tinh, Trích Tinh, Thuỷ Đại Diệu,
Thuỷ Tinh (tinh tuý của nước)
Tôn hình: Thân màu thịt, chắp hai tay lại, đầu đội mão báu Tinh Nguyệt (mặt
trăng có ngôi sao), ngồi Bán Già.
312
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Thập Nhất Diện Quán Âm là:
Chữ chủng tử là: BU (ᜬ)
Tam Muội Gia Hình là:Ngôi sao trên cái bình.
Tướng Ấn là: Thuỷ Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ᜬᚰᚼᝤ㜂 ᵘ㗍 ᗪ㮹㈦㖁㛿㐷
OṂ_ BUDHA- NAKṢATRA SVAMINA KHEDUMA_ SVĀHĀ
5_ Mộc Diệu (Vṛhaspati): Lại xưng là Tuế Tinh, Nhiếp Đề.
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, ngửa lòng bàn tay phải lên trên co ngón giữa
ngón vô danh cùng với ngón cái vịn nhau. Tay trái nắm quyền để ngang eo, giao ống
chân mà ngồi (hình bên trái) 313
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Bất Động Minh Vương là:
314
Chữ chủng tử là: VṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là:Kim Cương Hợp Chưởng, mở dựng hai ngón cái.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
Hay 㫘㖁ㇻ⾀ᚎᩂ㖁㛿㐷
OṂ _ VṚHASPATI ŚRI _ SVĀHĀ
Hay 㛸 ナ⾀ᚎᚰ ᛸᛊㆅ‴㗚 ᛸ㗟 㙝ℼᚦ 㛿
OṂ_ VṚHASPATIDHA MAPITHAVNAYA (Danh vị…) MALA
VARTHADI _ SVĀHĀ
6_ Kim Diệu (Śukra): lại xưng là Kim Tinh, hoặc Thái Bạch. Tôn hình: Thân
màu thịt, khoác Thiên Y. Ngửa lòng bàn tay trái, co 4 ngón. Tay phải để ngang ngực.
315
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Thế Chí Bồ Tát là:
Chữ chủng tử là: ŚU ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên cái bình.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
316
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁 ᩂ㖁㛿㐷
OṂ_ ŚUKRAḤ- ŚRI_ SVĀHĀ
Hoặc 㛸 ᣰ ᗰㆅ㛼 ᜑᘭ㗚 ᩃ ㅵᜒ 㛿
OṂ _ ŚUKRA GATHARVA-RĀJĀYA ( Danh vị… ) ŚRĪ- KARI _ SVĀHĀ
7_ Thổ Diệu (Śanaiścara): tức Trấn Tinh
Tôn hình: Thân màu thịt, hiện tướng Lão Tiên Nhân, thân trên màu đỏ cởi trần,
thân dưới mặc quần da beo, tay phải cầm cây gậy Tiên, tư thế đi bộ
317
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Tỳ Sa Môn là:
Chữ chủng tử là: ŚA (㓢), hoặc PṚ (⹘)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy Tiên.
Tướng Ấn là: Bát Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁デᛃ㫿㬭ᚎ㖁㛿㐷
OṂ_ ŚANAIŚCARA-ŚCITI- ŚRI_ SVĀHĀ 318
8_ La Hầu Tinh (Rāhu): tức Hoàng Phan Tinh, lại xưng là Thực Thần. Lúc gặp
mặt trời, mặt trăng tức là Thực (mặt trời, mặt trăng bị ăn)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, hiện hình phẫn nộ, đầu tóc dựng lên trên, hai tay
để bên lỗ tai.
Hoặc Tôn hình có 3 mặt phẫn nộ, tóc lửa dựng đứng, bên trên có 9 con rắn là:
319
Chữ chủng tử là: RĀ (ᜑ), hay RA (㇂)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là:Kim Cương Hợp Chưởng, mở dựng hai ngón cái.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㫘 ᜑ㫬ᚽ㫾 ᜑᘭㆎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ OṂ RĀHUNA-ASURA-RĀJĀYA _
SVĀHĀ
Hay 㛸 ᜑᚽ㫾㇂ ᜑᘭ㗚 ᛸ 㗣ᚐソ㗚 ᜵ⴾ ㅵᜒ 㛿
OṂ _ RĀHUNA ASURA-RĀJĀYA SOMA ŚATUNAYA (Danh vị…)
ŚĀNTI KARI _ SVĀHĀ
9_ Kế Đô (Ketu): Ketu dịch âm là Kế Đô, Kê Đâu, Kê Đô, dịch ý là Kỳ Tinh. Lại
xưng là Tuệ Tinh, Báo Vĩ Tinh, Thực Thần Vĩ
Tôn Hình: Thân màu thịt, ở trong mây lộ nửa thân
320
Hoặc Tôn hình được xem là Hóa Thân của Đại Nhật Như Lai là:
Chữ chủng tử là: JE (ᘲ), hay KE (ᗞ), hay HE ()
Tam Muội Gia Hình là: Viên ngọc đỏ trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Tuệ Tinh Ấn.
321
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ-KARĀYA _ SARVA
DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA KIṂNARA
MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI SVĀHĀ
Hay 㛸 㙝᥄ᗞᚐ ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚 㜪 㛿
OṂ _ VAJRA-KETUNA-NAKṢATRA-RĀJĀYA (Danh vị…) HŪṂ _ SVĀHĀ
CHÂN NGÔN, THỦ ẤN CỦA TÚ DIỆU
*) Cửu Chấp Diệu Thiên Tổng Ấn: Chân thật chắp tay. Hai Không (2 ngón cái)
kèm nhau dựng thẳng, duỗi 2 Phong (2 ngón trỏ) đều mở gốc ngón rồi đưa qua lại.
Tổng Chân Ngôn là :
㛸 ᤈ㜅㛽 ᧡〜 ៌ᚎ↜㗚 㛿
OṂ _ GRAHEŚVARYA PRĀPTA JYOTIRMAYA _ SVĀHĀ
_ Đại Thánh Tức Tai Chân Ngôn là :
㛸 ᝌ㈴ ᚌᚙᗰᚌ ᩃᜊ 㛿
OṂ _ SARVA TATHĀGATA ŚRĪYE _ SVĀHĀ
_ Phá Tú Diệu Tai Nạn Chân Ngôn:
㛸 ᝌ㈴ᦥ ᩃᜊ ᝌᛸᜊ 㛿
OṂ _ SARVATRĀ ŚRĪYE SAMAYE _ SVĀHĀ
_ Phá Chư Tú Ấn:
Hai tay tác Ngoại Phộc, dựng thẳng hai ngón cái đè trên móng hai ngón trỏ.
Ấn này đồng với Bát Tự Văn Thù Đại Tinh Tiến Ấn
Phá Nhất Thiết Tú Diệu Chướng Cát Tường Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ㛼 ソᝤᦤ ᝌᛸᜊ ᩃᜊ ᜵ⴾㅵ ᗜ᜔ 㛿
OṂ _ SARVA NAKṢATRA SAMAYE ŚRĪYE ŚĀNTIKA KURU SVĀHĀ
322
_ Năng Cát Tường Chân Ngôn:
ソᜀ ㇂ᾰᦤᜅ㗚
ソᜃ ᛸ ᝌ㛼 ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚 ᘔᚐℾㆼ ゛ᜤㅵᜑ㗚
ᚌᠼᚙ 㛸 㮹ᛸㆼ 㮹ᛸᚎᝌ ㆼ㍅ᗤᝒ 㛿
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ SOMA SARVA NAKṢATRA-RĀJĀYA _ CATURTHIPA
ĀLOKARĀYA
TADYATHĀ : OṂ_ DUMAPA DUMATISA PANIKHASE _ SVĀHĀ
_Phật nói Kinh Thánh Diệu Mẫu Đà La Ni ghi nhận hai bài Chú là:
.) Cúng Dường Tú Diệu Chân Ngôn:
OṂ_ MEGHOLKĀYA SVĀHĀ
OṂ_ ŚITĀṂŚAVE SVĀHĀ
OṂ_ RAKTĀṄGA-KUMĀRĀYA SVĀHĀ
OṂ_ BUDHĀYA SVĀHĀ
OṂ_ VṚHASPATAYE SVĀHĀ
OṂ_ ASURA-UTTAMĀYA SVĀHĀ
OṂ_ KṚṢṆA-VARṆĀYA SVĀHĀ
OṂ_ RĀHAVE SVĀHĀ
OṂ_ JYOTIḤ-KETAVE SVĀHĀ
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Chân Ngôn xong liền bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát
rằng: “Cửu Diệu Chân Ngôn như vậy, người niệm đều được thành tựu. Trước hết nên y
theo Pháp dùng nước thơm xoa Man Noa La (Maṇḍla: Đàn Trường) rộng 12 ngón tay.
Hoặc dùng vật khí bằng vàng bạc, hoặc vật bằng đồng, vật bằng sành sứ hiến nước Át
Già cúng dường Tinh Diệu, dùng Chân Ngôn trước đều niệm 108 biến thì việc mong
cầu ắt đều thành tựu”
.)Tú Diệu Mẫu Đà La Ni (Gṛha-mātṛka-nāma-dhāraṇī)
OṂ NAMO RATNA-TRAYĀYA
OṂ NAMO BUDDHĀYA
OṂ NAMO DHARMĀYA
OṂ NAMO SAMGHĀYA
OṂ NAMAḤ VAJRA-DHARĀYA
OṂ NAMAḤ PADMA-DHARĀYA
OṂ NAMAḤ KUMĀRĀYA
OṂ NAMAḤ SARVA-GRAHĀNĀṂ SARVA-AŚĀ-PARIPŪRAKĀNĀṂ
OṂ NAMAḤ NAKṢATRĀNĀṂ
OṂ NAMO DVĀ-DAŚA- RĀŚĪNĀṂ
OṂ NAMAḤ SARA-UPADRAVĀNĀṂ
TADYATHĀ:
OṂ _ BUDDHE BUDDHE _ ŚUDDHE ŚUDDHE _ VAJRE VAJRE _
PADME PADME _ SARA SARA _ PRASARA PRASARA _ SMARA SMARA _
KRĪḌA KRĪḌA _ KRĪḌĀYA KRĪḌĀYA _ MARA MARA _ MĀRAYA
MĀRAYA _ MARDAYA MARDAYA _ STAMBHA STAMBHA _
STAMBHAYA STAMBHAYA _ GHAṬA GHAṬA _ GHĀṬAYA GHĀṬAYA _
MAMA SARVA-SATTVĀNĀNCA VIGHNĀN CCHINDA CCHINDA BHINDA 323
SARVA-VIGHNĀN NĀŚANĀṂ KURU KURU MAMA
SAPARIVĀRASYA SARVA-SATTVĀNĀÑCA
KĀRYAṂ KṢEPAYA KṢEPAYA MAMA SARVA-SATTVĀNĀÑCA
SARVA-NAKṢATRA-GRAHA-PĪDĀN NIVĀRAYA NIVĀRAYA
BHAGAVATI ŚRĪYAṂ KURU _ MAHĀ-MĀYA PRASĀDHAYA SARVA-
DUṢṬĀN NĀŚAYA
SARVA-PĀPANI MAMA SAPARIVĀRASYA SARVA-SATTVĀNĀÑCA
RAKṢA RAKṢA
VAJRE VAJRE _ CAṆḌE CAṆḌE _ CAṆḌINI CAṆḌINI_ NURU NURU
_ MUSU MUSU _ MUMU MUMU _ MUÑCA MUÑCA _ HAVĀ HAVE UGRE
UGRA-TARE PŪRAYA
BHAGAVATI MANORATHAṂ MAMA SARVA-PARIVĀRASYA
SARVA-SATTVĀNĀÑCA SARVA-TATHĀGATA-ADHIṢṬHITANA-
ADHIṢṬHITE SVĀHĀ
OṂ SVĀHĀ
HŪṂ SVĀHĀ
HRĪḤ SVĀHĀ
DHŪḤ SVÀHÀ
DHĪḤ SVĀHĀ
OṂ_ ĀDITYĀYA SVĀHĀ
OṂ_ SOMĀYA SVĀHĀ
OṂ_ DHARAṆĪ-SUTĀYA SVĀHĀ
OṂ_ BUDHĀYA SVĀHĀ
OṂ_ VṚHASPATAYE SVĀHĀ
OṂ_ ŚUKRĀYA SVĀHĀ
OṂ_ ŚANIŚCARĀYA SVĀHĀ
OṂ_ RĀHAVE SVĀHĀ
OṂ_ KETAVE SVÀHÀ
OṂ_ BUDDHĀYA SVĀHĀ
OṂ_ VAJRA-PĀṆAYE SVĀHĀ
OṂ_ PADMA-DHARĀYA SVĀHĀ
OṂ_ KUMĀRĀYA SVĀHĀ
OṂ_ SARVA-GRAHĀṆĀṂ SVĀHĀ
OṂ_ SARVA-NAKṢATRĀṆĀṂ SVĀHĀ
OṂ_ SARVA-UPADRAVĀṆĀṂ SVĀHĀ
OṂ_ DVĀ-DAŚA-RĀŚĪNĀṂ SVĀHĀ
OṂ_ SARVA-VIDYE HŪṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Bấy giờ Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong , liền bảo Kim Cương Thủ Bồ Tát
rằng: “Nay, bí mật tối thượng của Chân Ngôn này là hay cho chúng sinh mãn tất cả
nguyện. Nếu có người cầu sự trường thọ thì vào ngày mồng bảy tháng tám bắt đầu thọ
trì trai giới đến đêm ngày 14 y theo Pháp cúng dường Tú Diệu cho đến ngày 15, trong
một ngày đêm đọc tụng Đà La Ni này thì người đó sẽ sống lâu đến 99 năm. Hết thảy
hàng Lôi Điển, Rồng, Quỷ, các Tinh Diệu ác đều chẳng có thể gây sợ hãi. Lại được
Túc Mệnh Trí, mọi sở nguyện đều như ý” 324
PHẠM THIÊN HỎA LA CỬU DIỆU
Hán Văn: NHẤT HẠNH Thiền Sư tu thuật
Phục hồi Phạn Chú và Việt dịch: HUYỀN THANH
28 TÚ tại ở Trời chuyển theo bên trái, đếm biết địa vị của người xúc phạm.
Đời Đường_Vũ Đức năm đầu tiên khởi từ Mậu Dần đến Hàm Thông năm thứ
15, Giáp Ngọ đều được 257 năm vậy
Đồ hình của Phạm Thiên Hỏa La Cửu Diệu với hai ngôi sao Ám, Hư ở đây, chỉ
chỗ ở của các vì sao. Xem rồi quyết định sự tốt xấu trong một đời, vạn điều chẳng sai
một, rất ư Thần Diệu.v.v….
1_ La Hầu Thực Thần Tinh Minh là:
“Án, la hộ nẵng, a tố la la nhạ dã, tắc ma, xả đổ dã nẵng (Danh vị) phiến để
già lý bà, sa ha”
㛸 ᜑᚽ㫾㇂ ᜑᘭ㗚 ᛸ 㗣ᚐソ㗚 ᜵ⴾ ㅵᜒ 㛿
Oṃ_ Rāhuna-asura-rājāya soma śatunaya (danh dự và địa vị) śānti-kari
svāhā
Sao La Hầu (Rāhu) dùng tiền cúng dường.
Khẩu Quyết nói rằng: “Hướng đến Sửu, Dần cúng.
Năm: 1, 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91 hợp với Đại Hung
Hành niên đến gặp Tú này là xấu (hung). Vì sao này ẩn mà chẳng hiện, một tên
là La Hầu, một tên là La Sư, một tên là Hoàng Phan, một tên là Hỏa Dương chiếu
đến (lâm) Bản Mệnh con người thì lo lắng mất địa vị quan chức, bệnh nặng ràng buộc,
tài vật phá tán, tang chế buồn rầu, cãi vã (khẩu thiệt).
Quốc Vương đã chẳng cúng tế vị Thần này.
Đến Tú này thì tu Phước cầu đảo. Cúng dường Nguyên Thần, Tiền, vẽ Sở Phạm
Thần Hình được đại cát.v.v…
(Mạng người thuộc Trời Đại Thanh. Năm nay, trăm việc như ý, chỗ mong cầu
đều được, đi lại ra vào đều đại cát lợi) 325
2_ Trung Cung Thổ Tú Tinh (Vua tại bốn Quý) Kê Hoãn Chân Ngôn:
“Quy mệnh. Án, tán nhật lợi duệ, sa bà hạ”
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㫘㖁ᘮᚎᜊ㖁㛿㐷
Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Oṃ_ saṃjitiye svāhā
Lại Chân Ngôn là:
“Án, xả nê sát-tác la, nẵng khất-sát đát-la, bả-la ha nẵng, lỗ sa dạ (danh vị…)
phổ sắt-để, ca lý, sa-phộc hạ”
㫘㖁デᛃ㫿ᚼᝤ㜂 ᧹㬍 ᜕ㆼ㗚 ᛌ⼊ 㛿
Oṃ_ Śanaiścara-nakṣatra brāhmaṇa-rūpaya (danh dự và địa vị) puṣṭi-kari
svāhā
Lại Chân Ngôn:
“Án, thú thú yết la nga đà-phộc la-phộc la-phộc, la nhã (danh vị…) thất lý,
sa-bà hạ”
Xuân Tốn, Hạ Khôn, Thu Càn, Đông Cấn, tháng Quý Hạ…bày một mâm trái
cây cúng tế
Khẩu Quyết nói rằng: “Phương ấy chẳng định, Xuân Quý hướng Tốn, ngoài ra
dùng thứ tự mà biết”
Năm: 2, 11, 22, 29, 38, 47, 56, 65, 74, 83, 92 hợp với Đại Hung
Hành Niên đến Tú này là Thổ Tinh (Śanaiścara) ở cung chính giữa. Ngôi sao ấy
có chu vi bao quanh 90 dặm thuộc địa phận của nước Sở (nay là tỉnh Hồ Nam, Hồ
Bắc). Tú này rất xấu thiên về đốt cháy Cung chiếu đến với che chắn con người. Gặp
Tú này phải cẩn thận về bệnh tật, lao ngục. Năm ách nặng của người Quân Tử, hiệu là
Thổ Tinh, chẳng dám phạm vào.
Hình vị Thần ấy như Bà La Môn, đầu đội mão bò, tay cầm tích trượng cùng gây
họa.
Quốc vương lấy tháng Quý Hạ (tháng 6), bày một mâm trái cây cúng tế.
Cầu đảo tống tiễn Bản Mệnh Nguyên Thần, tiền, vẽ Sở Phạm Thần Hình cúng
dường, mặc áo màu vàng cầu đảo ắt tiêu Tai tăng Phước.
Thọ Mệnh Bản Mệnh thuộc Trời Xích Hư, trăm việc chẳng như ý, người nam
chẳng hợp với quan, người nữ chẳng hợp với chồng
Kỵ tháng 3, tháng 9, ngày Canh, ngày Tân
326
3_ Đích Bắc Thần Tinh (Thủy Tinh Vương tại ba tháng mùa Đông) Minh là:
“Án, câu tất đà tha điệt đà lợi, nhai nhai, tử tử, nễ đế, sa bà ha”
Lại Minh là:
“Án, mẫu đà, nẵng khất-sát sa-phộc nhĩ nẵng (danh vị…) khế-nỗ ma, sa-phộc
hạ”
㫘㖁ᜬᚰᚼᝤ㜂 ᵘ㗍 ᗪ㮹㈦㖁㛿㐷
Oṃ_ Budha-nakṣatra svamina (Danh dự và địa vị...) kheduma svāhā
Lại Tâm Chú là:
“Án, tô để-lý sắt tra, sa bà ha”
㫘㖁㫾ᦦ⼔㖁㛿㐷
Oṃ_ sutriṣṭha svāhā
Lấy tháng Trung Hạ (tháng 5) dùng dầu cúng tế, hướng về phương Bắc cúng
Năm: 3, 12, 21, 30, 39, 48, 57, 66, 75, 84, 93…hơi tốt (thiểu cát)
Hành Niên đến Tú này tên là Bắc Thần, một tên là Sàm Tinh, một tên là Trích
Tinh có chu vi bao quanh 100 dặm thuộc địa phận của nước Yên, nước Triệu. Nếu
chiếu đến Bản Mệnh con người; chủ về: Âm, lo buồn, cãi vã, giặc cướp, dẫn dắt, kêu
gọi.
Vị Thần ấy có dạng người nữ, đầu đội mão hình con vượn, tay cầm giấy bút.
Quốc vương lấy tháng Trọng Hạ (tháng 5), dùng dầu tế. Nên cúng Bắc Đẩu cầu
Phước. 327
Đếm 12 Cung này, từ tháng sinh trở xuống, một Tú làm một ngày, theo bên trái
(phần kế tiếp) đếm tới ngày sinh thì dừng, liền biết vậy…dùng thực hành, không có
(bản khác)
Mạng người thuộc Trời Du Hàm, trăm việc chẳng thành, người nam chẳng hợp
với quan, người nữ chẳng hợp với chồng.
Kỵ tháng tư, ngày Bính, ngày Tuất
4_ Tây Phương Thái Bạch Tinh (là Kim Tinh, Kim Thần. Vua tại 3 tháng mùa
Thu) Minh là:
“Quy mệnh. Án, phệ vĩ tỳ, sa bà ha”
Lại Chân Ngôn là:
“Án, thú yết la, nga đà phộc đà-phộc, la nhã, thất lý, sa bà ha”
㛸 ᣰ ᗰㆅ㛼 ᜑᘭ㗚 ᩃ ㅵᜒ 㛿
Oṃ_ Śukra gatharva rājāya (danh xưng và địa vị…) śrī kari, svāhā
Thường lấy tháng Trọng Thu (tháng 8) dùng Sinh Tiền cúng tế, hướng về
phương Tây cúng
Năm: 4, 13, 22, 31, 40, 49, 58, 67, 78, 85, 94…hơi xấu (thiểu hung)
Hành Niên đến Na Hiệt…là Thái Bạch Tinh tức sao Kim ở phương Tây vậy.
Ngôi sao ấy có một tên là Thái Bạch, một tên là Trường Canh, một tên là Na Hiệt.
Ngôi sao ấy có chu vi bao quanh 100 dặm thuộc địa phần nước Tần. Nếu chiếu đến
Bản Mệnh con người ắt có sự than khóc, đao binh
Hình như người nữ, đầu đội mão hình con gà, áo lụa trắng, búng dây đàn, gây tai
vạ cho con người.
Quốc vương thường lấy tháng Trọng Thu (tháng 8) dùng Sinh Tiền cúng tế.
Hành Niên đến ngôi sao này, thích hợp mặc áo trắng, cúng tế Bản Mệnh Nguyên
Thần làm ruộng Phước, rất tốt vậy. 328
Mạng người thuộc Trời Phi Trọng, trăm việc đều tốt, lo giải tai vạ. Người nam:
tiền của hợp với quan, vợ con cùng ràng buộc, sửa trị đời sống gấp vạn lần
5_Thái Dương Mật Nhật Tinh Chân Ngôn là:
“Nẵng mô la đát-nẵng đát la dạ dã. Nẵng mạc tố lý dã, tát phộc nẵng khất-la
đát-la, la nhạ dã. Án a mô già tả (danh vị) thiết để, sa bà ha”
ソᜀ ㇂ᾰᦤᜅ㗚
ソᜃ ᝑ㛽 ᝌ㛼 ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚
㛸 ㅥᜀᗼᣌ 㗣ᦦ 㛿
Namo ratnatrayāya
Namaḥ sūrya sarva nakṣatra-rājāya
Oṃ_ amogha-sya (Danh dự và địa vị…) śatri svāhā
Lấy ngày Đông Chí dùng mọi báu tế, hướng về Mão, Thìn cúng
Năm: 5, 14, 23, 32, 41, 50, 59, 68, 77, 86, 95…rất tốt (đại cát)
Hành Niên đến Tú này, chủ về Thái Dương thuộc mặt trời. Ngôi sao ấy có chu vi
bao quanh 1500 dặm, một ngày một Chu Thiên.
Nếu chiếu đến Bản Mệnh con người đều tăng quan tiến lộc, có việc vui mừng,
thường được Quý Nhân dẫn dắt, chỗ làm được thông đạt.
Quốc vương lấy ngày Đông Chí, dùng mọi báu cúng tế thì rất tốt vậy
Chân Ngôn của ngôi sao này chẳng thể nghĩ bàn. Nếu chí Tâm đeo giữ kèm cúng
dường một năm thì chẳng bị tai vạ, chẳng chết….
Mạng người thuộc Thông Quang, trăm việc như ý, Thiên Thần cùng bảo hộ, cuối
cùng không có gì là thật khó, nơi hướng đến được khai thông, Phước Lộc tự đến.
6_Nam Phương Hỏa Huỳnh Hoặc Tinh (Hỏa Vương tại 3 tháng mùa Hạ) Hỏa
Tinh Chân Ngôn là:
“Quy mệnh. Án, ma ha lợi đa, sa bà ha”
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㫘㖁ᜒ㌌㖁㛿㐷
Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Oṃ Mahā-riṣṭa svāhā 329
Lại Chân Ngôn là:
“Án, a nga la ca, lỗ nghĩ dã (danh vị) sa-bà ha”
㫘㖁ㅥⳅᗙឈ㖁㛿㐷
Oṃ_ Aṅgaraka-arogya (Tên gọi và địa vị…) svāhā
Lấy tháng Trọng Hạ (tháng 5) dùng lửa cúng tế, hướng về phương Nam cúng
Năm: 6, 15, 24, 33, 42, 51, 60, 69, 78, 87, 96…đều là năm xấu
Hành Niên đến ngôn sao này, một tên là nam Phương Huỳnh Hoặc Tinh, một
tên là Tứ Lợi Tinh, một tên là Hư Hán. Chu vi của ngôi sao ấy bao quanh 70 dặm
thuộc địa phận của nước Ngụy.
Nếu chiếu đến mạng người ắt sinh khẩu thiệt (cãi vã), bệnh tật ràng buộc.
Vị Thần ấy có hình như Ngoại Đạo, đầu đội mão lừa, bốn cay cầm binh khí đao
nhọn bén
Quốc vương lấy tháng Trọng Hạ (tháng 5) dùng lửa cúng tế.
Hành Niên đến ngôi sao này thì người Quân Tử gặp Phước, Chức Sự tăng tiến lợi
ích. Kẻ tiểu nhân được Phước, chẳng sinh điều tai hại. Cung kính tức không có tai họa.
Mạng người thuộc Vân Tiêu, Thiên Thần cùng bảo hộ, chẳng dám gây họa, tiền
của tràn đầy, Phước Lộc rộng đến. Tuy có chút lo nhưng tự giài được, không có khổ.
7_Kế Đô Thực Thần Tinh Minh là:
“Án, phộc nhật-la kế đô nẵng, nẵng khất-sát đát-la, la nhạ dã (danh vị) hồng”
㛸 㙝᥄ᗞᚐ ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚 㜪
Oṃ_ Vajra-ketuna-nakṣatra-rājāya (tên gọi và địa vị…) hūṃ
Vẽ hình này để sâu trong cái Thất, cúng dường tiêu trừ tai ương, đẩy Họa thành
Phước. Hướng về Mùi, Thân cúng.
La Hầu (Rāhu) đeo châu báu, còn Nhật (Sūrya), Nguyệt (Soma), Kế Đô (Ketu)
mặc áo gấm thêu (cẩm tú)
Năm: 7, 16, 25, 34, 43, 52, 61, 79, 88, 97… hợp với việc xấu (hung)
330
Hành Niên đến Kế Đô (Ketu) này, cũng là Ẩn Tinh, một tên là Báo Vĩ, một tên
là Đại Ẩn. đầu ẩn chẳng thấy, chẳng thấy mà di chuyển không có hình nhất định.
Nếu chiếu đến tên người (nhân danh) thì làm quan bị nhiều việc bức bách, cầu
quan chẳng vừa ý, công việc bị chuyển dời, Quan Phù ràng buộc, nhiều lo âu bệnh tật.
Ngôi sao này hung xấu. Quốc vương chẳng cúng tế
Hành Niên đến ngôi sao này thì nên tống tiễn Ngũ Đạo Ty Mệnh. Vẽ hình của vị
Thần này, ở trong cái thất sâu, cúng dường cầu đảo, đẩy lùi họa thành Phước.
Nhân Mệnh thuộc Trời Ôn Độc, chỗ hướng đến chẳng như ý, đi không có lợi, vợ
chồng khóc lóc, hoặc chồng rơi nước mắt.
Kỵ tháng 5, tháng 6, ngày Giáp, ngày Ất
8_Mộ Thái Âm (Nguyệt Thiên) Minh là:
“Án, chiến đát-la nẵng khất-sát đát-la, la nhạ dã (Danh vị) thiết để, sa bà hạ”
㛸 ᘔ㪯 ソᝤᦤ ᜑᘭ㗚 㗣ᦦ 㛿
Oṃ_ Candra-nakṣatra-rājāya (tên gọi và địa vị…) śatri svāhā
Thường lấy ngày Hạ Chí, dùng mọi ngọc báu với nước cúng tế. Hướng về Thân,
Dậu cúng
Năm: 8, 17, 26, 35, 44, 53, 62, 71, 80, 89, 98
331
Hành Niên đến vị trí của Tú này là Thái Âm thuộc mặt trăng. Mặt trăng ấy có
chu vi bao quanh 1500 dặm, một ngày đi giáp vòng Thiên Hạ. Nếu chiếu đến Bản
Mệnh con người thì rất tốt, tăng quan tiến lộc, chỗ làm thông đạt, được Quý Nhân dẫn
dắt, lâu dài có việc mừng tốt (hỷ khánh)
Quốc vương lấy ngày Hạ Chí, dùng mọi châu ngọc với nước cúng tế.
Hành Niên đến phương này thì việc được thông hòa, cầu quan được toại ý, chỗ
làm rất tốt.
Mạng người thuộc Trời Vi Cúng, ngàn trăm việc đều xấu, gặp bệnh sợ chết.
Ruộng đất, nuôi tằm chẳng thu hoạch được, lo việc của quan huyện
Kỵ tháng giêng, tháng 9, ngày Bính, ngày Đinh
9_Đông Phương Tuế Tinh (Vua tại 3 tháng mùa Xuân) Mộc Tinh Minh là:
“Nẵng mô tam mạn đa một đà nam. Án, ấn na la dã, sa bà ha”
ᚼᜀ ᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㘳㮅㗚㖁㛿㐷
Namo samanta buddhānāṃ_ Oṃ indrāya svāhā
Lại Chân Ngôn là:
“Án, bà-la ha tát-bát để, nẵng ma địa bỉ đá phộc-nẵng dã (danh vị) ma la
phộc-đà ninh, sa-phộc hạ”
㛸 ナ⾀ᚎᚰ ᛸᛊㆅ‴㗚 ᛸ㗟 㙝ℼᚦ 㛿
Oṃ_ Vṛhaspati dhama pithavnaya (tên gọi và địa vị…) mala varthadi svāhā
Thường lấy tháng Trọng Xuân (tháng 2), dùng mọi báu cúng tế. Hướng về
phương Đông cúng
Năm: 9, 18, 27, 36, 45, 54, 63, 72, 81, 90, 99…đều là Đại Cát (rất tốt)
Hành Niên đến Ốt Một Tư là Tuế Tinh, sao Mộc ở phương Đông, một tên là
nhiếp Đề. Ngôi sao ấy có chu vi bao quanh 100 dặm thuộc địa phận của nước Vệ,
nước Lỗ. Chiếu đến Bản Mệnh con người thì tăng quan tiến lộc, vạn sự tốt lành.
Vị Thần ấy có hình như khanh tướng, mặc áo xanh, đội mão heo, tay cầm hoa quả
Quốc vương thường lấy tháng Trọng Xuân (tháng 2) dùng mọi báu cúng tế.
Hành Niên đến Tú này thì thích hợp giao thông với Quý Nhân, hôn nhân hòa
hợp. Năm này mọi việc đều rất tốt. 332
Mạng người thuộc Trời Cao Thương, vạn sự đều ổn thỏa, chỗ hướng đến được
như ý, đi lại có lợi, cư ngụ bình an, con cháu hưng thịnh
_Bắc Đẩu Thất Tinh Minh là:
“Nẵng mạc tam mạn đa, na la na la, phá tả la, hồng”
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᚤᜐ ᚤᜐ ᛈᘔᜐ 㭽
Namaḥ samanta dara dara pacara hūṃ
_Cửu Chấp Minh là:
“Quy mệnh. Án, nghiệt-la hề niết-phộc lý-dã, bát la bát-đa, nhu để la ma dã,
sa-bà hạ”
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㛸 ᤈ㜅㛽 ᧡〜 ៌ᚎ↜㗚 㛿
Namaḥ samanta buddhānāṃ_ Oṃ_ graheśvarya prāpta jyotirmaya svāhā
Đầu của Thực Thần từ tháng Giêng đến cuối năm thường ở hai Tú này
Dực Tú
Trương Tú (La)
333
Vĩ Tú
Đê Tú (Kế).
Đuôi của Thực Thần từ tháng Giêng đến cuối năm đeo ở hai Tú này (Phần bên
trên không có bản khác)
_Kinh Án Duật Tư ghi rằng:
Phàm con người chỉ biết có bảy Diệu, chẳng hiểu rõ Hư Tinh hiệu là La Hầu
(Rāhu), Kế Đô (Ketu). Ngôi sao này ẩn vị trí nên chẳng thấy; gặp mặt trời, mặt trăng
liền ăn nuốt nên có hiệu là Thực Thần. Kế Đô là cái đuội của Thực Thần, hiệu là Báo
Vĩ. Nếu Hành Niên đến Tú này thì nên vẽ Sở Phạm Thần Hình để sâu trong cái Thất
cúng dường, đốt tiền cầu đảo, tức tai họa chẳng sinh
Nếu gặp sao xấu (ác tinh) thì nên cầu đảo thì mọi việc chẳng trái nghịch với Sở
Phạm ấy, tức biến xấu (hung) thành tốt (cát), chẳng tin liền biến tốt thành xấu.
Gặp sao tốt (cát tinh) thì lớp lớp Phước Đức tự tại
Gặp sao xấu (ác tinh) thì tai hại tranh nhau sinh ra. Vương Hầu phạm vào liền bị
bãi quan giáng chức. Chỉ dùng giờ Hợi, hướng mặt về Bắc Đẩu, chí Tâm tế bái Bản
Mệnh Tinh, cần thiết chẳng được hướng về phương Bắc tiểu tiện sẽ bẻ gãy thọ mệnh
của con người. Thích hợp nghĩ đến niệm chân chính sẽ khéo được Phước, hợp tiền.
Nếu chẳng cầu đảo thì tai hại tranh nhau dấy lên
_Cát Tiên Công lễ Bắc Đẩu Pháp
Trấn Thượng Huyền Cửu Bắc Cực Bắc Đẩu. Từ vương hầu cho đến sĩ thứ, hết
thảy đều thuộc Bắc Đẩu Thất Tinh (bày ngôi sao Bắc Đẩu) thường nên kính trọng sẽ
chẳng gặp tai họa đột ngột, việc hung ác, cứu khắp sự tương ách của người đời, được
kéo dài tuổi thọ, lợi ích cho việc tính toán, không có các tai nạn, cùng với Bản Mệnh
Nguyên Thần, chí Tâm cúng dường đều được toại nguyện thọ mệnh, tài lộc của con
người. Sự tai hại, họa xấu, mê muội lấp kín đều do chẳng kính Tinh Tượng (hình
tượng của ngôi sao), chẳng biết Hữu Phạm Tinh Thần mù mờ mà đi ắt tai nạn tự
nhiên dẫn đến. Cầu đảo liền rất tốt vậy. 334
Ngày cúng tế Bản Mệnh Nguyên Thần: trong một năm có 6 ngày, chỉ chí Tâm,
ngày của Bản Mệnh dùng giấy tiền tốt tùy theo tiền trong năm; dùng ba lớp trà quả,
trải một cái chiếu trên cái sàng sạch, đốt hương, thành Tâm quay mặt nhìn Bắc Đẩu
Lại lễ bái, khải cáo rằng: “Kẻ Tiểu Nhân ở xa ưa thích Đạo, cầu sự linh ứng,
thường thấy Tôn Nghi. Vào ngày của Bản Mệnh, kính cẩn dâng tiền bạc, quả trái tươi
cúng dường Bắc Đẩu Thần Tinh và Bản Mệnh Thần Hình…mong cho tăng trưởng
ích thọ của đời này, không có các tai vạ bất ngờ, Thần Hồn an ổn, Nguyên Thần tự tại,
trợ giúp suốt năm ….”
Lại bái lạy, đốt tiền, chắp tay cúng dường
_Phá Quân Tinh: trì đại trí (người sinh vào năm Ngọ)
_Vũ Khúc Tinh: tân đại đông (người sinh vào nămTỵ, năm Mùi…)
_Liêm Trinh Tinh: bất quán tử (người sinh vào năm Thìn, nămThân)
_Văn Khúc Tinh: vi tuệ tử (người sinh vào năm Mão, năm Dậu)
_Lộc Tồn Tinh: lộc hội (người sinh vào giờ Dần, giờ Tuất)
_Cự Môn Tinh: trinh văn tử (người sinh vào năm Hợi, năm Sửu)
_Tham Lang Tinh: ty hy tử (người sinh vào năm Tý)
Phàm Lộc Mệnh Thư …..
Người thuộc Phá Quân Tinh: một ngày ăn hơn một thăng, thọ mệnh 80 tuổi.
Nam nữ sinh năm Ngọ, tên tự là Đại Kinh Tử
Người thuộc Vũ Khúc Tinh: một ngày ăn hơn một thạch, thọ mệnh 85 tuổi. Nam
nữ sinh năm Tỵ, năm Mùi… tên tự là Đại Đông Tử
Người thuộc Liêm Trinh Tinh: một ngày ăn hơn một thăng, thọ mệnh 80 tuổi.
Nam nữ sinh năm Thìn, năm Thân… tên tự là Thuật Bất Lân Tử
Người thuộc Văn Khúc Tinh: một ngày ăn hơn một thăng, thọ mệnh 90 tuổi.
Nam nữ sinh năm Mão, năm Dậu… tên tự là Vi Tuệ Tử
Người thuộc Lộc Tồn Tinh: một ngày ăn hơn năm thăng, thọ mệnh 80 tuổi. Nam
nữ sinh năm Dần, năm Tuất… tên tự là Lộc Tồn Hội Tử
Người thuộc Cự Môn Tinh: một ngày ăn hơn tám thăng, thọ mệnh 80 tuổi. Nam
nữ sinh năm Sửu, năm Hợi… tên tự là Trinh Văn Tử
Người thuộc Tham Lang Tinh: một ngày ăn hơn hai thăng, thọ mệnh 65 tuổi.
Nam nữ sinh năm Tý… tên tự là Ty Hy Thần Tử
_Tất cả Như Lai nói Phá Nhất Thiết Tú Diệu Chướng Cát Tường Chân Ngôn:
“Án, tát phộc nặc sát đát-la, tam ma duệ, thất lý duệ, phiến để ca, câu lỗ, sa-
bà hạ”
㛸 ᝌ㛼 ソᝤᦤ ᝌᛸᜊ ᩃᜊ ᜵ⴾㅵ ᗜ᜔ 㛿
Oṃ_ sarva nakṣatra-samaye śrīye śāntika kuru, svāhā
Người nam kỵ Thiên La, người nữ kỵ Địa Võng. Muốn biết suy họa chỉ ở tại nơi
mà Hành Niên đã phạm thì không có gì chẳng biết vậy.
Hành Niên của người chồng: tốt ít xấu nhiều…đột nhiên có thể biết nên quay trở
về tránh đi, sẽ chẳng thể nhận chịu tai họa ấy….
_Phạm Thiên Hỏa La Đồ Nhất Thiếp
Kính bạch Đại Phạm Thiên Vương, Đế Thích Thiên Vương, Diêm La Thiên Tử,
Ngũ Đạo Đại Thần, Thái Sơn Phủ Quân, Ty Mệnh Ty Lộc, mười hai cung Thần, bảy 335
Diệu, chín Chấp, hai mươi tám Tú, Dược Xoa, Dược Xoa Nữ, Tỳ Xá Già, Tỳ Xá Chi,
Bộ Đa Na Thiên…Thiện Thần sai khác ở ngay nơi trấn thủ hộ Pháp
Hoặc trong nhà: các hàng Thần lớn nhỏ bảo vệ nhà cùng với loài sinh theo bốn
cách trong sáu đường ở các cõi nước nhiều như hạt bụi nhỏ chẳng thể nói chẳng thể nói
trong ba ngàn Đại Thiên Thế Giới.
Nay con (họ tên là…) nguyện: Tháng này, vào ngày tốt, giờ tốt xin bày biện vật
cúng Vô Già để cúng Thần. Xin bậc Đại Chí ấy có thể biết được tấm lòng này…..
_ Tiếp đến Khuyến Thỉnh, hướng về phương Đông, chắp tay.
Xong phần bên trên
(phần bên dưới biểu thị cho sự viết chép trên giấy, vải. Nay ghi chép lại)
1_ La Hầu: rất xấu (đại ác)
2_ Thổ: hơi xấu (thiểu ác)
3_Thủy: tốt vừa (trung cát)
4_Kim: tốt vừa
5_Nhật: rất tốt (đại cát)
6_Hỏa: hơi xấu
7_Kế: rất tốt
8_Nguyệt: tốt vừa
9_Mộc: rất tốt
Tên gọi là Nhất Thiết Thiểu Thiên Chú Pháp (Tay phải: dựng thẳng ngón giữa,
các ngón còn lại nắm Quyền. Tay trái cũng thế, hai tay hợp cổ tay cách tim ngực tám
Thốn (8/3 dm), hơi co ngón giữa phải, đưa ngón giữa trái qua lại, lay động khiến cáu
giận)
_Chư Thiên Thông Dụng Chú:
“Án, lô ca, ca lộ dã duệ, sa bà hạ”
㛸 ᜤオ オ↩ᜊ 㛿
Oṃ_ Loka karyāye svāhā
_Hết_
336
NGUYỆT THIÊN
Nguyệt Thiên, tên Phạn là Candra, dịch âm là Chiên Đà La, Chiến Đạt La. Dịch
ý là ánh sáng, chiếu sáng. Là dạng Thần Cách Hóa của mặt trăng
Từ xưa dùng tên gọi Tô Ma (Soma), sau này được xem là tương đồng với Thái
Âm (Nguyệt) nên xưng là Tô Ma Đề Bà (Soma-deva). Lại là một vị Tinh Tú, nên
được xưng là Tinh Tú Vương (Nakṣatra-nātha: Tinh Tú Tôn), Sáng Dạ (Niśā-kara),
Đại Bạch Quang (Śītanśu), Lãnh Quang (Śīta-marīci), Dã Thố Hình (Śásin hay
Śaśa), Lộc Hình (Mṛgāṅka)...Lại có tên gọi khác là Nhân Đồ (Indu), Liên Hoa Chủ
(Kuduma-pati), Bạch Mã Chủ (Śveta-vājin), Thấp Bà Đích Đầu Sức (Śiva-
śekhara:vật trang sức trên đầu của Śiva)
_Trong Ấn Độ Giáo, Candra là một vị Thần mặt trăng và là một Chấp Diệu
(Grahā). Trong Phệ Đà (Veda), Candra là vị Thần nắm giữ cái bình chứa nước cốt bất
tử (soma), do đó Candra có tên gọi là Soma và là vị chúa tể của thực vật. Candra được
liên kết với hơi sương, nên được xem là vị Thần của sự sinh sản. Ông còn được gọi là
Rājani-pati (Chúa tể của đêm tối), Kṣuparaka (người soi sáng bóng đêm), Indu (giọt
ánh sáng).
Candra được ghi nhận là con trai của vị Tiên Atri (Atri-mahā-ṛṣi) và là cháu trai
của Phạm Thiên Brahma. Candra được sinh ra từ biển sữa (các vị Thần đã khuấy nó
hàng nghìn năm để tạo ra cuộc sống bất tử). Chư Thần gần như mù quáng với ánh sáng
được phát ra từ thân thể của Candra, nên quyết định đưa Chandra vào một hành tinh rồi
gửi vào vũ trụ.
Người yêu đầu tiên của Candra là Tārā vốn là vợ của Vṛhaspati (Mộc Tinh, Mộc
Diệu), sau đó Candra và Tārā sinh ra Budha (Thủy tinh, thủy diệu). Budha rất ghét cha
mình và Candra cũng không ưa thích con trai của mình, và sự cạnh tranh của họ vẫn
tiếp tục cho đến ngày nay.
Sau này, Candra kết hôn với 27 người con gái của Dakṣa-prajāpati tức là 27
chòm sao (27 Tú), trong đó Rohini là người được ông yêu thích nhất.
337
Candra là chủ tể của ba chòm sao Rohini, Hasta, Śravaṇa hay cung điện của mặt
trăng
Trong Chiêm Tinh Học của Ấn Độ Giáo, mặt trăng được coi là một trong các
hành tinh đem lại sự giàu có và hạnh phúc. Nó cũng được gọi là Śaśi hoặc Tiṅgala.
Ngoài ra Candra còn đại diện cho bộ não và tâm trí, cảm xúc, nhạy cảm, mềm mại, trí
tưởng tượng, nữ hoàng và người mẹ.
Candra được kết hợp với màu trắng, kim loại bạc, đá quý ngọc trai và đá mặt
trăng. Yếu tố liên quan đến Candra là nước, hướng Tây Bắc, mùa đông, các loại lúa
đậu. Như Soma, ông chủ trì ngày thứ hai (Somvar) qua hình tượng có hai cánh tay
338
_Candra được mô tả là trẻ, xinh đẹp và công bằng, tay phải cầm cái chùy, tay trái
cầm hoa sen, ngồi trên chiếc xe do mười con ngựa kéo. Hoặc hình tượng có bốn cánh
tay ngồi trên chiếc xe do các con Linh Dương kéo
339
Ngoài ra Candra còn được minh họa qua các hình tượng khác:
_Thần Chú của Candra là:
Oṃ_ Śraṃ Śrīṃ Śrauṃ Saḥ candrāya namaḥ
_Tại Trung Hoa, Nguyệt Thiên được xem là vị Nguyệt Thần, là một trong bảy sao
Diệu. Lại xưng là Thái Âm Tinh Quân, Nguyệt Cung Hoàng Hoa Tố Diệu Nguyên
Tinh Thánh Hậu, Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Quân Hiếu Đạo Minh Vương. Tên gọi
riêng là Thiên Kính, Kim Thiềm, Tố Nga, Ngọc Bàn. 340
Đạo Giáo Trung Hoa xưng gọi là Thái Âm Nương Nương, Nguyệt Cung Nương
Nương, Thái Âm Bồ Tát.
Thế tục xưng gọi là Nguyệt Nương.
Thái Âm Tinh Quân cùng với Thái Dương Tinh Quân (Nhật Thiên) hợp xưng là
Minh, tượng trưng cho ý ánh sáng của Đại Địa
Tôn hình: thân người nữ, hình tượng đoan trang, mặc triều phục đội mão như vị
vương phi.
_Theo Phật Giáo thì Nguyệt Thiên, tên Phạn là Candra, dịch âm là Chiên Đà La,
Chiến Đạt La, tức là vị Thiên Vương ngự tại cung điện mặt trăng. Lại xưng là Nguyệt
Thần, Nguyệt Thiên Tử, Danh Nguyệt Thiên Tử, Nguyệt Cung Thiên Tử, Bảo Cát
Tường Thiên Tử.
.)Kinh Trường A Hàm, quyển 22 ghi chép là: “Nguyệt Thiên Tử trụ ở cung điện
mặt trăng. Cung Điện ấy có một cái xe lớn do Lưu Ly xanh tạo thành, cao 60 Do Tuần,
rộng 8 Do Tuần. Nguyệt Thiên Tử ở trong cái xe này cùng với các Thiên Nữ dùng mọi
loại Công Đức của năm Dục hòa hợp nhau thọ nhận niềm vui. Họ sống đến 500 tuổi,
con cháu kế thừa nhau gìn giữ cung mặt trăng (nguyệt cung). Thân của vị ấy tỏa ra
ngàn ánh sáng, năm trăm ánh sáng chiếu soi xuống dưới, năm trăm ánh sáng chiếu soi
chiều ngang. Do đây lại xưng các tên riêng là Thiên Quang Minh (ngàn ánh sáng),
Lương Lãnh Quang Minh (ánh sáng mát lạnh). Do đời quá khứ tu Công Đức, Nghiệp
Lành của nhóm Bố Thí, trì Giới… mà được sinh vào trong cung điện mặt trăng này,
thọ nhận các Quả vui thích”
.)Kinh Pháp Hoa, quyển 1 ghi chép là: “Quyến thuộc của Thích Đề Hoàn Nhân
(Śākra-indra-devānāṃ) có tên gọi là Nguyệt Thiên Tử (Candra-deva-putra)”
.)Pháp Hoa Kinh Huyền Tán, quyển 2 nói rằng: “Đại Thế Chí (Mahā-sthāma-
prāpta) có tên là Bảo Cát Tường, làm Nguyệt Thiên Tử. Tức đây gọi là nguyệt (mặt
trăng). Điều này kế thừa từ thuyết của “Tu Di Tứ Vực Kinh” là: Đức A Di Đà Phật
sai hai vị Bồ Tát Bảo Ứng Thanh, Bảo Cát Tường làm mặt trời, mặt trăng. Cho nên
Nguyệt Thiên lại được xem là Thân Ứng Hóa của Đại Thế Chí Bồ Tát”
.)Cúng Dường Thập Nhị Thiên Đại Uy Đức Thiên Báo Ân Phẩm ghi là: “Khi
Nguyệt Thiên vui thời ánh sáng lạnh tăng thêm khiến cho vật, người không có bệnh
nóng sốt. Khi giận thời buông bỏ hết” 341
Do vậy, nếu muốn trừ bệnh nóng lạnh (hàn nhiệt), tùy dùng Nhật Nguyệt Thiên
(Nhật Thiên trừ lạnh, Nguyệt Thiên trừ nóng)
Ngoài ra trong Mật Giáo xem Nguyệt Thiên là một trong Thiên Bộ ủng hộ Phật
Pháp và là một trong 20 Thiên hộ thế
_Trong 12 Thiên thì Nguyệt Thiên là vị chủ 28 Tú, 12 Cung Thần, tất cả chúng
Tú trụ trên hư không
Chữ chủng tử là CA (ᘔ)
Nguyệt Thiên Ấn: Duỗi năm ngón của bàn tay trái rồi hơi co lại thành Ấn của
nửa hoa sen (Bán Liên Hoa), chỉ làm tướng mặt trăng có màu trắng tinh ở trong lòng
bàn tay.
Chân Ngôn là :
“Án, chiến nại la dã , sa phộc ha”
㛸 ᘔ㮅㗚 㛿
OṂ _ CANDRĀYA SVĀHĀ 342
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Nguyệt Thiên
là một trong 20 Thiên hộ thế
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Nguyệt Thiên hiện hình Đồng Tử, thân màu
thịt trắng, tay trái để trước ngực cầm nửa vành trăng, tay trái nắm quyền để ở eo.
Mật Hiệu là: Kim Cương Quang
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ), hay PRA (㛺)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng
Tướng Ấn là: Tay trái tác Nguyệt Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Nguyệt Thiên có chữ chủng tử là: PA
(ᛈ)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng
343
Tướng Ấn là: Tay trái tác Nguyệt Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Nguyệt Thiên có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿 㛺
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ_ PRA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Nguyệt Thiên có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
344
Tướng Ấn là: Tay trái tác Nguyệt Thiên Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Nguyệt Thiên
có chữ chủng tử là: GA (ᗰ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿 ᗰ
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ_ GA
345
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì
Nguyệt Thiên có chữ chủng tử là: BHA (᛬)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㛺᛬ 㛿 ᛬
OṂ _ VAJRA-PRABHA SVĀHĀ_ BHA
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) tại phương Tây
của Ngoại Viện Kim Cương Bộ thì Nguyệt Thiên (Candra) là một trong Thiên Bộ thủ
hộ Phật Pháp
Tôn hình:Thân màu thịt trắng, ngồi trên ba con ngỗng. Tay trái để ngang ngực.
Tay phải cầm cây gậy, đầu gậy có hình nửa mặt trăng
Chữ chủng tử là: (ク)
Tam Muội Gia Hình là: Cái bình màu trắng.
346
Tướng Ấn là: Nguyệt Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁 ᘔ㮅ᜄ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ CANDRĀYA_ SVĀHĀ
NGUYỆT THIÊN PHI
Nguyệt Thiên Phi, tên Phạn là Candra-parivārā vợ của Nguyệt Thiên, biểu thị
cho Định Đức của Nguyệt Thiên
Tôn hình: Thân màu thịt trắng, tay trái để trước ngực cầm hoa sen
Chữ chủng tử là: CA (ク)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen xanh.
347
Tướng Ấn là: Nguyệt Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁 ᘔ㝄ㆼᜒᜩ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ CANDRA-PARIVĀRE SVĀHĀ
348
12 CUNG (Dva-daśa-vimana)
Thập Nhị Cung (Dva-daśa-vimana) theo Pháp chiêm tinh của Thiên Văn chỉ 12
cung tinh tú mà Thái Dương (mặt trời) đã đi qua trong một năm, 12 cung này là quyến
thuộc của Nguyệt Thiên
.)Kinh Tú Diệu, quyển Thượng nói rằng: “Phàm 12 Cung (Dvadaśa-vimana)
tức thứ tự vòng sao di chuyển của bảy Diệu (Sapta-grahā). Mỗi vòng quay (lịch) bày
họa phước, điều xấu (tai) tốt (tường) của đường đi (kinh vĩ, tức kinh độ và vĩ độ). Lại
các Cung đều có hình vị Thần để làm rõ hình tượng của Cung. Lại một Cung phối trí
cai quản xếp bày chín chân của Tú (tú cửu túc) để tất cả thứ loại cùng cảm ứng
1_Sư Tử Cung (Siṃha-vimana) lại xưng là Sư Tử Thần Chủ. Chủ về việc thăng
quan, được tiền của. Nếu người sinh thuộc Cung này thì Pháp hợp đủ Tinh Thần, phú
quý, hiếu thuận…hợp với trách nhiệm nắm giữ quân lữ (việc quân sự)
2_Nữ cung (Kanyā-vimana): lại xưng là Thất Nữ Cung, Thiếu Nữ Cung hoặc
Thiên Nữ Thần Chủ. Chủ về việc, thê thiếp, phụ nữ. Nếu người sinh thuộc Cung này
thì Pháp hợp khó được Tâm Phúc, nhiều con trai con gái, đủ tiền tài, chức cao…cho
nên hợp với trách nhiệm nắm giữ việc của cung, phòng
3_Xứng Cung (Tulā-vimana): lại xưng là Xứng Lượng Cung, Thiên Xứng Cung,
Xứng Lượng Thần Chủ. Chủ về việc của kho báu. Nếu người sinh thuộc Cung này
thì Pháp hợp với Tâm ngay thẳng bình chính, được tin kính, nhiều tiền của. Hợp với
trách nhiệm nắm giữ kho tàng.
4_Hạt Cung (Vṛścika-vimana): lại xưng là Thiên Kiệt Cung, Hạt Thần Chủ.
Chủ về việc nhiều bệnh, khắc cấm phần thân. Nếu người sinh thuộc Cung này thì Pháp
hợp với nhiều bệnh, tướng mỏng, Tâm ác, đố kỵ. Hợp với trách nhiệm nắm giữ bệnh
tật
5_Cung Cung (Dhanu-vimana): lại xưng là Nhân Mã Cung, Xạ Thần Chủ. về
việc vui mừng tốt đẹp, được tiền của. Nếu người sinh thuộc Cung này, thì Pháp hợp
với nhiều kế sách, đủ Tâm mưu tính. Hợp với trách nhiệm nắm giữ văn võ đại thần
(tương tướng)
6_Ma Kiệt Cung (Makara-vimana): lại xưng là Ma Hạt Cung, Ma Yết Cung.
Chủ về việc đấu tranh. Nếu người sinh thuộc Cung này thì Pháp hợp với Tâm thô, năm
nghịch, chẳng kính hòa vợ con. Hợp với trách nhiệm nắm giữ Hình Sát (nơi xử phạt
giết chết)
Sáu Cung bên trên thuộc phần của Thái Dương (Āditya)
7_Bình Cung (Kumbha-vimana): lại xưng là Bảo Bình Cung hoặc Thủy Khí
Thần Chủ. Chủ về việc thắng cường. Nếu người sinh thuộc Cung này thì Pháp hợp
với hạnh tốt, trung tín, đủ học vấn, giàu có. Hợp với trách nhiệm nắm giữ trường học
(học quán)
8_Ngư Cung (Mīna-vimana): lại xưng là Song Ngư Cung, Nhị Ngư Cung hoặc
Thiên Ngư Thần Chủ. Chủ về việc thăng quan, nhận chức. Nếu người sinh thuộc
Cung này thì pháp hợp với Tướng Sư và Thừa Tướng (tương tướng ) không có mất
mát, có học vấn, phú quý, trung trực. Hợp với trách nhiệm nắm giữ quan lại, tướng
soái.
9_Dương Cung (Meṣa-vimana): lại xưng là Bạch Dương Chung hoặc Trì Dương
Thần Chủ. Chủ về việc có Đức Hạnh cao thượng (cảnh hạnh). Nếu người sinh thuộc
Cung này thì Pháp hợp với nhiều Phước Đức, sống lâu, lại hay nhẫn nhục. Hợp với
trách nhiệm nắm giữ nhà bếp, nấu món ăn. 349
10_Ngưu Cung (Vṛṣa-vimana): Lại xưng là Kim Ngưu Cung, Mật Ngưu Cung
hoặc Trì Ngưu Thần Chủ. Chủ về việc chăn nuôi súc vật có bốn chân. Nếu người
sinh thuộc Cung này thì Pháp hợp có Phước Đức, nhiều thân hữu, sống lâu, được người
quý kính. Hợp với trách nhiệm nắm giữ chuồng nuôi ngựa
11_Dâm Cung (Mithuna-vimana): lại xưng là Phu Phụ Cung, Phu Thê Cung, Âm
Dương Cung, Song Nữ Cung hoặc Song Điểu Thần Chủ. Chủ về việc mang thai, con
cháu. Nếu người sinh thuộc Cung này thì Pháp hợp với nhiều thê thiếp, được người
yêu kính. Hợp với trách nhiệm nắm giữ chìa khóa cửa
12_ Giải Cung (Karkatāka-vimana): lại xưng là Bàng Giải Cung, Cự Giải Cung,
Giải Thần Chủ. Chủ về việc quan phủ, cãi vã. Nếu người sinh thuộc Cung này thì
Pháp hợp với Tính ác, lừa dối, thông minh nhưng đoản mệnh. Hợp với trách nhiệm
nắm giữ xử phạt, tù ngục, kiện tụng
Sáu Cung bên trên thuộc phần của Thái Âm (Candra)
.) Kinh Tú Diệu, quyển Hạ lại đem 12 Cung này phối bày với 12 tháng trong
một năm, tức dùng Hạt Cung là tháng Giêng, Cung Cung là tháng hai, Ma Kiệt
Cung là tháng ba, Bình Cung là tháng tư, Ngư Cung là tháng năm, Dương Cung là
tháng sáu, Ngưu Cung là tháng bảy, Dâm Cung là tháng tám, Giải Cung là tháng
chín, Sư Tử Cung là tháng mười, Nữ Cung là tháng mười một, Xứng Cung là tháng
mười hai
_Kinh ấy cũng nói Pháp hành động, cấm bế...nêu bày sự tốt xấu khi xuất hành của
người thuộc các Cung. Tức người thuộc Dương Cung đối với ngày trực của Mão Tú,
Vị Tú mà đi về phương Tây ắt có đại hung. Người thuộc Dâm Cung đối với ngày trực
của Tỉnh Tú mà đi về phương Đông ắt được đại cát….
Lại như người thuộc ba cung; Nam Nữ Cung, Xứng Cung, Bảo Bình Cung thì đi
về phương Đông được đại cát
Người thuộc hai cung: Cung Cung, Sư Tử Cung đi về phương Tây được đại cát.
Người thuộc Bạch Dương Cung đi về phương Tây gặp đại hung
Người thuộc bốn cung: Giải Cung, Nữ Cung, Hạt Cung, Ngư Cung đi về phương
Nam được đại cát. Người thuộcMa Yết Cung đi về phương nam gặp đại hung.
_12 Cung phối trí với phương vị thì phân thuộc bốn phương. Tức phương Đông là
nhóm Nam Nữ Cung, Bạch Dương Cung, Kim Ngưu Cung. Phương Tây là nhóm
Xứng Cung, Hạt Cung, Cung Cung. Phương Nam là nhóm Bảo Bình Cung, Ngư Cung,
Ma Yết Cung. Phương Bắc là nhóm Giải Cung, Sư Tử Cung, Nữ Cung
_Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La ghi nhận
hình tượng, Chữ chủng tử, Tam Muội Gia Hình, Thủ Ấn, Chân Ngôn của 12 cung là:
.)Phương Đông: có 3 Cung
350
1_ Ngưu Mật Cung (Vṛṣa-vimana):
Tôn Hình: Con bò đực màu vàng đỏ.
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: JA (ㅼ), hay VṚ (), hay KA (オ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᝀᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VṚṢA-PATAYE_ SVĀHĀ
2_ Bạch Dương Cung (Meṣa-vimana):
Tôn Hình: Con dê màu trắng. Hoặc là hình Thiên Nữ, tay trái tác Thí Vô Uý Ấn,
tay phải nắm quyền để trước ngực và dựng đứng ngón trỏ. Ngồi trên toà hình tròn,
trước toà có con dê.
351
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: JE (ᘲ), hay ME (), hay MA (ヂ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᝀᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MEṢA-PATAYE_ SVĀHĀ
3a_ Phu Phụ Cung (Nam) (Mithuna-vimana):
Tôn Hình: Nam hướng mặt về bên phải, cùng đối với nữ
352
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: JE (ᘲ), hay MI (), hay KA (オ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁᚜ソᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MITHUNA-PATAYE_ SVĀHĀ
3b_ Phu Phụ Cung (Nữ) (Mithuna-vimana):
Tôn Hình: Nữ hướng mặt về bên trái, cùng đối với Nam. Tay cầm hoa sen, trên
sen có ngôi sao
353
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: JE (ᘲ), hay MI (), hay KA (オ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁᚜ソᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MITHUNA-PATAYE_ SVĀHĀ
_ Phương Nam: có 3 Cung
354
1_ Hiền Bình Cung (Kumbha-vimana):
Tôn Hình: Trong cái bình báu có cắm hoa sen búp nụ
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: KU (ᗜ), hay MA (ヂ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᗜⶐᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ KUMBHA-PATAYE_ SVĀHĀ
2_ Ma Kiệt Cung (Makara-vimana):
Tôn Hình: Hình con cá to lớn.
355
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: MA (㈦), hay KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㈦㒕ᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MAKARA-PATAYE_ SVĀHĀ
3_ Song Ngư Cung (Mīna):
Tôn Hình: Hai con cá
356
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: MI ()
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㗍ᛈᚌᜊ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MĪNA-PATAYE_ SVĀHĀ
_ Phương Tây: có 3 Cung
357
1_ Xứng Cung (Tulā-vimana):
Tôn hình: Thân màu thịt, hiện tướng Lão Tiên Nhân cởi trần. Tay trái để ngang
ngực. Tay phải cầm cái cân
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: TU (ᚐ), hoặc JO (ᘴ), hoặc RAḤ ()
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᚐ ᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ TULĀ-PATAYE_ SVĀHĀ 358
2_ Yết Trùng Cung (Vṛścika-vimana):
Tôn hình: Thân màu đen đỏ, hiện hình bên ngoài của con Bò Cạp
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: VṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁㬭オ ᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ VṚŚCIKA-PATAYE_ SVĀHĀ 359
3_ Cung Cung (Dhanu-vimana):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay phải cầm mũi tên, tay trái cầm cây cung, hiện tư thế
Thiên Nhân đi bộ.
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: DHAṂ (ᚺ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᚰᛀ ᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ DHANU-PATAYE_ SVĀHĀ 360
_ Phương Bắc : có 3 Cung
1_ Thiếu Nữ Cung (Kanyā-vimana):
Tôn hình:Thân màu thịt, ngửa lòng bàn tay phải. Tay trái duỗi ngón cái để ở bắp
đùi
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: KA (オ), hay HAṂ (ᝢ) 361
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁オᡕᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ KANYĀ-PATAYE_ SVĀHĀ
2_ Bàng Giải Cung (Karkatāka-vimana):
Tôn hình: Thân màu thịt trắng, hiện hình con cua lớn
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: KA (オ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
362
Chân Ngôn là:
㫘㖁オ⁼ᚍオᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ KARKATĀKA-PATAYE_ SVĀHĀ
3_ Sư Tử Cung (Siṃha-vimana):
Tôn hình: Thân màu vàng ròng, hiện hình Sư Tử
Hoặc Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: SI (ᝎ), hay HA (ナ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung điện.
Tướng Ấn là: Chư Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁㭄ᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
OṂ_ SIṂHA-PATAYE_ SVĀHĀ
363
NHỊ THẬP BÁT TÚ
Nhị Thập Bát Tú, tiếng Phạn là Aṣṭāviṃśati-nakṣatrānī hay Aṣṭāviṃśati-
nakṣatrānāṃ, tiếng Tây Tạng là Rgyu-ska ñiśu-rtsa, chỉ 28 loại Tinh Tòa (chòm
sao), Tú (Nakṣatra) là ý tưởng của chòm sao, cũng tức chỉ 28 chòm sao trên quỹ đạo
mà Thái Âm đã vận hành.
28 chòm sao gồm có: Ngang (hay Mão), Tất, Tuy, Sâm, Tỉnh, Quỹ, Liễu, Tinh,
Chẩn, Kháng, Trương, Dực, Giác, Đê, Nữ, Đẩu, Ngưu, Cơ, Vĩ, Tâm, Phòng, Hư,
Nguy, Thất, Khuê, Bích, Lâu, Vị… là quyến thuộc của Nguyệt Thiên.
Thuyết của 28 TÚ sớm được lưu hành ở Ấn Độ, trong Dạ Nhu Phệ Đà (Yayur-
veda) đã xếp bày đủ tên gọi của 28 Tú. Trong Phật Điển như “Ma Đăng Già Kinh”,
“Xà Đầu Gián Thái Tử Nhị Thập Bát Tú Kinh”, “Đại Phương Quảng Đại Tập
Kinh”, “Phật Mẫu Đại Khổng Tước Vương Kinh”, “Tú Diệu Kinh” đều từng nói
đến. Ngoài ra ở bốn phương của Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Thai Tạng Giới
Man Đa La cũng từng ghi chép hình tượng
Tại Trung Quốc, trong Thiên Quan Thư, quyển 5 thường luận thuật quan hệ của
28 Tú với 12 tháng. “Tiền Hán Thư”, “Luật Lịch Chí, quyển Hạ: xác định phần độ
của 28 Tú, tính toán sự khác biệt nóng lạnh của từng năm. “Sử Ký” được viết thành 364
sách vào thời đầu của Thế Kỷ thứ nhất trước Tây Nguyên (công nguyên), cho nên
thuyết của 28 Tú ở Trung Thổ xuất hiện trễ nhất là vào năm đầu tiên của Tây Hán
Căn cứ vào điều mà Cao Nam Thuận Thứ Lang (người Nhật) đã thuật thì Ấn
Độ, Trung Quốc, Ba Tư, A Lạp Bá, Ai Cập… từ xưa đã truyền tên gọi của 28 Tú. Cao
Nam lại y cứ vào điều mà Học Giả người Đức Vi Bá (Weber) với người Mỹ Huệ Đặc
Ni (Whitney) đã nói, chỉ ra hệ Tinh Thuật khởi nguồn từ Ba Tỷ Luân, đại khái ở
trước Tây Nguyên (công nguyên) trên dưới 800 năm truyền vào Ấn Độ.
_Căn cứ vào Kinh Tú Diệu, quyển Hạ ghi chép thì Đời Đường dùng 28 Tú, Tây
Quốc (Ấn Độ) trừ bỏ Ngưu Tú chỉ dùng 27 Tú rồi dựa theo thư tịch cổ của Ấn Độ là
Kiên Để Sa Luận (Jyotiṣa) chẳng nêu lên 28 Tú mà chỉ đưa ra 27 Tú. Hệ Ấn Độ đời
sau lưu truyền Thuyết 27 Tú cho nên nói là 27 Tú quan hệ với số chòm sao trên Quỹ
Đạo mà Thái Âm đã đi qua chỉ có 27 Tú, nhưng mà trong một tháng từ Tân Nguyệt
cho đến kỳ Hắc Nguyệt của Mãn Nguyệt tính toán có 30 ngày nên đã dẫn đến điều
này
.)Kinh Tú Diệu, quyển Thượng nói có ba loại Tiền Hợp, Tùy Hợp và Tịnh
Hợp là: “Sáu Tú: Khuê, Lâu, Vị, Ngang (Mão), Tất, Tuy là Tiền Hợp. Mười hai Tú:
Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn, Giác, Kháng, Đê, Phòng là Tịnh
Hợp. Chín Tú: Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích là Tùy Hợp.
Phàm Tú ở phía trước Nguyệt (mặt trăng), Nguyệt ở phía sau Tú là Tiền Hợp
Nguyệt ở phía trước Tú, Tú ở phía sau Nguyệt như con nghé đi theo mẹ, là Tùy
Hợp
Tú, Nguyệt cùng đi là Tịnh Hợp”
_Khi phối hợp 28 Tú với 4 phương, mỗi phương có 7 Tú thì các Kinh Bản có sự
xếp đặt khác nhau
.) Phần lưu thông bên ngoài là:
365
7 Tú ở phương Đông (Thanh Long) là:
1_Giác (Oitrā hay Citrā):
2_Kháng (Niṣṭyā hay Svāti):
3_Đê (Viśākha), Phòng (Anūrādhā):
366
4_Phòng (Anūrādhā):
5_Tâm (Rohiṇi-jeṣṭhaghni, hay Jeṣṭhā):
6_Vĩ (Mūlabarhaṇi hay Mūla):
367
7_Cơ (Pūrva-Āṣādhā):
7 Tú ở phương Nam (Chu Tước) là:
1_Tỉnh (Punarvasū):
2_Quỷ (Tiṣya hay Puṣya):
368
3_Liễu (Āśleṣā):
4_Tinh (Maghā):
5_Trương (Pūrva-phalguni):
369
6_Dực (Uttara-phalguni):
7_Chẩn (Hastā):
7 Tú ở phương Tây (Bạch Hổ) là:
1_Khuê (Revati):
370
2_Lâu (Aśvayujan hay Aśvini):
3_Vị (Apabharaṇi hay Bharaṇi):
4_Mão (Kṛtikā):
371
5_Tất (Rohiṇi):
6_Tuy (Invakā hay Mṛgaśirā):
7_Sâm (Bāhu hay Ārdrā):
372
7 Tú ở phương Bắc (Huyền Vũ) là:
1_Đẩu (Uttara-Āṣādhā):
2_Ngưu (Abhijit):
3_Nữ (Śroṇā hay Śravaṇā):
373
4_Hư (Śraviṣṭhā hay Dhaniṣṭhā):
5_Nguy (Śatabhiṣak):
6_Thất (Pūrve-proṣṭhapadā, hay Pūrva-Bhādrapadā):
374
7_Bích (Uttare-proṣṭhapadā hay Uttara-Bhādrapadā):
.) Tại Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La, 28 Tú
được gọi là Đại Tiên (Mahā-ṛṣi) xếp bày ở bốn phương, mỗi phương có 7 Tú
7 Tú ở phương Đông:
1 ) Mão Tú (Kṛtikā)
2 ) Tất Tú (Rohiṇī)
3 ) Tuy Tú (Mṛgaśiras)
4 ) Sâm Tú (Ārdrā)
5 ) Tỉnh Tú (Punarvasu)
6 ) Quỷ Tú (Puṣya)
7 ) Liễu Tú (Āśleṣā)
7 Tú ở phương Nam :
1 ) Tinh Tú (Maghā)
2 ) Trương Tú (Pūrva-phalgunī)
3 ) Dực Tú (Uttara-phalgunì)
4) Kháng Tú (Svātī)
5 ) Chẩn Tú (Hasta)
6 ) Giác Tú (Citrā)
7 ) Đê Tú (Viśākhā)
7 Tú ở phương Tây :
1 ) Phòng Tú (Anurādhā)
2 ) Tâm Tú (Jeṣṭha) 375
3 ) Vĩ Tú (Mūlā)
4 ) Cơ Tú (Pūrva-Āṣādhā)
5 ) Đẩu Tú (Uttara-Āṣādhā)
6 ) Ngưu Tú (Abhijit)
7 ) Nữ Tú (Śravaṇā)
7 Tú ở phương Bắc :
1 ) Hư Tú (Dhaniṣṭhā)
2 ) Nguy Tú (Śatabhiṣak)
3 ) Thất Tú (Pūrva_Bhādrapadā)
4 ) Bích Tú (Uttara_Bhādrapadā)
5 ) Khuê Tú (Revati)
6 ) Lâu Tú (Aśvinī)
7 ) Vị Tú (Bharaṇī)
_ Phương Đông: có 7 Tú
1_ Mão Tú (Kṛtikā)
Kṛtikā (Mão Tú) dịch âm là Khất Lật Để Ca, lại có tên gọi là Mao Đầu.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen bên trên có ngôi sao (hình 231)
376
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: RO () , hay KṚ (⸈)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn: Chắp tay chắc thật. Kèm 2 Không (2
ngón cái) dựng thẳng ngang trái tim, đem 2 Không (2 ngón cái) triệu mời.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁⸈ᚎᗙ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ KṚTIKÀ- NAKṢATRA _ SVĀHĀ 377
2_ Tất Tú (Rohiṇī):
Rohiṇī (Tất Tú) dịch âm là Lô Hứ Nễ, Lỗ Hỷ Ni. Lại xưng là Mộc Giả, Trưởng
Dưỡng Tú, Trưởng Dục Tú.
Tôn Hình: Tay trái cầm hoa sen bên trên có chòm sao. (hình 232)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: RO ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
378
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚃ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ROHIṆĪ- NAKṢATRA _ SVĀHĀ
3_ Tuy Tú (Mṛgaśira):
Mṛgaśira (Tuy Tú) lại xưng là Lộc Thủ Tú.
Tôn Hình: Úp lòng bàn tay phải để trước ngực, dựng lòng bàn tay trái cầm hoa
sen bên trên sen có ngôi sao, giao ống chân mà ngồi. (hình 233)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: RO (), hay MṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
379
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᗰ᜶ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MṚGAŚIRA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
4_ Sâm Tú (Ārdra):
Ārdra (Sâm Tú) dịch âm là Át Đại La. Dịch ý là Dịch Thấp, Mê Thấp, Vị Thấp.
Lại xưng là Sinh Sản Tú, Sinh Dưỡng Tú.
Tôn Hình: Ngửa lòng bàn tay phải để trước rốn. Dựng đứng lòng bàn tay trái, co
ngón trỏ ngón giữa cầm hoa sen, trên hoa sen có ngôi sao. Giao ống chân mà ngồi.
(hình 234)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: RO (), hay A (ㅥ) 380
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゛ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀRDRA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
5_ Quỷ Tú (Puṣya):
Puṣya (Quỷ Tú) dịch âm là Bố Sái. Lại xưng là Xí Thịnh, Tăng Ích.
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình 235)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: PU (ᛌ), hay PRA (㛺) 381
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㪦ᣀ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PUṢYA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
6_ Tỉnh Tú (Punarvasu):
Punarvasu (Tỉnh Tú) dịch âm là Bổ Nại Phạt Tô. Lại xưng là Tăng Tài, Nhãn
Tài.
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình 236)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) , hay PU (ᛌ), hay PRA (㛺) 382
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㪦㗍㎟㫾 ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ PUNARVASU-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
7_ Liễu Tú (Āśleṣa):
Āśleṣa (Liễu Tú) dịch âm là A Thất Lệ Sái. Lại xưng là Bất Cận, Bất Nhiễm.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen (hình 237)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: PRA (㛺), hay A (ㅥ) 383
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁゛ᯆᝀ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀŚLEṢA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
_ Phương Nam: có 7 Tú
384
1_ Tinh Tú (Maghā):
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải cầm hoa sen , trên sen để ngôi sao (hình bên
trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: MA (㈦)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁㈦ᗽ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ MAGHĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ 385
2_ Chẩn Tú (Hastā):
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để ngôi sao. Tay phải úp
lòng bàn tay để ngang ngực (hình ở giữa)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: HA (㗮)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁㗮⽅ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ HASTĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
386
3_ Kháng Tú (Svātī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải dựng lòng bàn tay để trước ngực, co ngón cái,
ngón giữa, ngón vô danh. Tay trái để trước rốn cầm hoa sen , trên sen để ngôi sao (hình
bên phải)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: SVA (ᵘ) hay SVĀ (㛿)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁㛿ᚏ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ SVĀTĪ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ 387
4_ Trương Tú (Pūrva-phalgunī): Lại xưng là Tiền Phả Cầu Ni, Tiền Đức Tú, Sơ
Phá Cầu, Gian Thác Thiên.
TÚ này có 2 ngôi sao (hoặc nói là 3 ngôi sao, 6 ngôi sao), chủ Thiện Thiên, thuộc
Bà Tẩu Thần
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải dựng lòng bàn tay để trước ngực, co ngón cái,
ngón giữa, ngón vô danh. Tay trái để trước rốn cầm hoa sen , trên sen để ngôi sao (hình
bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: MI (), hay PĀ (ᛉ)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁ᛍↄ㗑㒱ᗴᚿ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ PŪRVA-PHALAGUNĪ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ 388
5_ Dực Tú (Uttara-phalgunī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái để trước rốn cầm hoa sen, trên sen để ngôi sao.
Co dựng đầu gối trái (hình bên phải)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: PHA (㗑), hay MI ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_ SVĀHĀ
Hay 㫘㖁㒂㏑㗑㒱ᗴᚿ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ UTTARA-PHALAGUNĪ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
389
6_ Giác Tú (Citrā):
Citrā dịch âm là Chất Đa La, dịch nghĩa là Thải Sắc cho nên được gọi là Thải
Hoạ Tú.
Tôn Hình: Thân màu thịt, dựng lòng bàn tay phải co ngón trỏ ngón giữa ngón vô
danh. Quyền trái để trước rốn, hai tay cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao. Dựng đầu gối
phải, giao ống chân mà ngồi (hình bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: CI (ᘖ), hay MI ()
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
Hay 㫘㖁ᘖᦥ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ CITRĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ 390
7_ Đê Tú (Viśākhā):
Tôn Hình: Thân màu thịt, ngửa lòng bàn tay phải để trước ngực. Tay trái để trước
vú cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao. Dựng đầu gối phải, giao ống chân mà ngồi (hình
bên phải)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ), hay A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
Hay 㫘㖁ᜪ᜵ᗥ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ VIŚĀKHĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ 391
_ Phương Tây: có 7 Tú
1_ Nữ Tú (Śravaṇā):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình bên
phải)
Hay Tôn Hình là:
392
Chữ chủng tử là: ‘SRA (ᩀ)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ᩀᜨᚁᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ ŚRAVAṆĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
2_ Ngưu Tú (Abhijit):
Abhijit là một trong 28 Tú, ở vị trí của toà Sơn Dương.
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) 393
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ㅥᘭᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ AVṚJĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
3_ Đẩu Tú (Uttara-aṣādhā):
Lại xưng là Đại Quang, hoặc Hậu A Sa Trà
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình chính
giữa).
Hay Tôn Hình là:
394
Chữ chủng tử là: MA (㈦)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ゞ㏑゛ᝁᚱ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ UTTARA-ĀṢĀDHĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
4_ Vĩ Tú (Mūla):
Mūla dịch âm là Mâu Lam, Mộ La. Lại xưng là Thần Thiên, Căn Nguyên Tú.
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao, giao ống
chân mà ngồi. (hình thứ ba đếm từ bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: MU (㪧), hay ŚA (㗣) 395
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ㇶᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ MŪLA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
5_ Cơ Tú (Pūrva-Āṣādhā):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình thứ tư
đếm từ bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) 396
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ᛍↄ゛ᝁᚱ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ PŪRVA-ĀṢĀDHĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
6_ Phòng Tú (Anurādhā):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình thứ nhất
đếm từ bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) 397
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ㅥᛀᜑᚰ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ ANURĀDHA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
7_ Tâm Tú (Jyeṣṭhā):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có ngôi sao (hình thứ hai
đếm từ bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: JYE (ᘴ) 398
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁៊⼔ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ JEṢṬHA-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
_ Phương Bắc: có 7 Tú
399
1_ Hư Tú (Dhaniṣṭha):
Tôn hình:Thân màu thịt, tay phải cầm hoa sen, trên hoa có ngôi sao
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: DHA (ᚰ) 400
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ᚰ㍽⼕ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ DHANIṢṬHĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
2_ Nguy Tú (Śatabhiṣak):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái để trước ngực cầm hoa sen, trên hoa có ngôi sao
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: ŚA (㗣) 401
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁㗣スᛮᝀ㐡 ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ ŚATABHIṢAK-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
3_ Thất Tú (Pūrva-bhādrapadā):
Tôn hình:Thân màu thịt, tay phải để ở bắp đùi cầm hoa sen, trên hoa có ngôi sao.
Ngửa lòng bàn tay trái để trước ngực
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: BHA (᛬) 402
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ᛍ㊱᛭ᦼㆼᚥ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ PŪRVA-BHADRAPADĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
4_ Khuê Tú (Revati):
Tôn hình: Thân màu thịt, hai tay để ngang ngực cầm hoa sen, trên hoa có ngôi
sao
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: RE (), hay RO () 403
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁テᚎ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ REVATI-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
5_ Bích Tú (Uttara-bhàdrapadà):
Uttara-bhàdrapadà là một trong 28 Tú
Tôn hình: Thân màu thịt, tay phải cầm hoa sen, trên hoa có ngôi sao. Ngửa lòng
bàn tay trái để trước bắp đùi (hình phía dưới bên phải).
Hay Tôn Hình là:
404
Chữ chủng tử là: ŚA (㗣) hay RO (), hay O (㔦)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁㈂が㇂᛭ᦼㆼᚥ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ UTTARA-BHĀDRAPADĀ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
6_ Vị Tú (Bharaṇi):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay phải cầm hoa sen, trên hoa có ngôi sao, một đầu của
cuống hoa để trên lòng bàn tay trái (hình chính giữa bên trên)
Hay Tôn Hình là:
405
Chữ chủng tử là: BHA (᛬), hay ŚA (㗣)
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁㗕㇂ᚂ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ BHARAṆI-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
7_ Lâu Tú (Aśvinī):
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái ngửa lòng bàn tay trước ngực. Tay phải cầm
hoa sen, trên hoa có ngôi sao (hình phía dưới bên trái)
Hay Tôn Hình là:
Chữ chủng tử là: A (㕿) 406
Tam Muội Gia Hình là: Ngôi sao trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Nhị Thập Bát Tú Tổng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼᝤ㜂 ᚾ⃐ᚤᚂᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ NAKṢATRA NIRJADAṆIYE_
SVĀHĀ
hay 㫘㖁ㅥᵂᚿ ᚼᝤ㜂㖁㛿㐷
OṂ _ AŚVINĪ-NAKṢATRA _ SVĀHĀ
*) Thỉnh Nhị Thập Bát Tú Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㫘 ゚⼈ 㬒᜴㮼㪤 ᚼᝤᦪᢏ ᚾ⃐ᚤᚿᜊ㖁 ᙐ㫅 㜪 ᘷ
㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ OṂ AṢṬA-VIṂŚANĪNĀṂ
NAKṢATREBHYAḤ NIRJADAṆIYE _ ṬAKKI HŪṂ JAḤ _ SVĀHĀ
*) Phá Tú Diệu Tai Nạn Chân Ngôn:
㛸 ᝌ㈴ᦥ ᩃᜊ ᝌᛸᜊ 㛿
OṂ_ SARVATRĀ ŚRĪYE-SAMAYE _ SVĀHĀ
407
TRÌ QUỐC THIÊN
Trì Quốc Thiên, tên Phạn là Dhṛta-rāṣṭra tên Tây Tạng là Yul-ḥkhor-bsruṅ,
dịch âm là Đề Đầu Lại Tra, Đề Đa La Tra, Trì Lê Đa A La Đa, Đa La Tra. Dịch ý là
người duy trì trạng thái, hay người quán sát đất đai. Lại xưng là Trị Quốc Thiên, An
Dân Thiên, Thuận Oán Thiên, Trì Quốc Thiên Vương.
Do vị Thiên Vương này có Bản Thệ là khen thưởng các điều lành, trừng phạt các
việc ác, hộ trì quốc thổ, bảo hộ chúng sinh cho nên xưng là Trì Quốc Thiên.
Tương truyền Trì Quốc Thiên Vương là Thần âm nhạc của Trời Đế Thích, cũng
là một trong bốn vị Đại Thiên Vương, một trong 16 vị Thiện Thần
Trì Quốc Thiên trụ tại núi Do Càn Đà, ở lưng chừng thuộc mặt Đông của núi Tu
Di. Đất cư trú của Ngài là thành Hiền Thượng, có bảy lớp lan can, chuông, lưới, cây
trồng thành hàng với bảy báu trang sức đẹp đẽ, cảnh sắc thù thắng.
Đông Phương Trì Quốc Thiên hay hộ trì người dân không có các bệnh khổ,
không có các Ma Chướng, phiền não; tăng trưởng Trí Tuệ, diên niên ích thọ (tuổi thọ
kéo dài), tài bảo dư thừa, thọ dụng không hết, tất cả tự tại, thành tựu việc đã làm.
_Kinh Khởi Thế, Phẩm Tứ Thiên Vương ghi chép rằng: “Ở lưng chừng thuộc
mặt Đông của núi Tu Di có núi, tên là Do Càn Đà. Đất trên đỉnh núi rộng bốn vạn hai
ngàn Do Tuần. Trên đỉnh núi ấy có thành quách là chỗ ở của Đề Đầu Lại Tra Thiên
Vương, thành đó có tên là Hiền Thượng, ngang dọc khoảng 600 Do Tuần. Có bảy lớp
Tường gạch, bảy lớp Lan Can, bảy lớp Lưới, Chuông, lại có bảy lớp Đa La cây trồng
thành hàng, đi vòng xung quanh có thể nhìn thấy màu tạp sắc đều dùng bảy báu trang
sức là: Vàng, Bạc, Lưu Ly, Pha Lê, Ngọc Đỏ, Xà Cừ, Mã Não…. tạo thành”.
Trì Quốc Thiên thống lãnh Thần Tướng Càn Thát Bà (Gandharva) và Tỳ Xá Xà
(Piśāca), nhận lời căn dặn của Đức Phật thủ hộ quốc thổ ở phương Đông là vị Thiện 408
Thần hay giúp đỡ thế gian. Do vậy mà có tên gọi là Đông Phương Trì Quốc Thiên
Vương
.) Trường A Hàm, quyển 12, Đại Hội Kinh ghi nhận là: “Lại có Đề Đầu Lại
Tra Thiên Vương ở phương Đông thống lãnh Càn Đạp Hòa Thần (Gandharva) có uy
đức lớn, 91 người con đều có tên là Nhân Đà La (Indra), đều có đại thần lực”.
.) Phật nói Kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương (ĐTK_No.1245) ghi chép rằng:
“Thế giới ở phương Đông có vị chủ loài Càn Thát Bà (Gandharva: Tầm Hương Thần)
tên là Trì Quốc (Dhṛta-rāṣṭra). Ngài có đủ đại uy đức, thân phóng tỏa ánh sáng giống
như mặt trời ló dạng soi chiếu khắp Thế Gian, thống lãnh quyến thuộc là chúng Càn
Thát Bà cung kính vây quanh, ca múa hát xướng, thọ nhận khoái lạc, Ngài có 91 người
con cùng chung tên gọi là Đế Thích (Indra) có đại thế lực, dũng mãnh bạo ác, thấy
Phật Thế Tôn liền quy y đỉnh lễ tôn trọng cung kính. Quán thấy loài Phi Nhân này mà
hay lễ kính Trì Quốc Thiên Vương ấy, thủ hộ phương Đông như Phật Hạnh, hành Hộ
Thế như vậy”
.)Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, quyển 52, Phẩm Đề Đầu Lại Tra Thiên
Vương Hộ Trì ghi chép rằng: “Đức Phật bảo Lạc Thắng Đề Đầu Lại Tra Thiên
Vương rằng: “Này Diệu Trượng Phu ! Trong bốn thiên hạ, phần thứ tư ở phương Đông
của Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa) này ông cần phải hộ trì. Tại sao thế? Vì cõi Diêm Phù
Đề là nơi chư Phật hưng thịnh, cho nên ông cần phải hộ trì. Chư Phật quá khứ đã từng
dạy ông hộ trì dưỡng nuôi, chư Phật vị lai cũng lập lại như vậy….
Bấy giờ, Thắng Lạc Đề Đầu Lại Tra Thiên Vương thưa với Đức Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn! Như vậy! Như vậy! Đại Đức Bà Già Bà! Chư Phật quá khứ giao phó
an trí hộ trì dưỡng nuôi, cũng dạy bảo chúng con hộ trì cõi Phất Bà Đề (Jambu-dvīpa)
ở phương Đông như hiện nay Đức Thế Tôn dạy bảo con an trí cùng một dạng không có
khác. Con ghi khắc sâu trong Tâm, đội trên đỉnh đầu, kính nhận Chính Pháp của Phật,
hộ trì phần thứ tư ở phương Đông của cõi Diêm Phù Đề, và khiến cho các Quyến
Thuộc lớn nhỏ của con cũng hộ trì, đều khiến cho ngưng dứt ba nẻo ác, thảy đều làm
cho ba đường lành được rực rỡ” 409
HÌNH TƯỢNG CỦA TRÌ QUỐC THIÊN VƯƠNG
Hình tượng của Trì Quốc Thiên Vương, có rất nhiều thuyết nói khác nhau
.)Đà La Ni Tập Kinh, quyển 11 ghi nhận hình tượng của Trì Quốc Thiên là:
“Thân khoác áo Trời, nghiêm sức tinh diệu tương ứng với thân, rũ cánh tay trái xuống
dưới cầm cây đao, co cánh tay phải ngửa lòng bàn tay, trong lòng bàn tay có vật báu
phóng ra ánh sáng. Nhìn chung hình tượng là hình phẫn nộ màu đỏ”
.)Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh
Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp ghi chép rằng: “Đông Phương Trì quốc
Thiên Vương có thân màu trắng cầm cây Đàn Tỳ Bà, thủ hộ ở cửa Đông của tám Đức
Phật”.
410
Ý nghĩa của Tôn Tượng này là:
Hình trạng võ tướng khoác giáp trụ tượng trưng cho bổn phận dũng mãnh thực
hiện nhiệm vụ phát huy điều lành, trừng phạt việc ác, giữ gìn cương thổ.
Cầm cây đàn Tỳ Bà tượng trưng cho sự điều chỉnh đúng mực, thực hiện Trung
Đạo trong việc đối nhân xử thế.
Các biểu tượng này minh hoạ cho việc bảo vệ gia đình, xây dựng xã hội, giữ gìn
Quốc Thổ… một cách đúng mực theo Chính Pháp
.) Ở Nhật Bản, Trì Quốc Thiên Vương được biểu thị như một Chiến Tướng mặc
giáp trụ, mặt màu xanh dương, tóc dựng ngược, vẻ mặt dữ tợn, tay phải cầm cây kiếm
hoặc cây chỉa ba, tay trái chống eo, đứng trên tảng đá hoặc trên một hay hai con Quỷ
411
.) Hình tượng cầm cung tên
.) Hình tượng có ba đầu:
412
.)Tại Ngoại Kim Cang Bộ Viện của Thai Tạng Giới Mạn Trà La thì vị Thiên
Vương này có vị trí được bày ở phía Nam của cửa Đông.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, hiện hình phẫn nộ, tay trái cầm cây đao, úp tay phải
xuống để trên bắp đùi bên phải.
Chữ chủng tử là: DHṚ (⹐)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đao. Biểu thị cho Bản Thệ là khen thưởng các điều
lành, trừng phạt các việc ác, hộ trì Quốc Thổ, bảo vệ chúng sinh
413
_Trì Quốc Thiên Thủ Ấn :
Hai tay nắm quyền, cái chéo nhau, dựng đứng ngón trỏ
Chân Ngôn là:
㫘 ⹐ᚌᜑ㮱 ᜑᜑ 㛺㈦セ㗍 㛿
OṂ _ DHṚTA-RĀṢṬRA _ RĀ RĀ _ PRAMADANA SVĀHĀ
_Kinh Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ, quyển Thượng (ĐTK_No.999) ghi chép
là: “Bấy giờ phương Đông Trì Quốc Thiên Vương, chủ của Càn Thát Bà (Gandharva)
từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối sát đất, chắp tay hướng về phía Đức
Phật rồi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nếu loài Càn Thát Bà của con làm mỵ thì người bị
làm mỵ có các loại tướng: hoặc thường ca múa, hoặc thường ưa trang sức, hoặc không
ham muốn, hoặc nói lời chắc chắn, hoặc giận hoặc vui, cổ họng khô khan, mắt đỏ như
máu, hoặc run cầm cập, hoặc như bị trúng độc nhắm mắt không mở như khi đang ngủ,
hoặc quay mặt, những người bị như vậy là do Càn Thát Bà làm mỵ ở trong thế gian
không ai kềm chế được. Con có Thần Chú khiến phải điều phục, cúi xin Thế Tôn cho
con được nói.
Liền nói Chú rằng:
- Án, a khê ma khê, vĩ nẵng mãn đệ phạ lan nễ, tả bạt khê phạ khê phạ khư
nễ, a khê kê phạ ha lê bà càn đạt rị phạ, khất ra hê tì du địa lị, đa ra sắc tra ra, tả
ma ha ra, ra nhạ tả nẵng, ma phạ lệ nãi, thấp phạ lị dã, địa bạt đế duệ nẵng sa
phạ ha.
OṂ_ AKHE NAKHE VIKHANE VANDHE , VARĀṆE CAPALE VAKHE
VAKHANE ṢAKHINE AṢINE ÑAKHINE, VAHULE BHAGE BHAGAṂDADE,
VAŚE VAŚA VARTTINĪ SVĀHĀ
MUCYANTU SARVA SATTVĀNĀÑCA SARVA GRAHEBHYO DHṚTA-
RĀṢTASYA-MAHĀ-RĀJASYA ĀMĀVALENAIŚCARYÀDHIPATENA CA
SVĀHĀ”
Tại Trung Hoa và Nhật Bản, Trì Quốc Thiên Vương rất ít khi được thờ cúng đơn
độc. Trong Tự Viện thông thường đều thờ phụng chung bốn vị Đại Thiên Vương.
Người dân tin tưởng rằng Trì Quốc Thiên Vương có thể hộ quốc an dân, bảo hộ
chúng sinh tránh khỏi các loại bệnh tật, ma chướng, phiền não khiến cho họ được an
vui hạnh phúc. Ngoài ra nếu như có người nào túng thiếu, thành tâm hướng về Đông
Phương Thiên Vương cầu nguyện Thiên Vương đều hay mãn túc mọi Tâm Nguyện. 414
TĂNG TRƯỞNG THIÊN VƯƠNG
Tăng Trưởng Thiên tên Phạn là Virūḍhaka, dịch âm là Tỳ Lỗ Đà Ca. Tên
Tây Tạng là Ḥphags-skyes-po. Lại xưng là Tỳ Lưu Đa Thiên, Tỳ Lưu Ly Thiên, Tỵ
Lưu Đồ Ca Thiên, Tỳ Lâu Lặc Thiên, Tỳ Lâu Lặc Ca Thiên, Tỳ Lâu Lặc Xoa Thiên.
Là một trong bốn vị Thiên Vương, một trong 20 Thiên, một trong 16 vị Thiện Thần.
Ngài cư trú trong thành Thiện Kiến ở Lưu Ly Đóa của núi Tu Di (Sumeru), đất
đó ngang dọc khoảng sáu ngàn Do Tuần, có bảy lớp lan can, lưới võng, cây trồng
thành hàng với bảy báu trang sức, lại có muôn chim cùng nhau kêu hót, cảnh sắc rất
xinh đẹp.
Vị Thiên Vương này thống lãnh Quỷ Thần của nhóm Cưu Bàn Trà
(Kuṃbhaṇḍa: Ung Hình Quỷ), Bệ Lệ Đa (Preta:Quỷ đói)….thủ hộ phương Nam, hay
chiết phục Tà Ác, tăng trưởng căn lành, làm vị Thiện Thần Hộ Pháp
Do đảm nhận sứ mệnh hộ trì Chính Pháp ở phương Nam, nên được xưng là Nam
Phương Thiên. Bởi vì Ngài hay khiến cho chúng sinh tăng trưởng căn lành, cho nên
có tên gọi là Tăng Trưởng Thiên. Lại vì trong các phương Đông, Tây, Nam Bắc thì
phương Nam tượng trưng cho đặc tính Tăng Ích, hay tăng trưởng vạn báu, cho nên
cũng xưng là Tăng Trưởng Thiên Vương.
415
.) Phật nói Kinh Tỳ Sa Môn Thiên Vương (ĐTK_No.1245) ghi chép rằng: Thế
giới ở phương Nam có vị chủ loài Cưu Bàn Noa (Kuṃbhaṇḍa: Ung Hình Quỷ) tên là
Vĩ Lỗ Trà Ca (Virūḍhaka: Tăng trưởng Thiên Vương) Ngài có đủ đại uy đức, thân có
ánh sáng như mặt trời soi chiếu Thế Gian cũng như biển lớn sâu rộng vô biên mà
chúng phàm phu chẳng thể vượt qua, thống lãnh quyến thuộc là chúng Cưu Bàn Noa
cung kính vây quanh, ca múa hát xướng, thọ nhận khoái lạc. Ngài có 91 người con
cùng chung tên gọi là Đế Thích (Indra) có Đại Thế Lực, dũng mãnh bạo ác, thấy Phật
Thế Tôn liền quy y đỉnh lễ tôn trọng cung kính. Quán thấy loài Phi Nhân này mà hay
lễ kính vị Cưu Bàn Noa Chủ (Kuṃbhaṇḍādhipati) ấy thủ hộ phương Nam như Phật
Hạnh, hành Hộ Thế như vậy.
_Đại Tập Kinh quyển 52 ghi chép là: “Đức Phật Đà từng căn dặn Tăng Trưởng
Thiên là: “Cõi Diêm Phù Đề này là nơi chư Phật hưng thịnh, thế nên ông cần phải hộ
trì. Chư Phật quá khứ đã từng dạy ông hộ trì dưỡng nuôi, chư Phật vị lai cũng lập lại
như vậy. Cho đến con cái của ông, tất cả Quyến Thuộc, Đại Thần, quân tướng, Dạ
Xoa, La Sát đều phải khiến cho họ hộ trì….
Ông cũng nên khiến cho họ sinh khởi niềm tin cung kính, cùng nhau hộ trì cõi
phương Nam của Diêm Phù Đề”.
HÌNH TƯỢNG CỦA TĂNG TRƯỞNG THIÊN VƯƠNG
Hình tượng của Tăng Trưởng Thiên, có rất nhiều thuyết nói khác nhau.
.) Đà La Ni Tập Kinh, quyển 11 ghi chép rằng: “Tỳ Lỗ Đà Ca thân dài một
khuỷu tay, mặc các loại Thiên Y, trang sức rất là tinh vi màu nhiệm tương xứng với
thân hình, tay trái cánh tay duỗi rũ xuống dưới cầm cây Đao, tay phải cầm cây Giáo
dài, cán cây Giáo cắm xuống đất”.
Loại hình tượng này có ý nghĩa là tượng trưng cho sự chiết phục Tà Ác, tăng
trưởng căn lành.
416
.)Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh
Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp ghi chép rằng: “Thân ấy màu xanh, cầm
cây Kiếm báu, thủ hộ cửa phía Nam của tám Đức Phật”.
_Hình tượng hai tay đè cây kiếm, cong chân phải khiến Thiện Quỷ nâng dỡ, chân
phải đạp lên Quái Quỷ
_Hình giận dữ có thân màu thịt đỏ, khoác Thiên Y bên trên Giáp Trụ, tay phải
cầm cây Kiếm, tay trái nắm thành quyền để ở hông, bắt chéo chân mà ngồi. Bên trái có
Sứ Giả hình con Quỷ, toàn thân màu thịt đen, hình rất giận dữ dùng hai tay nâng cây
Kiếm ở phía trước Thiên Vương.
417
_Hình phẫn nộ, tay trái nắm quyền để ở eo lưng, duỗi cánh tay phải xuống dưới
cầm cây chủy nằm ngang
.)Tôn Hình: Thân mặc giáp trụ, một tay để trước trái tim, một tay cầm cây kiếm
báu, nhướng lông mày trông nhìn chúng sinh.
Ý nghĩa của Tôn tượng này là:
Thân mặc giáp trụ tượng trưng cho bổn phận dũng mãnh thực hiện nhiệm vụ
phát huy điều lành, trừng phạt việc ác.
Một tay để trước trái tim tượng trưng cho sự tinh tiến gia tăng Đức Hạnh của
mình
Một tay cầm cây kiếm tượng trưng cho sự phát huy Trí Tuệ và kiến thức
Nhướng lông mày nhìn chúng sinh biểu tượng cho cái nhìn bao quát, phân biệt
rõ điều Thiện Ác, tốt xấu
Các biểu tượng này minh hoạ cho sự phát triển khả năng nâng cao Uy Đức của
chính mình, thi hành những bổn phận và trách nhiệm giúp ích cho mọi chúng sinh. 418
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) tại phía Nam ở
cửa Đông của Ngoại Bộ Kim Cương Viện thì Tăng Trưởng Thiên Vương vị Thần Thủ
Hộ ở phương Nam, hay làm tăng trưởng uy đức của mình và của người cho nên có Đức
Phần làm cho vạn vật sinh trưởng và nuôi lớn căn lành cho các chúng sinh.
Tôn hình:Thân màu thịt đỏ, hiện hình phẫn nộ, thân khoác giáp trụ, tay phải cầm
cây kiếm, tay trái nắm quyền để cạnh eo (hình phía trái bên trên)
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm, hoặc cây kích.
Tướng Ấn là:Tăng Trưởng Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㛸 ᜪ᜕ᙴᗘᜄᝥᚲᛈᚍᜊ㖁 ᵙ
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ OṂ VIRŪḌHAKA YAKṢA
ADHIPATĀYE _ SVĀHĀ
_Tăng Trưởng Thiên Sứ Giả (Virūḍhaka-dūta): là vị Sứ Giả đứng bên cạnh
Tăng Trưởng Thiên Vương.
Tôn Hình: Thân hiện hình Quỷ, tướng phẫn nộ, tóc lửa dựng đứng lên trên, răng
nanh bên trên cắn môi. Hai tay cầm cây kiếm, quỳ gối thẳng lưng hướng vào Nội Viện
(hình phía dưới bên phải) 419
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm, hoặc cây kích.
Tướng Ấn là:Tăng Trưởng Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᜤᗙᜤᗙᗘᜑᜄ㖁ᝌ㛼ᚪᜨᚽᗰᜄᝤᗰ᳠⇁㫾ᜐᗰ᜔
ᙨ㮀ᚼᜐ㖁ᛸᜐᗰ ᚦ㖁⺈ᚤᜅᡕᗘ⇘ᜄ㖁ᛢᘖ㜂ᗰᚎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ LOKA ALOKĀ KARĀYA _
SARVA DEVA NĀGA YAKṢA GANDHARVA ASURA GARUḌA
KIṂNARA MOHĀRAGA DI_ HṚDĀYA ANYA AKARṢĀYA VICITRAGATI
SVĀHĀ
420
QUYẾN THUỘC CỦA TĂNG TRƯỞNG THIÊN
_Dược Xoa Trì Minh (Yakṣa-vidya-dhāra):
Yakṣa-vidya-dhāra là một trong các vị Trì Minh Tiên, là quyến thuộc của Tăng
Trưởng Thiên.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, đầu đội mão báu, cau mày trợn mắt giận dữ. Tay pải
để ngang ngực cầm cây kiếm. Tay trái nắm quyền duỗi ngón cái, ngón út để trước eo.
Giao ống chân ngồi trên toà tròn (hình ở giữa)
Chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
Tướng Ấn là: Hai tay Nội Phộc, dựng thẳng 2 ngón vô danh, hơi co hai ngón trỏ
như hình móc câu.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜨ㪤㖁ᜄᝪ㫭ᜑᜄ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ YAKṢEŚVARĀYA_ SVĀHÀ 421
_ Dược Xoa Trì Minh Nữ (Yakṣa-vidya-dharī): là Sứ Giả của Dược Xoa Trì
Minh
Tôn thứ nhất có thân màu thịt, trên lòng bàn tay phải có một cái chày Độc Cổ
dựng đứng, quỳ gối ngồi trên toà tròn (hình bên trên)
Tôn thứ hai có thân màu thịt, hai tay cầm cây kích Độc Cổ, đứng hầu bên cạnh
Dược Xoa Trì Minh (hình bên dưới)
Chữ chủng tử là: RO ()
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ.
Tướng Ấn là:Hai tay Nội Phộc, Ngón cái và ngón út cùng đè nhau, dựng thẳng
ngón trỏ ngón giữa.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ㆎᝤᜪᠼᚰᜓ
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ YAKṢA-VIDYA-DHARĪ
422
_Kinh Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ, quyển Thượng (ĐTK_No.999) ghi chép
là: “Bấy giờ Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương, chủ các loài Cưu Bàn Trà
(Kuṃbhaṇḍa) từ chỗ ngồi đứng dậy, trật áo hở vai phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay
hướng về phía Đức Phật, cung kính đỉnh lễ rồi bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu
người bị các loài Cưu Bàn Trà làm mỵ sẽ có các loại tướng sau: hoặc nói nhiều, hoặc
đen đúa khô khan, hoặc tâm mê loạn, hoặc tròng mắt xoay đảo, hoặc mặt mày đỏ, hoặc
hay ngồi nơi đất, thân thể co quắp, hoặc dung mạo xấu xa hung ác, hoặc thân có ruồi
bu, móng tay, móng chân mọc dài, hoặc tóc dài xỏa ra, thân thể hôi hám, thân nhiều
cáu bẩn dơ dáy, hoặc hay nói láo, nói bậy bạ, các người có tướng như vậy đều do Cưu
Bàn Trà làm mỵ ở trong thế gian không ai chế ngự được. Con có Thần Chú hay điều
phục được cúi xin Thế Tôn cho con được nói.
Liền nói Chú là:
Án, khư khư khư minh, khư la minh khư la minh, khư la lê khư la lê, ca la lê
ca la thi nễ ca rô minh, ca ra trí ca lê ca nhi vĩ đà lê bế thất duệ tế dã xá phạ để
tam mẫu tam nhĩ nễ, xá miễn đô minh, mãn đát ra bạt na sa phạ ha. Tát phạ tát
đát phạ, vĩ rô trà ca tả phạ hạ ra nhạ tả nẵng ma phạ lê nãi thấp phạ lị dã, địa bát
đế duệ sa phạ ha.
OṂ_ KHAKHAME KHALANE KHARALE, KHALAME, KHALĀME,
KHARALIKHEKARAKHE, KHATINE, KHARALI KARAKHIKAŚANE,
KARAṬE, KĀLE, KĀMINI VIDHALI VIDHIYE VIDHEYE, ŚĀYANE
ŚĀMAVATE, ŚAMI ŚAMINI SVĀHĀ
ŚAMYANTU MAMA SAPARIVĀRASYA SARVA SATTVANĀÑCA
SARVA GRAHA SARVA BHAYOPADRAVĀVA VIRŪḌHAKASYA MAHĀ-
RĀJASYA NĀMĀVALENAIŚCARYĀDHIPATENA CA SVĀHĀ”
Tăng Trưởng Thiên Vương rất ít khi được thờ cúng đơn độc. Trong Tự Viện
thông thường đều thờ phụng chung bốn vị Đại Thiên Vương.
Người dân tin tưởng rằng Tăng Trưởng Thiên Vương không những giúp cho
người dân xa lìa tai chướng, phiền não… lại hay giúp đỡ chúng sinh Tài Bảo dư thừa,
hưởng mãi không hết, tăng trưởng Trí Tuệ, sống lâu.
423
QUẢNG MỤC THIÊN
Quảng Mục Thiên tên Phạn là Virūpākṣa, dịch âm là Tỳ Lưu Bác Xoa, Tỳ Lộ Ba
Ha Ngật Xoa, Tỳ Lâu Bà Xoa, Tỳ Lỗ Bác Xoa.Tên Tây Tạng là Mig-mi-bzan, Spyan-
mi-bzan. Lại xưng Ác Mục Thiên, Xú Mục Thiên, Tạp Ngữ Chủ Thiên, hoặc Phi Hảo
Báo Thiên. Là một trong bốn vị Thiên Vương, một trong 12 Thiên, một trong 16 vị
Thiện Thần.
Tương truyền Quảng Mục Thiên là Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Đại Tự Tại
Thiên (Maheśvara) do ở trán có một con mắt, nhân đây được xưng là Quảng Mục
Thiên
Quảng Mục Thiên cư trú tại thành Chu La Thiện Kiến ở phía Tây núi Tu Di. cư
ngụ tại thành Chu La Thiện Kiến thuộc Bạch Ngân Đóa ở phía Tây núi Tu Di, thường
dùng Thiên Nhãn (Cakṣur-devya) trong sạch quán sát chúng sinh ở cõi Diêm Phù Đề
(Jambu-dvīpa).
Vị Thiên Vương này thống lãnh vô lượng Quyến Thuộc gồm hàng Trời (Deva),
Rồng (Nāga), Phú Đơn Na (Putana), chư Thần (Devatā)…. nhận nhiệm vụ thủ hộ
Phật Pháp, trông coi việc xử phạt người ác ở phương Tây khiến cho họ khởi Tâm Đạo,
nên được xưng là Tây Phương Thiên, Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương.
.)Y theo sự ghi chép của Kinh Đại Tập thì Đức Phật Đà từng giao phó cho
Quảng Mục Thiên Vương hộ trì Thế Giới phương Tây của Diêm Phù Đề Châu
(Jambu-dvīpa); căn dặn vị ấy thống lãnh con cái, tám vị thuộc nhóm Sư Tử (Hari), Sư
Tử Phát (Harikeśa)…quân tướng của các Rồng, 16 vị Thiên Thần ở phương Tây, ba
sao Diệu, bảy sao Tú, quyến thuộc của chư Thiên, Rồng, Quỷ…cùng nhau nhận trách
nhiệm hộ Pháp” 424
.)Kinh Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương, quyển Thượng nói rằng:
“Phương Tây này lại có Đại Thiên Vương tên là Quảng Mục, là vị Đại Long Vương
dùng vô lượng trăm ngàn các Rồng làm quyến thuộc, thủ hộ phương Tây”
HÌNH TƯỢNG CỦA QUẢNG MỤC THIÊN VƯƠNG
Tình tượng của Quảng Mục Thiên Vương có rất nhiều loại.
.)Thông thường hình tượng của Quảng Mục Thiên Vượng làm hình giận dữ màu
đỏ, khoác Thiên Y trên có Giáp Trụ, tay phải cầm cây Kích Tam Cổ, tay trái nắm thành
quyền để ở hông, mặt hướng về bên trái, hai chân bắt chéo nhau mà ngồi.
.)Đà La Ni Tập Kinh, quyển 11 ghi chép rằng: “Tượng Tỳ Lỗ Bác Xoa, thân
dài một khuỷu tay, mặc các loại Thiên Y, trang sức rất là tinh vi màu nhiệm tương
xứng với thân hình, duỗi cánh tay cầm cây Giáo dài, tay phải cầm sợi dây đỏ”.
425
.)Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Thất Phật Bản Nguyện Công Đức Kinh
Niệm Tụng Nghi Quỹ Cúng Dường Pháp ghi chép rằng: “Tây Phương Quảng Mục
Thiên Vương có thân màu hồng, cầm Sợi Dây, thủ hộ cửa phía Tây của tám Đức Phật”.
) Hình Tượng có thân màu hồng, một mặt hai cánh tay. Mắt tròn lộ ra ngoài, đầu
đội mão Rồng, thân mặc áo giáp, tay phải nắm bắt Rồng, tay trái cầm cái tháp. Ở trong 426
Tịnh Thổ Đàn Thành của chư Phật thì thủ hộ cửa Tây. Nhân là nơi biến hóa của Kim
Sí Điểu hay trấn phục Long Vương cho nên tay phải nắm bắt Rồng, biểu thị cho việc
mưa thuận gió hòa
427
. )Hình tượng có tay phải cầm sợi dây, tay trái cầm quyển Kinh
. )Hình tượng có tay phải cầm sợi dây, tay trái cầm viên ngọc
428
. )Hình tượng có tay trái nắm con Rồng, tay phải cầm cây kiếm
Tôn hình: Thân mặc giáp trụ, tay trái nâng lên cao cầm viên ngọc, tay phải ngửa
lòng bàn tay để ngang rốn, có một con rồng quấn quanh tay và ngóc đầu trong lòng bàn
tay.Bàn chân phải đạp lên con Quỷ ác.
429
Ý nghĩa của Tôn Tượng này là:
Viên Ngọc tượng trưng cho tri thức bao quát về Thế Gian
Con Rồng quấn quanh tay tượng trưng cho nguyên lý biến dịch
Chân đạp lên con Quỷ ác tượng trưng cho sự dứt trừ điều xấu ác
Các biểu tượng này minh hoạ cho sự quan sát thật cẩn thật, kỹ lưỡng những
nguyên lý để có thể phát triển Tri Kiến và biết phân biệt rõ ràng sự phải trái, tốt
xấu….và dứt trừ điều sai trái, xấu ác.
.)Trong Thai Tạng Giới Mạn Trà La của Mật Giáo thì Quảng Mục Thiên
Vương có vị trí được an bày ở phía cửa Tây thuộc Ngoại Kim Cang Bộ Viện. Là vị
Thần bảo hộ phương Tây, biểu thị cho Bản Thệ trừng phạt người có tội khiến họ phải
gặp các điều cay đắng, sau đó mới có thể khởi Tâm Đạo và thường dùng Thiên Nhãn
trong sạch quán sát độ trì cho chúng sinh ở Diêm Phù Đề .
Tôn hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, giáp trụ. Tay phải cầm cây kích Tam
Cổ. Tay trái nắm quyền để trên đùi.
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Tam Cổ.
430
Tướng Ấn là: Quảng Mục Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁㫘 ᜪ᜕ᛉᝤᚽᗱᚲᛈᚌᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ OṂ _ VIRŪPĀKṢA NĀGA-
ADHIPATAYE _ SVĀHĀ
_Kinh Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Thổ, quyển Thượng (ĐTK_No.999) ghi chép
là: “Bấy giờ Tây Phương Quảng Mục Thiên Vương, chủ của loài Rồng, từ chỗ ngồi
đứng dậy, trật áo hở phải, chắp tay hướng về Đức Phật, cung kính đỉnh lễ rồi bạch Phật
rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu người bị loài Rồng làm mỵ sẽ có các tướng như sau:
hoặc uống các thứ dơ uế, hay nín thở thân thể lạnh lẽo, miệng chảy nhớt dãi, hay ưa
ngủ nghỉ, thân như rắn lượn, hoặc tâm hung hăng không sợ sống chết, hoặc hay chạy
không cần nguyên do, hoặc móng tay chân dài nhọn, hoặc tay hay cào đất như đào lỗ,
các người như vậy là bị loài Rồng làm mỵ, ở trong thế gian không ai chế phục được.
Con có Thần Chú khiến hay điều phục cúi xin Thế Tôn cho con được nói.
Liền nói Chú rằng:
Án, khất ra dã tế, khất ra ca lệ, khất ra ca lệ da sa duệ cốt lỗ, kế kế cốt lủ,
khư minh cốt lỗ, lỗ a khư lê, sa ma sa khư lê ca hộ minh, a lỗ kế ca ỗ kế, y lợi, thi
vĩ lợi, y lợi, nhĩ lợi, địa lợi, nga lỗ phạ để sa phạ tất để dã túy đô vĩ lỗ phạ khất xoa
tả ma ha ra nhạ tả nẵng ma phạ ra nãi thấp phạ lợi dã địa bát để duệ nẵng sa phạ
ha.
OṂ_ KRAGAME, KRAKA MAṆI, KRAKAŚE, KRAKAŚE, KRAKRAŚAME,
KRŪKRŪME, KRŪŚRŪME, KRŪKEKE, KRŪKUME, AGALE, NAGALE,
SAMAGALE, KAHUME. ALUKE, KALAMAKE, KALALE, IRE MIRE DHIRE ,
ARUGAVATI SVÀHÀ
SVASTYANTU MAMA SAPARIVĀRASYA SARVA SATTVANĀÑCA
VIRŪPĀKṢASYA MAHĀ-RĀJASYA NĀMĀVALENAIŚCARYĀDHIPATENA
CA SVĀHĀ
_Quảng Mục Thiên Vương rất ít khi được thờ cúng đơn độc. Trong Tự Viện
thông thường đều thờ phụng chung bốn vị Đại Thiên Vương.
Phật Giáo Đồ tin tưởng rằng Quảng Mục Thiên Vương hay bảo vệ giúp cho
chúng sinh xa lìa việc ác, Tài Bảo dư thừa, tăng trưởng tuổi thọ, tất cả tự tại
431
KIM CƯƠNG TỒI THIÊN
Kim Cương Tồi Thiên, tên Phạn là Vajra-vikiraṇa. Lại xưng là Kim Cương
Tồi Toái Thiên, Tản Cái Tỳ Na Dạ Ca. Là một trong 20 Thiên Hộ Thế ở phương Đông
của Ngoại Kim Cương Bộ trong Kim Cương Giới Man Đa La, là Hư Không Thiên
trong năm loại Trời
Tôn này là Thân Ứng Đồng do Đại Nhật Như Lai (Vairocana-tathāgata) thị
hiện để thâu nhiếp hàng Tỳ Na Dạ Ca (Vinayāka), biểu thị cho việc che giúp tất cả
chúng sinh, tồi phá mọi loại chướng nạn.
.)Tại Thành Thân Hội (Karma): Kim Cương Tồi Thiên có thân màu thịt trắng,
thân người đầu voi, hai tay cầm cái dù
Mật Hiệu là: Kim Cương Vũ Noa
Chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ) hay GO (ᗸ)
Tam Muội Gia Hình là: Dù Lọng (tản cái)
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ 432
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Tồi Thiên có chữ chủng tử
là: MO (ᜀ)
Tam Muội Gia Hình là: Dù Lọng (tản cái). Biểu thị cho việc che giúp tất cả
chúng sinh, tồi phá mọi loại chướng nạn.
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Tồi Thiên có chữ chủng tử là: ṆḌA
(ⴤ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿 ⴤ
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ_ ṆḌA 433
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Tồi Thiên có chữ chủng tử là:
ṆḌA (ⴤ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương Tồi
Thiên có chữ chủng tử là: MO (ᜀ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
434
Tam Muội Gia Hình: Dù lọng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿 ᜀ
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ _MO
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Tồi Thiên có chữ chủng tử là: ṆḌA (ⴤ)
Tam Muội Gia Hình: Dù lọng. Biểu thị cho việc che giúp tất cả chúng sinh, tồi
phá mọi loại chướng nạn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗵ㈛ 㛿 ⴤ
OṂ _ VAJRA-GŪḌDHA SVĀHĀ _ṆḌA
435
NA LA DIÊN THIÊN
Na La Diên Thiên, tên Phạn là Nārāyaṇa, nguyên ý là đứa con do con người
sinh ra. Lại xưng là Na La Diên Na Thiên, Na La Dã Noa Thiên, Kiên Cố Lực Sĩ, Na
La Thiên, Na La Diên Kim Cương, Na La Diên Lực Chấp Kim Cương, Câu Tỏa Lực
Sĩ, Kim Cương Lực Sĩ, Nhân Trung Lực Sĩ, Nhân Sinh Bản Thiên hoặc Đan Thiền
Xứng Lực Sĩ.
_Na La Diên (Nārāyaṇa) nguyên là vị Thần cổ xưa của Ấn Độ có sức mạnh to
lớn, là vị Trời trong Dục Giới (Kāma Loka)
.)Trong Thần Thoại của Ấn Độ thì cội nguồn của vũ trụ (Puruṣa: người nguyên
thủy, người đầu tiên) còn có tên gọi riêng là Nāra, do đó Na La Diên vốn được ghi
nhận là đứa con do người nguyên thủy sinh ra. Nhưng trong Ma Ha Na Lạp Gia Na
Áo Nghĩa Thư (Mahā-nārāyaṇopaniṣad) thì đem Na La Diên thay thế cho người
nguyên thủy làm vị Thần tối cao. Trong phần ghi chép trên lại dùng Na La Diên là
thuyết của Đại Phạm Vương. Hoặc căn cứ vào sự ghi chép của Ma Nô Pháp Điển nói
rằng người nguyên thủy do Nāra sinh ra, còn nơi cư trú tối sơ của loài người là
ayaṇa, cho nên có Thuyết này mà xưng tên của vị Trời ấy là Nārāyaṇa
Riêng ở trong Ma Ha Na Lạp Gia Na Áo Nghĩa Thư (Mahā-nārāyaṇopaniṣad)
liền dùng Na La Diên là sự quyền hóa của Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu) và nói là: Nếu
xướng tụng OṂ NAMO NĀRĀYAṆĀYA thì có thể bay lên Trời.
.)Luận Sư Phệ Đà thời Ấn Độ cổ đại coi Na La Diên là mẹ của Phạm Thiên và
nói rằng tất cả con người đều được sinh ra từ Phạm Thiên
.)Lại có Thuyết nói Na La Diên Thiên tức là Đại Phạm Vương, tất cả con người
đều do Phạm Thiên sinh ra, cho nên xưng là Nhân Sinh Bản (gốc rễ sinh ra con
người)
436
HÌNH TƯỢNG CỦA NĀRĀYAṆA TRONG ẤN ĐỘ GIÁO
Trong tiếng Phạn, tên gọi khác của nước là Nāra. Do đó nơi tối cao mà Thần
Viṣṇu nghỉ ngơi (ayaṇa) được gọi là Nārāyaṇa. Nāra cũng có nghĩa là các thực thể
sống (Jivas). Vì vậy, một ý nghĩa khác của Nārāyaṇa là "nơi an nghỉ cho tất cả các
thực thể sống”. Nāra lại có nghĩa là con người và Ayaṇa nghĩa là nơi trú ẩn, nên
Nārāyaṇa còn có nghĩa là nơi trú ẩn của tất cả mọi người. Sự liên kết chặt chẽ của
Nārāyaṇa với nước giải thích các hình tượng của Nārāyaṇa trong nghệ thuật Ấn Độ
giáo như đứng hoặc ngồi trên một đại dương.
Trong kinh sách của Hindu như kinh Vệ Đà, Puranas ... thì Nārāyaṇa được mô
tả là có màu xanh Thần Thánh của các đám mây chứa đầy nước, bốn tay, cầm một
Padma (hoa sen), gậy Kaumodaki, Pañcajanya-śaṅkha (ốc xà cừ) và một vũ khí dĩa
Sudarśana-cakra.
437
Nārāyaṇa còn được thờ phượng chung với người vợ là nữ thần Lakṣmi. Trong đó
nữ thần Lakṣmi đại diện cho của cải vật chất, lòng can đảm, sự thành công, tri thức,
cuộc sống sang trọng, hạnh phúc đời đời còn Thần Nārāyaṇa là khía cạnh của năng lực
giữ gìn vũ trụ. Đây được coi là một hình thức tốt đẹp đem lại sự thịnh vượng, sức khỏe
tốt, sự may mắn, sự hòa thuận trong nhà
Thần Chú Lakṣmi-Nārāyaṇa là:
OṂ_HRĪṂ HRĪṂ ŚRĪṂ ŚRĪṂ LAKṢMI-NĀRĀYAṆA-DEVAYA NAMAḤ
Mantra này là rất có lợi cho việc đạt được sự thịnh vượng về tài chính và thành
công vật chất. Nó phải được đọc 10 lần vạn để đạt được sự thành tựu 438
Đôi khi người Ấn Độ còn thờ phượng Nārāyaṇa với hai người vợ của ông là nữ
thần Lakṣmi và nữ thần Viṣṇu-priya
_Trong Phật Giáo:
.)Trung Luận Sớ, quyển 1 cho rằng Na La Diên là tên riêng của Cưu Ma La
Thiên (Kumāra-deva)
.)Huyền Ứng Âm Nghĩa, quyển 24 nhận định Na La Diên là Phạm Thiên
(Brahma-deva)
.)Trụ Tâm Phẩm Sớ, quyển 5 cho rằng Na La Diên là tên gọi riêng của TỲ
Nữu Thiên (Viṣṇu)
.)Tuệ Lâm Âm Nghĩa, quyển 6 nói rằng: “Na La Diên là tên của vị Trời trong
Dục Giới (Kāma-dhātu) có một tên gọi là Tỳ Nữu Thiên (Viṣṇu). Người muốn cầu có
nhiều sức mạnh thì nên phụng sự cúng dường. Nếu tinh thành cầu đảo sẽ được nhiều
Thần Lực”
.)Tuệ Lâm Âm Nghĩa, quyển 41 nói rằng: “Vị Trời này có nhiều sức mạnh, thân
màu vàng ròng có tám cánh tay, cỡi Kim Sí Điểu Vương, tay cầm Đấu Luân với mọi
loại khí trượng mỗi khi cùng với A Tu Vương chiến tranh”
Ngoài ra, Đại Tập Kinh, quyển 11_ Vô Lượng Thọ Kinh, quyển Thượng_ Tối
Thắng Vương Kinh, quyển 4_ Tạp Bảo Tạng Kinh, quyền 1_Du Già Sư Địa Luận,
quyển 37_ Thuận Chính Lý Luận, quyển 75.... đều nói sự bền chắc hòa với sức
mạnh to lớn của Phật Bồ Tát là thân Na La Diên, sức mạnh của Na La Diên.
_Trong Mật Giáo thì Na La Diên Thiên được xem là một trong 20 Thiên Hộ Thế
được đặt bày ở phương Đông của Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Kim Cương Giới
Man Đa La hoặc được xếp bày ở phương Tây của Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong
Thai Tạng Giới Man Đa La
.)Đại Nhật Kinh Sớ , quyển 10 cũng ghi nhận: “Vị Trời này là tên riêng của Tỳ
Nữu Thiên (Viṣṇu), là Hóa Thân của Đức Phật, thường cỡi con chim Ca Lâu La
(Garuḍa: Kim Sí Điểu) du hành trong hư không” 439
.) Ma Ê Thủ La Luận Sư xem Na La Diên là một trong Nhất Thể Tam Phần
(tức Phạm Thiên, Na La Diên, Ma Ê Thủ La) của Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara) và
đem phối trí với Tam Bảo với ba Thân, dùng Na La Diên là Báo Thân (Saṃbhogha-
kāya) trong ba Thân, cũng biểu thị cho Pháp Bảo trong Tam Bảo.
Do ở vị Trời này có đủ Đại Lực cho nên đời sau đem Tôn này cùng với Uế Tích
Kim Cương (Ucchuṣma-vajra) xưng chung là hai Vương Tôn dùng làm vị Thần thủ
hộ chốn Già Lam (Saṃghārāma: vườn rừng có chúng Tăng cư ngụ) hoặc an trí ở cửa
chùa
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Na La Diên Thiên có thân màu đen xanh,
hiện hình La Sát, tay trái nắm quyền để bên eo, tay phải để ngang ngực cầm bánh xe
tám căm
Mật Hiệu là: Hộ Pháp Kim Cương, Huyễn Hóa Kim Cương
Chữ chủng tử là: RU (᜔) hay MA (㈦)
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe tám căm
Tướng Ấn là: Tay trái nắm quyển để ngang eo, tay phải duỗi 5 ngón mở đứng
cách nhau ngay phía trước, đầu ngón hướng ra ngoài, mặt quyền hướng bên phải mặt
đất ba lần.
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ
440
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Na La Diên Thiên có chữ chủng tử là:
MAḤ (ᜃ)
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe tám căm
Tướng Ấn là: Tay trái nắm quyển để ngang eo, tay phải duỗi 5 ngón mở đứng
cách nhau ngay phía trước, đầu ngón hướng ra ngoài, mặt quyền hướng bên phải mặt
đất ba lần.
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Na La Diên Thiên có chữ chủng tử là: MAṂ (ᜂ)
Tôn Hình:Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿 ᜂ
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ_ MAṂ
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Na La Diên Thiên có chữ chủng tử là: MA (㈦)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
441
Tướng Ấn là: Tay trái nắm quyển để ngang eo, tay phải duỗi 5 ngón mở đứng
cách nhau ngay phía trước, đầu ngón hướng ra ngoài, mặt quyền hướng bên phải mặt
đất ba lần.
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Na La Diên
Thiên có chữ chủng tử là: MA (㈦)
Tôn Hình: Tay trái để bên cạnh eo nắm quyền, tay phải cầm bánh xe
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe tám căm
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿 ㈦
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ_ MA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Na La
Diên Thiên có chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe tám căm
442
Chân Ngôn là:
㫘 ㇷ㇃ ᜨ᥄ 㛿 ㆎ
OṂ _ BALA-VAJRA SVĀHĀ_ YA
_ Tại phương Tây của Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Thai Tạng Giới Man
Đa La thì Na La Diên Thiên biểu thị cho Đại Thần Lực trừ khử uế độc chướng ngại
của tất cả chúng sinh.
Tôn hình: Thân màu xanh đen, cỡi chim Ca Lâu La, buông thõng bàn chân phải,
để lòng bàn tay trái trên eo. Tay phải co lên trên, dựng ngón trỏ nâng một bánh xe.
Thân có 3 mặt, mặt chính là mặt Bồ Tát có 3 con mắt, mặt bên phải là mặt voi trắng,
mặt bên trái là mặt heo đen, đầu đội mão báu.
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ) 443
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe vàng.
Tướng Ấn là: Na La Diên Thiên Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛢ㯀ᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VIṢṆAVE_ SVĀHĀ
_Na La Diên Thiên Phi (Nārāyaṇi) vợ của Na La Diên Thiên, biểu thị cho Đức
Năng Sinh của Na La Diên Thiên
Tôn hình: Thân màu thịt, tay trái nâng lá sen chứa đầy hoa, tay phải nâng đỡ bên
cạnh lá sen
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Bánh xe báu.
Tướng Ấn là: Nguyệt Diệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᛢ⼼ᛢ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ VIṢṆUVI_ SVĀHĀ 444
CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ
I ) DANH HIỆU:
Cát Tường Thiên có tên Phạn là Śrī-mahā-devī, dịch âm là: Thất lợi ma ha đề
tỳ, dịch nghĩa là: Cát Tường Đại Thiên Nữ. Đây là Nữ Thần hay ban bố Phước Đức
_ Lúc đầu, Thiên Nữ này vốn là một Vị Thần trong Thần Thoại Ấn Độ, là Ái Phi
của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa-deva), mẹ của Thần Ái Dục (Kāma).
Truyền thuyết khác cho rằng Thiên Nữ này có tên là Lạc Khất-Sử Mính
(Lakṣmi: Cát Khánh hoặc Công Đức Thiên). Cha tên là Đức Xoa Ca Long Vương
(Takṣaka-nāga-rāja), mẹ tên là Ha Lị Đế Mẫu (Hāṛtye-mātṛ), Anh tên là Tỳ sa Môn
Thiên (Vaiśravaṇa-veva).
Người Ấn Độ tôn phụng Lakṣmi là vị Nữ Thần của tài sản và vận may đồng thời
tin tưởng rằng bà được sinh ra khi các Thần Linh và quái vật cùng sáng tạo bằng cách
khuấy động biển sữa và vũ trụ bằng cách lấy con rắn Vaṣuki làm sợi dây quây tròn
ngọn núi Maṇḍara; ngọn núi này được đặt trên lưng con rùa Kurma (Hóa thân của
Thần Viṣṇu). Sự khuấy động này tạo ra Lakṣmi cùng với thứ rượu Tiên (Amṛta) làm
cho các Thần Linh trở thành bất tử. Khi được thờ cúng riêng thì bà có tên là Lokamātṛ
(Thế Giới Mẫu)
Truyền thống Ấn Độ ghi nhận 108 tên của Lakṣmi là:
1_ Prakruti
2_ Vikruti
3_ Vidya
4_ Sarvabhūtahitaprada
5_ Śraddha
6_ Vibhuti 445
7_ Surabhi
8_ Paramatmika
9_ Vachi
10_ Padmalaya
11_ Padma
12_ Śuci
13_ Svàhà
14_ Svadha
15_ Sudha
16_ Dhanya
17_ Hiranmayi
18_ Lakṣmi
19_ Nityapusta
20_ Vibha
21_ Aditi
22_ Dītya
23_ Dīpta
24_ Vasudha
25_ Vasudharini
26_ Kamala
27_ Kaṇṭha
28_ Kamakṣi
29_ Kamalasaṃbhava
30_ Anugrahaprada
31_ Budhi
32_ Anagha
33_ Harivallabhi
34_ Aśoka
35_ Amrutha
36_ Dīpa
37_ Lokaśokavinaṣiṇi
38_ Dharmanilaya
39_ Karuṇa
40_ Lokamatṛ
41_ Padmapriya
42_ Padmahasta
43_ Pamakṣya
44_ Padmasundari
45_ Padmodbhava
46_ Padmamukhi
47_ Padmanabhapriya
48_ Ramā
49_ Padmamaladhāra
50_ Devi
51_ Padmini
52_ Padmagandhini
53_ Punyagandha
54_ Suprasanna
55_ Prasadabhimukhi 446
56_ Prabhā
57_ Candravadana
58_ Caṇḍa
59_ Candrasahodari
60_ Caturbhūja
61_ Candrarūpaup
62_ Indira
63_ Induśītala
64_ Ahladajanani
65_ Puṣṭi
66_ Śiva
67_ Śivakari
68_ Satya
69_ Vimala
70_ Viśvajanani
71_ Puṣṭi
72_ Daridriyanaṇini
73_ Prītapuskarini
74_ Śānta
75_ Śuklamalambara
76_ Bhaskari
77_ Bilvanilaya
78_ Vararoha
79_ Yaśasvini
80_ Vasundhara
81_ Udaranga
82_ Hariṇi
83_ Hemamalini
84_ Dhanadhanyaki
85_ Siddhi
86_ Straina Saumya
87_ Śubhaprada
88_ Nrupaveśvagathananda
89_ Varalakṣmi
90_ Vasuprada
91_ Śubha
92_ Hiraṅyapraka
93_ Samudratanaya
94_ Jaya
95_ Maṃgala
96_ Devi
97_ Visnuvaksah
98_ Viṣṇupatni
99_ Prasannakṣi
100_ Narayana sama-śrita
101_ Daridriya Dhvamsini
102_ Devalakṣmi
103_ Sarvopadravanivariṇi
104_ Navadurga 447
105_ Mahā-kāli
106_ Brahma-Viṣṇu – Śivatmika
107_ Trikalagyanasampanna
108_ Bhuvaneśvarya
Ngoài ra Mật Giáo Ấn Độ còn ghi nhận 8 hình thức của Lakṣmi là:
1_ Santhana Lakṣmi : giúp cho giòng họ, con cháu được thịnh vương
2_ Gaja Lakṣmi: Giúp cho giàu có về gia súc
3_ Dhana Lakṣmi: Giúp cho có nhiều của cải, vàng bạc với các vật chất khác
4_ Dhānya Lakṣmi: Giúp cho giàu có về thực phẩm và lúa gạo
5_ Vīra Lakṣmi: Giúp cho phát triển lòng can đảm
6_ Vijaya Lakṣmi: Giúp cho luôn vượt thắng trong mọi trường hợp
7_ Mahā-Lakṣmi: Giúp cho an vui, hạnh phúc có nhiều may mắn (hay Vidya-
Lakṣmi: giúp cho phát triển tri thức đạo đức)
8_ Ādhi-Lakṣmi: Giúp cho khởi đầu của sự tốt lành
Chân Ngôn là: “OṂ_ ŚRĪṂ MAHĀ-LAKṢMIYE _ SVĀHĀ”
_ Sau này Thiên Nữ cùng với chư Thần của hàng Đế Thích (Indra), Ma Hê Thủ
La (Maheśvara), Tỳ Thấp Nô (Viṣṇu)... du nhập vào Phật Giáo và trở thành hàng
Thiên Thần Hộ Pháp cho Phật Giáo.
Truyền thuyết của Phật Giáo Ấn Độ lại ghi nhận Thiên Nữ có cha tên là Đức Xoa
Ca Long Vương , mẹ là Quỷ Tử Mẫu Thần, chồng là Tỳ Sa Môn Thiên Vương 448
Theo Phật Giáo Trung Hoa, Công Đức Bản Khởi Kinh ghi là: Thiên Nữ có cha
tên là Luân Đầu Đàn Vương, mẹ là Pháp Giới Ma Gia
_Tế Dư Bản Đỉnh Kinh ghi là: Thiên Nữ có cha tên là Đỉnh Đa Môn Thiên
Vương, mẹ là Âm Cụ Đại Nữ
Đồng thời hầu hết Kinh Bản đều ghi nhận Cát Tường Thiên Nữ là Hậu Phi của Tỳ
Sa Môn Thiên Vương và xác nhận Thiên Nữ là vị Bồ Tát Bát Địa, vì Đại Nguyện Lực
nên hiện hình Thiên Nữ ban bố lợi ích cho tất cả chúng sinh
_ Sao ghi là: Vào thời Phật Tỳ Bà Thi (Vipaśyin), Bồ Tát này là cô gái tên
Nguyện Sa làm 3 cái bánh Phước Điền phụng cúng Đức Phật ấy rồi phát thệ rằng:
“Đời sau, con làm Mãn Nguyện Bồ Tát, lúc thành Đẳng Chính giác sẽ mang hình
thể nữ, diện mạo đoan chính, đủ tướng trăng tròn, ban phước cho tất cả chúng
sinh, nguyện chẳng bỏ thân nữ, chẳng bỏ Diêm Giới (Jambu-dvīpa: cõi Diêm Phù
Đề) chuyên cứu độ chúng sinh”. Nếu có người cúng dường Bồ Tát này sẽ khiến cho
nương nhờ Phước Trí. Do vậy Bồ Tát này có tên gọi là Phước Phần Thiên Nữ
_ Đại Cát Tường Kinh ghi: “Này Cát Tường Thiên Nữ! Ngươi sẽ ở Thế Giới
Cát Tường Bảo Trang Nghiêm thành Đẳng Chính Giác, hiệu là Cát Tường Ma Ni Bảo
Sinh Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Giác”.
_ Sao ghi là: Cát Tường Thiên hiện ra 3 loại thân.
Đối với hàng Thượng Căn thì hiện hình Đại Biện Tài Thiên Nữ
Đối với hàng Trung Căn thì hiện hình Đại Cát Tường Nữ
Đối với hàng Hạ Căn thì hiện hình Công Đức Thiên. Nay gọi là: Cát Tường Nữ,
Phước Phần Thiên Nữ, Nguyện Sa Nữ...
Từ đây Thiên Nữ này có rất nhiều tên gọi như: Ma Ha Thất Lợi (Mahā-śrī: Đại
Cát Tường hay Đại Công Đức), Thất Lợi Thiên Nữ (Śrī-devī: Cát Tường Thiên Nữ
hay Công Đức Thiên Nữ), Đệ Nhất Uy Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức
Thiên, Cát Tường Công Đức Thiên, Bảo Tạng Thiên Nữ, Đại Hải Sinh (Jaladhī_Ja)
hoặc 12 tên, 108 tên.... Riêng Kinh Đại Cát Tường Thiên Nữ 12 Danh Hiệu thì hai tên
Thí Thực Giả và Thí Ẩm Giả được Kinh Đại Cát Tường Thiên Nữ 12 Khế 108 Danh
Vô Cấu ghi nhận thành một tên là Thí Ẩm Thực, đồng thời trong Bài Đại Cát Tường
Đà La Ni của Kinh Đại Cát Tường Đà La Ni lại có ghi nhận thêm tên Vô Úy Quân
Cát Tường Nữ (Abhayasena-Śrīṇi) và Bố Thí Giả (Dānāye) cùng với 10 tên đã ghi
nhận trong Kinh 12 Danh Hiệu. Như thế phải chăng 12 Danh Hiệu của Cát Tường
Thiên Nữ phải được ghi nhận là
1 ) Cát Khánh (Lakṣmi)
2 ) Cát Tường Liên Hoa (Śrī-Padme)
3 ) Nghiêm Sức (Vāsinī)
4 ) Cụ Tài (Dhanādhipati)
5 ) Bạch Sắc (Gauri)
6 ) Đại Danh Xưng (Mahā-yasa)
7 ) Liên Hoa Nhãn (Padma-netre)
8 ) Đại Quang Diệu (Mahā-jyoti)
9 ) Bố Thí Giả (Dānāye)
10 ) Bảo Quang (Ratna-prabha)
11 ) Đại Cát Tường (Mahā-śrī)
12 ) Vô Úy Quân Cát Tường Nữ (Abhayasena-śrīṇi)
449
II ) TRÚ XỨ :
_ Theo Kinh Kim Quang Minh do Ngài Nghĩa Tịnh dịch thì: Cát Tường Thiên
Nữ cư ngụ tại cung điện thù thắng do 7 báu tạo thành, nằm trong vườn hoa Diệu Hoa
Phước Quang gần thành Hữu Tài thuộc lãnh địa của Đa Văn Thiên Vương
_ Ký ghi là: Đại Cát Tường Thiên Nữ là Hậu Phi của Thiên Vương, cư ngụ trong
vườn hoa Kim Tràng thuộc cung của Đa Văn, ngày đêm luôn luôn theo sát Thiên
Vương để cùng nhau ban bố lợi ích cho chúng sinh
_ Đà La Ni Tập Kinh, Quyển 10, phần Công Đức Thiên Pháp do sư A Nan
Luật Mộc Xoa, sư Ca Diếp và Pháp Sư Cù Đa phiên dịch thì: Cát Tường Thiên Nữ ở
trong Điện Kim Tràng trong vườn Công Đức Hoa Quang thuộc thành A Ni Mạn Đà do
Tỳ Sa Môn Thiên Vương cai quản.
_ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là: Thiên Nữ cư ngụ tại vườn hoa Phổ Quang trong
Thành Hữu Tài của Tỳ Sa Môn Thiên Vương ở phương Bắc
_ Giác Thiền Sao ghi là: Từ phương Bắc có cung của Tỳ Sa Môn Thiên tên là Sơ
Phát Hoan Hỷ, cách đó chẳng xa có cái vườn hoa tên Phổ Quang, nơi ấy có cái thành
tên là Hữu Tài được trang nghiêm bằng 7 báu. Thiên Nữ này cư ngụ ở đấy.
_ Thiên Vương Niệm Tụng Pháp ghi: Thượng Thủ Thánh Quán Thế (Quán
Thế Âm Bồ Tát) thị hiện hình Thiên Nữ tên là Cát Tường Thiên. Một số kinh điển
khác cũng cho rằng Cát Tường Thiên Nữ là thân thị hiện của Thánh Quán Âm nên cư
ngụ tại Thế Giới Cực Lạc
_ Quyết Nghi Sao cho rằng: Cát Tường Thiên Nữ đồng Thể với Đức Bảo Sinh
Như Lai nên có trú xứ ở Phương Nam. Cụ thể trong Chân Ngôn 108 Danh có ghi câu:
“AVĀKA DEVI ŚRĪ: Nam Phương Thiên Nữ Cát Tường”
Riêng Bản Vị được phụng thờ thì hầu hết Kinh Điển đều cho rằng phải đặt Tượng
Cát Tường Thiên Nữ ở phương Tây hoặc phương Bắc và lý giải rằng :
_ Cát Tường Thiên Nữ là thân biến hóa của Quán Thế Âm Bồ Tát nên có thể đặt
Bản Vị tại phương Tây
_ Trong Kim Cương Giới Man Trà La thì Tỳ Sa Môn Thiên, nguyên là Vị
Thiên ở phương Tây, sau này trở thành một trong 4 Thiên cư ngụ ở phương bắc của
Núi Tu Di nên có tên gọi là Bắc Phương Tỳ Sa Môn Thiên. Do Cát Tường Thiên Nữ là
Hậu Phi của Thiên Vương, từ lúc mới phát tâm, gặp được Bảo Hoa Lưu Ly Thế Tôn ,
đã cùng với Tỳ Sa Môn Thiên Vương phát thệ đời đời kiếp kiếp cùng tương trợ nhau
chẳng hề xa lìa và cùng nhau ban bố lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do đó Cát Tường
Thiên Nữ thường tùy theo chồng, thoạt tiên ở phương Tây sau này cùng đến phương
Bắc của Núi Tu Di và cư ngụ tại đó. Ngoài ra quan hệ vợ chồng của Cát Tường Thiên
Nữ với Tỳ Sa Môn Thiên chỉ là sự biểu thị cho Tính Bất Nhị của hai Bộ (Liên Hoa Bộ
và Kim Cương Bộ) và là một thể của Lý Trí.
_ Tối Thắng Vương Kinh Già Đà ghi là: Cát Tường Thiên Nữ là mẹ của chư
Phật, Kiên Lao Địa Thần là Tâm Bất Hoại.
Đây chính là sự biểu thị cho Mẫu Năng Sinh của tất cả Phật Bồ Tát. Trong đó
Cát Tường biểu thị cho nhiều ý nghĩa như: Đắc Được Phước Đức, đầy đủ không
thiếu sót công đức của mọi điều lành, tổng thể Bình Đẳng Bất Nhị, Luân viên cụ
túc, sự tốt lành an vui của tất cả Phật Bồ Tát, tất cả điều tốt lành... vì là nền tảng
sinh ra Phật, Bồ Tát, Phật Tử nên Cát Tường Thiên Nữ biểu thị cho nghĩa là Mẹ
của chư Phật .
Từ ý nghĩa này mà Cát Tường Thiên Nữ còn được coi là một phân thân của Đức
Bảo Sinh Như Lai. Tuy nhiên hình thể Thiên Nữ biểu thị cho Phước Đức chưa viên
mãn nên Cát Tường Thiên Nữ chỉ được coi là một đồng sự của Đức Bảo Sinh Như 450
Lai (Ratna-saṃbhava-tathāgata) mà thôi. Do đó trong thứ tự Hộ Ma của Pháp Cát
Tường Thiên Nữ thì Bộ Chủ là Bảo Bồ Tát, chư Tôn là Bảo Sinh kèm với 4 vị Bồ Tát
thân cận là: Bảo, Quang, Tràng, Tiếu. Còn lúc Kết Giới thì dùng Mã Đầu Quán Âm
(Hayagīva). Cả hai điều này chính là sự tương thừa của Bảo Bộ và Liên Hoa Bộ trong
Mật Pháp.
III ) HÌNH TƯỢNG :
_Theo Truyền Thuyết Ấn Độ, Cát Tường Thiên Nữ có 4 tay hoặc 8 tay
451
_Người Ấn Độ còn thờ phượng chung nữ thần Lakṣmi với Thần Tài Kubera để
cầu xin sự mạnh khỏe, giàu có thịnh vượng
Thần Chú của Lakṣmi-Kubera là:
OṂ_ ŚRĪṂ ŚRĪYAI KUBERA LAKṢMIYAI NAMAḤ
452
_ Đà La Ni Tập Kinh, quyển 10 ghi là: Tượng Công Đức Thiên, thân đoan
chính, màu trắng đỏ. Thân có hai tay, trang sức bằng mọi thứ Anh Lạc, vòng xuyến,
ngọc đeo tai, khoác thiên y, đội mão báu. Thiên Nữ, tay trái cầm Như Ý Bảo, tay phải
kết Ấn Thí Vô Úy, ngồi trên Đài cao (Nghi Đài). Hình tượng Thiên Nữ rất mỹ lệ đoan
trang.
453
_ Cát Tường Thiên Niệm Tụng Pháp ghi là: Dùng gỗ đẹp làm hình tượng, tay
trái cầm Bảo Châu, tay phải tác Ấn Dữ Nguyện, thân màu trắng như con gái 15 tuổi,
dùng mọi loại Thiên Y quấn quanh thân rất trang nghiêm vi diệu.
_ Tỳ Sa Môn Thiên Vương Kinh ghi là: Vẽ hình Cát Tường Thiên Nữ có mắt
rộng dài, dung mạo tịch tĩnh, đầu đội Thiên Quan (Mão trời) dùng vòng xuyến , Anh
Lạc trang nghiêm thân, tay phải tác Thí Nguyện Thủ, tay trái cầm hoa sen hồng mới
nở.
454
_ Thiên Vương Niệm Tụng Pháp ghi là: Tay trái cầm Như Ý Bảo Châu, tay phải
tác Dữ Nguyện Ấn, thân màu trắng đỏ, tên gọi là Cát Tường Thiên
455
_ Thạch Sơn Đạo Trường Quán ghi là: Tay trái cầm Như Ý Bảo Châu màu
xanh để ngang trái tim, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn
Sự khác nhau về hai tay cầm vật khí đã được các nhà nghiên cứu lý giải như sau:
_ Tay trái biểu thị cho Phước Đức, tay phải biểu thị cho Trí Tuệ. Tay trái cầm
Như Ý Bảo Châu biểu thị cho Phước Báo trang nghiêm, tay phải tác Thí VÔ Úy Thủ
biểu thị cho nghĩa ban phước cho chúng sinh khiến họ không còn sự sợ hãi
_ Tay trái là LÝ, tay phải là TRÍ. Tay trái cầm viên ngọc Như Ý biểu thị cho việc:
Chủ về Pháp Môn Công Đức Trang Nghiêm thâu nhiếp tất cả các Pháp và dùng Công
Đức làm nền tảng. Tay phải kết Dữ Nguyện Ấn biểu thị cho tướng Đại Từ ban vui
khiến cho mãn nguyện của mình và của người
_ Màu xanh biểu thị cho nghĩa Cứu Độ. Tay trái cầm viên ngọc Như Ý màu Xanh
biểu thị cho nghĩa: Sẵn sàng đem Phước Đức đã có ban cho chúng sinh, tay phải kết
Ấn Dữ Nguyện biểu thị cho nghĩa: Dùng nguyện lực Đại Bi ban Phước cứu Khổ cho
mọi chúng sinh.
_ Hoa Sen 8 cánh biểu thị cho 8 Phước. Tâm Phàm Phu ví như hoa sen chưa nở,
Tâm Phật là hoa sen đã hé nở . Đây là hoa sen Tâm của Phật Tính, một khi đã khai mở
được hoa sen Tâm sẽ tự tại tuôn mưa tài bảo cho thế gian. Do vậy Tâm này chính là
Tâm Bồ Đề và cũng là viên ngọc Như Ý
_ Đại Nhật Kinh 7 ghi là: Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta) là Báu Như Ý, hay mãn tất
cả ước nguyện thù thắng hiếm có
Nay tay trái cầm Hoa Sen hé nở tức là Lý thâm sâu của tay cầm viên ngọc Như Ý
vậy. 456
_Ngoài ra còn có Tôn Tượng 8 tay
_ Tại Tạng Truyền Phật Giáo thì Cát Tường Thiên Mẫu là một vị Thần Hộ Pháp
nữ tính trọng yếu rất được sùng phụng, có ảnh hưởng lâu xa, thường được cúng phụng
qua hình tượng Phẫn Nộ.
Hình tượng phẫn nộ của Cát Tường Thiên Mẫu là vị Hung Thần có màu xanh
lam, tóc trên đầu có màu cam dựng đứng lên, trên mặt trang sức năm đầu lâu, đỉnh đầu
có nửa vành trăng và lông chim công, trên khoen tai bên phải có con sư tử nhỏ trang
sức, trên tai trái đeo một con rắn nhỏ, trên eo đeo sổ sách, tay phải cầm cây côn đầu lâu
(khô lâu bổng), tay trái cầm cái chén đầu lâu chứa đầy máu tươi, trên thân khoác da
người, ngồi trên con Loa (Lừa Ngựa giao hợp sinh ra con Loa) màu vàng phi hành
trong ba cõi: trên trời, trên đất, dưới đất. Bên dưới chỗ ngồi của Ngài có treo đầu người
rũ tóc xuống phía dưới. Phía trước yên ngựa, ở bên dưới có hai hột xúc sắc màu hồng
và màu trắng. Phía sau cái yên có cái túi nhỏ, bên trong chứ đầy độc khuẩn bệnh dịch
457
Ý nghĩa của hình tượng này là:
.)Thân thể màu xanh lam, đầu đội mão năm đầu lâu, tóc vàng cam dựng
đứng biểu thị cho sự phẫn nộ
.)Đỉnh đầu có nửa vành trăng biểu thị cho phương pháp của Tôn này là vô
thượng
.)Trên khoen tai bên phải có con sư tử nhỏ biểu thị cho việc lắng nghe Phật
Đạo
.)Trên tai trái đeo một con rắn nhỏ tượng trưng cho dấu hiệu của sự phẫn nộ
.)Trên eo đeo sổ sách biểu thị cho bản Án chuyên môn ghi chép việc mà con
người đã gây hoại, tương lai của người ác sẽ bị xử trí bằng cách lột da
.)Tay phải cầm cây côn đầu lâu biểu thị cho việc chuyên môn đối phó với Quỷ
ác, A Tu La
.)Tay trái cầm cái chén đầu lâu chứa đầy máu tươi biểu thị cho hạnh phúc
.)Trên thân khoác da người biểu thị cho việc vì Đại Nghĩa diệt Thân
.)Bên dưới chỗ ngồi của Ngài có treo đầu người rũ tóc xuống phía dưới biểu
thị cho việc Môn Đồ của Dị Giáo đã bị Ngài giáng phục
.)Hột xúc sắc màu hồng chủ về việc giết chóc, hột xúc sắc màu trắng chủ về
việc giáo hóa
.)Bên trong cái túi nhỏ chứa đầy độc khuẩn bệnh dịch biểu thị cho Tôn này là
vị Thần chủ về sinh tử, bệnh ôn, thiện ác
.)Ngồi trên con Loa màu vàng phi hành trong ba cõi: trên trời, trên đất, dưới
đất biểu thị cho việc Ngài có danh xưng là Tam Giới Tổng Chủ
458
IV ) CHỦNG TỬ VÀ TAM MA GIA HÌNH :
Cát Tường Thiên Nữ dùng chủng tử ŚRĪ (ᩃ), Tam Ma Gia Hình là viên ngọc
Như Ý.
_ Bạch Bảo Khẩu Sao ghi là :
ŚRĪ (ᩃ) là lấy chữ của Chân Ngôn làm Chủng Tử. ŚA là Bản Tính Tịch, RA là
xa lìa bụi trần, Ī là Tai Họa.
ŚA Tự Môn (᜴) là trừ tâm sai biệt của các Pháp, nhiếp tất cả Diệu Lý Bình Đẳng
của Pháp
RA Tự Môn (ᜐ)là trừ sự nhơ bẩn của trần nhiễm, nhiếp tất cả Phước Đức Trí
Tuệ
Ī Tự Môn (゜) là trừ tất cả tai họa, nhiếp Quả viên mãn cứu cánh
Thường cùng với 3 loại tương ưng này mà nhiếp tất cả Pháp. Đó đây, ngang dọc
đều nhiếp trì, trùng trùng vô lượng bình đẳng, không có cao thấp. Rốt ráo lìa tất cả
Tướng. Do lìa tất cả Tướng cho nên chứng TỰ CHỨNG TAM BỒ ĐỀ của chư Phật.
Chứng Tam Bồ Đề cho nên các Pháp Chân Tục thảy đều được hiện tiền. Báu Chân
Đà Ma Ni (Cintā-maṇi) hay mãn ước muốn nguyện cầu của tất cả chúng sinh
_ Lại nữa, ŚRĪ nghĩa là Luân Viên Cụ Túc, Tổng Thể Bình Đẳng Bất Nhị. ŚRĪ do
3 chữ hợp thành
ŚA (㗣) là Bản Tính Tịch bất khả đắc
RA (㇂) là ly trần bất khả đắc
Ī (㘴) là tự tại bất khả đắc
Theo nghĩa của chữ HRÌH thì Ì là Lý Thú tự tại. Chữ RA là chủng tử Bảo Châu
của Bảo Bộ thuộc Phương Nam. Trần Cấu liền nhập vào nghĩa Bất khả đắc ly trần. Vì
Ly Trần nên là Như Ý Bảo Châu
Phạm Võng Khai Đề ghi là: chữ RA là Trần Cấu, lúc thêm Tam Muội Đại
Không thì hoàn trả tất cả Trần Cấu làm vật Báu
Tam Chủng Phá Địa Ngục Quỹ ghi là: Vàng, ngọc, trân bảo, nhật, nguyệt, tinh
thần , Hỏa châu, ánh sáng đều từ chữ LA mà thành
ŚRĪ nghĩa là Bản Tính Tịch, ở tất cả Pháp là Pháp Bình Đẳng không có cao thấp
_ Lại ghi là: ŚA là Pháp Thân. RA là Báo Thân, Ī là Hóa Thân. Một Thể của 3
Thân (Tam Thân Nhất Thể ) là ŚRĪ. Y theo lực gia trì này nên đối với chung sinh, ban
cho Phước Trí nhị nghiêm không hề cùng tận
_ Lại nói là: 3 chữ này là 3 chữ của 3 Bộ Phật, Liên, Kim hợp Thể thành ŚRĪ.
Chữ ŚRĪ này dịch là Cát Tường. Do vậy chữ Hán của Chủng Tử là Danh Hiệu của
Tôn. Cát Tường cũng là tên gọi của Như Ý Bảo Châu
Sớ 19 ghi là: Cát Tường Như Ý Bảo Châu. Do đó nên biết Chủng Tử, Tam Hình,
Bản Tôn đều chỉ một Vật. Một vật cho nên Cát Tường Thiên Nữ tức là Thật Thể của
Bảo Châu, Thật Thể của Bảo Châu là Bản Tâm của Giá Na (Vairocana)
Sớ 6 ghi là: Liên Hoa Đài Đạt Ma Đà Đô (Padmāsana dharma-dhātu) tức là
Thân Xá Lợi. Nếu chúng sinh giải được Bồ Đề Tâm Ấn này liền đồng với Tỳ Lô Giá
Na (Vairocana)
V ) ẤN CHÂN NGÔN :
Ấn và Chân Ngôn của Cát Tường Thiên Nữ có rất nhiều nhưng vẫn không ra
ngoài 3 Ấn và các Chân Ngôn sau : 459
1 ) BỊ GIÁP ẤN hay NỘI PHỘC TAM CỔ ẤN :
_ Tập Kinh 10 ghi là: Công Đức Thiên Tâm Ấn
Hai ngón út, hai ngón vô danh cài ngược đầu giao nhau trong lòng bàn tay. Dựng
thẳng hai ngón giữa sao cho 2 đầu ngón dính nhau. Hai ngón trỏ đều vịn lưng lóng trên
của 2 ngón giữa, Hai ngón cái kèm dựng kề nhau
Ý nghĩa của Ấn này là :
_ Hai ngón út cùng cài nhau bên trong biểu thị cho Tâm Địa của Pháp Tính tức
Nội Tương Xoa, hiện Nội Chứng của Thiên Nữ
_ Hai ngón vô danh như trên là chữ VA (ᜨ)
_ Hai ngón cái đè trên móng là thêm Điểm Không thành chữ VAṂ (ᜲ) nghiã là
dùng Tính của nước TĨNH TRÍ rửa nghiệp phiền não nhơ bẩn cho chúng sinh và sinh
ra công đức phước trí
_ Hai ngón giữa dựng hợp là Bình Đẳng Tính Trí. Tôn này là Cát Tường Ma Ni
Bảo Sinh Như Lai , nên Lưỡng Bộ Nhất Vị biểu thị cho nghĩa Bất Nhị. Dùng nghĩa đó
hợp dụng tức là Thể của Bảo Châu
_ Hai ngón trỏ dựng, trái phải biểu thị cho Phước Trí nhị Nghiêm. Ngón trỏ là
chữ HA, nghĩa là Nhân Nghiệp. Suy ra Phước Trí như là Nhân đã được cải sửa vậy
Nội Phộc Tam Cổ Xoa Ấn này là Quân Trà Lợi Đại Ấn, Bình Đẳng Tính Trí
Môn. Đó đây đồng thể, nên dùng đồng Ấn
Chân Ngôn dùng Đại Cát Tường Đà La Ni
TADYATHĀ: OṂ_ LAKṢMI, ŚRĪ-PADME, VĀSINĪ, DHANĀDHIPATI,
GAURI, MAHĀ-YASA, PADMA-NETRE, MAHĀ-JYOTI, DĀNĀYE, RATNA-
PRABHA, MAHĀ-ŚRĪ , ABHAYA-SENA-ŚRĪṆI _ ŚRĪṆI, SARVATHĀ KĀRYA
SĀDHANI, SINI SINI, NI NI NI NI , NĪTI NĪTI, ĪNI ĪNI, ALAKṢMI NĀŚAYA,
SARVA LAKṢMI DEŚA DĀNĀYA SVĀHĀ _ NAMO SARVA BUDDHA
BODHISATVE BHYAH _SVĀHĀ
2 ) BÁT DIỆP ẤN :
Chắp hai tay lại giữa rỗng, mở 2 ngón vô danh, 2 ngón giữa, 2 ngón trỏ rồi hơi co
lại như cánh sen
_ Thập Nhất Diện Kinh ghi là: Nhất thiết Cát Tường là Cát Tường Thiên, Thiên
Sư. Ấn là Bát Diệp Ấn tức Thai Tạng Như Lai Thân Hội Ấn. Ấn ấy tên là Như Lai Cát
Tường Nguyện Ấn
460
_ Lâu Các Kinh ghi nhận Ấn này là Cát Tường Thiên Nữ Ấn. Chân Ngôn là:
Oṃ_ VIMALA UGRA VATI SAṂBHARA HŪṂ
(Tạm diễn dịch là: Hỡi Đấng có đầy đủ uy đức lìa cấu nhiễm! Hãy giúp đỡ cho
con thành tựu cuộc sống cao đẹp của Thánh Nhân )
Do kết Ấn tụng Chân Ngôn này sẽ mãn nguyện mong ước. Khi tác Pháp này, mọi
điều yêu thích đều được như ý
_ Tỳ Sa Môn Thiên Vương Kinh ghi nhận Cát Tường Thiên Nữ Ấn là Bát Diệp
Ấn. Chân Ngôn là:
NAMO ŚRĪ-GAṆĀYA
NAMO VAIŚRAVAṆĀYA , MAHĀ-YAKṢA-RĀJA , ADHIRĀJAYA
NAMAḤ ŚRĪYAYE MAHĀ-DEVI
TADYATHĀ: OṂ _ TĀRA TĀRA, TURU TURU , ŚĀSTRA ŚĀSTRA,
MAṆI KANAKA, VAJRA , VAIḌURYA , MUKTA, NĀMĀLUṂKṚTA, BHŪḤ _
SARVA HĪTA _ KĀMA, VAIŚRAVAṆA, ŚRĪ-DEVI, MĀLĀṂ VI _ EHYEHI,
GṚHṆA GṚHṆA, MASA MASA, DARŚAYA SIDDHI DĀDĀHIME _
DARŚANA KĀMAṢYA , DARŚANĀṂ PRAKRADĀYA MAṆA , SVĀHĀ
(Bài Chú trên có thể diễn dịch là :
Quy mệnh Cát Tường Chúng Đẳng
Quy mệnh Tỳ Sa Môn Đại Dược Xoa Vương Căn Bản Vương Đẳng
Kính lễ Cát Tường Đại Thiên Nữ
Như vậ : OM !
Cứu độ, cứu độ khắp. Nhanh chóng, cực nhanh chóng ban giáo huấn về luật
giới Thánh sáng tạo vật dụng trang nghiêm là: Ngọc Như Ý, vàng, Kim Cương, Lưu
Ly đem lại sự lợi ích cho tất cả Hữu Tình.
Hỡi Thần Ái Dục! Tỳ Sa Môn Thiên Vương! Cát Tường Thiên Nữ! Bậc Tối
Thắng đeo tràng hoa vinh quang!
Hãy khéo đến gìn giữ cầm nắm khắp, thay đổi thay đổi khắp .
Hãy ban bố cho con thành tựu Kiến Giải. Khiến cho nhìn thấy điều yêu thích
và khiến cho mọi người nhìn thấy con đều khởi ý vui thích
Nguyện cho con quyết định thành tựu viên mãn)
3 ) BẢO BỒ TÁT ẤN :
Đem 2 ngón giữa, 2 ngón vô danh cài chéo nhau bên trong lòng bàn tay. Hướng 2
ngón út ra ngoài cài chéo nhau, bên phải đè bên trái. Co cứng ngón trỏ phải, dựng
thẳng ngón trỏ trái Co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay. Hợp 2 cổ tay.
Công Đức Thiên Pháp ghi nhận Ấn này là Công Đức Thiên Thí Trân Bảo Ấn
(Thứ tư). Chân Ngôn là Đại Thân Chú tức Thiện Nữ Thiên Chú.
_ Công Đức Thiên Pháp ghi là: Kết Đại Ấn còn gọi là Công Đức Thiên Đại
Thân Ấn: Đem 2 ngón vô danh câu móc nhau ở trong lòng bàn tay, dựng đứng 2 ngón
út sao cho đầu ngón cách nhau một thốn, dựng thẳng 2 ngón trỏ dựa đầu nhau, đặt 2
ngón trỏ trên lóng thứ ba của 2 ngón giữa, kèm dựng thẳng 2 ngón cái, đưa đầu ngón
qua lại
Chân Ngôn là Đại Thân Chú còn gọi là Thiện Nữ Thiên Chú
NAMO BUDDHĀYA
NAMO DHARMĀYA
NAMO SAÑGHĀYA
NAMO ŚRĪ MAHĀ-DEVĀYA 461
TADYATHĀ: PARIPŪRṆA CALE, SAMANTA DARŚANI, MAHĀ-
VIHARA GATE, SAMANTA VIDHĀNA GATE, MAHĀ-KĀRYA-PATI,
SUPARIPŪRE_ SARVATHĀ SAMANTA SUPRATI PŪRṆA, AYANA
DHARMATE , MAHĀ-VIBHAṢITE , MAHĀ-MAITRE, UPASAṂHITE _ HE!
TITHU, SAṂGṚHITE , SAMANTA ARTHA ANUPALANI
(Bài Chú trên có thể diễn dịch là :
Quy y Phật
Quy Y Pháp
Quy Y Tăng
Quy Y Cát Tường Đại Thiên
Như vậy : Hỡi Đấng Quyền Năng hay ban bố sự viên mãn thù thắng!
Đấng Chủ Tể Đại Tác Nghiệp hay nhìn thấy khắp cả nẻo phân ly rộng lớn và
nẻo kết hợp rộng lớn
Hãy khéo léo làm cho tất cả mọi nơi đều được đầy đủ
Hãy khiến cho khắp tất cả mọi nơi đều được sự viên mãn thù thắng tối thượng
Hãy thể hiện lòng Đại Từ làm cho Lý Thú Pháp Tính phóng tỏa ánh sáng màu
nhiệm rộng lớn khiến cho con và chúng sinh được thích ứng với sự lợi ích chân
chính
Mừng thay Đấng biểu hiện của lòng yêu thương!
Đấng chân chính gìn giữ sự lợi ích
Hãy giúp cho con và chúng sinh đều gìn giữ được khắp mọi tài sản lợi ích)
Kinh này còn ghi chú là: SVĀHĀ nghĩa là tán khứ. Vì Chú này cầu tài vật nên
không có SVĀHĀ bởi lẽ điều này chẳng dính với SVĀHĀ
_Truyền thống khác ghi nhận bài Chú này là:
NAMO BUDDHĀYA
NAMO DHARMĀYA
NAMO SAṄGHĀYA
NAMO ŚRĪ MAHĀ-DEVĪYA
TADYATHĀ: (OṂ) PARI-PŪRṆA-CARE, SAMANTA DARŚANE, MAHĀ-
VIHĀRA GATE, SAMANTA VIDHĀ-MANE, MAHĀ-KĀRYA-PRATI-
ṢṬHĀPANE_ SARVĀRTHA-SĀDHNE, SUPRATI-PŪRE, ĀYĀNA DHARMATĀ ,
MAHĀ-AVIKOPITE, MAHĀ-MAITRĪ, UPA-SAṂHITE, MAHĀ-KLEŚE SU-
SAṂGṚHĪTE, SAMANTĀRTHA ANUPĀLANE SVĀHĀ
.)Ý nghĩa của Đại Thân Chú này là:
Namo buddhāya: Quy y Phật đẳng
Namo dharmāya: Quy y Pháp đẳng
Namo saṅghāya: Quy y Tăng đẳng
Namo śrī-mahā-devīya: Quy y Cát Tường Đại Thiên Nữ đẳng
Tadyathā: Như vậy, liền nói Chú là
Oṃ: Nhiếp triệu
Pari-pūrṇa-care: Viên Mãn Hành, thực hiện tròn đủ
Samanta-darśane: có thể thấy tràn khắp
Mahā-vihāra-gate: Đại Trú Xứ Bỉ Ngạn, bờ bên kia của trú xứ to lớn
Samanta-vidhā-mane: Ý niệm dạy bảo khắp
Mahā-kārya: Đại Sự Nghiệp, sư nghiệp to lớn
Prati-ṣṭhāpane: An trụ
Sarvārtha-sādhane: Tất cả nhiêu ích, lợi ích
Suprati-pūre: Khéo đầy đủ, cứu cánh viên mãn 462
Āyāna-dharmatā: tiếp cận Pháp Tính
Māha-avikopite: Đại bất thoái, đại bất hoại
Mahā-maitrī: Đại Từ
Upa-saṃhīte:Gần gũi thân cận lợi ích chân chính
Mahā-kleśe-su-saṃgṛhīte: khéo chân chính giữ gìn lợi ích bên trong sự Phiền
Não rộng lớn (Đại phiền não)
Samantārtha anupālane: Giữ gìn lợi ích của cải cho khắp cả
Svāhā: Đem đến sự tốt lành
Ngoài các Ấn Chú trên, Kinh Điển còn ghi nhận thêm một vài Chân Ngôn của
Cát Tường Thiên Nữ là
_ Tiểu Chú thường dùng là (Kết Bát Diệp Ấn)
OṂ_ MAHĀ-ŚRĪYAYE SVĀHĀ
(Quy mệnh Đại Cát Tường Đẳng, viên mãn tốt lành)
_ Có lúc dùng câu: ALAKṢMI NĀŚAYA (Tiêu trừ điều chẳng tốt lành)
_ Thập Nhất Diện Kinh ghi Nhất Thiết Cát Tường Tâm Chân Ngôn là :
NAMO ŚRĪYAYE _ OṂ_ KILI MILI NÌYE _ SVĀHĀ
(Quy mệnh Cát Tường Đẳng. Hãy găm chặt, ngăn chận, ra lệnh khiến cho viên
mãn tốt lành)
_ Thành Tựu Viện truyền miệng câu Chú là :
OṂ_ ŚRĪ-DEVAPUTRAṢYA, ŚĀNTI KURU, SVĀHĀ
(Quy mệnh Cát Tường Thiên Tử Đẳng. Hãy tạo dựng sự an bình vắng lặng
khiến cho viên mãn tốt lành)
_ Thánh Hiền ghi là: Lúc tu Pháp có thể dùng Ấn : Chắp 2 tay lại giữa rỗng, đưa
2 ngón cái vào trong lòng bàn tay, co 2 ngón vô danh, đặt 2 ngón cái trên móng 2 ngón
vô danh liền thành. Chân Ngôn là :
NAMO RATNA-TRAYĀYA_BHADRA ŚRĪ _ LOKA ŚRĪ _ RĀJA ŚRĪ _
SUBHA ŚRĪ _ VIMALA ŚRĪ _ VAJRA ŚRĪ _ RAṆAṂ ŚRĪ _ PADMA ŚRĪ _
BRAHMAṂ ŚRĪ _ ATUBHARA ŚRĪ _ MAHÀ ŚRĪ _ JÑĀNA ŚRĪ _ SVĀHĀ
(Quy y Tam Bảo
Như vậy: Hiền Cát Tường, Thiên Thần Tối Thượng Cát Tường, Cam Lộ Cát
Tường, Long Cát Tường, Thế Giới Cát Tường, Vương Cát Tường, Hoan Hỷ Cát
Tường, Ly Cấu Cát Tường, Kim Cương Cát Tường, Chiến Đấu Cát Tường, Liên
Hoa Cát Tường, Phạm Hạnh Cát Tường, Trọng Đảm Cát Tường, Đại Cát Tường,
Trí Cát Tường, viên mãn thành tựu)
_Tạng Truyền Phật Giáo còn ghi nhận chữ chủng tử của Cát Tường Thiên Mẫu là
BHYOḤ và tùy theo giòng phái truyền dạy Cát Tường Thiên Mẫu Chú hoặc Cụ
Đức Thiên Mẫu Chú khác nhau:
.)Cụ Đức Thiên Mẫu Chú:
OṂ HŪṂ ŚRIYA DEVĪ KALI MAHĀ-KALI HŪṂ BHYOḤ 463
Phàm cầu đảo tiêu tai, mạnh khỏe, giàu có, cảm tình, hôn nhân, quan lộc, địa vị uy
thế, trừ chướng thì Thần Chú này hay tiêu trừ Duyên chướng ngại, mau chóng gom tập
được thuận duyên, cát tường
.)Cát Tường Thiên Mẫu Chú (Chú ngắn):
“Cứu lạt mẫu, cứu lạt mẫu, cứu cứu lạt mẫu”
BHYOḤ RAKMO, BHYO RAKMO, BHYO BHYO-RAKMO
.)Cát Tường Thiên Mẫu Chú hay Cụ Đức Phật Mẫu Tâm Chú (Chú dài):
“Cứu lạt mẫu, cứu lạt mẫu, cứu cứu lạt mẫu, thôn cứu, ca lạp lạt khánh mẫu,
lạt mẫu, a gia đáp gia, thôn cứu, nhập lộ nhập lộ, hồng, cứu, hồng”
BHYOḤ RAKMO, BHYO RAKMO, BHYO BHYO RAKMO, THUNA
BHYO, VILARAGACENAMO RAKMO, AVYATA THUNA BHYO, RULU
RULU, HŪṂ BHYO HŪṂ
VI ) HÀNH PHÁP :
Dùng Thiên Nữ này làm Bản Tôn để tu Pháp Sám Hối tội lỗi thì gọi là Cát Tường
Thiên Nữ Pháp hay Cát Tường Sám Hối Pháp. Man Đà La sử dụng để tu Pháp này gọi
là Cát Tường Thiên Man Đà La.
_ Tập Kinh ghi: Nếu muốn tác Pháp thì chọn ngày mồng 3, mồng 7 tháng Giêng.
Nên dùng tháng này để vào Đàn ắt Thiên Nữ vui vẻ. Tháng khác thì chẳng được.
Lại nói từ mồng 8 cho đến ngày 14 trong tháng, dùng đất bùn sạch tốt làm Thủy
Đàn rộng 4 khuỷu tay
_ Công Đức Thiên Pháp ghi là: Dùng gỗ cây mới đốn làm hình Thiên Nữ, thân
dài một thốn. Chú Sư từ ngày mồng một tháng Giêng rưới vảy tắm. Nên ở trước Tượng 464
bày biện mọi thứ cúng dường, ngày ngày đặt thêm bên trên vật cúng dường tốt. Như
vậy đến ngày 15 sẽ mãn túc ước muốn, người cầu đều vừa ý.
Công Đức Thiên Nữ Niệm Tụng Pháp ghi: Dùng gỗ đẹp làm hình tượng Thiên
Nữ, tay trái cầm Bảo Châu, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, thân màu trắng như thiếu nữ
15 tuổi. Dùng mọi thứ áo khoác (Thiên Y) vi diệu trang nghiêm. Hiện hình Thiên Nữ
cho nên chẳng mặc Pháp Y (Áo Pháp), dùng Thiên Y quấn thân. Bên trái vẽ Diệu Kiến
Thiên Nữ, tay trái nâng Bảo Châu, tay phải tác Thí Vô Úy. Bên phải vẽ Công Đức
Thiên Nữ, tay trái ôm cái bát đầy hoa, chưởng phải hướng ra ngoài. Lại bên trái vẽ
Biện Tài Thiên Nữ, tay trái cầm cây Tam Kích, tay phải cầm cây kiếm bén. Bên phải
vẽ Đại Quang Thiên Nữ, tay trái cầm mặt trời, tay phải kết Ấn Dữ Nguyện. Lại tiếp 4
phương vẽ 4 Vị Thiên Vương có binh lính và vô lượng quyến thuộc vây quanh
_ Thành Tựu Viện ghi là: Thoạt tiên quán chữ AḤ (ォ) phóng tỏa ánh sáng lớn
biến đại địa thành lưu ly, chung quanh có suối chảy ao hồ. Trung ương có chữ ĀḤ (㜧)
biến thành cung điện báu, ở giữa cung điện có cái Đàn, trên Đàn có Đài sen nở. trên
Đài sen có chữ ŚRĪ (ᩃ) biến thành Như Ý Bảo Châu. Bảo Châu biến thành Cát
Tường Thiên Nữ, đầu đội mão Ma Ni, diện mạo đoan chính kỳ diệu, tay trái cầm Như
Ý Bảo, tay phải kết Thí Nguyện Ấn, sau lưng có hào quang tròn, ngồi trên hoa sen
hồng. Phạm Vương, Đế Thích, 4 Đại Thiên Vương với vô lượng quyến thuộc vây
quanh.
Căn Bản Ấn là Bát Diệp Ấn
Chân Ngôn là: OṂ_ MAHĀ-ŚRĪYAYE SVĀHĀ
Sau khi tụng niệm thì niệm Kinh Đại Cát Tường, 12 Danh Hiệu
Kết Nội Phộc Tam Cổ Ấn, tụng Chân Ngôn: TADYATHĀ : ŚRĪṆI ŚRĪṆI,
SARVA KĀRYA SĀDHANI, SINI SINI , NI NI NI NI, ALAKṢMI NĀŚAYA _
SVĀHĀ
Lại tụng Chân Ngôn: OṂ _ ŚRĪ-DEVA-PUTRAṢYA, ŚĀNTI KURU _ SVĀHĀ
_ Lược Đạo Trường Quán: Kết Địa Giới, bên trên kết Kim Cương Tường, bên
trong có biển lớn chứa nước 8 công đức. Chính giữa có núi Tu Di Vương do 4 báu
trang nghiêm. Giữa lưng Núi có cung điện, ở giữa có Diệu Đàn. Giữa Đàn có tòa sen
nở. Trên Tòa có vành trăng, giữa vành trăng có chữ ŚRĪ (ᩃ), chữ ŚRĪ biến thành Như
Ý Bảo Châu, Bảo Châu biến thành Cát Tường Thiên Nữ có tướng tốt đẹp viên mãn,
vi diệu trang nghiêm, tay trái cầm Như Ý Bảo Châu, tay phải kết Ấn Thí Nguyện, đỉnh
đầu và lưng có hào quang tròn, quyến thuộc vây quanh.
Ngoài ra còn có nhiều nghi thức tu trì khác như: Cát Tường Thiên Nữ Cúng
Dường Thứ Đệ, Nhập Ngã Ngã Nhập, Quán Tưởng Trì niệm, Hộ Ma, Cát Tường Đa
Văn Đồng Thể Quán...
Theo truyền thống Mật Giáo thì Cát Tường Thiên Nữ còn có người em gái tên là
Hắc Nhĩ (Kṛṣṇa-karṇa). Hai chị em cùng đi chung với nhau chẳng rời. Chị tên Cát
Tường , đi đến đâu đều đem lợi ích đến đó. Em tên Hắc Nhĩ , do có lỗ tai màu đen mà
có tên, xưa dịch là Hắc ám, đi đến đâu đều gây nên sự tổn hoại. Do đó hai chị em
(Công Đức Thiên, Hắc Ám Nữ) biểu thị cho nghĩa Phước Họa Tương Tùy. Chính vì
lý do này mà tín ngưỡng Cát Tường Thiên Nữ ngày càng giảm dần. Sau này, tại Nhật
Bản rất tôn phụng Biện Tài Thiên Nữ là Nữ Thần tăng ích phước đức thay cho Cát
Tường Thiên Nữ
_ Thầy truyền rằng: Lúc cúng Cát Tường Thiên thì nên cúng cả Thần này (Hắc
Nhĩ). Các việc như chuẩn mực, 7 ngày chia làm 3 lần. Hoặc trước sau chỉ có 7 ngày. 465
Có điều nhà thất của Hắc Ám, nếu hành ở nơi rừng Trúc thì đừng đốt lửa
Hắc Nhĩ có chủng tử là KA (ᗘ). Tam Muội Gia hình là chày Độc Cổ. Ấn là Phổ
Ấn. Chân Ngôn là:
OṂ_ KĀLA ŚRĪ, SVĀHĀ (Quy mệnh Hắc Thiên Cát Tường, thành tựu tốt lành)
Thứ tự Pháp Thí: Tâm Kinh (3 quyển)_ Kim Cương Bát Nhã Kệ_ Quang Minh
Chân Ngôn_ Phát Tâm Bồ Đề (100 biến)_ Tam Muội Gia Giới (100 biến)_ Bản Tôn
Chú (100 biến, hoặc 1000 biến)
_ Khẩu truyền là: Dùng Tùy Cầu Đà La Ni. Vì Hắc Nhĩ là Hộ Pháp của Tùy Cầu
cho nên tụng Tùy Cầu Chú, Hắc Nhĩ sẽ chẳng gây chướng ngại
(Cát Tường Thiên Pháp, lúc Tán Niệm Tụng thì tụng Tùy Cầu Chân Ngôn 108
biến . Có Kinh ghi là: Tùy Cầu Pháp giải thoát Hắc Nhĩ)
Tùy Cầu Đà La Ni Kinh ghi là :
Người thọ trì Tùy Cầu
Kim Cương Bí Mật Chủ
Hộ Thế Tứ Thiên Vương
Cam Lộ Quân Trà Lợi
Vô Năng Thắng Minh Phi
Hắc Nhĩ, Cát Tường Nữ
Do trì Mật Ngôn này
Ngày đêm thường tùy toại Theo sát làm cho vừa ý)
Hay mãn các Nguyện khác
Đại Tùy Cầu Tùy Tâm Chân Ngôn là:
OṂ_ BHARA BHARA, SAṂBHARA SAṂBHARA, INDRIYA
VIŚODHANI, HŪṂ HŪṂ , RURU CALE, SVĀHĀ
(Hãy giúp đỡ đảm nhận, chân chính giúp đỡ đảm nhận, tĩnh trừ các căn, khủng bố
và lay động Nội trần với Ngoại Trần khiến cho viên mãn cát tường)
466
HUỲNH HOẶC THIÊN
Huỳnh Hoặc Thiên, tên Phạn là Piṅgala, dịch âm là Băng Nga La. Tôn này
đồng Thể với Nhật Thiên (Āditya-deva), là một trong 20 Thiên Hộ Thế ở phương
Nam của Ngoại Kim Cương Bộ trong Kim Cương Giới Man Đa La, là Du Hư Không
Thiên trong 5 loại Thiên
Xưa kia hoặc nói Piṅgala là con yêu (ái tử) của Ha Lợi Để Mẫu (Hāṛtye-mātṛ)
nhưng xem ra có sự khác biệt với Tôn này. Như Piṅga là nghĩa của màu hoàng hôn
(xích hạt), màu vàng đất (hoàng hạt) là tên gọi Thị Giả của Thái Dương ắt cùng với
nghĩa của Hỏa Diệu Tinh có sự khế hợp, nhưng tên Phạn của Hỏa Diệu Tinh là
Aṅgāraka cho nên chưa hiểu rõ chỗ đồng dị của Aṅgāraka với Piṅgala
.)Tại Thành Thân Hội (Karma): Huỳnh Hoặc Thiên có thân màu thịt trắng, hiện
tướng đáng sợ, tay phải cầm đám lửa, tay trái nắm quyền
Mật Hiệu là: Kim Cương Băng Nga La
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ) hay PIṂ (㫺)
Tam Muội Gia Hình là: Đám lửa
Tướng Ấn là: Hai tay kết Bát Ấn, tưởng phóng ánh sáng lửa
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ 467
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Huỳnh Hoặc Thiên có chữ chủng tử là:
VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Đám lửa
Tướng Ấn là: Hai tay kết Bát Ấn, tưởng phóng ánh sáng lửa
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Huỳnh Hoặc Thiên có chữ chủng tử là: TRAṂ ()
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ_ TRAṂ
468
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Huỳnh Hoặc Thiên có chữ chủng tử là: TRAṂ
()
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Hai tay kết Bát Ấn, tưởng phóng ánh sáng lửa
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Huỳnh Hoặc
Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
469
Tam Muội Gia Hình là: Đám lửa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ_ LA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Huỳnh
Hoặc Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tam Muội Gia Hình là: Đám lửa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᛊⳄㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-PIṄGALA SVĀHĀ_ LA
470
TUỆ TINH THIÊN
Tuệ Tinh Thiên, tên Phạn là Ketu, dịch âm là Kế Bộ, Kế Đâu, Kế Đô…là sao
Kế Đô trong 9 Diệu, Báo Vĩ Tinh, Thực Thần Vĩ… là một trong 20 Thiên Hộ Thế
được an bày ở phương Tây Nam của Ngoại Kim Cương Bộ trong Kim Cương Giới
Man Đa La
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Tuệ Tinh Thiên có thân màu thịt trắng, tay
phải để cạnh eo cầm cây gậy, tay trái nắm quyền để ngang eo
Mật Hiệu là: Kim Cương Trượng
Chữ chủng tử là: LA (ㇶ) hay MU (㪧)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
471
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, kèm đứng hai ngón giữa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Tuệ Tinh Thiên có chữ chủng tử là: YA
(ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, kèm đứng hai ngón giữa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Tuệ Tinh Thiên có chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
472
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿 ㆎ
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ_ YA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Tuệ Tinh Thiên có chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, kèm đứng hai ngón giữa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Tuệ Tinh Thiên
có chữ chủng tử là: RU (᜔)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
473
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿 ᜔
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ_ RU
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Tuệ
Tinh Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄㪧ᝌㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-MUSALA SVĀHĀ_ LA
474
KIM CƯƠNG THỰC THIÊN
Kim Cương Thực Thiên, tên Phạn là Vajra-bhakṣaṃ, hay Vajra-māla. Lại xưng
là Kim Cương Ẩm Thực Thiên, Kim Cương Thực Trì Man, Nghiêm Kế Đại Tướng,
Hoa Man Tỳ Na Dạ Ca là tên Phạn của Hoan Hỷ Thiên. Là một trong 20 Thiên Hộ
Thế được an bày ở chính giữa phương Nam của Ngoại Kim Cương Bộ trong Kim
Cương Giới Man Đa La. Là Hư Không Thiên trong 5 loại Thiên.
Đại Giáo Vương Kinh, Quyển 10 ghi nhận Tôn này tức là Tác Cam Lộ
(Madhu-kara) trong các chư Thiên của hàng Hư Không Hành
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Thực Thiên có thân màu thịt
trắng, thân người đầu voi, tay phải ngửa lòng bàn tay cầm vòng hoa, tay trái nắm
quyền
Mật Hiệu là: Kim Cương Man
Chữ chủng tử là: LA (ㇶ), hay MA (㈦)
Tam Muội Gia Hình là: Vòng hoa
475
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc, đứa từ rốn đến miệng rồi bung tán.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Thực Thiên có chữ chủng tử
là: YA (ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: Vòng hoa
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc, đứa từ rốn đến miệng rồi bung tán.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Thực Thiên có chữ chủng tử là: PA
(ᛈ)
Tôn Hình:Tay trái cầm cây kiếm, còn lại lược đồng với Thành Thân Hội.
476
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿 ᛈ
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ_ PA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Thực Thiên có chữ chủng tử là:
PA (ᛈ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc, đưa từ rốn đến miệng rồi bung tán.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương
Thực Thiên có chữ chủng tử là: RU (᜔)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
477
Tam Muội Gia Hình là: Vòng hoa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿 ᜔
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ_ RU
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Thực Thiên có chữ chủng tử là: LA (ㇶ)
Tam Muội Gia Hình là: Vòng hoa.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㇶ 㛿 ㇶ
OṂ _ VAJRA-MĀLA SVĀHĀ_ LA
478
KIM CƯƠNG Y THIÊN
Kim Cương Y Thiên, tên Phạn là Vajra-vaśi hay Vajra-vaśin, dịch âm là Phộc
Nhật La Phộc Thỉ. Xưng đủ là Kim Cương Y Phục Thiên. Lại xưng là Cung Tiễn Tỳ
Na Dạ Ca Thiên, Đỉnh Hạnh Đại Tướng…Là một trong 20 Thiên Hộ Thế được an bày
ở phương Tây của Ngoại Kim Cương Bộ trong Kim Cương Giới Man Đa La. Là Hư
Không Hành Thiên trong năm loại Thiên
Đại Bi của Tôn này như cái áo bọc bào thai dùng để phòng hộ sự ướt lạnh cho
đứa con nên xưng là Kim Cương Y
Đại Giáo Vương Kinh, quyển 10 ghi nhận các Thiên Chủ của Hư Không Hành
Thiên, nói rằng vị Tối Thắng Thiên trong ấy có hiệu là Kim Cương Ái
Căn cứ vào đây thì Kim Cương Y tức là Kim Cương Ái (Vajra-vaśin)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Y Thiên có thân người đầu voi,
thân màu thịt trắng, tay trái cầm cây cung. tay phải kéo mũi tên
Mật Hiệu là: Kim Cương Thọ Trì
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ) nghĩa là các Pháp lìa cột dính 479
Tam Muội Gia Hình là: Cung tên
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, dựng hai ngón giữa, co ngón giữa trái như
cây cung, hơi gập ngón giữa phải đè lóng giữa của ngón giữa trái như mũi tên
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Y Thiên có chữ chủng tử là:
VAṂ (ᜲ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung tên
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, dựng hai ngón giữa, co ngón giữa trái như
cây cung, hơi gập ngón giữa phải đè lóng giữa của ngón giữa trái như mũi tên
480
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Y Thiên có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿 ᜨ
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ_ VA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Y Thiên có chữ chủng tử là: HŪṂ
(㜪)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tướng Ấn là: Hai tay tác Nội Phộc, dựng hai ngón giữa, co ngón giữa trái như
cây cung, hơi gập ngón giữa phải đè lóng giữa của ngón giữa trái như mũi tên
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ
481
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương Y
Thiên có chữ chủng tử là: RU (᜔)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Cung tên
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿 ᜔
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ_ RU
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Y Thiên có chữ chủng tử là: ŚRĪ (ᩃ)
Tam Muội Gia Hình là: Cung tên
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜨ᜶ 㛿 ᩃ
OṂ _ VAJRA- VAŚI SVĀHĀ_ ŚRĪ
482
KIM CƯƠNG DIỆN THIÊN
Kim Cương Diện Thiên, tên Phạn là Vajra-mukha, hay Vajrāṃkuśa. Lại
xưng là Kim Cương Trư Đầu Thiên, Kim Cương Trư Diện Thiên, Trư Đầu Thiên…là
một trong 20 Thiên Hộ Thế được an bày ở phương Bắc của nGoại Kim Cương Bộ
trong Kim Cương Giới Man Đa La. Là một trong bốn Địa Hạ Thiên thuộc 5 loại
Thiên.
.) Thai Tạng Mạn Đà La Sao, 2 nói rằng: “Thân người đầu heo cầm cây
kiếm có ý nói là sự sinh trưởng của con người từ ra khỏi thai cho đến khi trưởng thành
đều là Đức của Tôn này”
Đại Giáo Vương Kinh, quyển 10 nêu bày Tôn này là Phộc La Hạ (Varāha)
trong các Thiên Chúng Thủy Cư
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Diện Thiên có thân người đầu
heo, thân màu đen đỏ, tay phải cầm móc câu Tam Cổ, tay trái nắm quyền để ngang eo
Mật Hiệu là: Kim Cương Câu
Chữ chủng tử là: PRA (㛺), hay KU (ᗜ)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Kim Cương Tam Cổ
483
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ như hình móc câu
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Diện Thiên có chữ chủng tử
là: KU (ᗜ). Biểu thị cho Đại Không Bất Sinh Trí
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Kim Cương Tam Cổ
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ như hình móc câu
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Diện Thiên có chữ chủng tử là: ŚA
(デ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
484
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿 デ
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ_ ŚA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Diện Thiên có chữ chủng tử là:
ŚA (デ)
Tôn Hình: Hai tay cầm móc câu Kim Cương Tam Cổ.
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ như hình móc câu
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương
Diện Thiên có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Hai tay cầm móc câu Kim Cương Tam Cổ.
485
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Kim Cương Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿 㛺
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ_ PRA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Diện Thiên có chữ chủng tử là: ŚA (デ)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Kim Cương Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ㫞ᗜデ 㛿 デ
OṂ_VAJRĀṂKUŚA SVĀHĀ_ ŚA
486
ĐIỀU PHỤC THIÊN
Điều Phục Thiên, tên Phạn là Vajra-jaya, dịch âm là Phộc Nhật La Nhạ Dã.
Tên Tây Tạng là Rdo-rje rnam-par rg, nghĩa là Kim Cương Thắng. lại xưng là
Tượng Đầu Thiên, Bão Đao Tỳ Na Dạ Ca, Tượng Đầu Đại Tướng…. Là một trong 20
Thiên Hộ Thế được an bày ở phương Bắc của Ngoại Kim Cương Bộ Viện trong Kim
Cương Giới Man Đa La, là Hư Không Hành Thiên trong 5 loại Thiên
.)Căn cứ vào sự ghi chép trong Đại Thánh Hoan Hỷ Song Thân Tỳ Na Dạ Ca
Thiên Hình Tượng Phẩm Nghi Quỹ thì vị Trời này là một trong Tỳ Na Dạ Ca ở
phương, lại xưng là Kim Sắc Ca Na Bát Để (Suvarṇa-gaṇa-pati) tay trái cầm viên
ngọc Lưu Ly trắng, tay phải cầm cây gậy báu
.) Lại trong Đại Giáo Vương Kinh, quyển 10 ghi nhận: Trong các chư Thiên
Hư Không Hành thì vị Trời này là Trì Thắng Thiên có hiệu là Tối Thắng Kim
Cương
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Điều Phục Thiên có thân người đầu voi,
thân màu thịt trắng, tay phải nắm quyền, tay trái cầm cây kiếm Tam Cổ
Mật Hiệu là: Tối Thắng Kim Cương
Chữ chủng tử là: JA (ㅼ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Kiếm Tam Cổ
487
Tướng Ấn là: Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Điều Phục Thiên có chữ chủng tử là: JA
(ㅼ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Kiếm Tam Cổ
Tướng Ấn là: Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Điều Phục Thiên có chữ chủng tử là: JA (ㅼ)
Tôn Hình: Tay phải cầm cây kiếm, tay trái nắm quyền để ở eo.
488
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿 ㅼ
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ_ JA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Điều Phục Thiên có chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội. Tay phải cầm cây kiếm, tay trái
nắm quyền
Tướng Ấn là: Đao Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Điều Phục
Thiên có chữ chủng tử là: JA (ㅼ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội, tay phải cầm cây kiếm.
489
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿 ㅼ
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ_ JA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Điều
Phục Thiên có chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ㅼㆎ 㛿 ᘷ
OṂ _ VAJRA- JAYA SVĀHĀ_ JAḤ
490
MA LỢI CHI THIÊN
Ma Lợi Chi Thiên, tên Phạn là Marīci, dịch ý ánh sáng, vầng sáng của mặt trời
… Tên Tây Tạng là Ḥod-zer-can-ma, là một vị Nữ Thần có đầy đủ khả năng tự mình
ẩn hình, vì chúng sinh trừ diệt chướng nạn, ban cho lợi ích...
_Theo Thần Thoại Ấn Độ thì Marīci (Dương Diễm hay Uy Quang) là dạng Thần
Cách Hóa ánh sáng của Mặt Trời (Sūrya). Ngài là quyến thuộc của Trời Đế Thích,
thường chạy phía trước Nhật Thiên (Āditya-deva) đi khắp 4 Châu thiên hạ, chuyên
đảm đương việc giữ nước an dân.
Trong Bạc Già Phạm Ca (Bhagavat-gīta) thì vị Thiên Thần này là Nam Tính, là
Hỏa Tinh (Maṅgala), Sinh Chủ (Prajāpati) hoặc con của Phạm Thiên. Lại là cha của
Ca Già Diệp Ba Tiên Nhân trong 7 vị Đại Tiên Nhân, là Phong Thần, là nơi mà
người dân Ấn Độ sùng bái
_Sau khi du nhập vào Phật Giáo thì Tôn này được xưng là Ma Lợi Chi Bồ Tát
Ma Lý Chi Bồ Tát, Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, Nhật Tiền Bồ Tát, Dương Diễm Thiên,
Tích Quang Thiên, Uy Quang Thiên, Ma Lợi Chi Mẫu, Ma Lợi Chi Phật Mẫu, Cụ
Quang Mẫu, Cụ Quang Phật Mẫu, Tích Quang Mẫu, Tích Quang Phật Mẫu… và xếp
vào Thiên Bộ.
.)Tại Ấn Độ, Marīci rất được kính phụng, ở chùa Na Lan Đà (Nālanda) còn lưu
lại tôn tượng cổ xưa của Ma Lợi Chi
.)Trước đời Đường, sau khi tín ngưỡng Ma Lợi Chi được Phật Giáo truyền vào
Trung Hoa thì Phật Giáo Đồ của đất Hán đã cúng phụng Thánh Tượng của Ma Lợi Chi
Thiên, niệm tụng Thánh Hiệu của Ma Lợi Chi Thiên, đọc tụng Kinh Điển của Ma Lợi
Chi Thiên.
Sau này Đạo Giáo Trung Hoa đã hấp thu tín ngưỡng Ma Lợi Chi và xưng là Đẩu
Lão, Đẩu Mụ, Đẩu Mẫu, Đẩu Mẫu Nguyên Quân… xưng đầy đủ là Tiên Thiên Đẩu
Lão Tử Quang Kim Tôn Ma Lợi Chi Thiên Đại Thánh Viên Minh Đạo Mụ Thiên 491
Tôn, trong đó Đẩu là chỉ sao Đẩu. Lão, Mụ tức là bà mẹ (mẫu). Đẩu Lão Mụ tức là
mẹ của mọi ngôi sao, chủ tể của mọi ngôi sao. Tương truyền khi nhóm người của
Trịnh Hòa đi về Tây Dương đã cầu khẩn Ma Lợi Chi Thiên để được bình yên trên
biển cả.
492
.) Tại Nhật Bản cổ đại, phần lớn tín ngưỡng Ma Lợi Chi chỉ dành cho hàng quý
tộc, chư Hầu, võ sĩ… Tôn này rất được sự tín phụng của hàng Võ Sĩ, tức là Thần Thủ
Hộ của Nhẫn Thuật, dần dần thành Bản Tôn Hộ Pháp trọng yếu của Phật Giáo
_Theo Mật Giáo thì Ma Lợi Chi Thiên tuy bên ngoài hiện ra tướng Thiên Nữ
nhưng chẳng phải là người Trời, mà thực tế Bản Địa là vị Đại Bồ Tát. Ngài được ghi
nhận là Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-
bodhisatva), Đa La Bồ Tát (Tārā-bodhisatva) có đầy đủ sức Công Đức rộng lớn, đầy
đủ năng lực khiến cho tiêu tai, trừ chướng, tăng Phước, mãn nguyện…
.)Nhất Thiết Như Lai Đại Bí Mật Vương Vị Tằng Hữu Tối Thượng Vi Diệu
Đại Mạn Noa Kinh ghi nhận: Ma Lợi Chi là tướng biến hóa được tạo ra từ Quán Tự
Tại Bồ Tát Bộ. Các Kinh Điển khác cũng đã ghi nhận Ma Lợi Chi là Hóa Thân của Đa
La Bồ Tát, lại còn đem Tôn này liệt vào một trong ba Tôn Đa La là: Đa La Bồ Tát,
Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát, Nhất Kế La Sát Vương Bồ Tát
.)Tạng Truyền Phật Giáo nói rằng: Ma Lợi Chi thiên là vị Thần bảo hộ cho việc
ẩn thân và tiêu tai, có đủ uy lực cực lớn. Bên trên thì Ma Lợi Chi Thiên chưởng quản
36 sao Thiên Cương, bên dưới thì chưởng quản 72 sao Địa Sát. Ngoài ra 28 Tú đều do
Ma Lợi Chi Thiên cai quản...Ṇgài có đầy đủ sức Đại Thần Thông ẩn hình tự tại, hay
cứu chúng sinh thoát khỏi nạn nước, lửa, nguy hiểm
493
HÌNH TƯỢNG CỦA MA LỢI CHI THIÊN
Hình tượng của Ma Lợi Chi Thiên có nhiều dạng.
.)Hình tượng Thiên Nữ có bốn mặt, tám cánh tay, bên dưới tòa có heo vàng
.)Hình tượng Thiên Nữ hoặc ngồi hoặc đứng trên hoa sen, tay trái để trước ngực
cầm cây quạt (thiên phiến), rũ tay phải xuống dưới.
494
.)Hình tượng phẫn nộ có ba mặt, mỗi mặt có ba con mắt, có 6 cánh tay hoặc tám
cánh tay, cỡi trên con heo hoặc ở trên xe có 7 con heo kéo. Bên trái các tay cầm cây Vô
Ưu, sợi dây Rồng, cuộn dây, cây cung. Bên phải các tay cầm chày Kim Cương, cây
kim, mũi tên, cây búa Kim Cương.
495
Ngoài ra còn có nhiều loại hình tượng khác
496
CÁC LỢI ÍCH KHI TU TẬP PHÁP CỦA MA LỢI CHI THIÊN
Dùng vị Trời này làm Bản Tôn của Pháp tu thì xưng là Ma Lợi Chi Thiên Pháp
ắt sẽ được các Công Đức về hộ thân, ẩn hình, tiền bạc, tranh luận thắng lợi.
.)Phật nói Kinh Ma Lợi Chi Bồ Tát Đà La Ni (ĐTK_No.1255) ghi chép là:
Lúc đó Đức Thế Tôn bảo: “Này các Tỳ Khưu (Bhikṣu)! Phía trước mặt trời có
một vị Trời tên là Ma Lợi Chi (Marīci) có Pháp Đại Thần Thông Tự Tại, thường đi
trước mặt trời mà mặt trời chẳng thấy vị ấy, còn vị ấy nhìn thấy mặt trời. Không người
nào có thể nhìn thấy, không người nào có thể biết, không người nào có thể đuổi bắt
được, không người nào có thể hại, không người nào có thể bịa chuyện dối trá, không
người nào có thể trói buộc, không người nào có thể nợ nần tài vật của vị ấy, không
người nào có thể phạt, chẳng sợ Oan Gia (Śatrū) được dịp thuận tiện hãm hại”.
Đức Phật bảo: “Này các Tỳ Khưu! Nếu có người biết tên của vị Trời Ma Lợi Chi
kia thì người ấy cũng chẳng thể bị nhìn thấy, cũng chẳng thể biết, cũng chẳng thể đuổi
bắt được, cũng chẳng thể hại, cũng chẳng bị người bịa chuyện dối trá, cũng chẳng bị
người trói buộc, cũng chẳng bị người nợ nần tài vật, cũng chẳng bị người trách phạt,
cũng chẳng bị Oan Gia có dịp thuận tiện hãm hại”
Đức Phật bảo các Tỳ Khưu: “Nếu kẻ trai lành, người nữ thiện biết tên của Ma Lợi
Chi Thiên ấy thì nên nói lời này: “Con, Đệ Tử (họ tên…) biết tên của Ma Lợi Chi
Thiên cho nên không người nào có thể nhìn thấy con, không người nào có thể biết
con, không người nào có thể đuổi bắt được con, không người nào có thể hại con,
không người nào có thể bịa chuyện dối trá con, không người nào có thể trói buộc
con, không người nào có thể nợ nần tài vật của con, không người nào có thể trách
phạt con, cũng chẳng bị Oan Gia có dịp hãm hại con” 497
Chú này có Đại Thần Lực, thành tựu chỗ làm, phá tất cả ác. Nếu dùng Kết Giới
(Sīma-bandha) thì trong vòng 100 Do Tuần, tất cả các ác không dám đi vào”
Khi ấy Đức Thế Tôn liền nói Chú là:
“Nam mô phật đà gia (1) Nam mô đạt ma gia (2) Nam mô tăng già gia (3) Đát
điệt tha (4) át la ca mạt tư (5) ma la ca mạt tư (6) tô đồ mạt tư (7) chi bát la mạt tư
(8) ma ha chi bát la mạt tư (9) ma lợi chi dạ mạt tư (10) an đát đà na dạ mạt tư
(11) na mô tuý đô để (12) toá ha (13)”
ソᜀ㳆㛱㗚 ソᜀ㗋↝㗚 ソᜀᗽ㗚
ᚌᠼᚙ ㅥ⁼ᛸᝂ ᛸ⁼ᛸᝂ 㫾ᚱ ᛸᝂ ᱐ ᛸᝂ ᛸ᱐ ᛸᝂ ᛸᜓᘖ㗚
ᛸᝂ ㅥⴼ⅕ソ ᛸᝂ ソᜀ⽈ᚒ 㛿
Namo buddhāya
Namo dharmāya
Namo saṃghāya
Tadyathā: Arka maṣi, marka maṣi, sudhā maṣi , jvala maṣi, mahā-jvala-
maṣi, marīcīya maṣi, antardhānaya maṣi namo stute, svāhā
[Namo buddhāya: Quy y Phật
Namo dharmāya: Quy y Pháp
Namo saṃghāya: Quy y Tăng
Tadyathā: Như vậy, liền nói Thần Chú là
Arka: Thái Dương Thần, điển quang
maṣi: Dương hoặc Âm, bụi phấn, khiến cho thành bụi phấn, tro than, màu đen,
khói tro
marka: Phá diệt, chết
maṣi: (nghĩa như trên)
sudhā: An vui, xinh đẹp
maṣi: (nghĩa như trên)
jvala: Uy quang
maṣi: (nghĩa như trên)
mahā-jvala: Đại uy quang
maṣi: (nghĩa như trên)
marīcīya: (hàng Ma Lợi Chi)
maṣi: (nghĩa như trên)
antardhānaya: che chắn tiêu diệt, diệt mất
maṣi (nghĩa như trên)
namo stute: Quy mệnh kính lễ
svāhā: Quyết định thành tựu]
.)Nếu người có thể tin tưởng Phật Pháp một cách chân chính, tu trì Pháp Môn của
Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát thời Công Đức có được sẽ như sự ghi ghép trong Kinh Phật
Thuyết Ma Lợi Chi Thiên Bồ Tát là: Hay được Đại Phước trong sạch, hay tăng
trưởng Cát Tường rộng lớn, hay tiêu trừ tất cả tội nặng,hay thành tựu Bản Tôn Tam
Muội, sẽ chứng Tỳ Lô Pháp Thân.
.) Lại nếu dùng sự tin tưởng Phật Pháp một cách chân chính tu trì thì như Phật
Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh đã ghi chép là: “Hay làm tất cả việc, hay trừ
nạn Oán Tặc. Nếu người y theo Pháp thọ trì thì ở trên đường đi, tất cả các ác chẳng
được dịp thuận tiện gây hại” 498
Như Ấn Quang Đại Sư có nói: “Ma Lợi Chi Thiên tuy hiện thân Trời, nhưng thật
ra là vị Bồ Tát, dùng Tâm tha thiết độ sinh, nhiệt tình cứu khổ cho nên nói Chú này
làm gốc rễ của sự cứu độ. Nếu người mỗi ngày chân thành tụng Chú này càng nhiều
càng tốt, giả sử gặp phải tai nạn bởi nước, lửa, đao binh… cũng hay được gặp xấu hóa
tốt”
1_ Ma Lợi Chi Thiên Căn Bản Ấn_ Đại Luân Kim Cương Ấn:
Như Đại Luân Kim Cương Ấn. Hai tay đem ngón út, ngón vô danh hướng vào
bên trong cùng hợp nhau, kèm dựng hai ngón trỏ, hai ngón cái sao cho đầu ngón chạm
nhau; đem hai ngón giữa quấn buộc hai ngón trỏ, ấn năm nơi trên thân. Đây là Bát Bức
Luân (bánh xe có tám căm) có đủ Đức của năng phá, có thể giảm trừ tất cả chướng
nạn.
Chân Ngôn là:
㫘 ゛ᚦᠤ ㈦ᜓᘖ 㛿
OṂ_ ĀDITYA MARĪCI SVĀHĀ
2_ Ma Lợi Chi Thiên Ẩn Hình Ấn (An Đát Tổ Na Ấn):
Lại tên là Bảo Bình Ấn, Ma Hiệu Ấn, Giáp Trụ Ấn, Kim Cương Thành Chi Ấn.
Tay trái tác Hư Quyền (hơi nắm các ngón tay lại), để lòng bàn tay phải nằm ngang trên
tay trái thành dạng cái lọng che (phúc cái). Ấn này là Thân của Ma Lợi Chi Thiên Bồ
Tát, lòng bàn tay phải tức là thân của Ma Lợi Chi.
Chân Ngôn là:
㫘 ゛ᚦᠤ ㈦ᜓᘖ 㛿
OṂ_ ĀDITYA MARĪCI SVĀHĀ
3_ Ma Lợi Chi Thiên Ấn Chú:
㫘㈦ᜓᘖᜂ 㛿
OṂ_ MARĪCI MAṂ SVĀHĀ 499
Như vậy, y theo Mật Giáo đã lưu truyền, nếu tu tập thành tựu Pháp của Ma Lợi
Chi Thiên thì chẳng những hay tiêu trừ tai ách, mà đặc biệt là có thể ẩn thân.
Y theo sự ghi chép của Kinh Phật Thuyết Ma Lợi Chi Bồ Tát thì “Tôn này hay
khiến cho Hữu Tình ẩn thân ngay trong đường đi, ẩn thân giữa mọi người. Khi gặp tất
cả các nạn: nước, lửa, giặc cướp… đều có thể ẩn thân. Nếu kiền thành y theo Pháp tu
trì thì tất cả Thiên Ma, Quỷ ác, Ngoại Đạo đều không có cách nào tìm được hành tung
của người tu Pháp. Còn các A Xà Lê trì tụng nếu y theo Pháp thành tựu của Ma Lợi
Chi thực hành tinh tiến, dũng mãnh tu tập không có khuyết phạm. Chúng sinh như vậy
khiến được Đại Trí thanh tịnh của Bồ Tát”
Y theo sự ghi chép của Phật Điển thì Bồ Tát này có mọi loại Pháp Tiêu Tai, Giải
Ách như Kinh Điển ghi chép. Phàm y theo Pháp, tụng Căn Bản với Tâm Chân Ngôn
của Ma Lợi Chi Bồ Tát, chẳng hạn định biến số, chỉ cần kiền thành chí tâm đều được
uy thần gia hộ của Bồ Tát; tất cả Oan Gia, người ác chẳng thể nhìn thấy, tất cả tai nạn
đều được giải thoát.
Ngoài ra, Ma Lợi Chi Thiên còn có Pháp Tức Tai, cầu Phước như: tiêu trừ bệnh
khổ. Lúc có Hạn Tai (hạn hán) thời tuôn mưa; gặp Thủy Tai thời ngưng mưa… Nếu
hay như Pháp, chân thành tôn kính tu tập thì đều có hiệu nghiệm chẳng thể nghĩ bàn.
500
BẢO TẠNG THIÊN
Bảo Tạng Thiên còn xưng là Bảo Tạng Thiên Nữ. Đây là vị Thần chủ về phước
đức cho nên được xem như đồng với nhóm Cát Tường và Biện Tài Thiên…
Bảo Tạng Thiên có tên Phạn là Tra La Khư nhưng không phải được dịch âm từ
chữ Phạn Bảo Tạng (Ratna-garbha) lại do Bảo Tạng Thiên Nữ Đà La Ni Pháp xưng
Bảo Tạng Thiên Vương là Tra La Khư mà có.
Phạn Ngữ Tra La Khư thì chẳng rõ. Nhưng Phạn Ngữ có chữ Tàraka mang nghĩa
là Người cứu trợ và đây cũng là tên gọi của một loài Quỷ ác. Ngoài ra trong Đồ
Tượng quyển 3 có ghi câu Phạn Chú là: “OṂ_ DARAGA DARAGA VIDARADI
SVĀHĀ” và được dịch âm là: “Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-phộc ha”.
Như vậy Tra La Khư là dịch Âm của Phạn Ngữ Daraga.
Nay theo sự khảo cứu của tôi thì Phạn Ngữ Daraga không biết rõ nghĩa mà chỉ có
Phạn Ngữ Dāraka mang ý nghĩa là: bẻ gẫy, đập phá, hủy diệt, từ bỏ thói quen, tạo nên
sự gián đoạn, cắt đứt quan hệ, chia ly, xé rách, xé nát, tàn phá, khiển trách… Ngoài ra
trong Pháp Quán Tưởng Đàn của Tra La Khư Pháp thì lại quán chữ TRA (㜂) biến
thành viên ngọc báu, rồi viên ngọc báu biến thành Thiên Nữ. Như vậy chữ Tra La Khư
có thể là Phạn Ngữ Tāraka và câu Chú: “Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-
phộc ha“ có thể được phục hồi là :
㫘 ᚍ㇂オ ᚍ㇂オ ᜪᚤ㇂ᚦ 㛿
OṂ_ TĀRAKA TĀRAKA VIDARADI_ SVĀHĀ
(Hỡi Đấng Cứu Trợ ! Hãy giúp cho con. Khiến cho con xa lìa sự nguy hiểm sợ
hãi, thành tựu điều tốt lành)
_Một số Đạo Sư Trung Hoa ghi nhận câu Chú này là:
OṂ: Nhiếp triệu
TĀRAKĀ: người cứu trợ
TĀRAKĀ: người cứu trợ
VITTA: tiền của
RĀṆI: vui mừng
SVĀHĀ: Quyết định thành tựu
_ Bảo Tạng Thiên Nữ Đà La Ni Pháp ghi là: “Vị Thiên này có đủ uy đức lớn,
thần lực không gì sánh, hay ở Thế Gian hành các việc thù thắng như: lay trời động đất,
dời núi lấp biển, việc hơn thua trong binh qua đều theo ý chí mà thành. Tiền của, lụa là,
vàng , báu chất cao như núi. Hay mãn các nguyện mong cầu về: quan vị, kỹ nghệ, 501
phòng giặc cướp, trị bệnh…. Hình tựợng Thiên Nữ , thân khoác áo bào đỏ tía, thắt dây
lưng bằng vàng, đi giày ủng màu đen. Tay phải cầm hoa sen, tay trái cầm Như Ý Bảo
Châu, diện mạo đoan chính sáng tỏ”
_ Thầy truyền là: “Thiên Nữ có Chủng Tử HŪṂ (㜪). Tam Ma Gia Hình là Viên
Ngọc Báu”
BẢO TẠNG THIÊN NỮ PHÁP
_ Thắng Câu Chi Viện ghi là: Tượng Bảo Tạng Thiên Nữ dài 2 thước 5 thốn.
Quán Tưởng như sau
Trên Đàn có cái Tòa bằng lụa ngũ sắc, bên trên có chữ TRA (㜂) biến thành viên
ngọc báu. Viên ngọc báu biến thành Thiên Nữ: đầu đội mão hoa, trang điểm bằng hoa
đoan chính, thân khoác áo bào đỏ tía, thắt dây lưng bằng vàng, đi giày ủng màu đen.
Tay phải cầm hoa sen. Tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tỏa ánh hào quang có uy đức
không gì sánh bằng.
502
Đôi khi người ta còn thờ phụng Bảo Tạng Thiên Nữ qua Tôn Tượng Cát Tường
Thiên
Tay trái co ngón giữa, ngón vô danh, đem ngón cái đè lên móng 2 ngón, duỗi
thẳng ngón trỏ và ngón út để ngang trái tim. Tay phải cầm tràng hạt. Niệm Chân Ngôn:
“Án, tra la khư, tra la khư, tỳ đa la nễ, sa-phộc ha”
Tụng đủ một ngàn biến, các Nguyện sẽ như ý.
_Bảo Tạng Thiên Nữ Tán :
“Vi diệu thù thắng khó luận bàn
Sáng như mặt trời tỏa hương thơm
Dung nhan đoan chính thật hiếm có
Da mềm láng mịn tựa Đâu La (loại Gấm Lụa quý)
Hơi thơm từ miệng tràn nhân thế
Khiến ai gặp gỡ cũng nhìn trông (chiêm ngưỡng)
Một lòng mong cầu người như vậy
Thường thêm cung kính, Tâm chẳng nghi
Tuy đây là việc của Thế Gian
Rốt ráo mau thành Đạo Thanh Tĩnh
Hay khiến người Trì đến Bồ Đề
Cùng nhau tu tập Vô Thượng Giác”
503
Chọn ngày mồng năm tháng năm. Trước đó 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày, 100 ngày
hoặc 39 ngày tính đến ngày mồng năm tháng năm thì vừa vặn đủ, ắt Pháp ấy đều
thành.
Riêng 8 câu Chú, tụng mỗi câu 21 biến trước khi tác Pháp thì Đồ Tượng 3 ghi
nhận hơi khác với Kinh Bản
1 ) Án, hưng ba, la đế tra, cấp cấp cấp, sa-phộc ha
2 ) Án, chiết, la đế tra ma gia, sa-phộc ha “
3 ) Án, lặc xoa na, đế tra, sa-phộc ha
4 ) Án, bà bà, lệ, nhạ đế, sa-phộc ha
5 ) Án, bột nhạ, la đế tra, sa-phộc ha
6 ) Án, dược xoa , dược xoa tế na, sa-phộc ha
7 ) Án, già đế, tỳ chiết duệ, hồng phấn, sa-phộc ha
8 ) Án, chiết lặc, na gia, đáo bà, đế tra, sa-phộc ha
Nay phối hợp với phần dịch âm của Kinh Bản, tôi xin phục hồi 8 câu Chú trên là :
1) OṂ (Cảnh giác) HAVAḤ (Lời kêu gọi) RASITA (Hương vị đem lại tâm tư
tình cảm) JAḤ JAḤ JAḤ (Câu triệu, kêu gọi khiến cho mau đến) SVĀHĀ (Quyết
định thành tựu)
2) OṂ (Nhiếp triệu) SVA (Tự tính) RASITA (Hương vị đem lại tâm tư tình cảm)
MĀYĀ (Huyễn hóa) SVĀHĀ ( Quyết định thành tựu )
3) OṂ (Quy mệnh) LAKṢANA (Hình tướng) ŚIṬTA (Thon thả mảnh mai)
SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)
4) OṂ (Quy mệnh) BHAVA (Hữu, sự có sự được) ARI (thuộc về sự trung thực,
người thành thật) JĀTI (tính chất) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)
5) OṂ (Cảnh giác) BHUJA (Chi phối, lãnh đạo, thưởng thức) RASITA (Hương
vị đem lại tâm tư tình cảm) SVĀHĀ (Quyết định thành tựu)
6) OṂ (Quy mệnh) YAKṢA (Dược Xoa) YAKṢASENA (Dược Xoa Quân)
SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)
7) OṂ (Nhiếp triệu) GATE (Thú hướng, lối nẻo) VIJAYE (tối thắng) HŪṂ
(Khủng bố) PHAṬ (Phá bại) SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)
8) OṂ (Quy mệnh) SVARA (Âm thanh) NAYA (Lý thú) REBHA (người xướng
ca) ŚIṬA (nhạy bén, tinh nhanh) SVĀHĀ (Thành tựu tốt lành)
Ấn của 8 câu Chú trên là Ngọc Hoàn Ấn: Tay trái co ngón giữa, ngón vô danh.
Đem ngón cái đè lên móng 2 ngón tay ấy. Duỗi thẳng ngón trỏ và ngón út, đặt ngang
trái tim
504
HA LỢI ĐẾ MẪU
Ha Lợi Đế Mẫu, tên Phạn là Hāṛtī, hay Hārīti, dịch âm là Ha Lợi Đế, Ha Lợi
Để, Ha Lý Để... Xưng đầy đủ là Hāṛtye-mātṛ, dịch âm là Ha lợi Đế Ma Đề Lý, dịch ý
là Hoan Hỷ Mẫu, Ái Tử Mẫu, Thiên Mẫu, Công Đức Thiên.
Ha Lợi Đế Mẫu nguyên là một nữ Dược Xoa có Thần Thông rất lớn, là vợ của
Bán Chi Ca (Pāñcika), là mẹ của 500 Quỷ Vương (có bản ghi 1000 Quỷ Vương) nên
gọi là Quỷ Tử Mẫu. Sau này trở thành vị Thần Hộ Pháp trọng yếu của Phật Giáo
_Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Gia Tạp Sự, quyển 31 ghi chép
là: “Thời quá khứ, Quỷ Tử Mẫu vốn là vợ của một người chăn trâu trong thành Vương
Xá (Rāja-gṛha), do nhân duyên bị mất đi đứa con trong bụng, nên trong lòng bà oán
hận vô cùng, liền đem Công Đức đã bố thí cho vị Thánh Độc Giác (Pratyeka-buddha)
hồi hướng, phát nguyện thành tựu nguyện tà ác là đời sau sẽ sinh vào thành Vương
Xá, ăn con của mọi người trong thành. Sau đó như lời nguyện, bà được sinh vào thành
Vương Xá làm nữ Dược Xoa tên là Hoan Hỷ (Hārīti, hay Hāṛtī), cha là Thần Dược
Xoa Sa Đa (Śata) của thành Vương Xá. Sau khi Nữ Dược Xoa lớn lên, gả cho Bán
Chi Ca (Pāñcika) con của Dược Xoa Bán Già La (Pañcala) của nước Kiền Đà La
(Gandhāra) ở phương bắc, sinh được 500 đứa con, đứa con út tên là Ái Nhi (Priyaka).
Do quả báo của Tà Nguyện đời trước, nên nữ Dược Xoa Nữ thường hay vào trong
thành Vương Xá bắt trẻ con ăn thịt, khiến cho mọi người trong thành Vương Xá kinh
hoàng, chẳng biết phải làm như thế nào. Sau khi được vị Thiên Thần thủ hộ trẻ con
trong thành Vương Xá mách bảo, mới biết là Ha Lợi Để Dược Xoa Nữ đã làm, liền y 505
theo sự mách bảo của Thiên Thần đi đến khấn cầu Đức Phật Từ Bi điều phục nữ Dược
Xoa này.
Đức Phật nhận lời xong, liền đến chỗ ở của Ha Lợi Để Dược Xoa Nữ, nhân lúc nữ
Dược Xoa không có ở nhà, liền đem đứa con bà yêu thương nhất dấu trong cái Bát.
Khi Dược Xoa Nữ về đến nơi ở của mình, không thấy đứa con đó, lập tức kinh
hoảng chạy đi tìm kiếm khắp mọi nơi, cũng không thấy tung tích hình ảnh đứa con yêu
thương, liền đập ngực than khóc bi thảm, cất lớn tiếng gọi con tựa hồ như muốn phát
điên. Bà vội vã chạy đến chân trời góc bể, từ Địa Ngục cho đến các tầng Trời, đau đớn
hỗn loạn, tìm kiếm gào thét than khóc thê thảm. Khi đến nơi cư trú của Bắc Phương Đa
Văn Thiên thời được Thiên Vương chỉ điểm cho bà đi đến chỗ Đức Thế Tôn đang cư
ngụ thì mới có thể tìm thấy được đứa con yêu thương của bà.
Ha Lợi Để Dược Xoa Nữ vội vã đến nơi Đức Thế Tôn đang an trú, khẩn cầu Đức
Thế Tôn trả lại đứa con thương yêu của bà. Đức Phật liền răn bảo bà: “Ngươi chỉ mất
đi một trong 500 đứa con mà đã đau đớn thê thảm muốn phát điên, huống chi là những
bậc cha mẹ có con bị Ngươi ăn thịt , lại còn đau khổ biết chừng nào?!...”
Ha Lợi Để Nữ nghe sự dạy bảo của Đức Phật xong, đột nhiên tỉnh ngộ, từ đây
liền y theo sự dạy bảo của Đức Phật, không những không dám gây nguy hại người đời,
ngược lại trở thành người thủ hộ của trẻ con.
Đức Phật cũng Từ Bi dạy bảo Đệ Tử, lúc nhận vật cúng dường của thí chủ thì ở
cuối đường bày thức ăn trên một mâm, gọi tên Quỷ Tử Mẫu và những đứa con của bà
cùng nhau thọ nhận vật cúng dường, khiến cho họ ăn no vĩnh viễn không có đói khổ.
_Trong các Phật Điển khác như: Quỷ Tử Mẫu Kinh_Tạp Bảo Tạng Kinh,
quyển 9_ Đại Dược Xoa Nữ Hoan Hỷ Mẫu tinh Ái Tử thành tựu Pháp_ Ma Ha
Ma Gia Kinh, quyển Thượng với Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện, quyển 1 …
ghi chép về Bản Duyên của Quỷ Tử Mẫu Thần, đại lược tương đồng với tích truyện
bên trên. Có điều Tạp Bảo Tạng Kinh nói đứa con yêu ấy (Ái Tử) tên là Tần Già La
(Piṅgala) lại nói có một vạn đứa con. Còn Quỷ Tử Mẫu Kinh thì nói có một ngàn đứa
con
.)Quỷ Tử Mẫu Kinh ghi nhận là: “Ha Lợi Đế Mẫu có 1000 đứa con, 500 con ở
trên Trời, 500 con ở dưới đất đều có Đại Lực, thống suất hàng vạn quân Quỷ làm rối
loạn chư Thiên và Nhân Gian một cách độc ác. Sau này Đức Phật dùng sức phương
tiện triệu tập 1000 Quỷ Vương đó lại, khiến cho họ phải chịu 500 hình phạt thì họ mới
bắt đầu vào đường Thiện”.
.)Đại Dược Xoa Nữ Hoan Hỷ Mẫu tinh Ái Tử thành tựu Pháp ghi chép là:
Bấy giờ Đức Phật ngự tại Tinh Xá Trúc Lâm ở thành Vương Xá vì các Người,
Trời diễn nói Pháp Yếu.
Thời có nữ Đại Dược Xoa tên là Hoan Hỷ dung mạo đoan nghiêm có năm ngàn
Quyến Thuộc thường trụ tại nước Chi Na hộ trì Thế Giới. Là con của Sa Đa Đại Dạ
Xoa và là vợ của Bán Chi Ca Đại Dạ Xoa Tướng (Xưa nói là Tán Chi, tức nói sai
vậy) sinh được năm trăm người con có uy lực lớn cùng các Quyến Thuộc đi đến nơi
Đức Phật ngự rồi lui ra, ngồi một bên.
Phật bảo: “Này Hoan Hỷ Mẫu ! Nay ngươi có thể nhận Giáo Sắc của Như Lai. Ta
muốn khiến ngươi buông xả, trừ bạo ác, giúp đỡ các Hữu Tình. Đều ban bố sự không
sợ hãi đến tất cả người nữ đã sinh con trai, con gái ở thành Vương Xá với cõi Thiệm
Bộ Châu này ”
Thời Hoan Hỷ Mẫu bạch phật rằng: “Thế Tôn! Nếu như vật thời con với các đứa
con sẽ ăn thứ gì ?!....” 506
Phật Bảo: “Ngươi chỉ cần khởi tâm hiền lành chẳng hại Hữu Tình thời Ta sẽ răn
dạy các Thanh Văn đệ tử, mỗi bữa ăn sẽ thường cho ngươi ăn và ở cuối lối đi sẽ để
một phần thức ăn, kêu gọi tên ngươi với các đứa con đều khiến được no đủ. Nếu có
thức ăn dư thì ngươi có thể hồi thí cho tất cả Quỷ Thần… thảy đều vận tâm khiến cho
họ được no đủ.”
Thời Hoan Hỷ Mẫu bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nay con xin quy mệnh Đức Như
Lai, phụng Giáo Sắc của Đức Phật, chẳng dám vượt trái. Tất cả người dân đã sinh con
trai, con gái trong thành Vương Xá với các Quốc Thổ thời con đều ủng hộ khiến cho
họ được an vui, chẳng để cho tất cả các Quỷ Thần ác được dịp thuận tiện hãm hại.
Nguyện xin Đức Như Lai hộ niệm cho con “
Đức Phật nói: “Lành thay! Lành thay Hoan Hỷ Mẫu! Nay ngươi có thể ở trong
Pháp Luật hiền thiện của Như Lai, thọ nhận Tam Quy Ngũ Giới khiến cho ngươi
trong đêm dài thoát khỏi các khổ được an vui lớn. Ấy là Quy Phật Pháp Tăng, chẳng
giết sinh mệnh cho đến uống các thứ rượu là nơi học của ngươi. Ngươi nên thọ trì”
HÌNH TƯỢNG CỦA HA LỢI ĐẾ MẪU
Hình tượng phụng thờ của Ha Lợi Đế Mẫu phần nhiều là tượng Thiên Nữ xinh
đẹp, tay trái ôm một đứa con, tay phải cầm Quả Cát Tường
.)Đại Dược Xoa Nữ Hoan Hỷ Mẫu tinh Ái Tử thành tựu Pháp ghi chép là:
“Hoan Hỷ Mẫu như hình Thiên Nữ thật xinh đẹp, thân màu hồng trắng, mặc áo báu
lụa của cõi Trời, đầu đội báu, tai đeo khoen, vòng xuyến bằng vỏ ốc màu trắng, mọi
thứ Anh Lạc trang nghiêm thân ấy, ngồi trên tòa báu lớn, thòng bàn chân phải xuống
dưới. Ở hai bên tòa lớn, cạnh đầu gối đều vẽ hai đứa bé. Tay trái của Mẫu ấy ôm một
đứa bé tên là Tất-Lý Dựng Ca (Priyaka) rất đoan chánh, tay phải cầm quả Cát Tường
để gần vú, hai bên đều vẽ Thị Nữ quyến thuộc hoặc cầm cây phất trắng, hoặc vật dụng
trang nghiêm.
507
.)Kinh Ha Lợi Đế Mẫu Chân Ngôn ghi chép là: “Ha Lợi Đế Mẫu, làm hình
Thiên Nữ thuần màu vàng, thân khoác áo ngoài (Thiên Y), đầu đội mão, đeo Anh Lạc,
ngồi trên Đài to lớn (tuyên đài), thòng hai bàn chân xuống dưới. Ở hai bên bàn chân vẽ
hai đứa bé (hài tử). Bên cạnh Tuyên Đài, ở trên hai đầu gối đều vẽ một đứa bé. Tay
phải ôm một đứa bé, ở trong bàn tay phải cầm quả Cát Tường.
.)Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện ghi chép là: Các Chùa ở phương Tây,
thường ở nơi cửa phòng hoặc bên cạnh bếp ăn, đắp tượng hình Quỷ Tử Mẫu ôm một
đứa con ở dưới đầu gối của bà có năm hoặc ba đứa, dùng biểu thị cho tượng đó, đồng
thời mỗi ngày trước Tượng ấy đều cúng dường đầy những thức ăn. 508
Do Ha Lợi Đế Mẫu quyến thuộc của bốn vị Thiên Vương, có thế lực lớn. Nếu
người có tật bệnh, không có người nối dõi mà chân thành cung kính bày thức ăn dâng
tiến ấy cầu xin con thời đều được toại nguyện
_Do trong Phẩm Đà La Ni của Kinh Pháp Hoa ghi nhận Ha Lợi Đế Mẫu với
mười nữ La Sát cùng thề thủ hộ cho Hành Giả trì kinh Pháp Hoa, cho nên Nhật Liên
Tông ở Nhật Bản rất tôn sùng vị Thần này, lại xác định Quỷ Tử Mẫu Thần là Bản Tôn
trong Pháp tu của Nhật Liên Tông và đặc biệt thờ riêng một mình Tôn này qua hình
Quỷ phẫn nộ, xong cũng có người tạo hình Thiên Nữ để phụng thờ. Tông này xác nhận
là: hình Quỷ là dụng đề phá Tà điều phục, còn hình Thiên Nữ là dụng để cầu sinh con
được an ổn.
509
_Các dạng Tôn Tượng khác là:
510
511
Do căn cứ vào Thuyết Quỷ Tử Mẫu Thần chẳng những hộ trì Phật Pháp mà còn
là vị Thần bảo hộ cho phụ nữ, trẻ con… hoàn toàn tương đồng với tín ngưỡng Thất
Ma Nương Nữ Thần của người Mân Nam với người Đài Loan, thậm chí có nói
Pháp: “Nếu người có tật bệnh không có con mà thiết bày thức ăn dâng tiến để cầu con
thời thảy đều được toại nguyện”, cho nên tại đất Hán, Quỷ Tử Mẫu Thần hoàn toàn
tương đồng với sự giải thích về công hiệu của Sinh Nương Nương trong Đạo Giáo
Trung Hoa
512
Do Quỷ Tử Mẫu phát Thệ sẽ làm vị Thần Bảo Hộ cho sản phụ và trẻ con được
bình yên. Đời sau vì sùng kính Bà nên gọi là Tử Mẫu Thần.
Vì Ha Lợi Đế Mẫu vốn có thệ ước là hộ trì Pháp Quán Âm nên các Đại Quán Âm
đều dùng Thần Mẫu làm quyến thuộc.
Dùng Quỷ Tử Mẫu Thần làm Bản Tôn của Pháp Tu xưng là Ha Lợi Đế Mẫu
Pháp, Pháp tu này chủ yếu để khấn cầu sinh sản được bình an, tăng thêm tiền của giàu
có. Ngoài ra trong các Kinh Quỹ còn có nhiều Pháp Tiêu Tai, trừ bệnh…
1_ Ha Lợi Đế Mẫu Thỉnh Triệu Ấn:
Đem bàn tay phải cặp dưới lưng bàn tay trái sao cho móng ngón trụ ở lòng bàn
tay trái, hướng bàn tay trái về thân triệu vời ba lần.
Chân Ngôn là:
㫘 㮹ⵘ ᗙ ᚒ 㛿
OṂ_ DUNDU MĀLIKĀ HITE SVĀHĀ
2_ Ha Lợi Đế Mẫu Ái Tử Ấn:
Chắp hai tay lại, co hai ngón cái cùng để ở trong lòng bàn tay.
Chân Ngôn là:
㫘 㮹ⵘ ᗙ ᚒ 㛿
OṂ_ DUNDU MĀLIKĀ HITE SVĀHĀ
Bản khác ghi nhận Chân Ngôn của Ấn này là:
㛸 ᙒᜪ ᙒᚾ ᵙ
OṂ_ ṬIVI ṬINI SVĀHĀ
513
THẬP LỤC THIỆN THẦN
Thập Lục Thiện Thần tức là 16 vị Thiện Thần thủ hộ Kinh Bát Nhã với người
trì tụng. Lại xưng là 16 Thần Vương, 16 Dược Xoa Thần, 16 Dược Xoa Tướng, Bát
Nhã Thập Lục Thiện Thần, Bát Nhã Thủ Hộ Thập Lục Thiện Thần
*) Đà La Ni Tập Kinh, quyển 3 ghi chép 16 vị Thiện Thần là: “Đạt Lý Để La
Sắt Tra Đại Tướng, Cấm Tì Lỗ Đại Tướng, Phạ Nhật Lỗ Đại Tướng, Ca Vĩ Lỗ Đại
Tướng, Di Đổ Lỗ Đại Tướng, Khiếm Nộ Tì Đại Tướng, A Nễ Lỗ Đại Tướng, Sa Nễ
Lỗ Đại Tướng, Ấn Nại Lỗ Đại Tướng, Ba Di Lỗ Đại Tướng, Ma Vĩ Lỗ Đại Tướng,
Kiều Vĩ Lỗ Đại Tướng, Chân Đặc Lỗ Đại Tướng, Phạ Tra Đồ Lỗ Đại Tướng, Vĩ Ca
Lỗ Đại Tướng, Câu Phệ Lỗ Đại Tướng”.
Đời Đường, Ngài Kim Cương Trí (Bodhi-vajra) gom tập hình vẽ của 16 vị
Thiện Thần (sau này vị Tăng nước Nhật là Không Hải đã đem vào Nhật Bản) hiển
hình Thần Vương. An Trí Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở chính giữa, hai bên trái phải
có Văn Thù, Phổ Hiền, kèm xếp bày Pháp Dũng và A Nan, Huyền Trang và Thâm
Sa Đại Tướng, hai bên cạnh đều phân bày 16 vị Thiện Thần. Có điều tên gọi của chư
Thần cùng với điều đã nêu bên trên có chỗ chẳng đồng.
514
Hoặc có thuyết nói Thập Lục Thiện Thần là 12 vị Thần Tướng của Dược Sư
với 4 vị Thiên Vương
_Bát Nhã Thủ Hộ Thập Lục Thiện Thần Vương Hình Thể (ĐTK_No.1293)
[Bản dịch của Ngài Kim Cương Trí] ghi chép là:
1_ Đề Đầu La Trạch Thiện Thần (Dhṛta-rāṣṭra: Trì Quốc Thiên Vương): màu
xanh lục, mở miệng hiện tướng mạo phẫn nộ, mặc giáo trụ, khoác áo màu đỏ, tay phải
cầm cây đao lớn, tay trái nâng cây mâu, tóc màu tía
515
2_ Tỳ Lô Lặc Xoa Thiện Thần (Virūḍhaka:Tăng Trưởng Thiên Vương): màu
đỏ tía, tướng phẫn nộ, hiện hình ngậm mội, tay phải cầm Bạt Chiết La (Vajra: chày
Kim Cương), tay trái đè eo lưng, mặc giáp trụ, khoác áo màu trắng xanh, tóc mai màu
xanh biếc
516
3_ Tồi Phục Độc Hại Thiện Thần: tóc mai dựng thẳng cao đến lỗ tai, màu thịt
đỏ, tay phải cầm cây đao lớn, tay trái hướng ra bên ngoài để ngang ngực, mặc giáp trụ,
khoác quần áo màu trắng, còn lại như thường.
517
4_ Tăng Ích Thiện Thần: màu thịt đỏ, bốn cánh tay, dáng dấp Nộ Quỷ. Bên
phải: tay thứ nhất cầm cây đao lớn, tay thứ lai cầm Kiếm Luân (bánh xe kiếm). Bên
trái: tay thứ nhất cầm cành Dương Liễu, tay thứ hai nâng nửa vành trăng. Mặc cà sa
màu xanh lục, xiêm màu hồng, cổ đeo Anh Lạc.
518
5_ Hoan Hỷ Thiện Thần: màu xanh lục, trên đỉnh có con chim công (khổng
tước) màu vàng ròng, tay phải cầm Nhất Cổ Câu, tay trái đè eo lưng, mặc giáp trụ,
khoác áo đỏ, tóc mai màu đỏ, khuôn mặt phẫn nộ.
519
6_ Trừ Nhất Thiết Chướng Nạn Thiện Thần: màu vàng, tác tướng sân nộ, sáu
cánh tay, mặc quần áo màu trắng tinh. Bên phải: tay thứ nhất cầm Tam Kích Xoa, tay
thứ hai cầm Kinh Điển, tay thứ ba nâng Tháp báu Xá Lợi. Bên trái: tay thứ nhất cầm
hoa sen hồng, tay thứ hai cầm móc câu báu, tay thứ ba cầm cái loa báu, đội mão báu,
mặc cà sa, gió thổi áo khoác ngoài, Anh Lạc, vòng, Xuyến như thường.
520
7_ Bạt Trừ Tội Cấu Thiện Thần: trần truồng, mặc áo cà sa màu xanh lục đỏ,
lông tóc dựng đứng, tướng màu vàng đỏ, tay phải cầm cây gậy (bổng) gậy ấy có năm
chỉa (ngũ xoa), tay trái nắm quyền để trên đỉnh đầu, mắt giận, mở miệng, răng nanh
bén ló lên trên, rất đáng sợ.
521
8_ Năng Nhẫn Thiện Thần: màu hư không, tay phải cầm cây đao lớn, tay trái
cầm cây sáo, đỉnh đầu trùm khăn màu trắng, bên dưới đến háng, vừa thấy đầu mũ đội,
tóc mai màu tía .
(Các vị bên trên đều đứng ở phương bên phải)
522
9_ Phệ Thất La Ma Noa Thiện Thần (Vaiśravaṇa:Đa Văn Thiên Vương): màu
xanh đen, hiện tướng Sân Vương, làm tướng ngậm mội, tay phải cầm cây gậy Kim
Cương, tay trái nâng tháp báu Toàn Thân Xá Lợi, mặc giáp trụ, khoác áo đỏ, tóc mai
màu tía.
523
10_ Tỳ Lô Bác Xoa Thiện Thần (Virūpākṣa:Quảng Mục Thiên Vương): màu
thịt, cánh tay đeo sợi tơ màu đen, dùng cây bút làm thế viết chép, mặc giáp trụ, khoác
quần áo màu xanh lục, tóc mai màu đỏ, hình mỉm cười.
524
11_ Ly Nhất Thiết Bố Úy Thần: hình thể như Trời Đế Thích, chỉ trên đỉnh đầu
có cái đầu lâu, trên đầu lâu có hình Tam Cổ.
525
12_ Cứu Hộ Nhất Thiết Thiện Thần: màu trắng xanh, tướng mạo như Tỳ Sa
Môn Thiên, hai tay chắp lại, mười đầu ngón tay đều có hoa sen chưa nở màu hồng,
quần áo màu vàng đỏ.
526
13_ Nhiếp Phục Chư Ma Thiện Thần: lông tóc dựng đứng, màu thịt đen, tướng
mạo dùng Anh Lạc để trang nghiêm, tay phải cầm cây kiếm, tay trái hạ lòng bàn tay
xuống hướng ra ngoài, quần áo màu vàng.
527
14_ Năng Cứu Chư Hữu Thiện Thần: màu trắng xanh lục, dung mạo như
tướng ngọc, hai tay chắp lại giữa trống rỗng (hư tâm hợp chưởng) co hai ngón trỏ phụ
vạch thứ nhất ở lưng ngón giữa, trên mũ đội, mặc cà sa màu trắng, xiêm màu đỏ.
528
15_ Sư Tử Uy Mãnh Thiện Thần: màu thịt, đội mão báu sư tử. Bên phải: tay
thứ nhất cầm cây búa, tay thứ hai cầm cây kiếm. Bên trái: tay thứ nhất cầm Phạm Giáp
(cái cặp chứa kinh Phạn), tay thứ hai cầm Tam Xoa Kích, mặc cà sa màu xanh biếc,
khoác áo ngắn bằng da cọp, giận dữ rất ác.
529
16_ Dũng Mãnh Tâm Địa Thiện Thần: mặc giáp trụ màu xanh lục, như hay
cứu chư Hữu, hai tay tác Ngoại Phộc để ngang ngực, tướng mỉm cười.
(Các vị bên trên đều đứng ở phương bên trái)
530
*) Đà La Ni Tập Kinh, quyển 3 ghi chép Chân Ngôn thỉnh 16 vị Thiện Thần
thủ hộ kinh Bát Nhã với người trì tụng là:
_ Thỉnh thập lục dược xoa Đại tướng chân ngôn:
“Na mô la đát-na đá-la dạ da (1) đá điệt tha (2) ha ha (3) hề hề (4) hô hô (5) hí lợi,
hí lợi (6) di lợi, di lợi (7) đỗ minh, đồ đỗ mê (8) tỳ già bà hứ ni (9) tỳ ma la bà hứ ni
(10) để-lý ninh để-lý (11) ba-la để yết-lạn đà (12) tỳ đa trì chất đát-la (13) kê đô bát la-
bà tát bà lê (14) cụ hề lê (15) càn đà lê (16) chiên trà lợi (17) xa xà ni (18) cụ la già
lợi ni (19) chiên trà tì già đà bà hề ni (20) mai đát-la du (21) sa ha (22) ma la đàn trì hạt
la bà ca da (23) sa ha (24) ma đăng già câu la bằng xa da (25) sa ha (26) để-lý thương
yết duệ (27) sa ha (28) tất đà duệ (29) sa ha (30) na mô lô sắt-trá tả (31) ma đăng già la
xà tả (32) tất điện đô (33) mạn đát-la bả đà (34) sa ha (35)”
Namo ratna-trayāya
Tadyathā: Ha ha, hi hi, ho ho, hili hili, mili mili, dhume dhudhume, vega-
vāhini, vimala vāhini, tri-netre, prati krānta, vidhathe-citra, ketu-prabhāsvare,
guhili, gandhari, caṇḍali, sajāni, gura-karṇin, caṇḍa-vigata vāhini, maitrāyuḥ
svāhā
Mālā-daṇḍi hāra bhagāya svāhā
Mataṅga-kula bhañjāya svāhā
Triśaṅkāye svāhā
Siddhaye svāhā
Namo roṣṭaṣya mataṅga-rājaṣya, siddhyantu mantra-pāda svāhā
Nếu người chỉ hay tụng được được Chân Ngôn này, chẳng cần cúng dường liền
được thành tựu. Nếu tụng Chân Ngôn này bảy biến thì 16 Dược Xoa Đại Tướng liền
đến chỗ của người ấy, nhận sự sai khiến của Hành Giả
Nếu người hay chí Tâm tụng Chân Ngôn này sẽ hay diệt được bốn tội nặng, năm
tội nghịch
531
THÂM SA ĐẠI TƯỚNG
Thâm Sa Đại Tướng là vị Thần Hộ Pháp trừ diệt các tai nạn, bảo hộ cho người tu
hành. Lại xưng là Thâm Sa Thần, Thâm Sa Thần Vương, Thâm Sa Đại Vương,
Thâm Sa Đồng Tử, Thâm Sa Bồ Tát.
Tên gọi của vị Thần này được hình thành từ truyện tích sau:
Đường Tam Tạng Ký ghi rằng: “Tam Tạng Huyền Trang đi về phương Tây cầu
Pháp, khi đến bãi sa mạc Lưu Sa là nơi không có người cư ngụ. Mỗi lần đến giờ Trai
thời ở bên cạnh đường đi có cái ao mới đào chứa nước ngọt như Cam Lộ kèm theo một
phần thức ăn mới thơm tho khác thường. Tuy chẳng thấy người, Tam Tạng rất ngạc
nhiên nên báo rằng “Nơi này là bãi sa mạc cát dài, không có người qua lại thời ao này
với thức ăn là do ai đem đến? Nguyện cho biết mong cầu!” Tức thời trong hư không có
tiếng nói báo với Tam Tạng Pháp Sư rằng: “Con là Thiên Thần, do có duyên với Hòa
Thượng lấy Kinh nên mau đến. Đệ Tử là Thần Hộ Pháp, nơi này không có nước với
không có người, nên đặc biệt vì Hòa Thượng mà dâng nước với thức ăn”. Khi Tam
Tạng thọ Trai xong thời nước ấy lui mất chỉ nhìn thấy bãi cát mênh mông không một
bóng người. Nhân việc này mà vị Thần ấy được xưng là Thâm Sa”
532
Gốc tích của vị Thần này được lưu truyền qua nhiều Thuyết khác nhau.
_ Thai, quyển 2, Quỹ nói rằng: “Phụng Giáo Quan cũng là Thái Sơn Phủ Quân
(Citra-gupta). Người xưa truyền là Thâm Sa Đại Tướng. Đây là một loài Quỷ ăn thịt
uống máu”
_ Thâm Sa Đại Tướng là vị Thần do Đại Tự Thiên (Maheśvara) hóa hiện
Đại Tập Kinh ghi rằng: “Thâm Sa Thần tức Phù Khâu Thần (vị thần ở gò đống)
là vị Thần do Đại Tự Thiên (Maheśvara) ở phương Tây hóa hiện. Cũng do Đa Văn
Thiên Vương vì giáng phục Quỷ Thần hành khí độc trong bốn Thiên Hạ…”
_ Thâm Sa Đại Tướng là một Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Đa Văn Thiên
Vương (Vaiśravaṇa-devarāja) ở phương Bắc
Thường Hiểu Hòa Thượng Thỉnh Lai Mục Lục ghi rằng (Đại Chính
55_1070c): “Thâm Sa Thần Vương Tượng, một khu”
(Lược bên trong)
Đời Đường, Tam Tạng Huyền Trang giao tiếp sâu xa năm ngày nên cảm được vị
Thần này. Đây là Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Đa Văn Thiên Vương (Vaiśravaṇa) ở
phương Bắc. Nay người đời Đường rất tôn trọng vị Thần này, cứu tai nạn thành lợi ích,
không có một người nào chẳng y theo hành. Ngay trong nhà của con người đều có vị
Thần này, tự thấy linh nghiệm, thật chẳng thể nghĩ bàn.
Trong đây nói rằng: “ Khi Ngài Huyền Trang đi qua Tây Thiên thời cảm được vị
Thần này.
Tức Đại Từ Ân Tự Tam Tạng Pháp Sư Truyện, quyển 1 ghi rằng: “Khi Thầy
băng qua Sa Hà (Dòng sông cát) thời bốn đêm năm ngày chẳng được một hớp nước,
sắp sửa chết mất, bèn nằm trong cát, ngầm niệm Quán Âm (Avalokiteśvara). Đột
nhiên cảm thấy luồng gió mát. Đêm ấy, trong giấc mộng, nhìn thấy một vị Đại
Thần…..
_Thuyết khác cho rằng: “Thâm Sa Đại Tướng là một vị Đại Tướng (hoặc Sĩ Giả)
dưới trướng của Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa), là bậc Thượng Thủ
(Pramukha) của bảy ngàn Dược Xoa (Yakṣa)”
_ Thâm Sa Đại Tướng là một Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Quán Âm Bồ Tát
(Avalokiteśvara-bodhisatva)
Thâm Sa Đại Tướng Nghi Quỹ, một quyển do Ngài Bất Không dịch trong đời
Đường. Lại xưng là Thâm Sa Đại Tướng Bồ Tát Nghi Quỹ được lưu trữ trong Đại
Chính Tạng, sách 21, số 1291
Bản Nghi Quỹ này xem Thâm Sa Đại Tướng một Hóa Thân của Quán Thế Âm Bồ
Tát, đồng thời ghi nhận ba vị sứ giả (Ceṭaka): Vị Sứ Giả trên Trời là Tịnh Mãn, vị Sứ
Giả ở hư không là Phộc Tư Đại Tiên, vị Sứ Giả dưới Đất là Thủy Hỏa Lôi Tự Tại
Vương…hay diệt trừ Tam Tai, ba loại chấp trước. Nếu tụng Chân Ngôn ấy thì nghiệp
ác đều hay tiêu diệt.
Trong văn đều ghi chép Pháp Tu với việc đã thành tựu
_ Thâm Sa Đại Tướng là một Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Thập Nhất Diện
Quán Tự Tại Bồ Tát (Eka-daśa-mukha-Avalokiteśvara-bodhisatva)
Đồ Tượng, quyển 10, phần Thâm Sa Tướng Tạp Tập ghi nhận là:
Chính Niệm Tụng:
Tụng Chân Ngôn là: 533
㫘 ㅥ ᧥ ㅥ ᧥ ᝌ㇂ᝌ㇂ 㛿
Oṃ_ A Prū, A Prū, sara sara, svāhā
Tán Niệm Tụng:
Phật Nhãn, Đại Nhật, Thập Nhất Diện, Đa Văn Bản Tôn, chư Thần Từ Hộ, Đại
Kim Cương Luân, Nhất Tự…có thể có Pháp Thí.
Lễ Phật:
Nam mô Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Phật
Nam mô Thập Nhất Diện Quán Tự Tại Bồ Tát
Nam mô Đa Văn Thiên Vương
Nam mô Thâm Sa Đại Tướng (3 lần)
Nam mô nhất thiết Tam Bảo
MỘT VÀI CÔNG HẠNH CỦA THÂM SA ĐẠI TƯỚNG
_ Xưa kia tại núi Phù Khâu ở Thục Xuyên (đất Thục) có một vị tăng phát
nguyện mười năm chẳng rời chùa, trì Kinh Pháp Hoa. Do ý chí vững mạnh nên cảm
được Thâm Sa Đại Tướng hóa làm một vị Hành Giả phụng sự trợ giúp. Khi vị Tăng đã
đủ số Kinh đã nguyện xong thì sáng sớm chợt không thấy vị Hành Giả nên kêu gọi mãi
vẫn chẳng được. Vị Tăng ấy liền ra khỏi cửa, lớn tiếng kêu gọi thời nghe trong hư
không nói rằng: “Thời xưa, Hành Giả chẳng phải là người thường mà là Thần Tá ở
phương Bắc, thống lãnh Dạ Xoa. Do Hòa Thượng có Hạnh cao nên mới được Đệ Tử
cung cấp”. Vị Tăng nói: “Bần Đạo là Phàm Tăng dùng con mắt thịt nên chẳng nhận
biết được. Thật là tội lỗi khi để cho Đại Thánh cúng dường suốt mười năm! Giờ phải
làm sao để nhìn thấy tướng riêng của Bản Thân?”. Vị Thần đáp: “Chẳng nên nhìn
thấy Bản Thân, rất là đáng sợ”. Vị Hòa Thượng nguyện muốn gặp gỡ nên vui mừng
cầu thỉnh, tác ý không sợ, liền nhìn thấy thân Dạ Xoa dùng miệng truyền Đà La Ni một
biến, Tâm Chân Ngôn, một bài Tụng rồi lui mất. Vị Tăng ấy kêu gọi công nhân đắp
hình để tại chùa cúng dường, thủ hộ Già Lam rất có linh nghiệm. Người ở Tây Thục
đều tôn kính phụng thờ.
_ Đại Hòa năm thứ ba, có một nữ thương đất Thục, vẽ hình ảnh vị Thần để trong
thuyền cúng dường. Khi chiếc thuyền ấy đến Giang Lăng vào ngày 16 tháng 6 chợt
gặp gió mạnh khiến thuyền sắp chìm, nữ thương ấy rất sợ hãi, niệm Đại Thánh Thâm
Sa Thần Vương kèm theo lời phát Nguyện. Liền thấy vị Thần này hiện ở trong nước
dùng tay đẩy chiếc thuyền đến bờ. Nữ Thương đến chùa khai Nguyên ở Giang Lăng,
tô đắp hình tượng cúng dường. Người dân thường đến chiêm kính.
Nếu có người để Tượng tại nơi có Tinh Mỵ, oan gia, Võng Lượng quấy nhiễu rồi
ở trước vị Thần này, chí tâm phát nguyện đều được trừ khỏi.
_ Trong Trị Huyền Xá ở Nam Châu thuộc Trường An có vị Tỳ Khưu Tăng tên
là Pháp Truyền thường chuyên tụng Kinh Pháp Hoa. Đến Thiên Hòa năm đầu tiên,
tháng Giêng, ngày mồng sáu, ở chùa Thiên Quang phát lời thề rộng lớn phụng đọc
Kinh Pháp Hoa để được Bồ Đề cứu cánh. Cách ngôi chùa này khoảng mười dặm, có
một chỗ hoang vắng tên là Huyền Dã, vào cuối ngày mồng bảy hiện ra một đứa trẻ hái
củi đến xin làm tôi tớ. Trải qua bảy năm, ngày đêm tâm trụ tại Diệu Pháp, hộ dưỡng
không có gián đoạn, nhận sự sai bảo không hề ngại khó. Một hôm vị Pháp Sư hỏi rằng:
“Con từ đâu đến?”. Đứa trẻ đáp: “Con là Quỷ Thần hộ giúp chốn hoang vắng này, tên
là Thâm Sa Đại Tướng”. Vị Pháp Sư bảo: “Hãy hiện Bản Thân”. Đáp rằng: “Hình
của con rất xấu đáng sợ. Nếu Thầy nhìn thấy ắt tâm thần bị mê hoặc”.Vị Pháp Sư nói:
“Cứ hiện ra xem”. Đáp rằng: “Xin Thầy nhắm hai mắt lại” rồi hiện hình, vị Pháp Sư
nhìn thấy liền bị mê hoặc không biết phương hướng, trải qua bảy ngày mới tỉnh lại. Vị 534
Pháp Sư hỏi: “Sao Ta chẳng thấy ?”. Đáp rằng: “Tượng của con rất phẫn nộ, hình lõa
thể màu đỏ, đầu như cái bát đỏ, hai tay như lưới Trời, cổ đeo bảy đầu Quỷ, thể có tám
con rắn, hai đầu Quỷ nuốt xương cốt”. Như vậy nói rằng: “Con thành hình Thần Hộ
Pháp, hộ trì Thầy của con”. Vào ngày khác, nước ấy có một nữ vương tử bị bệnh rất
đau khổ, nhờ có duyên nên thỉnh được vị Thầy này, vị Pháp Sư liền tụng tên gọi của
Thâm Sa Đại Tướng Bồ Tát thì bệnh khổ liền khỏi. Vị vua của nước ấy rất thích liền
hỏi rằng: “Thầy tu Pháp gì mà một lúc trừ hết ngàn bệnh khổ?”. Đáp rằng: “Chỉ cần
một lần xưng tên của Thâm Sa Đại Tướng thì cứu được vạn bệnh khổ”
_Tương truyền nhà người nào cũng có Thâm Sa Đại Tướng chăm sóc, giúp cho
nhà cửa được yên ổn, tránh mọi tai nạn bệnh tật…. Nếu chân thành cúng dường, cầu
nguyện đều được như ý.
_Có Thuyết nói 16 vị Thiện Thần là 12 vị Thần Tướng của Đức Phật Dược Sư
cùng với 4 vị Thiên Vương. Nhưng căn cứ vào tôn hình của 16 vị Thiện Thần này,
ngoài Biệt Tôn Tạp Ký ra, tại đời Đường, ngài Kim Cương Trí đã minh họa đồ hình
của 16 vị Thiện Thần (sau này Nhật Tăng Không Hải đã đem về Nhật Bản) gồm có
Đức Phật Thích Ca ở trung tâm, hai bên trái phải có Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Dũng và
A Nan, Huyền Trang và Thâm Sa Đại Tướng, hai bên ắt phân biệt 16 vị Thiện Thần.
Có điều Tôn Danh do đồ hình này xếp bày, đối với phần trên có sự sai khác
535
HÌNH TƯỢNG CỦA THÂM SA ĐẠI TƯỚNG
.) Mật Giáo ghi nhận hình tượng của Thâm Sa Đại Tướng theo các thuyết sau:
_ Đồ Tượng Sao quyển 10 nói: “Vị Thần này có hai hình:
1_Tay trái cầm con rắn xanh, co cánh tay phải giương lòng bàn tay để trước ngực.
Vị này hay chữa trị bệnh tật, thần diệu đặc dị
2_ Chắp hai tay bưng cái bát chứa đầy cơm trắng.
Một Bản Quỹ ghi là: Hình rất giận dữ, cổ có tám con rắn, chắp hai tay lại nâng cái
bát.
_ Giác Thiền Sao (Quyển Thâm Sa Thần) ghi rằng: “Vị Thần này có hình rất
xấu, nếu người nhìn thấy thì tâm thần bị mê hoặc”
536
Lại nói rằng: “Thâm Sa Vương là một Sĩ Giả (hoặc là một vị Đại Tướng) của Tỳ
Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa), là bậc Thượng Thủ (Pramukha) của bảy ngàn
Dược Xoa (Yakṣa)”
Lại nói hình của vị ấy là: “Cái đầu là lửa rực nóng, miệng là con sông máu, dùng
đầu lâu làm chuỗi Anh Lạc đeo ở cổ, dùng da cọp làm quần, dùng da mặt của con voi
làm cái khố che đầu gối, dùng con nít làm cái rốn, bàn chân đạp lên hoa sen”
537
_ Theo Bản Tôn Giới Hội, Thâm Sa Thần Vương, Bộ Loại Quyến Thuộc, các
hàng Dược Xoa: Trong lầu gác có chữ Hūṃ (㜪), chữ biến thành cây Mâu (hoặc con
rắn), cây Mâu biến thành thân Thâm Sa Thần với thân màu thịt đỏ, hiển hình phẫn nộ
cực ác, tay phải nâng cây mâu, vô lượng quyến thuộc Dược Xoa vây quanh.
538
Hoặc hình tượng với tay trái hướng xéo xuống dưới giương lòng bàn tay, tay phải
cầm cây gậy Tam Cổ.
Lại có hình tượng, giương lòng bàn tay phải về phía trước che nách phải, úp lòng
bàn tay trái đè xuống dưới.
539
CHỮ CHỦNG TỬ, THỦ ẤN, CHÂN NGÔN CỦA THÂM SA ĐẠI TƯỚNG
_Chữ chủng tử là: A (ㅥ) hoặc Hūṃ (㜪)
_ Tam Muội Gia Hình là: Cây Mâu có ba chia, hoặc ba con rắn
_ Chân Ngôn thường dùng là:
㗍ᜃ ᝌ㈦ⴼ ᜬ㪤㖁㫘 㜪㜪㜪
Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Oṃ hūṃ hūṃ hūṃ
Namaḥ samanta-buddhānāṃ: Quy mệnh khắp cả bậc Giác Ngộ
Oṃ : Nhiếp triệu
Hūṃ hūṃ hūṃ : Khủng bố ba Nhân chấp trước, dứt trừ Tam Tai
_Thủ Ấn:
1_ Kim Cương hợp chưởng:
Chắp hai tay lại, gieo chéo các đầu ngón tay.
Chân Ngôn là:
㫘 ㅥ ᧥ ㅥ ᧥ ᝌ㇂ᝌ㇂ 㛿
Oṃ_ A Prū, A Prū, sara sara, svāhā
Oṃ: Nhiếp triệu
A: chữ chủng tử
Prū: tên gọi của một vị Dược Xoa
A prū : (như bên trên)
Sara sara: kiên cố bền chắc
Svāhā: thành tựu tốt lành
Đem một Ấn dùng tất cả, như Pháp cầu Văn Trì
2_ Tay phải nắm Quyền, đưa ngón cái qua lại
Chân Ngôn là:
㫘 ᛸ ㅥᜦᦤ㗚 㛿
Oṃ_ Mahā-alaṃtraya_ svāhā
Oṃ: Quy mệnh
Mahā-alaṃtraya: Đại Cụ Túc Cứu Độ Đẳng
Svāhā: Thành tựu tốt lành.
Bản Quỹ ghi rằng: “Tụng đủ mười vạn biến, được phú quý, thành tựu viên mãn”
540
3_ Nội Phộc Ngũ Cổ Ấn:
Cài chéo các ngón bên trong lòng bàn tay rồi nắm lại thành Quyền (Nội Phộc),
dựng thẳng hai ngón giữa sao cho hai mặt ngón dính nhau, dựng thẳng hai ngón út,
tách bung thẳng hai ngón trỏ ra hai bên, kèm dựng hai ngón cái.
Chân Ngôn là:
Oṃ_ Tārā-mātāye _svāhā
(Quy mệnh Cứu Độ Mẫu Đẳng, thành tựu tốt lành)
Thầy nói rằng: “Một Ấn một Chú của Thâm Sa Đại Tướng, Pháp của ba Sứ Giả.
Đây là Pháp thành tựu rộng lớn, nguyện vì lợi ích cho người nam người nữ trong cõi
Diêm Phù Đề mà nói”.
541
TUYẾT SƠN NGŨ TRƯỜNG THỌ NỮ
Tuyết Sơn Ngũ Trường Thọ Nữ nguyên là các vị Sơn Thần mà dân gian Tây
Tạng đã phụng thờ. Lại xưng là Cát Tường Trường Thọ Ngũ Thần Nữ, Thần Miễn
Trường Thọ Ngũ Tỷ Muội hoặc Cụ Tường Không Hành Mẫu Ngũ Tỷ Muội, Trường
Thọ Ngũ Tỷ Muội, Trường Thọ Ngũ Tiên Nữ. Các vị ấy tên là: Tường Thọ Tiên Nữ,
Thúy Nhan Tiên Nữ, Trinh Tuệ Tiên Nữ, Thí Nhân Tiên Nữ, Quan Vịnh Tiên Nữ….
Tương truyền năm Trường Thọ Nữ này cư ngụ tại Châu Mục Lãng Mã Phong (núi
Tuyết) [hoặc có thuyết nói năm Trường Thọ Nữ này cư ngụ tại Lạp Cơ Khang Tuyết
Sơn], dưới chân núi có năm cái hồ băng tuyết, mỗi cái hồ đều có dáng vẻ màu sắc
chẳng đồng, cũng giống như sắc thân của năm Trường Thọ Nữ. Văn hiến của Tạng văn
ghi chép: “Phương Bắc, tại mạch núi ở khu vực tuyết là địa phương giao tiếp giữa Ni
Bạc Nhĩ (Nepal) và đất Tây Tạng”
_Truyền thuyết Tây Tạng ghi nhận rằng: “Vào Thế Kỷ thứ 8, Tuyết Sơn Ngũ
Trường Thọ Nữ gặp Đại Sĩ Liên Hoa Sinh (Padma-saṃbhava) ở trong động Ca
Nhiệt Tang Ngõa. Các bà dùng lực lượng Thần Thông rộng lớn đè ép khuất phục
Liên Sư: Phát động 18 loại Thiên Ma, Đơn Mã Nữ Thần, Sơn Thần và vô biên Chúng
Quỷ Thần, nhưng lại không có cách nào khiến cho Đại Sĩ Liên Hoa Sinh bị chấn động.
Cuối cùng các bà biến hóa ra hình mạo với Thần Lực rất đáng sợ, không ngờ lại bị Đại
Sĩ Liên Hoa Sinh dùng Thần Lực Thủ Ấn đè ép khuất phục dưới lòng bàn tay. Bất đắc
dĩ Tuyết Sơn Ngũ Trường Thọ Nữ phải đem danh hiệu và Mệnh Căn Tinh Yếu
Tâm Chú cúng dường Liên Sư, và đứng dưới Tam Muội Gia (Samaya) thệ nguyện,
vĩnh viễn phục tùng sự giáo hóa của Liên Sư. Đại Sĩ Liên Hoa Sinh vì các bà mở bày
Lý báo ứng của nhân quả, và dặn dò các bà vĩnh viễn thủ hộ Phật Pháp”.
Từ đấy Tuyết Sơn Ngũ Trường Thọ Nữ trở thành một trong các Tôn Trường
Thọ của Tạng Truyền Phật Giáo. Lại xưng là Cát Tường Trường Thọ Ngũ Mẫu,
Phước Lộc Thọ Hỷ Ngũ Phật Mẫu, Tường Thọ Ngũ Phật Mẫu tức là: Tường Thọ
Phật Mẫu, Thúy Nhan Phật Phẫu, Trinh Tuệ Phật Mẫu, Thí Nhân Phật Mẫu, Quan
Vịnh Phật Mẫu… là năm vị Không Hành Mẫu Trí Tuệ của Đại Sư Liên Hoa Sinh,
cũng là năm vị Không Hành Mẫu bí mật của bậc Đại Thành Tựu Mễ Lạp Nhật Ba.
Theo truyền thuyết của dân gian Tây Tạng thì năm vị Phật Mẫu ấy y theo thứ tự là năm
vị Thần nắm giữ Phước Thọ, Tiên Tri, Y Điền, Tài Phú và súc sinh… cũng là năm Hộ
Pháp Không Hành Mẫu của Mật Tông
_Hình tượng của năm Trường Thọ Phật Mẫu là:
1)Tường Thọ Phật Mẫu, tức Trát tây Thứ Nhân Mã (Tashi Tseringma) có
thân màu trắng, một mặt hai cánh tay, tay phải giơ cao lên cầm chày Kim Cương, tay
trái nắm một cái bình báu trường thọ, dung mạo trẻ trung xinh đẹp hiền từ, dùng các
loại châu báu, Anh Lạc, vòng đeo tai, vòng xuyến, trâm cài…trang sức, ngồi trên con
sư tử Tuyết bờm xanh lục
542
2)Trinh Tuệ Phật Mẫu, tức Mễ Ngọc Lạc Tang Mã (Miyo Lozangma) có
thân màu vàng, một mặt hai cánh tay, tay phải tác Thủ Ấn kính phụng vật báu, tay trái
nâng cái mâm châu báu tràng đầy lương thực, dung mạo hiền từ, dùng các loại châu
báu, Anh Lạc, vòng đeo tai, vòng xuyến, trâm cài… trang sức, ngồi trên con cọp mạnh
mẽ
543
3)Quan Vịnh Phật Mẫu tức Quyết Ban Chấn Tang Mã (Chopen Drizangma)
có thân màu hồng, một mặt hai tay, tay phải cầm một cái hộp báu, tay trái cầm một
viên ngọc báu, dung mạo hiền từ, dùng các loại châu báu, Anh Lạc, vòng đeo tai, vòng
xuyến, trâm cài… trang sức, ngồi trên con hươu màu vàng cam
4)Thúy Nhan Phật Mẫu tức Đình Cát Hy Tang Mã (Ting gyi Shalzangma) có
thân màu xanh lam, một mặt hai cánh tay, tay phải cầm cái gương có một mặt, tay trái
cầm cây côn dài trang sức cờ phan, dung mạo hiền từ, dùng các loại châu báu, Anh
Lạc, vòng đeo tai, vòng xuyến, trâm cài… trang sức, ngồi trên con lừa
544
5)Thí Nhân Phật Mẫu tức Đạt Ca Trác Tang Mã (Tekar Drozangma) có
thân màu xanh lục, một mặt hai cánh tay, tay phải cầm một bó cỏ, tay trái cầm con rắn
quấn quanh cành cây, dung mạo hiền từ, dùng các loại châu báu, Anh Lạc, vòng đeo
tai, vòng xuyến, trâm cài… trang sức, ngồi trên con rồng xanh có màu đá Lục Tùng
_Do truyền thừa khác nhau nên nhân duyên thị hiện hình tường của năm
Trường Thọ Phật Mẫu cũng có chút sai khác.
1_Cát Tường Trường Thọ Phật Mẫu ngồi trên con sư tử, có thể dùng tiêu trừ
tất cả sự chướng ngại trên Thế Gian, lại hay đạt được sự gia trì của tất cả tài vật trên
Thế Gian
2_Hà Khang Mã Phật Mẫu (Thúy Nhan Phật Mẫu) trông coi việc Tiên Tri,
toàn thân màu xanh lam, ngồi trên con ngựa vằn. Tôn này giúp cho chúng ta đạt được
một loại Thần Thông Lực, cũng là dùng cái gương để xem bói (Bốc Quái), sự việc cần
xem hỏi sẽ tụ hội hiển hiện trên mặt gương
3_Mễ Nhược Trát Tây Phật Mẫu (Trinh Tuệ Phật Mẫu) trông coi Y Điền,
toàn thân màu vàng cam, ngồi trên con cọp già (lão hổ) có thể dùng tiêu trừ tất cả sự
chướng ngại về tài vật, đạt được sự gia trì của tài vật
4_Giác Bối Địch Phật Mẫu (Quan Vịnh Phật Mẫu) trông coi tài bảo, toàn thân
màu hồng, ngồi trên con hươu, hay tiêu trừ tất cả sự chướng ngại về tài vật, đạt được
sự gia trì của châu báu, tiền tài
5_Đức Nhi Khang Trác Chương Mã Phật Mẫu (Thí Nhân Phật Mẫu) trông
coi súc vật, toàn thân màu xanh lục, ngồi trên con Rồng, hay giúp cho chúng ta nuôi
dưỡng các nhóm dê, ngựa, bò… được sự gia trì an khanh thịnh vượng
545
546
_Căn cứ vào chức trách chẳng đồng của năm Thần Nữ, lại phân biệt xưng gọi là
Cát Tường Trường Thọ Nữ Thần, Viên Quang Chiêm Bốc Nữ Thần, Thực Vật Chủ Tể
Nữ Thần, Tài Bảo Nữ Thần, Lục Súc Nữ Thần
_Chân Ngôn của năm Trường Thọ Phật Mẫu:
1_ Án ma ma lỗ lỗ kỉ đáp đạt lạt mỹ trú địa cứu trát
OṂ_ MAMA RURU CITTA-DHARA ME JUTI HŪṂ BHYO JAḤ
2_ Án tỉ cấp mộc đáp cứu trát
OṂ_ BHIKAI MUTA HŪṂ BHYO JAḤ
3_ Án nha kỉ hạnh hạnh cứu trát 547
OṂ_ YATRI SIṄ SIṄ HŪṂ BHYO JAḤ
4_ Án a vi lạt ni cứu trát
OṂ_ AVIRĀṆI HŪṂ BHYO JAḤ
5_ Án sa lí định định ca địa gia nạp cứu trát
OṂ_ SARI TIṄ TIṄ KHATI JÑĀNA HŪṂ BHYO JAḤ
_Tu trì Pháp của Tuyết Sơn Ngũ Trường Thọ Nữ hay tiêu trừ ôn dịch, được
sống lâu tự tại
548
CA LÂU LA
Ca Lâu La, tên Phạn là Garuḍa, tên Tây Tạng là Nam-mahaḥ-ldiṅ. Hán dịch
có các tên gọi là Ca Lưu La, Ca Lầu La, Ca Lâu La, Kim Sí Điểu, Diệu Sí Điểu, Thực
Thổ Bi Khổ Thanh. Là một loại chim Thần to lớn hoặc sinh vật giống chim, xuất hiện
trong thần thoại của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo
_Trong Ấn Độ Giáo thì Ca Lâu La là một vị Thần được biết đến như là vật cỡi
của Thượng Đế Viṣṇu, biểu thị cho sức mạnh to lớn của vũ trụ có thể ngăn chận được
mặt trời.
Hoặc có thuyết nói: Khi Garuḍa sinh ra thời thân có ánh sáng hách dịch, chư
Thiên nhận lầm là Hỏa Thiên nên lễ bái.
Garuḍa là kẻ thù truyền kiếp của loài rắn Nāga và hay ăn thịt rắn. Hình ảnh của
Garuḍa thường được sử dụng như sự quyến rũ hoặc lá bùa để bảo vệ người mang nó
khỏi bị tấn công bởi con rắn độc.
Garuḍi-vidya là câu Thần Chú chống lại chất độc của rắn trừ bỏ tất cả các loại
ác
Oṃ namo bhagavate garuḍāya śrī-viṣṇu- vara-vāhanāya trailokya-
paripūjitāya vajra-nakha-tuṇḍāya vajra-pakṣālaṅkṛta-śarīrāya, āveśaya
āveśaya, ehyehi mahā-garuḍa duṣṭa viṣaṃ chindhi chindhi, āveśaya āveśaya,
ehyehi mahā-garuḍa duṣṭa-rakṣasāṃś chindhi chindhi, āveśaya āveśaya
ehyehi mahā-garuḍa baddho hūṃ phaṭ svāhā
549
Garuḍa được mô tả qua thân thể vàng của một người đàn ông mạnh mẽ với
khuôn mặt trắng có mỏ và đôi cánh màu đỏ của con đại bàng, đội vương miện.
Garuḍa còn được minh họa theo hình tượng là: đeo con rắn Adiśeṣa ở cổ tay trái,
đeo con rắn Kālika ở cổ tay phải, dùng con rắn Takṣaka làm dây thắt lưng, con rắn
Karkoṭaka là vòng đeo cổ, hai con rắn Padma và Mahā-padma là vòng đeo tai, con
rắn Śaṅkachuda tô điểm mái tóc, con rắn Vaṣuki bò sau gáy quàng ngang hai vai
550
Trong truyền thống Yoga của Ấn Độ, Garuḍa có năm hình thức Satya, Suparṇa,
Garuḍa, Tarkṣya, Vihageśvara biểu thị cho năm luồng khí Praṇa, Vyana, Udana,
Samana, Brahma giúp cho Hành Giả Du Già (Yogi) có thể kiểm soát được Praṇa-
yama đánh thức luổng hỏa xà Kuṇḍaliṇi dẫn đến cấp độ cao hơn của tâm linh
Trong chiến tranh, Garuḍa được xem là biểu tượng của chiến binh mạnh mẽ tiêu
diệt kẻ thù một cách nhanh chóng
Trong Kṛṣṇa-avatar, Garuḍa đóng một vai trò quan trọng giúp cho Kṛṣṇa và
Satyabhama giết chết Narakasura. Trọng dịp khác, Thượng Đế Hari (Viṣṇu) cỡi trên
Garuḍa đến cứu các tín đồ voi Gajrendra. Truyền thuyết nói rằng khi cánh của Garuḍa
tung bay sẽ tụng kinh Vệ Đà
Thần Chú tán tụng Garuḍa là:
Oṃ_ Tat puruṣāya vid mahe
Suvarṇa-pakṣāya dhī mahi
Thanno garuḍaḥ prachodayath
Oṃ_ Hrīṃ Hrūṃ hrīṃ hrīṃ bhirundayai svāhā
551
_Theo Phật Giáo thì Garuḍa là loài chim Thần cư ngụ trên cái cây to lớn của bốn
thiên hạ, bắt Rồng làm thức ăn. Y theo sự ghi chép của Phật Điển thì đôi cánh của Ca
Lâu La do đan kết mọi vật báu mà thành, cho nên xưng là Kim Sí Điểu hoặc Diệu Sí
Điểu. Loài chim này có thân thể rất lớn, khi giương mở hai cánh, rộng hơn ngàn dặm,
thậm chí lớn đến hàng trăm vạn dặm. Loài chim này là một trong tám Đại Bộ Chúng,
cùng với Trời, Rồng, A Tu La…. cùng ngồi với nhau dưới Tòa nghe Đức Phật nói
Pháp.
.)Thám Huyền Ký 2 nói là: “Ca Lưu La, tên gọi mới là Yết Lộ Trà. Đây là Diệu
Sí Điểu, cánh của chim có màu của mọi loại báu trang nghiêm, chẳng phải chỉ có
vàng”
.)Câu Xá Quang Ký 8 nói là: “Yết Lộ Trà là Đỉnh Anh (chỗ gồ lên trên đỉnh
đầu), hoặc có tên gọi là Tô Bát Lạt Ni (Suparṇi) tức là Diệu Sí. Xưa nói là Sí Kim
Điểu chẳng phải là chỗ thấy chính đúng vậy”
.)Kinh Hải Long Vương ghi nhận là: “Loài chim này có hai cánh cách nhau 360
vạn dặm, chỉ dùng một chân dung chứa cả cõi Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa)”
.)Phần bên dưới của Pháp Hoa Văn Cú 2 nói rằng: “Ca Lâu La là Kim Sí có
cánh màu vàng, ở trên cái cây to lớn của bốn thiên hạ, hai cánh cách nhau 360 vạn
dặm”
.)Kinh Luật Dị Tướng, quyển 49 nói là: “Gió được quạt ra từ loài chim này,
nếu vào mắt người thì người ấy bị mất ánh sáng (bị mù)”.
.)Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, quyển 1 ghi chép là: “Loài chim này do
nghiệp báo cho nên được các gió, nếu vào mắt người thì người ấy bị mất ánh sáng”
Kinh này lại nói rằng: “Lại Kim Sí Điểu có tên gọi chính đúng là Ca Lâu La
Vương ở trong loài chim sung sướng được tự tại. Do nghiệp báo nên loài chim này ăn
các Rồng. Ở Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa:Nam Thiệm Bộ Châu) một ngày ăn một
Long Vương với 500 con Rồng nhỏ, ngày hôm sau ở Phất Bà Đề (Pūrva-videha:Đông
Thắng Thân Châu) ăn một Long Vương với 500 con Rồng nhỏ, ngày thứ ba lại ở Cù
Gia Ni (Aparagodānīya:Tây Ngưu Hóa Châu) ăn một Long Vương với 500 con Rồng
nhỏ, ngày thứ tư ở Uất Đan Thiền Việt (Uttara-kuru:Bắc Câu Lô Châu) ăn một Long
Vương với 500 con Rồng nhỏ…. Khi giáp vòng hết thì trở lại chỗ ban đầu, trải qua tám
ngàn tuổi thời loài chim này hiện ra tướng bị chết” 552
.)Bồ Tát Tòng Đâu Suất Thiên Giáng Thần Mẫu Thai Thuyết Quảng Phổ
Kinh, quyển 7 lại ghi rằng: “Kim Sí Điểu Vương có thân dài tám ngàn do tuần, hai
cánh, mỗi cánh dài bốn ngàn do tuần, dùng Rồng làm thức ăn”
.)Trường A Hàm Kinh, quyển 19 nêu rõ: “Có bốn loại Kim Sí Điểu sinh từ
trứng, sinh từ thai, sinh từ ẩm ướt, sinh hóa sinh. Kim Sí Điểu từ trứng sinh có thể ăn
Rồng từ trứng sinh. Kim Sí Điểu từ thai sinh có thể ăn Rồng từ thai sinh, từ trứng sinh.
Kim Sí Điểu từ ẩm ướt sinh có thể ăn Rồng từ ẩm ướt sinh, từ trứng sinh, từ thai sinh.
Kim Sí Điểu từ hóa sinh có thể ăn Rồng từ hóa sinh và các loại Rồng khác”.
.)Kinh Niết Bàn nói là: “Loài chim này ăn hết bảy báu của loài Long Ngư”
.)Kinh Tăng Nhất ghi nhận là: “Một ngày một Long Vương lớn với 500 con
Rồng nhỏ, giáp vòng đến bốn Thiên Hạ rồi trở lại chỗ ban đầu theo thứ tự mà ăn, Khi
mệnh chung thời các loài Rồng phun ra chất độc nên chẳng thể ăn được, bị lửa đói
thiêu đốt, rung động từ cái cánh thẳng đến bên dưới đến bờ mé của Phong Luân, bị gió
thổi nên quay trở lại bên trên, cứ đi rồi quay trở lại bảy lần, không có chỗ dùng chân,
liền lên trên đỉnh núi Kim Cương Luân chịu chết. Do ăn các loài Rồng nên khí độc
trong thân thịt phát ra lửa tự thiêu đốt. Nan Đà Long Vương (Nanda-nāga-rāja) sợ
thiêu đốt núi báu nên tuôn mưa dập lửa, tthân thịt tiêu tan chỉ còn lại trái tim thuần màu
Lưu Ly xanh. Luân Vương lấy được nó thì dùng làm châu báu, Đế Thích có được nó
thì làm viên ngọc giắt trong búi tóc”
_Trong truyền thuyết của Phật Giáo. Do Ca Lâu La dùng Rồng làm thức ăn cho
nên loài chim này là khắc tinh của loài Rồng. Vì Ca Lâu La cùng với loài Rồng đều
kính sợ Phật Pháp, nhân đây ngay lúc Rồng bị móng vuốt của Ca Lâu La chụp bắt, nếu
Rồng dùng áo Cà Sa của Tăng Nhân phủ lên thân thì Ca Lâu La liền chẳng dám bắt ăn
_Trong các Kinh Điển Đại Thừa, hình tượng của loài chim này phần nhiều là mô
phỏng tư thế bắt các loài Rồng để làm thức ăn, hoặc là thân người đầu chim
553
_Do tính cách dũng mãnh của Ca Lâu La (Garuḍa) nên Mật Tông dùng Tôn này
tượng trưng cho Tâm Bồ Đề dũng kiện.
Lại có thuyết cho rằng Ca Lâu La là Hóa Thân của Phạm Thiên (Brahma), Tỳ
Nữu Thiên (Viṣṇu), Đại Tự Tại Thiên (Maheśvara hay Śiva). Hoặc nói là Hóa Thân
của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī) 554
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala), tại phương Nam
của Ngoại Kim Cương Bộ Viện có xếp bày vị trí của Ca Lâu La và các quyến thuộc
Tôn Hình: Thân người đầu chim có hai cánh chim sau lưng, màu vàng ròng, hai
tay cầm nắm các con Rồng.
Chữ chủng tử là: GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Nhạc khí (ống sáo).
Tướng Ấn là: Ca Lâu La Ấn, lại gọi là Kim Xí Điểu Vương Ấn. Hai ngón cái
giao quấn nhau, giương mở hai bàn tay như thế xoải cánh, kết hình của Kim Xí Điểu,
động ba lần như dạng bay.
Chân Ngôn là:
㫘 ᝦᛈ 㛿
OṂ_ KṢIPA SVĀHĀ
Hay 㫘 ᛈ㗴 㛿
OṂ_ PAKṢA SVĀHĀ
555
.)Ca Lâu La Nam (Garuḍa):
Tôn Hình: Thân màu vàng ròng, thân người đầu chim, trương cánh, thổi sáo
(hình bên trái)
Chữ chủng tử là: GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Nhạc khí (ống sáo).
Tướng Ấn là: Ca Lâu La Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᝦᛈ 㛿
OṂ_ KṢIPA SVĀHĀ
Hay 㫘 ᛈ㗴 㛿
OṂ_ PAKṢA SVĀHĀ
556
.)Ca Lâu La Nữ (Garuḍī):
Tôn Hình: Thân màu vàng ròng, thân người đầu chim, trương cánh, cầm vỏ ốc
(Pháp Loa) nhìn ngó thổi loa (hình bên phải)
Chữ chủng tử là: GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Nhạc khí (Pháp Loa Bối:vỏ sò).
Tướng Ấn là: Ca Lâu La Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ᝦᛈ 㛿
OṂ_ KṢIPA SVĀHĀ
Hay 㫘 ᛈ㗴 㛿
OṂ_ PAKṢA SVĀHĀ
_Kinh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Đại Giáo Vương, Phẩm Kim Sí Điểu Vương
ghi chép là:
Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật lại quán cung Trời Tịnh Cư rồi bảo Văn Thù
Sư Lợi Đồng Chân Bồ Tát rằng: “Văn Thù Sư Lợi ! Ở trong Đại Giáo của ông là điều
mà tất cả Như Lai đã khen ngợi tùy vui, thuận Đại Chân Ngôn Hạnh, khiến cho tất cả
hữu tình nhập vào Tam Muội Gia Đàn, học thông năm loại Địa, Thủy, Hỏa, Phong,
Không. Do biết điều này cho nên thông đạt ngôn ngữ của tất cả hữu tình, cảnh giới
chẳng thể nghĩ bàn, thành được Kim Sí Điểu Vương Chân Ngôn Hạnh, dùng thần
thông ngộ phương tiện thông đạt này mà đều được thành tựu tất cả Pháp của Thế Gian
và Xuất Thế Gian, cho đến thảy đều thông đạt tất cả Pháp của thân Bàng Sinh với các
Kim Sí Điểu Vương”
Lúc đó ở trong Bồ Tát Đại Chúng, Kim Sí Điểu Vương cùng với vô lượng Kim Sí
Điểu vây quanh, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến trước mặt Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát, 557
cúi đầu mặt lễ bàn chân, quỳ dài chắp tay rồi bạch với Văn Thù Sư Lợi rằng:”Tôi trụ ở
địa vị Bồ Tát, đối với Giáo Vương này, vì lợi ích an vui cho các hữu tình cho nên nói
một trăm loại Pháp thời quá khứ. Nguyện xin Đại Bồ Tát tùy vui hứa cho nói”
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói: “Vì lợi ích của hữu tình nên nay ông hãy nói”
Thời Kim Sí Điểu Vương dùng sức uy thần của Đức Phật, từ chỗ ngồi đứng dậy,
vui mừng hớn hở.
Văn Thù Sư Lợi nói:’Ông nên tuyên nói một trăm loại Pháp thời quá khứ kèm với
Pháp Yếu sâu xa bí mật ấy”
Bấy giờ Kim Sí Điểu Vương liền nói Chân Ngôn là:
Nẵng mạc tam mãn đa một đà nam (1) A bát-la để (2) hạ đa (3) xả tát na
nam (4) đát nễ dã-tha (5) Án xả cú na (6) ma hạ xả cú na (7) vĩ đán đa (8) bả khất-
xoa (9) tát phộc bả nẵng (10) nga na ca (11) khư khư, khư hứ khư hứ (12) tam ma
dã (13) ma nô tát-ma la (14) hồng, để sắt-xá (15) mạo địa tát đát-vũ (16) chỉ-
nương bả dã để (17) sa-phộc hạ (18)
㗍ᜃ ᝌ㈦ⴼ ᜬ㪤 ㅥ㛺ᚎ㗮ᚌ デᝌᚽ㪤
ᚌᠼᚙ 㫘 デᗜ㗍 ㈦デᗜ㗍 ᜪᚖᚌᛈᝤ ᝌↄ ᛈ㗍ᗰ㗍㒕 カカ カカ
ᝌ㈦ㆎ ㈦ᛀỘ 㜪 ᚎ㌌ 㐅ᚲᝌᲸ ᛈㆎᚎ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ APRATIHATA-ŚASANĀNĀṂ
TADYATHĀ: OṂ _ ŚAKUNA MAHĀŚAKUNA VITAṂTA-PAKṢA _ SARVA
PANAGANAKA KHAKHA KHAHI KHAHI SAMAYAM-ANUSMARA HŪṂ
TIṢṬA BODHISATVO JÑĀPAYATI SVĀHĀ
Khi Kim Sí Điểu Vương nói Chân Ngôn xong.
Tiếp sẽ nói một trăm loại Pháp thời quá khứ: Triệu Rồng, sai khiến Rồng, bắt
Rồng. Hoặc có người bị Rồng cắn với người chẳng bị cắn đều khiến cho Thần sáng tỏ,
nói tất cả việc quá khứ, vị lai. Triệu rắn, đánh phạt rắn lấy chất độc, bắt diễn tuồng mà
chẳng bị trúng độc, triệu tất cả độc, hoặc vừa xứng ý niệm, hoặc ý tác Pháp…
Người trì tụng thọ Trai Giới, nhịn ăn ba ngày, hoặc nhịn ăn 12 ngày. Ở bên cạnh
bờ sông dùng phấn ngũ sắc xây dựng Mạn Trà La (Đàn) rộng sáu khuỷu tay, vẽ tám
đóa hoa sen tám cánh, chính giữa vẽ Đức Phật với tướng Thuyết Pháp, bên phải Đức
Phật dùng phấn vẽ Đại Thánh Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát với tướng chắp tay chiêm
ngưỡng Đức Phật, bên trái Đức Phật vẽ Na La Diên Thiên với bốn tay cầm bốn loại
khí trượng tiêu biểu, gần Na Na Diên vẽ Kim Sí Điểu Vương với hình khủng bố rất
đáng sợ, gần Kim Xí Điểu Vương vẽ A Lô Nõa Thiên, ở phía sau Đại Thánh Văn Thù
vẽ Vô Tuệ Bồ Tát với Thiện Tài Đồng Tử, Tu Bồ Đề chắp tay an trụ. Như vậy gọi là
Trung Đàn
Tiếp Ngoại Viện ở phía Đông của Đàn, dùng tro màu trắng vẽ chày Kim Cương,
bên trái (phía Nam) dùng bụi than vẽ cây kiếm, bên phía Bắc dùng màu vàng vẽ cây
gậy, bên phía Tây dùng màu đỏ vẽ sợi dây. Như vậy Ngoại Viện an trí Mạn Trà La
Vẽ xong, bốn bên nên dùng ba loại thức ăn có vị ngọt để cúng dường.
Ở trên Đàn ấy, rải mọi thứ hoa với mọi thứ hương xoa bôi, hương bột và để Át
Già, Hiền Bình chứa đầy nước thơm, đốt An Tất Hương, tụng Căn Bản Chân Ngôn
thỉnh tất cả Thánh Chúng. Đối trước Đàn này nên làm cái lò Hộ Ma, dùng than không
có khói nhóm lửa, đem gỗ Khư Đà La ném vào. Đối với tất cả hữu tình khởi Tâm Đại
Từ, làm tòa Rồng để ngồi. Dùng cây Xà Thích tẩm ba vị ngọt (Lạc, Mật, Bơ) rồi ném
vào trong lò 1008 biến, liền thành tựu tướng thấy, tức có chúng rắn đi đến. Liền hiến
Át Già, nên biết thành tựu Pháp Chân Ngôn. Nên tụng Chân Ngôn, tác lời Nguyện
là:”Nguyen cho Pháp Chân Ngôn được Tất Địa”. Liền tụng Căn Bản Chân Ngôn phát
khiển. Dùng nước Át Già, tùy tụng Chân Ngôn, trước tiên rưới lên hết thảy thức ăn 558
uống, hương hoa cúng dường rồi ném vào trong nước sông. Từ đây về sau, mọi việc
làm: Câu Triệu, cấm chỉ tất cả loài độc, tùy tụng thành tựu”.
_Trong Pháp Tu của Mật Giáo, dùng Ca Lâu La Vương (Garuḍa-rāja) làm Bản
Tôn, là Bí Pháp Tu để trừ bệnh hoạn, ngừng dứt mưa gió, tránh sấm sét dữ….
Y theo Ca Lâu La và Chư Thiên Mật Ngôn Kinh ghi chép: Phàm trì Pháp Môn
này thì trên Trời dưới Trời đều chẳng thể vượt qua.. không chỉ mọi người, oán địch và
Quỷ Thần chẳng dám gần, lại là bậc Tối Thắng trong các Pháp thành tựu Tất Địa.
Căn cứ trong Giác Thiền Sao Ca Lâu La Pháp Chư Quỹ ghi chép: Tu Pháp
này có thể được lợi ích ở thời Mạt Pháp, nhanh chóng linh nghiệm, được Công Đức
của tất cả Bảo Điểu Vương Tâm Thành Bảo Châu, Hành Nhân được báu ở cung
Rồng, được Cam Lộ ở trên Trời, được Tài Bảo, giáng mưa tuyết, Long Vương đến, trừ
nạn rắn cắn, dẹp tan quân trận, điều phục oan gia, Pháp kính yêu (kính ái pháp), trừ
bệnh, kêu gọi người ở xa, triệu các loài Cá….
.)Bạch Bảo Khẩu Sao, quyển 150, Pháp Kim Sí Điểu nói, nếu muốn tu Pháp
Tăng Ích của Ca Lâu La, nên như Pháp sau đây đã nói: “A Vĩ Xa Pháp nói rằng: xoa
lên một cái đàn nhỏ, đặt Hương Hoa, thức ăn uống, tụng Chân Ngôn 108 biến, thì hiện
thân, ắt nói lấy thuốc sống lâu, viên ngọc báu Như Ý trong cung Rồng.
Phẩm Điểu Vương nói rằng: “Cánh chim công làm Hộ Ma thì đầy đủ Tài Bảo.
Lại nói, nếu cầu vàng nên đốt lông cánh của con chim”.
559
THƯỜNG CẦU LỢI ĐỒNG NỮ
Thường Cầu Lợi Đồng Nữ, tên Phạn là Jaṅguli, dịch âm là Thường Cù Lợi,
Nhương Ngu Lê, Nhương Ngu Lý Duệ. Dịch nghĩa là kiến thức về chất độc. Lại xưng
là Thường Cù Lợi Độc Nữ, Nhương Ngu Lợi Đồng Nữ, Thường Cù Lợi Đồng Tử.
Tôn này là một Nữ Thần của Phật Giáo cổ đại, được xem là một Hóa Thân
(Nirmāṇa-kāya) của Bồ Tát Quán Tự Tại (Avalokiteśvara) hay trừ khử, nhiếp hóa loài
trùng độc và được xếp vào Thiên Bộ. Bộ tộc Shaman trong các khu vực Bắc Ấn Độ và
Nepal rất sùng kính Tôn này và xem Ngài là một biểu tượng để loại bỏ các chất độc từ
người bị rắn cắn. Người dân Bengal cổ đại rất tôn phụng Nữ Thần Rắn Manasa và còn
xưng gọi Nữ Thần này là Jaṅguli, Viṣahari, Padmavati
Biểu tượng chính của Thường Cầu Lợi Đồng Nữ là lông đuôi chim công (hoặc
hoa sen xanh) và con rắn mang ý nghĩa nhiếp hóa các loại độc đem lại sự tốt lành.
_Kinh Độc Nữ nói là: “Thường Cù Lợi tuy hiện thân người nữ nhưng thật chẳng
phải là nữ. Này Thiện Nam Tử! Chư Phật Bồ Tát có Trí Tuệ Thần Thông hay vì chúng
sinh hiện mọi loại thân nhiếp hóa các chất độc”
_Kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Hóa Thân Nhương Ngu Lợi Đồng Nữ Tiêu Phục
Độc Hại Đà La Ni ghi chép rằng:
Bấy giờ Đức Như Lai bảo với Đại Chúng: “Ta nhớ về thời xa xưa khi trụ ở núi
Tuyết, Ta di dạo về phương Bắc đến núi Hương Túy thì gặp một Đồng Nữ (Kamārī)
có trăm Phước Tướng tốt đẹp trang nghiêm thân, khoác áo da hươu, dùng rắn độc làm
Lưu Ly, cùng các trùng độc, cọp, sói, sư tử trước sau vây quanh thường làm bạn lữ,
uống nước quả độc, ăn Thảo Quả độc. Đồng Nữ ấy thấy Ta thì nói rằng: “Nhân Giả !
Tôi tuyên nói một Đại Chân Ngôn hay trừ tất cả các độc của Thế Gian. Nếu có người
nghe Chú này và niệm tên của tôi thì chẳng bị tất cả các độc làm hại”
560
HÌNH TƯỢNG CỦA THƯỜNG CẦU LỢI ĐỒNG NỮ
_Thành Tựu Pháp nói là: “Thân màu xanh lục, dạng như Long Vương có đủ 7
cái đầu, đỉnh đầu có hào quang tròn, nên tưởng bốn tay. Bên phải: tay thứ nhất cầm
Tam Cổ Xoa, tay thứ hai cầm 5 sợi lông đuôi của chim công. Bên trái:tay thứ nhất cầm
con rắn đen, tay thứ hai tác Thí Vô Úy”
561
_Tạng Truyền Phật Giáo đôi khi ghi nhận Thường Cầu Lợi Đồng Nữ như là một
Tārā và xưng gọi là Jaṅguli-tārā:
.)Thân màu xanh có 4 cánh tay, lõa thể nửa thân trên, đầu đội mão có 7 con rắn,
ngồi trên tòa sen. Bên phải: tay thứ nhất cầm Tam Kích Xoa, tay thứ hai cầm con rắn
độc. Bên trái: tay thứ nhất cầm lông đuôi chim công, tay thứ hai tác Thì Vô Úy
562
.) Tôn hình màu trắng có một mặt 4 tay, hai tay chính đang đánh đàn lute, tay
phải thứ hai cầm con rắn trắng, tay trái thứ hai tác Thí Vô Úy
.)Tôn hình màu vàng có ba mặt, mặt chính giữa màu vàng, mặt bên phải màu
xanh, mặt bên trái màu trắng hồng. Đầu đội mão có 7 con rắn. Thân có 6 cánh tay, bên
phải: Tay thứ nhất cầm cây kiếm, tay thứ hai cầm chày Kim Cương Tam Cổ, tay thứ ba
cầm mũi tên. Bên trái: tay thứ nhất cầm hoa sen xanh, tay thứ hai cầm sợi dây, tay thứ
ba cầm cây cung (hai tay thứ ba làm thế giương cung bắn tên)
563
THƯỜNG CẦU LỢI ĐỒNG NỮ ĐÀ LA NI
_Phật Thuyết Nhương Ngu Lợi Đồng Nữ Kinh ghi chép rằng:
Khi ấy Đồng Nữ vì Ta diễn nói. Ta nghe Đồng Nữ ấy nói xong, thường trì Pháp
này nhiêu ích Hữu Tình. Nay Ta sẽ nói Chân Ngôn là:
1_ Đát nễ-dã tha: Án, nhất lý, mật lý đế
2_ Để lý mật đế
3_ Nhất lý , để lý, mật đế
4_ Nỗ mê, nỗ ma lý duệ
5_ Nột tỳ nột sai lý duệ
6_ Đắc yết la ni
7_ Phộc yết la ni
8_ Yết thấp-nhĩ lệ
9_ Yết thấp-nhĩ la mạo khất-đế
10_ Ác kỳ
11_ Ác già ninh
12_ Ác già nẵng già ninh
13_ Nhất lý duệ
14_ Nhất lý, nhất lý duệ
15_ A khư dạ duệ
16_ Thuỷ bá dạ duệ
17_ Thấp-phệ đế
18_ Thấp-phệ đa đốn nãi 564
19_ A nẵng nỗ, la khất-sái, sa phộc ha
TADYATHĀ: IRI MITE, TIRI MITE, IRI TIRI MITE, NU ME, NU
MĀRĪYE, DŪŚI DUŚCĀRĪYE, TAK-KARAṆI, VAK-KARAṆI, KAŚMILE
KAŚMILA MUKTE, AGHE AGAṆE , AGAṆA GAṆE, IRĪYE IRĪ IRĪYE, Ā-
KĀYĀYE UPĀYĀYE, ŚVETE ŚVETA TUṆḌE, ANANU RAKṢE SVĀHĀ
Đức Phật bảo: “Này các Bật Sô ! Nếu có người chỉ một lần nghe qua Đà La Ni
này thì 7 năm sau đó sẽ mau lìa tất cả các độc.
Nếu thường thọ trì thì tất cả trùng độc với các thuốc độc đều chẳng thể gây hại.
Nếu có rắn độc đến cắn người này thì đầu của nó bị bể thành bảy mảnh giống như Lan
Hương Sao.
Nếu có thọ trì Chân Ngôn Pháp này thì nên dùng vật màu trắng. Trước tiên cúng
dường Thầy, sau đó thọ trì ắt được thành tựu.
Bật Sô nên biết. Đừng ở trước loài rắn mà xưng tụng Minh này vì rắn đó sẽ bị
chết. Nên biết dùng Chân Ngôn này gia trì vào con rắn chết thì nó sẽ được sống lại.
Chân Ngôn là:
1_ Đát nễ-dã tha
2_ Án, nhất la
3_ Vĩ la
4_ Chước cú, phộc cú
5_ Cú noa, cú nãi để
6_ Báo noa, báo nãi để, nãnh củ lỗ noa
7_ Nãnh củ lỗ nãi để
8_ Phổ tra la hề
9_ Phổ tra noản noa la hề
10_ La bả la hề
11_ Tát bả tra noản noa la hề
12_ Nẵng nga la hề
13_ Nẵng nga tra noản noa la hề
14_ A tỳ sai lễ
15_ Nại la ni sái
16_ Thức đế thức đa phộc ninh
17_ Mãn đá lê
18_ Y lý lê
19_ Hạ lê hạ lê
20_ Đản nãi đản nãi
21_ Đát tai
22_ Sa-phổ tra, sa-phổ tra, sa-phộc hạ
TADYATHĀ: OṂ_ ILĀ VELLĀ, CAKO VAKO, KOḌA KOḌĪTI, PHAṆA
PHAṆĪTI, NIKROḌA NIKROḌĪTI, PHUṬA RAHĪ, PHUṬA DAṆḌĀ RAHĪ,
SARPA RAHĪ, SARPA ṬAL DAṆḌA RAHĪ, ACCHEDALE, KṢALA VIṢE
ŚITE ŚITA VANE, VĀNTĀLE, IRILE HARILE, HARE HARE, MILI MILI,
HALALE, TAḌE TAḌE, TAṬE TAṬE, SPHUṬA SPHUṬA SVĀHĀ
Khi Đức Thế Tôn nói Đà La Ni này xong lại bảo các Bật Sô: “Chân Ngôn này của
Ta hay giải tất cả các độc của Thế Gian. Mỵ độc, trùng độc, thuốc độc… chẳng thể gây
hại Nếu có người bị trúng độc, dùng Chân Ngôn này gia trì đều được tiêu trừ.
Này các Bật Sô ! Nhương Ngu Lê Đà La Ni (Jaṅguli kumārī-dhāraṇī) này đã nói
ở trong Đại Hội của tất cả Như Lai là chân thật chẳng hư chẳng điên đảo. Là Như Ngữ,
Bất Dị Ngữ. Thuốc độc, Chú độc, trùng độc, Mỵ độc muốn đến gây hại thì hay khiến 565
cho chúng quay về chỗ cũ. Sai khiến các độc vào nước, vào lửa, vào cột trụ, vào vách
tường, cũng khiến vào đất. Hết thảy các độc khiến chẳng thành độc, đều hay trừ diệt.
Nếu người thọ trì Chân Ngôn này, một ngày tụng một biến . Chẳng những chỉ diệt
các độc của Thế Gian mà còn trừ diệt được ba Độc (Tham, Sân, Si) trong thân.
Lúc ấy Đức Như Lai lại nói Nhương Ngu Lê Đồng Nữ Tùy Tâm Chân Ngôn
với Pháp Thành Tựu. Người tu hành muốn thành tựu Pháp này. Trước hết đoạn ngũ tân
(Hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ) cũng chẳng an muối, chẳng ăn dầu, đoạn ngữ (Ngưng nói
năng) ở nơi thanh tịnh, ba thời tắm gội, ba thời thay áo, kết Ấn tụng Tùy Tâm Chân
Ngôn mãn một vạn biến ắt hành Pháp thành tựu. Lại làm tất cả việc ắt được thành tựu.
Tùy Tâm Chân Ngôn là:
1_ Án, a tỷ nễ hạ phệ
2_ Thú la nễ hạ-phệ
3_ Phộc-nhật la ca duệ
4_ Cật-la sa, cật-la sa
5_ Nhập-phộc la, nhập-phộc la
6_ Ma hạ ca lý
7_ Ma hạ dụ kỳ
8_ Thấp-phộc lý duệ
9_ Án, phả tai
10_ Phổ tra la hề, sa-phộc hạ
11_ Hồng, phát tra, sa-phộc hạ
OṂ _ ASI JIHVE, ŚŪLA JIHVE, VAJRA-KĀYE, GRĀSA GRĀSA, JVALA
JVALA, MAHĀ-KĀRĪ, MAHĀ-YOGEŚVARĪYE
OṂ _ PHAṬAI PHUṬA RAHĪ SVĀHĀ
HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
……………………….
Lại có Pháp. Ở trước mặt người bị chích đốt, kết Căn Bản Ấn, tụng Nhất Tự Chân
Ngôn chữ Hồng (ゖ: HŪṂ) hoặc Nhất Tự Chân Ngôn Chữ Bộc (㬋_BHŪḤ) gia trì
cũng hay trừ độc
Nếu người thường trì Nhương Ngu Lê Pháp này sẽ hay diệt tất cả các độc trong
Thế Gian, mọi sự mong cầu không có gì không vừa lòng.
566
RỒNG
Rồng, tiếng Phạn Nāga (dịch âm là Na Già, Nẵng Nga) là dạng Thần Cách Hóa
của loài rắn (Sarpa). Trong Thần Thoại Ấn Độ thì Rồng là loại Bán Thần mặt người
đuôi rắn, có một ngàn chủng tộc do vợ của Ca Diệp Ba (Kāśyapa) là Ca Đầu (Kadru)
sinh ra, sống ở dưới đất, hoặc sống trong cung Rồng (Pātāla) dưới mặt đất.
Loài Rồng được được xem là có quyền năng thần kỳ và sức mạnh vĩ đại. Thông
thường chúng bị lầm lẫn với loài rắn, chủ yếu là rắn hổ mang, thân của chúng được mô
tả giống như rắn, và chúng có thể hiện thành thân người nếu muốn. Rồng được chia
thành 2 nhóm: nhóm sống trên đất (Dharaja) và nhóm sống dưới nước (jalaja). Nhóm
Jalaja-Nāga sống trong sông ngòi và biển cả, trong khi đó nhóm Dharaja-Nāga được
cho là sống trên đất liền.
Theo truyện kể của Ấn Độ thì Rồng đực và Rồng cái có thể giao phối với con
người, nhưng giòng giống loại này rất thưa thớt và mong manh. Rồng rất dễ nổi giận
và đam mê, hơi thở của chúng mang chất độc, ánh mắt của chúng gây ra sự chết chóc.
Chúng là loài ăn thịt và thức ăn chủ yếu là ếch nhái. Loài Rồng nhảy múa khi nghe
nhạc, nhưng chúng không nhảy múa khi có Garuḍa (vì sợ loài chim cánh vàng này bắt
lấy, ăn thịt) và khi có con người (vì xấu hổ). Truyền thuyết cho rằng viên ngọc Rồng
(Long Châu) ngoài vẻ đẹp ra còn có năng lực ban cho các điều ước muốn, nếu những
ai có được nó. Khi ở Thế Giới của con người thì loài Rồng ngủ dưới chân Đồi Kiến.
Người Ấn Độ thường tôn sùng, thờ cúng 9 vị Long Thần là: Ananta, Vāṣuki,
Śeṣa, Padmanābha, Śaṅkhapāla, Dhṛta-rāṣṭra, Takṣaka, Kālika
Nghi lễ Ấn Độ giáo để cúng Rồng có tên gọi Nāga-Panchami. Vào ngày cúng bái
thì phụ nữ có gia đình và thiếu nữ dậy sớm, gội đầu, sửa soạn vật cúng tế. Họ dâng lễ
vật: sữa, cơm gạo, cá, thịt, rượu mạnh…đến Đồi Kiến và cầu nguyện Rắn chúa ban
phước cho con cái, anh chị em và gia đình. Nếu không có Đồi Kiến ở gần thì họ dâng
sữa và lễ vật lên các tôn tượng của rắn.
Thần Chú (Mantra) thường dùng để cúng bái 9 vị Long Thần này là:
Namaste deva deveśa
Namaste dhāraṇī-dhāra
Namaste sarva nāgendra
Namaste puruṣottama
Anantaṃ vāṣukiṃ śeṣaṃ padmanābhaṃ ca kambalaṃ śaṅkhapālaṃ dhṛta-
rāṣṭraṃ takṣakaṃ kāliyaṃ tathā
Etāni nava nāmani nāgānāṃ ca mahātmanaṃ prataḥ kāle pathe nityaṃ
sāyaṃ kāle viśeṣataha tasya viṣa bhayaṃ nāsti sarvata vijayi bhaveta
Thần Chú (Mantra) thường dùng để thỉnh triệu các vị Long Thần là:
Āgaccha Ananta deveśa tejorāśi jagat-pateḥ imāṃ mayā krutā pūjā
gruhana pannageśvara
Āvāha-yāmi sarpeśa dvi-bhujaṃ pīta vāsasaṃ vīṇa panchaka
samyuktaṃ sarvābharaṇa bhūṣitaṃ
Oṃ Vāṣuki āvāha-yāmi
Oṃ Takṣaka āvāha-yāmi
Oṃ Airāvata āvāha-yāmi
Oṃ Dhananjaya āvāha-yāmi
Oṃ Karkoṭaka āvāha-yāmi
Oṃ Yātudhāna āvāha-yāmi 567
Oṃ Mahā-nāga āvāha-yāmi
Oṃ Kālika āvāha-yāmi
Oṃ Ananta āvāha-yāmi
Ngoài ra còn có Thần Chú của tám vị Rồng cái là:
Oṃ pūḥ Ananta-mukhī svāhā
Oṃ pūḥ Karkoda-mukhī svāhā
Oṃ pūḥ Padminī (?padmavati) svāhā
Oṃ Kāla-jīhva pūḥ svāhā
Oṃ Mahā-padminī svāhā
Oṃ Vāṣukī-mukhī svāhā
Oṃ Huṃ huṃ Purvabhūpa-mukhī svāhā
Oṃ Śaṅkhani-vāyu-mukhī huṃ huṃ
Thần Chú căn bản của các vị Long Thần là:
Oṃ namo bhagavate Kāmarūpiṇe mahā-balāya nāgādhipataye svāhā
Xưa nay Ấn Độ có chủng tộc xưng là Na Già. Chủng tộc ấy có nhiều giòng giống
khác nhau, chẳng phải là giống người Nhã lợi An, hiện nay di tản đến cư ngụ tại địa
phương A Tát Mật (Assam) phía Đông Bắc Ấn Độ với vùng đất phía Tây Bắc Bộ của
Miến Điện, sùng bái Rồng Rắn. Lại có tên gọi là Long Thành (Nāgapura), nay vẫn
còn sống ở các vùng đất có liên quan đến việc Long Vương giáo hóa xa xưa. Hoặc Ý
nói về chủng tộc Na Già quy y Phật Giáo.
Đôi khi từ Nāga thường được dùng như một hình dung từ về Đức Phật và A La
Hán.
Như thế trong các trường hợp ghi nhận về Nāga, có rất nhiều sự lẫn lộn giữa các
loại Nāga: loài vật siêu nhiên, loài rắn, và tên của bộ tộc Aryan. Tuy nhiên sự lẫn lộn
này khó có thể làm sáng tỏ. 568
_ Theo Phật Giáo thì Rồng (Nāga) là một trong tám Bộ Chúng. Vị đứng đầu
trong loài Rồng thì xưng là Long Vương (Nāga-rāja), hoặc Long Thần (Nāga-devatā),
Long Chủ (Nāga-pati, hoặc Nāgādhipati), Long Đế (Nāgendra)
Thông thường nói Rồng là loài Quỷ có hình con rắn, sống ở trong nước (hoặc nói
Rồng thuộc loài súc sinh), có đủ thần lực kêu mưa gọi gió, cũng là loài thủ hộ Phật
Pháp.
Kinh Điển Phật Giáo ghi nhận việc liên quan đến loài Rồng rất nhiều và có vẽ
mọi loại hình tượng của Long Vương.
_ Phẩm Súc Sinh trong Kinh Chính Pháp Niệm Xứ, quyển 18 ghi nhận rằng:
Long Vương được nhiếp vào loài súc sinh, là quả báo của người ngu si giận dữ. Chỗ ở
của Long Vương gọi là Hý Lạc Thành, chia làm hai loại là Pháp Hành Long Vương
và Phi Pháp Hành Long Vương
.) Pháp Hành Long Vương: có bảy đầu như các vị Long Vương của nhóm
Tượng Diện (Hastin-mukha), Bà Tu Cát (Vāṣuki), Đắc Xoa Xa (Takṣaka), Bạt Đà
La (Bhadra)….là loài ít có Tâm giận dữ, nghĩ nhớ Phước Đức, tùy thuận theo Pháp
Hành cho nên chẳng bị khổ bởi cát nóng, dùng Tâm tốt lành, y theo Thời tuôn mưa
khiến cho năm loại lúa đậu của Thế Gian được tươi tốt.
.) Phi Pháp Hành Long Vương: có Long Vương của nhóm Ba La Ma Thê, Tỳ
Mưu Lâm Bà, Ca La (Kālika) chẳng thuận theo pháp Hành, thực hành Pháp chẳng
tốt lành, chẳng kính trọng Sa Môn với Bà La Môn, thường bị khổ bởi cát nóng, dùng
Tâm ác dấy lên mây mưa ác khiến cho tất cả năm loại lúa đậu đều bị hư hại.
_ Kinh Tăng Hộ ghi nhận: Hải Long Vương biến làm hình người để xuất gia tu
hành, nhưng trong lúc ngủ thì chẳng thể ẩn hình mà hiện lại thân Rồng. Cho nên Đức
Phật vì điều này mà nói Rồng vào lúc mới sinh ra, lúc chết, lúc giao cấu, lúc giận dữ,
lúc ngủ say thời đều là hình gốc, chẳng thể hóa làm thân của loài khác
_ Phẩm Diêm Phù Đề Châu trong Kinh Trường A Hàm, quyển 19 nói rằng:
Long Vương ở Diêm Phù Đề (trừ A Nậu Đạt Trì Long Vương ra) có ba tai vạ:
1_ Các Rồng đều bị gió nóng, cát nóng bám dính thân, nhận chịu sự khổ não thiêu
đốt da thịt xương tủy
2_ Trong các Long Cung, gió ác thổi mạnh thời các Rồng bị mất quần áo, vật
trang sức bảy báu, tự hiện thân Rồng chịu khổ não
3_ Khi các Rồng ở trong Long Cung cùng vui hoan lạc thời chim cánh vàng lớn
nhỏ bay vào cung chụp bắt ăn thịt, các Rồng rất sợ thường ôm nhiệt não.
_ Phẩm Long Điểu trong Kinh Trường A Hàm, quyển 19 ghi rằng: Rồng có bốn
loại là: Rồng sinh từ trứng (Aṇḍaja-yoni: noãn sinh), Rồng sinh từ bào thai (jarāyujā-
yoni: thai sinh), Rồng sinh từ hơi ẩm thấp của đất ẩm ướt (Saṃsvedajā-yoni: thấp
sinh), Rồng sinh từ sự biến hóa (upapādukā-yoni: hóa sinh) bị bốn loại Kim Sí Điểu
(Garuḍa) sinh ra theo bốn cách: trứng, bào thai, hơi ẩm thấp, biến hóa…ăn nuốt.
_ Kinh A Sá Năng Chi và Phật Thuyết Tỳ Sa Môn Thiên Vương Kinh ghi
nhận rằng: Thế giới ở phương Tây có vị chủ loài Rồng lớn (Mahā-nāgādhiphati: Đại
Long Chủ) tên là Vĩ Lỗ Bạc Xoa (Virūpākṣa: Quảng Mục Thiên Vương, hay Quảng
Mục Long Vương). Ngài có đại uy đức, tỏa ánh sáng chiếu xa, thống lãnh quyến thuộc
là chúng Rồng lớn (Mahā-nāga: Đại Long) tôn kính vây quanh, ca múa, hát xướng, thọ
nhận khoái lạc. 569
_ Hệ thống Mật Giáo ghi nhận: loài Rồng thuộc hàng Thủy Thiên (Varuṇa-deva),
chủ của sông nước, là hàng Thần thủ hộ ở phương Tây. Tôn tượng được phụng thờ là
thân người, trên đầu có 7 đầu Rồng. Thủy Thiên Phi hiện thân người, trên đầu có 9
đầu Rồng. Quyến thuộc của Thủy Thiên hiện thân người, trên đầu có 8 đầu Rồng
_ Kinh Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương, quyển Thượng ghi rằng:
Long Vương hoặc đi trên mặt đất, hoặc thường ở trong hư không, hoặc luôn y theo núi
Diệu Cao (Sumeru: Núi Tu Di), hoặc trụ ở trong nước…Hoặc Long Vương có một
đầu, hai đầu cho đến nhiều đầu. Hoặc Long Vương không có chân, hoặc có hai chân,
bốn chân cho đến nhiều chân.
_ Phiên Dịch Danh Nghĩa Tập, quyển 2 ghi rằng: “Rồng có bốn loại
1_ Rồng giữ cung điện cõi Trời khiến cho chẳng bị rơi xuống. Trên nóc nhà của
nhân gian thường làm tượng Rồng như thế
2_ Rồng kéo mây tuôn mưa, lợi ích cho nhân gian
3_ Địa Long (Rồng đất) khơi sông mở ngòi
4_ Rồng canh giữ kho tàng, giữ gìn kho tàng của Chuyển Luân Vương, người có
Phước lớn”.
Lại nói rằng: “Có bốn nhân duyên rơi vào trong loài Rồng:
1_ Bố thí nhiều
2_ Hay giận dữ
3_ Khinh mạn người khác
4_ Tự kiêu ngạo”
_ Phẩm Thụ Quyết thứ chín trong Kinh Hải Long Vương, quyển 2 ghi rằng:
Lúc đó Hải Long Vương bạch Phật rằng: “Con từ Kiếp Sơ (Kalpāgra) trụ dừng ở
biển lớn, từ khi Đức Như Lai Câu Lâu Tần ra đời đến nay thì trong biển lớn: vợ con,
quyến thuộc của các vị Rồng có rất ít. Nay vợ con, quyến thuộc, con cháu dòng dõi của
chúng Rồng biển (hải long) rất nhiều. Giả sử muốn tính đếm cũng chẳng thể cùng tận.
Bạch Đức Thế Tôn! Như điều này, vì sao có sự biến đổi lạ lùng như thế?”
Đức Phật bảo Long Vương: “Kẻ ấy đối với Phật Pháp, xuất gia, phụng Luật, thực
hành Giới, chẳng đủ hiện Giới Thành Tựu, trái ngược với Giới, vi phạm Hạnh, chẳng
buông bỏ Trực Kiến chẳng rơi vào Địa Ngục. Như loại này, sau khi chết đều sinh
trong loài Rồng”
Đức Phật bảo Long Vương: “Thời Phật Câu Lâu Tần có 98 ức người tại gia (cư
gia) xuất gia, trái ngược với Cấm Giới đều sanh vào trong loài Rồng. Thời Phật Câu
Na Hàm Mâu Ni có 80 ức người tại gia (cư gia) xuất gia, huỷ Giới, buông thả Tâm, sau
khi hết thọ mạng đều sinh vào trong loài Rồng.
Thời Phật Ca Diệp có 64 ức người tại gia (cư gia) xuất gia, phạm Giới đều sanh
vào trong loài Rồng. Ở trong thời của Ta, có 990 ức người tại gia (cư gia) xuất gia, vì
có nhiều sự đấu tranh, gom tập rất nhiều Hạnh chê bai Kinh Giới… sau khi chết đều
vào trong loài Rồng, cho nên nay mới có sự sinh sôi như thế”
Đức Phật bảo Long Vương: “ Do điều đấy, cho nên ở trong biển lớn: chẳng thể
tính đếm được vợ con quyến thuộc của các vị Rồng. Sau khi Ta vào Niết Bàn (Bát Niết
Bàn), có rất nhiều Tỳ Kheo ác, Ưu Bà Tắc ác, trái ngược, đánh mất Cấm Giới sẽ sinh
vào trong loài Rồng hoặc bị rơi vào Địa Ngục”.
570
_ Phẩm Tựa trong Kinh Pháp Hoa, quyển 1 nêu ra tám vị Đại Long Vương thủ
hộ Phật Pháp là:
1. Nan Đà Long Vương (Nanda), dịch ý là Hoan Hỷ Long Vương, chính là vị
đứng đầu (Thượng Thủ) của Hộ Pháp Long Thần.
2. Ô Ba Nan Đà Long Vương (Upananda), dịch ý là Hiền Hỷ Long Vương, lại
xưng là Ưu Ba Nan Đà Long Vương, cùng với Nan Đà Long Vương là anh em.
3. Bà Già La Long Vương (Sāgara), dịch ý là Hải Long Vương, lại xưng là Sa
Kiệt La Long Vương, là Bản Tôn của Pháp cầu mưa từ xưa đến nay cũng là một trong
28 Bộ Chúng của Quán Âm.
4. Hòa Tu Cát Long Vương (Vāṣuki), dịch ý là Bảo Hữu Long Vương, Bảo
Xưng Long Vương, Đa Đầu Long Vương, Cửu Đầu Long Vương, lại xưng là Bà Tu
Thụ Long Vương, Phiệt Tô Chỉ Long Vương. Hay quấn quanh núi Diệu Cao (Sumeru:
núi Tu Di)và dùng con Rồng nhỏ làm thức ăn.
5. Đức Xoa Già Long Vương (Takṣaka), dịch ý là Đa Thiệt Long Vương, Lưỡng
Thiệt Long Vương, Thị Độc Long Vương, Hiện Độc Long Vương, hay làm tổn hại
Long Vương. Dùng sự nhìn giận dữ tức có thể khiến cho Người, súc vật lập tức chết đi.
6. A Na Bà Đạt Đa Long Vương (Anavatapta), dịch ý là Vô Nhiệt Não Long
Vương, lại xưng là A Nậu Đạt Long Vương, trú ở ao A Nậu Đạt trên đỉnh núi Tuyết.
7. Ma Na Tư Long Vương (Manasvin), dịch ý là Đại Ý Long Vương, Cao Ý
Long Vương, Từ Tâm Long Vương, Đại Lực Long Vương, Đại Thân Long Vương, lại
xưng là Ma Na Tô Bà Đế Long Vương.
8. Ưu Bà La Long Vương (Utpalaka), dịch ý là Thanh Liên Long Vương. Bởi vì
ở ao Hoa Sen xanh mà được tên này.
_ Kinh Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương, quyển Trung nêu ra tên của
Long Vương của hơn 160 loại từ Phật Thế Tôn Long Vương
(Buddhōbhagavān_nāga-rāja) cho đến Tiểu Bạch Long Vương (Upaśklaka). Lại nói
nhóm này đều là Long Vương có Phước Đức, nếu hay xưng tên của các vị ấy thời hay
đạt được lợi ích lớn. Lại nhóm ấy ở Đại Địa này, hoặc khi sét đánh tựa như tiếng vang
dội lại (chấn hưởng), hoặc phóng ánh sáng, hoặc tuôn mưa ngọt làm cho lúa mạ tươi
tốt.
_ Kinh Đại Luân Vân Thỉnh Vũ, quyển Thượng nêu ra tên gọi của nhóm Long
Vương từ Nan Na Long Vương (Nanda-nāga-rāja) cho đến Vĩ Yết Tra Long Vương
(Vikaṭa-nāga-rāja). Lại Nhóm Long Vương ấy đều có Đà La Ni vì tất cả chúng sinh
ban cho an vui. Ở Thiệm Bộ Châu y theo Thời tuôn rót cơn mưa ngọt, khiến cho tất cả
cây cồi, cỏ thuốc, lúa mạ đều được tăng trưởng
_ Đại Tập Kinh 56, ghi nhận 5 loại Long Vương là:
1_ Thiện Trụ Long Vương (Susaṃṣṭhita-nāga-rājā) là chủ của tất cả loài Tượng
Long (Loài Rồng có hình như con voi)
2_ Nan đà Bạt Đan Đà Long Vương (Nandopananda-nāga-rājā): Hai anh em
Long Vương này là chủ của tất cả loài Xà Long (Loài Rồng có hình như con rắn)
3_ A Nậu Đạt Long Vương (Anavatapta-nāga-rājā) là chủ của tất cả loài Mã
Long (Loài Rồng có hình như con ngựa)
4_ Bà Lâu Na Long Vương (Varuṇa-nāga-rājā) là chủ của tất cả loài Ngư Long
(Loài Rồng có hình như con cá)
5_ Ma Na Tô Bà Đế Long Vương (Manasvī-nāga-rājā) là chủ của tất cả loài Hà
Mô Long (Loài Rồng có hình như con ễnh ương) 571
5 vị Đại Long Vương quy y sức uy Thần của Phật, thực hành Pháp Đại Thừa,
tinh tiến tu hành, thống lãnh quyến thuộc…đối với chúng sinh, chẳng gây mọi loại
nhiễu hại
_ Kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương, quyển 1 đề cử 8 vị Long Vương:
Liên Hoa Long Vương, Ê La Diệp Long Vương, Đại Lực Long Vương, Đại Hống
Long Vương, Tiểu Ba Long Vương, Trì Quyết Thủy Long Vương, Kim Diện Long
Vương, Như Ý Long Vương. Các vị Long Vương hay kéo mây tuôn mưa, khiến cho
chúng sinh tiêu diệt được nhiệt não.
_ Kinh Phật Thuyết Huyễn Hóa Võng Đại Du Già Giáo Thập Đại Phẫn NỘ
Minh Vương Đại Minh Quán Tưởng Nghi Quỹ và Thánh Hạ Dã Hột Lý Đại Phộc
Uy Nộ Vương Lập Thành Đại Thần Nghiệm Cúng Dường Niệm Tụng Nghi Quỹ
Pháp Phẩm, quyển Hạ ghi nhận 8 vị Long Vương (Nāga-rāja) là Nan Đà (Nanda),
Bà Sách Nan (Vāṣuki), Đức Xoa Ca (Takṣaka), Yết Cố Tra (Karkoṭaka), Bát Ma
(Padma), Ma Ha Bát Ma (Mahā-padma), Thương Khư Bà La (Śaṅkha-pāla), Cưu
Lợi Ca (Kulika).
_ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, quyển thứ nhất, chi một của
Phẩm thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm (Bộ 80 quyển do Tam Tạng Thật Xoa Nan Đà
dịch) ghi nhận 10 vị Long Vương là: Tỳ Lâu Bác Xoa Long Vương, Sa Kiệt La Long
Vương, Vân Âm Diệu Tràng Long Vương, Diệm Khẩu Hải Quang Long Vương,
Phổ Cao Vân Tràng Long Vương, Đức Xoa Ca Long Vương, Vô Biên Bộ Long
Vương, Thanh Tịnh Sắc Long Vương, Phổ Vận Đại Thanh Long Vương, Vô Nhiệt
Não Long Vương…nhóm như vậy đều là bậc Thượng Thủ. Số ấy nhiều vô lượng,
không có vị nào chẳng siêng năng dốc sức kéo mây tuôn mưa, khiến cho nhiệt não của
chúng sinh được tiêu diệt.
_ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, quyển thứ ba, chi ba của Phẩm
thứ nhất Thế Chủ Diệu Nghiêm (Bộ 80 quyển do Tam Tạng Thật Xoa Nan Đà dịch)
ghi nhận 11 vị Long Vương được Môn Giải Thoát là:
1_ Tỳ Lâu Bác Xoa Long Vương được Tiêu Diệt Nhất Thiết Chư Long Thú Sí
Nhiên Khổ Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: tiêu diệt nỗi khổ nóng bức của
tất cả các loài Rồng, được sự giải thoát)
2_ Sa Kiệt La Long Vương được Nhất Niệm Trung Chuyển Tự Long Hình
Thị Hiện Vô Lượng Chúng Sinh Thân Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: ở
trong một niệm chuyển hình Rồng của mình thị hiện vô lượng thân của chúng sinh)
3_ Vân Âm Tràng Long Vương được Ư Nhất Thiết Chư Hữu Thú Trung Dĩ
Thanh Tịnh Âm Thuyết Phật Vô Biên Danh Hiệu Hải Giải Thoát Môn (tức là Môn
Giải Thoát: Ở trong tất cả lối nẻo của các cõi dùng âm thanh thanh tịnh nói vô biên
biển danh hiệu của Phật)
4_ Diệm Khẩu Long Vương được Phổ Hiện Vô Biên Phật Thế Giới Kiến Lập
Sai Biệt Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Hiện khắp sự dựng lập sai khác của
vô biên Thế Giới Phật)
5_ Diệm Long Vương được Nhất Thiết Chúng Sinh Cái Triền Như Lai Từ
Mẫn Lệnh Trừ Diệt Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: do Tâm yêu thương
giúp đỡ của Đức Như Lai khiến cho sự che lấp ràng buộc của tất cả chúng sinh được
trừ diệt) 572
6_ Vân Tràng Long Vương được Khai Thị Nhất Thiết Chúng Sinh Đại Thiện
Lạc Phước Đức Hải Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Mở bày biển Phước
Đức vui sướng tốt lành to lớn cho tất cả chúng sinh).
7_ Đức Xoa Ca Long Vương được Thanh Tịnh Cứu Hộ Âm Diệt Trừ Nhất
Thiết Bố Úy Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Dùng âm thanh cứu hộ trong
sạch diệt trừ tất cả sự sợ hãi).
8_ Vô Biên Bộ Long Vương được Thị Hiện Nhất Thiết Phật Sắc Thân Cập
Trụ Kiếp Thứ Đệ Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Hiện bày sắc thân của tất
cả Phật với thứ tự của Trụ Kiếp)
9_ Thanh Tịnh Sắc Tốc Tật Long Vương được Xuất Sinh Nhất Thiết Chúng
Sinh Đại Ái Lạc Hoan Hỷ Hải Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Sinh ra biển
vui vẻ yêu thích rộng lớn của tất cả chúng sinh).
10_ Phổ Hành Đại Âm Long Vương được Thị Hiện Nhất Thiết Bình Đẳng
Duyệt Ý Vô Ngại Âm Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Hiện bày âm thanh
tất cả bình đẳng hợp ý không có ngăn ngại)
11_ Vô Nhiệt Não Long Vương được Dĩ Đại Bi Phổ Phước Vân Diệt Nhất
Thiết Thế Gian Khổ Giải Thoát Môn (tức là Môn Giải Thoát: Dùng đám mây Đại Bi
che trùm khắp, diệt trừ nỗi khổ của tất cả chúng sinh)
_ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, quyển thứ nhất, chi một của
Phẩm thứ nhất Thế Gian Tịnh Nhãn (Bộ 60 quyển do Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La
dịch) ghi nhận tên của 6 vị Long Thần là: Ma Ni Quang Long, Tạp Trang Nghiêm
Long, Hỷ Bảo Quang Long, Tịnh Thân Quang Long, Hương Trang Nghiêm Long,
Bảo Mục Quang Long cùng với vô số các vị Long Thần….Như vậy tất cả đều ở a tăng
kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn trong thời quá khứ, thường vì Đức Như Lai trang nghiêm
Pháp Đường
_ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, quyển thứ nhất, chi hai của
Phẩm thứ nhất Thế Gian Tịnh Nhãn (Bộ 60 quyển do Tam Tạng Phật Đà Bạt Đà La
dịch) ghi nhận
“Lại có Tỳ Lâu Ba Xoa Long Vương đối với Pháp Môn: Trong tất cả nẻo Rồng
(Long Thú) trừ diệt lửa mạnh, cứu tế khủng bố mà được tự tại
Hải Long Vương đối với Pháp Môn: Trong một niệm, hay chuyển tất cả thân
Rồng chẳng thể nghĩ bàn mà được tự tại
Vân Lạc Diệu Tràng Long đối với Pháp Môn tất cả Hữu Thú (lối nẻo của các
cõi), chuyển Thanh Tịnh Luân nghe tiếng mà được tự tại
Tu Di Phổ Tràng Long đối với Pháp Môn: Tất cả chúng sinh là biển Công Đức
mà được tự tại
Đức Xoa Già Long đối với Pháp Môn: Lìa khủng bố, thanh tịnh mà được tự tại
Vô Lượng Bộ Long đối với Pháp Môn: Hiện bày vô lượng đám mây của tất cả
chúng sinh, siêu độ vô lượng Kiếp mà được tự tại
Diệm Nhãn Thiện Trụ Long đối với Pháp Môn: An lập tất cả Thế Giới phân biệt
vô lượng Phật Pháp, hiện bày phương tiện mà được tự tại
Ly Cấu Thế Sắc Long đối với Pháp Môn: Tất cả chúng sinh lìa dơ bẩn, vui vẻ,
biết đủ nhập vào phương tiện mà được tự tại
Phổ Hành Quảng Thánh Long đối với Pháp Môn: Tất cả âm thanh thiện ác đầy
đủ Bình Đẳng Quán mà được tự tại
A Na Đạt Đa Long Vương đối với Pháp Môn: Đám mây Đại Bi che trùm tất cả
chúng sinh lìa khổ mà được tự tại 573
_ Kinh Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương, quyển 1 ghi nhận 15 vị Long
Vương (Nāga-rāja) từ A Bát Lá La (Upalāla) đến Sa Nghiệt Lý Noa (Sāgara) và 26
vị Long Nữ (Nāga-kanyā) từ Diệu Nghiêm Trì (Vibhūṣaṇadharā) đến Diệu Cao Cát
Tường (Simeru-śrī)
_ Kinh Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả, quyển 1 và Kinh Tu Hành Bản Khởi,
quyển Thượng ghi nhận: Khi Đức Phật đản sinh thời hai vị Long Vương Nan Đà
(Nanda) và Ưu Ba Nan Đà (Upananda) ở trong hư không phun nước trong sạch, một
nóng một lạnh, dùng để tắm rửa thân của Thái Tử.
_ Kinh Phật Bản Hạnh Tập, quyển 31 và Hữu Bộ Tỳ Nại Gia Phá Tăng Sự,
quyển 5 ghi nhận rằng: Khi Đức Phật từ dưới cây Bồ Đề đứng dậy, đi đến bên cạnh cái
ao của Long Vương Mâu Chi Lân Đà (Mucilinda), ngồi dưới một gốc cây suy tư. Khi
ấy mưa tuôn suốt bảy ngày chẳng dừng thì Long Vương Mâu Chi Lân Đà mới hiện ra,
dùng thân quấn quanh Đức Phật bảy vòng, đưa cái đầu của mình lên che bên trên đầu
của Đức Phật, thủ hộ Đức Phật Đà, khiến cho Ngài chẳng bị các não loạn.
_ Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 14 và Kinh Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi,
quyển Hạ ghi nhận: Khi Đức Phật giáo hóa Ưu Tần Loa Ca Diệp thời thường ở trong
nhà thờ Thần Lửa, giáng phục Rồng độc. Hiện nay tại Ấn Độ, trong cổ tháp ở Ba Lộc
Đặc (Bharhut) Sơn Kỳ (Sanci), A Ma La Ba Đề (Amarāvatī) với Oa Oa Đích Ba La
Phù Đồ (Buro-budur) còn lưu giữ bản điêu khắc truyền thuyết trên với vị Rồng trong
đó, phần lớn làm tượng thân người hình rắn.
_ Phẩm Thụ Quyết trong Kinh Hải Long Vương, quyển 2 nói rằng: Hải Long
Vương có con trai tên là Uy Thủ được Đức Phật thọ ký: ngày sau sẽ thành Phật, hiệu
là Tuệ Kiến Như Lai Chí Chân Chính Đẳng Giác.
_ Phẩm Nữ Bảo Cẩm Thụ Quyết trong Kinh Hải Long Vương, quyển 3 nói Hải
Long Vương có con gái tên là Bảo Cẩm được Đức Phật thọ ký: ngày sau sẽ thành
Phật, hiệu là Phổ Thế Như Lai Chí Chân Chính Đẳng Giác.
_ Phẩm Đề Bà Đạt Đa trong Kinh Pháp Hoa, quyển 4 có ghi nhận vị Long Nữ
(Nāga-kanyā) tám tuổi thành Phật
_ Chỗ ở của Long Vương gọi là Long Cung (Pātāya, hay Nāga-pura):
.) Phẩm Long Điểu trong Kinh Trường A Hàm, quyển 19 ghi rằng: Ở đáy biển
lớn có cung của Sa Kiệt Long Vương, dài rộng tám vạn Do Tuần, cung tường có bảy
lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới võng, bảy lớp hàng cây bao vòng chung quanh
nghiêm sức đều do bảy báu tạo thành, cho đến có vô số chim chóc cùng nhau kêu hót
.) Kinh Chính Pháp Niệm Xứ, quyển 68 nói rằng: Vượt qua núi Quân
Sơn……có một cái biển lớn, bên dưới nước biển 500 Do Tuần có cung điện của Long
Vương được trang nghiêm bằng mọi loại vật báu: Tỳ Lưu Ly, Nhân Đà Thanh Bảo, lan
can Pha Lê, bảy báu trang nghiêm, Quang Minh Ma Ni, mọi loại vật báu trang nghiêm
điện đường, điện ở lầu gác…giống như ánh sáng mặt trời. Có vô lượng cung điện như
vậy, Đức Xoa Ca Long Vương dùng nghiệp của mình cho nên trụ tại cung điện này. 574
.) Du Già Sư Địa Luận, quyển 2 ghi nhận: Long Cung trong làn nước tám
Công Đức ở bảy núi vàng, có tám vị Đại Long Vương là: Trì Địa, Hoan Hỷ Cận Hỷ,
Mã Loa, Mục Chi Lân Đà, Ý Mãnh, Trì Quốc, Đại Hắc, Ê La Diệp
.) Trong “Dictionary of Pali Names", tác giả G P Malalasekera [Bản dịch của
Tống Phước Khải] ghi nhận rằng:
Có một số nơi cư ngụ của Rồng được đề cập trong Kinh Điển như:
Mañjerika-bhavana dưới núi Sineru (Núi Tu Di),
Daddara-bhavana ở chân núi Daddara của dãy Himālaya,
Dhatarattha-nāgā ở dưới sông Yamunā,
Nābhāsā Nāgā ở hồ Nabhasa,
Rồng của Vesāli, Tacchaka, và Payāga (D.ii.258 - Trường bộ. ii.258).
Bộ Vinaya (ii.109) liệt kê một danh sách bốn gia đình Rồng chúa (Ahirājakulāni):
Virūpakkhā, Erāpathā, Chabyāputtā và Kanhagotamakā. Hai bộ tộc rồng khác
cũng được đề cập: Kambalas và Assataras. Trong SA.iii.120 tất cả Rồng có tuổi trẻ ở
tại Himālaya.
Rồng được biết nhiều nhất là Mahākāla, vua của Mañjerika-bhavana. Sống trọn
một kappa (kiếp) và là đệ tử mộ đạo của Đức Phật. Các loài rồng trong thế giới của
Mahākāla được giám hộ một phần các xá lợi của Đức Phật cho đến khi chúng được
cần cho Đại Tháp Xá lợi Māha Thūpa (Mhv.xxxi.27f.), và khi cây Bồ Đề được mang
về Tích Lan, chúng mang trọng trách lớn lao trên đường đi (Mbv. p.. 163f.). Các vua
Rồng khác cũng được đề cập đương khi nắm thần thông và uy quyền sau được chuyển
hóa sang đức tin Đức Phật như: Aravāla, Apalālā, Erapatta, Nandopananda, và
Pannaka. (Xem Ahicchatta và Ahināga.) Trong kinh Atānātiya Sutta (D.iii.198f.), nói
về cư dân ở thế giới Cātummahārajika (Tứ Thiên Vương), loài Rồng được đề cập
định cư ở phương Đông, với vua của chúng là Virūpokkha.
Rồng có hai khu định cư chính ở Tích Lan, tại Nāgadīpa (q.v.) và ở cửa sông
Kalyani. Để giải quyết tranh chấp giữa hai long vương, chủ của Nāgadīpa, Mahodara
và Cūlodara, Đức Phật đã thực hiện lần thứ hai của mình đến Tích Lan. Trong chuyến
thăm đó, Ngài đã thực hiện một lời hứa với một Long Vương khác, Manjakkhika của
Kalyani, sẽ thực hiện chuyến viếng thăm, và chuyến thăm thứ ba của Đức Phật là để
thực hiện cam kết đó (Mhv.i.48f).
Các loài Rồng là một trong các Bộ bảo hộ được xác lập bởi Sakka (Đế Thích)
trong Sineru (Núi Tu Di) để chống lại Asura (J.i.204).
_Ngoài ra, Truyện Long Thọ Bồ Tát có ghi việc Bồ Tát Long Thọ (Nāgārjuna)
được Bồ Tát Đại Long (Mahā-nāga) dẫn vào Long Cung (Pātāya, hay Nāga-pura), mở
kho tàng bảy báu, trao cho các Kinh Điển thâm ảo thuộc Phương Đẳng (Vaipulya).
Khảo xét truyền thuyết của Ấn Độ thì khi Phật Pháp ẩn mất thời Long Cung tức là địa
phương bảo vệ giữ gìn Bí Tạng Phật Điển.
Thông thường, hình tượng Long Vương và Long Nữ thường được minh họa theo
dạng thân người đuôi rắn, đôi khi Long Nữ còn có thêm đôi cánh
575
576
577
578
_ Trong Tín Ngưỡng của Trung Quốc cổ đại thì Rồng là loài thân dài có vảy, vào
tiết Thu Phân thì bay lên Trời, vào tiết Thu Phân thì nhập vào đất. Loài có vảy thì gọi
là Giao Long. Loài có cánh thì gọi là Ứng Long. Loài có sừng thì gọi là Cầu Long.
Loài không có sừng thì gọi là Ly Long. Loài không bay lên Trời thì gọi là Bàn Long.
Theo quan niệm của dân gian châu Á thì Rồng là loài có mình rắn, vảy cá, bờm
sư tử, sừng hươu, biết bay và là con vật biểu tượng cho sự linh thiêng, mang ẩn ý chứa
đựng điều tốt lành.
Có người cho rằng sau khi Hoa Hạ thống nhất các bộ tộc Trung Nguyên đã kết
hợp Vật Tổ của mình cùng với Vật Tổ của các bộ tộc đó hình thành con rồng là loài
có thân rắn, đùi thằn lằn, móng vuốt của chim ưng, đuôi rắn, sừng hươu, vẩy cá.
_ Truyền thuyết Long Sinh Cửu Tử (hay Long Sinh Cửu Chủng) của Trung
Hoa cổ đại cho rằng một con Rồng sinh ra chín nhánh Rồng con, mỗi mỗi thường có
hình trạng và tính cách khác nhau. Đời sau dùng thuyết này để ví dụ cho anh em đồng
bào
Rồng sinh chín đứa con chẳng thành Rồng, đều có sự ưa thích riêng:
1_ Tù Ngưu: giống Rồng, bình sinh thích âm nhạc. Nay trên đầu cây Hồ Cầm có
khắc con thú là di tượng của loài này.
579
2_ Nhai Xế: bình sinh ưa thích sự giết chóc. Nay trên cán cây Đao có cái miệng
Rồng ăn nuốt là di tượng của loài này.
3_ Trào Phong: Bình sinh ưa thích sự nguy hiểm. Nay ở góc điện có con thú
chạy là di tượng của loài này.
4_ Bồ Lao: Bình sinh ưa thích âm thanh do vạn vật phát ra (như tiếng chim hót,
tiếng chuông trống…). Nay trên cái chuông có cái núm hình con thú là di tượng của
loài này.
5_ Toan Nghê: bình sinh ưa ngồi. Nay con sư tử ở Phật Tòa là di tượng của con
thú này.
580
6_ Bá Thượng: bình sinh ưa mang vác vật nặng. Nay con thú đỡ tòa bia là di
tượng của loài này
7_ Bệ Ngạn: bình sinh ưa bàn cãi kiện tụng. Nay đầu con sư tử trên cửa ngục là di
tượng của con thú này.
8_ Hí Hí: bình sinh ưa văn chương. Nay con Rồng ở bên hai cạnh cái bia là di
tượng của con thú này
9_ Xi Vẫn: bình sinh ưa ăn nuốt. Nay đầu con thú ở nóc điện là di tượng của loài
này
581
Truyền thuyết Long Sinh Cửu Tử (hay Long Sinh Cửu Chủng) còn được lưu
truyền theo cách khác là:
[Trích trong bài viết của Châu Giang- Hội viên Hội VHNT Bắc Giang (st)]
1_ Bị Hí là con trưởng của Rồng.
Còn có tên khác là Bá Hạ, Bát Phúc, Thạch Long Quy. Linh vật có hình dáng thân
rùa, đầu rồng, có sức mạnh vượt bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được
chạm khắc trang trí làm bệ đỡ cho các bệ đá, cột đá, bia đá…
2_ Li Vãn là con thứ hai của Rồng.
Còn có tên gọi là Si Vẫn. Linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn, thích
ngắm cảnh và thường giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên
nóc các cung điện cổ, chùa chiền, đền đài…
3_ Bồ Lao là con thứ ba của Rồng.
Linh vật thích âm thanh lớn, thường được đúc trên quai chuông với mong muốn
chiếc chuông được đúc có âm thanh như ý muốn.
582
4_ Bệ Ngạn là con thứ tư của Rồng.
Còn có tên gọi khác là Bệ Lao, Hiến Chương. Linh vật có hình dáng giống con
cọp, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn, thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng
khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường,
ngụ ý răn đe người phạm tội và nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.
5_ Thao Thiết là con thứ năm của Rồng.
Linh vật có đôi mắt to, miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ, có tính tham ăn vô độ nên
được đúc trên các đồ dùng trong ăn uống như ngụ ý nhắc nhở người ăn đừng háo ăn
mà trở nên bất lịch sự.
6_ Công Phúc là con thứ sáu của Rồng.
Linh vật này thích nước nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay
phương tiện giao thông đường thủy như: cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền
bè… với mong muốn công phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ
nhân dân.
7_ Nhai Xế là con thứ bảy của Rồng.
Linh vật có tính khí hung hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh nên
thường được chạm khắc trên các vũ khí như đao, búa, kiếm… ngụ ý thị uy, làm tăng
thêm sức mạnh và lòng can đảm của các chiến binh nơi trận mạc.
583
8_ Toan Nghê là con thứ tám của Rồng.
Còn có tên gọi khác là Kim Nghê. Linh vật có mình sư tử, đầu rồng, thích sự tĩnh
lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi ngút nên được đúc làm
vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn hương thơm của trầm hương
luôn tỏa ngát.
9_ Tiêu Đồ là con thứ chín của Rồng.
Linh vật có tính khí lười biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ
xâm nhập lãnh địa của mình nên thường được khắc trên cánh cửa ra vào, đúng vào vị
trí tay cầm khi mở, ngụ ý răn đe kẻ lạ muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ
nhà.
Đạo Giáo Trung Hoa cho rằng các vị vua Rồng thường cư ngụ tại bốn biển bao
quanh đất liền là:
.) Long Vương Quảng Đức (truyền bá Đức rộng rãi) cai quản biển phía Đông
.) Long Vương Quảng Lợi (mở rộng lợi lộc) cai quản biển phía Nam
.) Long Vương Quảng Nhuận (mở rộng ân sũng) cai quản biển phía Tây
.) Long Vương Quảng Trạch (Mở rộng sự hào hiệp) cai quản biển phía Bắc
Các vị Long Vương này cư trú tại cung điện dưới đáy biển sâu. Cung điện có đầy
đủ điện đường, lầu gác, lan can, vườn rừng…được tạo thành bởi vô lượng vật báu với
mọi thứ trang nghiêm và thường được gọi là Long Cung
Nhưng dân gian lại cho rằng: Long Vương Ngao Quảng cai quản biển phía
Đông, Long Vương Ngao Khâm cai quản biển phía Nam, Long Vương Ngao Nhuận
cai quản biển phía Tây, Long Vương Ngao Thuận cai quản biển phía Bắc và trong bốn
vị Long Vương thì Ngao Quảng đứng đầu. Hàng năm cứ đến tháng ba (Âm lịch), các
vị Long Vương phải bay lên Thượng Giới để trình tấu công việc, cho nên tháng ba là
tháng có nhiều trận mưa to.
Thông thường Đạo Giáo Trung Hoa hay triệu thỉnh và cúng tế Rồng qua Ngũ
Long Đàn 584
.) Phương Đông là Rồng Xanh (Thanh Long)
.) Phương Nam là Rồng đỏ (Xích Long)
.) Phương Tây là Rồng trắng (Bạch Long)
.) Phương Bắc là Rồng đen (Hắc Long)
.) Phương chính giữa là Rồng vàng (Hoàng Long, hay Kim Long)
_ Nhìn chung, người dân Trung Hoa xem Rồng là linh vật linh thiêng biểu thị cho
điềm tốt lành, nên rất sùng bái và thường cầu nguyện, xin Rồng ban ơn, tuôn mưa đúng
thời khiến cho vạn vật sinh trưởng tươi tốt, nhất là khi bị hạn hán.
Ngoài ra người dân Trung Hoa còn dùng hình tượng hóa Rồng, dạy bảo nhau
phải biết nuôi chí lớn, vượt qua mọi trở ngại để đạt được sự thành tựu lớn lao qua câu
Tục Ngữ: “Nhất đăng Long Môn, thanh dự bách bội” nghĩa là: một lần vượt cửa
Rồng thì tiếng khen được tăng lên gấp trăm lần
Long Môn (cửa Rồng): là nơi hiểm yếu của thiên nhiên do hai ngọn núi cao đối
ngọn với nhau tạo thành hình dáng cái cổng, nằm ở hai bên bờ Hoàng Hà giữa huyện
Hàn Thành, Tây An, Thiểm Châu với huyện Hà Tân, Bình Dương, tỉnh Sơn Tây.
Tương truyền ông Hạ Vũ đã đào con sông đến đây để giúp cho lưu thông.
Lại theo Truyền Thuyết từ xưa, các loài tôm cá trong sông nếu có thể vượt qua
chỗ này liền có thể hóa thành Rồng. Cho nên từ ngữ Long Môn nhằm chỉ cho cửa ngõ
lập thân xuất thế, hoặc ví dụ cho danh vọng tăng trưởng.
_ Đến sau đời nhà Tần thì các vua chúa Trung Hoa chiếm đoạt hình tượng Rồng
làm biểu tượng đặc trưng cho quyền uy tuyệt đối của mình, trị dân trị nước, ban ơn
mưa móc (vũ lộ) cho dân chúng và từ đây mọi vật dụng của nhà vua đều có hình ảnh
con rồng như: Long Phi (khi vua lên ngôi), Long Sàng (giường nằm của vua), Long
Nhan (khuôn mặt của vua), Long Thể (thân hình của vua), Long Bào (áo của vua) và
bàn chân của con Rồng thêu trên áo này phải có 5 móng, Long Cổn (áo vua mặc khi
thiết đại triều, hay khi tham dự đại lễ), Long Xa (xe của vua), Long Hạm (chiếc thuyền
của vua)….
_ Tại Việt Nam đã sớm hình thành tín ngưỡng thờ phụng Rồng, một linh vật có
thể sống cả trên bờ lẫn dưới nước với năng lực điều khiển được nước lửa, mây mưa,
sấm chớp, gió bão, cùng với mọi khả năng màu nhiệm khác có thể ngăn chận được mọi
tai họa hiểm nghèo như hạn hán, ngập lụt, giông bão… giúp cho con người có được
cuộc sống ấm no hạnh phúc và tín ngưỡng Rồng được dân tộc Việt biểu thị qua việc
thờ cúng Thủy Thần
Sách Hoài Nam Tử ghi nhận rằng: “Người Việt lấy kim xâm vào da, vẽ hình
Rồng để tỏ ý tôn vinh Rồng vậy”.
Từ tín ngưỡng này đã tạo thành truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên” nhằm minh
họa về nguồn gốc của dân tộc Việt là:
“Lộc Tục, con vua Đế Minh lấy hiệu là Kinh Dương Vương. Kinh Dương
Vương lấy con gái của Động Đình Quân là long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm
nối ngôi vua, xưng hiệu là Lạc Long Quân (vua Rồng Lạc Việt). Lạc Long Quân lấy
Âu Cơ, sinh ra một cái bọc chứa một trăm quả trứng, nở ra một trăm người con. Sau
này, Lạc Long Quân dẫn 50 người con xuống biển, Âu Cơ dắt 50 người con lên núi, và
người con cả được truyền ngôi vua, hiệu là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang,
mở lối cho sự phát triển đất nước Việt Nam”.
Hiện nay trên di tích trống đồng của nền văn hóa Văn Lang có khắc vẽ những
hình người đội mũ hình đầu Rồng hoặc những chữ S (biểu tượng cho sấm sét), biểu 585
tượng rồng được chạm khắc xung quanh và trên trán bia Sùng Thiện Diên Linh, trên
vách tháp cũng chạm khắc nhiều mảng rồng ổ, các đền miếu thờ phụng Thủy Thần ở
nhiều địa phương như đền thờ Bát Hải Long Vương ở xã Hải Dương, đền Mẫu Thoải
ở huyện Duy Tiên, đền thờ Linh Lang Đại Vương ở Thủ Lệ, đền thờ Thủy Thần Bảo
Ninh ở làng Linh Đàm, đền thờ Ông Cụt Ông Dài ở sông Cầu, đền thờ Uy Linh Đại
Vương ở làng Nhật Tân , ngôi đình Đình Rắn ở Mỏ Cày Bến Tre, đôi rắn thần ở đền
Vĩnh Hòa tại Kiên Giang….
Rồng tại Việt Nam có những nét đặc trưng là:
.) Thân Rồng uốn theo hình Sin 11 khúc. Thân mềm mại uốn lượn biểu thị sự
biến hóa, trên lưng có vây nhỏ liền mạch và đều đặn
.) Đầu Rồng có bờm dài, râu cằm, không có sừng. Mắt lồi to, hàm nở rộng có
răng nanh ngắt lên. Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn chứ không phải là mũi
thú như Rồng Trung Hoa. Lưỡi mảnh rất dài
.) Miệng Rồng luôn ngậm viên ngọc châu (Ở Nhật Bàn, Hàn Quốc và Trung Quốc
thì Rồng hay cầm viên ngọc bằng chân trước)
Thường được tạc vào đá như biểu tượng linh thiêng canh giữ chùa chiền, lâu đài
[Bách khoa toàn thư mở Wikipedia]
586
Sau này do du nhập nền văn hóa của Trung Hoa, nên hình tượng Rồng ở Việt
Nam cũng thay đổi dần dần, mất đi vẻ tự nhiên uy mãnh, trở nên thô cứng và ước lệ.
587
Tương truyền ở dãy núi Giăng Mầu, huyện Hương Khê (Hà Tĩnh) có cái thác gọi
là Vũ Môn, nước chảy ào ào từ trên dội xuống, vào cữ tháng 4 hằng năm, cá chép lên
đó thi nhau vượt thác, con nào vượt được thì hóa thành rồng, nên lưu truyền các câu Ca
Dao nhằm khích lệ con người phải biết vượt qua mọi gian khó, kiên trì đạt được sự
thành công
“Tháng ba cá đi ăn thề
Tháng tư cá về, cá vượt Vũ Môn
Trai khôn lấy được gái khôn
Cũng bằng cá vượt Vũ Môn hóa Rồng”.
Do ý niệm con Rồng cháu Tiên bám chặt vào tâm thức người Việt, nên ngày nay
trên suốt cả dải đất hình chữ S, từ ngữ Long (Rồng) luôn gắn liền với rất nhiều địa
danh như:
Núi Long Tu ở Quảng Ninh, núi Long Đọi ở Hà Nam, núi Long Triều ở Ninh
Bình, núi Long Tường ở Hà Tĩnh, đỉnh núi Thanh Long ở Quảng Bình, núi Kim
Long ở Huế, núi Rồng ở chân đèo Hải Vân. Ở Quảng Ngãi: huyện Bình Sơn có núi
Long Đầu, huyện Mộ Đức có 3 ngọn núi là Lạc Long, Long Phụng, Long Cốt. Núi
Hàm Long ở Bình Định, núi Hàm Rồng ở Gia Lai, núi Bửu Long ở Đồng Nai, núi
Dương Long ở Kiên Giang.
Sông Hoàng Long ở Ninh Bình, sông Rồng ở Lạng Sơn, sông Ka Long ở
Quảng Ninh, sông Long Bình ở Trà Vinh, sông Long Hồ ở Vĩnh Long, sông Phước
Long và Long Tân ở Đồng Nai, sông Long Đại ở Quảng Bình.
Đặc biệt là dòng sông Cửu Long (cửu Long giang) có 9 cửa chảy ra biển được
biết trên mặt địa lý của Việt Nam như: cửa Định An, cửa Ba Thắc, cửa Tranh Đề, cửa
Đại, cửa Tiểu, cửa Cổ Chiên, cửa Cung Hầu, cửa Hàm Luông, cửa Ba Lai. Dòng sông
mang tên và hình ảnh của chín con Rồng này đã trở thành một nét văn hoá đặc trưng
tiêu biểu trong đời sống của người dân miền Tây Nam Bộ.
Hồ Long Trì ở Quốc Oai Hà Nội, hồ Long Thăng ở Lai Châu, hồ Long Ẩn và
hồ Long Vân ở khu du lịch Bữu Long Đồng Nai, hồ Long Điền Sơn ở Tây Ninh
Vịnh Bái Tử Long, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh, đảo Phù Long (đảo Cát Bà) ở
Hải Phòng, đảo Long Sơn ở Bà Rịa Vũng Tàu
Cầu Long Biên ở Hà Nội, cầu Hàm Rồng ở Thanh Hóa
Chợ Rồng ở Nam Định, chợ Kim Long và chợ Long Hồ ở Huế, chợ Long Tử ở
Quãng Ngãi, chợ Long Hưng ở Bình Định. 588
Ngoài ra còn rất nhiều tỉnh thành mang địa danh của Rồng như: Thăng Long
(nay là Hà Nội), Vĩnh Long, Long An, Long Thành, Long Biên, Hạ Long, Long
Khánh, Bình Long, Phước Long, Rồng Giềng, Long Điền, Long Thạnh, Cái Rồng,
Thịnh Long, Long Phú, Đức Long, Hương Long, Long Nguyên, Long Hậu….
Hiện tượng này đã khiến cho một số người ngoại quốc gọi Việt Nam là đất nước
của Rồng.
CHÂN NGÔN, THỦ ẤN CỦA HÀNG RỒNG
_Kinh Đại Vân Luân Thỉnh Vũ (cầu mưa), Quyển Thượng (ĐTK_No.898) ghi
chép là:
“Này Long Vương! Ông thành tựu một Pháp khiến cho các vị Rồng diệt các khổ,
đầy đủ an vui. Thế nào là một Pháp? Ấy là thực hành thương yêu giúp đỡ (Maitra:
Từ).
Này Đại Long Vương! Nếu có Trời, Người thực hành Đại Từ (Mahā-Maitra) thì
lửa chẳng thể thiêu đốt, đao chẳng thể gây hại, nước chẳng thể cuốn trôi, chẳng thể bị
trúng chất độc, oán địch bên trong bên ngoài chẳng thể xâm nhiễu, an vui ngủ say, an
vui tỉnh giấc. Dùng Phước của mình che trùm bảo vệ giữ gìn thân ấy. Dùng Đại Phước
mà được Uy Đức, chẳng bị kẻ khác hiếp đáp. Ở trong cõi Người, Trời có hình mạo
đoan nghiêm, được Chúng yêu kính. Nơi đã thực hành, không có trở ngại. Diệt trừ các
khổ, Tâm được vui vẻ, đầy đủ các sự ưa thích. Do sức của Đại Từ cho nên sau khi
chết, được sinh vào Phạm Thế (Brahma-loka: Thế Giới của Phạm Thiên)
Này Đại Long Vương! Nếu có Trời, Người tu Hạnh Đại Từ được Phước Lợi đó.
Chính vì thế cho nên Long Vương dùng nghiệp thân của Từ, dùng nghiệp Ngữ của
Từ, dùng nghiệp Ý của Từ….cần phải tu hành
Lại nữa Long Vương! Có Đà La Ni (Dhāraṇī) tên là Thí Nhất Thiết Chúng Sinh
An Lạc (Sarva-sukhaṃ-dadā). Ông, các hàng Rồng thường nên đọc tụng, nối theo
niệm thọ trì thì hay diệt sự khổ não của tất cả các Rồng, ban cho họ sự an vui. Các
hàng Rồng kia đã được vui thích xong, ở Thiệm Bộ Châu này hay y theo Thời, tuôn rót
cơn mưa ngọt, khiến cho tất cả cây cối, rừng rậm, cỏ thuốc, mầm non, lúa má đều được
tăng trưởng”
Lúc đó, Long Vương lại bạch Phật rằng: “Thế nào gọi là câu Đà La Ni ban cho
tất cả niềm vui?”.
Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Đà La Ni là:
“Đát nễ-dã tha (1) đà la nê, đà la nê (2) ốt đá la nê (3) tam bát-la để sắt-xỉ đá (4)
vĩ nhạ phộc dã, vạt la noa (5) tát để-dã bát-la chỉ-nương (6) tát hạ chỉ-nương phộc để
(7) ốt đáp-bá na nãnh vĩ lô hạ nãnh (8) a tỳ sái tả nãnh (9) a tỳ phộc-dã hạ la (10) du bà
phộc để (11) a nhạ ma để (12) ê hứ cấm bà lộ để (13) phộc hạ, ha la cật-lễ hướng độ
nẵng (14) bá bả thú đà dã (15) mạt hiến nãnh lý hạ ca đạt ma đa (16) thuật đà, lộ ca
(17) vĩ để minh la hạ, la nhạ tố (18) nậu khư, xả ma nẵng (19) tát phộc mẫu đà (20)
phộc lộ ca nẵng địa sắt-xỉ đế (21) bát-la chỉ-nương nẵng nghê, sa-phộc hạ (22)”
*) Tadyathā: Dhāraṇi dhāraṇi uttāraṇi saṃpratiṣṭhitā vijaya-varṇa satya-
pratijñā sahā-jñāna-vati utpādani vināśani abhiṣecani abhivyāhāra śubhāvati
ajīmatāmahi kumbāla-nivāhā, hara kleśān, dhunu pāpaṃ śodhaya-mārgān,
nirīhaka-dharmatā, śuddhāloka, vitimirā-rajasa, duḥkha-śamana, sarva-buddha-
avalokana-adhiṣṭhite, sahā-prajñā, jñābhe, svāhā
Đức Phật bảo Long Vương: “Câu Đà La Ni này là nơi gia trì của tất cả chư Phật.
Các ông thường nên thọ trì, đọc tụng, thành tất cả Nghĩa Lợi, được vào Pháp Môn. Đấy
gọi là câu ban cho tất cả niềm vui”. 589
[Tadyathā: Như vậy, liền nói Chú là
Dhāraṇi dhāraṇi: Tổng trì, tổng trì
uttāraṇi saṃpratiṣṭhitā: Tế độ tối hậu
vijaya-varṇa: Hình trạng tối thắng
satya-pratijñā: Trí Tuệ chân thật
sahā-jñāna-vati: Đầy đủ Trí Tuệ của cõi Sa Bà
utpādani: Sinh ra
vināśani: Đoạn hoại
abhiṣecani: Quán đỉnh
abhivyāhāra: Biện giải, giải thích, khen ngợi
śubhāvati ajīmatāmahi: Sự vĩ đại của Tính chính trực mỹ lệ
kumbāla-nivāhā: Dẫn khởi bao trùm
hara kleśān: Tiêu trừ phiền não
dhunu pāpaṃ śodhaya-mārgān: Đường lối làm sạch mọi tội lỗi ồn ào
nirīhaka-dharmatā: Tính của Pháp không có phân biệt
śuddhāloka, vitimirā-rajasa: Ở sự sáng tỏ của Thế Giới trong sạch
duḥkha-śamana: Dứt trừ khổ não
sarva-buddha- avalokana-adhiṣṭhite: Tất cả chư Phật quán chiếu gia trì
sahā-prajñā:Trí Tuệ của cõi Sa Bà
jñābhe: Đạt được Trí
svāhā: Quyết định thành tựu]
_Kinh Như Ý Bảo Châu Chuyển Luân Bí Mật Hiện Thân Thành Phật Kim
Luân Chú Vương (ĐTK_No.961) [Bản dịch của Sa Môn Thích Quảng Trí]
.) Phẩm Như Ý Bảo Châu ghi chép là:
Thời tại trong Hội có một Long Nữ tướng hảo đẹp đẽ kỳ diệu như Thiên Nữ, tâm
ý nhu hòa như Đại Bồ Tát tên là Thiện Nữ từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ chân Phật rồi
bạch rằng:”Bạch Đức Thế Tôn ! Chúng con kiếp trước nghiệp chướng sâu dầy, tham
lam mê dại, không gây Nhân Trí Tuệ. Vì vậy ngày nay sanh trong ao hồ, lại thọ thân
nữ, tuy không bị nhiệt não cùng các bệnh khổ hơn các loại khác. Nguyện con đời đời
kiếp kiếp không thọ thân nữ, không làm các việc của người nữ. Nay nhờ sức cúng
dường Phật và nghe Pháp, tất cả đều hồi hướng Phật Đạo, chỉ cầu thành Phật không
cầu gì khác”
Tức Thời Long Nữ ở trước mặt Đức Phật dùng Kệ khen rằng:
Mặt, mắt Thế Tôn
Cũng như trăng sáng
Thật là thanh tịnh
Không ai hơn được
Con ở ngày nay
Quy Y nghe Pháp
Với phước báo này
Đắc Đạo không sai
Con có Bảo Châu
Dâng lên Thế Tôn
Lợi ích hữu tình
Khiến được Pháp Bảo
Báo ân Đức Phật
Nguyện hộ Bí Giáo
Cầu cho tất cả 590
Đều thành Phật Đạo
Khi Thiện Nữ Long Nữ nói Kệ xong, bưng một bảo châu dâng lên Đức Như Lai
rồi nói rằng: “Cúi xin Đức Như Lai nhận bảo châu này. Đây là Như Ý Bảo Châu để tại
tráp báu bằng Thủy Tinh nơi đáy biển. Vua cha tự gìn giữ cung kính tôn trọng, không
cho các Rồng khác biết, cũng như bình báu Cam Lồ của Đế Thích hay mãn tất cả
nguyện. Nếu có hữu tình được bảo châu này, tất cả các nguyện, các việc làm đều đầy
đủ, tất cả Tất Địa đều thành tựu. Con nay trọng Pháp, liền xả tài bảo, dâng lên Thế Tôn
giá trị vô số. Ngưỡng mong Đức Thế Tôn Từ Bi nạp thọ”
Đức Phật dạy: “Này Long Nữ ! Nay ngươi vì muốn hộ Chánh Pháp mà dâng Bảo
Châu. Ta nay nhận lãnh bảo châu do Tín Tâm thanh tịnh của ngươi mà thôi, còn Ly
Long Bảo Châu thì Ta không nhận. Vì sao vậy ? Như Ý Bảo Châu tức là Phi Hữu Bảo
(báu chẳng phải có), Phi Vô Bảo (báu chẳng phải không), Bất Hữu Tình (chẳng phải
Hữu Tình), Bất Phi Hữu Tình (chẳng phải Phi Hữu Tình), Phi Thạch (chẳng phải đá),
Phi Kim (chẳng phải vàng), tự nhiên xuất ra Đàn Ba La Mật. Chư Phật Bồ Tát đều có
bốn loại bảo châu tức là Từ Bi Hỷ Xả dùng thí cho 25 loại hữu tình. Ở nơi Kim Cang
Bảo Tràng trong biển Pháp Giới có bảo châu thường tuôn mưa các món tài bảo công
đức Giới Định Tuệ vì các hữu tình khiến được đầy đủ sáu Ba La Mật, mười Địa, đủ
tám vạn Pháp Tạng. Cảnh giới của Nhân Gian và Long Cung tuy gần nhau nhưng Quả
Báo trên bờ dưới nước khác nhau. Nhân Gian cũng có Như Ý Bảo Châu, bảo châu
Thập Thiện của Chuyển Luân Thánh Vương là trên hết (tối thượng phẩm). Trung
Phẩm, Hạ Phẩm là tám Giới, năm Giới. Nhân Gian dầu nghe tên nhưng chẳng được
Thể ấy.
Nếu có kẻ thọ Trì Giới Phẩm Pháp, Luật Nghi… vì hộ Chánh Pháp lợi lạc Nhân
Thiên cho nên cầu Pháp Bảo ấy cũng được Chân Đà Ma Ni Bảo Châu. Bảo Châu này
ở trong Nhân Gian làm ra là Đại Bí Mật Như Ý Bảo Châu, không giống như Bảo
Châu tại Long cung. Rồng là Thủy Đức, Người là Hỏa Đức. Âm Dương xa khác lập
ra Bảo Châu cho nên cũng chẳng đồng với Minh Châu trong biển. Được người làm
Như Ý Bảo Châu thì việc này rất là hiếm có, chỉ là điều hư hão. Chính vì thế cho nên
Ta không thọ nhận Như Ý Bảo Châu của ngươi. Các ngươi hãy thủ hộ Chánh Pháp của
Ta và các loài hữu tình trong đời vị lai, đừng quên. Đó là Chân Châu, là Như Ý Bảo
Châu”
Đức Thế Tôn nói Pháp này xong thời Long Nữ được nghe Pháp, sanh tâm thâm
tín, bi cảm xót thương, nước mắt tuôn rơi, cúi năm vóc sát đất, bạch Phật rằng:”Thưa
Thế Tôn ! Con dầu chịu mất thân mạng, quyết không dám trái lời Phật dạy”
.)Phẩm Quán Đảnh Ấn Chân Ngôn (ĐTK_No.961) ghi chép là:
“Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói Căn Bản Đà La Ni là:
Ná mô hạt la đát-na đa-la dạ gia .Nam mô a lợi-gia bà lô cát đế thấp-ba la
gia, bồ đề tát đá ba gia, ma ha tát đá ba gia, ma ha ca lô ni ca gia
Đát nễ-gia tha: Úm, a mộ già ma ni, ma ha ma ni, bát đầu-ma, ma ni, toa ha
ᚼᜀ ᜐᾰᦤᜅᜄ
ᚼᜃ ゛㛾ᜨᜤᗚᚒ㫭ᜑᜄ ᜰᚲ ᝌᲱᜄ ᛸᝌᲱᜄ ᛸᗙ᜔ᚂ ᗙᜄ
ᚌ㜀ᚙ 㛸 ㅥᜀᗼᛸᚂ ᛸᛸᚂ ㆼ㝃ᛸᚂ 㛿
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ĀRYA AVALOKITEŚVARĀYA BODHI-SATVĀYA MAHĀ-
SATVĀYA MAHĀ-KĀRUṆIKĀYA
TADYATHĀ: OṂ_ AMOGHA-MAṆI MAHĀ-MAṆI PADMA-MAṆI
SVĀHĀ 591
Đức Phật nói Đà La Ni này xong, tức thời Long cung chấn động theo sáu cách,
tuôn mưa ngọc báu Như Ý như mưa mùa xuân tràn đầy giáng xuống.
Bấy giờ Đại Chúng đều được chứng Quả. Thiện Nữ Long Vương Nữ phát Tâm
Đại Bồ Đề, cũng phát Thệ rằng: “Con nguyện thủ hộ: Di Giáo, nơi có Di Thân (Xá
Lợi) của Như Lai, tại quốc thổ nào trong cõi người có thể tạo làm Như Ý Bảo Châu
Vương mà Đức Phật đã dạy…như giữ gìn sanh mạng của chính mình, khoác thêm
quần áo của mình liền tăng Bảo Uy (oai lực của vật báu) khiến được Tất Địa, không để
bị thiếu thốn. Chỉ thỉnh Thân con khiến hộ Bảo Châu, đào một cái ao báu để hoa sen
sinh trưởng; chẳng thấy người, súc vật. Chỉ cho A Xà Lê với Thị Giả vào, không cho
người khác vào. Con trụ trong đấy thủ hộ Bảo Châu, hộ trì Chánh Pháp”
[Namo ratna-trayāya: Quy mệnh Tam Bảo
Namaḥ Ārya-avalokiteśvarāya bodhistāyā mahā-satvāya mahā-
kāruṇikāya: Kính lễ Đấng có đầy đủ Tâm Đại Bi là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát Ma
Ha Tát
Oṃ: Nhiếp triệu
Amogha-maṇi: Bất Không Như Ý Bảo Châu
mahā-maṇi: Đại Như Ý Bảo Châu
padma-maṇi: Liên Hoa Như Ý Bảo Châu
svāhā: Quyết định thành tựu]
_Mật Chú Viên Nhân Vãng Sinh Tập (TTK_Tập 46_No.1956) ghi chép là:
.)Thỉnh Vũ Chú:
Do sức thật của Đức Phật cho nên hàng Đại Long Vương mau đến bên trong cõi
Diêm Phù Đề này, tuôn rót mưa lớn xuống chỗ đã cầu thỉnh.
.) Liền nói Chú là:
"Chỉ la chỉ la, chí lý chí lý, túc linh túc linh"
ᘔ㇂ᘔ㇂ ᘖᜒᘖᜒ 㮲᜔㮲᜔
*) Cara cara, ciri ciri, curu curu
Do sức thật của Đức Phật cho nên quát tháo các Long Vương. Ở bên trong đất
nước thỉnh mưa trong cõi Diêm Phù Đề liền tuôn rót mưa lớn.
Liền nói Chú là:
"Phát la phát la, tỳ lý tỳ lý, phất lý phất lý.
Đát niết đạt: Phát la phát la, hứ lợi hứ lợi, tô lỗ tô lỗ, ách cả nam, chỉ phát chỉ
phát, thạch tỳ thạch tỳ, mạt phất mạt phất"
テ㇂テ㇂ ᜪᜒᜪᜒ ᜬ᜔ᜬ᜔
ᚌᠼᚙ ᝌ㇂ᝌ㇂ ᝎᜒᝎᜒ 㫾᜔㫾᜔ ᚽᗱ㪤 ㅼテㅼテ ᘮᜪᘮᜪ ᘰᜬᘰᜬ
*) Vara vara, viri viri, vuru vuru
Tadyathā: Sara sara, siri siri, suru suru_ nāgānāṃ java jvaja, jivi jivi,
juvu juvu
.)Tiệt Vũ Chú (Chú chặt đứt cơn mưa):
"Án, tát linh-mạt ma mã hợp la ma đế cật linh đế, hồng
Chúng con là.... nguyện ủng hộ như Thần Chú này"
㫘 ᝌ㎟ ᛸᛸ ナ㇂ ᛸᚒ ⸈ᚒ 㜪
*) Oṃ_ sarva mama hara-mate kṛte hūṃ
Chúng con là.... nguyện ủng hộ như Thần Chú này
Hoặc tụng ba biến, bảy biến, 21 biến
592
.)Tiệt Bạc Chú (Chú chặt đứt mưa đá):
"Án, tát linh oát, cát lý ma"
㫘 ᝌ㎟ オ㜭
*) Oṃ_ sarva karma
_Chư Long Ấn:
Đem ngón tay phải hợp lưng bàn tay trái sao cho móng tay trụ trong lòng bàn tay
trái, hướng tay trái về thân, triệu vời ba lần.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᗽデᚾᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ MEGHĀŚANIYE SVĀHĀ
[Namaḥ samanta-buddhānāṃ: Quy mệnh khắp tất cả chư Phật
Meghāśaniye: Hàng tạo ra sấm chớp trong mây
Svāhā: quyết định đem lại sự tốt lành]
_Tây Tạng truyền dạy thêm hai câu Chú là:
.)OṂ _ NĀGA NĀGA ME
.)NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ VAJRA ME
_Do Long Vương có đủ sức uy thần rộng lớn, lại từng ở trước Đức Phật phát khởi
thệ nguyện rất sâu, muốn hộ trì Phật Pháp và người tu hành của Phật Giáo. Cho nên,
nếu như hay cúng dường Long Vương, khiến cho họ nhớ đến phát khởi Bản Thệ của
chính mình và sinh khởi tâm vui mừng lớn, thì hay hộ trì đất nước, tiêu trừ việc chẳng
lành, tai nạn cùng tăng trưởng Tài Bảo, sống lâu, khiến cho Cam Lộ nhuận khắp, ngũ
cốc chín đầy, đất nước an ổn, nhân dân an vui.
Long Vương cũng thuộc một trong những Tài Thần, cũng tức là hết thảy tất cả
Tài Thần. Đặc biệt là đất, nước đều thuộc Long Vương chủ quản, nếu như Long
Vương vui mừng, thì sẽ ban cho người cầu nguyện hết thảy tất cả tiền của giàu có,
Phước Đức, Công Đức….
Cúng dường Long Vương có rất nhiều công đức lợi ích như:
Chẳng dễ có tai hại tự nhiên như động đất, hồng thủy, hạn hán….
Thường ban cho trái đất sự tươi nhuận, khiến cho ngũ cốc, rau quả được mùa.
Được Phước Đức, sống lâu, tăng trưởng tiền của giàu có.
Cầu có con thì dễ nhận được con nối dõi.
Tất cả khấn cầu đều mãn nguyện.
593
NAN ĐÀ, BẠT NAN ĐÀ LONG VƯƠNG
Kinh Điển của Phật Giáo ghi nhận: Nan Đà Long Vương (Nanda-nāga-rāja) và
Bạt Nan Đà Long Vương (Upananda-nāga-rāja) là hai anh em Rồng, sau khi bị Đại
Đức Mục Kiền Liên giáng phục thời đều quy y theo Đức Phật Đà và cùng nhau phát
nguyện thủ hộ Phật Pháp, làm lợi ích cho chúng sinh, nên nhận được sự sùng kính của
người đời.
Hệ Mật Giáo ghi nhận: trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala), tại Ngoại Bộ Kim Cương Viện thời hai vị Long Vương này được an bày tại
ba cửa: Nam, Tây, Bắc … trong đó Nan Đà Long Vương ở bên, Bạt Nan Đà Long
Vương ở bên trái
594
1_ Nan Đà Long Vương (tên Phạn là Nanda), lại xưng là Nan Đồ Long Vương,
Nan Đầu Long Vương. Dịch ý là Hỷ Long Vương, Hoan Hỷ Long Vương. Do vị này
khéo hay thuận ứng với Tâm của con người, điều hòa gió mưa nên rất được người đời
hoan hỷ, vì thế có tên gọi là Hỷ Long Vương. Là một trong tám vị Đại Long Vương, là
bậc thượng thủ của Long Thần Hộ Pháp.
Tôn Hình: Thân màu thịt, trên đầu có 7 đầu Rồng. Tay phải để trước ngực cầm
cây kiếm. Tay trái nắm quyền , hoặc úp lòng bàn tay để ngang eo.
Chữ chủng tử là: NA (㗍)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
595
Thủ Ấn là Chư Long Ấn: Đem ngón tay phải hợp lưng bàn tay trái sao cho móng
tay trụ trong lòng bàn tay trái, hướng tay trái về thân, triệu vời ba lần.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼⵜᛈᚼⵕᜊ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ NANDOPANANDĀYA _ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ᚼⵕㆎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ NANDĀYA _ SVĀHĀ
2_ Ô Ba Nan Đà Long Vương (tên Phạn là Upananda) là em của Nan Đà Long
Vương, cùng với Nan Đà Long Vương là Đại Hộ Pháp Long Vương của Phật Giáo.
Tôn hình:Thân màu thịt, tay phải cầm cây kiếm, tay trái cầm sợi dây Rồng, trên
đầu có 7 cái đầu Rồng.
Chữ chủng tử là: U (ゞ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
596
_ Thủ Ấn là Nan Đà Bạt Nan Đà Nhị Long Vương Ấn:
Hai tay đều tự duỗi giương mười ngón, hai ngón cái cùng cài chéo nhau.
Ngón cái phải đè ở trên ngón cái trái, tức là Nan Đà Long Vương Ấn
Ngón cái trái để ở trên ngón cái phải tức là Bạt Nan Đà Long Vương Ấn.
Ấn này lại có tên là Cửu Đầu Long Ấn, Nhất Thiết Long Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㗍ⵜᛈ㗍ⵕㆎ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ NANDOPANANDĀYA _ SVĀHĀ
hay ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㖁ゞᛈᚼⵕㆎ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ _ UPANANDĀYA _ SVĀHĀ 597
NGHI THỨC TRÌ NIỆM ỦNG HỘ LONG THẦN
1_ Kính lễ:
Namo ratna-trayāya (Quy mệnh Tam Bảo)
Namo Śākya-muṇi-buddha (Quy mệnh Thích Ca Mâu Ni Phật)
Namaḥ Avalokiteśvara-bodhisatva (Kính lễ Quán Tự Tại Bồ Tát)
Namaḥ Vajra-pāṇi-bodhisatva (Kính lễ Kim Cương Thủ Bồ Tát)
Namaḥ Ananta-parikara-sāgara-megha-vyūha-tejo-maṇḍala-cchatrākāra-
nāgā-rāja (Kính lễ Vô Biên Trang Nghiêm Hải Vân Uy Đức Luân Cái Long Vương)
Namaḥ Susaṃṣṭhita-nāga-rāja (Kính lễ Thiện Trụ Long Vương)
Namaḥ Nandopananda-nāga-rāja (Kính lễ Hoan Hỷ, Hiền Hỷ Long Vương)
Namaḥ Anavatapta-nāga-rāja (Kính lễ Vô Nhiệt Não Long Vương)
Namaḥ Varuṇa-nāga-rāja (Kính lễ Thủy Thiên Long Vương)
Namaḥ Manasvī-nāga-rāja (Kính lễ Từ Tâm Long Vương)
Namaḥ sarva nāga-devatā-rājāya (Kính lễ tất cả Long Thần Vương)
Namaḥ sarva nāga-gaṇāya (Kính lễ tất cả chúng Rồng)
(Phật Từ Kim Cương Hộ Chú)
Oṃ_ Buddha-matri-vajra rakṣa māṃ (9 lần)
2_ Phát Nguyện:
Chí Tâm phát nguyện
Chuyển đọc Chân Ngôn
Công Đức Uy Lực
Thiên chúng Địa loại
Tăng nhiều Pháp Lạc
Các Đại Long Vương
Nghe Pháp lợi ích
Hộ Trì Quốc Thổ
Đại Việt Long Quân
Thân Rồng an ổn
Tăng trưởng Chính Khí
Thành tựu Bản Nguyện
Hộ giúp vạn dân
An cư lạc nghiệp
(Thí Nhất Thiết Chúng Sinh An Lạc Đà La Ni)
Tadyathā: Dhāraṇi dhāraṇi uttāraṇi saṃpratiṣṭhitā vijaya-varṇa satya-
pratijñā sahā-jñāna-vati utpādani vināśani abhiṣecani abhivyāhāra śubhāvati
ajīmatāmahi kumbāla-nivāhā, hara kleśān, dhunu pāpaṃ śodhaya-mārgān,
nirīhaka-dharmatā, śuddhāloka, vitimirā-rajasa, duḥkha-śamana, sarva-buddha-
avalokana-adhiṣṭhite, sahā-prajñā, jñābhe, svāhā (9 lần)
3_ Hồi Hướng:
Công Đức đã tu
Xin hồi hướng khắp
Thiên chúng Địa loại
Tất cả Long Thần
Chúng Rồng lớn nhỏ
Dứt trừ khổ não 598
Tăng trưởng niềm vui
Sau khi an vui
Nguyện các Long Thần
Hết thảy chúng Rồng
Hộ trì đất Việt
Giúp đỡ vạn dân
Xa lìa ách nạn
Sung túc giàu có
Quyết định thành tựu
(Như Ý Bảo Châu Vương Ấn Đà La Ni)
Namo ratna-trayāya
Namaḥ Ārya-avalokiteśvarāya bodhisatvāya mahāsatvāya mahā-
kāruṇikāya
Tadyathā: Oṃ_ Amogha-maṇi mahā-maṇi Padma-maṇi svāhā (9 lần)
_ Nguyện ngày an lành, đêm an lành
Trong tất cả Thời thường an lành
Nguyện xin Tam Bảo thương nhiếp thọ
Nguyện chư Long Vương thương nhiếp thọ
Nguyện chư Hộ Pháp thường ủng hộ
Namostu buddhāya
Namostu buddhāye
Namostu muktāya
Namostu muktāye
Namostu śāntāya
Namostu śāntāye
Namostu vimuktāya
Namostu vimuktāye (9 lần)
_ Nguyện cho tất cả chúng sinh thường được an vui
Nguyện cho tất cả chúng sinh mau lìa khổ não
Nguyện cho tất cả chúng sinh sớm khởi Từ Bi
Nguyện cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Đạo
Nam mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo (3 lần)
599
1_ Phật Từ Kim Cương Hộ Chú:
㫘 ᜬᦦ ᜨ᥄ ᜐᝤ 㫁
Oṃ_ Buddha-matri-vajra rakṣa māṃ
Oṃ: Nhiếp triệu
Buddha-matri-vajra: Phật Từ Kim Cương
rakṣa māṃ: Ủng hộ cho tôi
2_
ᚼᜀ㫌ᜬ㛱ᜄ㖁ᚼᜀ㫌ᜬ㛱ᜊ㖁ᚼᜀ㫌㪧㰊ᜄ㖁ᚼᜀ㫌㪧㭃ᜊ㖁ᚼᜀ㫌᜵
ⴽᜄ㖁ᚼᜀ㫌᜵ⴽᜊ㖁ᚼᜀ㫌ᜪ㪧㰊ᜄ㖁ᚼᜀ㫌ᜪ㪧㰊ᜊ
Namostu buddhāya: Kính lễ các Đấng Giác Ngộ
Namostu buddhāye: Kính lễ điều thuộc về các Đấng Giác Ngộ
Namostu muktāya: Kính lễ các Đấng đã được Giải Thoát
Namostu muktāye: Kính lễ điều thuộc về các Đấng đã được Giải Thoát
Namostu śāntāya: Kính lễ các Đấng dứt trừ tai nạn
Namostu śāntāye: Kính lễ điều thuộc về các Đấng dứt trừ tai nạn
Namostu vimuktāya: Kính lễ các Đấng khiến cho người khác được giải thoát
Namostu vimuktāye: Kính lễ điều thuộc về các Đấng khiến cho người khác
được giải thoát
600
QUYẾN THUỘC CỦA THIÊN THỦ QUÁN ÂM
Do hoá độ tất cả chúng sinh trong 25 Hữu nên Đức Thiên Thủ Thiên Nhãn
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều quyến thuộc, trong đó có 28 Bộ phụ giúp. Hầu hết
các Vị trong 28 Bộ này đều hộ trì cho người trì tụng Thần Chú Đại Bi vượt qua ách
nạn, xa lìa các Ma chướng, hàng phục các loài Ma Quỷ Thần hung ác và mau chóng có
phương tiện thuận lợi cho việc tu hành. Vì thế, nếu Hành Giả gặp việc cần thiết thì có
thể kết Ấn, niệm Chân Ngôn kêu gọi cầu khẩn giúp đỡ.
601
DANH XƯNG VÀ HÌNH TƯỢNG CỦA 28 BỘ CHÚNG
1. Mật Tích Kim Cương Sĩ: Màu thịt đỏ, mặc Giáp Trụ, tướng phẫn nộ, Tay trái
chống eo, cong khuỷu tay phải ngang ngực, cầm chày Kim Cương nằm ngang trong
lòng bàn tay.
2. Bát Bộ Lực Sĩ : Màu thịt đỏ, mặc áo xanh, tướng Phẫn Nộ, tay trái để ở eo,
lòng bàn tay phải hướng ra ngoài.
602
3. Ma Hê Na La Đạt: Mặc áo Giáp Kim Cương, tay trái duỗi khuỷu, tay phải
cầm cây đao lớn đâm xuống đất
4. Kim Tỳ La Đà: Mặc Giáp Trụ, tay trái để ở eo, tay phải rút cây đao lớn.
5. Bà Cấp Bà Lâu Na: Màu vàng trắng, mặc Giáp Trụ bằng vàng, tướng phẫn nộ,
tay trái để sát ngực, tay phải để cạnh eo cầm cây đao lớn
603
6. Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La: Mặc áo Cà Sa màu xanh, hơi cười, tay trái
nắm quyền để ở eo, tay phải cầm Hoa Sen.
7. Tát Giá Ma Hòa La: Màu đỏ hơi trắng, đội mão trang sức trên thân, hơi cười,
giận ít, giơ cánh tay trái lên duỗi 5 ngón tay, tay phải cầm cán búa
8. Cưu Lan Đan Tra: Màu xanh, mặc Giáp Trụ vàng ròng, hơi cười, tay trái để
bên cạnh ngực duỗi 5 ngón tay, tay phải rũ cánh tay xuống, cầm Đại Đao
604
9. Tất Bà Già La Vương: Màu đỏ trắng, mặc Giáp Trụ bằng vàng, hơi cười phẫn
nộ, tay trái nắm lại thành quyền để ở giữa rốn, tay phải cầm cây Tam Kích
10. Ứng Đức Tỳ Đa Tát Hòa La: Đầu đội mão ngọc, hơi phẫn nộ, hai tay bên
trái bên phải nắm lại cầm chày Độc Cổ
11. Phạm Ma Tam Bát La: Trang sức anh lạc trên thân, đầu đội mão Trời, như
Thiên Nữ, tay trái để ở cạnh rốn, tay phải cầm cây phất trần màu trắng
605
12. Diêm Ma La: Màu xanh lục, phẫn nộ, ngửa nhìn lên Trời, tay trái để ngang
ngực, tay phải duỗi 5 ngón tay để ở dưới eo
13. Thích Vương: Mang giày cỏ, tay trái nắm thành quyền để ở eo, tay phải cầm
chày Độc Cổ
14. Đại Biện Công Đức Bà Đát Na: Như Cát Tường Thiên Nữ, tay trái cầm cọng
Hoa Sen đỏ trên có Hoa Sen đỏ, tay phải để ngang ngực ngón cái và ngón giữa cùng
vịn nhau
606
15. Đề Đầu Lại Tra Vương: Mặc Giáp Trụ, tướng phẫn nộ, tay trái để ở eo lưng,
tay phải cầm chày Tam Cổ
16. Thần Mẫu Nữ Đẳng: Ngửa lòng bàn tay trái để trước ngực, lòng bàn tay phải
hướng ra ngoài, ngón cái và ngón giữa cùng vịn nhau
17. Tỳ Lâu Lặc Xoa: Mặc Giáp Trụ, tay trái cầm cây Tam Kích, tay phải cầm
cây đao lớn
607
18. Tỳ Sa Môn: Tay trái cầm cái Tháp, tay phải cầm chày Tam Cổ
19. Kim Sắc Khổng Tước Vương: Đầu là Chim công, từ vai trở xuống là hình
người, hai tay dùng một bàn chân của con chim công làm cây gậy
20. Đại Tiên Chúng: Hình Tiên Nhân, tay trái giơ cánh tay lên, cầm quyển Kinh,
tay phải cầm gậy
608
21. Ma Ni Bạt Đà La: Tóc đỏ kết hoa trang sức trên đầu, mặt như Thiên Nữ, hai
tay chắp lại
22. Tán Chi Đại Tướng Phất La Bà: Màu trắng, đội mão Trời, hơi cười phẫn
nộ, tay trái ngón cái vịn ngón giữa, tay phải cầm cây đao lớn
23. Nan Đà Bạt Nan Đà: Màu xanh lục, mặc Giáp Trụ, đầu đội con Rồng, tướng
phẫn nộ, tay trái để trước ngực rũ 5 ngón tay xuống, tay phải nắm quyền duỗi thẳng
ngón trỏ hướng lên trên.
609
24. Sa Già La Long Y Bát La: Tướng phẫn nộ, hai tay cầm Đại Đao đâm xuống
đất
25. Tu La Càn Thát Bà: Màu trắng, có 3 mặt 6 cánh tay, mỗi mặt có 3 con mắt.
Bên trái bên phải tay thứ nhất chấp lại. Bên trái bên phải tay thứ hai cầm Vành Mặt
Trời. Tay trái cầm Hoa Sen, tay phải cầm Bánh Xe
26. Ca Lâu Khẩn Na Ma Hầu La: Tướng phẫn nộ, tay trái để ở eo , tay phải
cầm cây đao lớn
610
27. Hỏa Lôi Điện Thần: Màu đen đỏ, đứng trong sóng màu đen, tướng phẫn nộ,
tay trái để trước ngực, tay phải làm tư thế đè xuống đất
28. Thủy Lôi Điện Thần: Màu xanh, do thân trú mưa, đứng trong sóng, như Quỷ
Thần ác, hai tay tác nội phộc để trước ngực
28 Bộ trên có thể được ghép thành 14 cặp như sau
1 ) Chủ và Bạn của Minh Chú Thần
Minh Chú Thần Bộ là Chủ của Minh Chú Thần
Chú Thần Sứ Giả Bộ là Bạn của Minh Chú Thần
2 ) Trụ Không và Trụ Địa
Đại Lực Thiên Bộ là Không Cư Thiên
Khoáng Dã Quỷ Thần Bộ là Trụ Địa Khoáng Dã Thần
3 ) Nội Ngoại Nhuận Lợi
Thủy Thần Bộ tức Thủy Nhuận là lợi bên ngoài (Ngoại lợi)
Thiện Thần Bộ tức tác thiện sung mãn là lợi bên trong (Nội lợi)
4) Tướng quân và Chiến đấu
Thần Tướng Bộ là Đại Thần Tướng Quân
Đấu Chiến Thần Bộ là chiến đấu vô địch
Do dựa vào Tướng Quân mà chiến đấu nên hợp thành một cặp. 611
5) Trụ Địa và Lưu Hành
Sơn Thần Bộ là Trụ núi (tức đứng yên)
Lưu Hành Thần Bộ là Lưu Hành Thần (tức di chuyển)
6) Tĩnh Lự cạn sâu
Phạm Thiên Bộ: là y theo Thiền mà hành nông cạn thì được thân Phạm Thiên
Na Hàm Bộ: là do Thiền Định thâm sâu mà sinh vào cõi Ngũ Tịnh Cư.
7) Thắng Nam Nữ Thiên trong Địa Cư Thiên
Đế Thích Thiên Bộ là Thắng Nam Thiên
Dục Giới Thiên Nữ Bộ là Thắng Nữ Thiên
8) Trì Quốc và Trì Đàn
Đất nước là nơi nương tựa của Hữu Tình còn Đàn Trường là nơi Thánh Nhân
giáng lâm.
Càn Thát Bà Bộ là Trì Quốc vì Đông Phương Thiên hay giữ gìn quốc thổ của Thế
Gian.
Dạ Xoa Thần Mẫu Bộ là Trì Đàn vì Thần Mẫu Ha Lợi Đế hay hộ Đàn Trường của
Quán Âm Bộ.
9) Hộ Quốc và Hộ Thế
Cưu Bàn Trà Bộ là Hộ Quốc vì Nam Phương Thiên hay làm cho vạn vật tăng
trưởng
Hộ Thế Thiên Bộ là Hộ Thế vì Tây Phương Thiên và Bắc Phương Thiên hay giúp
đỡ cho người ở Thế Gian.
10) Sở Trì và Năng Trì
Điểu Vương Bộ là Sở Trì vì có Chú Pháp Sở Trì
Đại Tiên Bộ là Năng Trì vì y vào đây mà có công của Năng Trì
11) Cần Hành và Trụ Phương
Đại Dược Xoa Bộ là Phi Hành Thiên Dược Xoa nên gọi là Cần Hành Dược Xoa
(Dược Xoa siêng năng đi lại)
Phương Bá Dược Xoa Bộ hay trụ phương thủ hộ nên gọi là Trụ Phương Dược
Xoa (Dược Xoa đứng theo phương vị của mình)
12) Ngoại Hải và Nội Hải
Hai Rồng Nanda và Upananda trụ bên ngoài, đi đến biển làm Tối Đại Long
Vương nên Xà Long Bộ là Ngoại Hải Long Vương
Sa Già Long Vương ở trong biển Ngọt làm Tối Đại Long Vương nên Hải Long
Bộ làm Nội Hải Long Vương.
13) Phi Thiên và Phi Nhân
A Tu La hay đánh nhau với chư Thiên mà phước đức chẳng bằng Trời. Càn Thát
Bà tuy ở chung cõi Trời nhưng phải thường tấu nhạc cho Đế Thích nghe nên phứơc
đức cũng chẳng bằng. Do đó cả hai loài này gọi là Phi Thiên Chúng Bộ.
Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già tuy tựa như người mà chẳng phải người
nên gọi là Phi Nhân Chúng Bộ.
14) Thượng Hạ Quỷ Thần
Lôi Điển Thần Bộ là Lôi Thần Tộc ở trên Hư Không
Địa Quỷ Thần Bộ là Quỷ Thần cư ngụ dưới đất
612
THỦ ẤN VÀ CHÂN NGÔN CỦA 28 BỘ CHÚNG
1 ) Nhị Thập Bát Bộ Tổng Nhiếp Ấn :
Chắp 2 tay lại để trống rỗng chính giữa (Hư Tâm Hợp Chưởng) mở 2 ngón út, 2
ngón trỏ phóng thẳng ra ngoài. Đứng thẳng đọc Chân Ngôn là :
KURU KURU_ TURU TURU _ JVARA JVARA _ SIRI SIRI _ SURU
SURU _ TRAJVARA _ SVĀHĀ
2 ) Nhị Thập Bát Bộ Tổng Minh Ấn :
Hai tay cài chéo 10 ngón trong lòng bàn tay rồi nắm lại thành quyền (Nội Phộc
Quyền) dựng đứng 2 ngón cái, hiển tướng giận dữ, niệm Chân Ngôn:
OṂ _ KUBERA _ SVĀHĀ
3 ) Nhị Thập Bát Bộ Chúng Ấn :
Hai tay cài chéo 10 ngón trong lòng bàn tay rồi nắm lại thành quyền, dựng thẳng
đứng 2 ngón giữa, co ngón trỏ và ngón út như hình vành xe (Luân). Niệm Chân Ngôn :
OṂ_ MUCI MUCI _ PIŚĀCANĀṂ HŪṂ HŪṂ_ BUDDHĀNĀṂ VAJRA
HŪṂ PHAṬ
4 ) Nhị Thập Bát Bộ Can Tâm Chân Ngôn :
NAMO MĀRĀ-RĀJA SADDHARMA PUṆḌARIKA _ OṂ RĪṬI _ SVĀHĀ
5 ) Thiên Long Bát Bộ Tập Hội Ấn :
Hư Tâm Hợp Chưởng, co 2 ngón cái vào trong lòng bàn tay, co 2 ngón út đè trên
móng 2 ngón cái, đưa 2 ngón trỏ qua lại. Niệm Chân Ngôn là :
OṂ_ SARVA DEVA NĀGA _ ANALE ANALE _ SVĀHĀ.
Soạn dịch xong Bộ Chư Thiên Hộ Pháp vào ngày 16/04/2014
613
TƯ LIỆU THAM CỨU
*) Hán Văn:
_Đại Chính Nguyên Bản Đại Tạng Kinh: Tập 18, Tập19, Tập 20, Tập 21
_ Mật Giáo Đồ Tượng: Tập 3, Tập 4, Tập 5, Tập 6, Tập 7, Tập 8, Tập 9, Tập 10
_ Phật Giáo Tiểu Bách Khoa: Từ quyển 1 đến quyển 18
_Phật Quang Đại Từ Điển
_Bách Khoa Toàn Thư
_Phật Giáo Thủ Ấn Đồ Thuyết_ Thi Vân Thủy biên soạn
_Mật Giáo Đại Tự Điển_ Tập 6
_Phật Tượng Đồ Vựng
_Nhiên Đăng Tạp Chí
*) Việt Văn:
_Thai Tạng Giới Man Đa La _ Huyền Thanh biên soạn
_Kim Cương Giới Man Đa La_ Huyền Thanh biên soạn
_Đại Bi Quán Âm Căn Bản Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Thập Nhị Thiên Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Tinh Tú Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Tranh Tượng và Thần Phổ Phật Giáo_Louis Frédéric_ Việt dịch Phan Quang
Định (NXB Mỹ Thuật_năm 2005)
_Một số bài dịch của Tống Phước Khải
*) Trang Web:
_buddha-dharma.org
_tangthuphathoc.net
_chuaminhthanh.com
_electricwombworld.blog.fc2.com
_zenheart.hk
_en.wikipedia.org
_zh.wikipedia.org
_haaram.com
_sriharivayuguru.blogsport.com
_fanbop.com
_fodian.net
_haripurush-jagadbandhu.org
_hindudevotionalpower.com
_speakingtree.in
_qcny.net
_baike.baidu.com
_Một số Tôn Tượng trên images của google.com và Tư Liệu của Tống Phước
Khải
614
MỤC LỤC
1_ Thay lời tựa ...............................................................................................Tr.01
2_Đế Thích Thiên............................................................................................Tr.06
3_Hỏa Thiên....................................................................................................Tr.20
.)Quyến thuộc của Hỏa Thiên ........................................................................Tr.39
4_Diệm Ma Thiên ...........................................................................................Tr.46
.)Quyến thuộc của Hỏa Thiên ........................................................................Tr.69
5_La Sát Thiên ................................................................................................Tr.73
.)Quyến thuộc của La Sát Thiên.....................................................................Tr.80
.)Mười nữ La Sát thủ hộ Kinh Pháp Hoa .......................................................Tr.84
6_Thủy Thiên ..................................................................................................Tr.90
7_ Phong Thiên .............................................................................................Tr.106
.) Quyến thuộc của Phong Thiên..................................................................Tr.115
8_Tỳ Sa Môn Thiên.......................................................................................Tr.119
.)Quyến thuộc của Tỳ Sa Môn Thiên ...........................................................Tr.138
.)Tài Bảo Thiên Vương ................................................................................Tr.140
.)Bảo Tàng Thần...........................................................................................Tr.151
.)Tam Diện Lục Tý Tài Thần .......................................................................Tr.163
.)Quyến thuộc Dược Xoa của Tỳ Sa Môn Thiên .........................................Tr.165
.)Tán Chi Dược Xoa Đại Tướng ..................................................................Tr.169
.) Na Tra Thái Tử .........................................................................................Tr.175
.) Tôn Thắng Thái Tử...................................................................................Tr.180
9_Y Xá Na Thiên ..........................................................................................Tr.181
.) Quyến thuộc của Y Xá Na Thiên.............................................................Tr.190
.) Kỹ Nghệ Thiên Nữ...................................................................................Tr.196
.) Tỳ Na Dạ Ca ............................................................................................Tr.198
.) Ma Ha Ca La (Đại Hắc Thiên Thần) .......................................................Tr.210
.) Đồ Cát Ni (Ḍākiṇī)...................................................................................Tr.224
.) Cưu Ma La Thiên.....................................................................................Tr.234
10_Phạm Thiên..............................................................................................Tr.241
.) Biện Tài Thiên .........................................................................................Tr.253
11_Địa Thiên.................................................................................................Tr.258
.)Trì Thế Bồ Tát...........................................................................................Tr.271
12_Nhật Thiên...............................................................................................Tr.282
.) Bắc Đẩu Thất Tinh...................................................................................Tr.295
.) Cửu Diệu ..................................................................................................Tr.304
13_Nguyệt Thiên...........................................................................................Tr.335
.) Mười hai cung..........................................................................................Tr.347
.) Nhị Thập Bát Tú ......................................................................................Tr.362
14_Trì Quốc Thiên ........................................................................................Tr.406
15_Tăng Trưởng Thiên .................................................................................Tr.413
.) Quyến thuộc của Tăng Trưởng Thiên......................................................Tr.419
16_Quảng Mục Thiên....................................................................................Tr.422
17_Kim Cương Tồi Thiên.............................................................................Tr.430
18_ Na La Diên Thiên...................................................................................Tr.434
.) Cát Tường Thiên Nữ................................................................................Tr.443
19_ Huỳnh Hoặc Thiên .................................................................................Tr.465 615
20_ Tuệ Tinh Thiên.......................................................................................Tr.469
21_ Kim Cương Thực Thiên .........................................................................Tr.473
22_ Kim Cương Y Thiên...............................................................................Tr.477
23_ Kim Cương Diện Thiên..........................................................................Tr.481
24_ Điều Phục Thiên.....................................................................................Tr.485
25_ Ma Lợi Chi Thiên...................................................................................Tr.488
26_ Bảo Tạng Thiên......................................................................................Tr.499
27_ Ha Lợi Đế Mẫu.......................................................................................Tr.503
28_ Thập Lục Thiện Thần.............................................................................Tr.512
29_ Thâm Sa Đại Tướng ...............................................................................Tr.530
30_ Tuyết Sơn Ngũ Trường Thọ Nữ.............................................................Tr.540
31_ Ca Lâu La ...............................................................................................Tr.547
32_ Thường Cầu Lợi Đồng Nữ .....................................................................Tr.558
33_ Rồng .......................................................................................................Tr.565
.) Nan Đà Bạt Nan Đà Long Vương............................................................Tr.592
.) Nghi Thức trì niệm ủng hộ Long Thần....................................................Tr.596
34_ Quyến thuộc của Thiên Thủ Quán Âm..................................................Tr.599
35_ Tư Liệu tham cứu ...................................................................................Tr.612
36_ Mục lục...................................................................................................Tr.613
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét