Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

kinh địa tạng bản nguyện giải nghĩa

ã

1

KINH
ĐỊA TẠNG BẢN NGUYỆN
GIẢI NGHĨA
TOÀN KHÔNG ĐỖ ĐĂNG TIẾN


NAM MÔ ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT



 ã

2

KINH
ĐỊA TẠNG BẢN NGUYỆN
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng 
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh 
GIẢI NGHĨA

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 4
QUYỂN THƯỢNG
TỰA KINH. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 5
PHẨM 1: Thần thông trên cung Trời Đạo Lợi . . . . . . . . . . .  9
1.  Đức Phật hiện thần thông . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
2.  Trời Rồng hội họp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .11
3.  Đức Phật phát khởi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
4.  Trưởng giả Tử phát nguyện . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  16
5.  Bà La Môn Nữ cứu Mẹ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .18
PHẨM 2: Phân thân tập hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 27
1.  Hóa thân cùng quyến thuộc . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  27
2.  Đức Phật an ủi ủy thác . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  28
PHẨM 3: Quán chúng sinh nghiệp duyên . . . . . . . . . . . . . .  33
1.  Phật Mẫu thưa hỏi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
2.  Bồ Tát lược thuật . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  34
PHẨM 4: Nhiệp cảm của chúng sinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
1.  Bồ Tái vâng chỉ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 39
2.  Bồ Tát Định Tự Tại Vương bạch hỏi . . . . . . . . . . . . 41
3.  Ông Vua nước lân cận . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  41
4.  Quang Phục cứu mẹ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 44
5.  Tứ Thiên Vương hỏi Phật . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  50
6.  Phương tiện giáo hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  50
7.  Kệ Bản nguyện Địa Tạng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 54
QUYỂN TRUNG 
PHẨM 5: Danh hiệu Địa Ngục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  55
1.  Bồ Tát Phổ Hiền hỏi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .   55
2.  Danh hiệu Địa Ngục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 55
3.  Tội báo Địa Ngục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 59
PHẨM 6: Đức Phật tán thán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  60
1.  Đức Phật phóng hào quang dặn bảo . . . . . . . . . . . . . 60
2.  Bồ Tát Phổ Quảng thưa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  61
3.  Đức Phật dạy sự lợi ích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  63
4.  Khỏi thân nữ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 64
5.  Thân thể đẹp đẽ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  66
6.  Quỷ Thần hộ vệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  67 ã

3

7.  Khinh chê mắc tội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  68
8.  Tiêu diệt tội chướng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 70
9.  Siêu độ Vong Linh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 74
10. Khỏi bị Nô Lệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .75
11. Sinh con dễ nuôi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  76
12. Ngày Thập Trai tụng Kinh được Phúc . . . . . . . . . . . 77
13. Danh hiệu của Kinh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  80
PHẨM 7: Lợi cả kẻ sống và người chết . . . . . . . . . . . . . . .   82
1.  Khuyên tu Thánh Đạo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  82
2.  Trưởng Giả bạch hỏi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  86
3.  Người sống kẻ chết đều lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  86
PHẨM 8: Vua Diêm La khen ngợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  89
1.  Vua Diêm La và Quỷ Vương vân tập . . . . . . . . . . .  89
2.  Vua Diêm Vương Bạch Phật . . . . . . . . . . . . . . . . . . 92
3.  Đức Phật giảng sở nhân . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 92
4.  Quỷ Vương trình thiện nguyện . . . . . . . . . . . . . . . .  96
5.  Chủ mạng trình thưa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  97
6.  Khi sinh nở nên làm lành tránh làm ác . . . . . . . . . .  97
7.  Lúc chết nên tu Phước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 98
8.  Đức Phật căn dặn . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 99
9.  Đức Phật thọ ký chủ mạng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 100
PHẨM 9: Xưng danh hiệu Chư Phật . . . . . . . . . . . . . . . . .  102
          Kệ bản hạnh Địa Tạng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  102
QUYỂN HẠ
PHẨM 10: So sánh công đức Bố thí . . . . . . . . . . . . . . . . .  110
PHẨM 11: Địa Thần hộ Pháp . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  115
PHẨM 12: Thấy nghe được lợi ích . . . . . . . . . . . . . . . . . .  121
1.  Đức Phật phóng quang tuyên cáo . . . . . . . . . . . . . . 121
2.  Quan Thế Âm cầu thỉnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 122
3.  Đức Phật tán thán hứa khả . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 122
4.  Thấy nghe thêm phúc Trời . . . . . . . . . . . . . . . . . .   123
5.  Người bệnh được lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  125
6.  Tiên Vong được phước . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  127
7.  Nguyện lớn sớm thành . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 130
8.  Được trí tuệ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  131
9.  Tai nạn tiêu trừ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  133
10.  Khỏi hiệm nguy . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  134
11.  Kệ lưu truyền Kinh Địa Tạng . . . . . . . . . . . . . . . . 135
PHẨM 13: Đức Phật dặn cứu độ Trời Người . . . . . . . . . . 143
1.  Đức Phật giao phó . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 143
2.  Bồ Tát tuân chỉ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .  144
3.  Bồ Tát Hư Không Tạng bạch hỏi . . . . . . . . . . . . .  145
4.  Hai mươi tám điều lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 145
5.  Bảy điều lợi . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 148
6.  Đại hội tán thán . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 150
 ã

4

LỜI MỞ ĐẦU

     Mọi người đều thấy trong nhiều Chùa có thờ tượng Bồ Tát Địa Tạng đứng hoặc
ngồi, tay phải cầm Tích trượng, tay trái cầm ngọc Như ý, chân trái để trên đài hoa
sen. Đầu Ngài đội mũ Hoa quang, đặc biệt mặt Ngài có lông trắng xoáy giữa hai
chân mày (Bạch hào) mà thường Chư Phật mới có. Nếu hiểu Bồ Tát Địa Tạng
xuống địa ngục làm giáo chủ, dùng tích trượng đập phá cửa địa ngục để cứu vớt
chúng sinh, khi chúng ta chí thành niệm danh hiệu của Ngài, nhưng tin một cách
thật thà như vậy có đúng không? 
     Nếu chúng ta hiểu một cách đơn giản rằng Địa Tạng là một vị Bồ Tát có hình
tướng, thì chúng ta đã chấp ngón tay là mặt trăng. Nếu thật sự có một Bồ Tát Địa
Tạng đủ khả năng đập phá cửa địa ngục, thì chúng ta khỏi cần học kinh, không cần
làm lành tránh làm ác, chẳng cần tu hành v.v…, mà chỉ cần một lòng cầu Bồ Tát,
chờ đến lúc chết sẽ có Ngài đến cứu; như vậy thì nhân nào quả ấy không có ý
nghĩa nữa và nghiệp báo nhân qủa là vô dụng sao? 
     Trước khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt ở rừng Ta La Song Thọ, Ngài
đã dạy rằng: "Các ông hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chính pháp". Nếu
chúng ta không tự thắp đuốc lên mà đi, cứ trông cầu nơi Phật, Bồ tát, thì chúng ta
đã rơi vào thần quyền, mà trông vào thần quyền thì chỉ là hão huyền đó! Chư Phật
và chư Bồ tát không phải hoàn toàn không có tha lực đối với chúng sinh, nhưng tha
lực của các Ngài chỉ là sức trợ duyên mà thôi.
     Kinh Hoa Nghiêm nói: Tâm chúng ta như người thợ vẽ, vẽ ra Ngũ uẩn (Sắc,
Thụ, Tưởng,  Hành, Thức), chúng tạo tác do vọng tâm. Chúng sinh bị đọa địa
ngục, đó là chúng sinh trong tâm bị đọa lạc vào tham, sân, si, mạn, nghi, tật đố,
ghen tị, v.v... Muốn giải phóng chúng sinh của tâm khỏi khổ thì phải tu hành, phải
dùng tự tánh Địa Tạng của chính mình, nghĩa là phải tu tâm; khi giác ngộ là giác
ngộ tự tâm, cho đến lúc thành đạo cũng là thành tựu cái bản tâm vậy.
     Phần nhiều kinh điển Bắc truyền có nghĩa lý sâu xa, nên khi chấp chặt vào lời
nói chữ viết, nghĩa là hiểu một cách quá thật thà theo nghĩa đen, thì sẽ không thể
lãnh hội được ý Kinh muốn chỉ. Cũng vì thấy có nhiều người hiểu lầm, nên chúng
tôi cố gắng tìm hiểu ý kinh Địa Tạng này, để giải thích ý nghĩa thật mà Kinh muốn
nói để cống hiến đến những người có duyên đọc. Sau chót, mặc dù cố gắng trong
việc giải thích và trình bày, nhưng còn có khiếm khuyết, xin qúy vị Thiện Tri Thức
chỉ cho, tác giả xin chân thành đa tạ vô cùng.

NAM MÔ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Cali. USA, Phật Lịch năm 2559, ngày 28-7-2015
Toàn Không Đỗ Đăng Tiến
 ã

5

KINH
ĐỊA TẠNG BẢN NGUYỆN
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng 
Việt Dịch: Hòa Thượng Thích Trí Tịnh 
GIẢI NGHĨA

QUYỂN THƯỢNG
TỰA KINH
Chí tâm quy mạng lễ:
U minh Giáo chủ Bản tôn
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lạy đức Từ bi đại Giáo chủ!
Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh mưa báu số không lường.
Lành, tốt trang nghiêm cảnh dị thường,
Người, Trời bạch Phật: Nhân gì thế?
Phật rằng Địa Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng,
Nay con sẵn có thiện nhân duyên,
Ngợi khen Địa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành,
Trải bao số kiếp độ sinh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,
Tay cầm châu sáng tròn vin,
Hào quang soi khắp ba nghìn Đại thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Đài cao trước cảnh soi liền tội căn,
Địa Tạng Bồ Tát thượng nhân,
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh,
Đại Từ, Bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.
 ã

6

GIẢI NGHĨA: 
Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng là lời Kinh, chữ thẳng thường để
giải  thích,  chúng  ta cùng  theo dõi;  nếu  chúng  ta đọc  rồi quán  chiếu  lời Kinh kỹ
càng thì sẽ thấy:
Chí tâm quy mạng lễ: 
     Đây là tâm trí hết lòng cung kính tôn trọng. 

U minh Giáo chủ bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát: 
     U minh biểu trưng ngu si nên mê mờ u tối, Địa là đất là nơi chỗ, Tạng là A Lại
Đa Thức, Tạng thức của mỗi người. Giáo chủ Bản Tôn Địa Tạng là bản tâm, tự
tính, nơi Tạng thức của chính mình, là Bản tôn Địa Tạng của mình, giáo chủ của
chúng sinh trong tâm còn đang mê mờ u tối.

Lạy đức Từ bi đại Giáo chủ!
Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ.
     Địa là tâm địa, tâm địa thì bền vững không gì phá hoại được, nên nói “dày
chắc”; Tạng là A Lại đa thức, là thức thứ Tám của Duy thức học, khi một người
làm ác, như giết người chẳng hạn, thì năm thức đầu (Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân
thức) và Ý thức (thức thứ Sáu) đưa tin tức ấy cho thức thứ Bảy (Mạt Na thức).
Thức thứ Bảy mang ngay dữ kiện này vào cất giữ ở trong thức thứ Tám, thức này
có nhiệm vụ chứa tất cả nghiệp lành dữ từ nhiều kiếp đến ngày hôm nay nên nói
“Tạng chứa đủ” là vậy.

Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh mưa báu số không lường,
Lành, tốt trang nghiêm cảnh dị thường,
     Cõi nước phương Nam là Nam Thiệm Bộ Châu tức cõi Diêm Phù Đề. Bốn câu
này  là khi mình đã nhận  ra Bản Tôn Địa Tạng,  tức  là nhận  ra bản  tính, bản  tâm,
Phật tính của mình rồi thì tất cả ngoại cảnh đều tốt đẹp trang nghiêm. Như bốn câu
này diễn tả, nào là mây thơm, hương thơm kỳ đặc, hoa rải bay vần vũ, nào là mây
màu năm sắc đẹp đẽ, mưa nước cam lộ báu do Chư Thiên cúng dàng đầy khắp.
Người, Trời bạch Phật: Nhân gì thế?
Phật rằng Địa Tạng đến Thiên đường!
     Người, Trời khi thấy những cảnh lạ như trên hiện ra thì thắc mắc hỏi Phật, Ngài
trả  lời  là Bồ Tát Địa Tạng đến, có nghĩa  là Bản  tôn Địa Tạng hiển  lộ,  tức  là cái ã

7

Tâm  thanh  tịnh, chân không diệu hữu, cái Tâm giác ngộ ứng hiện,  là biểu  tượng
một vị đạt đạo nên mới có cảnh hương thơm, mưa hoa, mây đẹp vần vũ, mưa nước
báu cam lộ. 
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng.
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng,
     Khi đã giác ngộ rồi thì ba đời Chư Phật đều khen ngợi sự đạt đạo của người đó,
mười phương Chư Bồ Tát cùng tin tưởng, mười phương Chư Bồ Tát thấy có một vị
đạt đạo nên cùng đến tham kiến để học hỏi nên nói là chung tin tưởng. 
Nay con sẵn có thiện nhân duyên,
Ngợi khen Địa Tạng đức vô lượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành,
Trải bao số kiếp độ sinh khỏi nàn,
     Thiện nhân duyên là may gặp được Phật pháp, khi khen Địa Tạng công đức vô
lượng thì tâm mình phải là tâm Đia Tạng mới phải lẽ. Có lòng từ tức là do tâm từ
và tâm từ chứa vô lượng hạnh lành, dù trải qua vô vàn kiếp để cứu độ chúng sinh
cũng không ngại gian nan, nghĩa  là dù chúng  ta có  trải qua bao  lâu đi chăng nữa
chúng ta vẫn một tâm cứu giúp chúng sinh. Mỗi một niệm tham, sân, si, mạn, nghi,
tật đố, ganh ghét, buồn, vui, hơn, thua, được, mất, vinh, nhục, v.v… là một chúng
sinh trong ta. Ta phải độ cho hết không còn một chúng sinh nào trong tâm ta mới
hoàn tất nhiệm vụ, tức là khi không còn một chúng sinh nào trong tâm ta mới chịu
thành Phật. Đây là ý nghĩa của kinh nói khi nào hết chúng sinh trong Địa ngục thì
ngài Bồ  Tát Địa  Tạng mới  thành  Phật. Mà  chúng  sinh  là  ở  trong  tâm  của mỗi
người, khi  tu hành  lâu dần sẽ hết  thói hư  tật xấu  thì sẽ hết chúng sinh  trong  tâm,
chứ  chẳng  phải  với  ý  nghĩa  khi  nào  hết  chúng  sinh  trong  địa  ngục, Bồ Tát Địa
Tạng mới  thành Phật đâu mà  lầm, vì  sẽ  chẳng bao giờ hết  chúng  sinh  trong  địa
ngục cả.
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,
     Trong tay Bồ Tát Địa Tạng cầm Tích Trượng có 4 cái khoen vòng tượng trưng
cho Tứ Đế, có 12 khuy  tượng  trưng 12 Nhân duyên; cũng có khi Ngài cầm Tích
Trượng có 6 vòng khoen tượng trưng cho 6 căn. Tích Trượng ví như gậy vàng, vì
dẹp được Tứ Đế (khổ), thoát khỏi 12 Nhân duyên (luân hồi), 6 căn hết vướng mắc
6  trần,  lúc đó gậy vàng dộng  tan  cửa Địa ngục vô minh  của  tham,  sân,  si, mạn,
nghi, tật đố, ganh tị, v.v… để cứu độ toàn thể chúng sinh của chính mình. Chẳng ã

8

phải với ý nghĩa cho rằng Bồ Tát Địa Tạng xuống Địa ngục, rồi dùng Tích trượng
ví như gậy vàng đập phá vỡ cửa của Địa ngục để cứu thả ra tất cả chúng sinh đang
bị nhốt đâu mà lầm.
Tay cầm châu sáng tròn vin,
Hào quang soi khắp ba nghìn Đại thiên.
     Tay Ngài cầm châu ngọc sáng chói, đây là ngọc tâm. mỗi người đều có, khi hết
sạch  tham  sân  si, kiêu mạn,  tật đố, ganh  tị v.v… và  thực hành  sáu độ bố  thí,  trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đầy đủ rồi thì sẽ đạt giải thoát. Lúc đó
ngọc tâm sáng chói hiển bày, nên hào quang soi khắp ba nghìn Đại Thiên, nghĩa là
Phật  tánh hiển bày chiếu khắp cõi Phật,  tức  là khắp giải Ngân Hà, như  thế  là đạt
đạo vậy. 
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Đài cao trước cảnh soi liền tội căn,
     Diêm Vương đối  trước mặt  tội nhân  thì  thật  là dữ dằn khiếp sợ, đài cao  trước
cảnh soi liền tội nhân, nghĩa là khi chúng ta làm bất cứ chuyện gì dù lành dù ác đều
được Mạt Na Thức thứ 7 truyền vào ngay cho A Lại Đa Thức ghi giữ, chứ không
thể  giấu  giếm  được. Chẳng  cần  phải  điều  tra,  dù  có  trốn  tránh  được  ở  thế  gian
nhưng chẳng  thể nào giấu khỏi  tâm  thức của mình, vì  thế cho nên nói: “Đài cao
trước cảnh soi  liền  tội căn”,  làm bất cứ việc gì đều được  thức ghi giữ ngay  tức
khắc, như cảnh tới trước gương liền có hình. Diêm Vương chính là mình, mình là
Diêm Vương ghi tội của mình vậy, Phật giáo chẳng cần áp dụng hình phạt, chỉ cần
nói ra sự thật này thôi, hãy tự liệu lấy mình mà hành động; biết như vậy rồi bạn có
dám làm ác không?
Địa Tạng Bồ Tát thượng nhân,
Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh,
Đại Từ, Bản Tôn Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. 
     Địa Tạng Bồ Tát chứng minh cho công đức của chính mình, tâm mình là nguồn
gốc  của mọi  công đức  và  cũng  là nguồn  gốc  của mọi việc  ác,  chính  tâm  là  giải
thoát mà cũng là luân hồi sinh tử, nên tự tâm mình sẽ chứng minh cho mình vậy.
Người vì Bản tôn Địa Tạng Bồ Tát của mình thì phải luôn luôn thể hiện Địa Tạng
tự tánh của mình bằng từ bi, bằng thệ nguyên rộng lớn độ cho hết chúng sinh trong
địa ngục, bằng  tu hành để phá đổ tường  thành vô minh hầu cứu vớt mình ra khỏi
địa ngục tham sân si mạn, v.v… của chính mình. ã

9

PHẨM THỨ NHẤT
THẦN THÔNG TRÊN
CUNG TRỜI ĐẠO LỢI

1). PHẬT HIỆN THẦN THÔNG

     Tôi  nghe  như  thế  này: Một  thuở  nọ,  tại  cung  trời Đạo  Lợi  (1), Đức Phật  vì
Thánh Mẫu  (2) mà  thuyết pháp. Lúc đó, bất khả  thuyết bất khả  thuyết  (3),   Chư
Phật và Chư Bồ Tát trong vô lượng thế giới ở mười phương đều đến hội họp, rồi
đồng khen ngợi rằng:
     Đức Phật Thích Ca có  thể ở  trong đời ác Ngũ  trược  (4) mà hiện sức “đại  trí
huệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn” để điều phục chúng sinh cang cường (5) làm
cho họ hiểu rõ pháp khổ pháp vui (6).
     Khen xong, Chư Phật đều sai Thị giả (7) kính thăm Thế Tôn (8).
     Bấy giờ Đức Như Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vầng mây sáng rực rỡ lớn;
như là vầng mây sáng đầy đủ, vầng mây sáng đại từ-bi, vầng mây sáng đại trí-huệ,
vầng mây sáng đại bát-nhã, vầng mây sáng đại tam-muội, vầng mây sáng đại kiết-
tường, vầng mây  sáng đại phước-đức, vầng mây  sáng đại quy-y, vầng mây  sáng
đại tán thán.... 
     Đức Phật phóng ra bất khả thuyết vầng mây sáng rực rỡ như thế rồi lại phát ra
các thứ tiếng vi diệu. Như là: Tiếng bố-thí- độ, tiếng nhẫn-nhục- độ, tiếng tinh-tấn-
độ,  tiếng  thiền-  định-  độ,  tiếng  bát-nhã-  độ,  tiếng  từ-bi,  tiếng  hỷ-xả,  tiếng  giải-
thoát,  tiếng  vô-lậu,  tiếng  trí-huệ,  tiếng  sư-tử-hống,  tiếng  đại  sư-tử-hống,  tiếng
mây-sấm, tiếng mây-sấm lớn ….

GIẢI NGHĨA:
(1)Trời Đạo Lợi: Cõi Trời Đạo Lợi là tầng trời thấp nhất của 6 cõi Trời Dục giới
nằm trên đỉnh núi Chúa Tu Di cao một trăm sáu mươi tám nghìn do tuần (168,000
x 17.5 = 2,940,000 cây số). Đạo Lợi cũng gọi là cõi trời Ba Mươi Ba, vì tầng trời
này 4 phương mỗi phương có 8 nước thành 32, cộng với nước ở giữa gọi là thành
Thiện Kiến mỗi chiều rộng 80,000 do tuần (80,000 x 17.5 = 1,400,000 cây số) của
Vua Đế Thiên Đế Thích, Vua cai quản  thống  lãnh cả 33 nước Trời, mà dân gian
Việt Nam thường gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
(2)  Thánh  Mẫu:  Bà  Ma  Gia  (Maha  Maya)  Hoàng  hậu  của  Vua  Tịnh  Phạn
(Suddhodana)  thuộc qúy  tộc Thích Ca  (Sakya) họ Cù Đàm  (Gotama)  sau khi hạ
sinh Hoàng tử Sĩ Đạt Ta (Siddhartha) được bảy ngày thì Hoàng hậu băng hà, sinh
lên cõi trời Đâu Suất. Khi đức Phật đã trên 70 tuổi, Ngài thể theo lời thỉnh của Vua
Trời Đế Thích và vì ân sinh thành của Mẫu thân, nên Ngài đã đến cõi Trời Đạo Lợi ã

10

trong 3 tháng, Ngài ngồi kết già có thân hình kín khắp tảng đá pháp tòa mỗi chiều
một do tuần (18 cây số) trong Thiện Pháp-Đường để thuyết pháp cho Mẫu thân từ
tầng Trời Đâu Suất đến, và giáo hóa vô số Chư Thiên các tầng Trời.
(3) Bất khả thuyết: Không thể nói, nghĩa là vô số, vô lượng, để diễn tả con số qúa
lớn.
(4) Ngũ trược: Năm khổ còn gọi là ngũ trọc, đó là:
1 – Kiếp trọc: Chúng ta đang ở trong kiếp có nhiều bệnh tật sinh ra, nhiều nơi đói
kém, chiến tranh, thiên tai, tai nạn, gây chết chóc nên gọi là kiếp trược.
2 – Kiến trọc: Nhiều người có tà kiến, thấy biết sai lầm, có nhiều loại tà kiến thịnh
hành, tin tưởng mù quáng mà không biết nên gọi là kiến trược.
3 – Phiền não trọc: Chúng sinh có nhiều tham dục, sân hận, si mê điên đảo, tâm
thần phiền loạn, gọi là phiền não trược.
4 – Chúng sinh trọc: Nhiều chúng sinh không theo luân lý đạo đức, không sợ qủa
báo, gọi là chúng sanh trược.
5 – Mệnh trọc: Thọ mạng của con người ngắn ngủi, chết bất cứ  lúc nào  từ chưa
sinh ra tới khi già, gọi là mạng trược. 
(5) Cang cường: Tính nết ương ngạnh bướng bỉnh khó nói được, khó dạy bảo.
(6) Pháp khổ pháp vui: Pháp khổ là chỉ ra những sự buồn phiền, nguyên nhân gây
ra khổ, Pháp vui  là  tu hành diệt buồn khổ, đạt Thánh đạo, chứng qủa giải  thoát;
Giáo pháp của Phật dạy chúng  sinh nhận biết  thấy  rõ  sự khổ, dạy cách  trừ buồn
diệt khổ, dạy chúng sinh nhận biết thấy rõ cách tu hành làm cho đươc vui.
(7) Thị giả: Là người hầu cận của một vị sợ quả báo của việc làm ác, của một vị
Phật, của một vị thầy, của một vị Thiền sư, của một Cao tăng; như Tôn giả A-Nan-
Đà là Thị giả, người hầu cận Đức Phật Thích-Ca khi Ngài còn tại thế.
(8) Thế Tôn: Là một trong 10 danh hiệu của Chư Phật.

     Đoạn đầu  của Phẩm Thứ Nhất,  chúng  ta  thấy nói bảy điều đáng  tin như  sau:
Điều thứ nhất là “Tôi nghe” là chỉ cho Tôn giả A Nan là người nghe và  thuật  lại
thành văn; điều thứ hai là “như thế này” là lời Phật nói để mọi người tin. Điều thứ
ba là “Một thuở nọ” để chỉ thời gian nói kinh; điều thứ tư là “Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni”  là vị chủ  tọa  thuyết pháp; điều  thứ năm  là “vì Thánh Mẫu mà  thuyết
pháp” là mục đích của thuyết pháp. Điều thứ sáu là “tại cung Trời Đạo Lợi” là địa
điểm nơi giảng kinh; điều thứ bảy nói tới thành phần tham dự gồm có Chư Phật và
Bồ Tát mười  phương  hội  họp, Thánh Mẫu, Chư Thiên  các  tầng  trời,  các  Thần,
Long, Qủy đến nghe pháp. 
     Kế  tiếp, Chư Phật và Chư Bồ Tát  trong vô  lượng  thế giới ở mười phương đều
đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng: “Đức Phật Thích Ca có thể ở trong đời ác
Ngũ Trược mà hiện sức “đại trí huệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn” để điều phục ã

11

chúng  sinh  cang  cường  ngang  ngạnh,  làm  cho  họ  hiểu  rõ  pháp  khổ  pháp  vui”;
khen xong, Chư Phật đều sai Thị giả kính thăm Phật Thích Ca.

     “Bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mỉm cười phóng ra trăm nghìn vầng mây
sáng rực rỡ lớn, như là vầng mây sáng đầy đủ, vầng mây sáng đại từ-bi, vầng mây
sáng đại  trí-huệ, vầng mây sáng đại bát-nhã, vầng mây sáng đại  tam-muội, vầng
mây sáng đại kiết-tường, vầng mây sáng đại phước-đức, vầng mây sáng đại quy-y,
vầng mây sáng đại tán  thán...”. Đức Phật mỉm cười  là vì nhân duyên  lớn, nên do
tiếng cười phát ra những vầng mây rực rỡ khác màu, đó  là Đức Phật báo ân Phật
Mẫu và giáo hóa chúng sinh các cõi vô hình Trời Thần Qủy.

    Rồi  trong vô số những vầng mây sáng rực  rỡ ấy phát ra vô số các  thứ  tiếng vi
diệu như là: “Tiếng bố-thí, tiếng nhẫn-nhục, tiếng tinh-tấn, tiếng thiền- định, tiếng
bát-nhã,  tiếng  từ-bi,  tiếng  hỷ-xả,  tiếng  giải-thoát,  tiếng  vô-lậu  (không  nhiễm  ô),
tiếng trí-huệ, tiếng sư-tử-hống, tiếng mây-sấm ….” Đây là tất cả những biểu trưng
thù thắng đăc biệt mà Đức Phật tạo ra bằng tiếng cười trong đó phát ra những vầng
mây và âm vang tiếng nói, với mục đích nhắc nhở chúng sinh tu hành hầu được lợi
ích thoát khỏi luân hồi sinh tử.

2). TRỜI RỒNG HỘI HỌP

     Khi Đức Phật phát ra bất khả thuyết tiếng vi diệu như thế xong, có vô lượng ức
trời, rồng, qủy, thần (1) ở trong cõi Ta Bà và cõi nước phương khác cũng đến hội
họp nơi cung Trời Đạo Lợi. Như Trời Tứ Thiên Vương, Trời Đạo Lợi, Trời Tu Dạ
Ma, Trời Đâu Suất, Trời Hóa Lạc, Trời Tha Hóa Tự Tại  (2). Trời Phạm Chúng,
Trời Phạm Phụ, Trời Đại Phạm, Trời Thiểu Quang, Trời Vô Lượng Quang, Trời
Quang Ân, Trời Thiểu Tịnh, Trời Vô Lượng Tịnh, Trời Biến Tịnh, Trời Vô  vân,
Trời Phúc sinh, Trời Quảng qủa, Trời Vô tưởng, Trời Vô phiền, Trời Vô nhiệt, Trời
Thiện kiến, Trời Thiện hiện, Trời Sắc cứu cánh (3). Trời Không vô biên, Trời Vô
.biên  thức, Trời Vô sở hữu sứ, Trời Phi Phi Tưởng  (4);  tất cả Thiên chúng,  long
chúng, cùng các chúng Qủy, Thần đều đến hội họp. 
     Lại có những vị Thần như: Thần biển, Thần sông, Thần núi, Thần cây, Thần đất
(5)..., các vị Thần như thế đều đến hội họp. Cũng có những vị đại Qủy vương như
Qủy vương Ác Mục, Qủy vương Đạm Huyết, Qủy vương Đạm Tinh Khí, Qủy vương
Đạm Thai Noãn, Qủy vương Hành Bệnh, Qủy vương Nhiếp Độc, Qủy vương Từ
Tâm, Qủy vương Phúc Lợi, Qủy vương Đại Ái Kính (6) …; các vị Qủy vương như
thế đều đến hội họp. 

 ã

12

GIẢI NGHĨA:
(1)Trời, Rồng, Qủy, Thần: Gọi là Thiên Long Bát Bộ gồm:
1- Đề-Bà (Deva: Thiện, hưởng phúc vi diệu).
2- Càn-Thát-Bà (Grandhava: Thần hầu Đế-Thích để ca và tấu nhạc).
3- Dạ-Xoa (Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi Đạo-Lợi).
4- Na-Dà (Naga: Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm mưa v.v…).
5- A-Tu-La (A Sura: Phi Thiên, Thần).
6-  Ca-Lâu-La  (Garuda:  Chim  Súy-Điểu,  Chim  Cánh-Vàng,  hai  cánh  soè  ra  đến
360,000  dặm  (theo  quyển Nhị-Khóa Hiệp-Giải  trang  278). Có  4  loại  chim  bằng
noãn, thai, hóa, thấp sinh).
7- Khẩn Na-La (Kini Nara: Nghi Nhân, Nhân Phi Nhân, giống người mà có sừng,
cũng là Thần đánh nhạc cho Đế-Thích).
8- Ma-Hầu La-Già  (Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu Rắn mình người, Thần Rắn,
Địa Long Thần, Đại Mãng Thần) đến dự.
(Ghi chú: Bát bộ kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy được. Hai bộ
Thiên và Long, thần nghiệm khá nhất, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long
Bát Bộ thường hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp).

(2) Sáu  tầng này  thuộc Dục giới: Là Chư Thiên có nhiều  tham dục, vô hình đối
với mắt loài người.
(3) Mười tám tầng này thuộc Sắc giới: Chư Thiên tương ưng với Tứ thiền, ba tầng
một cấp, cấp thấp của Phạm Thiên thuộc Sơ thiền, lần lên tới Tứ thiền, họ không
còn tham dục nhưng còn tham ái sắc đẹp, đều vô hình đối với mắt loài người.
(4) Bốn  tầng Vô Sắc giới: Chư Thiên không còn  tham dục và  sắc, họ không có
hình tướng đối với cả mắt Thánh.
(5) Thần: Ở đâu cũng có Thần cai quản cả.
(6) Qủy Vương: Khắp nơi đều có Qủy Ma, họ ở  trên không,  trên đất, trong biển;
một số làm việc cho Chư Thiên như canh gác cổng Trời Đạo Lợi, đa số sống chung
với loài người, họ có thần thông khi đi nhanh như biến và thấy nghe không chướng
ngại rất xa.

     Đoạn 2 này nói về các thành phần Chư Thiên trong 28 tầng Trời gồn 6 tầng Dục
giới,  18  tầng  Sắc  giới,  4  tầng Vô  Sắc  giới,  cùng  Long  Thần Qủy  khi  thấy  hào
quang và nghe  tiếng Phật  truyền đến, họ đều đến nghe Pháp đông đủ. Giống như
một người Cha kêu các con từ xa hoặc gần đều đến nghe lời dạy bảo qúy báu vậy.
Thành phần đến nghe pháp không phải chỉ có Thiên Long Bát Bộ tại thế giới này,
mà gồm cả những thế giới khác trong Tam Thiên Đại Thiên (cõi Phật), tức là trong
giải Ngân Hà Milky Way.
 ã

13

3). ĐỨC PHẬT PHÁT KHỞI

1.     Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi Pháp vương tử (1)
rằng: “Ông xem coi  tất cả Chư Phật, Bồ Tát, Trời Rồng, Qủy, Thần ở  trong  thế
giới này và cùng các thế giới khác, nay đều đến cung Đạo Lợi này, như thế ông có
biết bao nhiêu chăng? Bồ Tát Văn Thù bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, nếu
dùng  thần  lực  của  con  để  tính  đếm  trong  nghìn  kiếp  cũng  không  biết  là  số  bao
nhiêu!”
2.         Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Đến Ta dùng Phật nhãn xem
còn không đếm xiết! Số Thánh Phàm này đều của Bồ Tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa
đến nay, hoặc đã độ, đang độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đang thành tựu, chưa
thành tựu”. Bồ Tát Văn Thù bạch Phật rằng: “Từ thuở lâu xa về trước, con đã tu
hành chứng được trí vô ngại, nghe lời Thế Tôn nói đó thì tin nhận liền. Còn hàng
Thanh Văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và chúng sinh đời sau, dù nghe lời thật của
Như Lai, nhưng chắc là sinh lòng nghi ngờ, dù cho có vâng lạy đi nữa cũng chưa
khỏi phỉ báng; cúi mong Đức Thế Tôn nói rõ nhân địa của Bồ Tát Địa Tạng, Ngài
tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?”
3.         Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi  rằng: “Ví như bao nhiêu cây cỏ,  lùm
rừng, lúa mè, tre lau, đá núi, bụi bặm trong Tam thiên đại thiên (2), cứ một vật làm
một sông Hằng (3), rồi cứ mỗi cát trong mỗi sông Hằng, một hạt cát làm một cõi
nước,  rồi  trong một  cõi  nước  cứ một  hạt  bụi  nhỏ  làm một  đại  kiếp  (4),  rồi  bao
nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc ngài Địa Tạng
Bồ Tát  chứng qủa  vị Thập  địa Bồ Tát  (5), nghìn  lần  lâu hơn  số  kiếp  tỉ dụ  trên,
huống là những thuở ngài Địa Tạng Bồ Tát còn ở bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật
(6)! 
4.     Này Văn Thù Sư Lợi! Oai thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn
đến được; về đời sau nếu có trang thiện nam người thiện nữ (7) nào nghe danh tự
của Địa Tạng Bồ Tát, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh
hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp,  sơn hình  tượng của Bồ Tát Địa
Tạng,  thì người đó sẽ được một  trăm  lần sinh  lên cõi  trời Đạo Lợi (8), vĩnh viễn
chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo (9).

GIẢI NGHĨA:
(1)Pháp Vương tử: Là con của đấng Pháp Vương, Đức Phật là đấng Pháp Vương,
Pháp Vương  tử là Bồ Tát đệ tử của Phật đứng đầu (thượng thủ) hàng Bồ Tát. Bồ
Tát Văn Thù Sư Lợi  là đệ  tử của Phật Thích Ca Mâu Ni đứng đầu hàng Bồ Tát;
cũng như Bồ Tát Quan Thế Âm là đệ tử đứng đầu hàng Bồ Tát của Đức Phật A Di
Đà. ã

14

(2) Tam thiên đại thiên: Là một cõi Phật, tức một giải Ngân hà (Milkyway), có tới
cả nghìn tỉ mặt  trời, các nhà khoa học cho biết họ chỉ mới nhìn  thấy được 400 tỷ
mặt trời thôi.
(3) Sông Hằng: Là sông Gang, một sông lớn nhất của xứ Ân Độ phát nguồn từ dãy
núi Everest cao nhất thế giới khoảng 9 cây số, chảy ra biển Ấn Độ.
(4)  Đại  kiếp  =  4  Trung  kiếp  =  20  x  4  =  80  Tiểu  kiếp  =  16,800,000  x  80  =
1,344,000,000 = một tỉ ba trăm bốn mươi bốn triệu năm.
(5) Thập địa Bồ Tát: Tu hạnh Bồ Tát có 10 bậc, gồm: 1. Sơ địa: Hoan hỉ địa, 2. Ly
cấu, 3. Phát quang, 4. Diệm huệ, 5. Cực nan thắng, 6. Hiện tiền, 7. Viễn hành, 8.
Bất động, 9. Thiện huệ, 10. Pháp vân địa.
(6) Thanh Văn và Bích Chi Phật: Thanh Văn là người tu theo Nguyên thủy, Nam
truyền, phần  lớn ở các nước phiá Nam như Lào, Cam Bốt, Miến Điện, Thái Lan
v.v…Tu khi đạt qủa thứ tư gọi là A La Hán; Bích Chi Phật là người tu Mười hai
nhân duyên khi đạt qủa gọi là Bích Chi Phật.
(7) Trang thiện nam người thiện nữ: Là người không tham sân và giữ được Ngũ
giới, tức là người không còn tham lam giận hờn và không còn sát sinh, trộm cướp,
tà dâm, nói dối, và uống rượu, mới được gọi là người Thiện.
 (8) Cõi trời Đạo Lợi: Cõi trời này thấp nhất thuộc Dục giới ở trên đỉnh núi Tu Di.
(9) Ác đạo: Là ba cõi Ngạ qủy, Súc sinh, Địa ngục.

1. Tiểu đoạn 1  của đoạn 3, Đức Phật hỏi Bồ Tát Văn Thù có biết  số  tất  cả Chư
Phật, Bồ Tát, Trời Rồng, Qủy, Thần ở  trong  thế giới này cùng các  thế giới khác,
đến cung Đạo Lợi là bao nhiêu không? Bồ Tát Văn Thù thưa rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn, nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết
là số bao nhiêu!” Ngài Văn Thù đang là Bồ Tát Đẳng giác, nghĩa là đang tu hành
để chờ ngày thành Phật, Ngài đã có đủ thứ thần thông biến hóa và đã có đệ tử do
Ngài giáo hóa đã thành Phật. Ngài lại được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni công nhận
là Đại  trí,  thì biết  trí  huệ  của Ngài như  thế nào  rồi, nhưng  số  lượng  thành phần
tham dự nhiều đến nỗi Ngài không thể tính đếm hết được, đủ chứng tỏ là số lượng
tham dự là vô số vô lượng vậy.

2.  Đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi rằng: “Đến Ta dùng Phật nhãn xem còn
không đếm xiết! Số Thánh Phàm này đều của Bồ Tát Địa Tạng từ kiếp lâu xa đến
nay, hoặc đã độ, đang độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đang thành tựu, chưa thành
tựu”; nghĩa  là Đức Phật xác nhận  là số Thánh Phàm  tham dự qúa nhiều dù dùng
mắt Phật mà đếm cũng không thể đếm xuể; tại sao? 
     Bởi vì theo như giảng giải nơi Tựa Đề Kinh: Địa là đất là nơi chỗ, Tạng là A
Lại Đa Thức, nơi Tạng thức của mỗi người; Bồ Tát Địa Tạng là biểu trưng cho A
Lại Đa Thức, Tạng thức của mỗi chúng sinh. Bậc Thánh thì do tu hành Năm Căn ã

15

(Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân), không còn bị dính mắc bởi Năm Trần  (Sắc, Thanh,
Hương, Vị, Xúc), nghĩa  là năm  thức  là Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân  thức khi  trở
thành trong sạch không còn một tí vẩn đục, gợn nhơ. Ý thức là thức thứ sáu, góp ý
phân biệt cho năm thức nêu trên để nhận rõ sự vật và tưởng nhớ sự việc ngày đêm
không  ngưng  nghỉ,  khi  tu  hành  cho  đến  không  còn  phân  biệt  tưởng  nhớ  bất  cứ
chuyện gì, thì tâm được yên ổn. Mạt Na thức thứ bảy không còn chấp cái ta (ngã)
và cái của ta nữa, bấy giờ trong A Lại Đa thức thứ tám không còn chứa các sự điên
đảo, tức sạch sẽ mọi ô nhiễm, tâm như tờ giấy trắng thì thức thành trí huệ; nghĩa là
khi  tu  hành  đạt  đến  địa  vị  vô  lậu  (sạch  hết  ô  nhiễm  cấu  bẩn),  thức  này  chuyển
thành cái  trí huệ  sáng  suốt  trong  sạch  soi chiếu cùng khắp,  tương ưng cho Chân
Như, Phật Tính vậy.
     Do đó, tất cả đều từ nơi Địa Tạng, từ Phàm cho đến Thánh đều từ nơi đó mà ra,
nên Phật nói: “Số Thánh Phàm này đều của Bồ Tát Địa Tạng  từ kiếp  lâu xa đến
nay, hoặc đã độ, đang độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đang thành tựu, chưa thành
tựu”, là vậy. Chứ chẳng phải như một số người cho rằng Bồ Tát Địa Tạng đã giáo
hóa cho vô lượng chúng sinh đã thành Phật, mà lầm lẫn, những người này bị Phật
quở là đọc kinh mà không hiểu ý Phật nói, rồi thực hành sai, giảng giải sai là hại
người vậy. 

3. Tiểu đoạn thứ ba này, Đức Phật dùng thí dụ tất cả các vật từ cây cỏ đến tre lau
v.v…, trong một cõi Phật, mỗi thứ là một sông Hằng, mỗi hạt cát trong tất cả sông
Hằng là một cõi nước, mỗi hạt bụi trong tất cả các cõi nước ấy là một Đại kiếp, rồi
bao nhiêu hạt bụi chứa trong một kiếp đều là một kiếp cả. Tính ra từ lúc ngài Địa
Tạng Bồ Tát chứng qủa vị Thập địa Bồ Tát, nghìn  lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ  trên,
chứ chưa nói đến những thuở ngài Bồ Tát Địa Tạng còn ở bậc Thanh Văn và Bích
Chi Phật! Chúng  ta  thấy Đức Phật cho một thí dụ đọc mà  thấy con số thật khủng
khiếp, chưa có một người nào có thể tưởng tượng nổi con số vô biên như thế để chỉ
thời gian Bồ Tát Địa Tạng tu hành từ lâu xa như thế! Một việc không thể nghĩ bàn
được, vì không thể tính đếm được nên đây chính là “vô thủy” mà Đức Phật muốn
ám chỉ vậy.

4. Tiểu đoạn  thứ  tư này, Đức Phật  cho biết oai  thần  thệ nguyện của Bồ Tát Địa
Tạng không  thể nghĩ bàn đến được; Ngài cho biết: “về đời sau nếu có  thiện nam
thiện  nữ  nào  nghe  danh  tự  của  Bồ  Tát Địa  Tạng,  hoặc  khen  ngợi,  hoặc  chiêm
ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp,
sơn hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, thì người đó sẽ được một trăm lần sinh lên
cõi trời Đạo Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo”. Nghĩa là người ã

16

thiện nào nghe nói đến Tâm (Địa Tạng) mà ưng thuận (khen ngợi) tôn trọng quán
sát (chiêm ngưỡng vái  lạy) để  thấy các vọng  tưởng (danh hiệu) mà xa  lià (cúng
dường) được. Hoặc  là miệt mài  chăm  chỉ  luôn  luôn nhớ  tu hành  thập  thiện  (vẽ,
khắc, đắp, sơn hình tượng), mà người thiện đã giữ Ngũ Giới rồi nên tiếp tục tu bỏ:
nói thêu dệt, nói đâm thọc, nói ác, và dứt trừ tham sân tà kiến. Thực hành như thế
rồi  thì khi qua đời chắc chắn 100% sẽ sinh  lên cõi  trời Đạo Lợi; khi sinh  lên cõi
Trời rồi thì tất nhiên hết bị đọa vào ba đường ác Ngạ Qủy, Súc Sinh, Địa Ngục là
đương nhiên vậy.
     Chứ chẳng phải với ý nghĩa hiểu theo nghĩa đen rằng: “về đời sau nếu có thiện
nam thiện nữ nào nghe danh tự của Bồ Tát Địa Tạng, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm
ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp,
sơn hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng, thì người đó sẽ được một trăm lần sinh lên
cõi trời Đạo Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo”, nghĩa là không
cần  tu hành,  chỉ  cần vẽ hình đắp  tượng, dùng hương hoa  cúng dường,  rồi  lễ  lạy
tụng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng là được sinh lên cõi Trời đâu mà sai lầm vậy.
4). TRƯỞNG GIẢ TỬ PHÁT NGUYỆN

     Này Văn  Thù  Sư Lợi!  Trải  qua  bất  khả  thuyết  kiếp  bất  khả  thuyết  lâu  xa  về
trước, tiền thân của ngài Bồ Tát Địa Tạng làm một vị Trưởng Giả Tử, lúc đó, trong
đời có Đức Phật hiệu là Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai (1); Trưởng
Giả Tử  thấy  tướng  tốt đẹp nghìn phước  trang nghiêm, mới bạch hỏi Đức Phật  tu
hạnh gì mà được tốt đẹp như thế?
     Khi ấy, Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai bảo Trưởng Giả Tử
rằng: “Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời
gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ”.
     Này Văn Thù Sư Lợi! Trưởng Giả Tử nghe xong  liền phát nguyện  rằng: “Từ
nay cho đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh bị tội khổ
trong  sáu  đường, mà  giảng  bày  nhiều  phương  tiện  làm  cho  chúng  đó  được  giải
thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Đạo”.
     Bởi ở trước đức Sư Tử Phấn Trấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, Ngài lập nguyện
rộng  đó, nên  đến nay  đã  trải qua  nghìn muôn ức  vô  số bất  khả  thuyết  kiếp, mà
Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát!  ã

17

GIẢI NGHĨA:
(1)  Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai:  Sư Tử  biểu  trưng  sự  dũng
mãnh, vì khi Sư Tử rống lên các loài đều sợ, đó là biểu tượng trí tuệ diệt trừ tất cả
phiền não  của  chúng  sinh. Phấn Tấn  là  tinh  tấn dũng mãnh, Cụ Túc  là đầy đủ,
Vạn Hạnh là muôn công đức tu hành, Như Lai là Phật. Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc
Vạn Hạnh Như Lai  là  biểu  trưng  người  tu  hành  dũng mãnh  đầy  đủ  tất  cả  các
phương diện, cho được đầy đủ công đức của bậc Như Lai.
     Mở  đầu Đoạn  4, Đức  Phật  giảng  về  khởi  đầu  từ  kiếp  lâu  xa  về  trước, một
Trưởng giả có duyên gặp Đức Phật hiệu Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như
Lai; ở đây chúng  ta  thấy  tên hiệu của Đức Phật này  là  tượng  trưng cho người  tu
hành dũng mãnh đầy đủ tất cả các phương diện. Như làm lành tránh làm ác, tu thập
thiện, tu từ bi hỉ xả, tu Lục Độ (Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí
tuệ), v.v…để đạt công đức của Như Lai, mà công đức của chư Phật thì vô lượng vô
biên, nên sự tu hành cũng phải vô lượng vậy. 
     Trưởng Giả Tử thấy có tướng tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi
Đức Phật  tu hạnh gì mà được  tốt đẹp, Ngài bảo Trưởng giả rằng: “Muốn chứng
được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát
tất cả chúng  sanh bị khốn khổ”. Nghĩa  là muốn có được  thân  tướng  tốt đẹp của
một vị Phật, tức là thân có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, thì phải tu hành trong dài lâu,
độ thoát tất cả chúng sinh trong tâm mình; tại sao? Vì các chúng sinh này luôn luôn
quấy động tâm, gây ra bao nhiêu là rắc rối ràng buộc điên đảo, gây buồn phiền đau
khổ triền miên, khiến phải luân chuyển trong sáu cõi không dứt, nên không thể có
được thân hình tốt đẹp. Ví dụ như mắt bị quyến rũ bởi sắc đẹp xấu, tai bị dính mắc
bởi nói hay dở, mũi bị lôi kéo bởi mùi thơm hôi, lưỡi bị mê hoặc bởi món ăn uống
ngon dở, thân bị hành hạ bởi trơn nhám, nóng lạnh, ý bị sai khiến bởi tham sân tà
kiến, mạn nghi,  tật đố, ganh  tị, v.v… Tất cả đều gây cho Tâm  thành điên đảo và
buồn khổ, vì vậy muốn cho Tâm an thì phải xa lià, rời bỏ những thứ đó, khi tâm an
thì thân sẽ khỏe đẹp. 
     Trưởng Giả Tử nghe xong liền phát nguyện rằng: “Từ nay cho đến tột số chẳng
thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh bị tội khổ trong sáu đường, mà giảng
bày nhiều phương tiện làm cho chúng đó được giải thoát tất cả, rồi tự thân tôi mới
chứng  thành Phật đạo”. Nghĩa  là  từ nay  (lúc đó)  trở đi mãi  lâu xa về sau,  tôi vì ã

18

những chúng sinh bị tội khổ trong sáu cõi Trời, Thần, Người, Ngạ Qủy, Súc Sinh,
Địa Ngục, mà áp dụng  các cách  tu hành  (giảng bày nhiều phương  tiện) để giải
thoát hết thảy các chúng sanh còn đang ngự  trị  trong tâm, rồi mới  thành Phật;  tại
sao? Vì nếu trong tâm còn một số dính mắc, tức là còn mộ số chúng sinh đang hiện
diện ở  trong  tâm, ví như còn  tham sân, còn qúy  trọng cái  ta, còn  ích kỷ, còn nói
dối, còn ham danh lợi v.v…, thì sẽ bị đọa sinh vào một trong ba đường dữ, chẳng
thể giải thoát khỏi khổ được vậy.
     Bởi ở trước đức Sư Tử Phấn Trấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai, Ngài lập nguyện
rộng  đó, nên  đến nay  đã  trải qua  nghìn muôn ức  vô  số bất  khả  thuyết  kiếp, mà
Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát! Nghĩa là như đã giải thích ở Tựa Đề Kinh, Bồ Tát Địa
Tạng là biểu trưng cho A Lại Đa Thức, Tạng thức, Tâm của mỗi người, mà chúng
sinh thì còn mãi trong tâm khó có thể hết được. Lâu lắm mới có một vị Phật, tức là
lâu lắm mới có một người tu hành dứt hết chúng sanh trong tâm để thành Phật; vì
vậy mà Bồ Tát Địa Tạng vẫn phải tiếp tục cứu vớt chúng sanh đến không biết bao
giờ vậy.
5). BÀ LA MÔN NỮ CỨU MẸ 
1. BÀ LA MÔN NỮ NGHE PHẬT DẠY:
    Lại  thuở bất khả  tư nghì vô số kiếp về  trước,  lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác
Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Đức Phât ấy thọ đến trăm nghìn muôn ức vô số
kiếp. Trong  thời  tượng pháp,  có một  người  con  gái dòng Bà  la môn, người  này
nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi,
Chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người con gái này mê tín tà đạo, thường
khinh khi ngôi Tam Bảo;  thuở ấy, mặc dầu người nữ đem nhiều  lời phương  tiện
khuyên nhũ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sinh chính kiến, nhưng mà bà
mẹ người chưa  tin hẳn. Chẳng bao  lâu bà ấy chết,  thần hồn sa vào Vô Gián địa
ngục.
    Lúc  đó, người nữ biết  rằng người mẹ  khi  còn  sống  không  tin  nhân quả,  chắc
phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Người nữ bèn bán ruộng vườn, sắm
nhiều hương hoa, cùng những đồ  lễ cúng, rồi đem cúng dường  tại các chùa  tháp
thờ Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng
của Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm. ã

19

     Người nữ  chiêm bái  tượng  của Đức Phật  lại  càng  sinh  lòng  kính ngưỡng,  tự
nghĩ thầm rằng: “Đức Phật là đấng đại giác đủ tất cả trí huệ, nếu Đức Phât còn
trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi
sinh vào chốn nào”
     Nghĩ đến đó, người nữ buồn tủi rơi lệ nhìn tượng Như Lai mà lòng quyến luyến
mãi.
     Bỗng nghe  trên hư  không  có  tiếng bảo  rằng: “Thánh Nữ đang  khóc  kia,  thôi
đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi”.
Thánh Nữ chắp  tay hướng  lên hư không mà vái rằng: “Đức Thánh Thần nào đó
mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ
ngày đêm, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sinh vào chốn nào?”
     Trên hư không lại có tiếng bảo rằng: “Ta là Đức Phật quá khứ Giác Hoa Định
Tự Tại Vương Như Lai mà ngươi đang chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ
trội hơn thường tình của chúng sinh nên ta đến chỉ bảo”.
     Thánh  Nữ  nghe  nói  xong  liền  té  xỉu  xuống,  tay  chân  mình  mẩy  đều  bị  tổn
thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại
rồi bạch cùng trên hư không rằng: “Cúi xin Đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ
chỗ thác sinh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!”
    Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo Thánh Nữ rằng: “Cúng dường
xong, ngươi mau mau  trở về nhà, rôì ngôì ngay  thẳng nghĩ  tưởng danh hiệu của
Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sinh của mẹ ngươi.”
GIẢI NGHĨA
     Tiểu đoạn 1, khởi đầu Đức Phật nói rằng: “Thuở bất khả tư nghì vô số kiếp về
trước,  lúc đó có đức Phật hiệu  là: Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai, Đức
Phât ấy  thọ đến  trăm nghìn muôn ức vô  số kiếp. Trong  thời  tượng pháp, có một
người  con  gái  dòng Bà  la môn,  người  này  nhiều  đời  chứa  phước  sâu  dày, mọi
người đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi, Chư Thiên thường theo hộ vệ”.
     Danh hiệu “Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai” biểu trưng của thiền định
sẽ đạt giác ngộ trở thành bậc Phật, mà Ngài “thọ đến trăm nghìn muôn ức vô số
kiếp”  lại hàm ý cho sự giáo hóa chúng sinh của Ngài  trong  thời gian  rất  lâu dài. ã

20

“Trong thời Tượng Pháp” tức là sau khi Ngài nhập Niết Bàn trong một nghìn năm
là  thời Chính Pháp,  rồi  tới  thời Tượng Pháp  cũng một nghìn năm  tiếp  theo,  “có
người con gái dòng Bà La Môn” nghĩa là người con gái  trong dòng qúy tộc giàu
có. “Người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi
đứng lúc nằm ngồi, Chư Thiên thường theo hộ vệ”, tức là nhiều đời về trước đã
làm vô số việc lành cứu giúp chúng sinh và tu hành, nên kiếp ấy lúc nào cũng được
mọi người xung quanh nể trọng và được các vị Trời bảo vệ.
    Đức Phật cho biết: “Bà mẹ của người con gái này mê  tín  tà đạo,  thường khinh
khi ngôi Tam Bảo. Thuở ấy, mặc dầu người nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên
nhũ  bà mẹ  người,  hầu  làm  cho  bà mẹ  người  sinh  chính  kiến,  nhưng mà  bà mẹ
người chưa tin hẳn; chẳng bao lâu bà ấy chết, thần hồn sa vào Vô Gián địa ngục”.
Mê  tín  là  tin vào điều sai  lầm mà không biết  là sai,  tin vào điều không đúng mà
tưởng là đúng, Mê tín, là tin giống như người u mê không có sự hiểu biết tận tường
chân chính, tin điều không đúng sự thật nên gọi là tin mù quáng. Tà đạo là đạo có
giáo lý chủ trương tin tưởng vào sự việc gì mà không thể chứng minh cụ thể được
sự thật của nó, mà chỉ có thể chứng minh theo lối lý luận quanh co mập mờ áp đặt
phải  tin. Mê  tín  tà đạo, đây  là vấn đề  thuộc về  tinh  thần, nhưng cũng ảnh hưởng
đến vật chất, vì từ sự tin mê lầm tưởng đó là sự thật, khiến cho ý nghĩ, nói năng và
hành động sai lầm.
Thường khinh khi ngôi Tam Bảo: Là coi Phật Pháp Tăng không  ra gì, như coi
thường bậc Giác ngộ cho là Phật chẳng dám làm hại ai dù là con kiến; coi rẻ giáo
lý của đạo Phật, như cho là giáo lý yếm thế chẳng giúp gì cho đời cả; khinh chê sự
tu hành của Tăng chúng, như cho là người tu không có lợi ích gì cả v.v…. Có biết
đâu rằng nghìn muôn ức kiếp mới có một vị Phật ra đời để cứu độ chúng sinh; có
biết đâu rằng giáo lý của Phật nói từ chân tâm phát ra, nên luôn luôn là sự thật dù
có qua thời nào ở bất cứ đâu cũng vẫn là sự thật không thay đổi; có biết đâu rằng
bất cứ chúng sinh nào theo giáo pháp của Phật tu hành một cách kiên cố vững bền
thì rốt ráo đều thoát khỏi khổ; như vậy Tam Bảo không là đáng kính qúy sao?
Chính Kiến: là thấy đúng, thấy ngay thẳng, thấy không lệch không sai, thấy đúng
sự thật; người có chính kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không bẻ
cong sự thật, không sai sự thật. Người có chính kiến không bị dục vọng thiên kiến
chấp kiến  làm cho sai sự  thật, vì vậy người có chính kiến nhận biết phân biệt  rõ
ràng đâu là chân thật, đâu là tà giả. ã

21

Thần hồn sa vào Vô Gián địa ngục: Thần hồn không phải là Linh hồn như có tôn
giáo  chủ  chương Linh  hồn  bất  diệt  không  thay  đổi,  Phật  giáo  không  công  nhận
Linh hồn, mà cho nó là Thần thức hay nghiệp thức. Chính do hành động tạo nghiệp
của ta trong quá khứ tạo điều kiện tái sinh; chính Thần thức mang theo nghiệp gá
vào tinh cha huyết (trứng) mẹ, nên có nguồn sống cho bào thai. Chính nghiệp lực
vô hình từ quá khứ là hiện tượng tâm linh tạo cơ hội cho “tế bào mầm” nẩy nở phát
triển khi đủ nhân duyên, nó là chủng  tử là mầm sống; đừng hiểu lầm đây  là Linh
hồn bất tử, tại sao? Vì nếu là linh hồn bất tử, nó có quyền lựa chọn chỗ tốt mà đến,
không thèm lựa chỗ nghèo nàn bệnh tật khổ sở, như thế thì tại sao có trẻ em sinh ra
mạnh khoẻ đầy đủ đẹp đẽ, lại có trẻ em sinh ra bệnh tật câm điếc khuyết tật; tại sao
có trẻ em sinh vào gia đình nghèo hèn, có trẻ em sinh vào nơi danh giá phú qúy?
Thuyết Linh hồn bất biến  trường  tồn không  thể giải  thích một cách hợp  lý được;
còn Thần  thức  do  nghiệp  lực đưa  đẩy  không  có quyền  lựa  chọn, mà  tùy  nghiệp
thiện ác đã làm dẫn dắt mà phải đến nơi tương ưng lành dữ tốt xấu vậy.
Vô Gián địa ngục: Là địa ngục mà nơi đó tội nhân phải chịu cực hình khổ sở liên
tiếp  suốt ngày đêm không ngưng nghỉ  trong  lâu dài nhiều  triệu năm đến hàng  tỉ
năm.
     Lúc đó, người nữ biết  rằng người mẹ khi còn  sống không  tin nhân quả, chắc
phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Người nữ bèn bán ruộng vườn, sắm
nhiều hương hoa, cùng những đồ  lễ cúng, rồi đem cúng dường  tại các chùa  tháp
thờ Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng
của Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.
     Danh hiệu Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương là biệu trưng của tu thiền, Giác
là tỉnh biết, Hoa là gốc là cái sẽ kết thành qủa, Giác Hoa Định Tự Tại là do thiền
định sẽ đạt được tự tại thanh tịnh tiến tới giác ngộ giải thoát
     Người nữ  chiêm bái  tượng  của Đức Phật  lại  càng  sinh  lòng  kính ngưỡng,  tự
nghĩ thầm rằng: “Đức Phật là đấng đại giác đủ tất cả trí huệ, nếu Đức Phât còn
trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi
sinh vào chốn nào”.   Ở đây, chúng  ta  thấy  rõ  là người nữ này có  tâm  tin  tưởng
hoàn toàn vào Chư Phật, tức là người có chính tín vậy. Nghĩ đến đó, người nữ buồn
tủi rơi lệ nhìn tượng Như Lai mà lòng quyến luyến mãi. Tại sao? Vì người nữ này
buồn  tiếc rằng Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương đã nhập Niết Bàn cả trên ã

22

một nghìn năm rồi (Thời Tượng Pháp) nên không có cơ hội được gặp Ngài để hỏi
han học hỏi. Chúng  ta ngày nay cũng gần  tương  tự, vì Phật Thích Ca Mâu Ni đã
nhập Niết Bàn  trên hai Nghìn năm  trăm năm  rồi  (Thời Mạt Pháp), mà có mấy ai
nghĩ và làm được như người nữ này không?
     Bỗng nghe  trên hư  không  có  tiếng bảo  rằng: “Thánh Nữ đang  khóc  kia,  thôi
đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi”.
    Nghe như thế, nữ nhân chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: “Đức Thánh
nào  đó  giải  bớt  lòng  sầu  lo  của  tôi  như  thế  (?);  từ  khi mẹ  tôi mất  đến  nay,  tôi
thương ngày đêm, không biết đâu để hỏi mẹ tôi thác sinh vào chốn nào?”
     Trên hư không lại có tiếng bảo rằng: “Ta là Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Như Lai mà ngươi đang chiêm bái tượng đó; Ta thấy ngươi thương mẹ ngươi khác
hơn chúng sinh thường tình nên Ta chỉ bảo”.
     Nữ nhân nghe nói liền xỉu ngã xuống, một lát sau mới tỉnh lại rồi hướng trên hư
không thưa: “Cúi xin Đức Phật xót thương chỉ chỗ thác sinh của mẹ con, nay con
sắp chết mất!”
    Đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai bảo rằng: “Ngươi trở về nhà, ngồì
ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sinh của mẹ
ngươi”.  
     Như đã nói ở  trên, chúng  ta  thấy danh hiệu: “Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Phật” là biểu trưng cho nghĩa biết thiền định để đạt được thanh tịnh tự tại, tức là
muốn biết chỗ thác sinh (nghiệp qủa) thế nào thì phải thực hành thiền định.
2. BÀ LA MÔN NỮ VÀO NƠI ĐỊA NGỤC
     Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà; vì thương nhớ mẹ, nên Thánh nữ ngồi
ngay  thẳng niệm danh hiệu của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai  trãi suốt
một ngày môt đêm bỗng thấy thân mình đến môt bờ biển kia. Nước trong biển đó
sôi sùng sục, có rất nhiều  thú dữ  thân  thể  toàn bằng sắt bay nhảy  trên mặt biển,
chạy rảo bên nầy, xua đuổi bên kia.
    Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong
biển, bị các thú dữ dành nhau ăn thịt. ã

23

    Lại  thấy Quỷ Dạ Xoa hình  thù đều  lạ  lùng: Hoặc nhiều  tay, nhiều mắt, nhiều
chân,  nhiều  đầu…răng  nanh  chỉa  ra  ngoài  bén  nhọn  dường  gươm,  lùa  những
ngươì tội gần thú dữ; rồi quỷ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội
lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.
    Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.
    Có một  vị Quỷ Vương  tên  là Vô Độc, đến  cúi đầu nghinh  tiếp,  hỏi Thánh Nữ
rằng: “Hay thay Bồ Tát, Ngài có duyên sự gì đến chốn nầy?”
    Thánh Nữ hỏi Quỷ Vương rằng: “Đây là chốn nào?”
     Quỷ Vương Vô Độc đáp rằng: “Đây  là  từng biển  thứ nhất ở phía Tây núi đại
Thiết Vi” 
    Thánh Nữ hỏi rằng: “Tôi nghe  trong núi Thiết Vi có địa ngục, việc ấy có  thật
như thế chăng?”
    Vô Độc đáp rằng: “Thật có địa ngục”.
    Thánh Nữ hỏi rằng: “Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?”
    Vô Độc đáp rằng: “Nếu không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài
hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được”
    Thánh Nữ  lại hỏi: “Duyên cớ vì sao mà nước  trong biển này sôi sùng sục như 
thế, và có nhũng người tội cùng với các thú dữ?”
    Vô Độc đáp rằng: “ Những người  tội  trong biển nầy  là những kẻ  tạo ác ở cõi
Diêm Phù Đề mới chết,  trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế  tự để
làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống ,kẻ đó lại không làm được nhân
lành nào cả. Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở
địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển nầy.
    Phía Đông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội
hơn; đó đều do những nghiệp nhân xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi
là biển nghiệp, chính là ba cái biển nầy vậy. 
    Thánh Nữ lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc rằng: “Địa ngục ở đâu?” ã

24

     Vô Độc đáp  rằng: “Trong ba cái biển đó đều  là địa ngục, nhiều đến  số  trăm
nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500
chỗ  đủ  không  lường  sự  khổ  sở,  bực  kế  nữa  có  đến  nghìn  trăm  cũng  đầy  không
lường sự thống khổ”. 
    Thánh Nữ lại hỏi đại Quỷ Vương rằng: “Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây,
không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?”
    Quỷ vương hỏi Thánnh Nữ rằng: “Thân Mẫu của Bồ Tát khi còn sống quen làm
những ngiệp gì?”
    Thánh Nữ đáp rằng: “Thân Mẫu của tôi mê tín tà đạo, khinh chê ngôi Tam Bảo,
hoặc có  lúc  tạm  thời  tin chánh pháp,  song  rồi chẳng kính; dầu khuất không bao
lâu, mà chưa rõ đoạ lạc vào đâu?”
    Vô Độc hỏi rằng: “Thân Mẫu của Bồ Tát tên họ là gì?”
    Thánh Nữ đáp rằng: “Thân Phụ và thân Mẫu của tôi đều dòng dõi Bà la môn;
Thân Phụ tôi là Thi La Thiện Kiến, thân Mẫu tôi hiệu là Duyệt Dế Lợi.”
    Vô Độc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: “Xin Thánh Nữ hãy trở về, chớ đem lòng
thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa; tội nữ Duyệt Đế Lợi được sanh lên cõi trời đến
nay đã ba ngày rồi.
    Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu
tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như
Lai. Chẳng phải riêng thân Mẫu của Bồ Tát đươc thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó
những tội nhân Vô Gián cũng đều được vui vẻ, đồng được thác sanh cả”
    Nói xong, Quỷ Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.
    Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước
tháp  tượng của đức Giác Hoa Định Tự Tại Vương Như Lai mà phát  thệ nguyện
rộng lớn rằng: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải
tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát.”
     Đức Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: “Quỷ Vương Vô Độc  trước đó nay
chính ông Tài Thủ Bồ Tát; còn Thánh Nữ Bà  la môn đó nay  là Địa Tạng Bồ Tát
vậy”. ã

25

GIẢI NGHĨA
     Lễ Phật xong, Nữ Nhân liền trở về nhà ngồi ngay thẳng nhớ (niệm) danh hiệu
của Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật,  trãi  suốt một ngày một đêm, bỗng  thấy
đến một bờ biển  kia. Nước  sôi  sùng  sục, có  rất nhiều  thú dữ bay nhảy  trên mặt
biển, chạy qua bên nầy, xua đuổi bên kia. Đây  là do sự mong biết nơi người mẹ
thác sinh, nên Nữ nhân đã ngồi thiền niệm Phật kiên cố trong thời gian một ngày
một đêm dài không ngưng nghỉ, do đó đạt được tâm thanh tịnh, tâm ví như vẩn đục
lắng xuống, nước trở thành trong vắt, tâm được định tĩnh vào Tam muội nên mới
thấy được  cảnh Địa ngục. Ở đây,  chúng  ta  thấy: Biển  sâu  rộng  tượng  trưng  cho
nghiệp dày nặng, Nước sôi tượng trưng cho nghiệp của lửa tham lam sân hận thù
hằn ở  thế gian, súc vật rượt qua đuổi lại là nghiệp qủa của đuổi bắt hành hạ, giết
hại chúng sinh ở thế gian.
     Thấy những nam cùng nữ già trẻ số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi
trong biển, bị các thú dữ cắn xé ăn thịt; lại thấy vô số Quỷ hình thù đều lạ lùng ghê
gớm chụp bắt người  tội  thật  là khủng khiếp. Nghĩa  là những  tội nhân gây nghiệp
chịu tội báo gồm đủ loại nam nữ trẻ già, còn hình thù của Qủy thì đủ thứ ghê sợ lạ
lùng bởi vì khi con người tạo  tội đã có  tâm ác độc và hành động bắt giữ hành hạ
giết hại chúng sinh có muôn cách khác nhau, nên chiêu cảm  ra Qủy hình  thù dữ
dằn và hành động ghê sợ khác biệt vậy.
     Có một Quỷ Vương tên là Vô Độc, đến cúi đầu chào hỏi Thiện Nữ nhân rằng:
“Hay thay Bồ Tát, Ngài có duyên sự gì đến chốn nầy?” Qủy Vương Vô Độc ở đây
chúng ta nên hiểu với ý nghĩa rằng vô độc đối với người có phúc đức; chứ chẳng
phải vô độc đối với người ác đâu, do đó Qủy Vương đã tiếp đón Thiện Nữ như một
vị Bồ Tát mà thực ra lúc đó Thiện Nữ chưa phải là Bồ Tát mà chỉ là Nữ thiện nhân
mà thôi.
    Thiện Nữ  nhân  hỏi Quỷ  Vương  rằng:  “Đây  là  chốn  nào,  ở  đây  có  địa  ngục
không?”
     Quỷ Vương Vô Độc đáp rằng: “Đây là biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết
Vi và Thật có Địa Ngục”. Núi đại Thiết Vi  là núi sắt  lớn  tượng  trưng cho chúng
sinh tạo nghiệp cao nặng như núi sắt, cũng có nghĩa là tội nhân bị bao vây bởi núi
sắt không thể ra khỏi bởi do nghiệp qủa cao dầy sâu nặng.  ã

26

     Lại hỏi rằng: “Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?”
     Vô Độc đáp rằng: “Phải sức oai thần hoặc do nghiệp lực, ngoài hai điều này ra
không thể đến đó được”. Sức oai thần là có thần thông của các vị đã chứng Thánh
như A La Hán, Bồ Tát muốn vào Địa Ngục để giáo hóa cứu độ, còn nghiệp lực là
những chúng sinh tạo nghiệp ác đều bị sức lực của nghiệp dẫn vào Địa Ngục.
     Nữ nhân lại hỏi Quỷ Vương Vô Độc rằng: “Địa ngục ở đâu?”
     Vô Độc  đáp  rằng:  “Trong  ba  biển  này  đều  là  địa  ngục,  nhiều  đến  số  trăm
nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực trung có 500
chỗ, không lường được sự khổ sở, bực nhỏ có đến  trăm nghìn, cũng không lường
được sự thống khổ”. Nghĩa là trong ba biển đều là Địa Ngục, tượng trưng cho ba
nghiệp: Ý nghĩ ác độc hại chúng  sinh, Miệng nói dối nói  thêu dệt  thêm bớt, nói
đâm thọc, nói ác độc hại chúng sinh, Thân hành hạ ác độc giết hại chúng sinh, nên
phải ở trong biển nghiệp, mà Địa Ngục ở ngay biển nghiệp tức là có nghiệp ác là
còn phải ở trong Địa Ngục.
     Bấy giờ, Nữ Nhân trong chiêm bao chợt tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đến trước
tháp tượng của Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương mà phát thệ nguyện rộng
lớn rằng: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội
khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho họ được giải thoát”, đây là lời phát
nguyện  cứu  khổ  chúng  sinh,  nhưng  cứu  khổ  bằng  cách  nào?  Bằng  các  phương
chước, nghĩa là bằng cách chỉ bày nói cho chúng sinh biết những việc làm ác phải
bị qủa báo khổ  ra  sao, khuyên chúng  sinh  làm  lành  tránh  làm ác, chỉ cho chúng
sinh nhiều  lối  tu khác nhau để  thoát khổ, nghĩa  là  tùy  theo bệnh  của mỗi  chúng
sinh mà cho  thuốc chữa. Chứ chẳng phải  là nguyện  làm vị Thần  linh xuống Địa
ngục, phá cửa ngục rồi thả hết chúng sinh bị đọa ở đó ra đâu mà lầm, không có bất
cứ  vị  Thần  linh  nào  làm  được  việc  này;  vì  nếu  nguyện  làm  như  thế,  tức  là  lời
nguyện đi ngược lại nghiệp báo nhân qủa, là không hợp lý vậy. 
*
*      * ã

27

PHẨM THỨ HAI 
PHÂN THÂN TẬP HỘI
1). HOÁ THÂN CÙNG QUYẾN THUỘC.
        Lúc đó phân thân Địa Tạng Bồ Tát ở các nơi có địa ngục trăm nghìn muôn ức
bất khả tư,  bất khả nghị, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế giới đều đến hội họp
tại cung trời Đao Lợi.
      Do nhờ thần lực của Như Lai, phân thân đó hiệp với những chúng đã được giải
thoát ra khỏi chốn nghiệp đạo ở mười phương, cũng đều đông đến số nghìn muôn
ức na do tha, đồng cầm hương hoa đến cúng dường Phật.
     Những chúng cùng đến với phân  thân đó, thảy đều nhờ Bồ Tát Địa Tạng giáo
hóa làm cho  trụ nơi đạo Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác  trọn không còn  thối
chuyển.
      Những chúng đó từ kiếp lâu xa đến nay trôi lăn trong vòng sinh tử ở trong sáu
đường, chiụ những điều khổ sở không có lúc nào tạm ngừng dứt, nhờ lòng từ bi lớn
và thệ nguyện sâu dày của ngài Bồ Tát Địa Tạng, nên tất cả đều chứng được đạo
quả.
      Đại chúng đó khi đã đến cung trời Đao Lợi, lòng họ vui mừng hớn hở, chiêm
ngưỡng đức Như Lai mắt nhìn mãi không rời.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn này Kinh nói: “Lúc đó phân thân Địa Tạng Bồ Tát ở các nơi có địa ngục
trăm nghìn muôn ức bất khả tư,   bất khả nghị, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế
giới đều đến hội họp tại cung trời Đao Lợi.” Như phần đầu của Kinh chúng ta đã
phân  tích  rằng Địa Tạng  là bản  tâm,  tự  tính, v.v…. phân-thân nghĩa  là một  thân
chia  ra  làm  trăm, nghìn, muôn  thân, mỗi phần gọi  là một  phân-thân, vì vậy mỗi
phân-thân Địa-Tạng là một phần của Tâm, nhưng tâm chỉ có một, có một tâm, đó
là  tâm Phật, Phật  tính. Nhưng khi chưa đạt đạo  thì  tâm chia ra vô lượng  tâm như
tâm tham, tâm sân, tâm dối, tâm kiêu mạn v.v…, mà có các tâm ấy thì biểu trưng là
chúng sinh còn trôi lăn trong vòng sinh tử. Khi đạt đạo rồi thì vô lượng tâm kia diệt
hết biến mất chỉ còn là một tâm trống rỗng tịch tịnh trong sáng cùng khắp, nên nói
phân thân và hợp thân (tâm) làm một là vậy. 
     Do nhờ thần lực của Như Lai, phân thân đó hiệp với những chúng đã được giải
thoát ra khỏi chốn nghiệp đạo ở mười phương, cũng đều đông đến số nghìn muôn ã

28

ức na do tha, đồng cầm hương hoa đến cúng dường Phật. Đây là tất cả các hàng A
La Hán và Bồ Tát đã thoát khỏi nghiệp đạo.

     Những chúng cùng đến với phân  thân đó, thảy đều nhờ Bồ Tát Địa Tạng giáo
hóa làm cho  trụ nơi đạo Vô  thượng Chánh đẳng Chánh giác  trọn không còn  thối
chuyển: Nghĩa là những vị này đều do tu tâm (Địa Tạng) nơi đạo Vô thượng, nên
không còn bị thoái đạo nữa.

      Những chúng đó từ kiếp lâu xa đến nay trôi lăn trong vòng sinh tử ở trong sáu
đường, chiụ những điều khổ sở không có lúc nào tạm ngừng dứt, nhờ lòng từ bi lớn
và thệ nguyện sâu dày của ngài Bồ Tát Địa Tạng, nên tất cả đều chứng được đạo
quả. Đây  là  tượng  trưng cho các chúng sinh  từ kiếp  lâu xa bị  trôi  lăn  trong vòng
sinh  tử ở  trong  sáu đường, chịu những điều khổ sở không có  lúc nào  tạm ngừng
dứt. Nhờ đã hiểu được giáo pháp, phát được  tâm  lành,  tu  sửa  tâm  tính,  tạo được
thiện căn, trừ bỏ được ác nghiệp, đang tu hạnh Bồ Tát, nên biểu trưng như được Bồ
Tát Địa Tạng giáo hóa.
2). ĐỨC NHƯ LAI AN ỦI ỦY THÁC.
      Bấy giờ, Thế Tôn giơ  tay  sắc vàng xoa đảnh của hóa  thân Bồ Tát Địa Tạng
trong muôn nghìn muôn ức bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết,
vô  lượng  vô  số  thế giới  (1) mà dạy  rằng: “Ta ở  trong đời ác ngủ  trược  (2) dạy
những chúng sanh cang cường như thế, làm cho lòng chúng nó điều phục bỏ tà về
chánh; nhưng trong mười phần vẫn còn một hai phần chúng sanh quen theo tánh
ác.
      Muốn  độ  chúng  đó,  ta  cũng  phân  nghìn  trăm  ức  thân  lập  ra  nhiều  phương
chước. Trong chúng  sanh đó, hoặc có người căn  tánh  sáng  lẹ nghe pháp của  ta
thời liền tín nhận, hoặc có người phải khuyên bảo mới thành tựu được thiện quả,
hoặc có kẻ vì tội nghiệp quá nặng nên chẳng đem lòng kính tin ngưỡng mộ.
      Ta phân ra nhiều  thân độ  thoát những chúng sanh mỗi mỗi sai khác như  thế.
Hoặc hiện ra thân trai, hoặc hiện ra  thân gái, hoặc hiện ra  thân  trời, rồng, hoặc
hiện ra  thân quỷ,  thần, hoặc hiện ra rừng, núi, sông, ngòi, ao, rạch, suối  làm  lợi
ích cho mọi người, để rồi độ họ được giải thoát.
      Hoặc hiện ra thân Thiên Đế hoặc hiện ra thân Trời Phạm Vương hoặc hiện ra
thân Vua Chuyển  luân, hoặc hiện ra  thân Quốc Vương hoặc hiện ra  thân Cư Sĩ, ã

29

hoặc hiện ra  thân Tể Phụ, hoặc hiện ra  thân các hàng quan  thuộc, hoặc hiện ra
thân Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
      Nhẫn đến hiện ra những thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật và Bồ Tát để
hóa độ chúng sanh, chớ chẳng phải chỉ có thân Phật hiện ra trước chúng thôi đâu!
      Địa  Tạng! Ông  xem  ta  đã  trải  qua  bao  số  kiếp  nhọc  nhằn  độ  thoát  những
chúng sanh cang cường đầy tội khổ khó khai hoá như thế, ngoài ra những kẻ chưa
điều phục được, thời phảỉ theo nghiệp thọ báo.
      Nếu khi chúng đó có bị đọa vào đường dữ chiụ nhìều sự  thống khổ,  thời ông
nên nghĩ nhớ ta ở cung trời Đao Lợi ân cần phó chúc đây mà gắng độ chúng sanh,
làm cho chúng sanh trong cõi Ta Bà nầy đến lúc Phật Di Lặc ra đời, đều được giải
thoát, khỏi hẳn các điều khổ, gặp Phật, được đức Phật thọ ký”
      Bấy giờ, những hóa thân Bồ Tát  Địa Tạng ở các thế giới hiệp chung lại một
hình, rơi lệ thương cảm mà bạch cùng đức Phật rằng: “Từ số kiếp lâu xa đến nay,
con nhờ đức Thế Tôn  tiếp   độ dắt dìu  làm cho con được  thần  lực chẳng  thể nghĩ
bàn, đầy đủ trí huệ rộng lớn.
      Con phân hiện  thân hình ra ở cùng khắp  trăm nghìn muôn ức hằng hà sa  thế
giới. Trong mỗi  thế giới hóa hiện  trăm nghìn muôn ức  thân. Mỗi  thân đó hoá độ
trăm nghìn muôn ức người làm cho quy kính ngôi Tam Bảo, khỏi hẳn vòng sanh tử
hưởng vui Niết bàn
      Những chúng sanh nào ở nơi Phật Pháp chỉ  làm một việc  lành bằng một sợi
lông, một giọt nước, một hột cát, một bụi nhỏ, hoặc chỉ bằng chừng mảy lông tóc,
con đều độ thoát lần lần, làm cho chúng đó được lợi ích lớn.
      Cúi mong Đức Như Lai chớ vì những chúng sanh ác nghiệp trong đời sau mà
sanh  lòng  lo  lắng!..Cúi mong Đức Như Lai  chớ  vì những  chúng  sanh ác nghiệp
trong đời sau mà sanh lòng lo lắng!..” Ngài Bồ Tát Địa Tạng bạch cùng Đức Phật
ba lần như thế.
      Lúc ấy, Đức Phật khen ngài Bồ Tát Địa Tạng rằng: “Hay  thay! Hay thay! Ta
hộ trợ cho ông được  toại nguyện! Từ số kiếp  lâu xa đến nay thường phát nguyện
rộng lớn, cứu độ tất cả chúng sanh xong rồi thời ông liền chứng quả Bồ đề.”
GIẢI NGHĨA ã

30

(1) Bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết, vô lượng vô số thế
giới: Đây là con số qúa lớn không thể tính đếm hết được, vì thế giới vũ trụ vô biến
nên thế giới vô lượng.
(2) Ngũ trược: Là 5 trược hay 5 trọc gồm: 
1. Kiếp trọc: Bệnh, đói, khủng bố hoành hành; 
2. Kiến trọc: Thấy biết sai nên tà kiến thịnh hành; 
3. Phiền não trọc: Tham năm dục nên phiền não; 
4. Chúng sinh trọc: Vô đạo đức, không sợ quả báo; 
5. Mệnh trọc: Sống nay chết mai, đời sống ngắn ngủi.
     Phần đầu của đoạn này đại ý Đức Phật xoa đầu hóa thân Bồ Tát Địa Tạng mà
dạy rằng: 
     “Ta  đã  ở  trong  đời Ngũ  trược,  phân  thân  trăm  nghìn  ức  thân,  lập  ra  nhiều
phương chước giáo hóa vô số loại hạng chúng sinh cang cường như thế, làm cho
lòng chúng nó điều phục bỏ tà về chánh; nhưng trong mười phần vẫn còn một hai
phần chúng sanh quen theo tánh ác….
    Ta phân  ra nhiều  thân độ  thoát những  chúng  sanh mỗi mỗi  sai  khác như  thế.
Hoặc hiện ra thân trai, thân gái, thân trời, rồng, thân quỷ thần; hoặc hiện ra thân
Thiên Đế, Trời Phạm Vương, Vua Chuyển luân, Quốc Vương, Cư Sĩ; hoặc hiện ra
thân Tể Phụ, các hàng quan thuộc, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di.
      Nhẫn đến hiện ra những thân Thanh Văn, La Hán, Bích Chi Phật và Bồ Tát để
hóa  độ  chúng  sanh,  chớ  chẳng  phải  chỉ  có  thân Phật  hiện  ra  trước  chúng  thôi
đâu!”
     Ở đây ví như muốn giáo hóa loài người thì Ngài hóa thân làm loài người, cũng
có khi muốn giáo hóa  loài người Ngài hóa Thân  làm  loài  trâu, bò, heo  lợn, mèo,
chó v.v…. Những loài vật này biết làm những cử chỉ khổ não như chảy nước mắt
không  ngưng  (biểu  tượng  của  khóc  than,  xin  tha  cho  khỏi  chết),  qùy  lạy  (biểu
tượng của  lạy van, xin  tha cho mạng sống) v.v… để khỏi bị sát hại,  làm cho  loài
người thức tỉnh u mê mà bỏ sự giết hại chúng sinh. 
     “Hoặc hiện ra rừng, núi, sông, ngòi, ao, rạch, suối làm lợi ích cho mọi người,
để rồi độ họ được giải thoát”, với mục đích hóa độ như hiện ra chỗ nguy hiểm có ã

31

thể gây chết chóc, hay hiện ra hình  thù gây ấn  tượng  lạ  thường, do đó con người
thấy sự vô thường để từ đó tìm tòi học đạo tu hành v.v…
      “Ta đã  trải qua bao kiếp nhọc nhằn độ  thoát những chúng  sanh cang cường
đầy tội khổ khó khai hoá, còn biết bao nhiêu những kẻ chưa điều phục được, đều
phảỉ  theo nghiệp  thọ báo khổ ải  trầm  luân”. Đây  là Ngài nói về những kẻ cứng
đầu, giống như kẻ điếc không sợ súng, những kẻ có ác kiến, có tâm ác thường vui
thích  làm việc ác như săn bắn, câu cá chẳng hạn, v.v… không nghe  lời Ngài dạy
bảo, nên Ngài vô cùng thương xót mà dặn bảo: 
     “Ông nên nhớ  tới Ta ở  cung  trời Đạo Lợi ân cần phó  chúc đây mà gắng độ
chúng sanh, làm cho chúng sinh trong cõi Ta Bà đều được giải thoát khỏi các khổ,
đến lúc Phật Di Lặc ra đời được Đức Phật này thọ ký”. Nghĩa là cố gắng mà dạy
bảo chúng sinh làm lành tránh làm ác, tu hành nghiêm chỉnh để được gặp Đức Phật
Di Lặc khi thành Phật thì sẽ tiếp tục tu hành và được thụ ký mai sau thành Phật.
     Khi ấy, những hóa  thân Bồ Tát Địa Tạng hiệp chung  lại một  thân hình, rơi  lệ
mà bạch cùng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni rằng: “Từ số kiếp lâu xa đến nay, con
nhờ Đức Thế Tôn tiếp độ dắt dìu làm cho con được thần lực chẳng thể nghĩ bàn,
đầy đủ trí huệ rộng lớn”. Đây là biểu trưng cho khi tu hành tới nơi tới chốn, nghĩa
là khi đã diệt trừ hết tâm chúng sinh thì Tâm chân hiển lộ, lúc đó được trí tuệ rộng
lớn, có thần lực không thể nghĩ bàn. Khi được giải thoát rồi, dùng thần lực nhìn lại
vô  lượng kiếp về  trước  thấy  trôi  lăn  trong  sáu đường khổ  sở  triền miên mà cảm
thương đến rớt nước mắt vậy.
     Con phân hiện  thân hình ra ở cùng khắp  trăm nghìn muôn ức hằng hà sa  thế
giới, trong mỗi thế giới hóa hiện trăm nghìn muôn ức thân; mỗi thân hoá độ vô số
người làm cho tin kính ngôi Tam Bảo và hướng dẫn tu hành ra khỏi vòng sanh tử
hưởng  vui Niết bàn: Đây  là  lời nguyện  hóa độ hết  tâm  chúng  sinh  để được  tâm
thanh tịnh yên vui.
     Còn những chúng sanh nào ở nơi Phật Pháp chỉ làm một việc nhỏ lành, con đều
độ thoát dần dần, làm cho chúng đó được lợi ích lớn; cúi mong Đức Như Lai chớ
vì những chúng sinh ác nghiệp  trong đời sau mà sinh  lòng  lo  lắng: Ngài Bồ Tát
Địa Tạng thưa cùng Đức Phật ba lần như thế, vì Bồ Tát sẽ dùng mọi phương tiện
hướng dẫn chúng sinh tu hành để được lợi ích. ã

32

     Tóm  lại,  ý  nghĩa  đoạn Kinh  này  là  Phật  luôn  luôn  giáo  hóa  chúng  sinh, mỗi
phân thân của Phật hay Địa Tạng, là một chúng sinh, đó là tâm của mỗi người đều
thay đổi  tùy  theo sự biết  (giác), có sự biết  thì có sự  tìm hiểu học hỏi, đây gọi  là
tâm. Mọi người đều có tâm, tâm mình chẳng những là học Phật, mà còn dạy những
người xung quanh, sự dạy này thuộc về người cùng cảnh ngộ, sự giáo hóa hay dạy
bảo lẫn nhau mới có hiệu quả; như đối với hạng nào thì phải có loại người nào nói
mới mang lại kết qủa tốt, do đó Đức Phật đã nêu ra đủ mọi loại người mà Ngài hóa
hiện.  
     Nhưng con người không chỉ học với con người nơi con người, mà còn có  thể
học với vạn vật ngoại cảnh, như từ súc vật, từ các cảnh vật rừng núi, sông ngòi, ao
rạch, suối ghềnh, mây gió v.v…. Những cảnh vật này  làm  lợi ích cho mọi người,
thuộc vạn pháp mà trong pháp có ý Phật, cho nên nói Phật phân thân hiện ra trong
những vật ấy; nếu chúng ta để tâm suy nghĩ tìm hiểu có thể học được rất nhiều điều
bổ  ích, như về nhân-quả, vô  thường, nhân duyên v.v…, vì những  thứ này đều có
thể rút ra từ những cảnh hình tướng của vạn vật vậy. 
      Lúc ấy, Đức Phật khen ngài Bồ Tát Địa Tạng rằng: “Hay  thay! Hay thay! Ta
hộ  trợ cho ông được  toại nguyện,  từ số kiếp  lâu xa đến nay  thường phát nguyện
rộng  lớn,  cứu  độ  tất  cả  chúng  sanh  xong  rồi  thời  ông  liền  chứng  quả  Bồ  đề”.
Nghĩa là từ xưa tới nay tất cả những người phát nguyện muốn độ hết chúng sinh,
tức  là những người nguyện  tu hành để  tận diệt  tất cả những  tâm điên đảo xấu xa,
khi hành trì cho đến không còn một chúng sinh trong tâm nữa thì chân tâm hiển lộ,
liền giải thoát vậy. 
*
*     *









 ã

33

PHẨM THỨ BA
QUÁN CHÚNG SINH
NGHIỆP DUYÊN

1). PHẬT MẪU THƯA HỎI.
      Lúc đó, đức Phật Mẫu là bà Ma Gia Phu Nhân chắp tay cung kính mà hỏi ngài
Bồ Tát Địa Tạng: “Thánh Giả, chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề tạo nghiệp sai
khác, cảm thọ quả báo ra thế nào?”
      Ngài Bồ Tát Địa Tạng đáp rằng: “Trong nghìn muôn thế giới cho đến quốc độ,
hoặc nơi thời có địa ngục, nơi thời không địa ngục, hoặc nơi thời có hàng nữ nhân,
nơi  thời không có hàng nữ nhân, hoặc nơi Phật Pháp, nơi  thời không Phật Pháp
nhẫn đến bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật v.v…Cũng sai khác như thế, chớ chẳng
phải riêng tội báo nơi địa ngục sai khác thôi đâu!”
      Bà Ma Gia Phu nhân lại bạch cùng Bồ Tát rằng: “Tôi nghe tội báo trong cõi
Diêm Phù Đề chiêu cảm lấy ác đạo”.
      Ngài Bồ  Tát Địa  Tạng  đáp  rằng:  “Thánh Mẫu,  trông mong  ngài  lắng  nghe
nhận lấy, tôi sẽ lược nói việc đó”.
      Thánh Mẫu bạch rằng: “Xin Thánh Giả nói cho”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn này, Đức Phật Mẫu là Mẹ của Thái Tử Tất Đạt Đa, sau khi sinh ra Thái
Tử được bảy ngày  thì Bà qua đời và sinh  lên cõi Trời Đâu Suất. Về sau khi Đức
Phật đã trên 70 tuổi rồi, lúc đó Ngài lên cung Trời Đạo Lợi theo sự thỉnh cầu của
Vua Trời Đế Thích để  thuyết pháp cho Phật Mẫu và Chư Thiên. Do đó chúng  ta
thấy có Phật Mẫu thỉnh Bồ Tát Địa Tạng nói về chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề
tạo nghiệp sai khác và cảm thọ quả báo.
     Bồ Tát Địa Tạng đáp rằng: “Trong nghìn muôn thế giới cho đến quốc độ, nơi
có địa ngục, nơi không có địa ngục”, nghĩa là có thế giới chúng sinh tạo ác nghiệp
nên ở đó có địa ngục, có thế giới chúng sinh không tạo ác nghiệp nên nơi đó không
có địa ngục. “Nơi có nữ nhân, nơi không có nữ nhân”, nghĩa là nơi có tình dục nơi ã

34

không có tình dục, ví dụ như các vị Trời cõi Sắc giới và Vô Sắc giới không có tình
dục; “nơi có Phật Pháp, nơi không có Phật Pháp”, nghĩa  là nơi có  tu hành giải
thoát nơi không có tu hành giải thoát; “cả đến bậc Thanh Văn và Bích Chi Phật”,
nghĩa là cả đến tu học bậc Thanh Văn để đạt qủa A La Hán và tu hành bậc Duyên
Giác để đạt qủa Bích Chi Phật v.v… cũng sai khác. “Chứ chẳng phải riêng tội báo
nơi địa ngục sai khác đâu”, nghĩa là trong cõi Phật này (giải Ngân Hà của chúng
ta) có cả nghìn  tỷ mặt  trời,  trong đó có những  thế giới có chúng sinh sinh  sống;
trong các  thế giới này có nhiều sự sai khác giữa  thế giới này và  thế giới kia, chứ
không phải là chỉ có địa ngục không giống nhau mà thôi đâu.
2). BỒ TÁT ĐỊA TẠNG LƯỢC THUẬT.
1.  NHỮNG  TỘI  BỊ  ĐỌA  ĐỊA  NGỤC  VÔ  GIÁN
      Bấy giờ, ngài Bồ Tát Địa Tạng thưa Thánh Mẫu rằng: “Danh hiệu của những
tội báo trong cõi Diêm Phù Đề như dưới đây:
      Như có chúng sanh nào chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ,
kẻ đó phải đọa vào Vô Gián địa ngục (1) mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc
nào mong ra khỏi được.
      Như có chúng sanh nào có  lòng ác, làm thân Phật bị thương chảy máu, khinh
chê ngôi Tam Bảo, chẳng kính Kinh điển, cũng phải đoạ vào Vô Gián địa ngục,
trong nghìn muôn ức kiếp, không khi nào ra khỏi được.
      Hoặc có chúng  sanh xâm  tổn của  thường  trụ, ô phạm Tăng, Ni, hoặc  tư  tình
làm sự dâm loạn trong chốn chùa chiền, hoặc giết, hoặc hại…Những chúng sanh
đó phải đọa vào Vô Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong
ra khỏi được.
      Như có chúng sanh giả làm thầy Sa Môn kỳ thật tâm chẳng phải Sa Môn, lạm
dụng của thường trụ, trái phạm Giới Luật, gạt gẫm hàng Bạch y, tạo nhiều điều tội
ác; hạng người như thế phải đọa vào Vô Gián địa ngục, trong nghìn muôn ức kiếp
không lúc nào mong ra khỏi được.
      Hoặc có chúng sanh trộm cắp những tài vật lúa gạo, đồ ăn uống, y phục v.v…
của thường trụ, cho đến không cho mà lấy một vật, kẻ đó phải đoạ vào Vô Gián địa
ngục, trong nghìn muôn ức kiếp không lúc nào mong ra khỏi được”. ã

35

      Ngài Bồ Tát Địa Tạng thưa rằng: “Thánh Mẫu! Nếu có chúng sanh nào phạm
những tội như trên đó thì phải đọa vào địa ngục Vô Gián, cầu tạm ngừng sự đau
khổ chừng khoảng một niệm cũng không được”!
GIẢI NGHĨA
(1) Địa Ngục Vô Gián: Vô Gián là không gián đoạn, Địa Ngục: chữ Phạn Naraka
hay Niraya, có nghĩa là buồn rầu, chán ghét, khổ sở, nơi có vô số khí cụ để tra tấn;
người bị đọa vào Địa Ngục Vô Gián bị hành tội ngày đêm không lúc ngưng nghỉ,
trong thời gian vô cùng lâu dài. Ở đây Địa Ngục còn tiêu biểu tượng trưng cho khi
nào trong tâm ta (địa) tham lam, sân giận, đố kị, ganh ghét, đau khổ, v.v…, thì lúc
đó ta đang ở trong Địa Ngục; nếu sự việc xảy ra như vậy lâu dài không lúc nào tạm
ngưng thì đó là Vô Gián.
    Trả  lời câu hỏi của Bà Ma Gia Phu nhân về “Tội báo  trong cõi Diêm Phù Đề
chiêu cảm lấy ác đạo”, Bồ Tát Địa Tạng thưa đại ý tóm tắt các tội nặng gồm:
1. Chẳng hiếu thảo với cha mẹ, cho đến giết hại cha mẹ, 
2. Làm thân Phật bị thương chảy máu, hoặc khinh chê ngôi Tam Bảo Phật, Pháp,
Tăng, 
3. Phạm hại Tăng Ni, tư tình làm sự dâm loạn trong chốn chùa chiền, hoặc giết hại
mạng chúng sanh, 
4. Giả làm người tu kỳ thật tâm chẳng phải người tu, lạm dụng của thường trụ Tam
Bảo, trái phạm Giới Luật, gạt gẫm người, tạo nhiều tội ác, 
5. Trộm cắp những tài vật của thường trụ Tam Bảo Phật Pháp Tăng.  
     Những người phạm phải một trong năm điều trên bị đọa vào địa ngục Vô Gián
trong vô số kiếp phải chịu vô lượng khổ.
2. THẾ NÀO LÀ ĐỊA NGỤC VÔ GIÁN?
      Bà Ma Gia Phu nhân lại bạch cùng Bồ Tát Địa Tạng: “Thế nào gọi là Vô Gián
địa ngục?’  ã

36

      Ngài Bồ Tát Địa Tạng  thưa  rằng: Thánh Mẫu!Bao nhiêu địa ngục  trong núi
Thiết Vi (1), lớn có 18 chỗ, thứ kế đó 500 chỗ danh hiệu đều riêng khác nhau, thứ
kế lại có nghìn trăm danh hiệu cũng đều riêng khác nhau.
      Nói về địa ngục Vô Gián đó, giáp vòng ngục thành hơn tám muôn dặm, thành
đó thuần bằng sắt cao đến một muôn dặm; lửa cháy trên thành không có chỗ nào
hở trống, trong ngục thành đó có các nhà ngục liên tiếp nhau đều có danh hiệu sai
khác.
      Riêng  có một  sở ngục  tên  là Vô Gián, ngục này  chu  vi một muôn  tám nghìn
dặm, tường ngục cao một nghìn dặm, toàn bằng sắt cả. Lửa cháy hực hở suốt trên
suốt dưới, trên tường ngục rắn sắt, chó sắt, phun lửa đuổi nhau chạy bên này sang
bên kia.
      Trong  ngục  có  giường  rộng  khắp muôn  dặm, một  người  thọ  tội  thời  tự  thấy
thân mình nằm đầy chật cả giường, đến nghìn muôn người thọ tội cũng đều tự thấy
thân của mình nằm chật cả  trên giường; đó  là vì những  tội nghiệp đã  tạo  ra nó
cảm vời như thế.
      Lại những người tội chịu đủ sự khổ sở: Trăm nghìn quỷ Dạ Xoa cùng với loài
ác quỷ,  răng nanh bén nhọn dường gươm, cặp mắt chói  sáng như chớp nhoáng,
móng tay cứng như đồng, móc ruột bằm chặt.
      Lại có quỷ Dạ Xoa khác cầm chĩa lớn bằng sắt đâm vào mình người tội, hoặc
đâm trúng miệng mũi, hoặc đâm trúng bụng lưng…; rồi dồi lên trên hư không, lấy
chỉa hứng lấy để lại trên giường, lại có diều hâu bằng sắt mổ mắt người tội.
      Laị có rắn sắt cắn đầu người tội, nơi lóng đốt khắp trong thân thể đều lấy đinh
dài đóng xuống giường, kéo  lưỡi ra rồi cày bừa  trên đó,  lôi kéo người  tội, nước
đồng đổ vào miệng, dây sắt nóng đỏ quấn lấy  thân người tội, một ngày một đêm,
muôn lần chết muôn lần sống lại. Do vì tội nghiệp mà cảm lấy như thế, trải qua ức
kiếp, không lúc nào mong ra khỏi được.
      Lúc  thế giới nầy hư hoại  thời sanh nhờ qua địa ngục ở  thế giới khác,  lúc  thế
giới khác đó hư hoại thời lại sanh vào cõi khác nữa, lúc cõi khác đó hư hoại thời
cũng xoay vần sanh vào cõi khác; đến khi thế giới này thành xong thời sanh trở về
thế giới nầy, những sự tội báo trong địa ngục như thế đó. ã

37

      Lại địa ngục đó do có năm điều nghiệp cảm, nên kêu là Vô Gián, năm điều đó
là nững gì?
     1. Tội nhân trong đó chịu khổ ngày lẫn đêm, cho đến trải qua số kiếp không lúc
nào ngừng ngớt, nên gọi là Vô Gián.
     2. Nếu người nào bị đọa vào địa ngục đó, thì từ khi mới vào cho đến trăm nghìn
kiếp mỗi một ngày đêm muôn  lần chết, muôn  lần sống  lại, muốn cầu  tạm ngừng
chừng khoảng một niệm cũng không được, trừ khi tội nhiệp tiêu hết mới được thọ
sanh. Do vì lẽ liên miên mãi nên gọi là Vô Gián.
      Ngài Bồ Tát Địa Tạng  thưa Thánh Mẫu  rằng: “Nói  sơ  lược  về địa  ngục Vô
Gián như thế. Nếu nói rộng ra thời tên của những khí cụ để hành tội cùng những
sự thống khổ trong địa ngục đó, dầu đến suốt một kiếp cũng không thể nào nói cho
hết được”
      Bà Ma Gia Phu Nhân nghe ngài Bồ Tát Địa Tạng nói xong, khôn xiết lo rầu,
Bà chắp tay đảnh lễ Bồ Tát mà lui ra.
GIẢI NGHĨA
(1) Núi Thiết Vi:  Thiết là sắt, Vi là vây rào, núi Thiết vi là núi sắt bao vây chung
quanh (cao tới một nghìn dặm)     
     Trả lời câu hỏi của Bà Ma Gia Phu nhân về “Thế nào là địa ngục Vô Gián?”,
Bồ Tát Địa Tạng thưa: “Địa ngục Vô Gián, giáp vòng ngục thành hơn tám muôn
dặm, thuần bằng sắt cao đến một muôn dặm”, nghĩa là tội nhân tạo tội nặng nên bị
nhốt  trong ngục có  thành lớn rộng cao bằng sắt kiên cố không có cách gì ra khỏi
được.  “Lửa  cháy  trên  thành  không  có  chỗ  nào  hở  trống”,  ở  đây  biểu  trưng  cho
phần lớn tội giết hại sinh mạng gây bởi lòng căm hờn thù giận nóng giận như lửa
đốt; “Trong ngục thành đó có các nhà ngục liên tiếp nhau đều có danh hiệu khác
nhau”, nghĩa là khi tạo đủ thứ tội khác nhau nên có những nhà ngục tên gọi khác
nhau với các cách tra khảo khác nhau tương ưng với tội đã tạo ra vậy.
      “Trong ngục có giường sắt nóng đỏ rộng khắp muôn dặm, một người  thọ  tội
thời tự thấy thân mình nằm đầy chật cả giường, đến nghìn người thọ tội cũng đều
tự  thấy  thân của mình nằm chật cả  trên giường”, nghĩa  là chúng  sinh  trong Địa
Ngục là nghiệp thân thức, khi nghiệp thân thức tội nhân bị đặt vào giường sắt lửa ã

38

thì nghiệp thân thức tức là cái giường. Nếu một tội nhân bị đặt vào giường thì có
cảm tưởng đầy chật cả giường, nếu nhiều tội nhân cùng nằm một giường cũng có
cảm  tưởng đầy cả giường như  thế; đó  là vì những  tội nghiệp  thân đã  tạo  ra cảm
giác như thế.
      “Lại những người tội chịu đủ sự khổ sở: Trăm nghìn quỷ Dạ Xoa cùng với loài
ác quỷ, răng nanh bén nhọn dường gươm, cặp mắt chói sáng như điện chớp, móng
tay cứng như thép, móc ruột moi mắt bằm chặt!” Dạ Xoa, Ác qủy, móc ruột, moi
mắt, bằm chặt tượng trưng cho việc tội nhân đã làm đủ thứ tàn ác như hành hạ tra
tấn, đánh đập chúng sinh bằng nhiều kiểu độc ác cho đến chết,  rồi chặt chân  tay,
chặt đầu, mổ bụng, móc ruột, moi mật, cắt gan v.v… nên nghiệp qủa đã biểu hiện
ra như thế. 
      “Lại có quỷ Dạ Xoa khác cầm chĩa  lớn bằng sắt đâm vào người  tội,  tung  lên
hư không có diều hâu sắt mổ mắt người tội, rồi lấy chỉa hứng lấy thảy trên giường
sắt đỏ”, đây cũng là biểu trưng của qủa báo những hành động ác độc mà tội nhân
đã gây ra như hành hạ đánh đập, giết người và súc vật, bắn bẫy thú rừng, bẫy chim,
xiên cá, câu cá, v.v…, rồi nướng các chúng sinh để ăn v.v...
      “Lại có rắn sắt cắn đầu người tội”, nghĩa là khi xưa tội nhân vì ngu si tà kiến
mà làm điều ác độc nên nay bị rắn cắn vào đầu; “Qủy đốt khắp thân thể” nghĩa là
khi xưa tham sân gây ác hại mạng chúng sinh nên nay bị lửa nghiệp đốt. “Lấy đinh
dài đóng thân tội nhân xuống giường”, nghĩa là khi xưa đã từng gây đau đớn khổ
sở cùng  tột cho chúng  sinh nên phải  trả nghiệp đóng đinh; “Kéo  lưỡi  ra  rồi cày
trên đó, lấy nước đồng sôi đổ vào miệng”, nghĩa là xưa kia đã từng do cái miệng
nói dối nói đâm thọc, nói thêu dệt, nói ác, vu oan giá họa làm hại người, nên phải
trả nghiệp qủa  trâu cầy  lưỡi và uống nước đồng sôi. “Lấy dây  sắt nóng đỏ quấn
quanh thân người tội”, nghĩa là xưa kia tội nhân đã từng hiếp dâm rồi giết người
nên phải nhận lãnh qủa báo bị cuốn lá đồng cháy đỏ. Ngày đêm, nghìn lần chết đi
sống lại, bởi vì mỗi cực hình làm cho người tội chết xong thì cực hình biến mất và
người tội tỉnh lại để rồi tiếp tục cực hình kế tiếp; vì tội nghiệp mà cảm lấy như thế,
trải qua ức kiếp, không lúc nào ngưng khổ được!
     ”Lúc  thế giới nầy hư hoại  thời sinh nhờ qua địa ngục ở  thế giới khác,  lúc  thế
giới khác đó hư hoại thời lại sinh vào cõi khác nữa, lúc cõi khác đó hư hoại thời
cũng xoay vần sinh vào cõi khác; đến khi thế giới này thành xong thời sinh trở về ã

39

để tiếp tục trả nghiệp báo”. Chúng ta cũng nên biết về thời gian lâu xa của tội Địa
Ngục Vô Gián, như Phật nói, thì thời gian chịu tội phải vài tỉ năm, thời gian chịu
tội qúa  lâu dài,  thật là khủng khiếp! Chúng ta cũng nên biết  là trái đất này có đời
sống là một Đại Kiếp chia ra làm bốn thời kỳ là Thành, Trụ, Hoại, Diệt, mỗi thời
kỳ này Đức Phật gọi  là một Trung Kiếp, mỗi Trung Kiếp  có 20 Tiểu Kiếp, mỗi
Tiểu Kiếp có thời gian là 16 triệu 800 nghìn năm, do đó chúng ta có một Đại Kiếp
là 16,800,000 x 4 x 20 = 1, 344,400,000 năm (một tỷ ba trăm bốn mươi bốn triệu
năm). Như hiện nay trái đất đang ở Trung Kiếp Trụ, giữa Kiếp thứ 9, do đó trái đất
sẽ còn khoảng 185 triệu năm sinh hoạt bình thường, để rồi sau đó qua thới kỳ của
Trung Kiếp Hoại v.v…
      Để trả lời câu hỏi của Phật Mẫu về “Tại sao Địa Ngục tên là Vô Gián?”, Ngài
Địa Tạng trả lời đại ý có năm nghiệp cảm, đó là:
1.  Tội nhân trong đó chịu khổ ngày lẫn đêm, không lúc nào ngừng nghỉ.
2.  Một tội nhân thân đầy chật cả ngục rộng lớn, nhiều tội nhân mỗi thân đều đầy
chật cả địa ngục.
3.  Những khí cụ để hành tội nhân như chĩa, gậy, diều hâu, rắn, sói, chó, cối giã,
cối xay,  cưa, đục, dao, mác, kiếm,  chảo, dầu  sôi,  lưới, dây,  lừa, ngựa, voi,
dây niền đầu, v.v...  tất cả đều bằng  sắt. Đói phải ăn viên  sắt nóng đỏ, khát
phải uống nước đồng sôi, chịu tội như thế trọn Kiếp cho đến vô số Kiếp nối
nhau không có giây phút ngưng nghỉ
4.  Không kể  là nam  hay  nữ, già  hay  trẻ,  sang hay  hèn, không  kể  là Trời  hay
Rồng, Thần hay Người, Ngạ quỷ hay Súc sinh, hễ tạo tội ác đều phải theo đó
mà chịu khổ tương ưng.
5.  Từ  khi vào  cho  đến  trăm  nghìn kiếp, mỗi một  ngày  đêm muôn  lần  chết  đi
sống lại, muốn cầu tạm ngừng chừng khoảng một niệm (năm bảy giây) cũng
không được, trừ khi tội nghiệp tiêu hết mới được chết đi, thụ sinh nơi khác.
*
*     *
PHẨM THỨ TƯ
NGHIỆP CẢM
CỦA CHÚNG SINH

1) BỒ TÁT ĐỊA TẠNG VÂNG CHỈ   ã

40


     Lúc đó ngài Bồ Tát Địa Tạng bạch cùng đức Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Con
nương sức oai  thần của đức Như Lai, nên chia  thân hình nầy ở khắp  trăm nghìn
muôn ức thế giới, để cứu vớt tất cả chúng sanh bị nghiệp báo.
     Nếu không nhờ sức đại  từ của đức Như Lai,  thì chẳng có thể biến hóa ra như
thế được, nay  con  được  đức Như Lai phó  chúc: Từ  nay  đến  khi ngài A Dật Đa
thành Phật,  làm  cho  chúng  sanh  trong  sáu đường đều được độ  thoát. Xin  vâng!
Bạch đức Thế Tôn! Xin Đức Thế Tôn chớ lo!”
      Bấy giờ Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Địa Tạng  rằng: “Những  chúng  sanh mà
chưa được giải thoát,  tánh thức của nó không định, hễ quen  làm dữ thì kết  thành
nghiêp báo dữ, còn quen làm lành thì kết thành quả báo lành.
     Làm lành và làm dữ đều do cảnh duyên mà sanh ra, lăn mãi trong năm đường
không lúc nào tạm ngừng ngớt, mê lầm chướng nạn trải đến kiếp số nhiều như vi
trần.
      Ví như loài cá bơi lội trong lưới theo dòng nuớc chảy, thoạt hoặc tạm được ra,
rồi lại mắc vào lưới; vì thế nên ta phải lo nghĩ đến những chúng sanh đó.
     Đời trước ông trót đã lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát thệ rộng lớn độ hết
cả hàng chúng sanh bị tội khổ thì Ta còn lo gì!”
GIẢI NGHĨA
     Đoạn này, Bồ Tát Địa Tạng  thưa với Đức Phật rằng: “Nay con được đức Như
Lai  phó  chúc:  Từ  nay  đến  khi  ngài A Dật Đa  thành Phật,  làm  cho  chúng  sanh
trong  sáu đường đều được độ  thoát; xin vâng!” Ở đây  là ý nói  rằng  từ khi Phật
Thích Ca nhập Niết Bàn tới khi Phật Di Lặc ra đời, nếu tính thì phải khoảng 8 triệu
8  trăm nghìn năm,  trong khoảng  thời gian qúa xa này, ngoại  trừ  thời Chính Pháp
1000 năm và Tượng Pháp là 1000 năm ra, từ thời Mạt Pháp (ngày nay) trở về sau,
chúng  sinh  phải  biết  tu Tâm,  nghĩa  là  phải  tự  tu  sửa Tâm Tính  (Địa Tạng)  của
mình, vì khi biết nghĩ đến cái Tâm thì sẽ giảm bớt dần những tâm chúng sinh, tức
là bớt dần các thói hư tật xấu của tham, sân, tà kiến, kiêu mạn, tật đố, ganh tị v.v…
      Bấy giờ Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Địa Tạng  rằng: “Những chúng sanh chưa
được giải thoát, tánh của họ không định, hễ quen làm dữ thì kết thành nghiêp báo
dữ, còn quen làm lành thì kết thành quả báo lành. Làm lành và làm dữ đều do cảnh ã

41

duyên mà sinh ra,  trôi  lăn mãi  trong năm đường không  lúc nào  tạm ngừng ngớt,
nhiều như vi trần. Ví như loài cá bơi lội theo dòng nuớc chảy, bị mắc vào lưới tạm
được  ra,  rồi  lại mắc  vào  lưới nữa;  vì  thế nên Ta phải  lo nghĩ đến những  chúng
sanh như thế”. Nghĩa  là chúng sinh thường  làm  lành  làm ác  lẫn  lộn đủ cả, không
thể tránh được qủa báo của việc làm ác, nên Phật ví như trong dòng nước cá bơi lội
bị mắc lưới là do làm ác, được thoát ra khỏi lưới là do làm lành, rồi lại bị mắc lưới
nữa do làm ác. Do đó mãi mãi ở trong luân hồi không có ngày ra khỏi, vì thương
xót chúng sinh phải ngụp lặn mãi trong sinh tử luân hồi, nên Đức Phật rất lo lắng
vậy. 
     Đức Phật bảo: “Đời  trước ông trót đã lập nguyện trải qua nhiều kiếp phát  thệ
rộng lớn độ hết cả hàng chúng sanh bị tội khổ thì Ta còn lo gì!” Nghĩa là Phật tin
tưởng ở những người phát thệ nguyện độ hết chúng sinh, tức là những người có tu
tâm sửa tính thì không còn phải lo gì. Vì tu sau nhiều đời tiếp nối cho tới ngày Bồ
Tát Di Lặc thành Phật, những người này sẽ có cơ hội gặp gỡ Phật Di Lặc để được
hướng dẫn chỉ dạy hầu tu hành tiến tới giải thoát.
2) BỒ TÁT ĐỊNH TỰ TẠI VƯƠNG HỎI.

     Khi đức Phật dạy lời như thế xong, trong Pháp hội có một vị đại Bồ Tát hiệu là
Định Tự Tại Vương ra bạch cùng đức Phật  rằng: “Bạch Thế Tôn!Từ nhiều kiếp
đến nay, ngài Bồ Tát Địa Tạng đã phát thệ nguyện gì, mà nay được đức Thế tôn ân
cần ngợi khen như thế? Cúi mong đức Thế Tôn lược nói cho”.
Bấy  giờ,  đức  Thế-Tôn  bảo Ngài Bồ  Tát Ðịnh-Tự-Tại-Vương:  “Lóng  nghe!  lóng
nghe! Phải khéo suy xét đó, Ta sẽ vì ông mà giải bày rõ rằng:”
GIẢI NGHĨA
     Danh hiệu “Bồ Tát hiệu là Định Tự Tại Vương” nghĩa là danh hiệu này tiêu biểu
cho việc thực hành tu tập Thiền định trong Lục Độ gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục,
tinh  tấn,  thiền định,  trí  tuệ; ở đây ý nói chúng sinh muốn có  trí  tuệ giải  thoát  thì
phải tu hành Lục Độ vậy.
3). ÔNG VUA NƯỚC LÂN CẬN.
     Vô lượng vô số na-do-tha bất khả thuyết kiếp về thuở trước, lúc đó có đức Phật
ra  đời  hiệu  là  Nhất-Thiết-Trí-Thành-Tựu  Như-Lai, Ứng  Cúng,  Chánh  Biến  Tri, ã

42

Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu,
Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế-Tôn.
     Ðức Phật đó thọ sáu muôn kiếp. Khi Ngài chưa xuất gia, thời Ngài làm Vua một
nước nhỏ kia, kết bạn cùng với Vua nước  lân cận; hai Vua đồng  thực hành mười
hạnh lành làm lợi ích cho nhân dân.
     Nhân dân trong nước lân cận đó phần nhiều tạo những việc ác. Hai Vua cùng
nhau bàn tính tìm những phương chước để dắt dìu dân chúng ấy.
     Một ông phát nguyện: “Tôi nguyện sớm thành Phật sẽ độ dân chúng ấy làm cho
đều được giải thoát không còn thừa”. 
     Một ông phát nguyện: “Như tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ làm cho đều
đặng an vui chứng quả Bồ Ðề, thời tôi nguyện chưa chịu thành Phật”. 
     Ðức  Phật  bảo  Ngài  Ðịnh-Tự-Tại-Vương  rằng:  “ÔngVua  phát  nguyện  sớm
thành Phật đó, chính là đức Nhứt-Thiết-Trí-Thành-Tựu Như-Lai.
     Còn  ông Vua  phát  nguyện  độ  chưa  hết  những  chúng  sanh  tội  khổ  thời  chưa
nguyện thành Phật, đó chính là Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây vậy”. 
GIẢI NGHĨA 
     Ở  đoạn  hai, Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương  thắc mắc  hỏi Phật  rằng Bồ Tát Địa
Tạng đã phát thệ nguyện những gì, mà được Đức Thế tôn ân cần ngợi khen? Theo
lời Đức Phật nói ở đoạn ba thì lời thệ nguyện của Bồ Tát Địa Tạng đã qúa xa xưa,
vì từ thuở hai Vua cùng thệ nguyện, mà một người đã thành Phật từ vô lượng kiếp
rồi, còn một người vẫn là Bồ Tát giáo hóa cứu khổ chúng sinh. Ở đây có hai loại
thệ nguyện: 
1.  Thệ nguyện thành Phật trước, sau mới độ chúng sanh. 
2.  Thệ nguyện trước độ chúng sanh, sau mới thành Phật.
     Tùy theo ý muốn của mỗi người mà tự lựa chọn đường lối và phát nguyện của
mình, chúng ta thấy rõ đại nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là theo đường lối thứ hai
và Đức Phật Thích Ca đã ân cần khen ngợi và phó chúc làm Phật sự cứu độ chúng
sinh  vậy. Nhưng  chúng  ta  cũng  nên  biết  lời  phát  nguyện  rằng:  “Như  tôi  chẳng
trước  độ  những  kẻ  tội  khổ  làm  cho  đều  được  an  vui  chứng  quả Bồ Ðề,  thời  tôi
nguyện chưa chịu thành Phật”. Câu này còn có hàm ẩn ý là khi nào tu hành không
còn tâm chúng sinh nữa thì mới thành Phật, nghĩa là những tâm tham, sân, tà kiến,
kiêu mạn,  tật đố, ganh  tị v.v… không còn  tạo  tác bởi  thân khẩu ý nữa,  tức  là hết ã

43

tâm ô nhiễm được  tâm vô  lậu  (trong  sạch)  thì  sẽ  thành Phật. Đây  là ý nghĩa mà
Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịnh-Tự-Tại-Vương: “Lóng nghe!  lóng nghe! Phải
khéo suy xét đó”, mà thực sự là Ngài nói với chúng ta là những người học Phật khi
đọc Kinh này vậy. 
   
     Câu “Đức Phật ra đời hiệu là Nhất-Thiết-Trí-Thành-Tựu Như-Lai”: Đây là biểu
trưng tuệ giác siêu việt của Phật, Chư Phật thì biết rõ cả tổng tướng và biệt tướng
của vạn pháp. Tổng tướng là tướng trạng do Năm Uẩn là Sắc, Thụ, Tưởng, Hành,
Thức hòa hợp, Biệt tướng là một trong 6 tướng gồm: Tổng (tụ họp lại), Biệt (riêng
rẽ), Đồng (giống nhau), Dị (khác nhau), Thành (thành hình), Hoại (tan hoại). Muốn
Thành  tựu Như-Lai  thì phải  tu hành cho  tới khi đạt được Nhất Thiết Trí hay Tri
Kiến Phật. 
     Câu “Như-Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế-Tôn.”
Đây là 10 danh hiệu của Chư Phật với ý nghĩa như sau:
01 - Như Lai: Bậc Chính Đẳng Chính Giác, vốn không từ đâu lại và cũng chẳng đi
về đâu, đó là Như Lai.
02  - Ứng Cúng: Đầy  đủ  chính  pháp vi diệu, xứng đáng hưởng  cúng dường  của
Người, và Trời.
03 - Chính Biến Tri: Dịch theo âm là Tam Miểu Tam Phật Đà, nghĩa là biết rõ hai
đế  lý: Lý  thế gian (Thế đế),  là  lý  tương đối, và  lý chân  thật (Chân đế)  là  lý  tuyệt
đối bình đẳng.
04 - Minh Hạnh Túc: Giữ gìn tịnh giới thanh tịnh, đầy đủ Tam Minh (Túc mệnh
minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh).
05 - Thiện Thệ: Không còn sinh trong ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc giới nữa.
06 - Thế Gian Giải: Là biết hết thế gian nhân sinh và vũ trụ.
07 - Vô Thượng Sĩ: Đấng tối cao không ai vượt qua.
08 - Điều Ngự Trượng Phu: Biết rõ phương tiện điều phục chúng sinh.
09  - Thiên Nhân Sư: Khiến Trời Người không khởi  lòng khiếp sợ, giáo hóa cho
lìa khổ được vui. ã

44

10 - Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ được người và Trời tôn kính.
4) QUANG MỤC CỨU MẸ.

1.  ĐƯỢC CHƯ THÁNH CHỈ BẢO, CẦU NGUYỆN CỨU MẸ
     Lại vô  lượng vô số kiếp về  thuở  trước, có đức Phật ra đời, hiệu  là Liên-Hoa-
Mục Như-Lai, Ðức Phật đó thọ bốn mươi kiếp.
     Trong thời mạt pháp, có một vị La-Hán phước đức cứu độ chúng sanh, nhân vì
đi tuần tự giáo hóa mọi người, La-Hán gặp một người nữ tên là Quang Mục, nàng
này sắm sửa đồ ăn cúng dường La-Hán.
La-Hán thọ cúng rồi hỏi: “Nàng muốn những gì?” 
Quang Mục thưa rằng: “Ngày thân mẫu tôi khuất, tôi làm việc phước thiện để nhờ
đó mà cứu vớt thân mẫu tôi, chẳng rõ thân mẫu tôi thác sanh vào đường nào?” 
La-Hán nghe nói cảm thương bèn nhập định quan sát, thời thấy bà mẹ của Quang
Mục đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở. 
La-Hán hỏi Quang Mục rằng: “Thân Mẫu ngươi lúc sanh tiền đã làm những hạnh
nghiệp gì, mà nay phải đọa vào chốn địa ngục rất khổ sở như thế?” 
Quang Mục thưa rằng: “Ngày còn sống, thân mẫu tôi chỉ ưa ăn thịt loài cá trạnh,
phần nhiều là hay ăn cá con và trạnh con, hoặc chiên, hoặc nấu, tha hồ mà ăn cho
thỏa mãn. 
Nếu tính đếm số cá trạnh của người đã ăn thời đến hơn nghìn muôn, xin Tôn Giả
thương xót chỉ dạy phải làm cách nào để cứu thân mẫu tôi?” 
La-Hán xót thương bèn dạy phương chước, ngài khuyên Quang Mục rằng: “Ngươi
phải đem lòng chí  thành mà niệm đức Thanh-Tịnh-Liên-Hoa-Mục Như-Lai, và vẽ
đắp hình tượng đức Phật, thời kẻ còn cùng người mất đều được phước lợi!” 
Quang Mục nghe xong, liền xuất tiền của, họa tượng Phật mà thờ cúng; nàng lại
đem lòng cung kính, khóc than chiêm ngưỡng đảnh lễ tượng Phật. 
Ðêm đó, nàng chiêm bao thấy thân của đức Phật sắc vàng sáng chói như hòn núi
Tu-Di; Ðức Phật phóng ánh sáng mà bảo Quang Mục rằng: “Chẳng bao lâu đây
thân mẫu ngươi sẽ thác sanh vào trong nhà của ngươi, khi vừa biết đói lạnh thời
liền biết nói”. ã

45

Sau đó, đứa tớ gái trong nhà sanh một đứa con trai, chưa đầy ba ngày đã biết nói;
trẻ đó buồn khóc mà nói với Quang Mục rằng: “Nghiệp duyên trong vòng sanh tử
phải tự lãnh lấy quả báo, tôi là mẹ của người, lâu nay ở chốn tối tăm; từ khi vĩnh
biệt người, tôi phải đọa vào đại địa ngục, nhờ phước lực của người nên nay được
thọ sanh làm kẻ hạ tiện; lại thêm số mạng ngắn ngủi, năm mười ba tuổi đây sẽ bị
đọa vào địa ngục nữa, người có phương thế gì làm cho tôi được thoát khỏi nỗi khổ
sở?” 
Nghe đứa trẻ nói, Quang Mục biết chắc là mẹ mình, nàng nghẹn ngào khóc lóc mà
nói với đứa  trẻ rằng: “Ðã  là mẹ của  tôi,  thời phải biết  tội của mình, đã gây  tạo
hạnh nghiệp chi mà bị đọa vào địa ngục như thế?” 
Ðứa trẻ đáp rằng: “Do hai nghiệp: giết hại sinh vật và chê bai mắng nhiếc, mà thọ
báo khổ. Nếu không nhờ phước đức của người cứu nạn tôi, thời cứ theo tội nghiệp
đó vẫn còn chưa được thoát khổ”. 
Quang Mục hỏi rằng: “Những việc tội báo trong địa ngục ra làm sao?” 
Ðứa trẻ đáp rằng: “Những việc tội khổ nói ra càng bất nhẫn, dẫu đến trăm nghìn
năm cũng không thuật hết được”. 
Quang  Mục  nghe  xong,  than  khóc  rơi  lệ  mà  bạch  cùng  giữa  hư  không  rằng:
“Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba tuổi không còn có
trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa.
GIẢI NGHĨA
     Vị La Hán xót thương bèn dạy rằng: “Cô nên vẽ hoặc đắp hình tượng Đức Phật
Thanh Tịnh Liên Hoa Mục và phải chí thành niệm danh hiệu Ngài, thì kẻ còn cùng
người mất đều được phúc lợi!” Ý nghĩa của danh hiệu “Phật Thanh Tịnh Liên Hoa
Mục”: Phật là   giác là biết; Thanh Tịnh là tịch tĩnh,   Liên Hoa là hoa sen tượng
trưng của sự trong sạch không nhiễm ô uế, tức là ý khẩu thân đều trong sạch không
có sự ác, Mục  là mắt  thấy. Vẽ hoặc đắp hình  tượng nghĩa  là Tâm chúng  ta như
người thợ vẽ, thợ đúc, thợ nặn, tạo nên tất cả sự vật trên thế gian, tạo cả sáu đường
để đến v.v…, ở đây ý nghĩa của vẽ hoặc đắp hình tượng Đức Phật Thanh Tịnh Liên
Hoa Mục. Tức  là dùng đủ mọi phương  tiện miệt mài chăm chỉ  luôn  luôn nhớ  tu
hành như tu Lục Độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, thì thấy
biết  được  tâm  thanh  tịnh  trong  sáng  không  vẩn  đục,  sẽ  có  lợi  cho  cả  kẻ  còn  và ã

46

người mất  là ở  lẽ này. Chứ chẳng phải vẽ hình hoặc đúc  tượng Đức Phật Thanh
Tịnh Liên Hoa Mục để trưng thờ, rồi ngồi cầu xin ngài phù hộ cho cả người sống
và kẻ chết ra khỏi Địa ngục được đâu mà lầm vậy. 
     Câu chuyện về qủa báo của bà mẹ Quang Mục hàm ý về chúng sinh biết  làm
lành  thì hưởng phúc, nếu  làm ác  thì phải đọa sinh vào nơi khổ; như phạm  tội sát
hại sinh vật  là  tạo  tội nhân quả nghiệp báo, mà muốn  thoát khổ  thì phải  tránh ba
nghiệp  thân  khẩu  ý  sát  hại  chúng  sinh,  phải  có  con mắt  thương  yêu  chúng  sinh
muôn loài. Nếu chúng ta làm được như vậy sẽ thấy rõ được thiện ác, thấy được tội
lỗi khi phạm và tự mình sẽ thấy rõ quả báo mà không một quyền lực hay Thần linh
nào có thể xen vào để làm tội hay tha thứ tội cho mình. 
     Sự cầu xin rằng: “Nguyện cho thân mẫu tôi khỏi hẳn địa ngục khi mãn mười ba
tuổi không còn có trọng tội cùng không còn đọa vào ác đạo nữa” và “Thân mẫu tôi
khỏi  hẳn  chốn  tam  đồ  và  hạng  hạ  tiện  cùng  thân  gái,  cùng  kiếp  không  còn  thọ
những quả báo xấu đó nữa”. Chúng ta nên biết rằng sẽ không thể đưa tới kết qủa
nếu người  tạo  tội không  thức  tỉnh hồi  tâm  sám hối việc  làm  ác và  tạo  tâm  lành.
Cũng được hưởng các  công đức  lành do  sự hồi hướng của những bậc có đầy đủ
công đức lành như trường hợp của Quang Mục là tiền thân của Bồ Tát Địa Tạng,
nên  chúng  ta  thấy  sự mong  cầu  này  được  tốt  đẹp;  còn  nếu  người  bình  thường
không những không có công đức tràn đầy mà còn có nhiều nghiệp xấu, thì sự hồi
hướng cầu mong chẳng thể có kết qủa được vậy. 
2. QUANG MỤC PHÁT NGUYỆN RỘNG LỚN ĐỂ CỨU MẸ
Xin Chư Phật  trong mười  phương  thương  xót  chứng minh  cho  tôi,  vì mẹ mà  tôi
phát nguyện rộng lớn như vầy: 
Như thân mẫu tôi khỏi hẳn chốn tam đồ và hạng hạ tiện cùng thân gái, cùng kiếp
không còn thọ những quả báo xấu đó nữa, tôi đối trước tượng của đức Thanh-Tịnh
Liên-Hoa-Mục Như-Lai mà phát  lời nguyện  rằng: Từ ngày nay nhẫn về  sau đến
trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội
khổ nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều
thoát khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v..., 
Những kẻ mắc phải tội báo như thế thành Phật cả rồi, vậy sau tôi mới thành bậc
Chánh Giác”.  ã

47

Quang Mục phát nguyện đó xong, liền nghe tiếng của Ðức Phật Thanh-Tịnh Liên-
Hoa-Mục Như-Lai dạy rằng: “Này Quang Mục! Nhà ngươi rất có lòng từ mẫn, vì
mẹ mà phát ra lời thệ nguyện rộng lớn như thế thật là hay lắm!
Ta quan sát thấy mẹ nhà ngươi lúc mãn mười ba tuổi, khi bỏ báo thân này sẽ thác
sanh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi. 
Sau đó vãng sanh về cõi nước Vô Ưu sống lâu đến số không thể tính kể, 
Sau rốt sẽ thành Phật độ nhiều hạng người, trời, số đông như số cát sông Hằng! 
Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịnh-Tự-Tại-Vương rằng: “Vị La-Hán phước lành độ
Quang Mục thuở đó, chính là Vô-Tận-Ý Bồ Tát, thân mẫu của Quang Mục là Ngài
Bồ Tát Giải Thoát.
 Còn Quang Mục thời là Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây vậy, trong nhiều kiếp lâu xa về
trước Ngài có  lòng  từ mẫn, phát ra hằng hà sa số  lời  thệ nguyện độ khắp chúng
sanh như thế. 
Trong đời sau, như có chúng sanh không làm lành, mà làm ác, nhẫn đến kẻ chẳng
tin luật nhân quả, kẻ tà dâm, vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt, ác khẩu, kẻ hủy báng Ðại
Thừa; những chúng sanh có tội nghiệp như thế chắc phải bị đọa vào ác đạo. 
Nếu  gặp  được  hàng  thiện  tri  thức  khuyên  bảo  quy  y  với Ngài Bồ Tát Ðịa Tạng
chừng trong khoảng khảy móng tay, những chúng sanh đó liền đặng thoát khỏi báo
khổ nơi ba ác đạo.
Nếu người nào  có  thể quy  kính  và  chiêm ngưỡng đảnh  lễ ngợi  khen,  cùng dưng
cúng những y phục, đồ ăn vật uống, các thứ trân bảo....; thời người đó, trong trăm
nghìn muôn ức kiếp sau, thường ở cõi trời hưởng thọ sự vui thắng diệu. 
Hoặc  lúc phước  trời hết, sanh xuống chốn nhân gian, vẫn còn  thường  làm vị Ðế
Vương  trong  trăm  nghìn  kiếp;  lại  nhớ  được  cội  ngành  nhân  quả  trong  các  đời
trước của mình. 
Này Ðịnh-Tự-Tại-Vương! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng có sức oai thần rất lớn không thể
nghĩ bàn, nhiều  sự  lợi  ích cho chúng  sanh như  thế; các ông, những bực Bồ Tát,
phải ghi nhớ kinh này hầu tuyên truyền lưu bố rộng ra.  ã

48

Ngài Ðịnh-Tự-Tại-Vương bạch Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! xin Phật chớ
lo! Nghìn muôn ức đại Bồ Tát chúng con đều có thể nương oai thần của Phật mà
tuyên lưu rộng kinh này nơi cõi Diêm-Phù-Ðề để cho lợi ích chúng sanh”. 
Ngài Bồ Tát Ðịnh-Tự-Tại-Vương bạch với Ðức Phật xong, bèn cung kính chắp tay
lễ Phật mà lui ra.
GIẢI NGHĨA
     Lời thệ nguyện của Quang Mục: Tôi đối trước tượng của đức Thanh-Tịnh Liên-
Hoa-Mục Như-Lai mà phát lời nguyện rằng: “Từ ngày nay nhẫn về sau đến trăm
nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà các hàng chúng sanh bị tội khổ
nơi địa ngục cùng ba ác đạo, tôi nguyện cứu vớt chúng đó làm cho tất cả đều thoát
khỏi chốn ác đạo: địa ngục, súc sanh và ngạ quỉ, v.v...; những kẻ mắc phải tội báo
như  thế  thành Phật cả rồi, vậy sau  tôi mới  thành bậc Chánh Giác”.   Nghĩa  là  từ
ngày này  (lúc phát nguyện) cho  tới vô  lượng kiếp về sau,  trong  tất cả những  thế
giới mà chúng sinh tạo tội bị đọa vào ba đường dữ, thì tôi nguyện giáo hóa họ để
cứu giúp họ thoát khỏi các cảnh khổ ấy, cứu giúp họ bằng chỉ dẫn cho họ bỏ ác làm
lành, tu hành nghiêm chỉnh. Tức là dạy họ bỏ tham, sân, tà kiến, kiêu mạn, tật đố,
ganh tị v.v…, từ ý nghĩ đến lời nói và việc làm, để dứt bỏ tâm ô trược của chúng
sinh và đạt được tâm vô lậu trong sạch. Khi tu hành hết tâm chúng sinh, tức là sạch
hết tâm dính mắc lậu hoặc rồi thì mới thành Phật, đó là biểu trưng cho lời nguyện
khi hết chúng sinh trong Địa Ngục rồi mới thành Phật là vậy.  
     Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịnh Tự Tại Vương rằng: “Vị La-Hán phước  lành
độ Quang Mục  thuở đó, chính  là Bồ Tát Vô Tận Ý,  thân mẫu của Quang Mục  là
Ngài Bồ Tát Giải Thoát”. Ở đây, Đức Phật cho biết vị La Hán chính là Bồ Tát Vô
Tận Ý, danh hiệu Vô Tận Ý nghĩa là vô số ý, mà ý của Bồ Tát thì phải là những ý
tốt lành, mà ý tốt lành thì không ra ngoài giáo pháp; vô số giáo pháp này mà những
ai học hỏi được để rồi thực hành thì sẽ đưa đến kết qủa tốt đẹp, mà kết qủa tốt đẹp
nhất là giải thoát. 
     Đức  Phật  giới  thiệu  tiếp:  “Thân  mẫu  của  Quang Mục  là  Ngài  Bồ  Tát  Giải
Thoát”; Mẹ của Quang Mục  là mẹ của mắt  sáng, vì  sau khi bị khổ ải, gặp được
Phật pháp  thì bừng  tỉnh và chăm chỉ  tu hành, làm  lành diệt ác tiến dần  lên từ khi
mãn mười ba tuổi bỏ báo thân ấy thác sinh làm người Phạm Chí sống lâu trăm tuổi.
Sau đó vãng sinh về cõi nước Vô Ưu sống lâu đến số không thể tính kể, đây là sinh ã

49

về cõi Tịnh (như cõi Phật A Di Đà chẳng hạn) tiếp tục tu hành lâu dài và sau chót
thành Phật, độ nhiều hạng người, trời, nhiều như số cát sông Hằng! 
     Đức Phật nói: “Trong đời sau, như có chúng sanh không làm lành, mà làm ác,
nhẫn đến kẻ chẳng tin luật nhân quả, kẻ tà dâm, vọng ngữ, kẻ lưỡng thiệt, ác khẩu,
kẻ hủy báng Ðại Thừa. Những chúng sanh có tội nghiệp như thế chắc phải bị đọa
vào ác đạo, nếu gặp được hàng  thiện  tri  thức khuyên bảo quy y với Ngài Bồ Tát
Ðịa  Tạng  chừng  trong  khoảng  khảy móng  tay,  những  chúng  sanh  đó  liền  đặng
thoát khỏi báo khổ nơi ba ác đạo”. Nghĩa là từ đời Mạt Pháp, hai nghìn năm sau
khi Đức Phật nhập Niết Bàn về sau, tức là từ ngày nay trở về sau, chúng sinh ác có
rất nhiều, nếu họ gặp được người chỉ dẫn những lời hay lẽ phải của chính pháp, thì
họ ngộ, hiểu  ra mau chóng nên Phật nói chỉ “trong khoảng khảy móng  tay”. Họ
hồi tỉnh và sửa đổi tâm tính nên nói là “quy y Địa Tạng”, làm lành tránh làm ác, tu
hành thì sẽ không bị đọa nơi Súc Sinh, Ngạ Qủy, Địa Ngục.
     Đức Phật nói  tiếp: “Nếu người nào có  thể quy kính và chiêm ngưỡng đảnh  lễ
ngợi khen, cùng dâng cúng những y phục, đồ ăn vật uống, các thứ trân bảo....; thời
người đó, trong trăm nghìn muôn ức kiếp sau, thường ở cõi trời hưởng thọ sự vui
thắng diệu. Hoặc lúc phước trời hết, sanh xuống chốn nhân gian, vẫn còn thường
làm vị Ðế Vương  trong  trăm nghìn kiếp;  lại nhớ được cội ngành nhân quả  trong
các đời trước của mình”. Đây là phúc báo của việc kính ngưỡng cúng dàng các vị
đạt đạo như Chư Phật, Bồ Tát, A La Hán và các vị tu hành chân chính; cúng dường
in  ấn Kinh  sách  Phật  pháp  giáo  hóa  làm  lợi  ích  chúng  sinh,  thì  sẽ  được  hưởng
nhiều phước mạnh khỏe sống lâu, công danh phú qúy, được mọi sự  tiện lợi trong
cuộc sống, đó là nói về ý nghĩa thông thường. 
     Nhưng ở đây với ý nghĩa tu, một lòng hết mình tôn trọng vâng làm (quy kính và
chiêm ngưỡng đảnh lễ ngợi khen) xa lià bỏ đi dứt trừ (cùng cúng dâng), xúc đối
với  thân  thể  (những y phục), không để  tâm bị dính mắc bởi quần áo đẹp xấu, vị
đối với thức ăn uống (đồ ăn vật uống), không để  tâm bị hành hạ bởi các món ăn
uống ngon dở, ý đối với pháp (các thứ trân bảo), không để tâm bị lôi kéo bởi các
vật qúy giá. Nghĩa  là người nào có  thể  tu hành không để cho Sáu Căn  (Mắt,Tai,
Mũi,  Lưỡi,  Thân, Ý)  bị  dính mắc,  hành  hạ,  lôi  kéo  bởi  Sáu  Trần  (Sắc,  Thanh,
Hương, Vị, Xúc, Pháp), thì “Người đó trong trăm nghìn ức kiếp sau, thường ở cõi
trời hưởng thọ sự vui  thắng diệu; hoặc  lúc phước  trời hết, sinh xuống chốn nhân
gian, vẫn còn thường làm vị Ðế Vương trong trăm nghìn kiếp”. Nếu người này tu ã

50

hành  tới  nơi  tới  chốn  đầy  đủ  thì  sẽ đạt qủa  giải  thoát khi  đó  sẽ  có  đầy  đủ Tam
minh, Ngũ  nhãn,  Lục  thông,  vì  vậy  cho  nên Đức  Phật  nói:  “Lại  nhớ  được  cội
ngành nhân quả trong các đời trước của mình” là vậy.
(5) TỨ THIÊN VƯƠNG HỎI PHẬT.

     Bấy giờ, bốn ông Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay
mà bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng từ kiếp
lâu xa nhẫn lại đã phát nguyện rộng lớn như thế, tại sao ngày nay mà vẫn độ chưa
hết, Ngài lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong đức Thế-Tôn dạy
cho chúng con rõ”.
Ðức Phật bảo bốn vị Thiên Vương rằng: “Hay thay!Hay thay! Nay vì muốn được
sự lợi cho chúng sanh, Ta vì các ông cùng chúng thiên nhân ở hiện tại và vị lai, mà
nói những sự phương  tiện của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng ở  trong đường sanh  tử nơi
Diêm-Phù-Ðề  ở  Ta-Bà  thế  giới  này,  vì  lòng  từ mẫn  xót  thương mà  cứu  vớt,  độ
thoát tất cả chúng sanh mắc phải tội khổ”.
Bốn ông Thiên Vương bạch rằng: “Vâng! Bạch đứcThế-Tôn! Chúng con xin muốn
được nghe”.
 (6) PHƯƠNG TIỆN GIÁO HÓA.

     Ðức Phật bảo bốn ông Thiên Vương rằng: “Từ kiếp lâu xa nhẫn đến ngày nay,
Ngài  Bồ  Tát  Ðịa-Tạng  độ  thoát  chúng  sanh  vẫn  còn  chưa  mãn  nguyện,  Ngài
thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời này, lại quan sát vô lượng kiếp về sau, tội
khổ cứ lây dây mãi không dứt.
Vì lẽ đó nên Ngài phát ra lời trọng nguyện.
Bồ Tát Ðịa-Tạng ở  trong cõi Diêm-Phù-Ðề nơi  thế giới Ta-Bà, dùng  trăm nghìn
muôn ức phương chước để giáo hóa chúng sanh.Nầy bốn ông Thiên Vương! Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng nếu gặp kẻ sát hại loài sanh vật, thời dạy rõ quả báo vì ương lụy
đời trước mà phải bị chết yểu.
- Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời Ngài dạy rõ quả báo nghèo- khốn khổ sở.- Nếu gặp kẻ
tà dâm thời Ngài dạy rõ quả báo làm chim se-sẻ, bồ câu, uyên-ương. ã

51

-Nếu gặp kẻ nói lời thô ác, thời Ngài dạy rõ quả báo quyến thuộc kình chống nhau.
- Nếu gặp kẻ hay khinh chê, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi, miệng lở.
- Nếu gặp kẻ nóng giận, thời Ngài dạy rõ quả báo thân hình xấu xí tàn tật.
- Nếu gặp kẻ bỏn xẻn, thời Ngài dạy rõ quả báo cầu muốn không được toại nguyện.
- Nếu gặp kẻ buông  lung săn bắn,  thời Ngài dạy rõ quả báo kinh hãi điên cuồng
mất mạng.
-Nếu gặp kẻ trái nghịch cha mẹ, thời Ngài dạy rõ quả báo trời đất tru lục.
- Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ, thời Ngài dạy rõ quả báo cuồng mê đến chết.
- Nếu gặp cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở độc ác, thời Ngài dạy rõ quả báo thác sanh trở lại
hiện đời bị roi vọt.
- Nếu gặp kẻ dùng lưới bắt chim non, thời Ngài dạy rõ quả báo cốt nhục chia lìa.
- Nếu gặp kẻ hủy báng Tam-Bảo, thời Ngài dạy rõ quả báo đui, điếc, câm, ngọng.
- Nếu gặp kẻ khinh chê giáo pháp thời Ngài dạy rõ quả báo ở mãi trong ác đạo.
- Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ, thời Ngài dạy rõ quả báo ức kiếp  luân hồi
nơi địa ngục.
- Nếu gặp kẻ ô nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già, thời Ngài dạy rõ
quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
- Nếu gặp kẻ dùng nước sôi hay lửa, chém chặt, giết hại sinh vật, thời Ngài dạy rõ
quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn nhau. 
- Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, thời Ngài dạy rõ quả báo cầm thú đói khát.
- Nếu gặp kẻ phung phí phá tổn của cải một cách phi lý, thời Ngài dạy rõ quả báo
tiêu dùng thiếu hụt.
- Nếu gặp kẻ tao ta kiêu mạn cống cao, thời Ngài dạy rõ quả báo hèn hạ bị người
sai khiến.
- Nếu gặp kẻ đâm chọc gây gỗ, thời Ngài dạy rõ quả báo không lưỡi hay trăm lưỡi. ã

52

- Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, thời Ngài dạy rõ quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh.
Những chúng sanh trong cõi Diêm-Phù-Ðề, từ nơi thân khẩu ý tạo ác, kết quả trăm
nghìn muôn sự báo ứng như thế, nay chỉ nói sơ lược đó thôi.
Những  nghiệp  cảm  sai  khác  của  chúng  sanh  trong  chốn Diêm-Phù-Ðề  như  thế,
Ðịa-Tạng Bồ Tát dùng trăm nghìn phương chước để giáo hóa đó.
Những chúng sanh ấy  trước phải chịu phải chịu  lấy các quả báo như thế, sau lại
đọa vào địa ngục trải qua nhiều kiếp không lúc nào thoát khỏi.
Vì thế nên các ông là bậc hộ vệ người cùng bảo trợ cõi nước, chớ để những nghiệp
chướng đó nó làm mê hoặc chúng sanh.
Bốn ông Thiên Vương nghe xong, rơi lệ than thở chấp tay lễ Phật mà lui ra.
GIẢI NGHĨA
     Bốn ông Thiên Vương đồng từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay mà bạch
cùng Ðức Phật  rằng:  “Bạch Đức Thế-Tôn! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng  từ kiếp  lâu xa
nhẫn  lại đã phát nguyện rộng  lớn như  thế,  tại sao ngày nay mà vẫn độ chưa hết,
Ngài lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Cúi mong đức Thế-Tôn dạy cho
chúng con rõ”. Đại ý Tứ Thiên Vương thắc mắc hỏi Phật, hai vấn đề rằng: 
1. Bồ Tát Địa Tạng đã phát nguyện nhiều  lần  từ vô  lượng kiếp về  trước, mà sao
cho đến nay vẫn chưa cứu độ hết? Về điểm  thứ nhất này, Đức Phật bảo bốn ông
Thiên Vương rằng: “Từ kiếp lâu xa nhẫn đến ngày nay, Ngài Bồ Tát Ðịa Tạng độ
thoát  chúng  sanh  vẫn  còn  chưa mãn  nguyện”,  nghĩa  là  tâm  chúng  sinh  còn  qúa
thịnh hành, chưa diệt hết các tâm tham, sân, tà kiến, mạn, đố kỵ, ganh ghét, v. v…
thì không thể nào xong việc được, chẳng thể hết tâm chúng sinh thì chẳng thể giải
thoát nên chẳng thể mãn nguyện. 
2. Tại sao Ngài Địa Tạng lại còn phải phát lời nguyện rộng lớn nữa? Về điểm thứ
hai này, Đức Phật bảo rằng: “Ngài thương xót chúng sanh mắc tội khổ đời này, lại
quan sát vô lượng kiếp về sau, tội khổ cứ lây dây mãi không dứt”. Nghĩa là chúng
sinh mắc  tội  thọ hình xong ra khỏi,  lại  làm ác mắc  tội nữa, vì  tâm chúng sinh vô
minh, không kiên trì mà thay đổi nay thế này mai thế khác mãi mãi như thế, nên vì
lòng thương xót chúng sinh mà Ngài liên tiếp phát nguyện cứu độ chúng sinh. ã

53

     Đức Phật nói: “Bồ Tát Ðịa-Tạng ở trong cõi Diêm-Phù-Ðề nơi thế giới Ta-Bà,
dùng  trăm nghìn muôn ức phương chước để giáo hóa chúng  sanh”, nghĩa  là Bồ
Tát dùng vô số phương pháp để dạy chúng sinh thoát khổ. Đức Phật nói tiếp: “Nầy
bốn ông Thiên Vương! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật, thời
dạy rõ quả báo vì ương  lụy đời  trước mà phải bị chết yểu”, nghĩa  là Ngài  lưu ý
chúng sinh,  tâm nên nhớ nếu người nào  thường hay giết hại chúng sinh  thì sẽ có
qủa báo đời sau bị chết non chết trẻ. “Nếu gặp kẻ trộm cắp, thời Ngài dạy rõ quả
báo nghèo khốn khổ sở, v.v…”, nghĩa là vì trộm cướp lừa đảo lường gạt để chiếm
tiền bạc của cải của người khác thì khi tái sinh làm người sẽ phải sống trong cảnh
nghèo khổ lầm than cả đời.
     Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng dạy kẻ tà dâm thời nhận quả báo làm loài chim se-sẻ, bồ
câu, uyên-ương; dạy kẻ nói lời thô ác như hay gây cãi lộn chửi rủa sẽ có quả báo
quyến  thuộc kình chống nhau; dạy kẻ hay khinh chê người khác,  thời phải nhận
quả báo câm điếc (không lưỡi), miệng lưỡi mụn nhọt (miệng lở). Ngài dạy kẻ nóng
giận, bị quả báo sẽ có mặt mũi xấu xí, thân hình tàn tật; dạy kẻ bỏn xẻn bị quả báo
cầu mong ước muốn điều gì cũng chẳng được  toại ý; dạy kẻ săn bắn sẽ  lãnh quả
báo kinh hãi điên cuồng, chết nơi bờ bụi; Ngài dạy kẻ trái nghịch cha mẹ, phải bị
quả báo chết bởi thiên tai (trời tru đất lục) như bị sét đánh, bão tố, lũ lụt, động đất
v.v…; dạy kẻ đốt núi rừng cây cỏ, sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết. 
     Ngài dạy kẻ làm cha ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở độc ác, bị quả báo khi chết tái sinh trở lại
thường bị đánh đập khổ sở; dạy kẻ dùng lưới bẫy bắt chim, sẽ bị quả báo cốt nhục
chia  lìa. Ngài dạy kẻ hủy báng Tam-Bảo,  thời bị quả báo đui, điếc, câm, ngọng;
dạy kẻ khinh chê giáo pháp của Phật sẽ lãnh quả báo ở mãi trong ác đạo, vì làm trái
với giáo pháp, tức là làm ác nên bị đọa vào Ngã qủy, Súc sinh hay Địa ngục. Ngài
dạy những kẻ lạm dụng phá của thường trụ (Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng), sẽ bị quả
báo ức kiếp bị khổ nơi địa ngục; dạy kẻ làm nhục và vu oan giá họa cho người tu
hạnh thanh tịnh phải bị quả báo ở mãi trong loài súc sanh.
      Ngài  dạy  kẻ  giết  hại  sinh  vật  bằng  đâm  phóng,  chém  chặt,  luộc,  chiên,  đốt
nướng,  sẽ bị quả báo phải  thường mạng giống như  thế; dạy kẻ  tu hành phá giới
phạm trai, phải nhận quả báo làm cầm thú bị đói khát khổ sở. Ngài dạy kẻ phung
phí phá tổn của cải một cách phi lý, sẽ bị quả báo đời sau tiêu dùng thiếu hụt; dạy
kẻ  kiêu  căng  lên mặt  với  những  người  khác,  bị  quả  báo  phải  làm  kẻ  hèn  hạ  bị
người sai khiến; dạy kẻ đâm chọc thêu dệt gây gỗ, sẽ bị quả báo câm điếc (không ã

54

lưỡi) hay nói huyên  thiên những  lời vô  ích  (trăm  lưỡi); dạy kẻ  tà kiến mê  tín, bị
quả báo tái sinh vào chốn hẻo lánh hoang vu hưu quạnh.
     Đức Phật nói: “Những chúng sanh do thân khẩu ý tạo ác, kết quả có trăm nghìn
báo ứng khác nhau, những chúng sanh ấy  trước phải chịu phải chịu  lấy các quả
báo  vô  số như  thế,  sau  lại  đọa  vào địa  ngục  trải  qua  nhiều  kiếp  không  lúc  nào
thoát khỏi”. Đây là điều mà mọi người cần phải để ý là người làm ác phải chịu tới
2 lần qủa báo chứ không phải một, bị qủa báo tương ưng với việc làm ác, xong rồi
lại bị qủa báo đọa Địa ngục. “Những nghiệp cảm sai khác của chúng sanh có vô
số,  nên  Bồ  Tát Ðịa-Tạng  dùng  trăm  nghìn  phương  chước  để  giáo  hóa”,  ở  đây
chúng ta thấy đối với người biết nhân quả nghĩa là người ý thức đúng sự nguy hại
của nghiệp báo thì có thể tự tránh tự cứu; nhưng đối với người coi nhẹ nghiệp báo
thì cần phải có những phương tiện mạnh mẽ hầu đánh thức sự mê mờ của họ chứ
không đơn giản được. Do đó, phải phương tiện mà nói, mỗi việc làm ác đều có qủa
báo phải nhận lãnh khác nhau, phương tiện ở đây cũng như tùy bệnh mà cho thuốc,
mỗi bệnh cần một thứ thuốc khác vậy. 
7). KỆ BẢN NGUYỆN ĐỊA TẠNG
                       Bản nguyện Địa Tạng
                  Đao Lợi Thiên cung,
                  Thần thông hiển hoá độ quần mông,
                  Đời ngũ trược khó thông,
                  Chúng sanh cang cường,
                  Ham vui khổ vô cùng.
      Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật. (3 lần)
      Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Bồ Tát. (3lần)
GIẢI NGHĨA:
     Bài tán cuối quyển một của Kinh để cảnh tỉnh con người trong đời Ngũ Trược
cang cường khó dạy bảo, khó đem ánh sáng chân  lý mà soi rọi, vì chúng sinh vô
minh lại cứng đầu. Không nghe lời dạy bảo, mà chỉ ham chạy theo tham muốn hạ
đẳng, cho nên phải chịu khổ sở vô cùng; bởi vậy, Đức Phật mới phải nói Kinh Địa
Tạng Bản Nguyện để độ cho những kẻ u mê  tối  tăm  theo đó mà  tu  tâm sửa  tánh
hầu thoát khỏi khổ.    
QUYỂN THƯỢNG HẾT ã

55

QUYỂN TRUNG

PHẨM THỨ NĂM
DANH HIỆU CỦA ĐỊA NGỤC

1). PHỔ HIỀN HAN HỎI.
     Lúc đó, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát thưa cùng Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng rằng: “Thưa
Nhân Giả! Xin Ngài vì Trời, Rồng Bát bộ và tất cả chúng sanh ở hiện tại cùng vị
lai, mà nói danh hiệu của những địa ngục  là chỗ thọ báo của những hạng chúng
sanh bị tội khổ ở trong cõi Ta-Bà cùng Diêm-Phù-Ðề này, và nói những sự về quả
báo không  lành,  làm cho chúng sanh  trong  thời mạt pháp sau này biết rõ những
quả báo đó”. Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đáp rằng: “Thưa Nhơn Giả, nay  tôi nương
oai  thần của Ðức Phật và oai  lực của Ngài mà nói danh hiệu của các địa ngục,
cùng những sự về tội báo và ác báo”.
2). DANH HIỆU CỦA ĐỊA NGỤC
     Thưa Nhân Giả! Phương Ðông  của Diêm-Phù-Ðề  có  dãy  núi  tên  là Thiết-Vi
(núi bờ sắt), dãy núi đó tối thẳm không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, trong
đó có địa ngục lớn tên là Cực-Vô-Gián (cùng tột khổ không ngừng).
Lại có địa ngục tên là Ðại-A-Tỳ, lại có địa ngục tên là Tứ-Giác (bốn góc), lại có
địa ngục tên là Phi-Ðao (đao bay), lại có địa ngục tên là Hõa-Tiễn (tên lửa), lại có
địa ngục  tên  là Giáp-Sơn  (núi  ép),  lại  có địa ngục  tên  là Thông-Thương  (phóng
đâm).
Lại có địa ngục tên là Thiết Xa (xe sắt), lại có địa ngục tên là Thiết-Sàng (giường
sắt), lại có địa ngục tên là Thiết-Ngưu (trâu sắt), lại có địa ngục tên là Thiết-Y (`áo
sắt),  lại có địa ngục  tên  là Thiên-Nhẫn  (nghìn mũi nhọn),  lại có địa ngục  tên  là
Thiết-Lư (lừa sắt).
Lại có địa ngục  tên  là Dương-Ðồng (nước đồng sôi),  lại có địa ngục  tên  là Bảo-
Trụ (ôm cột đồng nóng đỏ), lại có địa ngục tên là Lưu-Hỏa (lửa văng), lại có địa
ngục tên là Canh-Thiệt (cày trên lưỡi), lại có địa ngục tên là Tỏa-Thủ (chém đầu),
lại có địa ngục tên là Thiêu-Cước (đốt cháy chân). ã

56

Lại  có địa ngục  tên  là Ðạm-Nhãn  (móc mắt),  lại  có địa ngục  tên  là Thiết-Hoàn
(nuốt hòn sắt nóng), lại có địa ngục tên là Tránh-Luận (hạch hỏi), lại có địa ngục
tên là Thiết-Thù (phóng lao sắt), lại có địa ngục tên là Ða-Sân (giận dữ)...
Ngài  Ðịa-Tạng  Bồ  Tát  nói  rằng:  “Thưa  Nhơn  Giả,  trong  dãy  núi  Thiết-Vi  có
những địa ngục như  thế số nhiều vô hạn. Lại có địa ngục Kiếu Oán  (kêu  la), địa
ngục Bạt  Thiệt  (kéo  lưỡi),  địa  ngục Phẩn Niếu  (phân  tiểu),  địa  ngục Ðồng  Toả
(khóa đồng), địa ngục Hỏa Tượng (voi lửa), địa ngục Hỏa Cẩu (chó lửa), địa ngục
Hỏa Mã (ngựa lửa), địa ngục Hỏa Ngưu (trâu lửa), địa ngục Hỏa Thạch (đá lửa),
địa ngục Hỏa Sàng  (giường  lửa), địa ngục Hỏa Lương  (sườn nhà  lửa), địa ngục
Hỏa Ưng (chim ưng lửa), địa ngục Cứ Nha (cưa răng), địa ngục Bác Bì (lột da),
địa  ngục Ẩm Huyêt  (uống máu),  địa  ngục  Thiêu  Thủ  (đốt  đầu),  địa  ngục  Thiêu
Cước  (đốt chân), địa ngục Ðảo Thích  (đâm ngược), địa ngục Hỏa Ốc  (nhà  lửa),
địa ngục Thiết Ốc (nhà sắt), địa ngục Hỏa Lang (chó sói lửa).
Những địa ngục như thế, trong đó mỗi ngục lớn lại có những ngục nhỏ, hoặc một,
hoặc  hai, hoặc ba, hoặc  bốn, nhẫn  đến  trăm  nghìn  ngục  nhỏ,  trong  số  đó  danh
hiệu chẳng giống nhau”. 
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng nói với Ngài Bồ Tát Phổ Hiền rằng: “Thưa Nhơn Giả! Ðó
đều  là do chúng  sanh  trong cõi Diêm-Phù-Ðề  làm những điều ác mà  tùy nghiệp
chiêu cảm (1) ra những địa ngục như thế.
Nghiệp  lực  rất  lớn, có  thể  sánh với núi Tu-Di, có  thể  sâu dường biển cả, có  thể
ngăn đạo thánh (2)”; do đó chúng sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho là không
tội, vì sau khi chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy cả (3). 
Chí  thân  như  cha  với  con,  mỗi  người  cũng  theo  nghiệp  của  mình  mà  đi  khác
đường, dầu có gặp nhau cũng chẳng bằng  lòng chịu khổ cho nhau được (4); nay
tôi nương oai  lực của Ðức Phật mà nói  sơ  lược những  sự  tội báo nơi địa ngục,
mong Nhân giả tạm nghe những lời đó.
Ngài Bồ Tát Phổ Hiền đáp rằng: “Dầu  từ  lâu  tôi đã rõ  tội báo nơi ba đường ác
đạo  rồi, nhưng  tôi muốn Nhân giả nói  ra  để  làm  cho  tất  cả  chúng  sanh  có  tâm
hạnh ác trong đời mạt pháp sau này, nghe được lời dạy của Nhân giả, mà biết quy
hướng về Giáo Pháp của Phật”(5).
GIẢI NGHĨA ã

57

(1) Tùy nghiệp chiêu cảm: Chiêu  là  trói buộc  lại, khiến cho  tới về mình,  tự gây
việc  cho mình; Cảm  là nhiễm phải, động  sinh; Tùy nghiệp  chiêu cảm  là  tự gây
nghiệp cho mình chứ không do người khác tạo nghiệp cho mình.
(2) Nghiệp lực rất lớn, có thể sánh với núi Tu-Di, có thể sâu dường biển cả, có
thể ngăn đạo thánh: Câu này có nghĩa là nghiệp lực vô cùng mạnh mẽ, nó lớn như
núi vô cùng  lớn, nó  sâu  rộng như biển, nó  có  thể ngăn đạo Thánh; nghĩa  là bậc
Thánh  cũng không  cản  trở được  sức  lực của nó. Người  tạo  tội  rồi  thì phải động
sinh thành nghiệp qủa, dù mai sau có thành Phật đi chăng nữa nhưng gây ra tội rồi
thì phải vào Địa Ngục chịu qủa báo đã, rồi về sau  làm  lành  tránh  làm ác  tu hành
dần dần sẽ thành Phật.
(3) Vì  thế chúng  sanh chớ khinh điều quấy nhỏ mà cho  là không  tội,  sau khi
chết đều có quả báo dầu đến mảy mún đều phải chịu lấy: Câu này ngài Địa Tạng
lưu ý dù tội nhẹ cũng là tội, tội nhẹ thì qủa báo nhẹ, chứ không phải là không có
tội. Tất cả những tội gây ra sau khi chết rồi đều động sinh thành chiêu cảm qủa báo
của chính người  tạo ra, không  thể  trốn  tránh gì được, nhưng ở  thế gian có  thể có
nhiều người tạo tội không ai thấy nên tránh được bị trừng phạt ở đời.
(4) Chí thân như cha với con, mỗi người cũng theo nghiệp của mình mà đi khác
đường, dầu có gặp nhau cũng chẳng bằng lòng chịu khổ cho nhau: Nghĩa là dù
thân yêu chí thiết với nhau cũng không ai có thể chịu tội thay thế cho nhau được, ai
làm nấy tự phải chịu lấy qủa báo của mình đã gây mà thôi.
(5) Ngài Phổ Hiền Bồ Tát nói với Ngài Địa Tạng rằng: “Dầu từ lâu tôi đã rõ tội
báo nơi ba đường ác đạo rồi, nhưng tôi muốn Nhân Giả nói ra để làm cho tất cả
chúng sanh có tâm hạnh ác trong đời mạt pháp sau này, nghe được lời dạy của
Nhân Giả, mà biết quy hướng về Giáo Pháp của Phật”. Chúng ta nên cảm tạ và
đảnh lễ ngài Bồ Tát Phổ Hiền đã thương xót chúng sinh đời sau (như ngày nay) mà
cầu ngài Bồ Tát Địa Tạng nói ra các địa ngục như thế để có thể học hỏi và biết để
tránh làm các điều ác. Phải ý thức được rằng những ai đã được nghe hay đọc những
lời Kinh này thì đều phải lấy đó làm kim chỉ nam mà làm lành tránh làm ác và tu
hành nghiêm chỉnh hầu mong  ra khỏi biển khổ. Nhưng còn biết bao nhiêu người
trong thế giới này chưa được biết tới giáo pháp của Phật, đây là một thiệt thòi lớn
cho họ, khi họ đã có cơ may được làm người nhưng lại không được biết đến giáo
pháp qúy giá của Phật. ã

58

    Chúng ta thấy Kinh tả: “Phương Ðông của Diêm-Phù-Ðề có dãy núi tên là Thiết
Vi”: Thiết là sắt, Vi  là bờ rào. Thiết Vi có nghĩa là bờ rào sắt; có sách nói  là núi
Kim Cang, Kim Cang thì vô cùng cứng chắc không gì phá được. “Dãy núi đó tối
thẳm”: Đây là tượng trưng sự tối tăm vô minh của các tội nhân, ám chỉ Tâm chúng
sinh vô-minh ngu dốt không phân biệt được thiện và ác, thiện cho là ác, ác cho là
thiện. Ví dụ như hai người chống đối nhau  thì người nào cũng cho  là mình phải,
không người nào chấp nhận là mình quấy; vì vậy cho nên mới làm bất cứ điều ác
nào, do đó chất chứa tội lỗi nhiều cao như núi. 
     Lại  nữa, Kinh  nói:  “Không  có  ánh  sáng  của mặt  trời, mặt  trăng”, nghĩa  ánh
sáng đây là trí tuệ, khi tâm vô minh thì khó ra khỏi vô minh cho nên ví như bị giam
hãm trong chỗ bờ rào sắt cứng chắc bao bọc kiên cố, không thể thoát ra khỏi, tức là
chẳng thể giải thoát được. “Trong đó có địa ngục lớn tên là Cực-Vô-Gián”, nghĩa
là ở trong địa ngục này bị chịu khổ cực không lúc nào ngừng khổ và vô cùng lâu
dài; đây là biểu trưng cho con người chưa giải thoát còn sống trong vô minh là còn
tạo nghiệp xấu, ví như sống trong Địa Ngục tối tăm không có ánh sáng vậy. 
     Chúng ta thấy chúng sinh thì vô số vô lượng mà mọi người đều biết, thì vô minh
của chúng sinh cũng vô số vô  lượng, Vô minh đã vô số  thì địa ngục cũng vô số;
bởi vì mỗi một sự vô minh là tạo ra một nghiệp phải mang, do đó số địa ngục phải
tương xứng đủ số cho nghiệp qủa phải trả, nên địa ngục cũng có vô số là vậy. 
     Khi tạo tội ngũ nghịch thì phải chịu khổ ải liên tiếp lâu dài nên gọi là “Cực Vô-
gián”, khi tạo tội đại ác như giết người hàng loạt, v.v… phải chịu đầy đọa hành hạ
khủng khiếp nên nói “ngục Đại A-tỳ”, khi tà dâm mà còn giết hại mạng người thì
bị đọa “ngục Tứ-giác” là bị bốn núi đá từ bốn phía ép vào khiến cho thân thể nát
tan, v.v…. Tất cả các địa ngục đều tùy theo nghiệp báo tương xứng với nghiệp tạo
ra mà có tên gọi khác nhau. Các cực hình cũng vậy, tùy theo lúc tạo nghiệp hành
động ác ra sao thì lúc nhận cực hình cũng tương tự như thế, và còn nặng nề thống
khổ hơn gấp trăm nghìn lần. 
     Đây chỉ là làm cho tội nhân nhớ mãi không quên cái tội gây ra và qủa báo phải
nhận:  tội gây  ra  là một,  thì qủa khổ phải  lãnh  là một  trăm một nghìn;  cũng như
người làm việc bố  thí cúng dàng chỉ có một nhưng kiếp sau thì được hưởng  trăm
hay ngàn. Chúng  ta  thử  tính xem như người cho vay  tiền  thì phải có  lời  tùy  theo
thời gian dài hay ngắn mà có tiền lời nhiều hay ít. Việc bố thí cũng vậy, khi bố thí,
kiếp sau hưởng gấp  trăm hay nghìn  là do  thời gian dài; do đó người  tạo  tội, kiếp
sau trả qủa gấp trăm hay nghìn lần nặng hơn là không có bất công. 
3). TỘI BÁO TRONG ĐỊA NGỤC. ã

59

      Ngài Bồ Tát Địa tạng nói rằng: “Thưa Nhân giả! Những sự tội báo trong chốn
địa ngục như vầy:
      Hoặc có địa ngục kéo lưỡi người  tội ra mà cho trâu cày trên đó, hoặc có địa
ngục moi tim người tội để cho quỷ Dạ xoa ăn, hoặc có địa ngục vạc dầu sôi sùng
sục nấu thân người tội, hoặc có địa ngục đốt cột đồng cháy đỏ rồi bắt người tội ôm
lấy.
      Hoặc có địa ngục  từng bựng lửa lớn bay tấp vào người  tội, hoặc có địa ngục
toàn cả  thuần  là   băng giá, hoặc có địa ngục đầy vô hạn phẩn  tiểu, hoặc có địa
ngục  lao gai chông sắt, hoặc có địa ngục  đâm nhiều giáo lửa.
      Hoặc có địa ngục chỉ đập vai lưng, hoặc có địa ngục chỉ đốt chân tay, hoặc có
địa ngục cho  rắn  sắt quấn cắn, hoặc có địa ngục xua đuổi chó  sắt, hoặc có địa
ngục đóng ách lừa sắt.
      Nhân giả! Những quả báo như thế trong mỗi ngục có trăm nghìn thứ khí cụ để
hành hình, đều là bằng đồng, bằng sắt, bằng đá, bằng lửa. Bốn loại khí cụ này do
các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh mà cảm vời ra.
      Nếu tôi thuật rõ cả những sự về tội báo ở địa ngục, thời trong mỗi ngục lại còn
có trăm nghìn thứ khổ sở, huống chi là nhiều ngục!
      Nay  tôi nương sức oai  thần của đức Phật và vì Nhân giả hỏi mà nói sơ  lược
như thế. Nếu nói rõ cả thời cùng kiếp nói cũng không hết”.
GIẢI NGHĨA
     Đây là nói về cách tra khảo trong các địa ngục, tùy theo tội nhân gây nghiệp mà
bị chịu khổ tương xứng, như tội tạo ra do miệng nói dối, nói đâm thọc, nói thêu dệt
thêm hay bớt, nói ác hại người khác thì sẽ bị qủa khổ kéo lưỡi, trâu cày trên lưỡi,
hay đóng đinh trên lưỡi v.v… “Hoặc có địa ngục moi tim người tội để cho quỷ Dạ
xoa ăn”: Đây  là qủa báo đời  trước  tội nhân đã  từng giết chúng sinh, cắt  tim moi
gan để ăn, móc mật để uống. “Hoặc có địa ngục vạc dầu  sôi  sùng  sục nấu  thân
người tội”: Đây là qủa báo đời trước tội nhân đã từng giết hại chúng sinh rồi luộc
hoặc chiên thịt chúng sinh v.v…. “Hoặc có địa ngục đốt cột đồng cháy đỏ rồi bắt
người  tội ôm  lấy”: Đây  là qủa báo đời  trước  tội nhân đã  từng hiếp dâm  rồi giết
người. Hoặc có địa ngục từng bựng lửa lớn bay tấp vào người tội: Đây là qủa báo ã

60

đời trước tội nhân đã từng đốt cháy hay tạt axit chất độc hại chúng sinh. “Hoặc có
địa ngục toàn là băng giá”: Đây là qủa báo tội nhân đời trước đã từng bắt nhốt tra
tấn hành hạ ác độc chúng sinh cho tới chết. “Hoặc có địa ngục đầy phân tiểu”: Đây
là qủa báo tội nhân đời trước đã từng bôi nhọ phỉ báng vu oan giá họa cho người
khác và các bậc Thánh nhân. “Hoặc có địa ngục giường gai chông sắt”: Đây là đời
trước tội nhân đã từng dùng bẫy bắt giết súc vật hay mưu độc giết người. “Hoặc có
địa ngục đâm nhiều giáo lửa”: Đây là qủa báo đời trước tội nhân đã từng săn bắn
giết hại nhiều chúng sinh, và v.v…
     Ngài Bồ Tát Địa Tạng cho biết những quả báo nhiều vô số kể như  trên, được
hành  hình  bằng  vô  lượng  dụng  cụ  khác  nhau  toàn  là  bằng  đồng,  sắt,  đá  và  lửa;
dụng cụ bằng đồng như nước đồng sôi đổ vào miệng, cột đồng nóng đỏ bắt tội nhân
ôm v.v…. Dụng cụ bằng sắt như nằm  trên giường chông sắt nhọn, đinh sắt đóng
trên thân thể, các con vật bằng sắt, các binh khí bằng sắt như đao kiếm thương búa
rìu v.v…. Dụng cụ bằng đá như cối xay đá, núi đá ép, cối đá chày đá v.v…; dụng
cụ bằng lửa như gió lửa, chim và các loài súc vật lửa, tường lửa, sông lửa, vạc dầu
sôi, nồi sắt vạc sắt nhà sắt để nướng tội nhân, nằm giường sắt nóng đỏ, nuốt viên
sắt nóng đỏ v.v…. Bốn loại khí cụ này do các hạnh nghiệp quấy ác của chúng sanh
mà chiêu cảm ra.
*
*     *
PHẨM THỨ SÁU
NHƯ LAI TÁN THÁN

1). PHẬT PHÓNG QUANG DẶN BẢO.
      Lúc đó khắp thân của đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng  lớn soi khắp đến trăm
nghìn muôn ức hằng hà sa cõi nước của chư Phật; trong ánh sáng đó vang ra tiếng
lớn bảo khắp các cõi nước của chư Phật rằng:
     “Tất cả các hàng Đại Bồ Tát và trời, rồng, quỷ, thần v.v…lắng nghe hôm nay ta
khen ngợi rao bày những sự của ngài Bồ Tát Địa Tạng ở trong mười phương thế
giới,  hiện  ra  sức  từ  bi  oai  thần  không  thể  nghĩ  bàn,  để  cứu  giúp  tất  cả  tội  khổ
chúng sanh. ã

61

     Sau khi  ta diệt độ,  thời hàng Bồ Tát Đại  sĩ các ông cùng với  trời,  rồng, quỷ,
thần v.v… nên dùng phương chước để giữ gìn Kinh nầy,  làm cho mọi  loài chúng
sanh đều khỏi tất cả sự khổ, mà  chứng cảnh vui Niết bàn”.
GIẢI NGHĨA
     Đọan mở đầu của Phẩm thứ sáu này, Kinh viết: “Lúc đó khắp thân của đức Thế
Tôn phóng ra ánh sáng lớn soi khắp đến trăm nghìn muôn ức hằng hà sa cõi nước
của chư Phật”: Ở đây Đức Phật biểu trưng cho Đại Giác, từ thân Đại Giác phát ra
ánh  sáng  tức  là  giác  quang,  đây  chính  là  Tâm  Phật  chiếu  soi  cùng  khắp mười
phương Chư Phật. “Trong ánh sáng đó vang ra  tiếng  lớn bảo khắp các cõi nước
của  chư Phật”: Đây  là  tiếng Phạm Âm  của Phật vang khắp không  thiếu  sót nơi
nào, vì tiếng Phạm Âm hòa trong ánh sáng, mà ánh sáng phát ra từ nơi Tâm Phật
thì  cùng  khắp  không  gian,  nên  tiếng  này  vang  cũng  cùng  khắp mười  phương  là
vậy.
     Đức Phật  nói:  “Tất  cả  các  hàng Đại Bồ Tát  và Trời, Rồng, Quỷ, Thần  v.v…
lắng nghe hôm nay  ta khen ngợi  rao bày những  sự của ngài Địa Tạng Bồ Tát ở
trong mười phương thế giới, hiện ra sức từ bi oai thần không thể nghĩ bàn, để cứu
giúp tất cả tội khổ chúng sanh”: Như chúng ta đã biết khi tâm chúng sinh diệt hết
thì bản tâm tự tính hiện, khi bản tâm hiện tức là Phật tánh hiển lộ thì sức từ bi vô
lượng, sức oai thần vô biên, tất cả đều không thể nghĩ bàn, và lúc đó sự độ chúng
sinh khỏi khổ mới được dễ dàng. Do đó Đức Phật khen ngợi sự đạt được bản tâm
tự tính và Ngài phó chúc: “Khi Ta diệt độ, thời hàng Bồ Tát Đại sĩ các ông cùng
với  trời, rồng, quỷ,  thần v.v… nên dùng phương chước để giữ gìn Kinh nầy,  làm
cho mọi  loài  chúng  sanh  đều  khỏi  tất  cả  sự  khổ, mà  chứng  cảnh  vui Niết  bàn”.
Nghĩa là khi Ngài diệt độ rồi, nhất là sau hai nghìn năm, từ thời Mạt Pháp về sau,
các hàng Bồ Tát và Thiên Long Bát Bộ nên gìn giữ phổ biến giảng giải Kinh này
để cho chúng sinh hiểu mà theo đó tu hành hầu thoát khổ được an vui (Niết Bàn).
2). BỒ TÁT PHỔ QUẢNG THƯA THỈNH. 
      Nói lời ấy xong, trong pháp hội có một vị Bồ Tát tên là Phổ Quảng cung kính
chắp  tay mà  bạch  cùng  đức Phật  rằng: “Nay  con  nghe  đức Thế Tôn  ngợi  khen
ngài Địa Tạng Bồ Tát có đức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế. ã

62

      Trông mong đức Như Lai  lại  vì những  chúng  sanh  trong  thời Mạt Pháp  sau
nầy, mà tuyên nói các sự nhân quả của ngài Bồ Tát Địa Tạng làm lợi ích cho hạng
trời, người. Làm cho hạng trời, rồng bát bộ và chúng sanh trong đời sau kính vâng
lời của đức Phật”
      Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Bồ Tát Phổ Quảng cùng trong tứ chúng rằng:
“Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì các ông nói lược về phước đức của ngài Bồ Tát
Địa Tạng làm lợi ích cho người cùng trời”.
      Ngài Phổ Quảng bạch Phật rằng: “Vâng! Bạch đức Thế Tôn! Chúng con xin
ham muốn nghe”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn  2  này, Kinh  nói:  “Trong  pháp  hội  có một  vị Bồ Tát  tên  là Phổ Quảng
cung kính chắp tay mà bạch cùng đức Phật”: Ở đây tên người hỏi có ý nghĩa biểu
trưng: Chữ Phổ là phổ biến lưu hành khắp, chữ Quảng là rộng rãi, Phổ Quảng là
phổ biến sâu  rộng cùng khắp; phổ biến sâu  rộng cùng khắp cái gì? Đó  là cái mà
Đức Phật đã nêu ra ở đoạn thứ nhất: Bản tâm tự tánh của mỗi chúng sinh. 
     Bồ Tát Phổ Quảng thưa: “Nay con nghe đức Thế Tôn ngợi khen ngài Địa Tạng
Bồ Tát có đức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn như thế”: nghĩa là Đức Phật
khen ngợi sự việc lúc tâm chúng sinh diệt hết thì bản tâm tự tính hiện, khi bản tâm
hiện tức là Phật tánh hiển lộ thì có sức oai thần rộng lớn không thể nghĩ bàn được.
     Bồ Tát thưa tiếp: “Trông mong đức Như Lai lại vì những chúng sanh trong thời
Mạt Pháp sau nầy, mà tuyên nói các sự nhân quả của ngài Bồ Tát Địa Tạng làm
lợi ích cho hạng trời, người. Làm cho hạng trời, rồng bát bộ và chúng sanh trong
đời sau kính vâng lời của đức Phật”: Các sự nhân quả của ngài Bồ Tát Địa Tạng là
khi còn tham, sân, tà kiến, kiêu mạn, tất đố, ganh tị, v.v…. thì còn nghiệp báo và
còn tâm chúng sinh. Còn tâm chúng sinh thì tâm Phật bị che khuất không hiển lộ,
còn tâm chúng sinh  thì còn bị dính mắc, còn bị dính mắc  thì còn bị ràng buộc và
buồn phiền. Khi nào diệt hết những xấu xa ô nhiễm thì lúc đó mới hết tâm chúng
sinh, hết tâm chúng sinh thì lúc đó tâm địa, bản tâm tự tánh mới hiển lộ; đó là điều
mà tất cả Trời Người, Thiên Long Bát Bộ cần phải nhớ vâng làm để đạt mục đích
lớn nhất là giải thoát vậy.
3). PHẬT DẠY SỰ LỢI ÍCH. ã

63

      Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Phổ Quảng: “Trong đời  sau, như  có người  thiện
nam,  kẻ  thiện  nữ  nào  nghe  đựơc  danh  hiệu  của  ngài Bồ Tát Địa Tạng,  hoặc  là
chắp  tay, hoặc  là ngợi khen, hoặc  là đảnh  lễ, hoặc  là luyến mộ, người đó sẽ qua
khỏi tội khổ trong ba mươi kiếp.
      Nầy Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào hoặc là hoạ vẽ
hình tượng của ngài Bồ Tát Địa Tạng Bồ rồi chừng một lần chiêm ngưỡng, một lần
đảnh lễ, người đó sẽ được sanh lên cõi trời Đao Lợi một trăm lần, không còn bị sa
đọa vào ác đạo nữa.
      Ví dầu ngày kia phước trời đã hết mà sanh xuống nhân gian, cũng vẫn làm vị
Quốc vương, không hề mất sự lợi lớn.
GIẢI NGHĨA
     Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Phổ Quảng rằng: “Trong đời sau, như có người thiện
nam, kẻ thiện nữ nào”. Người thiện nam, kẻ thiện nữ nhân nghĩa là những người có
nhiều phúc đức, người đã giữ được Ngũ Giới  (Không sát sinh, không  trộm cướp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và ma túy) đầy đủ, không còn tham
sân, mới gọi là người thiện. “Nghe đựơc danh hiệu của ngài Địa Tạng đại Bồ Tát”:
Nghĩa là người nào nghe được danh hiệu Địa Tạng mà hiểu được rằng bản tôn Địa
Tạng  chính  là Diệu Tâm  của  chính mình  bị  vùi  lấp  bởi  tham,  sân,  tà  kiến,  kiêu
mạn, tật đố, ganh tị v.v… xuyên qua ý, khẩu, thân tạo ra biết bao nhiêu chúng sinh
điên đảo  trong  ta, nếu diệt hết những  tâm điên đảo ấy  thì bản  tôn Địa Tạng,  tức
Diệu Tâm hiển lộ.
     Nếu hiểu biết như vậy rồi mà ta “hoặc chắp tay, hoặc khen ngợi, hoặc đảnh lễ,
hoặc  luyến mộ, người đó sẽ qua khỏi  tội khổ  trong ba mươi kiếp”, có nghĩa  là  ta
vui vẻ, ưu ái, tôn trọng, thích thực hành tu tâm sửa tính, rời bỏ chấm dứt các thói
hư tật xấu, thì chẳng những là qua khỏi tội trong ba mươi kiếp, mà còn có thể giải
thoát do tùy theo sự hành trì của mỗi người. Chứ chẳng phải người đi chùa nhiều lễ
bái nhiều nhưng không giữ Ngũ giới,  còn  tham  sân, mà  cho  là  thiện đâu,  chẳng
phải chỉ cần chắp tay khen ngợi luyến mộ đảnh lễ Bồ Tát Địa Tạng, không cần làm
lành tránh làm ác mà qua khỏi nghiệp khổ đâu.
     “Này Phổ Quảng! Như có kẻ thiện nam hay người thiện nữ nào hoặc là họa vẽ
hình  tượng của ngài Bồ Tát Địa Tạng rồi chừng một  lần chiêm ngưỡng, một  lần ã

64

đảnh lễ, người đó sẽ được sanh lên cõi trời Đao Lợi một trăm lần, không còn bị sa
đọa vào ác đạo nữa”: Nghĩa là người thiện nào học hỏi hiểu biết việc lành ác, đã
từng làm lành tránh làm ác, từng dùng phương tiện tu hành Lục độ (bố thí, trì giới,
nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ), nhưng thực hành chưa được nhiều (một lần
chiêm ngưỡng, một  lần đảnh  lễ),  thì người ấy sẽ được sinh  lên cõi  trời Đạo Lợi
sống lâu dài cả trăm nghìn năm và không còn bị sa đọa vào các ác đạo nữa. Chẳng
phải với nghĩa nông cạn cho  rằng người nào vẽ hình đúc  tượng ngài Bồ Tát Địa
Tạng, rồi chỉ một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, thì sẽ được sinh lên cõi Trời
Đạo Lợi một trăm lần và không còn bị đọa vào ba đường dữ nữa; nếu hiểu như thế
là rơi vào thần quyền mê tín dị đoan nhảm nhí, vì không có một Thần linh nào có
thể làm trái với nhân qủa nghiệp báo.
     “Ví dầu ngày kia phước trời đã hết mà sanh xuống nhân gian, cũng vẫn làm vị
Quốc vương, không hề mất sự lợi lớn”: Nghĩa là khi hết phúc ở cõi trời rồi, khi qua
đời sinh xuống nhân gian chẳng những được làm Vua, Tổng Thống, hay vị nguyên
thủ một Quôc gia, mà còn có bao nhiêu điều tốt lành khác nữa như giàu có, thông
minh, đẹp đẽ, khỏe mạnh, sống lâu v.v…. Chúng ta thấy lợi ích vô cùng lớn lao khi
học hỏi hành  trì Phật pháp,  trong đời này, không  làm việc gì có  thể gặt hái được
qủa tốt như thế, không có gì có thể so sánh và mang lại sự thù thắng to lớn như vậy
được.
4). KHỎI NỮ THÂN.
   Như có người nữ nào nhàm chán  thân gái, hết  lòng cúng dường  tượng vẽ của
ngài  Bồ  Tát  Địa  Tạng,  và  những  tượng  cất  bằng  đất,  đá,  keo,  sơn,  đồng,  sắt,
v.v…Ngày ngày  thường đem hoa, huơng, đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm  lụa,  tràng
phan, tiền bạc, vật báu v.v…cúng dường như thế mãi không thôi.
      Người thiện nữ đó sau khi mãn một thân gái hiện tại, thời đến trăm nghìn muôn
kiếp còn không sanh vào cõi nước có người nữ, huống nữa là thọ thân gái! Trừ khi
vì  lòng  từ  phát  nguyện  cần  phải  thọ  thân  gái  để  độ  chúng  sanh;  do  nương  nơi
phước cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và sức công đức đó, trong trăm nghìn muôn
kiếp chẳng còn thọ thân người nữ lại nữa.
GIẢI NGHĨA ã

65

    Đức Phật nói: “Như có người nữ nào nhàm chán thân gái, hết lòng cúng dường
tượng vẽ của ngài Bồ Tát Địa Tạng, và những  tượng cất bằng đất, đá, keo, sơn,
đồng, sắt, v.v…”: Nghĩa là người nữ nào không còn ưa thân nữ nữa, mà một lòng tu
trì, diệt  trừ các điều quấy ác như  tham,  sân,  tà kiến, kiêu mạn,  tật đố, ganh ghét
v.v…, từ ý nghĩ,  lời nói, đến hành động,  thì người nữ này xả bỏ được  tâm chúng
sinh quấy ác. Các việc  tu hành nêu  trên ví như người nữ này vẽ, nặn, đúc  tượng
bằng đất, đá, keo, sơn, đồng, sắt, v.v… để thành tượng Địa Tạng, tức là chăm chỉ
thực hành không lười mỏi, thì lâu dần sẽ thấy được bản tâm tự tánh của mình vậy.
Chứ chẳng phải với ý nghĩa người nữ nào nhàm chán  thân gái  thì hoặc dùng sơn
vẽ, hoặc dùng đất nắn, đẽo đục đá, đúc đồng sắt để  thành hình  tượng Bồ Tát Địa
Tạng đâu mà lầm lẫn.
     Người  nữ  này  còn  làm  nhiều  điều  thiện  lợi  ích  chúng  sinh  như:  “Ngày  ngày
thường đem hoa, huơng, đồ ăn, đồ uống, y phục, gấm lụa, tràng phan, tiền bạc, vật
báu v.v…cúng dường như thế mãi không thôi”. Hoa biểu trưng sắc đẹp đối với mắt
nhìn, hương biểu trưng mùi thơm đối với mũi ngửi, đồ ăn uống biểu trưng của vị
đối  với  lưỡi  nếm,  y  phục  gấm  lụa  biểu  trưng  y  phục  tiếp  xúc  đối  với  thân  thể,
tràng phan biểu trưng của ý đối với sự việc, tiền bạc, vật báu biểu trưng cái của ta
v.v…, Cúng dường biểu  trưng  của  sự  cho đi, không giữ nữa, bỏ đi. Nghĩa  là  tu
hành chấm dứt Sáu Căn (mắt,  tai, mũi,  lưỡi,  thân, ý) bị dính mắc  lôi kéo bởi Sáu
Trần  (sắc,  thanh, hương, vị, xúc, pháp),  thực hành mãi không ngưng nghỉ, do đó
Đức Phật bảo Bồ Tát Phổ Quảng  rằng: “cúng dường như  thế mãi không  thôi”  là
vậy.
      Tóm  lại, câu Kinh  trên có nghĩa  là người nhàm chán  thân nữ phải hằng ngày
thường  tu hành, không để Sáu Căn bị dính mắc  lôi kéo bởi Sáu Trần, không để
chấp chặt vào cái  ta  (chấp ngã) và cái của  ta  (chấp pháp)  thì sẽ không gây buồn
phiền khổ não. Người ấy phải chấm dứt đoạn diệt sự dính mắc và làm mãi không
quên, tu như vậy thì khi qua đời sẽ sinh lên cõi trời Sắc giới, ở cõi Sắc không còn
dục nên không phân biệt nam nữ. Hoặc người nào phát nguyện tu sinh về cõi Tịnh
như cõi Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà hoặc cõi Đông Phương Lưu
Ly Tịnh của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, khi được sinh về các  thế giới ấy
rồi thì không còn tham dục nữa nên không còn phân biệt nam nữ nữa. Vì vậy cho
nên Đức Phật nói: “Người thiện nữ đó sau khi mãn một thân gái hiện tại, thời đến
trăm nghìn muôn kiếp còn không sanh vào cõi nước có người nữ, huống nữa là thọ ã

66

thân gái!”; nếu người nữ ấy tu hành kiên cố tới mức hết tâm chúng sinh, sẽ đạt tâm
sạch sẽ (vô lậu), thì Tâm Địa tức bản tâm tự tánh hiển lộ và được giải thoát vậy.
      Đức Phật nói tiếp: “Trừ khi vì lòng từ phát nguyện cần phải thọ thân gái để độ
chúng sanh; do nương nơi phước cúng dường Bồ Tát Địa Tạng và sức công đức
đó,  trong  trăm nghìn muôn kiếp chẳng còn  thọ  thân người nữ  lại nữa”. Nghĩa  là
người đã tu hành đến được sạch hết những xấu xa ô trược rồi thì sẽ đạt được tâm
thanh tịnh, có tâm thanh tịnh thì khi qua đời sẽ không còn ở cõi xấu xa ô uế nữa mà
sẽ  sinh đến cõi  tịnh; ở cõi  tịnh không có ái dục, nên không có  sai khác nam nữ,
ngoại trừ người nào phát nguyện muốn làm thân nữ để độ chúng sinh thì sẽ được
toại nguyện vậy.
     Thật là sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng vẽ hình, tạc tượng Bồ Tát Địa Tạng,
rồi cúng dường vật thực, cầu xin để được như ý muốn thoát khỏi địa ngục. Nếu chỉ
cần in hình đúc tượng Bồ Tát Địa Tạng, rồi cúng dường lễ lạy m à cho là đủ phước
đức, không còn bị làm thân nữ nữa; thì đây là người vô minh, tin tưởng mù quáng
vào Thần quyền vô ích, sẽ không thể nào được toại ý.
     Nên nhớ  rằng việc vẽ hình  tạc  tượng  thờ cúng chỉ  là  tượng  trưng cho sự kính
ngưỡng  đối  với Chư  Phật  và Chư Bồ Tát  đã  khai  thị  cho  chúng  sinh  hiểu  giáo
pháp; còn muốn thoát khổ đạt được chân lý thì phải tự mình làm lấy tức là phải tu
hành, không ai làm hộ được, không ai ăn hộ mình được, mà ai ăn người ấy no. Nếu
người nào cho rằng vẽ hình  tạc  tượng Địa Tạng rồi cúng dàng cầu khẩn để được
thoát khổ thì đây là thiếu trí tuệ, người này chẳng những không thoát khỏi khổ mà
còn vô tình phỉ báng Phật và Bồ Tát; vì sao, vì người này đã nghĩ lầm và làm sai ý
của Phật vậy.
5). THÂN XINH ĐẸP
Lại nữa, này Bồ Tát Phổ Quảng! Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều
bịnh  tật, đến nơi  trước  tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng  chí  tâm chiêm ngưỡng
đảnh  lễ  chừng  trong  khoảng một bữa ăn, người nữ đó  trong nghìn  vạn  kiếp  thọ
sanh được thân hình tướng mạo xinh đẹp không có bịnh tật.
Người nữ xấu xí đó nếu không nhàm thân gái, thời trăm nghìn muôn ức đời thường
làm con gái nhà Vua cho đến làm Vương Phi, dòng dõi nhà quan lớn cùng con gái
các vị đại Trưởng Giả, tướng mạo đoan trang xinh đẹp. ã

67

Do vì có  lòng chí  thành chiêm ngưỡng đảnh  lễ hình tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-
Tạng mà đặng phước như thế.
GIẢI NGHĨA
    Câu “Nếu có người nữ nào chán thân xấu xí và nhiều bịnh tật”: Nghĩa là người
nữ nào chán ghét thân mình vì xấu, chán bệnh tật vì khổ, chúng ta thấy cái xấu là
do người này đời trước đã từng nóng giận, thù hằn, ganh tị nung nấu trong tâm. Cái
bệnh là do đời trước đã từng hành hạ sát sinh chúng sinh, khiến phải nhận qủa báo
đời này xấu xí và bệnh tật khổ sở. “Người nữ đến nơi trước tượng của Ngài Bồ Tát
Ðịa-Tạng chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ chừng trong khoảng một bữa ăn”: Đây là
tượng  trưng người này mỗi ngày ngồi  thiền  suy  tư chiêm nghiệm về  tâm  (chiêm
ngưỡng đảnh lễ tượng Địa Tạng), sự xấu xí bệnh tật là do đâu mà có? Là do sân
hận giận thù và hành hạ sát hại chúng sinh đã tạo thành từ kiếp trước mà ra, do đó
từ nay trở đi ta phải sám hối tội lỗi do ta đã gây ra; rồi làm nhiều điều lành tránh
làm ác để diệt trừ tận gốc rễ của tội lỗi và gây nhân tốt; mỗi ngày chỉ cần tư duy
như thế khoảng nửa giờ thôi (khoảng một bữa ăn). “Người nữ đó trong nghìn vạn
kiếp thọ sinh được thân hình tướng mạo xinh đẹp không có bịnh tật”: Nghĩa là khi
quán chiếu thấy rõ sự tai hại của nóng giận và sát sinh rồi tu hành đầy đủ, không
còn phạm nữa,  thì sau này  tái sinh  trong những kiếp về sau không còn xấu xí và
bệnh tật nữa. Nếu yêu thích thân nữ thì các kiếp về sau sẽ được sinh vào làm con
gái nhà Vua cho đến làm Vương Phi, dòng dõi nhà quan lớn, cùng làm con gái các
vị đại Trưởng Giả, tướng mạo đoan trang xinh đẹp.
     Chẳng phải như có người hiểu câu: “Người nữ nào xấu xí và bệnh  tật”, muốn
hết xấu xí và bệnh tật thì “Người nữ chỉ cần đến trước hình tượng Bồ Tát Địa Tạng
chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ khoảng một bữa ăn” theo nghĩa đen, thì “người nữ
đó  trong  nghìn  vạn  kiếp  thọ  sinh  được  thân  hình  tướng mạo  xinh  đẹp  không  có
bệnh  tật”, nếu hiểu theo nghĩa đơn giản một cách  thật  thà chất phác mà cho rằng
chỉ cần có lòng chí thành chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-
Tạng mà được phước như vậy là sai lầm to lớn đó.
6). QỦI THẦN HỘ VỆ 
Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có người thiện nam, người thiện nữ nào có thể đối
trước  tượng của Bồ Tát Ðịa-Tạng mà  trỗi  các  thứ  kỹ nhạc, ngâm  ca  khen ngợi, ã

68

dùng  hương  hoa  cúng  dường,  cho  đến  khuyến  hóa  được  một  người  hay  nhiều
người. 
Những hạng người này ở trong đời hiện tại cùng thuở vị lai sau, thường được vô số
vị Quỉ Thần ngày đêm theo hộ vệ, không cho những kẻ hung dữ đến gần người đó
và chẳng để cho người đó phải chịu các tai vạ bất ngờ!
GIẢI NGHĨA
     Lại nữa, này Phổ Quảng! Như có người  thiện nam, người thiện nữ nào có thể
đối trước tượng của Bồ Tát Ðịa-Tạng mà trỗi các thứ kỹ nhạc, ngâm ca khen ngợi,
dùng  hương  hoa  cúng  dường,  cho  đến  khuyến  hóa  được  một  người  hay  nhiều
người. Đây là nói về người thiện tức người giữ đầy đủ 5 giới, giảng tụng Kinh này
(trỗi các thứ kỹ nhạc), tán thán Tâm Địa (ngâm ca khen ngợi Bồ Tát Ðịa-Tạng),
khuyến  khích  xa  lià  rời  bỏ  các Căn  dính mắc  các Trần  (dùng hương hoa  cúng
dường). Dùng tâm thanh tịnh khen ngợi Tâm Phật, chê bai tâm chúng sinh, giảng
nói để chuyển hóa nhiều người hay chỉ một người, thì “Những hạng người này ở
trong đời hiện tại cùng thuở vị lai sau, thường được vô số vị Quỉ Thần ngày đêm
theo hộ vệ, không cho những kẻ hung dữ đến gần người đó và chẳng để cho người
đó phải chịu các  tai vạ bất ngờ!”. Đây  là  lợi  ích của những người  tu hành chân
chính và làm lợi ích chúng sinh, được sự hộ vệ của hàng Qủy Thần, và nhất là có
sự gia trì của Chư Phật và Chư đại Bồ Tát vậy.
     Chứ chẳng phải có người cho rằng người thiện nào có thể trước bàn thờ Bồ Tát
Địa Tạng, mà đàn ca cho  thật hay, kể cả ngâm  thơ ca ngợi Bồ Tát;  lại dùng hoa
đẹp,  hương  thơm  cúng  dường. Người  ấy  khuyến  dụ  được một  người  hay  nhiều
người cùng  làm như  thế,  thì người này được các qủy  thần hộ vệ, do đó người ác
không  dám  đến  gần  và  người  ấy  sẽ  không  bị  các  tai  vạ  bất  ngờ. Nếu  hiểu  theo
nghĩa đen như vậy là qúa thật thà, vì làm như thế không phải là tu mà là giúp vui
cho những người khác, ca ngợi nịnh hót Bồ Tát theo lề lối thế gian. Như vậy không
phải là người tu chân chính, sẽ không thể nào được qủy  thần hộ vệ, sẽ không thể
tránh khỏi các tai vạ bất ngờ nếu người ấy có nghiệp xấu. 
7). KHINH CHÊ TỘI LỖI
- Lại nữa này Bồ Tát Phổ Quảng! Trong đời sau, như có người ác và ác thần, ác
quỉ nào thấy kẻ thiện nam, người thiện nữ quy y cung kính, cúng dường ngợi khen ã

69

chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, mà vọng sanh khinh
chê là không có công đức cùng không có sự lợi ích, hoặc nhăn răng ra cười, hoặc
chê  sau  lưng  hay  chê  trước mặt,  hoặc  khuyên  bảo  người  khác  cùng  chê,  hoặc
khuyên bảo một người cùng chê hay nhiều người cùng chê, cho đến sanh lòng chê
bai trong chừng một niệm.
Thời những kẻ như thế đến sau khi một nghìn Ðức Phật trong Hiền-Kiếp nhập diệt
cả, bị tội báo khinh chê nên còn ở trong địa ngục A-Tỳ chịu khổ rất nặng.
Qua khỏi Hiền-Kiếp này mới được  thọ  thân ngạ quỉ, rồi mãi đến một nghìn kiếp
sau mới thọ thân súc sanh; lại phải trải qua đến một nghìn kiếp nữa mới đặng sanh
làm người.
Dầu được làm người nhưng ở vào hạng bần cùng hèn hạ tật nguyền thiếu sứt, hay
bị những nghiệp ác  ràng buộc vào  thân, không bao  lâu phải  sa đọa  vào ác đạo
nữa.
Này Phổ Quảng! Khinh chê người khác cúng dường mà còn mắc phải tội báo xấu
khổ như thế, huống nữa là tự sanh ác kiến mà khinh chê phá diệt!
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ 7 đại ý Kinh nói: Ai thấy người khác tán thán cúng dường hình tượng
Địa-Tạng mà hủy báng, chê cười, bảo người khác hay cùng người khác hủy báng
chê cười, người ấy sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ, chịu vô  lượng cực khổ; nếu có  thọ
sinh,  thì  sẽ  sinh  lâu dài vào Ngạ quỉ, Súc  sinh, hay người hèn hạ khổ  sở. Ở đây
chúng ta phải hiểu biểu trưng của Kinh như  trên đã giải nghĩa  là việc vẽ hình tạc
tượng Địa Tạng rồi cung kính cúng dường với ý nghĩa là tu hành dứt tất cả tâm xấu
ác để cho Tâm Phật hiển lộ thì mới đúng với ý Phật. Chứ không phải với sự “quy y,
cung  kính,  cúng  dường, ngợi  khen,  chiêm  ngưỡng,  đảnh  lễ  hình  tượng  của  ngài
Địa Tạng” với tâm cầu xin Bồ Tát phù hộ cứu khỏi tội địa ngục. Nếu người nào đã
được đọc hay nghe chỉ bảo theo nghĩa thật này rồi mà còn hủy báng chê cười, bảo
người khác hay cùng người khác hủy báng chê cười  thì chắc chắn người này đã
hủy hại phá bỏ hạt giống  tâm Phật của mình, do đó  sẽ bị khổ  là hiển nhiên như
Kinh nói vậy.
     Đức Phật nói:  “Thời những kẻ như  thế đến sau khi một nghìn Ðức Phật  trong
Hiền-Kiếp nhập diệt cả, bị  tội báo khinh chê nên còn ở  trong địa ngục A-Tỳ chịu
khổ rất nặng”. Đức Phật cho biết: Sau khi Bồ Tát Di Lặc thành Phật rồi nhập Niết ã

70

Bàn, thì những kiếp liên tiếp sau đó sẽ có 1000 vị Bồ Tát thành Phật; nghĩa là trong
khoảng nửa Đại Kiếp sau (1,343,840,000 / 2 = 671,420,000 năm) của Đại Kiếp này
(Hiền Kiếp) sẽ có một nghìn vị Phật ra đời ở cõi Ta Bà của chúng  ta này. Người
khinh chê Phật, khinh chê giáo Pháp của Phật, khinh chê Tăng đoàn, sẽ bị đọa địa
ngục, sau khi một nghìn vị Phật nhập Niết Bàn  rồi người bị  tội báo ấy cũng vẫn
chưa được ra khỏi Địa ngục, với thời gian gần bảy trăm triệu năm bị đọa địa ngục
như thế thì có khủng khiếp không?!.
     Đức Phật nói tiếp: “Qua khỏi Hiền-Kiếp này mới được thọ thân ngạ quỉ, rồi mãi
đến một nghìn kiếp sau mới thọ thân súc sanh; lại phải trải qua đến một nghìn kiếp
nữa mới đặng sanh làm người”. Nghĩa là qua khỏi Đại Kiếp này mới được ra khỏi
địa ngục và được tái sinh làm loài Ma Qủy và sau 1000 đời làm Ma Qủy mới được
tái sinh làm loài Súc Vật; lại phải làm loài Súc Vật 1000 đời rồi mới được tái sinh
làm Người.
     Ngài  nói  tiếp:  “Dầu  được  làm  người  nhưng  ở  vào  hạng  bần  cùng  hèn  hạ  tật
nguyền thiếu sứt, hay bị những nghiệp ác ràng buộc vào thân, không bao lâu phải
sa đọa vào ác đạo nữa”. Ở đây chúng ta thấy có biết bao nhiêu người sinh ra trong
gia  đình  nghèo  khổ  phải  chịu  biết  bao  sự  khổ  sở  trong  đời  sống,  vì một  số  lớn
những người này không được biết đến Phật pháp nên không hiểu sự nghèo khổ là
do nhân đã gây  ra  từ những kiếp  trước, mà chỉ giữ  lòng sân hận căm  thù  rồi  tạo
nghiệp ác để rồi lại bị trầm luân vào cảnh khổ mà không biết.
     Đức Phật nhấn mạnh: “Này Phổ Quảng! Khinh chê người khác cúng dường mà
còn mắc phải tội báo xấu khổ như thế, huống nữa là tự sanh ác kiến mà khinh chê
phá diệt!”Nghĩa  là khinh chê người tu hành  (cúng dường) mà còn bị  tội như thế,
huống hồ những người khởi  lòng ác khinh chê  tiêu diệt Phật Pháp Tăng,  thì hậu
qủa làm sao mà tả hết được!
8). TIÊU DIỆT TỘI CHƯỚNG
- Lại nữa, này Bồ Tát Phổ Quảng! Trong đời sau, như có người nam, người nữ nào
đau nằm liệt mãi trên giường gối, cầu sống hay muốn chết cũng đều không được.
Hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỉ dữ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc thấy
đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè, hoặc với quỉ thần cùng đi. ã

71

Trải qua  nhiều  tháng nhiều năm, đến đỗi  thành  bịnh  lao,  bịnh bại... Trong giấc
ngủ kéo dài kêu réo  thê  thảm sầu khổ. Ðây đều bị nơi nghiệp đạo  luận đối chưa
quyết định là khinh hay trọng, nên hoặc là khóc hết, hoặc là khó lành.
Mắt phàm  tục của kẻ nam, người nữ không  thể biện rõ việc đó, chỉ phải nên đối
trước tượng của chư Phật Bồ Tát, to tiếng mà đọc tụng kinh này một biến.
Hoặc lấy những món vật riêng của người bịnh thường ưa tiếc, như y phục, đồ quí
báu, nhà cửa ruộng vường v.v... đối trước người bịnh cất tiếng lớn mà xướng lên
rằng:
“Chúng tôi tên đó họ đó, nay vì người bịnh này đối  trước kinh tượng đem những
của vật này hoặc cúng dường kinh  tượng, hoặc  tạo hình  tượng của Phật Bồ Tát,
hoặc xây dựng chùa tháp, hoặc sắm đèn dầu thắp cúng, hoặc cúng vào của thưòng
trụ”.
Xướng lên như vậy ba lần để cho người bịnh được nghe biết, giả sử như thần thức
của người bịnh đã phân tán đến hơi thở đã dứt, thời hoặc một ngày, hai ngày, ba
ngày, bốn ngày cho đến bảy ngày, cứ lớn tiếng xướng bạch như trên và lớn tiếng
tụng kinh này.
Sau khi người bịnh đó mạng chung thời thời dầu cho từ trước có tội vạ nặng nhẫn
đến năm  tội Vô-Gián,  cũng được  thoát  khỏi hẳn,  thọ  sanh vào đâu  cũng  thường
nhớ biết việc đời trước.
Huống nữa  là người  thiện nam, người  thiện nữ nào  tự mình biên chép kinh này,
hoặc bảo người biên chép, hoặc  tự mình đắp vẽ hình  tượng của Bồ Tát, cho đến
bảo người khác vẽ đắp, người đó khi thọ quả báo chắc đặng nhiều lợi lớn.
Này Bồ Tát Phổ Quảng! Vì thế nên, nếu ông thấy có người nào đọc tụng kinh này,
cho đến chỉ trong một niệm khen ngợi kinh này, hoặc là có lòng cung kính đối với
kinh, thời ông cần phải dùng trăm nghìn phương chước khuyến hóa người đó, phát
lòng siêng năng chớ đừng thối thất, thời có thể được trăm nghìn muôn ức công đức
không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn  thứ 8,  câu Kinh đầu nói:  “Trong đời  sau, như  có người nam, người nữ
nào đau nằm  liệt mãi  trên giường gối, cầu  sống hay muốn chết cũng đều không ã

72

được; hoặc đêm nằm chiêm bao thấy quỉ dữ cho đến kẻ thân thích trong nhà, hoặc
thấy đi trên đường nguy hiểm hoặc bị bóng đè, hoặc với quỉ thần cùng đi”. Đây là
lúc nghiệp lực phát tác, người bệnh đang bắt đầu chiêm bao thấy các cảnh của cõi
Ngạ qủy Địa ngục, như thấy qủy hay người thân đã chết từ trước, hoặc thấy những
cảnh nguy hiểm sợ hãi như lửa cháy dữ dội, nước tràn ngập, thú dữ đuổi, v.v…; tất
cả đều do nghiệp lực dữ biến hiện mà có.
     “Trải qua nhiều tháng nhiều năm, đến đỗi thành bịnh lao, bịnh bại... Trong giấc
ngủ kéo dài kêu  réo  thê  thảm sầu khổ; đây đều bị nơi nghiệp đạo  luận đối chưa
quyết định là khinh hay trọng, nên hoặc là khóc hết, hoặc là khó lành”.Nghĩa là bị
bệnh phải nằm liệt giường, lâu ngày sinh ra nhiều bệnh khác, nên tình trạng càng
ngày càng trầm trọng hơn lên; đó là do nghiệp lực dữ nhưng chưa dứt khoát rõ ràng
mà người ấy sẽ phải nhận lãnh tái sinh về cõi xấu nào.
     “Mắt phàm  tục của kẻ nam, người nữ không  thể biện rõ việc đó, chỉ phải nên
đối  trước  tượng của chư Phật Bồ Tát,  to  tiếng mà đọc  tụng kinh này một biến”.
“Trước tượng Chư Phật Bồ Tát”, nghĩa là tất cả kẻ phàm không học Phật pháp sẽ
không hiểu rõ lý nhân qủa, nên việc cần làm là ăn năn sám hối tội lỗi đã làm chồng
chất. Tụng Kinh một  lần  (một biến) ở đây  là để hiểu nghĩa  lý sâu xa của nghiệp
báo nhân qủa mà sám hối, dứt  tâm ác, quy về  tâm  thiện  thì sẽ có lợi ích  lớn, chứ
chẳng phải tụng Kinh để cầu xin hết nghiệp khỏi bệnh đâu mà lầm. 
     Đoạn kế của Kinh nói: “Hoặc lấy những món vật riêng của người bịnh thường
ưa tiếc, như y phục, đồ quí báu, nhà cửa ruộng vườn v.v...”, đây là những tài sản
sở hữu (cái của ta) đối với cái ngã (cái ta) của người bệnh. “Đối trước người bịnh
cất  tiếng  lớn mà xướng  lên”, nghĩa  là  trước mặt người bệnh, nói  thay cho người
bệnh mà tuyên bố, đây là để người bệnh ý thức rõ ràng. Rằng: “Chúng tôi tên đó
họ đó, nay vì người bịnh này đối  trước kinh  tượng đem những của vật này hoặc
cúng dường kinh  tượng”, nghĩa  là  trước hình  tượng Phật Bồ Tát, hứa không  lưu
luyến cái thân đau khổ không thật, không luyến tiếc của cải tài sản vô thường.
     “Hoặc tạo hình tượng của Phật Bồ Tát” nghĩa là ý thức không còn bị cái thân
giả tạm và của cải hư ảo  lôi kéo dính mắc để  tâm được giải  thoát (Phật Bồ Tát),
“hoặc xây dựng chùa  tháp”  là ý  thức  tạo công đức  tạo  ra nơi hành hóa giáo hóa
chúng  sinh; “hoặc  sắm đèn dầu  thắp  cúng, hoặc  cúng vào  của  thưòng  trụ”  là ý ã

73

thức mong muốn đạt  trí tuệ (thắp đèn dầu) để  làm  lợi  ích Tam Bảo (của thường
trụ). 
    “Xướng lên như vậy ba lần để cho người bịnh được nghe biết, giả sử như thần
thức của người bịnh đã phân tán đến hơi thở đã dứt, thời hoặc một ngày, hai ngày,
ba ngày, bốn  ngày  cho đến bảy  ngày,  cứ  lớn  tiếng  xướng  bạch  như  trên  và  lớn
tiếng  tụng  kinh  này”,  nghĩa  là  nói  nhiều  lần  như  trên  để  nhắc  nhở  người  bệnh
hướng tâm và giữ tâm ý như thế; nếu người bệnh đã qua đời rồi, cũng nên thường
xuyên nhắc đi nhắc lại như thế cho đến bảy ngày mới ngưng.
     “Sau khi người bịnh đó mạng chung thời dầu cho từ trước có tội vạ nặng nhẫn
đến năm  tội Vô-Gián,  cũng được  thoát  khỏi hẳn,  thọ  sanh vào đâu  cũng  thường
nhớ biết việc đời  trước”. Nói bố  thí cúng dàng về Sự, phải do chính người bệnh
phát tâm làm thì mới được hưởng trọn vẹn, còn người khác làm giùm thì chỉ hưởng
được phần nào phúc đức  thôi. Cái chính  là về Lý, người bệnh đó phải dứt  tất cả
tâm chúng sinh, nghĩa là phải dứt tâm sợ chết, tâm yêu thương luyến tiếc mọi thứ ở
đời, tâm sân hận giận thù từ bao lâu về trước, v.v…. Tất cả những thứ đó và nhiều
thứ khác nữa đều là tâm lậu hoặc xấu xa, đều là tâm chúng sinh, cần phải tiêu diệt
dứt bỏ  sạch  sẽ, để đạt  tâm  thanh  tịnh  trong  lúc  lâm chung  thì mới mong có hiệu
ứng vậy. 
     Đoạn kế nữa, Kinh nói: “Huống nữa là người thiện nam, người thiện nữ nào tự
mình  biên  chép  kinh  này, hoặc  bảo  người  biên  chép,  hoặc  tự mình  đắp  vẽ  hình
tượng của Bồ Tát, cho đến bảo người khác vẽ đắp, người đó khi thọ quả báo chắc
đặng nhiều lợi lớn”. Câu Kinh này với biểu trưng rằng người thiện nam hay thiện
nữ  nào mà  đã  vẽ  hình  đắp  tượng Địa Tạng  nghĩa  là miệt mài  tu  hành  diệt  tâm
chúng sinh, ví như diệt trừ hết tham, sân, ác kiến, kiêu mạn tật đố, ganh ghét, v.v…
từ ý nghĩ,  lời nói đến việc  làm; rồi  lại viết chép,  in ấn, giảng nói Kinh này khiến
người khác cũng  làm giống như  thế,  thì chắc chắn người này sẽ được  lợi ích khó
mà nói hết được vậy. 
     Câu chót của đoạn 8 này: “Này Bồ Tát Phổ Quảng! Vì thế nên, nếu ông thấy có
người nào đọc tụng kinh này, cho đến chỉ trong một niệm khen ngợi kinh này, hoặc
là có  lòng cung kính đối với kinh”, câu Kinh này đã qúa  rõ  rằng người nào  tụng
đọc Kinh này mà hiểu được nghĩa chân  thật của Kinh; khen ngợi  tôn  trọng cung ã

74

kính, nghĩa  là một  lòng một dạ tu hành dẹp bỏ  tất cả các  tâm ô uế điên đảo, phát
triển tâm từ bi hỉ xả v.v…, thì Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Phổ Quảng rằng: 
     “Thời ông cần phải dùng trăm nghìn phương chước khuyến hóa người đó, phát
lòng  siêng năng, chớ đừng  thối  thất,  thời có  thể được  trăm nghìn muôn ức công
đức”,  tại  sao  có  vô  lượng  công  đức? Vì  nếu  người  ấy  tinh  tấn  không  thoái  tâm
trong việc tu hành, mà hành trì kiên cố tu tâm sửa tánh mình, thì có được hiện tại
tốt đẹp như đã nêu ra ở trên và tương lai sẽ có một ngày nào đó đạt tâm thanh tịnh.
Tức là dần dần có trí tuệ và sẽ giải thoát, nên Đức Phật nói người đó: “Có thể được
trăm nghìn muôn ức công đức không thể nghĩ bàn ở hiện tại và vị lai” là vậy.
9). SIÊU ĐỘ VONG LINH
- Lại nữa, này Bồ Tát Phổ Quảng! Như những chúng sanh đời sau, hoặc trong giấc
ngủ, hoặc trong chiêm bao thấy các hạng Quỉ, Thần nhẫn đến các hình lạ, rồi hoặc
buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở,hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt....
Ðó  đều  là  vì  hoặc  cha mẹ,  con  em, hoặc  chồng  vợ,  quyến  thuộc  trong một  đời,
mười đời, hay,  trăm đời nghìn đời  về  thuở quá  khứ bị đọa  lạc  vào ác đạo chưa
được  ra khỏi, không biết  trông mong vào phước  lực nơi nào để  cứu vớt nỗi khổ
não, nên mới về mách bảo với người có  tình cốt nhục  trong đời  trước cầu mong
làm phương tiện gì để hầu được thoát khỏi ác đạo.
Này Phổ Quảng! Ông nên dùng sức oai thần, khiến hàng quyến thuộc đó đối trước
hình  tượng của chư Phật, chư Bồ Tát chí  tâm  tự đọc kinh này, hoặc  thỉnh người
khác đọc đủ số ba biến hoặc đến bảy biến.
Như  vậy kẻ quyến  thuộc đương mắc  trong ác đạo  kia,  khi  tiếng  tụng  kinh đủ  số
mấy biến đó xong  sẽ đặng giải  thoát, cho đến  trong khi mơ ngủ không còn  thấy
hiện về nữa.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn 9, Kinh nói: “Như những chúng sanh đời sau, hoặc trong giấc ngủ, hoặc
trong chiêm bao thấy các hạng Quỉ, Thần nhẫn đến các hình lạ, rồi hoặc buồn bã,
hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt.... Ðó đều là
vì hoặc cha mẹ, con em, hoặc chồng vợ, quyến thuộc trong một đời, mười đời, hay,
trăm  đời  nghìn  đời  về  thuở  quá  khứ  bị  đọa  lạc  vào  ác  đạo  chưa  được  ra  khỏi, ã

75

không biết trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt nỗi khổ não, nên mới về
mách bảo với người có tình cốt nhục trong đời trước cầu mong làm phương tiện gì
để hầu được thoát khỏi ác đạo”, đoạn Kinh này Đức Phật nói rất rõ dễ hiểu, đúng
nghĩa như vậy, không có gì phải giải thích.
     Này Phổ Quảng! Ông nên dùng  sức oai  thần, khiến hàng quyến  thuộc đó đối
trước hình  tượng của chư Phật, chư Bồ Tát chí  tâm  tự đọc kinh này, hoặc  thỉnh
người khác đọc đủ số ba biến hoặc đến bảy biến”. Những ai muốn đừng còn thấy
trong chiêm bao thấy các hạng Quỉ, Thần cho đến các hình lạ, đó đều là hoặc cha
mẹ, con em, hoặc chồng vợ, quyến  thuộc trong nhiều đời về thuở quá khứ bị đọa
lạc vào cõi Ngạ qủy (ác đạo) chưa được ra khỏi. Hoặc là muốn đừng thấy vong linh
cha mẹ, anh em, bà con đời này hiện về  trong giấc mộng buồn  rầu, kêu khóc vì
đang bị tội khổ, thì nên vì những qủy thần vong linh ấy mà tụng từ ba đến bảy biến
Kinh Địa-Tạng, thì người chết sẽ được thoát khổ, còn người đọc sẽ hết chiêm bao. 
     Ở đây có một điểm cần ghi nhớ là người đọc tụng phải là người có tâm thiện, có
tu hành, có tâm thanh tịnh, có tâm từ bi hỉ xả, thì mới đủ lực hướng dẫn lời Kinh
đến các qủy  thần và vong  linh. Từ đó họ nhận hiểu được lời Kinh mà ăn năn hối
cải chuyển đổi từ tâm ác sang tâm thiện; như thế họ sẽ được lợi ích thoát khỏi cõi
khổ ấy để tới cõi tốt đẹp hơn, do đó mà người tụng đọc sẽ hết chiêm bao thấy cảnh
đó nữa. Nếu người đọc tụng Kinh này không tu hành gì cả, thân miệng ý vẫn còn
nhiều  thói hư  tật xấu của  tham sân,  tà kiến,  tật đố, ganh  tị v. v…,  thì dù có  tụng
nhiều biến cũng khó có hiệu qủa.
10). KHỎI NÔ LỆ
- Lại nữa, này Phổ Quảng! Như đời sau này có những hạng người hạ tiện, hoặc tớ
trai,  hoặc  tớ  gái  nhẫn  đến  những  kẻ  không  được  quyền  tự  do,  rõ  biết  là  do  tội
nghiệp đời trước gây ra cần phải sám hối đó, thời nên chí tâm chiêm ngưỡng đảnh
lễ hình tượng của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Rồi trong bảy ngày niệm danh hiệu của Ðịa-Tạng Bồ Tát đủ một muôn biến.
Những người  trên đó sau khi mãn báo  thân hạ  tiện ở hiện đời  trong nghìn muôn
đời về sau thường sanh vào bực tôn quí, trọn không bao giờ còn phải sa đọa vào
ba đường ác khổ nữa.
GIẢI NGHĨA ã

76

     Đoạn  10, Kinh  nói: “Như  đời  sau  này  có  những hạng  người  hạ  tiện, hoặc  tớ
trai,  hoặc  tớ  gái  nhẫn  đến  những  kẻ  không  được  quyền  tự  do,  rõ  biết  là  do  tội
nghiệp đời trước gây ra cần phải sám hối đó”. Nghĩa là những người thấy khổ vì ở
trong cảnh bần cùng tôi tớ, cảm thấy khổ vì bị tù tội mất tự do, mà biết do tội xưa
nên nay bị qủa báo nghèo hèn, biết  tội kiếp  trước nên ngày nay bị qủa báo giam
cầm, rồi biết sám hối tội lỗi đã gây ra.
    Câu Kinh: “Thời nên chí tâm chiêm ngưỡng đảnh lễ hình tượng của Ngài Ðịa-
Tạng Bồ Tát”, nghĩa là những người này sau khi sám hối rồi thì nên nhiệt tâm suy
tư về các tâm ác và tâm thiện để hiểu rằng nếu có tâm ác thì sẽ dẫn tới khổ sở. Bởi
vậy cho nên cần phải diệt trừ tâm ác, và nuôi dưỡng tâm thiện, bằng cách cố gắng
làm các việc thiện từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm; được như vậy thì chắc chắn đời
này sẽ dần dần khá hơn lên và các đời sau được sinh trong cảnh giàu sang tự do.
     “Rồi trong bảy ngày niệm danh hiệu của Bồ Tát Ðịa-Tạng đủ một muôn biến”:
Nghĩa là niệm  liên tục không ngưng nghỉ thì sẽ đưa tâm vào nhất  tâm  thanh tịnh,
đây là một lối tu để đạt tâm định (Tam muội), khi đã có định tĩnh bất loạn rồi thì trí
tuệ sinh và như vậy sẽ dẫn tới giải thoát. Được giải thoát rồi thì trọn không bao giờ
còn phải sa đọa vào ba đường khổ nữa; chứ chẳng phải niệm Bồ Tát Địa Tạng để
Ngài phù hộ cho khỏi khổ đâu mà lầm to đó.
11). SINH CON DỄ NUÔI
- Lại vầy nữa, này Bồ Tát Phổ Quảng! Về  trong  thuở sau này, nơi cõi Diêm Phù
Ðề, trong hàng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người,
và những dân tộc dòng họ khác, như có người nào mới sinh đẻ hoặc con trai hoặc
con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà tụng niệm kinh điển
không  thể nghĩ bàn này,  lại vì đứa  trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-
Tạng đủ một muôn biến.
Ðược vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó có gây
ra  tội vạ chi cũng đặng  thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi,  lại  thêm được
sống lâu.
Còn như nó  là đứa nương nơi phước  lực mà  thọ sanh,  thời đời nó càng được an
vui hơn cùng sống lâu hơn.
GIẢI NGHĨA ã

77

     Đoạn  11  là một  ẩn nghĩa:  “Trong  thuở  sau này, nơi  cõi Diêm Phù Ðề,  trong
hàng Sát Ðế Lợi, Bà La Môn, Trưởng Giả, Cư Sĩ, tất cả các hạng người, và những
dân tộc dòng họ khác, như có người nào mới sinh đẻ hoặc con trai hoặc con gái,
nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà tụng niệm kinh điển không
thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đủ
một muôn biến”. Ở đây, sinh con  trai, sinh con gái biểu  trưng cho phát  tâm công
đức  giải  thoát,  nghĩa  là  từ  hàng  vua  quan,  hàng  giàu  có,  đến  hàng  thường  dân,
những người này vì việc muốn phát tâm tu công đức giải thoát khỏi khổ, mà trong
bảy ngày, quyết  tâm, chú  tâm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Tức  là người đã
giữ Năm giới đầy đủ rồi, không nghĩ tới tham sân tà kiến, không kiêu mạn tật đố
ganh tị v.v… mà niệm liên tục không ngưng nghỉ suốt ngày đêm 24/24 giờ liên tiếp
trong suốt 7 ngày, thì sẽ đạt nhất tâm thanh tịnh, đây là một lối tu Tam muội; khi
đã có định tĩnh (Tam muội) rồi thì trí tuệ sinh và như vậy sẽ dẫn tới giải thoát. 
     “Ðược vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay là gái mới sanh ra đó, nếu đời trước nó
có gây ra tội vạ chi cũng đặng thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại thêm
được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi phước lực mà thọ sanh, thời đời nó
càng được an vui hơn cùng sống lâu hơn”. Khi được giải thoát rồi thì dù đời trước
có gây ra tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nói chi việc sẽ an ổn vui vẻ và sống
lâu. Còn như người đời trước đã có tu, mà đời này tu tiếp thì càng dễ dàng hơn và
càng được an vui và sống lâu hơn nữa.

12). NGÀY THẬP TRAI TỤNG KINH ĐƯỢC PHƯỚC

- Lại vầy nữa, này Phổ Quảng! Trong mỗi tháng những ngày mùng một, mùng tám,
mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám, hăm chin và ba mươi, mười
ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại để định là nặng hay nhẹ.
Tất cả những cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề không
có điều gì chẳng phải là tội lỗi, huống nữa là những kẻ buông lung giết hại, trộm
cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi.
Về đời sau, nếu có chúng sanh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối
trước  hình  tượng  của  chư Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh  để  đọc  tụng  kinh  này một ã

78

biến,  thời  chung quanh  chỗ người đó ở bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc,  trong
khoảng một trăm do-tuần không có xảy ra những việc tai nạn.
Còn chính nhà của người đó ở, tất cả mọi người hoặc già hoặc trẻ về hiện tại và
vị-lai đến trăm nghìn năm xa khỏi hẳn các ác đạo.
Trong mười ngày  trai  trên đây nếu có  thể mỗi ngày  tụng một biến kinh này,  thời
trong đời hiện tại hay làm cho người trong nhà không phải mắc phải bịnh tật bất
ngờ, đồ ăn mặc dư dật.
Này Phổ Quảng! Vì  thế  nên  biết  rằng Ngài Bồ Tát Địa-Tạng  có  bất  khả  thuyết
trăm nghìn muôn ức những sự oai thần lực lớn nhiều lợi ích cho chúng sanh như
thế.
Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề này có nhân duyên lớn với Ngài Ðịa-Tạng Ðại
Sĩ. Những chúng sanh đó hoặc được nghe danh hiệu của Bồ Tát Ðịa-Tạng, hoặc
được thấy hình tượng của Bồ Tát Ðịa-Tạng, cho đến nghe chừng ba chữ hay năm
chữ trong kinh này, hoặc một bài kệ hay một câu, thời những người đó hưởng sự
an vui  lạ  thường  trong đời hiện  tại,  trăm nghìn muôn đời về vị  lai  thường được
thác sanh vào nhà tôn quí, thân hình xinh đẹp.
GIẢI NGHĨA
     Câu  đầu  đoạn  12, Đức  Phật  nói:  “Này  Phổ Quảng!  Trong mỗi  tháng  những
ngày mùng một, mùng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hăm ba, hăm bốn, hăm tám,
hăm chin và ba mươi, mười ngày trên đây là ngày mà các nghiệp tội kết nhóm lại
để định  là nặng hay nhẹ”, ý của Kinh muốn hướng dẫn con người ăn chay càng
được nhiều càng  tốt, nhưng  ít ra cũng phải nên ăn chay mỗi  tháng 10 ngày gồm:
mồng một, mồng tám, mười bốn, mười lăm, mười tám, hai mươi ba, hai mươi bốn,
hai mươi  tám, hai mươi chín và ba mươi. Sự ăn chay này giúp cho việc giảm sát
sinh  thì  sẽ giảm nghiệp báo bị bệnh  tật và  chết  sớm, ngoài  ra  còn giúp  cho con
người ăn chay được khỏe mạnh sống lâu trong đời hiện tại. 
     “Tất cả những cử chỉ động niệm của chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Ðề
không có điều gì chẳng phải là tội lỗi, huống nữa là những kẻ buông lung giết hại,
trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ trăm điều tội lỗi”. Ở đây nêu rõ mọi ý nghĩ lời nói và
việc làm của chúng sinh hầu hết đều là gây nghiệp xấu, thí dụ mọi người ăn thịt cá
là do giết sinh vật để có ăn, nhưng những người ăn thịt sinh vật đâu có nghĩ đó là ã

79

mắc tội, nên thản nhiên thích thú ăn. Do đó Đức Phật đã nêu ra các giới như Năm
giới cho Cư sĩ cần phải tránh để được  tái sinh lại cõi người, Mười điều  thiện cần
phải làm để có được qủa báo tốt đẹp, hầu giúp cho chúng sinh bớt khổ được phước
sinh lên cõi Trời…
     “Nếu có chúng sanh nào trong mười ngày trai kể trên đây, mà có thể đối trước
hình tượng của chư Phật, Bồ Tát, Hiền, Thánh để đọc tụng kinh này một biến, thời
chung quanh chỗ người đó ở bốn hướng Ðông, Tây, Nam, Bắc, trong khoảng một
trăm do-tuần không có xảy ra những việc tai nạn”. Nghĩa là những người giữ được
10 ngày ăn chay mỗi tháng, rồi chỉ cần đọc Kinh này một lần để suy nghĩ nghĩa lý
của Kinh và quán chiếu tâm mình mỗi ngày để dứt tất cả những tâm quấy ác đã và
đang xảy ra, đây là diệt trừ tâm chúng sinh của chính mình. Nếu làm được như vậy
thì chung quanh người này không xảy ra các tai nạn; tại sao? Vì người này đã đích
thực tu hành, mà người  tu hành chân chính thì sẽ có Qủy Thần hộ vệ bao bọc xa
gần chung quanh, nên các sự dữ khó có thể xảy ra vậy. 
     Chứ chẳng phải tụng Kinh mỗi ngày để cầu xin bậc Thánh và Qủy Thần phù hộ
bao bọc che chở đâu mà lầm lẫn to lớn, vì chẳng có Thần Linh nào bảo vệ người có
nhiều tính hư tật xấu van xin cầu khẩn.
     “Còn chính nhà của người đó ở, tất cả mọi người hoặc già hoặc trẻ về hiện tại
và  vị-lai đến  trăm nghìn  năm  xa  khỏi hẳn  các  ác đạo”. Nghĩa  là  người  tu  hành
hàng ngày như  thế  sẽ  ảnh hưởng đến những người ở  chung, nên những người ở
chung này cũng sẽ làm theo. Như vậy chỗ ở này chẳng khác nào một đạo tràng, và
về sau những người khác cũng sẽ tiếp tục tu hành làm theo, nên đều có thể xa khỏi
sự khổ và không bị đọa sinh vào ba đường dữ nữa.
     “Trong mười ngày trai trên đây nếu có thể mỗi ngày tụng một biến kinh này”,
nghĩa  là  trong mười ngày ăn chay, mỗi ngày đều  tụng Kinh để suy nghĩ nghĩa  lý
của Kinh, gìn giữ giới, tu hành cái tâm hàng ngày như thế sẽ ảnh hưởng đến những
người ở chung, nên những người này cũng sẽ làm theo. Dù không làm giống hoàn
toàn  thì cũng được một phần, nên Kinh nói: “thời  trong đời hiện  tại hay  làm cho
người trong nhà không phải mắc phải bịnh tật bất ngờ, đồ ăn mặc dư dật”, bởi vì
những người này có tu nên có tạo công đức, công đức này làm giảm nhẹ nghiệp ác,
do đó không còn bị bệnh tật bất ngờ và không bị nghèo túng nữa là vậy. ã

80

     Đức Phật  nói  tiếp:  “Này Phổ Quảng! Vì  thế  nên  biết  rằng Ngài Bồ Tát Địa-
Tạng có bất khả  thuyết  trăm nghìn muôn ức những sự oai  thần  lực  lớn nhiều  lợi
ích cho chúng sanh như thế”. Ở đây chúng ta phải biết rằng Địa Tạng là biểu trưng
bản tâm tự tánh của mỗi người, khi tu hành tới nơi tới chốn rồi thì cái bản tâm tức
Phật tánh hiển lộ, lúc đó có oai thần mầu nhiệm vô cùng, làm lợi ích chúng sinh vô
số, nên không thể nói hết được sự những lợi ích cho chúng sinh là vậy.
     “Chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề này có nhân duyên lớn với Ngài Ðịa-Tạng
Ðại Sĩ. Những  chúng  sanh đó hoặc được nghe danh hiệu  của Bồ Tát Ðịa-Tạng,
hoặc được  thấy hình  tượng của Bồ Tát Ðịa-Tạng”. Nghĩa  là con người  trong  thế
giới này hiểu  rõ  cái  tâm  của mình, khi  lắng nghe  cái  tâm mình  thì  sẽ  thấy vọng
ngôn của tâm chúng sinh như những lời nói dối, nói thêu dệt, nói châm chọc, nói
ác, hay khi quán  sát cái  tâm  thì sẽ  thấy vọng  tướng của  tâm chúng sinh như đẹp
xấu,  to nhỏ, được mất,  thắng  thua, vinh nhục, v.v…. Các  tâm chúng  sinh này  là
dính mắc, bị lôi kéo, là sai trái, là điên đảo, là bụi phủ gương, là cáu vẩn làm đục
nước, là hàng rào cản, là mây phủ chân tâm diệu tâm; vì vậy cần phải xa lià, loại
bỏ, tiêu diệt các tâm chúng sinh ở trong ta để cho chân tâm hiển lộ.
     Người dù chỉ làm được chút ít thôi cũng là tốt được một phần rồi, vì vậy Kinh
nói: “cho đến nghe chừng ba chữ hay năm chữ trong kinh này, hoặc một bài kệ hay
một câu, thời những người đó hưởng sự an vui lạ thường trong đời hiện tại, trăm
nghìn muôn đời về vị  lai  thường được  thác sanh vào nhà  tôn quí,  thân hình xinh
đẹp” là vậy; tại sao? Vì chỉ cần tiêu diệt một chút tâm chúng sinh là đã có lợi lộc
vô cùng  rồi, ví dụ như  loại bỏ được  tâm nghĩ đến  trộm cướp  là được an vui đời
hiện tại không bị bắt giam tù tội, sẽ được sự đầy đủ tôn qúy trong đời sau. Tiêu diệt
được tâm sân giận là được an vui đời hiện tại, không bị bệnh về tim gan (tâm can),
sẽ được thân thể đẹp đẽ khỏe mạnh trong đời sau v.v….
13). DANH HIỆU CỦA KINH
- Khi nghe Ðức Phật Như Lai  tuyên bày ngợi khen Ngài Địa-Tạng Ðại Sĩ xong,
Ngài Bồ Tát Phổ Quảng  liền quỳ xuống chắp  tay mà bạch cùng Ðức Phật rằng:
“Bạch Thế-Tôn! Từ lâu con rõ biết vị Ðại Sĩ này có thần lực cùng đại nguyện lực
không thể nghĩ bàn như thế rồi, song nay vì muốn những chúng sanh trong đời sau
này rõ biết các sự lợi ích đó, nên con mới bạch hỏi cùng đức Như Lai.
Vâng! Con xin cung kính tin nhận lời Phật dạy. ã

81

Bạch đức Thế-Tôn! Kinh này đặt tên là gì và định cho con lưu bố thế nào?” Ðức
Phật bảo Ngài Phổ Quảng: “Kinh này có ba danh hiệu: một  là “Ðịa-Tạng Bổn
Nguyện Kinh”, cũng gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Hạnh Kinh”; đây là tên thứ hai, cũng
gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Thệ Lực Kinh”; đây là tên thứ ba.
Do vì Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng từ thuở kiếp lâu xa đến nay phát nguyện rộng lớn làm
lợi ích cho chúng sanh, cho nên các ông phải đúng theo tâm nguyện mà lưu hành
truyền bá kinh này.
Nghe Ðức Phật dạy xong, Ngài Bồ Tát Phổ Quảng tin chịu, chắp tay cung kính lễ
Phật lui ra.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ 13, Bồ Tát Phổ Quảng hỏi Phật tên của Kinh, Ðức Phật bảo Ngài Phổ
Quảng: “Kinh này có ba danh hiệu: một  là “Ðịa-Tạng Bổn Nguyện Kinh”; cũng
gọi là “Ðịa-Tạng Bổn Hạnh Kinh”, đây là tên thứ hai; cũng gọi là “Ðịa Tạng Bổn
Thệ Lực Kinh”, đây  là  tên  thứ ba”. Như chúng  ta đã biết biểu  trưng Địa Tạng  là
Tâm,  ai muốn hiểu  rõ  cái Tâm  của mình  thì phải  quay  cái  nghe vào  trong, phải
quán  sát  chiếu  soi  cái  tâm  để  biết  tâm  chúng  sinh, mà  xa  lià,  loại  bỏ,  tiêu  diệt
chúng để cho Chân Tâm hiển lộ. Muốn thực hành cho được kết qủa, việc đầu tiên
cần phải có đầy đủ là ba việc mà Đức Phật đã nêu ra ba tên của Kinh, đó là: 
1.  Phải có sự quyết tâm, đây là nghĩa của "Địa Tạng bản nguyện" nguyện không
hề sợ khó, sợ trở ngại, sợ gian nan, v.v... Như Thái Tử Tất Đạt Đa sau khi đi thăm
4  cửa  thành  thấy  4  cảnh:  người  già,  người  bệnh,  người  chết,  người  tu  hành,  thì
Ngài nghĩ  ra cách  tìm con đường giải  thoát khỏi già bệnh chết,  từ đó Ngài quyết
tâm từ bỏ gia đình và cung vàng điện ngọc để xuất gia.
2.  Phải thực hành đầy đủ, đây là nghĩa của "Địa Tạng bản hạnh", khi phát nguyện
rồi  thì một  lòng chăm chỉ  tu hành  tinh  tấn không ngưng nghỉ. Như khi Tu sĩ Cù
Đàm chịu đựng đói khát cùng cực trong khi tu khổ hạnh để mong tìm ra chân lý, và
nhất  là khi bỏ  lối  tu khổ hạnh  tu  theo  trung đạo với sự  tinh  tấn dũng mãnh  trong
thời gian dài 49 ngày đêm thiền định để chiến thắng ma quân trong và ngoài tâm.
3.  Phải có lời thề để tạo một sức mạnh, đây là "Địa-Tạng bản thệ lực", tự thề với
mình để tạo sức mạnh trong việc quyết chí tu hành. Như Thái Tử Tất Đạt Đa sau
khi rời bỏ vợ đẹp con  thơ, xa lià cung vàng điện ngọc, một mình cùng với người
giữ  ngựa  rời  khỏi  hoàng  thành  trong  đêm  tối.  Khi  vượt  qua  sông  Anoma
(Neranjara), Ngài dừng chân trên bãi cát, dùng thanh kiếm sắc bén tự cạo râu tóc,
xong  trao áo mão (mũ) kiếm cho người giữ ngựa đem  trở về  trình Vua cha. Ngài
khoác vào mình tấm vải vàng cam làm áo, tự nguyện sống đời tu sĩ, và chấp nhận
mọi sự thiếu thốn vật chất; đây là Ngài phát nguyện từ bỏ tất cả để sống một cuộc ã

82

đời tu sĩ để tìm ra chân lý hầu cứu mình và cứu chúng sinh ra khỏi cảnh khổ của
sinh già bệnh chết vậy.
     Đó là ba căn bản cần có đầu tiên cho những ai muốn hết khổ, muốn được mọi
sự tốt đẹp, muốn giải thoát thành Phật, là việc phải làm khi bắt đầu tu hành; ngoài
ra, còn phải phát thệ nguyện rộng lớn làm lợi ích chúng sinh và phổ biến giảng giải
Kinh này.
*
*     *
PHẨM THỨ BẢY:
LỢI ÍCH CẢ KẺ CÒN NGƯỜI MẤT
1) KHUYÊN TU THÁNH ÐẠO
- Lúc đó Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng bạch cùng đức Phật  rằng: “Bạch đức Thế-Tôn!
Con  xem  xét  chúng  sanh  trong  cõi Diêm Phù  sanh  tâm  động  niệm  không  chi  là
chẳng phải tội.
Nếu gặp những việc về pháp sự lợi lành phần nhiều thối thất tâm tốt ban đầu. Còn
hoặc khi gặp duyên sự bạo ác chẳng lành lại lần lần thêm lớn: Những hạng người
trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng thêm lần, càng khốn đốn
thêm lần, chân đạp lún lút sâu. 
Những người đó hoặc gặp hàng  thiện  tri  thức đội giùm đá bớt  cho, hoặc  là đội
giùm hết cả, vì hàng  thiện  tri  thức đó có sức rất khỏe mạnh  lại dìu đỡ người ấy
khuyên gắng làm cho người ấy mạnh chân lên.
Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần phải xét nghĩ đến con
đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa.
Bạch đức Thế-Tôn! Những chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún rồi
lần đến nhiều vô lượng.
Ðến khi những chúng sanh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời
cha mẹ  cùng  thân quyến  vì người đó mà  tu  tạo  phước  lành để  giúp  tiền đồ  cho
người đó.
Hoặc  treo  phan  lọng  và  thắp  đèn  dầu,  hoặc  chuyển  đọc  Tôn  Kinh,  hoặc  cúng
dường tượng Phật cùng hình tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của ã

83

Phật và Bồ Tát cùng Bích Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của
người sắp mạng chung, hoặc là nơi bản thức nghe biết.
Cứ  theo nghiệp ác của người đó đã gây  tạo,  suy  tính đến quả báo,  thời đáng  lẽ
người đó phải bị đọa  vào ác đạo,  song nhờ  thân quyến  vì người đó mà  tu nhân
duyên Thánh-đạo, cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch.
Như sau khi người đó đã chết, lại có thể trong bốn mươi chín ngày vì người ấy mà
tu tạo nhiều phước lành, thời có thể làm cho người chết đó khỏi hẳn chốn ác đạo,
được  sanh  lên  cõi  trời  hoặc  sanh  trong  loài  người  hưởng  lấy  nhiều  sự  rất  vui
sướng, mà kẻ thân quyến hiện tại đó cũng được vô lượng điều lợi ích.
Vì lẽ trên đó nên nay con đối trước đức Phật Thế-Tôn cùng với hàng Trời, Rồng,
tám bộ chúng, người với phi nhân v.v... mà có  lời khuyên bảo những chúng sanh
trong cõi Diêm-Phù-Ðề, ngày lâm chung kẻ thân thuộc phải cẩn thận chớ có giết
hại và chớ gây tạo nghiệp duyên chẳng lành, cũng đừng tế lễ Quỉ, Thần, cầu cúng
ma quái.
Vì sao thế? Vì việc giết hại cho đến tế lễ đó, không có một mảy mún chi lợi ích cho
người chết cả, chỉ có kết thêm tội duyên của người đó làm cho càng thêm sâu nặng
hơn thôi.
Giả sử người chết đó hoặc  là đời  trước hay đời hiện  tại vừa rồi, đã chứng đặng
phần Thánh quả sẽ sanh vào cõi Trời, cõi người, nhưng bị vì lúc lâm chung hàng
thân  thuộc gây  tạo những nghiệp nhơn không  lành, cũng  làm cho người chết đó
mắc lấy ương lụy phải đối biện, chậm sanh vào chốn lành. Huống gì là người kia
chết, lúc sanh tiền chưa từng làm được chút phước lành, đều theo ác nghiệp của họ
đã gây tạo mà tự phải bị sa đọa vào ác đạo.
Hàng thân thuộc nỡ nào lại làm cho tội nghiệp của người ấy nặng thêm!
Cũng ví như, có người từ xứ xa đến, tuyệt lương thực đã ba ngày, đồ vật của người
đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít đồ vật nữa, vì
vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm.
Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét những chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề, ở nơi
trong giáo pháp của Phật, nếu có thể làm việc phước lành cho đến chừng bằng sợi ã

84

lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều
tự mình được lợi ích cả.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ nhất này, đại ý Bồ Tát Địa Tạng thưa với Phật về tâm của chúng sinh
tại thế giới này phần nhiều là không tốt, người có tâm lành ban đầu thì sau dần dần
bỏ mất, người có  tâm ác nhỏ sau dần dần  tâm ác  tăng  lên nhiều vô kể, nên Ngài
nói: “Những hạng người trên đó như kẻ mang đá nặng đi trong bùn lầy càng nặng
thêm lần, càng khốn đốn thêm lần, chân đạp lún lút sâu”. Có khi những người này
gặp được các vị Thiện tri thức chỉ bảo con đường ngay lành thì được cứu khỏi, đó
là ý nghĩa của câu Bồ Tát Địa Tạng nói: “Những người đó hoặc gặp hàng thiện tri
thức đội giùm đá bớt cho, hoặc là đội giùm hết cả, vì hàng thiện tri thức đó có sức
rất khỏe mạnh lại dìu đỡ người ấy khuyên gắng làm cho người ấy mạnh chân lên”.
Ngài khuyên rằng: “Nếu khi ra khỏi bùn lầy đến chỗ đất bằng phẳng rồi, thời cần
phải xét nghĩ đến con đường hiểm xấu ấy, đừng có đi vào đó nữa”, nghĩa  là khi
được Thiện tri thức chỉ bảo để qua được sự nguy khốn tai nạn rồi thì nên nhớ đừng
bao giờ tái phạm làm ác để khỏi qủa báo khổ nữa.
     Bạch đức Thế-Tôn! “Những chúng sanh quen theo thói ác, bắt đầu từ mảy mún
rồi lần đến nhiều vô lượng”, nghĩa là vì thế khi các chúng sinh có tâm ác từ nhỏ rồi
dần dần có tâm ác lớn này khi chết chắc chắn phải chịu qủa báo khổ. Nhưng “Ðến
khi những chúng sanh quen theo thói chẳng lành ấy sắp sửa mạng chung, thời cha
mẹ cùng thân quyến vì người đó mà tu tạo phước lành để giúp tiền đồ cho người
đó”. Nghĩa là nếu thân nhân vì người này lúc sắp sửa qua đời mà lập lễ nghi tụng
Kinh đúng cách, niệm một vị Phật để người bệnh nghe nhớ, tạo phước như bố thí
cúng dàng, sám hối, bỏ  tâm ác, phát khởi  tâm  thiện,  tu hành thiền định,  thì người
này  sẽ được nhiều  lợi  ích. Đó  là ý nghĩa của câu: “Hoặc  treo phan  lọng và  thắp
đèn  dầu,  hoặc  chuyển  đọc  Tôn  Kinh,  hoặc  cúng  dường  tượng  Phật  cùng  hình
tượng của các vị Thánh, cho đến niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát cùng Bích
Chi Phật, làm cho một danh một hiệu thấu vào lỗ tai của người sắp mạng chung,
hoặc là nơi bản thức nghe biết”.
    “Cứ theo nghiệp ác của người đó đã gây tạo, suy tính đến quả báo, thời đáng lẽ
người đó phải bị đọa  vào ác đạo,  song nhờ  thân quyến  vì người đó mà  tu nhân
duyên Thánh-đạo, cho nên các điều tội ác của người đó thảy đều tiêu sạch”. Nghĩa ã

85

là đáng lẽ người gây nghiệp ác phải đọa vào nơi dữ hoặc Súc sinh, hoặc Ngạ qủy
hoặc Địa ngục, nhưng nhờ thân quyến có nhiều công đức hoặc tu hành chân chính,
nên  tội ác  của người  ấy được nhẹ đi,  tại  sao? Vì người  có nhiều công đức hoặc
người tu chân chính có nhiều công đức, nên khi thân quyến có nhiều công đức mà
hồi hướng cho người ác thì người này được hưởng một phần công đức ấy; như thế
thì nghiệp lực ác sẽ nhẹ đi và người ấy không còn bị đọa vào ác đạo, mà được sinh
vào cõi lành Trời hoặc Người. Như trường hợp mà chúng ta đã đọc qua ở Phẩm 1,
đoạn 5: Ba La Môn cứu mẹ, và Phẩm 4, đoạn 4: Quang Phục cứu mẹ, ở trên.
     Các việc làm vừa nói ở trên còn có thể kéo dài trong 49 ngày sau khi người ấy
chết, thì có thể làm cho người chết đó khỏi đọa nơi ác đạo, được sinh lên cõi trời
hoặc sinh trong loài người hưởng nhiều sự vui, mà thân quyến hiện tại làm những
việc này được nhiều điều lợi ích.
     Ngài Bồ Tát Địa Tạng lưu ý chúng sanh trong toàn thế giới rằng, ngày qua đời
của một  người,  những  thân  thuộc  của  người  ấy  không  nên  giết  hại  sinh  vật  và
không nên cúng  lễ Quỉ Thần, không cầu cúng Ma Quái;  tại sao  thế? Do việc giết
sinh vật để cúng lễ đó không có lợi ích cho người chết, mà chỉ kết thêm tội duyên
xấu do sát sanh, làm cho người đáng lẽ sinh vào chỗ tốt phải bị sinh vào chỗ xấu,
người đáng  lễ phải sinh vào chỗ xấu phải bị  tội càng  thêm  sâu nặng hơn. Do đó
Kinh nói: “Cũng ví như, có người  từ xứ xa đến,  tuyệt  lương  thực đã ba ngày, đồ
vật của người đó mang vác nặng hơn trăm cân, bỗng gặp kẻ lân cận lại gởi một ít
đồ vật nữa, vì vậy mà người xứ xa đó càng phải khốn khổ nặng nề thêm” là vậy.
     Ngài Bồ Tát Địa Tạng  thưa Đức Thế-Tôn:  “Con  xem  xét  những  chúng  sanh
trong  cõi Diêm  Phù Ðề,  ở  nơi  trong  giáo  pháp  của  Phật,  nếu  có  thể  làm  việc
phước lành cho đến chừng bằng sợi lông, giọt nước, bằng một hột cát, một mảy bụi
nhỏ, thời tất cả chúng sanh đó đều tự mình được lợi ích cả”. Xem như vậy, chúng
ta thấy người làm việc thiện dù nhỏ nhặt cũng mang lại lợi ích to lớn, tại sao? Ví
như người cho vay tiền, tuy tiền cho vay ít và tiền lãi nhẹ, nhưng trải qua thời gian
lâu dài thì tiền thâu cũng được nhiều; cũng vậy, người làm công đức dù ít, nhưng
với thời gian dài từ kiếp này qua kiếp khác, công đức ấy trở nên lớn là điều dễ hiểu
vậy.
2) TRƯỞNG GIẢ BẠCH HỎI ã

86

- Khi Ngài Ðịa-Tạng nói  lời như  thế xong,  trong pháp hội có một vị Trưởng Giả
tên là Ðại Biện.
Ông Trưởng Giả  từ  lâu đã chứng quả vô  sanh hiện  thân Trưởng Giả để hóa độ
chúng  sanh  trong mười phương, ông chắp  tay cung kính mà  thưa hỏi Ngài Ðịa-
Tạng Bồ Tát rằng: 
“Thưa Ðại  Sĩ!  Trong  cõi Nam Diêm Phù Ðề  có  chúng  sanh  nào  sau  khi mạng
chung, mà hàng quyến  thuộc hoặc người  lớn kẻ nhỏ, vì người chết đó mà  tu các
công đức, cho đến  thiết  trai cúng dường,  làm những phước  lành,  thời người chết
đó, có đặng lợi ích lớn cùng đặng giải thoát chăng?”
GIẢI NGHĨA
     Từ đoạn 2 này, chúng ta thấy một nhân vật mới, đó là Trưởng Giả Đại Biện, tên
của vị Trưởng Giả này là tiêu biểu của biện luận thảo luận rộng lớn có ý nghĩa sâu
xa, vì  liên quan tới những việc khó biết được, rộng  lớn về vấn đề gì? Đó  là: “Có
chúng sanh nào sau khi mạng chung, mà hàng quyến thuộc hoặc người lớn kẻ nhỏ,
vì người chết đó mà  tu các công đức, cho đến  thiết  trai cúng dường,  làm những
phước lành, thời người chết đó, có được lợi ích lớn cùng được giải thoát chăng?”
Đây là câu hỏi do Trưởng Giả Đại Biện hỏi Ngài Bồ Tát Địa Tạng vậy.
3) KẺ CÒN, NGƯỜI MẤT ÐỀU ÐƯỢC LỢI
- Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đáp rằng: “Này ông Trưởng Giả! Nay tôi vì tất cả chúng
sinh trong hiện tại này cùng thuở vị lai sau, nương nơi oai thần của Ðức Phật mà
nói lược về việc đó.
Này ông Trưởng Giả! Những chúng sanh ở hiện tại hay vị lai, lúc sắp mạng chung
mà nghe đặng danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay danh
hiệu của một Bích Chi Phật, thời không luận là có tội cùng không tội đều được giải
thoát cả.
Như có người nam cùng người nữ nào lúc sinh tiền không tu tạo phước lành mà lại
gây  lấy những  tội ác,  sau khi người mạng chung, hàng  thân quyến kẻ  lớn người
nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi làm tất cà việc về Thánh đạo, thời trong bảy
phần công đức người chết nhờ đặng một phần, còn  sáu phần công đức  thuộc về
người thân quyến hiện lo tu tạo đó. ã

87

Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị lai,
nghe lời nói vừa rồi đó nên cố gắng mà tu hành thời được hưởng trọn phần công
đức.
Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ là
tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở các ty sở để
biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả
báo.
Trong lúc mà chưa biết chắc ra làm sao đó thời đã nghìn muôn sầu khổ, huống là
phải bị đọa vào các ác đạo.
Thần hồn người chết đó khi chưa được thụ sinh, ở trong bốn mươi chín ngày, luôn
luôn trông ngóng hàng cốt nhục thân quyến tu tạo phước lành để cứu vớt cho.
Qua khỏi bốn mươi chín ngày thời cứ theo nghiệp mà thọ lấy quả báo. Người chết
đó, nếu là kẻ có tội thời trải qua trong nghìn năm không có ngày nào được thoát
khỏi khổ.
Còn  nếu  là  kẻ  phạm  năm  tội  vô  gián  thời  phải  đọa  vào  đại  địa  ngục  chịu mãi
những sự đau khổ trong nghìn kiếp muôn kiếp.
Lại vầy nữa, này ông Trưởng Giả! Sau khi những chúng sanh gây phạm tội nghiệp
như  thế mạng chung, hàng cốt nhục thân quyến có làm chay để giúp  thêm phước
lành cho người chết đó.
Thời khi sắm sửa chưa rồi, cùng trong lúc đương làm chớ có đem nước gạo, lá rau
v.v... đổ vãi ra nơi đất, cho đến các thứ đồ ăn chưa dưng cúng cho Phật cùng Tăng
thời chẳng được ăn.
Nếu như ăn  trái phép và không được  tinh sạch kỹ  lưỡng,  thời người chết đó  trọn
không được mảy phước nào cả.
Nếu có  thể kỹ  lưỡng giữ gìn  tinh  sạch đem dâng cúng cho Phật cùng Tăng,  thời
trong bảy phần công đức người chết hưởng được một phần.
Nầy ông Trưởng Giả! Vì  thế nên những chúng sanh  trong cõi Diêm Phù, sau khi
cha mẹ hay người thân quyến chết, nếu có thể làm chay cúng dường, chí tâm cầu
khẩn thời những người như thế, kẻ còn lẫn người mất đều đặng lợi ích cả”. ã

88

Lúc Ngài Ðịa-Tạng nói lời này, tại cung trời Ðao Lợi có số nghìn muôn ức na-do-
tha Quỉ Thần cõi Diêm-Phù-Ðề, đều phát tâm Bồ-Ðề vô lượng.
Ông Trưởng Giả Ðại-Biện vui mừng vâng lời dạy, làm lễ mà lui ra.
GIẢI NGHĨA
     Ngài Địa Tạng  đáp:  “Những  chúng  sanh  ở  hiện  tại  hay  vị  lai,  lúc  sắp mạng
chung mà nghe được danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát hay
danh hiệu  của một Bích Chi Phật,  thời  không  luận  là  có  tội cùng không  tội đều
được giải thoát cả”. Nghĩa là người nào sắp qua đời mà được nghe danh hiệu Phật
hay Đại Bồ Tát  thì người đó đều được  thoát khỏi khổ, chứ chẳng phải được giải
thoát thành Phật đâu; tại sao nghe danh hiệu Phật hay Bồ Tát được thoát  khỏi khổ? 
     Vì khi được nghe danh hiệu Phật hay Bồ Tát tức là được nghe những lời Kinh
dạy bảo, thì người đó sẽ hồi tâm nhận ra điều lành điều ác. Rồi sám hối những tội
lỗi đã gây ra và nghĩ đến các điều thiện, người ấy vui vẻ chấp nhận những đau khổ
đang xảy đến với mình, không còn cảm  thấy buồn khổ nữa, mà có  tâm vui mừng
được gặp Phật pháp chưa  từng nghe biết, do đó người ấy sẽ  ra đi nhẹ nhàng vào
nơi tốt lành hơn. 
     Chứ chẳng phải người sắp qua đời nghe danh hiệu Phật hay Bồ Tát thì được giải
thoát do các Ngài dùng thần lực khiến cho người ấy được giải thoát nhập Niết Bàn
đâu, nếu hiểu được giải thoát nhập Niết Bàn, như vậy là một sự lầm lẫn to lớn đó.
Cũng  chẳng phải  người  nghe  danh  hiệu Phật  hay Bồ  tát không  cần  suy  nghĩ  lời
Kinh dạy, không cần hồi tâm sám hối các việc làm ác, không cần nghĩ đến các điều
thiện, mà người ấy được giải thoát khỏi khổ đâu mà lầm vậy. 
     Câu trả lời kế, Ngài Địa Tạng nói rằng: “Như có người nam cùng người nữ nào
lúc sinh tiền không tu tạo phước lành mà lại gây lấy những tội ác, sau khi người ấy
mạng chung, hàng thân quyến kẻ lớn người nhỏ vì người chết mà tu tạo phước lợi
làm tất cà việc về Thánh đạo”. Đây là những người quyến thuộc vì người chết mà
làm  các  việc  thiện  như  ăn  chay,  bố  thí,  in  ấn Kinh  sách  của Phật,  tụng Kinh  tu
hành, thì sẽ có công đức hồi hướng cho người chết. Do đó:“Thời trong bảy phần
công đức người chết nhờ được một phần, còn sáu phần công đức  thuộc về người
thân quyến hiện lo tu tạo đó”. ã

89

     “Bởi vì cớ trên đây, nên những người thiện nam cùng thiện nữ ở hiện tại và vị
lai, nghe  lời nói vừa  rồi đó nên cố gắng mà  tu hành  thời được hưởng  trọn phần
công đức”,  tức là những người đang sống nên cố gắng tu hành  tạo phúc thì được
hưởng công đức và còn có thể cứu độ giúp cho người thân thoát khổ vậy.
     “Con quỉ dữ vô thường kia không hẹn mà đến, thần hồn vơ vẩn mịt mờ chưa rõ
là tội hay phước, trong bốn mươi chín ngày như ngây như điếc, hoặc ở các ty sở để
biện luận về nghiệp quả, khi thẩm định xong thời cứ y theo nghiệp mà thọ lấy quả
báo”. Nghĩa là cái chết đến bất cứ lúc nào, khi mới chết thần thức bơ vơ mịt mờ,
như  lạc vào nơi xa  lạ, hoang mang bối  rối,  lo  lắng buồn  rầu, cho đến khi nghiệp
qủa  quyết  định  nơi  phải  thọ  báo  trong  vòng  bốn mươi  chín  ngày,  thì  phải  theo
nghiệp mà thọ quả báo. 
     Ngài Địa Tạng cho biết: Người chết nếu là kẻ có tội nặng thì phải ở trong Địa
Ngục trong nghìn năm mới được ra, nếu là kẻ phạm năm tội Vô Gián thì phải đọa
vào Đại Địa Ngục, chịu những sự đau khổ trong nghìn, muôn kiếp.
     Ngài  nói  thêm  đại  ý:  Sau  khi  những  chúng  sinh  gây  tội  qua  đời,  hàng  thân
quyến  có  làm  chay để giúp  thêm phước  lành  cho người  chết  thì khi  các  thức  ăn
dâng cúng phải tinh sạch, lúc chưa dâng cúng cho Phật cùng Tăng thì chẳng được
ăn trước. Làm được như vậy thì nếu được bảy phần công đức, trong đó người chết
hưởng được một phần, người sống được sáu phần, như thế, kẻ còn  lẫn người mất
đều được lợi ích cả.
*
*     *

PHẨM THỨ TÁM:
CÁC VUA DIÊM LA KHEN NGỢI

1). DIÊM LA VƯƠNG CÙNG 
       QỦI VƯƠNG VÂN TẬP

- Lúc  đó  trong  dãy  núi Thiết-Vi  có  vô  lượng Quỉ-vương  cùng  với Vua Diêm La
đồng lên cung trời Ðao Lợi đến chỗ của Ðức Phật.
Các  vị Quỉ-vương  đó  tên  là: Ác Ðộc Quỉ-vương, Ða Ác Quỉ-vương, Ðại  Tránh
Quỉ-vương, Bạch Hổ Quỉ-vương, Huyết Hổ Quỉ-vương, Xích Hổ Quỉ-vương, Tán ã

90

Ương Quỉ-vương, Phi  Thân Quỉ-vương, Ðiển Quang Quỉ-vương,Lang Nha Quỉ-
vương, Ðạm  Thú Quỉ-vương,  Phụ  Thạch Quỉ-vương,  Chủ Hao Quỉ-vương,  Chủ
Họa  Quỉ-vương,  Chủ  Phước  Quỉ-vương,  Chủ  Thực  Quỉ-vương,  Chủ  Tài  Quỉ-
vương, Chủ  Súc Quỉ-vương, Chủ Cầm Quỉ-vương, Chủ Thú Quỉ-vương, Chủ Mị
Quỉ-vương, Chủ Sản Quỉ-vương, Chủ Mạng Quỉ-vương, Chủ Tật Quỉ-vương, Chủ
Hiểm Quỉ-vương, Tam Mục Quỉ-vương, Tứ Mục Quỉ-vương, Ngũ Mục Quỉ-vương,
Kỳ Lợi Thất Vương, Ðại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Ðại Kỳ Lợi Xoa
Vương, A Na Tra Vương, Ðại A Na Tra Vương.
Những  vị  Ðại  Quỉ  Vương  như  thế  v.v....  mỗi  vị  cùng  với  trăm  nghìn  Tiểu  Quỉ
Vương, cả thảy ở trong cõi Diêm Phù Ðề, đều có chức trách, đều có phần chủ trị.
Các vị Quỉ Vương đó cùng với Vua Diêm La nương sức oai thần của Ðức Phật và
oai lực của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, đồng lên đến cung trời Ðao Lợi đứng qua một
phía.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ nhất của Phẩm thứ tám này, Kinh nói: - “Lúc đó trong dãy núi Thiết-
Vi có vô lượng Quỉ-vương cùng với Vua Diêm La đồng lên cung trời Ðao Lợi đến
chỗ của Ðức Phật”. Ở đây chúng ta cần để ý: Núi Thiết Vi: Là nơi có bờ rào bằng
sắt cao rộng cứng chắc không thể phá được, biểu trưng cho tâm vô minh của chúng
sinh như bị vây bọc bởi núi sắt không thể nào ra khỏi. Vô lượng Qủy Vương: Đây
là  tiêu biểu cho vô  số, đủ  loại, những  tư  tưởng, ý niệm,  suy nghĩ v.v… của một
người hợp  thành  tâm vô minh của người ấy; Diêm La Vương  là vị phán xét các
việc làm ác của các tội nhân mà các tội lỗi gây ra đều bởi vô minh của chúng sinh.
     Theo Kinh nói  thì chúng  ta  thấy vô  lượng Quỉ-vương cùng với Vua Diêm La
đồng  lên cung  trời Ðao Lợi đến chỗ của Ðức Phật, Qủy  thì phải ở nơi Địa Ngục,
Vua Diêm La cũng phải ở trong Địa Ngục, nếu rời Địa Ngục thì ai là người xét xử
và  cai  quản Địa Ngục? Nhưng Kinh  nói:   “Các  vị Quỉ Vương  đó  cùng  với Vua
Diêm  La  nương  sức  oai  thần  của  Ðức  Phật  và  oai  lực  của  Bồ  Tát  Ðịa-
Tạng”. Chúng  ta phải hiểu sức oai  thần của Đức Phật  là do Đại Giác, oai  lực của
Bồ Tát Địa Tạng là bản tâm tự tánh chuyển đổi từ tâm chúng sinh qua chân tâm, tức
là bỏ tâm ác hành tâm thiện, thì có thể từ Địa Ngục trở thành cõi Trời, đó là lý lẽ vì
sao người ở Địa Ngục có thể tới cõi Trời được là vậy. 
     Chúng ta cũng cần hiểu các Qủy Vương có danh hiệu đều là biểu trưng tên của
việc  làm  ác  tương  xứng,  như: Tâm  ác  độc  nên  có  tên Ác Độc Quỉ-Vương,  tâm ã

91

nhiều ác nên có  tên Đa Ác Quỉ-Vương,  tâm hay  tranh chấp nên có tên Đại Tránh
Quỉ-Vương, tâm muốn ăn của người nên có tên Bạch Hổ Qủy Vương. Tâm muốn
uống máu chúng sinh nên có tên Huyết Hổ Quỉ vương, tâm đen tối hại người nên
có tên Xích Hổ Quỉ-vương, tâm gây ly tán tai ương hại người nên có tên Tán Ương
Quỉ-vương. 
     Vì cần đi mau chóng nên có tên Phi Thân Quỉ-vương, vì cần thi hành phép tắc
nên  có  tên Ðiển Quang Quỉ-vương  (Điển:  phép  tắc, Quang:  ánh  sáng,  rõ  ràng).
Tâm ưa  cấu  xé,  nên  có  tên Lang Nha Quỉ-Vương  (Quỉ-vương  có  răng  chó  sói),
phải bảo vệ gìn giữ cung thành biên cương, nên có tên Ðạm Thú Quỉ-vương (Đạm:
bình  tĩnh, Thú: giữ). Phụ  trách về đá ép nên có  tên Phụ Thạch Quỉ-vương  (Phụ:
giúp  đỡ, Thạch:  đá),  phụ  trách  việc  đưa  tin  tức  nên  có  tên Chủ Hao Quỉ-vương
(Hao: tốn kém, tin tức), phụ trách việc gây tai họa nên có tên Chủ Họa Quỉ-vương. 
      Phụ trách việc giúp người có phước nên có tên Chủ Phước Quỉ-vương,  tâm chỉ
nghĩ đến việc ăn uống, nên có tên Chủ Thực Quỉ-Vương; tâm mê tiền bạc, nên có
tên Chủ Tài Quỉ-Vương  (Đạm: bình  tĩnh, Thú: giữ). Trông coi việc nuôi gia  súc
nên có  tên Chủ Súc Quỉ-vương, cai quản chim muông nên có  tên Chủ Cầm Quỉ-
vương (Cầm: chim), cai quản súc vật nên có tên Chủ Thú Quỉ-vương. Quản nhậm
làm mê  loạn nên có  tên Chủ Mị Quỉ-vương  (Mỵ: yêu mê),  trông coi việc dẫn đi
đầu thai sinh sản nên có tên Chủ Sản Quỉ-vương, 
     Phụ trách về mạng sống nên có tên Chủ Mạng Quỉ-vương, có tâm bất bình ghét
giận nên có tên Chủ Tật Quỉ-vương (Tật: ghen ghét, giận), có tham lam độc ác nên
có  tên Chủ Hiểm Quỉ-vương  (Hiểm:  tham độc). Tâm nhòm ngó moi móc nên có 
tên Tam Mục, Tứ Mục, Ngũ Mục Quỉ-vương, có  tâm nhẫn nhục,  tâm bố  thí,  tâm
thiện,  tâm  từ bi hỷ xả, nên có  tên Kỳ Lợi Thất Vương  (Kỳ:  cái  cờ,  tốt đẹp,  cầu
phúc, ngọc; Lợi:  tiện  ích), Ðại Kỳ Lợi Thất Vương, Kỳ Lợi Xoa Vương, Ðại Kỳ
Lợi Xoa Vương, A Na Tra Vương, Ðại A Na Tra Vương.
     “Những vị Ðại Quỉ Vương như thế v.v.... mỗi vị cùng với  trăm nghìn Tiểu Quỉ
Vương, cả thảy ở trong cõi Diêm Phù Ðề, đều có chức trách, đều có phần chủ trị”.
Những Đại Qủy Vương biểu  trưng cho việc  lớn, việc  trọng đại, còn những Tiểu
Qủy Vương tượng trưng cho những việc nhỏ, việc không trầm trọng, nên nói Tiểu
Qủa Vương có vô số là vậy.
2) VUA DIÊM LA BẠCH PHẬT ã

92

- Bấy giờ Vua Diêm La quì gối  chắp  tay bạch  cùng Ðức Phật  rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Nay chúng con cùng các vị Quỉ Vương nương sức oai thần của Ðức Phật
và oai lực của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng mới được lên đến đại hội nơi cung trời Ðao
Lợi này, mà cũng là vì chúng con được phước lành vậy.
Nay chúng con có chút việc nghi ngờ, dám bạch hỏi đức Thế-Tôn, cúi xin đức Thế-
Tôn từ bi vì chúng con mà chỉ dạy cho”.
Ðức Phật bảo Vua Diêm La rằng: “Cho phép ông hỏi, Ta sẽ vì ông mà dạy rõ”. 
Bấy giờ, Vua Diêm La chiêm ngưỡng đảnh  lễ đứcThế-Tôn và ngó ngoái  lại Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng, rồi bạch cùng Ðức Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng ở trong sáu đường dùng
trăm  nghìn phương  chước để  cứu  độ những  chúng  sanh mắc  phải  tội  khổ, Ngài
không từ mệt nhọc.
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây có những sự thần thông không thể nghĩ bàn được như
thế, nhưng  sao hàng chúng  sanh vừa đặng  thoát khỏi  tội báo, không bao  lâu  lại
phải bị đọa vào ác đạo nữa?
Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đã có thần lực chẳng thể nghĩ bàn như
thế,  nhưng  tại  vì  cớ  sao  hàng  chúng  sanh  chẳng  chịu  nương  về  đường  lành  để
được giải thoát mãi mãi? Cúi xin đức Thế-Tôn dạy rõ việc đó cho chúng con”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn  thứ hai này đại ý Vua Diêm Vương  thắc mắc hỏi Đức Phật đại ý  rằng:
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng ở trong sáu đường, dùng trăm nghìn phương chước để cứu
độ  những  chúng  sanh mắc  phải  tội  khổ, Ngài  không  từ mệt  nhọc;  nhưng  hàng
chúng sanh vừa được thoát khỏi tội báo, vì cớ sao chẳng chịu nương về đường lành
để được giải thoát mãi mãi, mà không bao lâu lại phải bị đọa vào ác đạo nữa?
3) PHẬT GIẢNG SỞ NHÂN
- Ðức Phật bảo Vua Diêm La  rằng: “Chúng  sanh  trong  cõi Nam Diêm Phù Ðề
tánh tình cứng cỏi khó dạy khó sửa. Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây trong trăm nghìn
kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó làm cho sớm được giải thoát”.  ã

93

Những người bị tội báo cho đến bị đọa vào đường ác lớn, Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng
dùng sức phương  tiện nhổ sạch cội gốc nghiệp duyên, mà  làm cho chúng sinh đó
nhớ biết những công việc ở đời trước.
Tại vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết nghiệp dữ, phạm tội nặng, nên vừa
ra khỏi ác đạo, rồi trở vào lại, làm nhọc cho Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng phải trải qua
nhiều số kiếp lo lắng để cứu độ chúng nó.
Ví như có người quên mất nhà mình, đi lạc vào con đường hiểm, trong con đường
hiểm đó có rất nhiều thứ Quỉ Dạ Xoa, cùng hùm sói, sư tử, rắn độc, bò cạp.
Người quên đường đó ở trong đường hiểm chừng giây lát nữa sẽ bị hại.
Có một vị tri thức hiểu nhiều Pháp thuật lạ, có thể trừ sự độc hại đó, cho đến có
thể  trừ  quỉ Dạ  Xoa,  các  loài  rắn  độc  v.v....chợt  gặp  người  quên  lạc  đường  kia
đương muốn đi thẳng vào con đường hiểm nạn, bèn vội bảo rằng: 
“Ô hay! Này ông kia! Có duyên sự gì mà vào con đường hiểm nạn này? Ông có
Pháp thuật lạ gì có thể ngăn trừ các sự độc hại chăng?” 
Người lạc đường đó, bỗng nghe lời hỏi trên mới rõ là đường hiểm nạn, bèn liền lui
trở lại muốn ra khỏi đường hiểm nạn đó.
Vị thiện tri thức ấy nắm tay dìu dắt, dẫn người lạc lối đó ra ngoài đường hiểm nạn,
khỏi các sự độc hại đến nơi con đường tốt, làm cho được an ổn rồi bảo rằng: 
“Nầy người lạc đường! Từ nay về sau chớ có đi vào con đường hiểm nạn đó nữa,
ai mà vào con đường hiểm đó, ắt khó ra khỏi đặng, lại còn phải bị tổn tánh mạng”.
“Người  lạc đường đó cũng sanh  lòng cảm  trọng. Lúc  từ biệt nhau, vị  tri  thức  lại
dặn thêm: 
“Nếu ông có gặp kẻ quen người  thân cùng những người đi đường hoặc  trai gái,
thời ông bảo cho họ biết con đường đó có rất nhiều sự độc hại, vào đó ắt phải tổn
tánh mạng, chớ để cho những người ấy tự vào chỗ chết!”.
Vì thế nên Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát đủ đức từ bi lớn, cứu vớt chúng sanh mắc tội khổ
muốn cho chúng nó sanh lên cõi trời cõi người để hưởng lấy sự vui sướng tốt đẹp. ã

94

Những chúng sanh tội khổ đó rõ biết sự khốn khổ trong con đường ác nghiệp rồi,
khi đã được ra khỏi, chẳng còn trở vào nữa.
Như người quên đường kia lạc vào đường hiểm, gặp vị tri thức dẫn dắt cho ra khỏi
không bao giờ còn lạc vào nữa.
Gặp gỡ người khác lại bảo chớ vào đường ấy, tự nói rằng mình là quên đường nên
đi lạc vào đó, nay đặng thoát khỏi rồi, trọn hẳn không còn trở vào đường đó nữa.
Nếu còn đi vào đường ấy nữa, thời là còn mê lầm không biết đó là con đường hiểm
nạn mà mình đã từng sa lạc rồi, hoặc đến nỗi phải mất mạng.
Như chúng sanh bị đọa vào chốn ác đạo, Ngài Bồ Tát Địa-Tạng dùng sức phương
tiện cứu vớt cho được  thoát khỏi, sanh vào cõi  trời, rồi cũng vẫn  trở vào ác đạo
nữa.
Nếu chúng sanh đó kết nghiệp quá nặng, thời ở mãi chốn địa ngục không lúc nào
được thoát khỏi.
GIẢI NGHĨA
      Ðức Phật  bảo Vua Diêm La  rằng: “Chúng  sanh  trong  đây  trong  trăm  nghìn
kiếp đã từng cứu vớt những chúng sanh đó làm cho sớm được giải thoát”. Nghĩa là
tâm chúng sinh (tính xấu) ở thế giới này hay thay đổi, khó sửa vì bị tham, sân, tà
kiến, mạn,  tật đố v.v… sai khiến rất khó cưỡng  lại. “Những người bị tội báo cho
đến bị đọa vào đường ác  lớn, Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng dùng  sức phương  tiện nhổ
sạch cội gốc nghiệp duyên, mà làm cho chúng sanh đó nhớ biết những công việc ở
đời trước”. Ngài Địa Tạng biểu trưng là bản tâm tự tính sâu kín của con người, tức
tính  thiện được khơi dậy bởi nghe giáo hóa, đọc Kinh điển,  làm  cho  chúng  sinh
hiểu biết của làm việc ác gây tai hại, nên ý thức mà tránh ác làm lành và được an
vui, nên Kinh nói được Địa Tạng cứu vớt.
     “Tại vì chúng sanh trong cõi Diêm Phù Ðề kết nghiệp dữ, phạm tội nặng, nên
vừa ra khỏi ác đạo, rồi trở vào  lại”, nghĩa  là dù có được Ngài cứu vớt khỏi khổ,
nhưng rồi sau cũng bị tâm chúng sinh lôi kéo, lại làm ác mà bị đọa vào nẻo dữ nữa,
nên Kinh nói: “Làm nhọc cho Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng phải trải qua nhiều số kiếp lo
lắng để cứu độ chúng nó”. Ví như có người nghe dạy  làm  lành sẽ được qủa báo
tốt, giữ 5 giới sẽ được tái sinh làm người đẹp đẽ, hưởng phú qúy, ít bệnh tật, sống ã

95

lâu; nhưng khi tái sinh làm người rồi thì trong lúc đó sống sung sướng như thế lại
bị  tham, sân,  tà kiến, mạn, đố kỵ v.v…  lôi kéo gây  tạo những việc ác độc, do đó
sau khi chết phải vào Địa Ngục vậy.  
     Những  câu  sau  của  đoạn  3 này  nêu ví  dụ  đại ý  như  có người  đi  lạc  vào  con
đường nguy hiểm có rất nhiều  thứ Quỉ Dạ Xoa, cùng hùm sói, sư  tử, rắn độc, bò
cạp sắp bị hại. Có một vị tri thức biết cách có thể trừ sự độc hại đó, cho đến có thể
trừ quỉ Dạ Xoa, các  loài  rắn độc v.v....chợt gặp người  lạc đường kia đang đi vào
con đường hiểm nạn, bèn vội  can mà nói về  các  sự độc hại  ấy, khiến người  lạc
đường đó, hiểu rõ con đường hiểm nạn. Rồi vị thiện tri thức dẫn dắt người lạc lối
đó ra khỏi đường hiểm nạn mà bảo rằng: “Từ nay về sau chớ có đi vào con đường
hiểm  nạn  đó  nữa,  nếu  vào  con  đường  hiểm  đó  ắt  khó  ra  khỏi,  còn  bị  hại  tánh
mạng”. Vị tri thức lại dặn thêm: “Trên đường đi nếu có gặp ai, thì bảo cho họ biết
con đường đó có rất nhiều độc hại đến tánh mạng, đừng để cho họ vào chỗ chết!” 
     Trên đây  là ví dụ  có  tính cách biểu  trưng, đường nguy hiểm ý nói  trong đời
sống hàng ngày có nhiều sự việc, có nhiều thứ xảy ra không tốt; Qủy Dạ Xoa biểu
trưng cho sự hung bạo tàn ác giết hại, mà sự bạo tàn giết hại là do lòng tham lam
của con người gây ra. Hùm, Sói, Sư tử tượng trưng cho sự giết hại mạng sống, mà
sự giết hại này do sân hận của con người tạo ra; Rắn độc, Bò cạp tượng trưng cho
sự ác độc làm hại người khác, mà sự ác độc là do những lời nói dối, nói đâm thọc,
nói thêu dệt, nói ác tạo ra đối với người khác. Tất cả những thứ đó đều là xấu ác,
mà con người thường làm để rồi gây nghiệp qủa xấu; Địa Tạng là biểu trưng cho
bản tâm tự tánh, bản tâm thanh tịnh, người có tâm thanh tịnh được ví như vị thiện
tri thức chỉ bảo cho người lạc đường không nên đi vào chỗ nguy hại. 
     Người  lạc  đường  là  những  người  tạo  ra một  hay  nhiều  việc  ác  như  vừa  nêu
trên, người lạc đường vì vô minh nên không biết việc mình làm là quấy ác. Không
biết  làm việc ác dù nhỏ cũng phải  trả qủa gấp  trăm nghìn  lần, như người vay nợ
phải trả tiền lời, thời gian càng lâu càng phải trả nhiều, nên kiếp sau trả nghiệp qủa
nặng nề là do ở điểm chí công bằng này. Người lạc đường tức người làm ác được
Địa Tạng  tức Thiện Tri Thức giảng giải chỉ bảo  sự nguy hiểm của việc  làm xấu
phải chịu nghiệp báo khổ sở, người này hiểu ra thì sợ hãi không dám làm ác nữa,
mà sám hối tội lỗi đã gây ra. Rồi ngưng làm ác chỉ làm lành, thì khi qua đời được
tái sinh đến chỗ  tốt  lành nơi cõi Trời hoặc Người hưởng phúc đẹp đẽ, giàu sang,
danh vọng, ít bệnh tật, sống lâu vậy. ã

96

4) QỦI VƯƠNG BÀY THIỆN NGUYỆN
- “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng con  là hàng Quỉ Vương số đông vô  lượng, ở  trong
cõi Diêm Phù Ðề, hoặc có vị  làm  lợi  ích cho người, hoặc có vị  làm  tổn hại cho
người mỗi mỗi đều không đồng nhau.
Nhưng vì nghiệp báo khiến quyến thuộc chúng con đi qua thế giới ác nhiều lành ít.
Ði qua sân nhà người, hoặc  thành ấp, xóm  làng,  trại vườn, buồng nhà,  trong đó
như có người trai kẻ gái nào tu được chút phước lành bằng mảy lông sợi tóc, cho
đến treo một  lá phan, một bảo cái, chút hương, chút hoa cúng dường  tượng Phật
cùng tượng Bồ tát, hoặc đọc tụng Tôn-kinh, đốt hương cúng dường một bài kệ một
câu kinh v.v...
Hàng Quỉ Vương chúng con cung kính làm lễ người đó như kính lễ các Ðức Phật
thuở quá khứ, đương hiện tại cùng lúc vị lai.
Chúng con truyền các hàng Tiểu Quỉ có oai lực lớn, và kẻ có phần chức trách về
cuộc đất đai đó, đều phải hỗ trợ giữ gìn, còn chẳng cho việc dữ cùng sự tai nạn bất
kỳ, bịnh  tật hiểm nghèo  thình  lình, cho đến những việc không vừa ý đến gần chỗ
của các nhà đó, huống là để vào cửa!”
Ðức Phật khen Quỉ Vương rằng: “Hay thay! Tốt thay! Các ông cùng với Vua Diêm
La có thể ủng hộ kẻ thiện nam người thiện nữ như thế! Ta cũng truyền cho các vị
trời Phạm Vương, Ðế Thích hộ vệ các ông”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ tư này, đại ý các Đại Qủy Vương trình thưa Đức Phật rằng họ gồm đủ
thành phần phụ  trách việc giúp đỡ chúng  sinh  làm  lành  thì  ít mà hành hạ chúng
sinh ác  thì nhiều vì người  làm  lành  thì  ít mà  làm ác  thì nhiều. Nhưng các vị Đại
Qủy Vương cùng tất cả các vị Tiểu Qủy đều ủng hộ người làm lành, bảo vệ người
thờ phụng Chư Phật và Chư Bồ Tát, nhất là cung kính hỗ trợ người giữ gìn giới của
Phật và tu hành chân chính. Đức Phật khen các Đại Qủy Vương và Vua Diêm La
trong việc ủng hộ cho các người  làm  lành, giữ giới và  tu hành, và Đức Phật bảo
Ngài cũng yêu cầu các vị Thiên Vương ủng hộ cho các Đại Qủy Vương được lợi
ích. ã

97

5) CHỦ MẠNG THƯA PHẬT
- Khi Ðức Phật nói  lời ấy xong,  trong Pháp hội có một vị Quỉ Vương  tên  là Chủ
Mạng bạch cùng Ðức Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Bổn nghiệp duyên của con là cai quản về tuổi thọ của người
trong  cõi Diêm  Phù Ðề,  khi  sanh  khi  tử  con  đều  coi  biết  đó,  cứ  theo  nơi  bản
nguyện của con thời có lợi ích rất lớn cho mọi người.
Nhưng tại vì chúng sanh không hiểu ý con nên đến nỗi khi sanh khi tử đều không
được an ổn; tại làm sao thế?
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ năm này đại ý có vị Đại Chủ Mạng Qủy Vương trình thưa Đức Phật
rằng ông  là người phụ  trách giúp việc sinh  ra chết đi,  tuổi sống  lâu mau của con
người, nhưng ông không hiểu do nguyên nhân gì mà con người khi sinh ra và lúc
chết thường đều có tâm hoảng hốt sợ hãi không được an ổn là tại sao?
6) KHI SINH NỞ NÊN LÀM LÀNH TRÁNH ÁC
Chủ Mạng Qủy Vương thưa tiếp:
- Người trong cõi Diêm Phù Ðề lúc mới sinh, không luận là con trai hay con gái,
khi sắp sanh ra chỉ nên làm việc phước lành thêm sự lợi ích cho nhà cửa, thời Thổ
Ðịa vui mừng không xiết, ủng hộ cả mẹ  lẫn con đều đặng nhiều sự an vui, hàng
thân quyến cũng được phước lợi.
Hoặc khi đã hạ sanh rồi, nên cẩn thận chớ có giết hại sinh vật để lấy những vị tươi
ngon cung cấp cho người sản mẫu ăn, cùng nhóm họp cả hàng quyến thuộc lại để
uống  rượu ăn  thịt, ca xang đờn  sáo, nếu  làm những việc  trên đó có  thể  làm cho
người mẹ đứa con chẳng đặng an vui.
Vì sao thế? Vì lúc sanh sản nguy hiểm đó có vô số loài quỉ dữ cùng ma quái tinh
mị muốn ăn huyết tanh.
Nhờ có con sớm đã sai các vị Thần Linh xá trạch Thổ Ðịa, bảo hộ mẹ con người
ấy, làm cho được an vui mà đặng nhiều lợi ích. ã

98

Người ấy thấy mình được an ổn, thời đáng lẽ nên làm việc phước lành để đền đáp
công ơn Thổ Ðịa, mà trái lại giết hại loài sinh vật, hội họp thân quyến, vì lẽ này,
đã phạm tội lỗi tất phải tự thọ lấy tai vạ, mẹ con đều tổn.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn  thứ 6 này, Chủ mạng Qủy Vương  thưa với Đức Phật đại ý  rằng: Người
khi đang sinh đẻ hay sau khi sinh xong chỉ nên làm lành, và tránh làm việc ác thì sẽ
được qủy thần giúp đỡ, nếu giết súc vật và làm ác thì sẽ tạo cơ hội cho vô số loài
Quỉ dữ cùng Ma quái tinh mị đến quấy phá làm hại cả mẹ lẫn con.
7) LÚC CHẾT NÊN TU PHƯỚC
- Lại người trong cõi Diêm Phù Ðề đến lúc mạng chung, không luận là người lành
hay kẻ dữ, con cũng đều muốn cho họ không bị đọa lạc vào chốn ác đạo.
Huống gì là người lúc sanh tiền biết tu tạo cội phước lành giúp thêm oai lực cho
con.
Trong cõi Diêm Phù Ðề, những người làm lành đến lúc mạng chung cũng còn có
trăm nghìn quỉ  thần ác đạo hoặc biến  ra hình cha mẹ, nhẫn đến hóa  làm người
thân quyến dắt dẫn thần hồn người chết làm cho đọa lạc vào chốn ác đạo, huống
chi là những kẻ lúc sanh tiền đã sẵn tạo nghiệp ác.
Bạch đức Thế-Tôn! Những kẻ nam tử nữ nhân ở cõi Diêm Phù Ðề, lúc lâm chung
thời  thần  thức  hôn mê  không  biện  được  lẽ  lành  điều  dữ,  cho  đến mắt  cùng  tai
không còn thấy nghe gì hết.
Hàng thân quyến của người  lâm chung đó, nên phải sắm sửa làm sự cúng dường
lớn,  tụng đọc Tôn Kinh, niệm danh hiệu của Phật và Bồ Tát,  tu  tạo nhân duyên
phúc lành như thế, có thể cho người chết thoát khỏi chốn ác đạo, các thứ ma, quỉ,
ác thần thảy đều phải lui tan cả hết.
Bạch đức Thế-Tôn! “Tất cả chúng sanh  lúc  lâm chung nếu được nghe danh hiệu
của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát, hoặc nghe một câu một bài kệ kinh
điển đại  thừa, con xem xét  thấy hạng người ấy,  trừ năm  tội Vô Gián cùng  tội sát
hại, những nghiệp ác nho nhỏ đáng  lẽ phải  sa  vào  chốn ác đạo,  liền được  thoát
khỏi cả”. ã

99

GIẢI NGHĨA
     Đoạn 7 này, Chủ Mạng Đại Qủy Vương trình thưa tiếp, đại ý rằng: Chủ Mạng
mong muốn mọi chúng sinh được sinh vào chỗ tốt không kể người đó đã làm thiện
hay làm ác; nhưng dù người làm thiện, đến lúc qua đời cũng vẫn còn bị vô số qủy
thần ác giả làm cha mẹ hay người thân qúa cố đến dẫn dắt vào chốn ngạ qủy, nói
chi là người đã  thường làm ác  thì càng dễ dàng đọa vào đường dữ. Khi có người
qua đời, thì thân quyến không nên làm ác và giết hại chúng sinh, nếu làm ác và giết
hại  sinh vật  sẽ khiến  cho người  chết  chịu khổ  sở nhiều hơn; ngược  lại, nên  làm
thiện, không sát sinh thì dù có tội nhỏ đáng lý phải chịu đọa vào cõi dữ, thì cũng
được  thoát khỏi. Còn người  trong đời đã  thường  làm  thiện mà  lúc qua đời được
người thân làm thiện và không sát sinh, thì người ấy được nhiều lợi lạc hơn, được
tái sinh nơi tốt đẹp hơn.
     Sau  chót, ngài Chủ Mạng  thưa Phật: “Tất  cả  chúng  sanh  lúc  lâm  chung  nếu
được nghe danh hiệu của một Ðức Phật, danh hiệu của một Bồ Tát, hoặc nghe một
câu một bài kệ kinh điển đại thừa, con xem xét thấy hạng người ấy, trừ năm tội Vô
Gián cùng tội sát hại, những nghiệp ác nho nhỏ đáng lẽ phải sa vào chốn ác đạo,
liền được thoát khỏi cả”. Nghĩa là Tất cả chúng sinh lúc qua đời nếu suy gẫm về sự
tu hành và công đức khi được nghe danh hiệu của một vị Phật hay một vị Bồ Tát,
suy nghĩ nghĩa lý khi được nghe một bài Kinh hay bài Kệ, rồi từ đó tán thán công
đức của các Ngài, sám hối các việc làm sai quấy, thì ngoại trừ tội sát sinh qúa nặng
và tội Ngũ nghịch ra, còn các tội nhỏ nhặt khác đều có thể tránh phải tái sinh vào
nơi khổ sở vậy.
8). ÐỨC PHẬT CĂN DẶN
- Ðức Phật bảo Chủ Mạng Quỉ Vương  rằng: “Ông vì có  lòng đại  từ nên có  thể
phát ra lời nguyện lớn ở trong sanh tử cứu hộ chúng sanh như thế.
Như về trong đời sau này, có kẻ nam người nữ nào đến lúc mạng chung, ông chớ
quên lãng lời nguyện trên đó, đều nên làm cho giải thoát mãi mãi được an vui”.
Chủ Mạng Quỉ Vương bạch cùng Ðức Phật rằng: “Xin đức Thế-Tôn chớ lo! Trọn
đời của con luôn luôn ủng hộ chúng sanh ở cõi Diêm Phù Ðề lúc sanh lúc tử đều
làm cho được an vui cả. ã

100

Chỉ trông mong các chúng sanh trong lúc sanh cùng lúc tử, tin theo lời của con đã
nói trên thời đều giải thoát được lợi ích lớn”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ 8 này, Đức Phật khen  Chủ Mạng Qủy Vương có lòng đại từ cứu hộ
chúng  sinh, Ngài khuyên Chủ Mạng nên  tiếp  tục giúp  chúng  sinh và Chủ Mạng
Qủy Vương hứa trọn đời làm việc giúp đỡ chúng sinh lúc sinh ra cũng như khi qua
đời. Chủ Mạng Qủy Vương lưu ý mọi người trong lúc có thân nhân sinh nở cũng
như khi có người qua đời nên làm lành tránh làm ác, để những người sinh nở được
hưởng sự lợi lạc khỏe mạnh cả mẹ lẫn con và người qua đời thoát khỏi cảnh khổ ở
kiếp sau. 
9). ÐỨC PHẬT THỌ KÝ CHO CHỦ MẠNG
- Bấy giờ Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng rằng: “Vị đại Quỉ Vương cai quản
về tuổi thọ của mọi người đây đã từng trải qua trăm nghìn đời làm vị Quỉ Vương,
ủng hộ chúng sanh trong lúc sanh cùng khi tử.
Ðó là bực Bồ Tát Ðại Sĩ vì lòng từ bi phát nguyện hiện thân đại Quỉ chớ thiệt thời
không phải Quỉ.
Quá một  trăm bảy mươi kiếp  sau, ông đó  sẽ được  thành Phật hiệu  là Vô Tướng
Như Lai, kiếp đó tên là An Lạc. Cõi nước tên là Tịnh Trụ, thọ mạng của đức Phật
đó đến số kiếp không thể tính đếm được.
Này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Những sự của vị đại Quỉ Vương đó không thể nghĩ bàn như
thế, hàng Trời cùng người được vị ấy độ thoát cũng đến số không thể hạn lượng”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn  thứ 9 này, Đức Phật bảo Bồ Tát Địa Tạng  rằng Chủ Mang Qủy Vương
không phải là Qủy mà là Bồ Tát phát nguyện hiện thân Đại qủy để cứu giúp chúng
sinh. Rồi Đức Phật  thọ ký cho Chủ Mạng Qủy Vương, Ngài nói: “Quá một trăm
bảy mươi kiếp sau, ông đó sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tướng Như Lai, kiếp đó
tên  là An Lạc. Cõi nước  tên  là Tịnh Trụ,  thọ mạng của đức Phật đó đến số kiếp
không  thể  tính đếm được”. Trải qua một  trăm bảy mươi kiếp sau, một kiếp bằng
168 triệu năm, nhân với 170 kiếp là 28,560 triệu năm, tức 28 tỷ 560 triệu năm, tức ã

101

còn khoảng thời gian qúa xa là trên 21 Đại kiếp nữa sẽ thành Phật hiệu Vô Tướng
trong kiếp an lạc, tại cõi Tịnh Trụ, tuổi thọ vô lượng kiếp, độ cho Trời Người vô số
không thể tính đếm. Dù thời gian thành Phật của Ngài Chủ Mạng Qủy Vương lâu
xa như thế, nhưng vẫn còn hơn chúng ta rất xa, vì chúng ta còn phải trôi lăn trong
sinh tử luân hồi, không thể biết được tới ngày nào mới được Chư Phật thụ ký trước
cho ngày sẽ thành Phật, chứ chưa nói tới ngày thành Phật vậy.
     Chúng ta lại thấy có một biểu trưng cần phải tỏ rõ, đó là: Chủ Mạng có nghĩa là
Tâm Thức, là Thần Thức, là Ông Chủ của sinh mệnh; Qủy Vương tượng trưng cho
việc làm đại ác; Vô Tướng Như Lai biểu trưng cho Tâm giác ngộ trong lặng chiếu
sáng mà không có hình  tướng gì cả; Kiếp an  lạc  là đời  thanh  thản; cõi Tịnh Trụ
tượng trưng cho sự tịch tịnh bất động.
     Đây là biểu trưng cho Tâm, đối với chúng sinh chúng ta thấy rằng: Khi chết thì
Thần Thức mang theo Nghiệp Thức ra khỏi thân xác và theo nghiệp mà đi tái sinh,
đi  gá  vào  tinh  cha  huyết mẹ  để  làm  thành  đời  sống mới  phải mang.  Tùy  theo
nghiệp tốt hay xấu mà được ở cõi tốt hay phải đọa cõi xấu và có cái thân mới đẹp
đẽ hay xấu xa, v.v…. Nếu gây nghiệp đại ác thì Tâm thức nặng nề ắt phải bị chìm
đắm vào Địa Ngục, nếu tránh ác làm lành lại có tu hành tới mức thì đạt được Tâm
thức nhẹ nhàng sẽ lên các cõi Trời, hoặc đạt tâm tịch tĩnh sẽ an trụ ở cõi Tịnh. 
     Một điều thấy rõ ở đây là dù có cái Tâm đại gian ác (Đại Qủy), đã gây ra bao
nhiêu tội lỗi mà cái Tâm biết lỗi rồi sám hối, tránh làm ác chỉ làm lành, giữ giới tu
hành tới nơi tới chốn, thì sẽ đạt được tâm trong sạch thanh tịnh và trong tương lai
sẽ có ngày thành Phật. Thành Phật rồi thì sẽ giáo hóa độ cho vô lượng chúng sinh,
đó là ý nghĩa Đức Phật Phó chúc Chủ Mạng Qủy Vương thành Phật; như thế thì dù
ai đã làm ác đi nữa mà biết quay đầu lại tu hành đúng đắn đều sẽ thành Phật. Cũng
vì những lẽ đó cho nên Đức Phật nói: “Này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Những sự của vị đại
Quỉ Vương đó không  thể nghĩ bàn như  thế, hàng Trời cùng Người được vị ấy độ
thoát cũng đến số không thể hạn lượng” là vậy.
*
*     *



 ã

102

PHẨM THỨ CHÍN:
XƯNG DANH HIỆU CHƯ PHẬT

Lúc đó Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Nay
con vì chúng sanh trong đời sau mà phô bày sự lợi ích, làm cho trong vòng sinh tử
được nhiều lợi ích lớn. Cúi xin đức Thế-Tôn cho phép con nói đó”.
Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng rằng: “Nay ông muốn khởi lòng từ bi cứu vớt
tất  cả  chúng  sanh mắc phải  tội  khổ  trong  sáu đường, mà diễn nói  sự  chẵng  thể
nghĩ bàn, bây giờ chính đã phải lúc, vậy ông nên nói ngay đi.
Giả sử ông có thể sớm làm xong nguyện đó, Ta dầu có vào Niết Bàn, cũng không
còn phải lo ngại gì đến tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai nữa”.
Ngài Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đứcThế-Tôn! Vô  lượng vô kiếp
về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Vô Biên Thân Như Lai.
Như có người nam người nữ nào nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà  tạm  lời
sinh  lòng  cung  kính,  liền  đặng  siêu  việt  tội  nặng  sanh  tử  trong  bốn mươi  kiếp,
huống là vẽ đắp hình tượng cúng dường tán thán! 
Người này được vô lượng vô biên phước lợi.
Lại hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Bửu Thắng Như
Lai.
Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát tâm
quy y với Phật  trong khoảng khảy móng  tay, người này  trọn hẳn không còn  thối
chuyển nơi đạo vô thượng chánh giác.
Lại về thuở quá khứ, có đức Phật ra đời hiệu là Ba Ðầu Ma Thắng Như Lai.
Như có người nam người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua
lỗ tai, người này sẽ được một nghìn lần sinh lên sáu từng trời cõi dục, huống nữa
là chí tâm xưng niệm!
Lại bất khả thuyết bất khả thuyết vô số kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời
hiệu là Sư Tử Hống Như Lai. ã

103

Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, mà phát
tâm quy y chừng  trong một niệm, người này sẽ đặng gặp vô  lượng các Ðức Phật
xoa đảnh thọ ký cho.
Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai.
Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của đức Phật đây, chí  tâm
chiêm ngưỡng lễ bái hoặc lại tán thán, người này nơi pháp hội của một nghìn Ðức
Phật trong hiền kiếp (1) làm vị đại Phạm Vương, đặng Phật thọ ký đạo vô thượng
cho.
Lại về thuở quá khứ, có Ðức Phật ra đời hiệu làTỳ Bà Thi Như Lai.
Như có người nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi
không còn sa đọa vào chốn ác đạo, thường được sanh vào chốn trời người, hưởng
lấy sự vui thù thắng vi diệu.
Lại vô lượng vô số hằng hà sa kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ða
Bửu Như Lai.
Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, liền khỏi
đọa vào ác đạo, thường ở tại cung trời hưởng sự vui thù thắng vi diệu.
Lại về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu Bửu Tướng Như Lai.
Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây, sanh lòng
cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đặng quả A La Hán.
Lại vô lượng vô số kiếp về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ca Sa Tràng
Như Lai.
Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây, thời
người ấy sẽ siêu thoát tội sanh tử trong một trăm đại kiếp.
Lại về thuở quá khứ có Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai.
Như  có  người  nam  người  nữ  nào  nghe  đến  danh  hiệu  của Ðức  Phật  đây,  thời
người này đặng gặp hằng hà chư Phật nói nhiều pháp mầu cho, đều đặng  thành
đạo Bồ Ðề. ã

104

Lại  về  thuở  quá  khứ,  có  đức  Tịnh  Nguyệt  Phật,  đức  Sơn  Vương  Phật,  đức  Trí
Thắng Phật, đức Tịnh Danh Vương Phật, đức Trí ThànhT ựu Phật, đức Vô Thượng
Phật, đức Diệu Thinh Phật, đức Mãn Nguyệt Phật, đức Nguyệt Diện Phật, có bất
khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế.
Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng thuở vị lai: hoặc là Trời, hoặc là người,
hoặc người nam, hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một Ðức Phật thôi,
sẽ được vô lưông công đức, huống nữa là niệm được nhiều danh hiệu.
Những chúng sanh đó  lúc sanh  lúc  tử đặng nhiều phước  lợi, không còn phải đọa
vào ác đạo nữa.
Như  có  người  nào  sắp mạng  chung,  hàng  thân  quyến  trong  nhà  nhẫn  đến một
người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm  lớn  tiếng danh hiệu của một Ðức Phật,
thời người chết đó, trừ năm tội lớn vô gián, các nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả.
Năm  tội  lớn vô gián kia dầu  rất nặng nề đáng  lẽ  trải qua ức kiếp hẳn không  ra
khỏi đặng quả khổ, nhưng bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì đó mà xưng niệm
danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu sạch.
Huống  là  chúng  sanh  tự mình  xưng danh hiệu  củachư Phật,  người  này đặng  vô
lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ.
GIẢI NGHĨA
 (1) Hiền Kiếp  (Bhadra-kalpa):  Kiếp  là một  thời kỳ, có đại kiếp,  trung kiếp,  tiểu
kiếp. Hiền Kiếp là trong thời gian còn lại của đại kiếp này, Đức Phật Thích Ca là vị
thứ tư, Phật Di Lặc sẽ ra đời khoảng 8 triệu 800 nghìn năm nữa là vị thứ năm, sau
đó sẽ còn 996 vị Phật sẽ lần lượt ra đời ở cõi này suốt trong thời gian nửa đại kiếp
sau của đại kiếp này, tức trong 667 triệu năm (đại kiếp = 1 tỷ 334 triệu năm). 
     Phẩm thứ chín này, Bồ Tát Địa Tạng vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh, nên
xin Đức Phật cho phép được nói phương cách làm cho chúng sinh đang trong vòng
sinh  tử được  lợi  ích. Với  sự  tin  tưởng  và  chấp  thuận  của Đức Phật, Bồ Tát Địa
Tạng nêu  ra một  số danh hiệu Chư Phật và bảo chúng  sinh nếu được nghe danh
hiệu  hoặc  tán  thán  hoặc  cung  kính, hoặc  quy  y,  hoặc  chiêm  ngưỡng, hoặc  niệm
danh hiệu v.v… thì sẽ được vô số lợi ích không thể nghĩ bàn. ã

105

     Ở đây, chúng ta thấy cũng lại là những lời Ngài Địa Tạng dạy đều có tính cách
biểu  trưng, nào  là vô  lượng kiếp về qúa khứ, vô biên  thân Như Lai, vô  lượng vô
biên phước  đức, Hằng  hà  xa kiếp  về  trước, bất  khả  thuyết  vô  số kiếp  trong qúa
khứ, v.v…;  toàn  là những  cái vô  cùng vô  tận, không  thể nghĩ bàn được, mà  cái
không  thể suy nghĩ tới đó là cái gỉ? Đó  là biểu trưng của Bản Tâm Tự  tánh, Phật
tánh,  là Đạo Vô Thượng Chính Giác; mỗi  thân chúng sinh đều có Bản Tâm Phật
tánh, mà chúng sinh  thì vô  lượng vô biên, nên nói vô biên  thân Như Lai vì mỗi
thân chúng sinh đều có thân Như Lai vậy. Khi đã được chỉ bày rồi mà sinh lòng tin
tưởng mà tu hành thì sẽ khỏi bị sinh nơi khổ sở, nên Ngài nói: “Như có người nam
người nữ nào nghe danh hiệu của Đức Phật đây mà tạm lời sanh lòng cung kính,
liền được siêu việt  tội nặng sinh  tử  trong bốn mươi kiếp”. Nếu chăm chỉ  tu hành
mọi mặt như làm lành tránh làm ác, hành trì Lục Độ v.v… thì sẽ có vô lượng công
đức, nên Ngài nói: “Huống là vẽ đắp hình tượng cúng dường tán thán! người này
được vô lượng vô biên phước lợi”
     Bản Tâm Phật tánh thì vô cùng khó thấy khó biết, nó là cái ngoài suy tưởng của
chúng sinh; cái đó vô cùng hiếm qúy để thấy được, không có cái gì qúy bằng, đây
là ý nghĩa “Phật hiệu Bửu Thắng” mà Bồ Tát Địa Tạng nói đó. Khi đã nghe đã
biết  cái  qúy  giá  như  thế  rồi  thì  phải  phát  tâm  cung  kính  quy  y  nơi  Phật  đạo  vô
thượng, nghĩa là cung kính nhận chịu phục tùng hành trì theo mà không đi theo ngả
tà đạo nào khác thì sẽ không bị lạc đường. Đó là ý nghĩa của câu: “Như có người
nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, phát  tâm quy  y  với
Phật trong khoảng khảy móng tay, người này trọn hẳn không còn thối chuyển nơi
đạo vô thượng chánh giác”.
     Ðức Phật ra đời hiệu là Ba Đầu Ma Thắng Như Lai: Ba Đầu Ma nghĩa là hoa
sen đỏ, lửa đỏ, Thắng là lấy sức mà khuất phục; mà màu đỏ tương trưng cho tinh
tấn, Như Lai là Phật là Giác là biết; Ba Đầu Ma Thắng Như Lai nghĩa là biết rằng
muốn đạt được cái qúy vô lượng thì phải dùng sức tinh tấn mà khuất phục tính lười
biếng, tinh tấn cái gì? Tinh  tấn  làm  lành, tránh  làm ác, giữ giới,  tu hành để khuất
phục tính tham, sân, ác kiến, ngạo mạn, ái dục, vọng ngữ, đố kỵ, ganh tị v.v…; nếu
người  nào  nghe  được mà  vui mừng  thực  hành  không  quên  thì  có  thể  được  giải
thoát, nói chi là sinh lên các cõi Trời. Đây là hàm ý trong câu: “Như có người nam
người nữ nào, nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây thoát qua lỗ tai, người này sẽ
được một  nghìn  lần  sinh  lên  sáu  từng  trời  cõi  dục,  huống  nữa  là  chí  tâm  xưng ã

106

niệm!” mà “thoát qua lỗ tai” nghĩa là nghe hiểu vâng làm, “chí tâm xưng niệm”
nghĩa là một lòng nhớ mãi không quên tu.
     Ðức Phật ra đời hiệu  là Sư Tử Hống Như Lai: Sư Tử ở đây không phải với
nghĩa Sư Tử rống lên mọi loài nghe thấy đều kinh sợ tượng trưng cho uy lực đâu,
mà  hàm  ý  khác, Sư  là vị  thầy  là Thiện Tri Thức, Tử  là người  đệ  tử, người  học
pháp; Sư Tử là thầy trò, người dạy và kẻ học đạo; Hống là tiếng vang. Nếu người
học đạo gặp được vị Thiện Tri thức thầy dạy mà phát tâm cung kính muốn học đạo
muốn tu hành thì sẽ được dạy bảo vô số điều bổ ích qúy giá, khi siêng năng tu hành
thì dần dần sẽ  tiến  tới giải  thoát và sẽ được gặp vô số chư Phật; đó  là biểu  trưng
của câu: “Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật đây,
mà phát  tâm quy  y  chừng  trong một niệm, người này  sẽ được gặp vô  lượng  các
Ðức Phật xoa đầu thọ ký cho”. 
     Ðức Phật ra đời hiệu là Câu Lưu Tôn Như Lai: Câu là đương sức mạnh, xét
lại, hạn chế, Lưu là dừng lại, để lại, Tôn là qúy trọng; Câu Lưu Tôn tượng trưng
cho sự biết tự hạn chế mình mà tôn trọng qúy kính vị Thầy để học hỏi tu hành, thì
trong kiếp hiện tại cho tới nhiều kiếp tiếp nối (Hiền kiếp) sẽ làm Đại Phạm Thiên
Vương,  tới khi đủ số 1000 Đức Phật  tiếp nối ra đời sẽ được  thọ ký. Đó  là hàm ý
trong  câu: “Như  có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu  của đức Phật
đây, chí  tâm chiêm ngưỡng  lễ bái hoặc  lại  tán  thán, người này nơi pháp hội của
một nghìn Ðức Phật trong hiền kiếp làm vị đại Phạm Vương, được Phật thọ ký đạo
vô thượng cho”.
     Ðức Phật ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai: Tỳ là giúp đỡ, Bà là có, Thi là chủ
trì,  làm  ra; Tỳ Bà Thi Như Lai  có  nghĩa  là  với  sự  giúp đỡ  của Thiện Tri Thức
trong việc  tu hành  thì không  còn bị đọa  sinh vào Địa Ngục, Ngạ Qủy, Súc  sinh
nữa, mà được an vui nơi các cõi lành. Đó là biểu trưng trong câu: “Như có người
nam người nữ nào được nghe danh hiệu của Ðức Phật đây, thời mãi không còn sa
đọa vào chốn ác đạo, thường được sanh vào chốn trời người, hưởng lấy sự vui thù
thắng vi diệu”.
     Ðức Phật ra đời hiệu là Ða Bảo Như Lai: Đa là nhiều là khen ngợi, Bảo là giữ
gìn, qúy báu; Đa Bảo Như Lai là biết luôn luôn khen ngợi làm lành tránh làm ác,
giữ gìn giới đức và không quên  tu hành  thì được  sinh  lên cõi Trời hưởng  sự  tốt
đẹp. Do đó được hàm ý  trong  câu: “Như  có người nam người nữ nào nghe đến ã

107

danh  hiệu  của Ðức Phật  đây,  liền  khỏi  đọa  vào  ác  đạo,  thường  ở  tại  cung  trời
hưởng sự vui thù thắng vi diệu”.
     Ðức Phật ra đời hiệu Bảo Tướng Như Lai: Bảo là giữ gìn, chăm sóc, qúy báu,
Tướng  là  trạng mạo, giúp cho,  lựa  chọn; Bảo Tướng Như Lai nghĩa  là biết  lựa
chọn cách tu và luôn luôn nhớ tu hành thì sẽ có ngày chứng qủa. Do đó biểu trưng
trong câu: “Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật
đây, sinh lòng cung kính, không bao lâu người ấy sẽ đạt quả A La Hán”.
     Ðức Phật  ra  đời  hiệu  là Ca  Sa Tràng Như Lai: Cà  Sa  là  áo  của  người  tu,
Tràng là trường là dài; Cà Sa Tràng Như Lai là biết mặc áo của người tu, ý nói là
người chân tu, mà đã chân tu thì chắc chắn sẽ được giải thoát, khi đã giải thoát thì
không còn sinh tử vĩnh viễn, nói 100 đại kiếp là còn ngắn vậy. Đó là hàm ý trong
câu: “Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của Ðức Phật trên đây,
thời người ấy sẽ siêu thoát tội sinh tử trong một trăm đại kiếp”.
     Ðức Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Sơn Vương Như Lai: Đại là to lớn, lời tôn
xưng, Thông là nghe hiểu, hiển đạt vẻ vang, Sơn là núi, Vương là vua, có ý nghĩa
được quy phục; Ðại Thông Sơn Vương Như Lai nghĩa  là người chân  tu  tu hành
kiên cố thì sẽ khắc phục mọi trở ngại để đạt tâm thanh tịnh. Tiếp tục tu hành vững
vàng như núi cho đến khi được Tam muội Như huyễn, sẽ đạt được năng lực to lớn
là ý đi đâu thân đi đó, lúc đó sẽ đến các cõi Phật ở 10 phương để học Phật. Đó là
biểu  trưng  trong câu: “Như có người nam người nữ nào nghe đến danh hiệu của
Ðức Phật đây,  thời người này được gặp hằng hà Chư Phật nói nhiều pháp mầu
cho, đều được thành đạo Bồ Ðề”.
     Lại có Đức Tịnh Nguyệt Phật  là biểu  trưng biết giữ  tâm được  thanh  tịnh  lâu
dài, Đức Sơn Vương Phật là biểu trưng có tâm quy phục vững như núi, Đức Trí
Thắng Phật  là biểu  trưng biết  trau dồi  trí  tuệ  tối  thắng. Đức Tịnh Danh Vương
Phật  là biểu  trưng không còn bị danh  lợi  lôi kéo ràng buộc nữa, Đức Trí Thành
Tựu Phật  là biểu trưng đạt được tính chân  thật. Đức Vô Thượng Phật  là phải  tu
hành để đạt được giác ngộ tối cao, Đức Diệu Thinh Phật là biết tu để đạt được sự
nghe vi diệu của tâm. Đức Mãn Nguyệt Phật là biết tu hành để đạt được công đức
đầy đủ, Đức Nguyệt Diện Phật  là  tu hành để đạt được công đức  tròn đầy; có bất
khả thuyết Ðức Phật Thế-Tôn như thế, nghĩa là có vô lượng điều để tu. ã

108

     Chúng ta thấy mỗi danh hiệu của một Đức Phật đều là biểu trưng của một hạnh,
một cách mà người tu hành cần phải áp dụng hành trì để đạt được tâm thanh tịnh
và  tiến  tới  giải  thoát;  như  thế  thì  những  lời  như  cung  kính,  lễ  bái,  v.v…  chỉ  là
tượng trưng mà thôi.
     Ngài nói: “Tất cả chúng sanh trong thời hiện tại cùng thuở vị lai: hoặc là Trời,
hoặc là người, hoặc người nam, hoặc người nữ chỉ niệm được danh hiệu của một
Ðức Phật  thôi, sẽ được vô  lượng công đức, huống nữa  là niệm được nhiều danh
hiệu”. Câu này có ý nghĩa biểu trưng  là bất cứ ai từ hàng Trời cho tới Người chỉ
cần nhớ (niệm) tu theo một vị Phật sẽ được vô số công đức, nói chi là nhớ tu theo
nhiều vị Phật, chúng ta không nên hiểu chữ niệm là niệm lạy, mà là “nhớ” tu hành,
đây mới là ý nghĩa chân thật vậy. Do đó Ngài nói: “Những chúng sanh đó lúc sinh
lúc tử được nhiều phúc lợi, không còn phải đọa vào ác đạo nữa”. 
     Ngài Địa Tạng nói  tiếp rằng: “Như có người nào sắp mạng chung, hàng  thân
quyến trong nhà nhẫn đến một người vì người bịnh sắp chết đó mà niệm lớn tiếng
danh  hiệu  của một Ðức Phật,  thời  người  chết  đó,  trừ  năm  tội  lớn  vô  gián,  các
nghiệp báo khác đều tiêu sạch cả”. Nghĩa là khi người nào đã có tu hành dù chưa
tới nơi tới chốn vì người bị bệnh sắp chết, mà kiên trì nhắc nhở nói giảng (ý nghĩa
của niệm lớn tiếng) giáo pháp của Phật (biểu trưng danh hiệu của một vị Phật); ví
dụ  như  khuyên  buông  bỏ  công  danh  phú  qúy,  thôi  tiếc  của  cải  tài  sản,  dứt  tâm
quyến luyến người thân v.v…. Khiến cho tâm thức của người bệnh theo đó mà an
ổn để  tâm được  thanh  tịnh  thì có  thể  tạm  thời hóa giải được các nghiệp báo nhẹ,
ngoại trừ nghiệp Vô Gián nặng nề.
     Ngài nói  tiếp: “Năm  tội  lớn vô gián kia dầu  rất nặng nề đáng  lẽ  trải qua ức
kiếp hẳn không ra khỏi đặng quả khổ, nhưng bởi lúc lâm chung, nhờ người khác vì
đó mà xưng niệm danh hiệu của Phật cho nên những tội nặng đó cũng lần lần tiêu
sạch”. Dù là người có tội đại ác, dù là người có tội Vô Gián, mà khi qua đời được
người khác giảng nói các giáo pháp của Phật, tức là các cách dẫn tâm thức ra khỏi
tâm ác, hướng tâm thức vào nẻo thiện, để đưa tâm thức vào thanh tịnh, thì dù có bị
đọa Địa Ngục, cũng được nhẹ nhàng hơn và ngày ra khỏi nơi khổ ải ấy được ngắn
hơn vậy.
     Sau  chót Ngài  nói:  “Huống  là  chúng  sinh  tự mình  xưng  danh  hiệu  của Chư
Phật, người này được vô lượng phước lành, trừ diệt vô lượng khổ”. Đây  là ý nói ã

109

nếu mọi người tự tu theo giáo pháp của Phật ngay khi còn khỏe mạnh thì được vô
số  lợi  ích phúc  lành, mà  trừ được vô  lượng khổ, vì  tu  ít  thì phúc  ít,  tu nhiều  thì
phước nhiều, tu tới mức thì được giải thoát, tức là thoát khổ. Không nên hiểu theo
nghĩa hạn hẹp là chỉ cần xưng niệm danh hiệu Phật là được tất cả những điều mong
muốn; nếu hiểu như thế là rơi vào Thần quyền, mà Đức Phật trước khi nhập Niết
Bàn đã nói với bốn chúng  là: “Các đệ  tử, hãy  tự  thắp đuốc  lên mà đi”,  thì việc
cầu xin ỷ lại là không đúng. Nếu ỷ lại vào Thần quyền mà đúng thì các Tôn Giả A
Nan Đà là em, La Hầu La là con của Đức Phật đều chẳng cần tu hành sao? 
KỆ BẢN NGUYỆN ĐỊA TẠNG

Bản hạnh Ðịa Tạng, 
Thệ nguyện rộng sâu, 
Gậy vàng châu sáng độ chúng sanh, 
Ðịa ngục khổ không ngằn, 
Tinh tấn kiền thành, 
Khỏi mắc khổ trầm luân. 
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp. (3 lần) 
Nam mô Ðịa Tạng Bồ Tát Ma-ha-Tát. (3 lần)

GIẢI NGHĨA
     Đại ý bài Kệ này nói Bản nguyện của Bồ Tát Địa Tạng là dùng Tích Trượng và
Châu sáng để độ chúng sinh khỏi Địa Ngục khổ sở; đây là tiêu biểu rằng nếu có cái
Tâm (Địa Tạng) thệ nguyện rộng lớn, thì phải thực hành lời nguyện của mình ngay
trong Tâm và tu hành tinh tấn vững bền. Khi dẹp được Tứ Đế, phá được 12 Nhân
Duyên, diệt được 6 Căn dính mắc 6 Trần, thì được giải thoát khỏi khổ (ví như dùng
gậy  vàng phá  tan  cửa  địa ngục). Lúc  đó  sẽ hết  tâm  chúng  sinh,  được  tâm  thanh
tịnh, có tâm thanh tịnh thì đạt trí tuệ, có trí tuệ thì sẽ đạt giải thoát, tức là chân tâm
Phật  tính hiển lộ (tượng  trưng cho Châu sáng); đây  là đã độ hết chúng sinh trong
Tâm mình, do đó khỏi mắc khổ trầm luân vậy.
QUYỂN TRUNG HẾT
*
*    *


 ã

110

QUYỂN HẠ

PHẨM THỨ MƯỜI:
SO SÁNH NHÂN DUYÊN 
CÔNG ĐỨC CỦA SỰ BỐ THÍ

Lúc đó Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng ma-ha-tát nương oai thần của đức Phật, từ chỗ ngồi
đứng dậy, quì gối chắp tay bạch cùng đức Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh trong nghiệp đạo so sánh về sự bố
thí có nhẹ có nặng. Có người hưởng phước trong một đời, có người hưởng phước
trong mười đời, hoặc đến hưởng phước lợi lớn trong trăm đời, nghìn đời.
Những sự ấy tại làm sao thế? Cúi xin đức Thế-Tôn dạy cho”.
Bấy  giờ Ðức  Phật  bảo  Ngài  Bồ  Tát Ðịa-Tạng  rằng:  “Nay  ta  ở  trong  toàn  thể
chúng hội nơi cung trời Ðao Lợi này giảng về sự so sánh công đức khinh trọng của
việc bố thí ở Diêm Phù Ðề. Ông phải lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng bạch cùng Ðức Phật rằng: “Chính con nghi ngờ về việc ấy.
Con xin ưa muốn nghe”.
Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng rằng: 
“Trong cõi Nam Diêm Phù Ðề có các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn,
hàng đại Trưởng Giả, hàng đại Sát Ðế Lợi, hàng đại Bà La Môn v.v...
Nếu gặp kẻ hết sức nghèo túng, nhẫn đến kẻ  tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây
mù quáng, gặp những hạng người thân thể không được vẹn toàn như thế.
Lúc các vị Quốc Vương đó v.v... muốn bố  thí, nếu có  thể đủ  tâm  từ bi  lớn,  lại có
lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó, hoặc
bảo người khác đem cho, lại dùng lời ôn hòa dịu dàng an ủi.
Các vị Quốc Vương, Ðại Thần đó v.v... đặng phước  lợi bằng phước lợi công đức
cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư Phật vậy. ã

111

Tại  làm sao? Chính bởi vị Quốc Vương đó v.v...phát  tâm đại  từ bi đối với kẻ rất
mực nghèo cùng và với những người tàn tật kia, cho nên phước lành được hưởng
quả báo như thế này, trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo,
huống là những thứ để thọ dùng như y phục đồ uống ăn v.v....
Lại  nữa,  này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong  đời  sau,  như  có  vị Quốc Vương  cho  đến
hàng Bà La Môn  v.v...  gặp  chùa  tháp  thờ Phật,  hoặc  hình  tượng Phật,  cho  đến
hình  tượng Bồ Tát, Thanh Văn  hay Bích Chi Phật, đích  thân  tự  sửa  sang,  cúng
dường bố thí.
Vị Quốc Vương đó, sẽ đặng trong ba kiếp làm vị trời Ðế Thích hưởng sự vui sướng
tốt lạ.
Nếu có thể đem phước  lành bố  thí đó mà hồi hướng cho  tất cả chúng sanh  trong
pháp giới,  thời vị Quốc Vương đó,  trong mười kiếp  thường được  làm vị  trời Ðại
Phạm Thiên Vương.
Lại thế này nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau, nếu có vị Quốc Vương cho
đến hàng Bà La Môn v.v... gặp chùa  tháp của đức Phật  thuở  trước, hoặc  là kinh
điển hay hình tượng bị hư sụp rách rã, liền có thể phát tâm tu bổ lại.
Vị Quốc Vương đó, hoặc  tự mình đích  thân  lo sửa sang, hoặc khuyến hóa người
khác cho đến khuyến hóa trăm nghìn người khác cùng chung bố thí cúng dường để
kết duyên lành.
Vị  Quốc  Vương  đó,  trong  trăm  nghìn  đời  thường  làm  Vua  Chuyển  Luân,  còn
những người khác chung cùng làm việc bố thí đó, trong trăm nghìn đời thường làm
vua nước nhỏ.
Nếu lại ở trước chùa tháp có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà
hồi hướng về đạo vô thượng chánh giác, được như vậy thời vị Quốc Vương đó cho
đến tất cả mọi người đều sẽ  thành Phật cả, bởi quả báo ấy rộng  lớn vô  lượng vô
biên.
Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau,như có vị Quốc Vương hay hàng Bà
La Môn, gặp những người già yếu tật bịnh và kẻ phụ nữ sanh đẻ, nếu trong khoảng
chừng một niệm sanh  lòng  từ  lớn đem  thuốc men,cơm nước, giường chiếu bố  thí,
làm cho những kẻ ấy được an vui. ã

112

Phước đức đó rất không  thể nghĩ bàn đến được,  trong một  trăm kiếp thường  làm
Vua Trời Tịnh Cư,  trong hai  trăm  kiếp  thường  làm   Vua  sáu  từng  trời  cõi Dục,
không bao giờ còn đọa vào ác đạo, cho đến trong trăm nghìn đời, lỗ tai không hề
nghe đến tiếng khổ, rốt ráo sẽ thành Phật đạo.
Lại  nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng!  trong  đời  sau  như  có  vị Quốc Vương  và Bà La
Môn, có thể làm những việc bố thí như thế sẽ đặng vô lượng phước lành.
Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Ðề, thời không luận là nhiều
hay ít, rốt ráo sẽ thành Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm Vương, trời Ðế
Thích, Vua Chuyển Luân.
Này Bồ Tát Ðịa-Tạng, vì thế nên khuyến hóa tất cả chúng sanh đều phải học theo
như thế.
Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau, như có thiện nam kẻ thiện nữ nào ở
trong Phật pháp mà gieo trồng chút ít cội phước lành chừng bằng cái lông, sợi tóc,
hột cát, mảy bụi, phước lợi của những người đó sẽ hưởng thọ không thể ví dụ thế
nào cho được.
Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời  sau, như có kẻ  thiện nam cùng người
thiện nữ nào gặp hình tượng Phật, hình tượng Bồ Tát, hình tượng Bích Chi Phật,
hình  tượng Vua Chuyển Luân mà bố  thí cúng dường,  thời đặng  vô  lượng phước
lành, thường sanh ở cõi người, cõi trời hưởng sự vuithù thắng vi diệu.
Như có thể đem công đức hồi hướng cho cả pháp giới chúng sanh thời phước lợi
của người ấy không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau,như có kẻ thiện nam người thiện nữ
nào gặp kinh điển đại thừa hoặc nghe thấy một bài kệ, một câu kinh, rồi phát tâm
ân cần trân trọng cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường, người ấy được quả báo
lớn vô lượng vô biên.
Nếu  có  thể  đem  phước  đức  hồi  hướng  cho  khắp  pháp  giới  cho  chúng  sanh  thời
phước lợi này không thể ví dụ thế nào cho được.
Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau,như có kẻ thiện nam người thiện nữ
nào gặp chùa  tháp và kinh điển đại  thừa, nếu  là kinh  tháp mới  thời bố  thí cúng
dường, chiêm ngưỡng lễ lạy ngợi khen chắp tay cung kính. ã

113

Nếu gặp kinh tháp cũ, hoặc hư rách thời sửa sang tu bổ, hoặc riêng mình phát tâm
làm, hoặc khuyến người khác cùng đồng phát tâm.
Những người đồng phát tâm đây, trong ba mươi đời thường làm vua các nước nhỏ.
Còn vị đàn việt chánh đó  thường  làm Vua Chuyển Luân,  lại dùng pháp  lành mà
giáo hóa vua các nước nhỏ.
Lại nữa Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào
ở nơi cội phước  lành đã gieo  trồng  trong Phật pháp, hoặc  là bố  thí cúng dường,
hoặc  là  tu bổ  chùa  tháp, hoặc  sửa  sang kinh điển,  cho đến  chừng bằng một  sợi
lông, một mảy bụi, một hột cát, một giọt nước.
Những  sự  lành như  thế không  luận nhiều  ít, chỉ có  thể đem hồi hướng cho khắp
pháp giới chúng sanh, thời công đức của người đó trong nghìn đời thường hưởng
thọ sự vui thượng diệu.
Còn như chỉ hồi hướng cho thân quyến trong nhà hoặc tự mình được lợi ích thôi,
như  thế  thời sẽ hưởng quả vui  trong ba đời, cứ  làm một phần sự  lành,  thời được
hưởng báo tốt một muôn lần trội hơn.
Này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Những nhơn duyên công đức về sự bố thí như thế đó.
GIẢI NGHĨA
     Phẩm thứ mười này nói về bố thí, Bố thí là đem năng lực vật chất như của cải
tiền bạc của mình hiến dâng chia tặng cho người, hoặc đem  trí  tuệ như giảng nói
các điều hay lẽ phải trong đời sống, đem các chân lý do Phật dạy giải thích lại cho
người; đây  là những việc  làm để nuôi dưỡng phúc đức cho người bố  thí. Bồ Tát
Địa Tạng hỏi Phật tại sao có người bố thí hưởng phuớc ít, có người bố thí hưởng
phúc nhiều, Đức Phật giảng về các đối tượng của bố thí, hiệu lực qủa báo của việc
bố-thí và các cách bố thí; trước hết, Đức Phật nói: 
     “Các vị Quốc Vương, hàng Tể Phụ quan chức lớn, hàng đại Trưởng Giả, hàng
đại Sát Ðế Lợi, hàng đại Bà La Môn v.v... Nếu gặp kẻ hết sức nghèo  túng, nhẫn
đến kẻ tật nguyền câm ngọng, kẻ điếc ngây mù quáng, gặp những hạng người thân
thể không được vẹn toàn như thế, mà muốn bố thí, nếu có thể đủ tâm từ bi lớn, lại
có lòng vui vẻ tự hạ mình, tự tay mình đem của ra bố thí cho tất cả những kẻ đó,
hoặc bảo người khác đem cho,  lại dùng  lời ôn hòa dịu dàng an ủi. Thì các vị đó ã

114

được phước lợi bằng phước lợi công đức cúng dường cho một trăm hằng hà sa chư
Phật vậy. Chính bởi sự phát  tâm đại  từ bi đối với kẻ rất mực nghèo cùng và với
những người  tàn  tật kia,  cho nên phước  lành được hưởng quả báo như  thế này,
trong trăm nghìn đời thường được đầy đủ những đồ thất bảo v.v…” Đây là do có
tâm từ bi khi bố thí mà được nhiều phước báo, còn người có tâm chấp cái ta và cái
của ta (ngã và ngã sở), nghĩa là nếu vì danh vì lợi mà bố thí thì được ít phước báo
vậy. 
     Kế tiếp, Ngài nói: “Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! trong đời sau như có vị Quốc
Vương  và Bà  La Môn,  có  thể  làm  những  việc  bố  thí  như  thế  sẽ  được  vô  lượng
phước lành. Nếu lại có thể đem phước đức đó hồi hướng đạo Bồ Ðề, thời không
luận  là nhiều hay ít, rốt ráo sẽ  thành Phật cả, huống gì cả những quả trời Phạm
Vương,  trời Ðế  Thích,  Vua  Chuyển  Luân”.  Chúng  ta  thấy  phúc  báo  của  bố  thí
không những được phước báo cõi Trời, mà còn có  lợi  ích vào đạo khi hồi hướng
cho đạo Bồ Đề, thì đủ hiểu rằng sự bố thí có công lực to lớn biết nhường nào; như
thế chúng ta không nên bỏ qua cơ hội bố thí và hồi hướng đạo Bồ Đề vậy tức là bố
thí rồi hồi hướng cho sự giải thoát đạt đạo của mình thì dần dần sẽ có kết qủa.
     Đức Phật còn cho biết: “Trong đời sau, như có vị Quốc Vương hay hàng Bà La
Môn,  khi  gặp  những  người  già  yếu  tật  bịnh  và  kẻ  phụ  nữ  sanh  đẻ,  nếu  trong
khoảng chừng một niệm sanh lòng từ lớn đem thuốc men, cơm nước, v.v… bố thí,
làm cho những kẻ ấy được an vui, thì phước đức đó không thể nghĩ bàn được. 
     Lại nữa, trong đời sau, như có kẻ thiện nam, thiện nữ nào gặp hình tượng Phật,
Bồ  Tát  v.v… mà  cúng  dường,  thời  được  vô  lượng  phước  lành,  thường  sinh  cõi
người, cõi trời, hưởng sự vui thù thắng”. 
     Chúng  ta  thấy  tất cả các việc bố  thí đều mang  lại phúc báo, nghĩa  là mang  lại
công đức cho người bố thí, nhưng nếu người bố thí giữ lại công đức ấy để hưởng
cho riêng mình hay chỉ hồi hướng cho người thân thôi thì chưa thể hiện “vô ngã”,
vì đa số con người  thường  tình  luôn  luôn bảo vệ “cái  ta” và “cái của  ta”. Đây  là
tính vị kỷ,  ích kỷ,  tham  lam của chúng sinh muôn  loài, vì  thế cho nên Đức Phật
nói: “Như có thể đem công đức đó hồi hướng cho cả pháp giới chúng sanh thì phúc
lợi của người ấy nhiều không thể ví dụ được”. Nghĩa là người có phúc đức nếu hồi
hướng những phước đức mình có cho  tất cả chúng  sinh mười phương  thì  lúc đó
mới thể hiện được tính “bình đẳng” đối với tất cả chúng sinh, và thể hiện tính “vô ã

115

ngã” của chính mình một cách hoàn toàn. Được như thế thì khi tu hành thiền định
sẽ dễ dàng dẫn tới được tâm thanh tịnh và khi đó chân tâm Phật tính mới hiển lộ,
tức là giải thoát, được giải thoát thì không có gì có thể sánh bằng là vậy.
     Đức Phật nói đại ý: “Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời sau, như có kẻ
thiện nam người  thiện nữ nào gặp chùa  tháp kinh điển đại  thừa, hoặc nghe  thấy
một bài kệ, một câu kinh, hoặc gặp kinh điển chùa tháp rách nát cũ hư. Gặp như
vậy rồi phát tâm ân cần, trân trọng lễ lạy, cung kính ngợi khen, bố thí cúng dường,
phát  tâm  tu bổ, sửa sang  in  lại, khuyến khích người khác cùng phát  tâm  làm,  thì
người ấy được quả báo lớn vô lượng vô biên”.    
     Ở đây, ngoài nghĩa  thông  thường về Sự  trong việc  tôn  trọng cung kính  lễ  lạy
cúng dường,  tu bổ  sửa  sang chùa  tháp,  in  ấn kinh sách được phúc báo; còn có ý
nghĩa về Lý biểu  trưng cho  sự học hỏi kinh điển  (trân  trọng, khen ngợi). Chùa
tháp  tượng  trưng cho cái  thân  tâm Năm Uẩn  (Sắc,  thọ,  tưởng, hành,  thức),  từ cái
thân sắc gồm: đất nước gió lửa chẳng có cái nào thuộc về ta; đến cái tâm gồm Thụ,
Tưởng, Hành, Thức  luôn  luôn biến đổi nên cũng chẳng  thứ nào  là của  ta. Hư cũ
tượng trưng cho sự chấp giữ cái thân hư cũ, chấp chặt cái tâm thay đổi từ bao đời
rồi nên mãi trong luân hồi sinh tử, do đó tu hành để thấy cái thân này là vô thường,
nay còn mai mất, thấy cái thân này không có gì là quan trọng, để từ bỏ chấp cái ta
và cái của  ta (bố  thí cúng dường). Bằng cách  là  tu tâm dưỡng  tánh (sửa sang in
lại), khuyến tấn người khác cùng tu (cùng phát tâm làm). Được như thế thì lợi ích
vô cùng, lợi ích đầu tiên là được thoát khỏi khổ được sống an vui, sau nữa là nếu tu
hành đến nơi đến chốn thì sẽ được thành Bồ Tát và dần dần tiến tới giác ngộ thành
Phật vậy.
*
*     *

PHẨM THỨ MƯỜI MỘT:
ÐỊA THẦN (1) HỘ PHÁP (2)

Lúc đó vị Ðịa Thần Kiên Lao (3) bạch cùng Ðức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn!
Từ trước đến nay, con từng chiêm ngưỡng đảnh lễ vô lượng vị đại Bồ Tát, đều là
những bực trí huệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn độ khắp mọi loài chúng sanh.
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây so với các vị Bồ Tát chỗ thệ nguyện rất là sâu rộng. ã

116

Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây có nhân duyên lớn với chúng sanh
trong Diêm Phù Ðề (4).
Như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền, Ngài Quan Âm, Ngài Di Lặc cũng hóa hiện
trăm nghìn thân hình để độ chúng sanh trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện
của các Ngài còn có lúc hoàn mãn.
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong sáu
đường trải đến kiếp số như số cát trong trăm nghìn ức sông Hằng.
Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh ở hiện tại nay và về vị lai sau, nơi chỗ
sạch sẽ ở phương nam trong cuộc đất của mình ở, dùng đất đá tre gỗ mà dựng cất
cái khám cái thất.
Trong đó có thể họa vẽ, cho đến dùng vàng, bạc,đồng, sắt đúc nắn hình tượng Bồ
Tát Ðịa-Tạng, đốt  hương  cúng  dường,  chiêm  lễ  ngợi  khen,  thời  chỗ  người  đó  ở
được mười điều lợi ích.
Những gì là mười điều? 
Một là đất cát tốt mầu,
Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi,
Ba là người đã chết được sanh lên cõi trời,
Bốn là những người hiện còn hưởng sự lợi ích,
Năm là cầu chi cũng toại ý cả,
Sáu là không có tai họa về nước và lửa,
Bẩy là trừ sạch việc hư hao,
Tám là dứt hẳn ác mộng,
Chín là khi ra lúc vào có thần theo hộ vệ,
Mười là thường gặp bực Thánh Nhân. ã

117

Bạch đức Thế-Tôn! Chúng sanh  trong đời sau cùng hiện  tại nay, nếu ở nơi phần
đất của mình cư trụ mà có thể làm ra sự cúng dường Ngài Ðịa-Tạng như thế, thời
được sự lợi ích như vậy.
Vị Ðịa Thần Kiên Lao lại bạch với đức Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Trong đời sau này, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở
trong chỗ của mình cư  trụ mà có kinh điển này cùng hình  tượng của đức Bồ Tát
Ðịa-Tạng, người đó  lại có  thể đọc  tụng kinh điển này và cúng dường hình  tượng
của Bồ Tát.
Thời con dùng thần lực của con thường hộ vệ người đó, cho đến tất cả sự tai họa
như nước, lửa, trộm, cướp, nạn lớn, nạn nhỏ, v.v... thảy đều tiêu sạch.
Ðức Phật  bảo Kiên Lao Ðịa Thần  rằng: “Thần  lực  rộng  lớn  của ông,  các  thần
khác ít ai bằng.
Vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù Ðề đều nhờ ông hộ trợ, cho đến cỏ cây,
cát đá,  lúa mè,  tre  lau, gạo  thóc, của báu,  tất cả những  thứ  từ đất mà có ra đều
nhờ nơi sức thần của ông cả.
Nay ông lại tuyên bày những sự lợi ích của Ngài Địa-Tạng Bồ Tát, thời công đức
và thần thông của ông lại càng thêm trăm nghìn lần trội hơn lúc thường.
Này Ðịa Thần! Trong đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện nữ nào cúng dường
Bồ Tát Ðịa-Tạng cùng đọc tụng kinh điển này, chỉ có thể tu hành theo một việc mà
trong kinh “Bồ Tát Ðịa Tạng Bổn Nguyện” đã dạy.
Thời ông nên dùng thần lực của ông mà ủng hộ người đó, chớ để tất cả sự tai hại
cùng sự không vừa ý đến nghe nơi tai, huống nữa là để cho phải chịu.
Chẳng  phải  chỉ  riêng mình ông hộ  trì người đó,  cũng  có  hàng quyến  thuộc  của
Phạm Vương, Ðế Thích, quyến thuộc của chư Thiên ủng hộ người đó.
Tại sao lại đặng các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế?
Ðều do vì những người ấy chiêm lễ hình tượng của Bồ Tát Địa-Tạng và đọc tụng
kinh “Bổn Nguyện” này, tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ chứng đạo Niết Bàn
an vui, vì thế nên đặng ủng hộ một cách lớn lao như thế. ã

118

GIẢI NGHĨA
(1) Địa Thần: Địa Thần là vị thần cai quản mặt đất
(2) Hộ Pháp: Là bảo vệ Giáo Pháp của Phật
(3) Kiên Lao Ðịa Thần: Kiên  là kiên cố vững bền, Lao  là khó nhọc dài  lâu, Địa
Thần  là nghĩa biểu  trưng  là Tâm Địa của mỗi người; Kiên Lao Địa Thần ám chỉ
Tâm kiên cố vững bền tinh tấn.
(4) Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đây có nhân duyên  lớn với chúng  sanh  trong Diêm
Phù Ðề: Nghĩa là chúng sinh trong thế giới này đều là nhân duyên từ Tâm tánh.

    Ngài Kiên Lao Địa Thần nói đại ý: “Như Ngài Văn Thù, Ngài Phổ Hiền, Ngài
Quan Âm, Ngài Di  Lặc  cũng  hóa  hiện  trăm  nghìn  thân  hình  để  độ  chúng  sanh
trong sáu đường, nhưng chỗ phát nguyện của các Ngài còn có lúc hoàn mãn. Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng đây phát thệ nguyện giáo hóa tất cả chúng sanh trong sáu đường
trải đến kiếp số như số cát trong trăm nghìn ức sông Hằng.” Ở đây Ngài Văn Thù
biểu  trưng cho Trí Tuệ, Ngài Phổ Hiền biểu  trưng cho Hạnh Nguyện, Ngài Quan
Âm biểu trưng cho Tâm Bi, Ngài Di Lặc là biểu trưng cho Tâm Từ, còn Ngài Địa
Tạng biểu trưng cho Tâm Địa. Nghĩa là muốn có Hạnh Nguyện, muốn có Tâm Từ
Tâm Bi, muốn có Trí Tuệ, thì phải có cái Tâm Thệ Nguyện vững chắc, tức quyết
tâm thề, quyết tâm nguyền với lòng mình, đây là động lực tự  thúc đẩy không cho
lười biếng thoái lui, mà chỉ một lòng tiến tới. Do đó, hàm ý ở đây là tất cả chúng
sinh hiện tại và mãi mãi mai sau đều phải có Tâm Thệ Nguyện vững chắc không gì
phá được thì sự tu hành mới có thể tiến tới giải thoát.
     Ngài Địa Thần nói tiếp: “Bạch đức Thế-Tôn! Con xem xét chúng sanh ở hiện tại
nay và về vị  lai  sau, nơi  chỗ  sạch  sẽ ở phương nam  trong cuộc đất của mình ở,
dùng  đất  đá  tre  gỗ mà  dựng  cất  cái  khám  cái  thất.” Nghĩa  là  những  con  người
trong  thế  gian  (chúng  sinh  ở  hiện  tại  nay  và  về  vị  lai  sau)  này  dùng  thân  tâm
(trong cuộc đất của mình ở) bỏ ác làm lành (nơi chỗ sạch), kiến lập làm thân tu
hành (dùng đất đá tre gỗ mà dựng cái khám cái thất). “Trong đó có thể họa vẽ,
cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc nắn hình tượng Bồ Tát Ðịa-Tạng”: Vẽ họa
đây là Tâm chúng ta như người thợ vẽ, thợ đúc, thợ nặn, tạo hoàn cảnh chánh báo
(tạo  thân  tâm) và y báo (cảnh vật) của mỗi chúng sanh,  tạo nên  tất cả sự vật  trên
thế gian,  tạo cả sáu đường  luân hồi sinh tử v.v…. Khi đã “Họa vẽ, cho đến dùng
vàng, bạc, đồng,  sắt đúc nắn hình  tượng Bồ Tát Ðịa-Tạng”, họa vẽ nghĩa  là khi
dùng đủ mọi phương tiện để tu như làm lành tránh làm ác, thực hành Lục độ (Bố
thí, Trì  giới, Nhẫn  nhục, Tinh Tấn, Thiền  định, Trí  tuệ),  v.v…. Cùng miệt mài ã

119

chăm chỉ, luôn luôn nhớ tu hành thì sẽ thấy được Như Lai Tạng của mình hiển lộ,
thấy  được Địa Tạng  của mình  tức  là  đã  hết  chúng  sinh  trong  địa  ngục  của  tâm
mình.
      Lúc ấy những người khác  thấy người ấy đạt đạo  thì  tôn  trọng cung kính, đốt
hương  cúng dường,  chiêm  lễ  ngợi  khen,  do đó Ngài Địa Thần  nói: “Đốt hương
cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thời chỗ người đó ở được mười điều lợi ích”. Bởi
vậy sau khi người ấy đạt đạo rồi thì chỗ người đó ở sẽ có được 10 điều lợi ích, đó
là: 
- Một là đất cát tốt mầu, vì đã thấy Như Lai rồi thì chỗ ở cảnh vật (y báo) đều là
tốt đẹp như trân bảo bảy báu, nên nói đất cát tốt mầu, đây là đất tâm nhiệm mầu,
chứ chẳng phải là đất bùn sỏi đá gai góc của thế gian đâu mà lầm.
- Hai là nhà cửa an ổn mãi mãi. Khi đã thấy Như Lai của mình rồi thì ra khỏi sinh
tử luân hồi, chỗ ở là Niết Bàn, ở Niết Bàn chẳng phải là nơi nhà ở yên ổn mãi mãi
sao?
- Ba  là người chết được sanh  lên cõi  trời: Khi đã đạt đạo rồi sẽ giáo hóa chúng
sanh, chúng sinh học hỏi giáo pháp và thực hành thì sẽ được giải thoát khỏi sinh tử
luân hồi, nói chi là lên cõi Trời mà không được sao?
- Bốn là những người còn sống hưởng sự lợi ích: Lợi ích của giáo pháp do giảng
dạy  Phật  pháp  thì  không  gì  sánh  được  nếu  chịu  học  hỏi  và  thực  hành,  nên  nói
những người sống còn hưởng lợi ích.
- Năm là cầu chi cũng được toại ý cả: Người đạt đạo nếu muốn gì mà chẳng được,
mà đâu cần cầu cũng có tất cả.
- Sáu  là không có  tai họa về nước và  lửa: Nước  là  tham  lam, ái dục nhận chìm
chúng  sinh,  lửa  là  sân hận giận  thù,  lửa dâm dục,  lửa oán hận phụ  tình đốt cháy
chúng sinh, còn người đạt đạo làm gì còn tham sân si nữa thì làm sao bị nước lửa
hại được chứ?
- Bảy là  trừ sạch việc hư hao: Đối với người đạt đạo  thì đâu còn được mất, hơn
thua, vinh  nhục,  vui  buồn  nên  không  hư  hao  gì  cả, vả  lại  cũng  chẳng  dơ  chẳng
sạch, chẳng  thiếu chẳng dư, chẳng  thêm chẳng bớt, bởi vì  là như như  làm sao hư
hao được. ã

120

- Tám  là dứt hẳn các ác mộng: Người đạt đạo dứt ác mộng là dĩ nhiên, đâu còn
tạo nghiệp dữ mà có ác mộng.
- Chín là khi ra lúc vào có thần hộ vệ: Đương nhiên rồi, Thiên thần hộ vệ vị ấy vì
qúy vị Thiên Thần tình nguyện muốn bảo vệ bậc Thánh và muốn được bậc Thánh
dạy bảo.
- Mười là thường gặp bậc thánh nhân: Người đạt đạo gặp Chư Phật và Chư Bồ
Tát mười phương là chuyện thường không có gì khó cả, phải không?  
     Ngài Địa Thần kết luận rằng: “Chúng sanh trong đời sau cùng hiện tại, nếu ở
nơi phần đất của mình cư trú mà có thể làm ra sự cúng dường Ngài Ðịa-Tạng như
thế,  thời được sự  lợi  ích như vậy”. Nghĩa  là nếu ai quyết  tâm kiên  trì bền bỉ  lao
nhọc, không lười mỏi, mà chịu đựng làm được tu được tới nơi tới chốn thì sẽ có kết
qủa là Bản Tâm tự tính hiển lộ, tức là được giải thoát.
     Vị Ðịa Thần Kiên Lao lại bạch với đức Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Trong
đời sau này, như có người thiện nam kẻ thiện nữ nào ở trong chỗ của mình cư trú
mà có Kinh điển này cùng hình tượng của Đức Bồ Tát Ðịa-Tạng, người đó lại có
thể đọc tụng kinh điển này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát. Thời con dùng
thần lực của con thường hộ vệ người đó, cho đến tất cả sự tai họa như nước, lửa,
trộm, cướp, nạn  lớn, nạn nhỏ, v.v...  thảy đều  tiêu sạch”. Nghĩa  là người giữ đủ 5
Giới (người thiện nam kẻ thiện nữ) nào mà tu hành cái Tâm (đọc tụng kinh điển
này và cúng dường hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng) theo Kinh này. Quyết tâm
bền bỉ không quản nhọc mệt, luôn luôn tinh tấn tu hành, (được Địa Thần hộ vệ) thì
những sự xấu không còn nữa, như tính tham lam (nước), sân hận (lửa), mất công
đức (trộm cướp), các điều xấu lớn nhỏ (như kiêu mạn, tật đố, ganh tị v.v…) tất cả
đều được tiêu diệt vậy. 
     Ðức Phật bảo Ðịa Thần Kiên Lao rằng: “Thần lực rộng lớn của ông, các thần
khác ít ai bằng; vì cớ sao? Vì đất đai trong cõi Diêm Phù Ðề đều nhờ ông hộ trợ,
cho đến cỏ cây, cát đá, lúa mè, tre lau, gạo thóc, của báu, tất cả những thứ từ đất
mà có ra đều nhờ nơi sức  thần của ông cả”. Đức Phật khen Địa Thần vì các  thứ
thiện  ích như  cỏ  cây,  cát đá,  lúa mè,  tre  lau, gạo  thóc,  của báu v.v… đều  tượng
trưng cho sự tốt lành, mà những thứ này đều từ Tâm (Địa) mà ra, vì vậy cho nên
Đức Phật bảo rằng các Thần khác ít ai bằng là vì lẽ đó. ã

121

     Đức Phật ủy thác đại ý rằng: “Trong đời sau, có người thiện nào đọc tụng kinh
điển  này,  cúng dường Bồ Tát Ðịa-Tạng,  thời ông nên dùng  thần  lực mà  ủng hộ
người đó, chớ để sự tai hại xảy ra. Việc này cũng có hàng quyến thuộc của Phạm
Vương, Ðế Thích, quyến  thuộc của Chư Thiên ủng hộ người đó;  tại sao  lại được
các vị Hiền Thánh ủng hộ như thế? Vì người ấy chiêm lễ hình tượng của Địa-Tạng
Bồ Tát và đọc tụng kinh “Bản Nguyện” này, tự nhiên được rốt ráo xa lìa biển khổ
chứng đạo Niết Bàn an vui”. Nghĩa là người thiện nào hết lòng tôn trọng tu hành
sẽ được Địa Thần và Chư Thiên Thần ủng hộ hộ vệ người đó khỏi bị các  tai họa
bất  thường xảy  ra;  tu hành để dẹp bỏ được  tất  cả  các  tâm  chúng  sinh  trong  tâm
mình thì lúc đó Bản Tâm tự tính hiển lộ, tức là giải thoát khỏi khổ, được yên vui
Niết Bàn vậy. 
*
*     *

PHẨM THỨ MƯỜI HAI:
THẤY NGHE ĐƯỢC LƠI ÍCH

1). ÐỨC PHẬT PHÓNG QUANG TUYÊN CÁO.

- Lúc đó, từ trên đảnh môn đức Thế-Tôn phóng ra cả trăm nghìn muôn ức tia sáng
lớn.
Như là: tia sáng sắc trắng, tia sáng sắc trắng lớn, tia sáng lành tốt, tia sáng ngọc,
tia sáng ngọc lớn, tia sáng sắc tía, tia sáng sắc tía lớn, tia sáng sắc xanh, tia sáng
sắc xanh lớn, tia sáng sắc biếc, tia sáng sắc biếc lớn, tia sáng sắc hồng, tia sáng
sắc hồng lớn, tia sáng màu lục, tia sáng màu lục lớn, tia sáng màu vàng y, tia sáng
màu  vàng  y  lớn,tia  sáng  tướng mây  lành,  tia  sáng  tướng mây  lành  lớn,  tia  sáng
tướng nghìn vòng tròn, tia sáng tướng nghìn vòng tròn lớn, tia sáng vòng tròn báu,
tia sáng vòng tròn báu lớn, tia sáng vừng mặt trời, tia sáng vừng mặt trời lớn, tia
sáng vừng mặt  trăng,  tia sáng vừng mặt  trăng  lớn,  tia sáng  tướng cung điện,  tia
sáng tướng cung điện lớn, tia sáng tướng mây biển, tia sáng tướng mây biển lớn.
Từ trên đảnh môn phóng ra những luồng ánh sáng như thế xong, lại nói ra những
tiếng rất vi diệu mà bảo đại chúng rằng: 
“Này tám bộ chúng Trời, Rồng, người cùng phi nhân v.v...! Lóng nghe hôm nay ta
ở  tại  cung  trời Ðao  Lợi  tuyên  bày  ngợi  khen  những  sự  lợi  ích  trong  hàng  trời ã

122

người, những sự không thể nghĩ bàn, những sự về nhân hạnh lên bậc Thánh, những
sự chứng quả Thập Ðịa, những sự rốt ráo không lui sụt nơi đạo vô thượng chánh
đẳng chánh giác... của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn này, Đức Phật phóng hào quang từ đỉnh đầu phóng ra trăm nghìn muôn ức
tia sáng có đủ các thứ màu sắc lớn, vô số hình tướng khác nhau to lớn, tất cả biểu
trưng cho đại trí tuệ và đại công đức của Phật. Ngài lưu ý hàng Trời, Rồng, Người,
phi Nhân  về những việc không  thể nghĩ bàn  của  chúng  sinh về nguyên nhân  và
hạnh nguyện để lên bậc Thánh, chứng qủa Thập Địa Bồ Tát và sự rốt ráo nơi đạo
Vô Thượng của Bồ Tát Địa Tạng. Nghĩa là những sự không thể nghĩ bàn trong việc
tu hành để đạt qủa Thập Địa, tức là tu hành chấm dứt Tâm chúng sinh để tiến lên
Tâm bậc Thánh. 
2) QUÁN THẾ ÂM CẦU THỈNH.
- Lúc Ðức Phật nói lời trên đó vừa dứt tiếng, trong Pháp-hội có một vị đại Bồ Tát
hiệu là Quán Thế Âm  từ chỗ ngồi đứng dậy, quì gối chắp tay mà bạch cùng Ðức
Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng đầy đủ đức từ bi lớn, Ngài thương xót
chúng sanh mắc tội khổ ở trong muôn nghìn ức thế giới, ngài hóa hiện ra ức thân
bao nhiêu  công  đức  và  sức oai  thần  chẳng  thể  nghĩ bàn  của Ngài,  con đã  từng
nghe đức Thế-Tôn cùng vô lượng chư Phật trong mười phương, khác miệng đồng
lời ngợi khen Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng.
Dầu cho các Ðức Phật  trong  thuở quá khứ,  thuở hiện  tại và  thuở vị  lai nói công
đức của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng vẫn chẳng thể nói hết. Vừa rồi lại được đức Thế-
Tôn bảo khắp  trong đại chúng rằng đức Phật muốn  tuyên nói các sự  lợi  ích của
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng.
Cúi mong đức Thế-Tôn vì tất cả chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà tuyên nói những
sự  chẳng  thể  nghĩ bàn  của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng,  làm  cho  tám  bộ  chúng Trời,
Rồng, v.v...chiêm ngưỡng lễ lạy Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng để đặng phước lành”
3) ÐỨC PHẬT TÁN THÁN VÀ HỨA KHẢ. ã

123

- Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ông có nhân duyên rất lớn với chúng
sanh trong cõi TaBà. Những hàng Trời, Rồng, hoặc Quỉ, cho đến chúng sanh mắc
phải tội khổ trong sáu đường nếu kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng
của ông, hay mến tưởng đến ông cùng khen ngợi ông.
Thời những chúng sanh ấy đều ở nơi đạo vô  thượng chánh giác quyết chẳng còn
thối chuyển, thường được sanh vào cõi người, cõi trời hưởng đủ sự vui vi diệu, khi
nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho.
Nay ông sẵn lòng từ bi lớn thương xót các loài chúng sanh và tám bộ chúng Trời,
Rồng, v.v... mà muốn nghe  ta nói những  sự  lợi  ích chẳng  thể nghĩ bàn của Ngài
Ðịa-Tạng Bồ Tát.
Ông nên lóng nghe cho kỹ, nay ta sẽ nói đó!
Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm bạch rằng: “Vâng! Bạch đức Thế-Tôn con xin ưa muốn
nghe”
GIẢI NGHĨA
     Đoạn 2 ở trên Bồ Tát Quán Thế Âm cầu thỉnh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vì tất
cả chúng sanh ở hiện  tại và vị lai mà  tuyên nói những sự chẳng  thể nghĩ bàn của
Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, nên đoạn 3 này, Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm
rằng: “Ông  có nhân duyên  rất  lớn  với  chúng  sanh  trong  cõi TaBà. Những hàng
Trời, Rồng, hoặc Quỉ, cho đến chúng sanh mắc phải tội khổ trong sáu đường, nếu
kẻ nào nghe danh hiệu của ông, thấy hình tượng của ông, hay mến tưởng đến ông
cùng khen ngợi ông”. 
     Ở đây chúng ta cần phân tích: Danh hiệu Quán-Thế-Âm: Quán nghĩa là quán
sát nghiệm xét, Thế là hoàn cầu nhưng còn có nghĩa là dứt trừ bỏ đi, Âm là tiếng,
còn có nghĩa  là u  tối âm u như khi có mây dày đặc; Quán-Thế-Âm nghĩa  là nếu
chúng  sanh  sinh  trong  thế giới cõi TaBà như những hàng Trời, Rồng, hoặc Quỉ,
cho đến chúng sinh mắc phải  tội khổ  trong  sáu đường, nếu chúng sinh nào được
nghe hiểu, biết khen ngợi, nhớ thực hành, quán sát nghiệm xét nội tâm (Quán), rồi
xa lià dứt trừ bỏ đi (Thế) những tâm tư âm vang tưởng nhớ vọng tưởng (Âm); đó là
những điều u tối, những ràng buộc, những gì gọi là tiêu cực trong tâm.  ã

124

     Như vậy là chúng sinh ấy hành đạo Bồ Tát và kết qủa là được vô số lợi ích, do
đó Đức Phật nói: “Thời những chúng sanh ấy đều ở nơi đạo vô thượng chánh giác,
quyết chẳng còn thối chuyển, mà thường được sinh vào cõi người cõi trời, hưởng
đủ sự vui vi diệu; khi nhân quả sắp thành thục liền được Phật thọ ký cho” là vậy.
Chẳng phải với ý nghĩa khi nghe danh hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, rồi  tuởng
nhớ niệm cầu xin  trước hình  tượng Ngài  thì  sẽ được ở nơi đạo vô  thượng chính
giác, chẳng bị thoái chuyển vào ba cõi dữ, mà được sinh vào cõi người hay cõi trời,
rồi lại được Phật thụ ký cho nữa, đây là lầm lẫn to lớn vậy.
4) THẤY NGHE THÊM PHƯỚC TRỜI.
- Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm: “Trong các thế giới về thuở hiện nay
và vị lai, có vị trời nào, hưởng phước trời đã mãn, năm tướng suy hao hiện ra nơi
thân, hoặc có kẻ phải đọa lạc vào nơi chốn ác đạo.
Các vị  trời đó, hoặc nam hoặc nữ đương  lúc  tướng suy hao hiện, hoặc  thấy hình
tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, hoặc nghe  tên Ngài Bồ Tát Địa-Tạng, rồi một
lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ.
Thời các vị trời đó càng thêm lớn phước trời, hưởng sự vui sướng rất nhiều không
bao giờ còn phải bị đọa lạc vào ba ác đạo nữa.
Huống chi là những người thấy hình tượng Bồ Tát,nghe danh hiệu Bồ Tát rồi đem
các thứ hương hoa, đồ y phục, đồ uống ăn, vật báu, chuỗi ngọc... mà bố thí cúng
dường, thời người này được vô lượng vô biên công đức phước lợi.
GIẢI NGHĨA
     Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm: “Trong các thế giới về thuở hiện nay
và vị lai, có vị trời nào, hưởng phước trời đã mãn, năm tướng suy hao hiện ra nơi
thân, hoặc có kẻ phải đọa lạc vào nơi chốn ác đạo. Các vị trời đó, hoặc nam hoặc
nữ  đương  lúc  tướng  suy  hao  hiện,  hoặc  thấy  hình  tượng  của Ngài Bồ  Tát Ðịa-
Tạng, hoặc nghe  tên Ngài Bồ Tát Địa-Tạng,  rồi một  lần  chiêm  ngưỡng một  lần
đảnh lễ”. Nghĩa là nếu vị Trời đang có 5 hiện tướng xấu là:
- Tràng hoa đội trên đầu héo đi.
- Áo choàng dính bụi dơ bẩn
- Thân mất mùi thơm, lại có mùi hôi.
 - Các Thể-nữ không vây quanh mà bỏ đi. 
 - Không còn thích thú tòa ngồi nữa. ã

125

     Như vậy là sắp bị đọa xuống ba cõi dữ, mà biết quán chiếu (thấy) cái tâm (hình
tượng Ngài Địa Tạng), hoặc xoay cái nghe  (nghe) nghe cái  tâm của mình  (hoặc
nghe tên Ngài Địa-Tạng Bồ Tát); lại thích thú làm (một lần chiêm ngưỡng), ưng
thuận làm (một lần đảnh lễ), đây là vị Trời ấy tu hành thiền định quán tâm thì Đức
Phật bảo: “vị Trời đó thêm lớn phước Trời, hưởng nhiều sự vui sướng, không bao
giờ còn phải bị đọa lạc vào ba ác đạo nữa” là vậy.
     Chứ chẳng phải với ý nghĩa là vị Trời ấy hay nam nữ sắp bị đọa vào ba cõi dữ
chỉ cần chiêm bái  lễ  lạy Bồ Tát Địa Tạng một  lần không cần phải  tu hành quán
chiếu tâm mình mà được “không bao giờ còn phải bị đọa lạc vào ba ác đạo nữa”
đâu mà lầm lẫn lớn đó
     Đức Phật nói  tiếp: “Huống chi  là những người  thấy hình  tượng Bồ Tát, nghe
danh  hiệu Bồ Tát  rồi  đem  các  thứ  hương  hoa, đồ  y  phục, đồ  uống  ăn,  vật  báu,
chuỗi ngọc... mà bố thí cúng dường”. Nghĩa là nếu đã tu hành Thiền quán về hình
sắc  to nhỏ đẹp xấu  (thấy hình  tượng Bồ Tát), về  lời nói  thị phi phải  trái hay dở
(nghe danh hiệu Bồ Tát), mà còn biết giữ gìn không cho dính mắc mắt với  sắc
(hoa), mũi với hương (hương), lưỡi với vị (đồ ăn uống), thân với xúc (đồ y phục),
ý với pháp (vật báu, chuỗi ngọc). 
     Sự rời bỏ, không cho sáu Căn dính mắc với sáu Trần này được biểu trưng là “bố
thí cúng dường”; tất cả những thứ kể trên được  thực hành nhu nhuyễn rồi, “thời
người này được vô lượng vô biên công đức phúc lợi”, đây là công đức cho việc
tiến tới giải thoát là điều dễ hiểu vậy. Chứ chẳng phải với ý nghĩa đem hương hoa,
chuỗi ngọc, thức ăn hoa qủa, y phục mũ mã, vàng bạc tiền giấy, v.v… đến cúng bái
lễ niệm  trước hình  tượng Bồ Tát Địa Tạng mà được vô  lượng vô biên công đức
phúc lợi đâu mà sai lầm đó.
5) NGƯỜI BỊNH ÐƯỢC LỢI 
- Lại  vầy  nữa  này QuánThế Âm! Trong  các  thế  giới  hiện  nay  và  về  sau, những
hàng chúng sanh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà được nghe một
tiếng danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng thoáng qua lỗ tai, thì kẻ mạng chung đó
không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo.
Huống chi là lúc sắp mạng chung, cha mẹ cùng hàng thân quyến đem của cải nhà
cửa, vật báu, y phục v.v... của người sắp mạng chung đó mà làm của chi phí để tô
đắp hay họa vẽ hình tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng. ã

126

Rồi làm cho người bịnh lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân
quyến đem nhà cửa vật báu v.v...  vì mình mà  tô  vẽ hình  tượng  của Ngài Bồ Tát
Ðịa-Tạng.
Người bịnh đó nếu có nghiệp báo phải mang lấy bịnh nặng, thời nhờ công đức này
liền được lành mạnh, tuổi thọ thêm lâu.
Còn nếu người bịnh đó có nghiệp báo số mạng đã hết, lại có đủ tất cả tội chướng
nghiệp chướng đáng lẽ phải đọa vào chốn ác đạo, song vì nhờ công đức này nên
sau  khi mạng  chung,  liền  được  sanh  vào  cõi  trời,  cõi  người  hưởng  quả  vui  thù
thắng vi diệu, tất cả tội chướng thảy đều tiêu sạch.
GIẢI NGHĨA 
     Đức Phật nói: “Lại nữa này QuánThế Âm! Trong các  thế giới hiện nay và về
sau, những hàng chúng sanh trong sáu đường, như có kẻ sắp mạng chung mà được
nghe một tiếng danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng thoáng qua lỗ tai”. Nghĩa là
người  sắp qua đời mà xoay  cái nghe nghe Tâm mình  (Địa Tạng)  tức  là  tu hành
quán tâm, mà bỏ được những lo buồn, dứt được những dính mắc chuyện đời trong
tâm, do đó  tâm được  thanh  tịnh  thông suốt không ngăn ngại  (thoáng qua  lỗ  tai),
“thì kẻ mạng chung đó không còn bị đọa vào chốn khổ ba ác đạo”là điều có  thể
hiểu được vậy.
     Chứ  chẳng  phải  rằng  người  sắp  qua  đời  được  người  khác  đọc  cho  nghe một
tiếng danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng thoáng qua lỗ tai, người bệnh chẳng cần phải tu
hành gì cả, lại được khỏi bị đọa vào đường dữ, vì có ngài Bồ Tát Địa Tạng cứu hộ.
Đây  là  lầm  lẫn  to  lớn đó,  là mê  tín, không  tu hành cái  tâm mình mà muốn Thần
Linh làm giùm là điều chẳng thể xảy ra, vì ai ăn người ấy no chứ chẳng ai có thể
ăm giùm cho người khác no được vậy.
      Ngài  nói  tiếp:  “Huống  chi  là  lúc  sắp mạng  chung,  cha mẹ  cùng  hàng  thân
quyến đem của cải nhà cửa, vật báu, y phục v.v... của người sắp mạng chung đó
mà  làm của chi phí để  tô đắp hay họa vẽ hình  tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng.
Rồi làm cho người bịnh lúc chưa chết, hoặc mắt thấy tai nghe biết rằng hàng thân
quyến đem nhà cửa vật báu v.v...  vì mình mà  tô  vẽ hình  tượng  của Ngài Bồ Tát
Ðịa-Tạng”. Nhà cửa, y phục tượng trưng cho thân thể, của cải vật báu là chỉ tài
sản; người bệnh  thường hay nghĩ đến  luyến  tiếc  thân  thể và của cải  tài  sản; nếu ã

127

quyến thuộc dùng thân bệnh hoạn và của cải (làm chi phí) của người bệnh làm đề
mục tu hành phá bỏ tâm chấp cái ta và cái của ta (tô đắp hay họa hình tượng). 
      Mục đích để chỉ cho người bệnh thấy hoặc nghe biết thân mạng và của cải chỉ
là giả không thật, nó biến hoại vô thường, v.v… khiến cho người bệnh thực hành
quán niệm xả bỏ không luyến tiếc của cải và thân mạng, thì có thể người bệnh nhờ
công đức tu hành này mà khỏi bệnh và sống thọ. Do đó Đức Phật nói: “Người bịnh
đó nếu có nghiệp báo phải mang lấy bịnh nặng, thời nhờ công đức này liền được
lành mạnh, tuổi thọ thêm lâu”. 
     Ngài nói tiếp: “Còn nếu người bịnh đó có nghiệp báo số mạng đã hết, lại có đủ
tất cả  tội chướng nghiệp chướng đáng  lẽ phải đọa vào chốn ác đạo, song vì nhờ
công  đức  này  nên  sau  khi mạng  chung,  liền  được  sanh  vào  cõi  trời,  cõi  người
hưởng quả vui  thù  thắng vi diệu,  tất cả  tội chướng  thảy đều  tiêu sạch”. Nghĩa  là
nếu nghiệp báo đã chín mùi rồi  thì phải chết, nhưng nhờ đã có công đức  tu hành
như đã nêu, nên sau khi chết được tái sinh vào chỗ tốt lành cõi Trời hoặc cõi Người
hưởng qủa vui sướng mà nghiệp chướng cũng hết.
     Chứ chẳng phải dùng của cải nhà cửa vật báu quần áo v.v… của người bệnh
đem bán hết để lấy tiền trả cho chi phí tô đắp tượng hay họa hình Bồ Tát Địa Tạng.
rồi  làm cho người bệnh  thấy hoặc nghe bằng cách hô  lên nhiều  lần để cho người
bệnh biết việc làm này, lại khấn vái cầu xin Bồ Tát cứu vớt, thì nhờ công đức này
người bệnh ấy liền được lành mạnh, lại tuổi thọ thêm dài lâu và tất cả tội chướng
đều được tiêu diệt; nếu hiểu như thế là mê tín và kết qủa là tiền của mất mà chẳng
được gì cả.
6) TIÊN VONG ÐƯỢC PHƯỚC.
- Lại vầy nữa, này Bồ Tát QuánThế Âm! Về đời sau, nếu có kẻ nam  tử, người nữ
nhân nào, hoặc lúc còn bú mớm, hoặc lúc lên ba tuổi, hoặc lúc lên năm tuổi, mười
tuổi trở xuống mà chết mất anh chị em.
Ðến khi người đó khôn lớn nhớ tưởng đến cha mẹ cùng hàng thân quyến không rõ
đọa lạc vào chốn nào, hay sanh về thế giới nào, hoặc sanh lên cõi trời nào?
Người đó như có thể tô vẽ hình tượng của Ngài Bồ Tát Địa-Tạng, nhẫn đến nghe
danh hiệu của Ngài rồi một  lần chiêm ngưỡng một  lần đảnh  lễ,  từ một ngày cho ã

128

đến bảy ngày đừng thối thất tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình tượng chiêm lễ
cúng dường.
Thời quyến thuộc đã sớm khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào ác
đạo tính ra phải chịu đến số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài Bồ
Tát Ðịa-Tạng và chiêm  lễ cúng dường của con cái, hay của anh em chị em, nên
liền đặng giải thoát, được sanh lên cõi trời cõi người hưởng quả vui thù thắng vi
diệu.
Còn như quyến thuộc đã sớm khuất của người đó có phước lành, đã được sanh lên
cõi trời cõi người hưởng thọ quả vui thù thắng vi diệu rồi, thời nhờ công đức này
càng thêm lớn nghiệp nhân về bực Thánh, hưởng vô lượng quả vui.
Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày, chuyên lòng chiêm lễ hình tượng
của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng và niệm lấy danh hiệu của Ngài đủ số một muôn biến,
sẽ  được Ðịa-Tạng Bồ Tát  hiện  vô  biên  thân, mách  cho  người  đó  rõ  nơi  cõi  của
hàng thân quyến sớm khuất kia đã sanh về.
Hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát Ðịa-Tạng hiện sức thần thông lớn, tự dắt người đó
đến các thế giới thấy hàng quyến thuộc.
Nếu người đó lại có thể trong mỗi ngày niệm danh hiệu của Bồ Tát một nghìn biến
luôn đến một nghìn ngày.
Thời người đó sẽ được Bồ Tát sai các vị Quỉ Thần ở tại chỗ đó hộ vệ trọn đời, hiện
đời món ăn đồ mặc dư dật, không có các thứ bịnh khổ, cho đến các sự tai vạ còn
không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân.Rốt ráo rồi người đó được Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng xoa đảnh thọ ký cho.
GIẢI NGHĨA 
     Đoạn 8 này, Đức Phật nói đại ý: nếu có người nào sinh ra còn nhỏ mà cha mẹ
anh em chết sớm không biết cha mẹ quyến thuộc khi qua đời tái sinh nơi đâu. Khi
trưởng thành nếu: “Người đó có thể tô vẽ hình tượng của Ngài Bồ Tát Địa-Tạng,
nhẫn đến nghe danh hiệu của Ngài rồi một lần chiêm ngưỡng một lần đảnh lễ, từ
một ngày cho đến bảy ngày đừng thối thất tâm ban đầu, nghe danh hiệu thấy hình
tượng chiêm lễ cúng dường”. Nghĩa là người đó cố gắng quán sát tu tâm sửa tính
(tô vẽ hình tượng Ngài Bồ Tát Địa Tạng), cho cả đến xoay cái nghe nghe tự tánh ã

129

mình  (nghe  danh  hiệu Ngài).  Lại  thích  thú  làm  (một  lần  chiêm  ngưỡng)  ưng
thuận  làm  (một  lần đảnh  lễ)  liên  tục  từ một ngày cho đến 7 ngày, quán  sát  tâm
mình miệt mài chăm chỉ không ngưng nghỉ. 
     “Thời quyến thuộc đã sớm khuất của người đó nếu do ác nghiệp mà bị đọa vào
ác đạo tính ra phải chịu đến số kiếp, nay nhờ công đức tô vẽ hình tượng của Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng và chiêm lễ cúng dường của con cái, hay của anh em chị em, nên
liền đặng giải thoát, được sanh lên cõi trời cõi người hưởng quả vui thù thắng vi
diệu”;  tại  sao  lại được vậy? Vì người đó  tu  tâm: xoay  cái nghe nghe  tự  tánh và
quán sát tâm tư, tức là nghe và quán xét những vọng tâm vọng tưởng nổi lên trong
tâm,  thấy chúng không  thật mà  là giả, quán  sát  tất cả những  thói hư  tật xấu như
tham,  sân,  tà kiến, kiêu mạn,  tật đố, ganh  tị v.v…. Tỉ dụ như nhớ  tới hình bóng
người đẹp, tiếng ca du dương, món ăn ngon, mùi thơm; nghĩ tới danh vọng địa vị,
được mất thành bại, khen chê vinh nhục, vui sướng buồn khổ v.v.... 
     Tất cả những thứ đó là bụi phủ gương nên không soi hình được, là mây mù che
khuất mặt trời, chúng chỉ là khách đến rồi đi không lúc nào dứt, đêm thì mơ mộng,
ngày thì suy nghĩ tưởng nhớ liên miên. Biết được như vậy rồi xa lià rời bỏ, không
ham chẳng màng  tới chúng nữa,  thì như gương sạch bụi soi muôn hình, như mây
tan mặt trời xuất hiện. Tức là tu hành để tâm không còn những thứ suy nghĩ tưởng
nhớ xuất hiện nữa, mỗi vọng  tưởng ví như một chúng sinh,  tâm đang từ có vô số
đầy ắp chúng sinh, sau thưa dần chỉ còn một số chúng sinh thôi, thì người đó cũng
đã đạt được một phần công đức. Lúc đó người ấy vì những người qúa cố mà hồi
hướng thì có thể nhờ công đức này mà người qúa cố gặp được nhân duyên để rồi
chuyển đổi từ tâm ác sang tâm thiện, do đó sẽ được tái sinh đến chỗ tốt hơn. 
     Còn cha mẹ đang ở các cõi tốt rồi thì sẽ gặp nhân duyên học đạo để tu hành tiến
tới  giải  thoát  vậy,  nên Đức  Phật  nói:  “Còn  như  quyến  thuộc  đã  sớm  khuất  của
người đó có phước lành, đã được sanh lên cõi trời cõi người hưởng thọ quả vui thù
thắng vi diệu rồi, thời nhờ công đức này càng thêm lớn nghiệp nhân về bực Thánh,
hưởng vô lượng quả vui” là vậy.
     “Như người đó lại có thể trong hai mươi mốt ngày, chuyên lòng chiêm lễ hình
tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng và niệm lấy danh hiệu của Ngài đủ số một muôn
biến”; nghĩa là khi người đó đã tu như trên rồi, mà lại chuyên một lòng nhớ (niệm)
hỏi cái tâm mình (danh hiệu Địa Tạng) bằng cách Tham Thiền câu “Nam Mô Địa ã

130

Tạng, niệm Địa Tạng là ai?” trong 21 ngày liên tiếp không ngưng nghỉ một giây
phút nào ngoại  trừ mệt qúa ngủ  thiếp đi,  thì “Sẽ được Bồ Tát Ðịa-Tạng hiện vô
biên  thân, mách cho người đó  rõ nơi cõi của hàng  thân quyến  sớm khuất kia đã
sanh về, hoặc trong giấc mộng, Bồ Tát Ðịa- hiện sức thần thông lớn, tự dắt người
đó đến các  thế giới  thấy hàng quyến  thuộc”; nghĩa  là  lúc ấy  tâm của người đó ở
trong tịch tịnh và như vậy tâm người đó sẽ biết được hoặc trong giấc mộng sẽ thấy
nơi chốn người thân qúa cố đã sinh đến.
     Cũng  có  thể  rằng  người  đó không  tu  theo  đường  lối Tham Thiền mà  tu  theo
đường lối Niệm Tam Muội: “Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng”, nếu thực hành niệm Bồ
Tát miên mật không ngưng nghỉ vô số cả ngàn vạn lần sẽ dẫn tới nhất tâm vô tâm,
thì có thể trong giấc mộng cũng thấy nơi chốn người thân đã sinh đến do chính tâm
mình giao cảm mà có được.
     “Như người đó  lại có  thể  trong mỗi ngày niệm danh hiệu niệm “Nam Mô Bồ
Tát Địa Tạng” hay  tham câu “Nam Mô Địa Tạng, niệm Địa Tạng  là ai?”  liên
tiếp không ngưng nghỉ mỗi ngày một nghìn  lần,  trong một nghìn ngày  tức  là ba
năm liền, người đó sẽ đạt được tâm bất loạn hay đốn ngộ (Sơ quan). Như vậy thì
các Qủy Thần sẽ biết và tự động tới bảo vệ, khi có các Qủy Thần bao quanh hộ vệ
thì  sẽ không  thiếu  thốn,  tai họa chẳng  thể đến, bệnh  tật chẳng màng, mà đầy đủ
mọi thứ, do đó Đức Phật nói: “Người đó sẽ được Bồ Tát sai các vị Quỉ Thần ở tại
chỗ đó hộ vệ trọn đời, hiện đời món ăn đồ mặc dư dật, không có các thứ bịnh khổ,
cho đến các sự tai vạ còn không hề vào đến cửa, huống nữa là đến nơi thân”. Nếu
tu hành tới mức triệt để rồi thì sẽ vào chính định hay triệt ngộ (Mạt Lậu Lao Quan),
đạt được  tâm giải  thoát để  tiến  tới Phật qủa, đó  là với ý nghĩa mà Đức Phật nói:
“Rốt ráo rồi người đó được Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng xoa đảnh thọ ký cho” là vậy.
7) NGUYỆN LỚN SỚM THÀNH.
- Lại nữa, này Bồ Tát QuánThế Âm! Về đời sau, như có kẻ thiện nam người thiện
nữ nào muốn phát lòng từ rộng lớn để cứu độ tất cả chúng sanh, muốn tu đạo vô
lượng chánh giác, muốn thoát khỏi tam giới.
Những người đó thấy hình tượng và nghe danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, rồi
chí  tâm quy y hoặc đem hương hoa,  y phục,  vật báu, đồ ăn uống,  v.v... để  cúng
dường chiêm ngưỡng đảnh lễ thời chỗ nguyện cầu của kẻ thiện nam cùng thiện nữ
đó mau được thành tựu không bao giờ bị chướng ngại. ã

131

Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Trong đời  sau, như  có  kẻ  thiện nam, người
thiện nữ nào, muốn cầu trăm nghìn muôn ức điều nguyện trăm nghìn muôn ức sự
về hiện tại cùng vị lai, thì chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ, cúng dường, ngợi
khen hình tượng của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng.
Ðược như thế thời nguyện những gì và cầu những chi thảy đều thành tựu cả.
Lại cầu mong Bồ Tát Ðịa-Tạng, vận đức từ bi rộng lớn ủng hộ mãi cho, người đó
trong giấc chiêm bao liền được Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng xoa đảnh thọ ký.
GIẢI NGHĨA 
     Đoạn 7, Đức Phật nói: “Lại nữa, này Bồ Tát QuánThế Âm! Về đời sau, như có
kẻ  thiện  nam  người  thiện  nữ  nào muốn  phát  lòng  từ  rộng  lớn  để  cứu  độ  tất  cả
chúng sanh, muốn  tu đạo vô  lượng chánh giác, muốn  thoát khỏi  tam giới; những
người đó  thấy hình  tượng và nghe danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng. Rồi chí
tâm quy y hoặc đem hương hoa, y phục, vật báu, đồ ăn uống, v.v... để cúng dường
chiêm ngưỡng đảnh lễ thời chỗ nguyện cầu của kẻ thiện nam cùng thiện nữ đó mau
được  thành  tựu không bao giờ bị chướng ngại”. Nghĩa  là người giữ đủ năm giới
(kẻ thiện nam người thiện nữ) muốn tu hạnh Bồ Tát thoát khỏi ba cõi Dục, Sắc và
Vô Sắc (Tam giới) để cứu độ chúng sinh, thì tu quán sát cái thấy (thấy hình), cái
nghe (nghe danh hiệu), rồi chí tâm suy nghĩ quán sát (chí tâm chiêm ngưỡng) về
cái ngửi (hương hoa), cái vị (đồ ăn uống), cái xúc (y phục), cái ý (vật báu); suy
nghĩ như thế nào? Suy nghĩ rằng những thứ này đều là giả có, là ảo huyển, không
thật, khi thấy rõ chúng là không thật rồi thì một lòng tôn trọng (đảnh lễ) không cho
những thứ này lôi kéo dẫn dắt tâm ý chúng ta vào tham cầu năm dục; tức là không
cho sáu Căn bị dính mắc lôi kéo bởi sáu Trần, thì người thiện sẽ mau được thành
tựu nguyện cầu (độ tất cả chúng sinh) của mình.
     Đức Phật nói tiếp: “Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Trong đời sau, như có
kẻ thiện nam, người thiện nữ nào, muốn cầu trăm nghìn muôn ức điều nguyện trăm
nghìn muôn ức sự về hiện tại cùng vị lai, thời chỉ nên quy y chiêm ngưỡng đảnh lễ,
cúng dường, ngợi  khen hình  tượng  của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng”. Nghĩa  là người
thiện nào muốn cầu bất cứ điều gì trong hiện tại và tương lai thì chỉ cần tôn trọng
(đảnh lễ) sự quán sát (chiêm ngưỡng), rồi xa lià bỏ đi dứt trừ (cúng dường) dính
mắc khen chê yêu ghét  (khen ngợi)  tất cả các  thứ vọng  tướng vọng  tưởng  trong
tâm (hình tượng Địa Tạng). Do đó Ngài nói:“Ðược như thế thì nguyện những gì ã

132

và cầu những chi đều thành  tựu cả”, nghĩa là khi đã thực hành được nhu nhuyễn
đầy đủ như  trên  rồi  thì có vô số công đức nên cầu gì cũng được dễ dàng  là vậy.
Nếu tu hành tới mức rồi thì có thể đạt tâm thanh tịnh và trong chiêm bao sẽ được
thọ  ký  cho  ngày  giải  thoát, vì  vậy  cho  nên  đức Phật  nói: “Người  đó  trong  giấc
chiêm bao liền được Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng xoa đảnh thọ ký” là vậy.
.8) ÐƯỢC TRÍ HUỆ.
- Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Trong đời sau, như có người thiện nam, kẻ
thiện nữ nào sinh  lòng rất  trân  trọng đối với kinh điển đại  thừa, phát  tâm bất  tư
nghị muốn đọc muốn tụng kinh điển ấy.
Dầu gặp được bực minh sư truyền dạy cho những người đó học tập, nhưng đọc rồi
quên rồi, trải đến cả tháng cả năm vẫn không đọc tụng được.
Những kẻ  thiện nam đó vì có nghiệp chướng đời  trước chưa  trừ sạch, cho nên ở
nơi kinh điển đại thừa không có công năng đọc tụng.
Nhưng hạng người này  khi nghe danh hiệu  của Ngài Bồ Tát Địa-Tạng, đem hết
bản tâm cung kính bày tỏ với Bồ Tát, rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn, tất cả đồ
ngọa cụ, v.v... cúng dường hình tượng Bồ Tát.
Dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một đêm, sau đó cung
kính chắp tay thỉnh để uống, xoay mặt về hướng nam.
Khi nước vào miệng phải chí tâm trịnh trọng, uống nước xong, phải cữ ngũ vị tân,
rượu, thịt, tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt
ngày.
Người  thiện  nam  cùng  thiện  nữ  đó  trong  giấc  chiêm  bao  thấy Bồ Tát Ðịa-Tạng
hiện thân vô biên rưới nước trên đảnh của người đó.
Sau khi thức dậy, người đó liền được thông minh, một phen nghe đến những kinh
điển đại thừa ấy liền sẽ nhớ mãi, không bao giờ còn quên một câu kệ nữa.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn 8 này, Đức Phật nói đại ý: “Có người thiện nào sinh lòng trân trọng kinh
điển đại thừa, phát  tâm muốn đọc tụng kinh điển ấy, nhưng đọc rồi lại quên,  trải ã

133

đến nhiều  tháng vẫn không  thông  suốt được; những người  thiện đó vì có nghiệp
chướng đời trước chưa trừ sạch, cho nên ở nơi kinh điển này không có công năng
đọc  tụng. Nhưng hạng người này khi nghe danh hiệu của Ngài Bồ Tát Địa-Tạng,
đem hết bản tâm cung kính bày tỏ với Bồ Tát, rồi dùng hương hoa, y phục, đồ ăn,
tất cả đồ ngọa cụ, v.v... cúng dường hình tượng Bồ Tát”. Nghĩa là người thiện này
ngồi thiền định (đồ ngọa cụ) xoay cái nghe nghe tâm mình (nghe danh hiệu của
Ngài Địa-Tạng), tôn trọng (cung kính) suy xét (bày tỏ) tâm mình; rồi để ý mắt đối
với sắc (hoa), mũi đối với mùi (hương), lưỡi đối với vị (đồ ăn), thân đối với xúc (y
phục); không để những thứ này (cúng dường) ngự trị dính mắc trong tâm.  
     Ngài nói tiếp: “Dùng một chén nước trong để trước tượng Bồ Tát một ngày một
đêm, sau đó cung kính chắp tay thỉnh để uống, xoay mặt về hướng nam; khi nước
vào miệng phải chí tâm trịnh trọng, uống nước xong, phải cữ ngũ vị tân, rượu, thịt,
tà dâm, vọng ngữ và các việc giết hại  trong bảy ngày hoặc hai mươi mốt ngày”.
Nghĩa  là người  thiện  tôn  trọng  (cung kính  chắp  tay)  ngồi  thiền  trong một  ngày
tròn 24 giờ liên tục để đạt tâm thanh tịnh (uống nước trong), khi được tâm thanh
tịnh  rồi  thì  phải  hứa  nguyện  cứu  độ  chúng  sinh  (xoay mặt  hướng  nam)  Nam
Thiệm Bộ Châu. 
     Còn phải triệt để tôn trọng giữ gìn Năm Giới không sát sinh, không trộm cướp,
không  tà  dâm,  không  nói  dối,  không  uống  rượu  và  không  dùng Ngũ Vị Tân  là
hành, hẹ,  tỏi,  nén,  cừ  là những  thứ  kích  thích  tính dâm  dục. Thực  hành như  thế
trong bảy ngày cho đến hai mươi mốt ngày  liên  tục,  thì: “Người  thiện nam cùng
thiện  nữ đó  trong  giấc  chiêm  bao  thấy Bồ Tát Ðịa-Tạng  hiện  thân  vô  biên  rưới
nước  trên đảnh của người đó; sau khi  thức dậy, người đó  liền được  thông minh,
một phen nghe đến những kinh điển đại  thừa ấy  liền  sẽ nhớ mãi, không bao giờ
còn quên một câu kệ nữa”. Nghĩa là người ấy trong giấc ngủ sẽ thấy thân tâm rộng
lớn vô biên (thấy Bồ Tát Địa Tạng hiện thân vô biên) ví như có nước cam lộ mát
rợi rưới trên đầu (rưới nước trên đảnh); sau khi thức dậy, liền nhớ được những gì
đã đọc hay nghe qua dù chỉ một lần.
9) TAI NẠN TIÊU TRỪ.
- Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Về trong đời sau, như có những người nào ăn
mặc  không  đủ,  cầu  chi  cũng  không  toại  nguyện, hoặc  thân  nhiều  tật  bịnh,  hoặc ã

134

nhiều sự hung suy, nhà cửa không yên ổn, quyến thuộc chia lìa, hoặc các sự tai vạ
cứ đến khuấy nhiễu nơi thân luôn, trong giấc mộng thường phải kinh sợ.
Những người như thế đó, khi nghe danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, thấy hình
tượng của Bồ Tát Ðịa-Tạng nên chí  tâm cung kính niệm đủ một muôn biến,  thời
những sự không toại ý trên đó sẽ tiêu sạch lần lần, liền được an vui, đồ ăn mặc dư
dật, cho đến trong giấc mộng đều an ổn vui vẻ.
GIẢI NGHĨA 
     Đoạn thứ 9 này nói đến người đói rách, người bệnh tật, người cầu gì cũng chẳng
được, người hay gặp những  tai họa không  lúc nào yên, người có quyến  thuộc bị
chia  lià v.v…; nghĩa  là những người bị khổ bức bách ngay  trong giấc ngủ  cũng
thấy khổ và sợ. Nếu những người này xoay cái nghe nghe  tâm mình  (nghe danh
hiệu  của  Ngài  Ðịa-Tạng),  quán  sát  các  vọng  tướng  của  tâm  mình  (thấy  hình
tượng của Ðịa-Tạng); khi xoay cái nghe nghe  tự  tánh và quán sát  tâm  tư,  tức  là
nghe và quán xét những vọng tâm vọng tưởng nổi lên trong tâm, để thấy chúng là
tạm bợ, không  thật mà  là giả. Tất cả những  thứ đó như bụi phủ gương, như mây
mù che khuất mặt trời, chúng chỉ là khách đến rồi đi; biết được như vậy rồi xa lià
rời bỏ,  thì như gương sạch, như mây  tan,  tức  là  tu hành để không cho những  thứ
suy nghĩ tưởng nhớ xuất hiện trong tâm nữa. 
     Ở  đây  ngoài  việc  xoay  cái  nghe  nghe  tự  tính,  ngoài  cái  quán  sát  tâm mình,
người  đó  phải  nhớ  (niệm)  tu  hành  Tham  Thiền  để  hỏi  cái  tâm  (danh  hiệu Địa
Tạng) mỗi  ngày  tham  cả  vạn  lần  không  ngưng  nghỉ,  tham  câu  “Nam Mô Địa
Tạng, niệm Địa Tạng là ai?”, thì “Những sự không toại ý trên đó sẽ tiêu sạch lần
lần,  liền được an vui, đồ ăn mặc dư dật, cho đến  trong giấc mộng đều an ổn vui
vẻ”, tại sao? Vì người đó quyết tử tu hành Tham Thiền tinh tấn lâu bền miên mật
được thì sẽ có thể đốn ngộ tức đạt Thánh qủa, nếu đạt Thánh qủa sẽ độ vô lượng
chúng sinh; lúc đó nghiệp báo bệnh tật tan rã, tai họa chẳng có, đói rách không còn
vì được cúng dường đầy đủ, muốn gì cũng được, thân quyến xum vầy vì mọi người
đều muốn gần gũi bậc Thánh, nên cả trong giấc mộng cũng an vui yên ổn.
10) KHỎI HIỂM NGUY.
- Lại nữa, này Bồ Tát Quán Thế Âm! Về đời sau, nếu có người thiện nam thiện nữ
nào, hoặc nhân sự làm ăn, hoặc nhân sự công chuyện tư, hoặc nhân sự sinh cùng ã

135

tử, hoặc  nhân  việc gấp mà  phải  vào  trong  rừng núi, hay  là  qua  sông  vượt  biển
hoặc gặp nước lụt lớn, hoặc đi ngang đường hiểm trở.
Người ấy  trước khi đi nên niệm danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng một muôn
biến, được thế thời đi qua nơi nào chốn nào cũng có các vị Quỉ Thần hộ vệ, lúc đi
đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho đến dầu gặp loài hùm sói sư
tử... nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến người đó được.
Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Quán Thế Âm: “Ngài Bồ Tát Địa-T ạng có nhân duyên
rất lớn với cõi Diêm Phù Ðề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh thấy
hình nghe tên của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng được lợi ích, thời dầu nói đến trong trăm
nghìn kiếp cũng không hết được.
Này Bồ Tát Quán Thế Âm! Vì thế Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền kinh này
làm  cho  chúng  sanh  trong  cõi Ta Bà  đây mãi  đến  trăm  nghìn  kiếp  được  hưởng
những sự an vui luôn”.
GIẢI NGHĨA
     Đoạn thứ 10 nói về sự khỏi bị hiểm nguy, Đức Phật nói: “Lại nữa, này Bồ Tát
Quán Thế Âm! Về đời sau, nếu có người thiện nam thiện nữ nào, hoặc nhân sự làm
ăn, hoặc nhân sự công chuyện tư, hoặc nhân sự sanh cùng tử, hoặc nhân việc gấp
mà  phải  vào  trong  rừng  núi, hay  là  qua  sông  vượt  biển  hoặc  gặp  nước  lụt  lớn,
hoặc đi ngang đường hiểm trở. Người ấy trước khi đi nên niệm danh hiệu của Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng một muôn biến, được thế  thời đi qua nơi nào chốn nào cũng có
các vị Quỉ Thần hộ vệ, lúc đi đứng, khi nằm ngồi, đều được an ổn vui vẻ luôn, cho
đến dầu gặp loài hùm sói sư tử... nhưng tất cả thứ độc hại đều không thể phạm đến
người đó được”. 
     Nghĩa  là  nếu  người  thiện nào  có việc phải đi qua  vùng  nguy  hiểm,  người  ấy
trước khi đi nên  tu niệm  “Nam Mô Bồ Tát Địa Tạng” vô  số  lần  liên  tục  trong
nhiều ngày, không nghĩ chuyện gì khác, đây là một lối tu để đưa tâm vào định tĩnh
(Tam muội) thì sẽ có lợi ích. 
     Một  cách  tu  khác  là Tham Thiền  của Thiền Tông  cao  siêu  và  đi  theo  đường
thẳng  tắp  để  kiến  tánh,  người  tu  hỏi  chính  cái  tâm mình,  người  ấy  nhớ  (niệm)
không lúc nào quên hỏi cái tâm (danh hiệu Địa Tạng) “Nam Mô Địa Tạng, niệm
Địa Tạng  là ai?” Tham như  thế vô  số  lần  (muôn biến) không ngưng nghỉ  trong ã

136

nhiều ngày, được như thế sẽ được tâm an định thì dù có vào chốn nguy hiểm cũng
vẫn  an  ổn  bình  tĩnh  không  sợ  hãi,  ví  như  được  “Qủy Thần  hộ  vệ”. Dù  có  gặp
những kẻ ác dữ nói xấu nói thêu dệt nói đâm thọc nói ác cũng không làm cho tức
giận buồn phiền  sợ hãi, ví như gặp các  thú dữ hùm  sói  sư  tử v.v…, cũng không
dám làm hại là vậy, mà nếu đốn ngộ thì được giải thoát.
     Ðức Phật  bảo Ngài Bồ  Tát Quán  Thế Âm:  “Ngài Bồ  Tát Địa-Tạng  có  nhân
duyên rất lớn với cõi Diêm Phù Ðề. Nếu nói về những sự mà các hàng chúng sanh
thấy hình nghe tên của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng được lợi ích, thời dầu nói đến trong
trăm nghìn kiếp cũng không hết được”. Nghĩa là chúng sinh trong thế giới Ta Bà
này do duyên của Tâm mà có, nên nói “Bồ Tát Địa-Tạng có nhân duyên rất lớn
với cõi Diêm Phù Ðề”. Nếu nói về chúng sinh quán chiếu cái tâm (thấy hình Địa
Tạng), xoay cái nghe nghe cái tâm (nghe tên Địa Tạng) được lợi ích, thì “nói đến
trăm nghìn kiếp cũng không hết”, nghĩa là nói đến cái Tâm (Địa Tạng) thì có vô
số điều để nói, có vô biên  lợi  ích để nói. Do đó, Đức Phật bảo Bồ Tát Quán Thế
Âm: “Ông nên dùng thần lực mà lưu truyền Kinh này làm cho chúng sinh trong cõi
Ta Bà mãi đến trăm nghìn kiếp được hưởng những sự an vui” là vậy. 
11). KỆ LƯU TRUYỀN KINH ĐỊA TẠNG
Bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:
1- Ta xem Ðịa-Tạng sức oai thần 
Kiếp số Hằng-sa khó tỏ trần, 
Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ, 
Trời, người lợi ích sự không ngằn, 

2- Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ
 Báo tận sẽ sa vào đường dữ,
Chí tâm qui mạng Ðại Sĩ thân, 
Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.

3- Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha, 
Huynh đệ chị em kẻ ruột rà, 
Lớn khôn nghĩ đến đều không biết, 
Nẻo dữ đường lành ở đâu là? 

4- Hoặc vẽ, hoặc tô Ðại Sĩ hình  ã

137

Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành, 
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu. 
Bồ-tát hiện thân đến bên mình: 

5- Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,
Dầu sa ác thú cũng ra mau, 
Nếu được không lui lòng kính ngưỡng, 
Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu trao. 

6- Bồ-đề vô thượng muốn tu hành, 
Mong ra ba cõi khỏi tử sinh, 
Người này đã phát lòng bi lớn 
Trước nên chiêm lễ Ðại Sĩ hình. 

7- Nghe tên quy y đấng trọn lành, 
Cúng dường cung kính phát lòng thành, 
Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng 
Bao nhiêu mong ước sớm viên thành. 

8- Có kẻ phát tâm tụng kinh sách 
Muốn độ chúng sanh khỏi tai ách 
Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn 
Ðọc rồi quên rồi luôn sót mất.
 
9- Người này nghiệp chướng nó làm mê 
Học đại thừa kinh khó mọi bề
Y phục, uống ăn, các ngọa cụ, 
Cúng dường Ðịa-Tạng với hương hoa. 

10- Dùng chén nước trong bày trước tượng, 
Cách một ngày đêm bưng lấy uống, 
Sanh lòng ân trọng cữ ngũ tân 
Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống. 

11- Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh, 
Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhơn danh,
Chiêm bao thấy rõ Tôn-dung hiện, 
Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh. 

12- Ðại Thừa kinh giáo nghe qua tai,  ã

138

Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai, 
Chính nhờ Ðại Sĩ oai thần lớn 
Thầm giúp người kia có huệ tài. 

13- Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau, 
Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau 
Ngủ mê mộng mị không an giấc, 
Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!
 
14- Dốc lòng chiêm lễ Ðịa-Tạng Ngài, 
Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay 
Nhẫn đến chiêm bao đều an cả, 
Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.

15- Muốn qua sông biển, đến núi rừng, 
Cầm thú độc nguy, giặc đón đường, 
Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ, 
Nhiều nỗi gian nan khốn không lường, 

16- Sắp sửa ra đi đối trước tượng 
Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng. 
Núi rừng biển cả có vào trong 
Ác tai tiêu sạch thường an sướng.
 
17- Quán Âm lóng nghe ta nói rõ 
Ðịa-Tạng vô lượng oai thần đó, 
Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Ðại Sĩ đầy sức nọ!
 
18- Như người nghe đến Ðịa-Tạng danh, 
Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành, 
Hương hoa, ăn uống, dưng y phục, 
Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành. 

19- Nếu hay đem công hồi pháp giới, 
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi, 
Quán Âm nên biết gắng tuyên bày, 
Truyền khắp Hằng-sa nhiều nước cõi

GIẢI NGHĨA ã

139

     Rồi Ngài nói kệ:
1- Ta xem Ðịa-Tạng sức oai thần, 
Kiếp số Hằng-sa khó tỏ trần, 
Thấy nghe một niệm chiêm ngưỡng lễ, 
Trời, người lợi ích sự không ngằn, 
     Bốn câu kệ này ý nói sức oai thần của Tâm thì nói vô số kiếp cũng nói không
hết được, chúng sinh Người và Trời nên nhớ  tôn  trọng quán chiếu Tâm  thì có vô
lượng vô biên sự lợi ích.

2- Hoặc Rồng hoặc Thần cùng nam nữ 
Báo tận sẽ sa vào đường dữ,
Chí tâm qui mạng Ðại Sĩ thân, 
Tuổi thọ thêm nhiều trừ tội dữ.
     Hàng Rồng và Thần khi qua đời sẽ đọa vào nơi xấu, nếu một lòng quy y tu hành
cái tâm thì tội ác giảm mà tăng tuổi thọ.

3- Trẻ thơ chết mất mẹ cùng cha, 
Huynh đệ chị em kẻ ruột rà, 
Lớn khôn nghĩ đến đều không biết, 
Nẻo dữ đường lành ở đâu là? 
     Người mất cha mẹ anh chị em từ khi còn nhỏ, cho tới khi lớn khôn trưởng thành
đều không biết người thân thác sinh về đâu.

4- Hoặc vẽ, hoặc tô Ðại Sĩ hình 
Cảm thương chiêm lễ biệt chẳng đành, 
Hăm mốt ngày luôn niệm danh hiệu, 
Bồ Tát hiện thân đến bên mình.
     Đây là tu cái tâm đủ thứ như làm lành tránh làm ác, bố thí, giữ giới, thiền định
quán chiếu cái  tâm, đó là tượng trưng cho vẽ hoặc tô hình tượng Địa Tạng, và vì
lòng thương người thân ly biệt chẳng dứt mà trong 21 ngày niệm danh hiệu Bồ Tát
Địa Tạng hoặc tham thiền ngày đêm không ngưng nghỉ, thì tâm đạt đến thanh tịnh.

5- Chỉ rành quyến thuộc ở nơi nào,
Dầu sa ác thú cũng ra mau, 
Nếu được không lui lòng kính ngưỡng, 
Thánh ký, Bồ-tát vuốt đầu trao. 
     Khi đạt tâm thanh tịnh rồi thì sẽ tự biết được nơi quyến thuộc sinh đến, do công
đức tu hành sẽ giúp cho người thân, cho dù người thân có bị đọa sinh vào loài súc
vật cũng được mau thoát khỏi; nếu sự tu hành không lui sụt thì dần dần tiến lên và
được bậc Thánh thọ ký qủa vị giải thoát. ã

140


6- Bồ-đề vô thượng muốn tu hành, 
Mong ra ba cõi khỏi tử sinh, 
Người này đã phát lòng bi lớn 
Trước nên chiêm lễ Ðại Sĩ hình. 
     Muốn tu đạo Bồ Đề để mong ra khỏi sinh  tử ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, phát
lòng đại bi thì trước nhất phải tôn trọng tu hành quán chiếu cái tâm mình. 

7- Nghe tên quy y đấng trọn lành, 
Cúng dường cung kính phát lòng thành, 
Nghiệp chướng chẳng hề ngăn chướng đặng 
Bao nhiêu mong ước sớm viên thành. 
     Nếu  phát  tâm  tôn  trọng  vâng  làm  việc  quán  sát  tâm  rồi  xả  bỏ  những  điều
chướng ngại cho tâm thì nghiệp chướng chẳng thể ngăn ngại mà những mong cầu
đều được sớm thành tựu.

8- Có kẻ phát tâm tụng kinh sách 
Muốn độ chúng sanh khỏi tai ách 
Dầu lập nguyện lớn chẳng nghĩ bàn 
Ðọc rồi quên rồi luôn sót mất.
     Có người tụng Kinh muốn cứu khổ những người hoạn nạn, dù phát nguyện rộng
lớn vô cùng, nhưng đọc rồi chẳng nhớ được gì cả. 

9- Người này nghiệp chướng nó làm mê 
Học đại thừa kinh khó mọi bề
Y phục, uống ăn, các ngọa cụ, 
Cúng dường Ðịa-Tạng với hương hoa. 
     Vì người này bị nghiệp chướng làm cho u mê, do Kinh Đại Thừa khó hiểu, nên
phải ngồi thiền quán (ngọa cụ) xét sự dính mắc của sắc với đẹp xấu (hoa), mũi với
mùi (hương), lưỡi với vị (uống ăn), thân với xúc (y phục), mà xả bỏ xa lià sự chấp
chặt những thứ đó khỏi tâm (Cúng dường Địa Tạng). 

10- Dùng chén nước trong bày trước tượng, 
Cách một ngày đêm bưng lấy uống, 
Sinh lòng ân trọng cữ ngũ tân 
Rượu thịt, tà dâm cùng dối luống. 
     Phải  thiền  quán  thanh  lọc  tâm  (nước  trong  bày  trước  tượng)  qua   một  ngày
đêm  cho  tâm  được  thanh  tịnh  (uống  nước  trong),  còn  phải  tôn  trọng  ăn  chay,
không tà dâm, nói dối, uống rượu và không ăn Ngũ Vị Tân là hành, hẹ, tỏi, cừ, nén.
 ã

141

11- Trong hăm mốt ngày chớ sát sanh, 
Chuyên lòng tưởng niệm Thượng Nhân danh,
Chiêm bao thấy rõ Tôn-dung hiện, 
Thức rồi, liền đặng trí khôn lanh. 
     Lại  trong  21  ngày  không  sát  sinh  các  loài,  chuyên  niệm  Địa  Tạng  (niệm
Thượng Nhân danh) liên tiếp không ngưng nghỉ tới khi đạt nhất tâm bất loạn, thì
lúc chiêm bao thấy rõ tâm mình, khi thức dậy liền có trí thông minh.

12- Ðại Thừa kinh giáo nghe qua tai, 
Nghìn vạn đời sau nhớ chẳng sai, 
Chính nhờ Ðại Sĩ oai thần lớn 
Thầm giúp người kia có huệ tài. 
     Khi nghe hay đọc qua Kinh điển một lần thì dù nghìn đời chẳng quên là do thần
lực của tâm mà người ấy được vậy.    

13- Chúng sanh nghèo khổ lại ốm đau, 
Cửa nhà họa hoạn, người lìa nhau 
Ngủ mê mộng mị không an giấc, 
Cầu muốn hỏng hư chẳng được nào!
     Chúng sinh nghèo bệnh, tai họa chia lià, ngủ đầy mộng mị không yên, mong
cầu gì cũng chẳng được. 

14- Dốc lòng chiêm lễ Ðịa-Tạng Ngài, 
Bao nhiêu việc ác thảy tiêu ngay 
Nhẫn đến chiêm bao đều an cả, 
Quỉ Thần phò hộ, của dư xài.
     Nếu một lòng quán chiếu cái tâm (chiêm lễ Địa Tạng), xa lià rời bỏ các sự dính
mắc, thì các sự ác bị tiêu diệt, ngủ được an ổn, có Qủy Thần hộ vệ, của cải không
thiếu thốn.

15- Muốn qua sông biển, đến núi rừng, 
Cầm thú độc nguy, giặc đón đường, 
Ác Thần, ác Quỉ, mưa gió dữ, 
Nhiều nỗi gian nan khốn không lường, 
     Muốn  giải  quyết  những  vấn  đề  trọng  đại  (qua  sông  biển  đến  núi  rừng),  về
tham  sân  (cầm  thú độc nguy, giặc đón đường, Ác Thần ác Qủy), về bát phong
(được mất, hơn thua, vinh nhục, vui buồn) (mưa gió dữ), và về nhiều vấn đề khốn
khổ không tả hết được (nhiều nỗi gian nan khốn không lường)

16- Sắp sửa ra đi đối trước tượng  ã

142

Cúng dường kính lễ cùng chiêm ngưỡng. 
Núi rừng biển cả có vào trong 
Ác tai tiêu sạch thường an sướng.
     Khi đó nếu tôn trọng một lòng quán sát tâm (đối trước tượng), để thấy rõ sự tai
hại của của các  tâm xấu ác điên đảo mà xa  lià  rời bỏ  (cúng dường) nó  (như  tâm
tham, tâm sân, tâm dối trá, tâm kiêu mạn, tâm được mất, hơn thua, vinh nhục, vui
buồn…),  thì chúng sẽ không còn  là nguy hiểm nữa, nên ví như vào núi rừng qua
sông biển, các tai họa đều không có mà được an ổn.      

17- Quán Âm lóng nghe ta nói rõ 
Ðịa-Tạng vô lượng oai thần đó, 
Trăm nghìn muôn kiếp thuật chẳng rồi,
Rộng tuyên Ðại Sĩ đầy sức nọ!
     Hãy lắng nghe cho rõ cái bản tâm có sức oai thần vô lượng, dù nói muôn kiếp
cũng chẳng hết, nên chỉ có thể nói cái tâm có sức mạnh vô biên. 

18- Như người nghe đến Ðịa-Tạng danh, 
Thấy hình chiêm lễ hết lòng thành, 
Hương hoa, ăn uống, dâng y phục, 
Trăm nghìn báo đẹp hưởng điều lành. 
     Người một lòng dùng nghe để quán cái khen chê v.v…, dùng thấy để quán sát
cái đẹp xấu v.v…, dùng cái ngửi để quán mùi hương thơm hôi, dùng cái vị để quán
thức ăn uống ngon dở, dùng cái thân để quán xúc chạm mềm cứng nóng lạnh, v.v..
để thấy chúng là lừa dối, ảo huyển, không thật, mà xa lià dứt bỏ tâm bị dính mắc
ràng buộc, thì sẽ hưởng trăm nghìn điều tốt lành.

19- Nếu hay đem công hồi pháp giới, 
Rốt ráo thành Phật, sanh tử khỏi, 
Quán Âm nên biết gắng tuyên bày, 
Truyền khắp Hằng-sa nhiều nước cõi
     Sau nữa, nếu đem công đức  tu hành mà hồi hướng khắp pháp giới,  tức  là hồi
hướng  công đức  cho  hết  thảy  chúng  sinh mười  phương  thì  sẽ  có  vô  lượng  công
đức, do đó giải thoát khỏi sinh tử, và sau chót là thành Phật. Vì vậy cho nên phải
cố gắng giải bày tuyên dương Kinh này truyền khắp các cõi nước.
*
*     *

 ã

143

PHẨM THỨ MƯỜI BA:
DẶN DÒ CỨU ĐỘ NHÂN THIÊN

1). ÐỨC PHẬT GIÁO PHÓ.

-Lúc đó đức Thế-Tôn giơ cánh  tay sắc vàng xoa đỉnh đầu Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng
mà bảo rằng: 
“Ðịa-Tạng! Ðịa-Tạng! Thần  lực của ông không  thể nghĩ bàn, đức  từ bi của ông
không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ bàn.
Dù cho các Ðức Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng thể nghĩ
bàn của ông trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết được.

Này Ðịa-Tạng! Ðịa-Tạng! Ông nên nhớ hôm nay ta ở trong cung trời Ðao Lợi, nơi
pháp hội lớn có trăm nghìn muôn ức bất khả thuyết, bất khả thuyết tất cả các đức
Phật, các vị Bồ Tát, các hàng Trời, Rồng, tám bộ chúng đây, một lần nữa đem các
hàng chúng sanh, những kẻ ở trong nhà lửa chưa ra khỏi ba cõi, mà giao phó cho
ông.
Ông chớ để các chúng sanh đó phải bị đọa vào các ác đạo dầu là chừng một ngày,
một đêm, huống chi lại để cho chúng nó phải bị đọa lạc vào địa ngục ngũ vô gián
cùng địa ngục A Tỳ, mãi đến nghìn muôn ức kiếp không lúc nào ra khỏi ư.

Này Ðịa-Tạng! Tâm tánh của chúng sanh cõi Diêm Phù Ðề không định, phần đông
đều quen theo thói ác, thoảng hoặc có người phát tâm lành, nhưng rồi không bao
lâu liền thoái thất, còn như duyên ác lại luôn luôn tăng trưởng.
Cũng vì  lẽ đó, nên  ta phải chia thân này ra  trăm nghìn ức để hóa độ, thuận theo
căn tánh của chúng nó hầu làm cho chúng nó được giải thoát.

Này Ðịa-Tạng! Hôm nay ta ân cần đem chúng Trời, Người giao phó cho ông.
Trong đời sau, như có hàng Trời, Người cùng thiện nam, thiện nữ nào trồng chút ít
căn  lành ở  trong Phập-pháp, chừng bằng  sợi  lông, mảy  trần, hột cát, giọt nước,
thời ông nên dùng đạo lực của ông ủng hộ người đó, làm cho người đó tu tập lần
lần đạo hạnh vô thượng, chớ để họ thoái thất.

Lại nữa, này Bồ Tát Ðịa-Tạng! Trong đời  sau, hoặc có  trời hay người nào phải
theo nghiệp mà  thọ báo bị đọa vào chốn ác đạo, đến khi bị đọa vào ác đạo vừa
bước đến cửa địa ngục, những chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của
đức Phật, hay danh hiệu của một vị Bồ Tát, cùng một câu kệ kinh điển đại thừa. ã

144

Ông nên dùng thần lực của ông tìm phương chước cứu vớt các chúng sanh đó, ông
nên hiện thân ra trước kẻ đó, phá tan địa ngục làm cho họ được sanh lên cõi trời
hưởng những sự vui vi diệu thù thắng”.

Bấy giờ đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:
Ðời nay đời sau chúng Thiên, Nhân 
Nay ta ân cần dặn bảo ông; 
Dùng đại thần thông quyền độ họ, 
Ðừng cho ác đạo đọa vào trong.

GIẢI NGHĨA 
     “Lúc  ấy Đức Thế Tôn  giơ  cánh  tay  sắc  vàng  xoa  đỉnh  đầu Ngài Bồ Tát Địa
Tạng…”, cánh  tay  sắc vàng  tượng  trưng cho  thần  lực của bậc đại giác, xoa đỉnh
đầu biểu trưng của lòng từ bi vô lượng, Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng Tâm địa của
mỗi chúng sinh. Ngài bảo rằng: “Ðịa-Tạng! Ðịa-Tạng! Thần  lực của ông không
thể nghĩ bàn, đức từ bi của ông không thể nghĩ bàn, trí huệ của ông không thể nghĩ
bàn”. Nghĩa là Tâm địa, chân Tâm, thần lực của Tâm không thể nghĩ bàn, lòng từ
bi của Tâm không thể nghĩ bàn,  trí huệ của Tâm không thể nghĩ bàn. Vì vậy cho
nên: “Dù cho các Ðức Phật ở mười phương khen ngợi tuyên nói những sự chẳng
thể nghĩ bàn của ông trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng hết được”. Nghĩa là nói về
cái tâm thì có vô lượng điều để nói, vì tất cả đều do tâm mà ra, nên dù có nói vô
lượng kiếp cũng không nói hết được vậy.

     Kế tiếp, Đức Phật nói đại ý: “Ngài giao phó cho Ngài Bồ Tát Địa Tạng độ cho
những hàng Trời và Người có một chút duyên  lành với Phật pháp,  thì nên dùng
đạo  lực ủng hộ người đó,  làm cho người đó  tu  tập dần dần  tiến  lên đạo hạnh vô
thượng, chớ để họ thoái thất”; nghĩa là giúp đỡ họ, tạo duyên lớn hơn cho họ đối
với Phật pháp, để họ học hỏi hiểu được nhiều Phật pháp hơn, hầu  tu hành  thì sẽ
được nhiều lợi ích.
     “Trong đời sau, hoặc có trời hay người nào phải theo nghiệp mà thọ báo bị đọa
vào chốn ác đạo, đến khi bị đọa vào ác đạo vừa bước đến cửa địa ngục, những
chúng sanh đó nếu có thể niệm được danh hiệu của đức Phật, hay danh hiệu của
một vị Bồ Tát, cùng một câu kệ kinh điển đại thừa. Ông nên dùng thần lực của ông
tìm phương chước cứu vớt các chúng sanh đó, ông nên hiện  thân ra  trước kẻ đó,
phá tan địa ngục làm cho họ được sanh lên cõi trời hưởng những sự vui vi diệu thù
thắng”. Nghĩa là nếu những kẻ đang bị đọa vào cõi dữ mà họ còn nhớ niệm Phật,
hoặc niệm Bồ Tát, hoặc đọc một câu Kinh hay Kệ,  thì người này hẳn đã  từng có ã

145

duyên với Phật pháp,  thì nên hiện  thân  trước kẻ đó giáo hóa họ. Độ cho họ bằng
cách làm cho họ hiểu Phật pháp, làm cho họ phát tâm sám hối các tội lỗi đã tạo ra
và làm cho họ có tâm lành vui vẻ, lúc đó họ sẽ có thể thoát khỏi cảnh khổ và sinh
đến cõi tốt lành; đây là ngụ ý phá tan Địa Ngục để cứu độ chúng sinh, sinh lên cõi
lành.

     Chứ chẳng phải với ý nghĩa rằng Ngài Bồ Tát Địa Tạng xuống địa ngục phá tan
cửa địa ngục cứu tội nhân ra khỏi rồi mang lên cõi trời hay cõi người để cho hưởng
những sự vui vi diệu thù thắng đâu mà lầm lẫn to lớn đó.

     Bài kệ, ý Đức Phật ân cần nhắn nhủ Ngài Địa tạng dùng sức thần thông độ cho
các chúng sinh Trời và Người không bị đọa vào ba đường dữ; cũng  là biểu trưng
Đức Phật mong hàng Trời và Người tu hành cái tâm để giải thoát khỏi khổ.

2) BỒ TÁT TUÂN CHỈ.
- Bấy giờ Ngài Địa-Tạng đại Bồ Tát quỳ gối chắp tay bạch cùng Ðức Phật rằng: 
“Bạch đức Thế-Tôn! Cúi xin đức Thế-Tôn chớ lo.
Trong đời sau, nếu có người thiện nam cùng kẻ nữ nào, đối với trong Phật-pháp có
một niệm cung kính, con cũng dùng trăm nghìn phương tiện độ thoát người đó, làm
cho mau được giải thoát trong đường sinh tử, huống nữa là nghe các việc lành rồi
luôn luôn tu hành, tự nhiên ở nơi đạo vô thượng không bao giờ còn thoái chuyển”.
GIẢI NGHĨA:
     Ngài Bồ Tạng Địa Tạng  tuân  chỉ  vâng  làm  theo  lời  phó  chúc  cũa Đức  Phật
Thích Ca Mâu Ni, và Ngài nói nếu có người nam hay nữ nào giữ giới đầy đủ (thiện
nam cùng kẻ nữ), ưng  thuận vâng  làm  theo (có một niệm cung kính) Kinh điển
giáo  lý của Phật,  thì Ngài dùng đủ mọi phương  tiện để giúp người đó mau  thoát
khỏi khổ, huống chi là những chúng sinh luôn luôn chăm chỉ tu hành thì chắc chắn
sẽ tiến mau trên đường đạo.
3) HƯ KHÔNG TẠNG BẠCH HỎI.
- Lúc Ngài Bồ Tát Địa-Tạng bạch lời nói trên đó vừa xong, trong pháp hội có một
vị Bồ Tát tên là Hư Không Tạng bạch cùng đức Phật rằng:  ã

146

“Bạch đức Thế-Tôn! Từ khi con đến cung trời Ðao Lợi này nghe đức Như Lai ngợi
khen oai thần thế lực không thể nghĩ bàn của Ngài Bồ Tát Địa-Tạng.
Trong đời sau, hoặc có người  thiện nam cùng  thiện nữ nào, cho đến  tất cả hàng
Trời, Rồng v.v... nghe kinh điển này và nghe danh  tự của Bồ Tát Ðịa-Tạng, cùng
với chiêm  lễ hình  tượng Bồ Tát Ðịa-Tạng,  thời những kẻ ấy được bao nhiêu điều
phước lợi?
Cúi mong đức Thế-Tôn vì tất cả hàng chúng sanh ở hiện tại và vị lai mà nói lược
việc ấy cho”.
GIẢI NGHĨA 
     Đoạn này Bồ Tát Hư Không Tạng hỏi Đức Phật về “Trong đời sau, có người
thiện nam cùng thiện nữ nào, cho đến cả hàng Trời, Rồng v.v… nghe kinh điền này
và nghe danh tự của Bồ Tát Ðịa-Tạng, cùng với chiêm lễ hình tượng Bồ Tát Ðịa-
Tạng, thời những kẻ ấy được bao nhiêu điều phước lợi?” Nghĩa là người nghe kinh
này nói đến cái Tâm, cùng tôn trọng quán sát cái Tâm, thì được bao nhiêu điều ích
lợi? Chúng  ta  cũng  nên  hiểu  rằng Hư Không Tạng  là  biểu  trưng  của A Lại Đa
Thức, Tạng Thức không dính mắc, không chấp chặt vào bất cứ điều gì, tức là trống
không, không có một dấu vết, đó là Tâm không, Tính (Tánh) không.
 4) HAI MƯƠI TÁM ÐIỀU LỢI
- Ðức Phật bảo Ngài Bồ Tát Hư Không Tạng: “Lóng nghe! lóng nghe cho kỹ! Ta
sẽ vì ông mà nói rõ việc ấy cho.
Trong đời sau, người  thiện nam cùng  thiện nữ nào  thấy hình  tượng của Ngài Bồ
Tát Ðịa-Tạng  và nghe  kinh này,  cho đến đọc  tụng, dùng hương hoa, đồ ăn món
uống, y phục, vật báu mà bố  thí cúng dường ngợi khen chiêm  lễ  thời kẻ ấy được
hai mươi tám điều lợi sau đây:
1.- Các hàng Trời, Rồng thường hộ niệm. 
2.- Quả lành càng ngày càng thêm lớn. 
3.- Chứa nhóm nhân vô thượng của Thánh. 
4.- Mãi không còn thoái thất đạo Bồ Ðề. 
5.- Ðồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ. 
6.- Những bịnh tật không đến nơi thân. 
7.- Khỏi những tai nạn về lửa và nước.  ã

147

8.- Không có bị hại vì trộm cướp. 
9.- Người khác thấy đến sanh lòng cung kính.
10.- Các hàng Quỉ Thần theo hộ trì. 
11.- Ðời sau thân gái sẽ chuyển thành thân trai. 
12.- Ðời sau sẽ làm con gái các hàng Vương Giả, ÐạiThần. 
13.- Thân tướng xinh đẹp. 
14.- Phần nhiều được sanh về cõi trời. 
15.- Hoặc làm bực vua chúa. 
16.- Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước.
17.- Có mong cầu chi cũng được toại ý. 
18.- Quyến thuộc an vui. 
19.- Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch. 
20.- Các nghiệp về ác đạo đều trừ hẳn. 
21.- Ði đến đâu cũng đều không bị sự trở ngại.
22.- Ðêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ. 
23.- Những người thân tộc đã chết nếu có tội thờiđược khỏi khổ. 
24.- Nếu về đời trước có phước thời được thọ sanhvề cõi vui sướng. 
25.- Các bực Thánh ngợi khen. 
26.- Căn tánh lanh lợi thông minh. 
27.- Giàu lòng từ mẫn. 
28.- Rốt ráo thành Phật.

GIẢI NGHĨA
“Trong đời sau, người thiện nam cùng thiện nữ nào thấy hình tượng của Ngài Bồ
Tát Ðịa-Tạng  và nghe  kinh này,  cho đến đọc  tụng, dùng hương hoa, đồ ăn món
uống, y phục, vật báu mà bố thí cúng dường ngợi khen chiêm lễ”. Nghĩa là người
thiện nào, tức là người đã giữ đủ năm giới, được nghe đọc tụng Kinh này, mà quán
sát  sắc  (hoa),  thanh  (ngợi khen), hương  (hương nhang),  vị  (đồ ăn món uống),
xúc  (y phục) và pháp  (vật báu). Quán  sát  thấy chúng  là không bền giả có,  là ảo
huyển không thật, để rồi một lòng quyết chí (chiêm lễ) xa lià rời bỏ diệt trừ (bố thí
cúng dường) dính mắc, để Tâm không còn vướng mắc, tức là tâm được trống rỗng.
Khi  người  ấy  hành  trì  như  thế  được  nhu  nhuyễn  đầy  đủ,  thì  người  ấy  được  hai
mươi tám điều lợi sau đây:
1.- Các hàng Trời, Rồng thường hộ niệm. Chư Thiên (Trời) và Thần (Rồng) luôn
luôn che chở (hộ niệm) vì họ rất tôn trọng người tu hành chân chính.
2.- Quả  lành  càng  ngày  càng  thêm  lớn. Tu  càng  lâu  càng  nhiều  công  đức  (qủa
lành). ã

148

3.- Chứa nhóm nhân vô thượng của Thánh. Vì đây là cách tu hành chân chính của
Chư Bồ Tát để thành bậc Thánh, nên rốt ráo về sau đều sẽ thành Phật. 
4.- Mãi không còn thoái thất đạo Bồ Ðề. Vì tu hành chân chính thì chỉ có tiến mà
không lùi, sẽ có ngày đạt đạo.
5.- Ðồ mặc món ăn dồi dào đầy đủ. Vì người  tu hành  thì  luôn  luôn biết đủ, nên
cảm thấy đồ mặc món ăn lúc nào cũng đầy đủ dư thừa.
6.- Những bịnh tật không đến nơi thân. Đây là biểu trưng cho các thói hư tật xấu sẽ
không còn nữa.
7.- Khỏi những tai nạn về lửa và nước. Lửa tượng trưng cho sân hận giận thù, nước
tượng trưng cho tham lam dục vọng; khi tu hành rồi thì những thứ này không còn
hoành hành lôi kéo Tâm của người ấy được nữa.
8.- Không có bị hại vì  trộm  cướp. Trộm  cướp biểu  trưng  cho mất  công đức, mà
người tu hành chân chính thì không những không mất công đức mà còn ngày càng
tăng trưởng công đức.
9.- Người khác thấy đều sinh lòng cung kính. Khi thấy người chân tu thì chẳng ai là
không cung kính tôn trọng.
10.- Các hàng Quỉ Thần theo hộ trì. Vì Qủy Thần thường ủng hộ người làm lành tu
hành chân chính.
11.- Ðời sau thân gái sẽ chuyển thành thân trai. Người tu hành chân chính thì đời
sau sẽ sinh lên cõi Trời Sắc Giới hoặc Trời Vô Sắc Giới, hoặc vãng sinh cõi Tịnh
độ, ở các cõi này sẽ không còn  tham dục, nên không còn phân biệt  thân nam nữ
nữa.
12.- Ðời sau sẽ làm con gái các hàng Vương Giả, Ðại Thần. Nếu nguyện làm thân
con gái thì sẽ được mãn nguyện và sinh vào nơi quyền uy giàu sang phú qúy.
13.- Thân tướng xinh đẹp. Vì có nhiều công đức tu hành nên thân hình xinh đẹp là
lẽ đương nhiên.
14.- Phần nhiều được sinh về cõi trời. Vì cõi Trời tương xứng với người tu hành có
nhiều công đức. 
15.- Hoặc  làm bực vua chúa. Tu hành có nhiều công đức mà muốn sinh  lại nhân
gian thì xứng đáng làm vua chúa.
16.- Có trí sáng biết rõ việc trong những đời trước. Nếu tu hành tới mức nào đó sẽ
đạt Túc Mệnh Thông,  có  thể  biết  tiền  kiếp  của mình  hoặc một  hai  ba  đời  hoặc
nhiều đời về trước.
17.- Có mong cầu chi cũng được toại ý. Người học đạo  thì  tâm không mong cầu,
không mong cầu nên luôn luôn cảm thấy có đầy đủ.
18.-  Quyến  thuộc  an  vui.  Quyến  thuộc  thấy  người  học  đạo  chân  chính  thì  vui
mừng, cũng mong muốn học và hành Phật pháp, nên đều được an vui.
19.- Các tai vạ bất ngờ đều dứt sạch. Vì người tu hành thì làm đầy đủ thập thiện
nên các tai vạ không còn xảy ra. ã

149

20.- Các nghiệp về ác đạo đều  trừ hẳn. Người  tu hành chân chính  tạo công đức
lành, khi có công đức lành thì nghiệp ác nhẹ đi, nên không còn bị đọa sinh vào ba
cõi dữ là điều dễ hiểu. 
21.- Ði đến đâu cũng đều không bị sự trở ngại. Vì có Thiên thần hộ vệ nên đi đến
đâu cũng không bị cản trở.
22.- Ðêm nằm chiêm bao an ổn vui vẻ. Không còn ác mộng, vì thân khẩu ý không
còn dính mắc vào các việc ác. 
23.- Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ. Vì người tu hành
có nhiều công đức nếu hồi hướng cứu độ thân tộc có tội, thì thân tộc ấy ở trong cõi
dữ sẽ hồi tỉnh nhận ra tội lỗi đã làm, rồi sám hối, chuyển tâm ác qua tâm lành thì sẽ
thoát khỏi cảnh khổ.
24.- Nếu về đời trước có phước thời được thọ sinh về cõi vui sướng. Nếu đời trước
có tạo được phúc, mà kiếp này tu hành thì chắc chắn mau được tốt đẹp hơn.
25.- Các bực Thánh ngợi khen. Các bậc Thánh thấy người tu hành chăm chỉ thì hết
lòng khen ngợi và khuyến khích.
26.- Căn tánh lanh lợi thông minh. Có tu hành là có học hỏi, có học hỏi thì được sự
hiểu biết thông minh và đạt trí tuệ.
27.- Giàu lòng từ mẫn. Người học Phật chân chính thì luôn luôn học hành cả Bốn
Vô Lượng Tâm  (Từ, Bi, Hỉ, Xả)  , nên  luôn  luôn giàu  lòng  từ mẫn bình đẳng đối
với tất cả chúng sinh.
28.- Rốt  ráo  thành Phật. Người quyết  tâm  tu hành  thì dù  lâu xa  trong nhiều đời
nhiều kiếp, cuối cùng cũng có ngày đạt qủa Phật.

5) BẨY ÐIỀU LỢI
- Lại nữa, nầy Bồ Tát Hư Không Tạng! Như hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở hiện tại
và vị lai nghe danh hiệu của Ngài Bồ Tát Ðịa-Tạng, đảnh lễ hình tượng của Ngài
Bồ Tát Ðịa-Tạng, hoặc nghe các sự về bổn nguyện tu hành của Ngài Bồ Tát Ðịa-
Tạng mà ngợi khen chiêm lễ, thời sẽ đặng bảy điều lợi ích:
1.- Mau chứng bực Thánh. 
2.- Nghiệp ác tiêu diệt. 
3.- Chư Phật đến ủng hộ. 
4.- Không thối thất Bồ Ðề. 
5.- Bổn lực được tăng trưởng. 
6.- Việc đời trước đều rõ biết. 
7.- Rốt ráo thành Phật.

GIẢI NGHĨA  ã

150

     Đức Phật nói: “Như hạng Trời, Rồng, Qủy, Thần ở hiện tại và vị lai nghe danh
hiệu của Ngài Bồ Tát Địa Tạng, đảnh lễ hình tượng của Ngài, hoặc nghe các sự về
bản nguyện tu hành của Ngài mà khen ngợi chiêm lễ”. Nghĩa là hàng Thiên Long
Bát bộ (Trời, Rồng, Quỉ, Thần) ở hiện tại và vị lai nghe nói đến Tâm (danh hiệu
Ðịa-Tạng), mà tôn trọng (đảnh lễ), và khi nghe giảng nói về bản nguyện tu hành
Tâm (Ðịa-Tạng) mà thích thú làm (ngợi khen) ưng thuận tu hành (chiêm lễ). Tức
là quán sát sáu Căn đối với sáu Trần là mắt đối với Sắc đẹp xấu, tai đối với lời nói
hay dở, mũi đối với mùi thơm hôi, lưỡi đối với vị mặn ngọt cay đắng, thân đối với
cảm giác cứng mềm nóng lạnh, ý đối với tham, sân, mạn, tật đố, ganh tị v.v…. Tất
cả  những  thứ  này  như  nhiễm  độc, như  keo dính,  tạo  ra  các dính mắc  ràng  buộc
tâm. Quán sát suy nghiệm để thấy chúng chỉ là giả có, là ảo huyển, là không thật,
cần phải xa lià, rời bỏ dứt trừ, để cho Tâm được sạch sẽ trong sáng, tức là để Tâm
được trống rỗng, thì sẽ được bảy điều lợi ích là:
1.- Mau chứng bực Thánh. Các vị Trời, Rồng, Qủy, Thần nếu luôn luôn tu hành
diệt trừ  tâm dính mắc để đạt  tâm không thì sẽ mau đạt  tâm  thanh  tịnh và như thế
chân tâm sẽ hiển lộ, do đó sẽ chứng bực Thánh vậy.
2.- Nghiệp ác  tiêu diệt. Khi  tu dứt bỏ các dính mắc  lôi kéo của các Trần cấu đối
với các Căn, thì không còn tạo nghiệp, nên nói nghiệp ác bị tiêu diệt là vậy.
3.- Chư Phật đến ủng hộ. Chư Phật thấy các vị tu hành tinh tấn thì vui mừng đến
khen ngợi và khuyến tấn vị ấy tiếp tục con đường tiến tới qủa Thánh.
4.- Không  thối  thất Bồ Ðề. Khi được Chư Phật khen ngợi và khuyến  tấn  rồi  thì
chắc chắn vị ấy có niềm tin kiên cố và không còn thoái thất tâm Bồ Đề.
5.- Bản lực được tăng trưởng. Và sức lực tu hành của vị ấy ngày càng trở nên tăng
trưởng vững mạnh.
6.- Việc đời trước đều rõ biết. Khi tu tới mức rồi thì sẽ đạt được Túc Mệnh Thông,
do đó sẽ biết được tiền kiếp của mình trong các đời về qúa khứ.
7.- Rốt ráo thành Phật. Sẽ được Phật thọ ký, tới một ngày nào đó thành Phật tên
hiệu là gì, tại cõi nước tên chi v.v… 

     Đoạn 5 này, Đức Phật dạy Chư Thiên Long Bát Bộ, khi tu hành như thế thì sẽ
được bảy điều  lợi;  trong khi đối với loài Người tu hành được 28 điều lợi ích như
chúng ta đã thấy Đức Phật nói đến đoạn 4 ở trên.

6) ÐẠI HỘI TÁN THÁN.
- Bấy giờ, bất khả  thuyết  tất cả các Ðức Phật và đại Bồ Tát cùng  tám bộ chúng
Trời, Rồng  ...  ở mười  phương  đến  dự Pháp-hội  đó, nghe  đức Thích Ca Mâu Ni ã

151

Phật ngợi khen  tuyên bày  sức oai  thần  lớn chẳng  thể nghĩ bàn của Ngài Bồ Tát
Ðịa-Tạng, đều khen là việc chưa từng có.
Lúc đó trời Ðao Lợi rưới vô lượng hương hoa, thiên y, chuỗi ngọc để cúng dường
đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Bồ Tát Ðịa-Tạng xong rồi,  tất cả đại chúng  trong
pháp hội đều lại chiêm lễ chắp tay mà lui ra.
GIẢI NGHĨA KẾT:
     Đoạn  chót  của Kinh  nói  rằng  vô  lượng Chư Phật  và Chư Bồ Tát  trong mười
phương cùng Thiên Long Bát Bộ dự Pháp hội,  sau khi nghe Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni nói giảng  (tuyên bày) sức oai  thần chẳng  thể nghĩ bàn của Tâm địa  (Địa
Tạng), thì đều khen ngợi ca tụng là việc chưa từng có. Bởi mọi sự việc trên đời đều
phát nguồn  từ Tâm mà  ra, vì  theo như  lời của Phật  trong Kinh Hoa Nghiêm nói:
"Nhất  thiết duy  tâm  tạo". Do bốn câu kệ  trong Kinh Hoa Nghiêm:  "Nhược nhân
dục liễu tri, Tam thế nhất thiết Phật, Ưng quán pháp giới tánh, Nhất thiết duy tâm
tạo", (dịch: Nếu người muốn biết rõ, Tất cả ba đời Phật, Phải quán tánh Pháp giới,
Tất cả do Tâm tạo). 
     Ví dụ như nước, bản thể của nước vốn yên tịnh chẳng lay động, khi có gió thì
muôn nghìn làn sóng nổi lên, vậy thì nước có thể tạo ra làn sóng, làn sóng do nước
mà có. Cũng như vậy, Tâm có thể tạo ra Pháp giới, vì cái Tâm tùy duyên, tùy một
niệm sinh khởi trong khi tiếp xúc ngoại cảnh, trong ngoài cảm ứng nhau mà sinh ra
vạn pháp, gọi là nhân duyên sinh, tùy duyên biến tạo Tâm. Như vậy, chúng ta thấy
tất cả đều do Tâm mà ra, nếu chúng ta biết quán sát trau giồi sửa đổi điều phục tâm
tính, tùy theo mức độ tu hành đạt được mà có cảnh giới tương ưng. 
     Khi lục căn tạo ác nghiệp là sẽ thọ ác báo của cảnh giới Địa ngục; nếu sáu căn
tiếp xúc sáu  trần chẳng còn sinh yêu ghét,  tức  là điều ác đã trừ hẳn hoàn toàn  thì
Tâm Địa Ngục dứt và không còn phải vào cảnh giới Địa ngục. 
     Khi  tham dục ngự  trị Tâm không ngừng nghỉ, nghĩa  là  luôn  luôn có  tưởng  si
ngự trị, thì đây là cảnh giới của Súc sinh; nếu tu hành cho đến tham dục đã dứt, si
tưởng chẳng sinh, thì Tâm Súc sinh chẳng còn, do đó khỏi đọa vào súc vật. 
     Người có đầy ác kiến, lại keo kiết bỏn sẻn, đây là nghiệp sinh vào Ngạ qủy; nếu
ác kiến đã diệt hết, keo kiết chẳng còn mống khởi,  thì Tâm Ngạ qủy được  trừ, sẽ
không còn bị vào cảnh giới Ngạ qủy nữa.  ã

152

     Người có Tâm hiếu thắng, thích đấu tranh gây sự, hay sân hận giận dữ, thì đây
là nghiệp sinh vào cảnh giới Thần (A Tu La); nếu tính hiếu thắng đã dứt, tranh đấu
sân hận bị đẩy lui hoàn toàn thì chẳng vào cảnh giới Thần nữa. 
     Người có làm nhiều việc thiện, nhưng yêu ghét chẳng ngừng là người sẽ tái sinh
làm  người;  nếu  yêu  ghét dứt  trừ,  lại  làm  việc  thiện,  luôn  luôn  trong  chính niệm
hiện tiền, thì sẽ không còn tái sinh vào loài người nữa. 
     Ham  tu mười điều  thiện,  làm nhân hữu  lậu,  là cảnh giới sinh cõi Trời; nếu bỏ
nhân hữu lậu, tu nghiệp vô lậu, tức là tu không chấp có cái thực thể của cái ta, thân
tâm chỉ là nhân duyên sinh, dựa nhau tồn tại, không có thể tính riêng, thì sẽ không
còn sinh đến cõi Trời nữa. 
     Tu Tứ Đế, Tám Chính Đạo hoàn mãn sẽ chứng qủa tiểu Niết Bàn của cảnh giới
Thanh Văn; nếu chẳng chấp Tứ Đế, chẳng chấp chân không thì sẽ tỏ ngộ tâm giải
thoát Bồ Đề. 
     Tu Mười  Hai  Nhân  Duyên,  sẽ  chứng  lý  Thiên  Không  của  cảnh  giới  Duyên
Giác; nếu chẳng chấp nhân duyên, hướng tâm tu Bồ Tát đạo, thì sẽ tỏ ngộ tâm giải
thoát Bồ Đề. 
     Tu Lục Độ,  tổng nhiếp vạn hạnh,  là cảnh giới của Bồ Tát; nếu  tu  lục độ viên
thành, đạt siêu địa vị, thì đạt giải thoát Bồ Đề. Bồ Đề viên mãn, đắc mà chẳng có gì
để đắc, thì đạt Tâm Phật. 
KINH BỒ TÁT ÐIA TẠNG BẢN NGUYỆN
GIẢI NGHĨA HẾT
TOÀN KHÔNG ĐỖ ĐĂNG TIẾN
http://quangduc.com/author/about/171/toan-khong



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét