Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

lương hoàng sám

1

     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
Qu QuQu Quả ảả ảng Minh ng Minh ng Minh ng Minh      d dd dị ịị ịch chch ch     
     
     
 
LƯƠNG
HOÀNG
SÁM
PHÁP
NGHI
THỨC 2

M MM Mụ ụụ ục L c Lc L c Lụ ụụ ục cc c     
     
Khai đàn khoa nghi Khai đàn khoa nghi Khai đàn khoa nghi Khai đàn khoa nghi                                                        3 33 3     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  1  n  1  n  1  n  1                                                  16 1616 16     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  1 n  1 n  1 n  1                                                 19 1919 19     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  2 n  2 n  2 n  2                                                 23 2323 23     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  2 n  2 n  2 n  2                                                 26 2626 26     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  3 n  3 n  3 n  3                                                 29 2929 29     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  3 n  3 n  3 n  3                                                 32 3232 32     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  4  n  4  n  4  n  4                                                  36 3636 36     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  4 n  4 n  4 n  4                                                 39 3939 39     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  5  n  5  n  5  n  5                                                  43 4343 43     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  5 n  5 n  5 n  5                                                 46 4646 46     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  6 n  6 n  6 n  6                                                 50 5050 50     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  6 n  6 n  6 n  6                                                 53 5353 53     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  7 n  7 n  7 n  7                                                 56 5656 56     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  7 n  7 n  7 n  7                                                 59 5959 59     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  8 n  8 n  8 n  8                                                 63 6363 63     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  8 n  8 n  8 n  8                                                 66 6666 66     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  9  n  9  n  9  n  9                                                  69 6969 69     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  9 n  9 n  9 n  9                                                 72 7272 72     
Nh NhNh Nhậ ậậ ập sám văn quy p sám văn quy p sám văn quy p sám văn quyể ểể ển  10  n  10  n  10  n  10                                                  76 7676 76     
Xu XuXu Xuấ ấấ ất sám văn quy t sám văn quy t sám văn quy t sám văn quyể ểể ển  10 n  10 n  10 n  10                                                 79 7979 79     
Chú thích  Chú thích  Chú thích  Chú thích                                                                82 8282 82     
     
     
     
      3

HUÂN TU  HUÂN TU  HUÂN TU  HUÂN TU LƯƠNG HOÀNG SÁM PHÁP LƯƠNG HOÀNG SÁM PHÁP LƯƠNG HOÀNG SÁM PHÁP LƯƠNG HOÀNG SÁM PHÁP           
KHAI ĐÀN K KHAI ĐÀN K KHAI ĐÀN K KHAI ĐÀN KHOA NGHI HOA NGHI HOA NGHI HOA NGHI     

Cử tán:
Cành dương nước phép
Rải khắp ba ngàn
Tánh không tám đức sạch trần gian
Pháp giới rộng thênh thang
Tội nghiệp tiêu tan
Lửa đỏ hoá sen vàng. 1
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ tát ma ha tát (3 lần)

Cung thỉnh tán: 

Trí tuệ bừng lên đoá biện tài
Đứng yên trên sóng sạch trần ai
Cam lộ chữa lành cơn khổ bịnh 
Hào quang quét sạch buổi nguy tai
Liễu biếc phất bày muôn thế giới
Sen hồng nở hé vạn lâu đài
Cúi đầu ca ngợi dâng hương thỉnh
Xin nguyện từ bi ứng hiện ngay. 2
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần) 4


Gia trì pháp thủy:
Kính  nghe,  đấng  Viên  thông  giáo  chủ,  vẻ  từ  ái  trăng  rằm,
hầu  Di  Đà miền  Cực  lạc  hương  quê,  giúp  Thích  Ca  cõi  Ta  bà
kham  nhẫn,  trú  ở  núi  lưu  ly  châu  báu,  ngồi  tòa  sen  ngàn  cánh
hồng tươi. Quá khứ Chánh Pháp Minh Vương, hiện tiền Quán Âm
Tự Tại, ba mươi hai  thân ứng hóa  3,  rộng độ quần sinh, bảy  tai
nạn hai mong cầu 4, nhiều phương ứng vật. Sức mầu  thù  thắng,
tán  thán khôn cùng, cúi mong đức cả  từ bi,  trông xuống  rũ  lòng
soi xét.  
Nay thời, vâng theo lời Phật di huấn, kính vì chư vị _____ mà
thiết lập đàn tràng, tỳ kheo lập đàn là _____ và cùng mười phương
nhân sĩ mọi người,  thỉnh mạng Tăng chúng cùng về nơi già  lam
(gia  xứ)  _____  tu  tập  lễ bái Lương Hoàng Bảo Sám,  cầu phước
khắp cả đạo tràng.
Đến  đây, mở  đầu  đàn  tràng  đốt  nén  tâm  hương  thành  tín,
cung thỉnh bồ tát Quán Thế Âm: 
Cầm cành dương  liễu khắp rưới cam  lồ,  trừ nóng bức mang
lại mát  trong,  tầm  thanh  cứu  khổ  khắp bốn  loài,  thuyết pháp độ
sinh trong sáu nẻo, sẵn tâm niệm từ bi kiên cố, đủ dáng vẻ tự tại
trang nghiêm, nghe hết chẳng trú ở, giác không rất  tròn đầy.  Có 5

cầu đều ứng, không nguyện chẳng linh, vì vậy cúi xin toàn thể đại
chúng, lắng lòng tịnh quán, kính tụng mật ngôn, gia trì pháp thủy:

Nước  sạch  này  vuông  tròn  tùy  đồ  đựng,  đầy  vơi  theo  tiết
mùa,  Xuân  tan Đông  đặc,  khảm  chảy  cấn  dừng  5, mênh mông
thay nguồn mầu chẳng thể đo lường, cuồn cuộn thay dòng thiêng
khó mà  cùng  tận,  suối biếc ẩn  rồng, đầm  lạnh giấu  trăng, hoặc
đọng dưới ngòi bút  rồng  của đấng quân  vương,  tràn ngập ngọn
sóng  ân,  hoặc  nằm  trên  cành  dương  liễu  của  bậc  bồ  tát,  rưới
thành dòng cam  lộ.   Chỉ cần một giọt nước  rưới  lên,  thì cả mười
phương đều trong sạch. 6
Cành liễu bồ tát tuôn cam lộ
Một giọt rưới khắp cả mười phương
Dơ bẩn tanh hôi thảy sạch trừ
Toàn thể đàn tràng đều thanh tịnh.

Kinh có mật ngôn, kính nên trì tụng:
Thiên  thủ  thiên nhãn vô ngại đại bi  tâm đà  la ni  : Nam mô
hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát
ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca rô ni ca
da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật
đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà. Nam mô 6

na  ra  cẩn  trì. Hê  rị ma  ha  bàn  đa  sa mế.  Tát  bà  a  tha  đậu  du
bằng. A  thệ dựng. Tát bà  tát đá na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu.
Đát điệt tha. Án. A bà lô hê, lô ca đế. Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ
đề  tát đỏa. Tát bà  tát bà. Ma ra ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng.
Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà
da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ.
Phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê, thất na thất na. A ra sâm phật
ra xá lị, phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra, hô lô
hô lô hê rị. Sa ra sa ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ.
Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ
ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha.
Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha.
Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà
ma ha a tất đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba
đà ma yết  tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn  trì bàn dà ra da, sa bà
ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá
ra dạ da. Nam mô a  lị da, Bà  lô cát đế. Thước bàn  ra dạ, sa bà
ha. Án tát điện đô, Mạn đa ra, Bạt đà da, sa bà ha.

Án, nại ma ba cát ngõa đế, a ba ra mật đạp, a ưu rị a nạp, tô
tất nễ, thực chấp đạp, điệp tả ra tể giã, đát tháp nghiệt đạt giã, a
ra ha đế, tam dược tam bất đạt giã, đát nễ giã tháp. Ám, tát rị ba, 7

tang  tư  cát  rị,  bát  rị  thuật  đạp,  đạt  ra mã  đế,  nghiệt  nghiệt  nại
tang, mã ngột nghiệt đế, sa ba ngõa  tỷ  thuật đế, mã hát nại giã,
bát rị ngõa rị sa hát. 7

Nguyện  đem  công  đức  thù  thắng  này  ngưỡng mong  ngày
Phật  huy  hoàng,  xe  pháp  thường  chuyển,  thế  giới  hòa  bình,
chúng sanh an lạc.
Lại vì vong linh tiêu tội chướng, tiêu tội chướng sanh Tịnh độ,
cõi An dưỡng, cùng dự hội Long Hoa.
Nam mô Cõi An dưỡng, cùng dự hội Long Hoa.

Đem kinh chú này, hồi hướng công đức, hộ pháp long thiên,
ba cõi linh thông sông núi, chân tể thủ hộ già lam, cầu phước bảo
hộ  an  bình,  khéo  trang  nghiêm  hương  linh  thờ  phụng,  khắp
nguyện pháp giới oan thân cùng vào Tỳ Lô biển tánh.

(Tuyên sớ thỉnh Phật nếu có)
 
Nam mô  Bổn  sư  Thích  Ca Mâu  Ni  Phật  chứng minh
công đức. (3 lần)

Hoàng kim vẻ trăng tròn 8

Ba cõi không ai hơn
Hàng phục tất cả ma
Chư thiên đều cung kính.

Cúi xin đại chúng cùng ca ngợi Tam bảo:
Phật Bảo ngợi khôn cùng, 
          Thành tựu công phu 
Trong vô lượng kiếp
          Thân trượng sáu vàng ròng vòi vọi,  
          Ngộ đạo đỉnh Tuyết Sơn, 
          Hào quang ngọc rạng rỡ giữa mày,  
Chiếu mở sáu đường 
Sáu đường tăm tối, 
Ba hội Long Hoa nguyện tương phùng,  
Diễn nói pháp chân tông.  
Quy y Thường trú Phật đà da, vòi vọi muôn đức Phật đà da.
Pháp bảo thật khó lường, 
Như Lai chỉ dạy 
Chỉ dạy lợi mừng
         Kho biển cung rồng rải hương trời,  
          Giác giả tụng kinh văn   9

         Trục ngọc lụa ráng trời,  
Chữ vàng thẳng viết, như mùa Thu 
          Nhạn bay thành hàng  
          Tam Tạng thỉnh kinh về Đông độ  
          Phô diễn đến muôn đời.
Quy y Thường  trú Đạt ma da, mênh mông ba  thừa Đạt ma
da.
Tăng Bảo chẳng nghĩ bàn,  
Thân mặc ba y
Ba y mây ngàn, 
Bát nổi gậy rung trong khoảnh khắc,  
Cảm ứng mọi căn cơ,  
Làm bậc công đức của trời người,  
Giới hạnh không trái,  
Con nay đảnh lễ nguyện xa hay,  
Rung tích trượng dắt dìu. 
Quy y Thường  trú Tăng già da, sáng rỡ sáu  thông Tăng già
da. 
  
Nam mô Vân Lai Tập Bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 10

(Tán Vi Đà, niệm Thiên nữ chú hoàn tuyên sớ)

Vi Đà thiên tướng
Bồ tát hóa thân
Ủng hộ Phật pháp thệ rộng sâu
Chày báu trấn ma quân
Công đức khó lường
Cầu đảo đến phàm tâm.
Nam mô Phổ Nhãn Bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Cử hương tán:

Giới định chân hương
Vừa bén xông thiên thượng
Đệ tử kính thành
Đốt tại lư vàng phóng
Phút chốc ngất trời
Thơm phức cả mười phương
Ngày xưa Da Du
Thoát nạn tiêu tai chướng.
Nam mô Hương Vân Cái Bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Nguyện khải văn: 11


Kính nghe:  Lương hoàng vừa lập, Di Lặc đề danh, Chí Công
biên soạn văn mầu Hoa  tạng,  kinh văn chép  lại danh hiệu Phật
đà, nhóm đại sa môn, rộng tuyên sám pháp. Sám văn cảm mộng
thời Lương triều, khí lành bủa quanh vua Vũ đế.  Do vậy, lấp lánh
kim quang  không mờ,  rực  rỡ  lửa báu  cỏ  thơm,  rạng ngời hương
khói xông cửa khuyết, chập trùng hoa nhụy điểm cung vua.  Trời
xanh muôn dặm,  thiên nhân hiện vẻ đoan nghiêm báo  thể,  trước
thềm ngọc trắng, Hy Thị thoát thân khổ nạn mãng xà, từ đây tiêu
tai, tiêu tai lành đến, do đây diệt tội, diệt tội phước sanh. Chính là
đèn  sáng  xua  tối,  thật  vậy  thuốc mầu  chữa  bịnh.   Ân  thấm ướt
chín cõi, đức  trùm cả bốn  loài, công đức sám hối khen mãi khôn
cùng.   Đó  là,  sám  văn  vừa mở,  kính  lạy hạnh  vương Phổ Hiền,
vận  tưởng  hương  hoa,  cúng  dường  mười  phương  Điều  Ngự. 
Muốn  trang nghiêm  thanh  tịnh đàn  tràng,  trước  tụng đọc bí mật
câu văn, để cầu  thiện quả được vuông  tròn,  làm cho  tội  rơi như
hoa rụng. Ngước lạy hồng từ, thêm lớn thương xót.

  Ảnh tượng bồ tát Phổ Hiền quang lâm pháp hội.

  Trên đài có một vị bồ tát ngồi yên kiết già, tên là Phổ Hiền.
Thân ngài có màu ngọc trắng, phóng ra năm mươi loại ánh sáng, 12

trong mỗi ánh sáng có năm mươi màu sắc, làm thành vầng sáng
quanh đầu ngài.  Từ các lỗ chân lông toàn thân phát ra ánh sáng
hoàng kim, trong ánh sáng ấy có vô lượng hóa Phật, cùng hóa bồ
tát để làm quyến thuộc. 
  Voi bước nhẹ an lành, rải mưa hoa báu lớn, đến trước hành
giả, voi trắng mở miệng, thì các ngọc nữ trong ao trên các ngà voi
trổi  các  kỹ  nhạc,  âm  thanh  thật  huyền  diệu,  ca ngợi  con  đường
của chân thật của pháp đại thừa.  
Sau khi nhìn thấy sự kỳ diệu này, hành giả hoan hỷ kính lễ,
lại còn đọc tụng kinh điển sâu xa, lạy khắp mười phương vô lượng
chư  Phật,  lễ  tháp  đức  Phật  Đa  Bảo  và  đức  Thích  Ca Mâu  Ni,
cùng lạy bồ tát Phổ Hiền và các đại bồ tát, phát thệ nguyện rằng:
Nếu  con  đủ  phước  đức  kiếp  trước,  thì  hôm  nay  được  gặp  ngài
Phổ Hiền, xin ngài tỏ điềm lành hiện sắc thân cho con được thấy.
8
Nam mô Phổ Hiền Vương Bồ tát ma ha tát. (3 lần) 

(Cử Nhất thiết cung kính:)

Nhất  tâm  đảnh  lễ mười  phương  pháp  giới  thường  trú
chư Phật. 13

Nhất  tâm  đảnh  lễ mười  phương  pháp  giới  thường  trú
Tôn pháp.
Nhất  tâm  đảnh  lễ mười  phương  pháp  giới  thường  trú
Hiền thánh tăng. 

(Đại  chúng  quỳ  xuống,  trang  nghiêm  cầm  hương  hoa,  như  pháp  cúng  dường  mười
phương pháp giới Tam bảo. Chủ lễ xướng:)

Nguyện  hương  hoa  này  khắp mười  phương,  làm  thành  đài
mây ánh sáng nhiệm mầu, âm nhạc cõi  trời, hương báu cõi  trời,
món  ngon  cõi  trời,  y  báu  cõi  trời,  tất  cả  pháp  trần  đều  vi  diệu
không  thể nghĩ bàn.   Mỗi một hạt bụi  làm  thành  tất cả bụi  trần,
mỗi một bụi  trần  làm  thành  tất  cả pháp giới.   Tiếp diễn  vô ngại
tương  tác  trang nghiêm.   Trước Tam bảo khắp cả mười phương,
trước Tam  bảo mười  phương  pháp  giới,  đều  có  thân  con  tu  tập
cúng dường, mỗi một  thân hình khắp pháp giới, các  thân không
lẫn lộn, không chướng ngại nhau.  Vị lai không cùng tận con luôn
làm việc Phật, khắp xông các chúng sanh trong pháp giới, nguyện
chúng sanh được xông ướp đều phát  tâm bồ đề, cùng  thể nhập
Vô sanh, chứng tuệ giác Phật đà.
Nguyện mây hương mầu này 
Khắp cùng mười phương cõi  14

Cúng dường tất cả Phật  
Tôn Pháp, các bồ tát, 
Vô biên chúng thanh văn 
Và cả thảy Thánh hiền 
Duyên khởi đài sáng chói 
Trùm đến vô biên cõi, 
Trong vô biên Phật độ
Thọ dụng làm việc Phật
Khắp xông các chúng sanh 
Đều phát lòng bồ đề.

Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân cận. 9

Thánh Chúa vua trong trời 
Tiếng Ca lăng tần già 
Thương xót hàng chúng sanh 
Chúng con nay kính lễ. 10

Cung thỉnh: 15

      
Phật cầm sen vàng đỉnh Thứu phong
Pháp mở kho báu rời long cung 
Tăng từ nội uyển chuyên thiền định
Tam bảo vào đàn pháp hội cùng.
  Nam mô Thập phương thường trú Tam bảo. (3 lần)















 16

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN  N N  N TH THTH THỨ ỨỨ Ứ      N NN NH HH HẤ ẤẤ ẤT TT T     

Hương vừa bén
    Đỉnh báu đốt ngát bay
    Chiên đàn trầm nhũ dâng lên cúng
    Khói hương xa tỏa Liên hoa động
    Chư Phật bồ tát xuống thiên cung
    Núi Thanh lương la hán
    Nạp thọ người trời cúng.
  Nam mô Hương Cúng Dường bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Từng nghe: Một  thể hóa  thân, khắp ứng mười phương quốc
độ, một  lời  thuyết pháp,  tiếng nghe ba cõi nhân  thiên.   Tất cả vô
ngại nhân đều từ một đạo một cửa mà thoát biển sống chết. Một
thừa viên đốn giáo đều do một tướng một vị mà lên núi niết bàn.
Tùy cơ như trăng in ngàn sông, ứng vật tợ xuân về trái đất, duyên
riêng  pháp  giới,  ngồi  khắp  đạo  tràng.    Mong  đạo  nhãn  dùng
chứng tri, xét nỗi lòng của phàm tình.  Giờ này, phụng vì cầu sám
hối đệ tử _____, mở đầu thiết lập Từ bi đạo tràng sám pháp, đang
là  quyển  thứ  nhất,  duyên  khởi  nhập  đàn.   Con  cùng  đại  chúng
một  lòng  tha  thiết, ba nghiệp  lắng  trong, nương  theo  khoa giáo,
đốt  hương  rải  hoa,  cúng  dường  mười  phương  Tam  bảo,  xưng 17

dương hồng danh chư Phật, năm vóc sát đất, quay về nương tựa,
phát lồ sám hối, trừ các nghiệp chướng.
Thiết  nghĩ,  đệ  tử  chúng  con  từ  vô  lượng  kiếp  nào  cho  đến
ngày nay, do mê một tánh, lý muội một thừa, một phen con mắt bị
nhặm,  hoa  đốm  hư  không  rơi  loạn.   Một  bọt  nước  vừa  khởi  thì
biển huyễn ảo đã nổi cơn sóng dữ.  Một chân tam muội trái ngược
thì một  điểm  vô minh  phóng  túng.    Ý  gồm  ba  độc,  nghiệp  tạo
muôn mối, mở cánh cửa trần lao tám vạn, khởi chướng ngại phiền
não  trăm ngàn.   Đắm say dục cảnh như voi cuồng không người
câu móc, đuổi bắt vọng duyên tợ thiêu thân bay vào lửa cháy. Tội
lỗi chất cao như gò núi, nghiệp chướng sâu  thẳm như biển khơi. 
Đã biết căn  lành chỉ chút  ít, e  rằng khó  tránh khỏi quả dữ.   Nay
phải  siêng  lo  suy  niệm,  sửa  đổi  tâm  tư,  ngoài  nâng  niu  thắng
duyên,  trong  ôm  ấp  hổ  thẹn.    Tập  hợp  nơi  đây  là  hiện  tiền  đại
chúng  thanh  tịnh,  chia  sẻ  niềm  vui  sám  hối  linh  văn,  nương  uy
quang  của  ngàn Phật,  rửa  tội  cấu  của  nhiều  đời.   Con  nguyện
như vậy, Phật liền thương xót, ngước lạy hồng từ, thầm thêm gia
hộ. 

  Trên trời dưới trời ai như Phật
  Mười phương thế giới không sánh bằng
  Thế gian có gì con thấy hết 18

  Tất cả không ai sánh bằng Phật.
Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật. 








 19

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN  N N  N TH THTH THỨ ỨỨ Ứ      NH NHNH NHẤ ẤẤ ẤT TT T     

Lương hoàng bảo sám
Vũ Đế giữ nhân
Phu nhân Hy Thị đọa xà thân 
Cứu khổ thoát bờ mê
Soạn tập kinh văn
Cúi đầu lễ Năng Nhân.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển một rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Hoan Hỷ Tạng bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Trên trời nhân gian có bậc giác ngộ Chánh biến
tri, hào quang hơn nhật nguyệt, đức hạnh vượt thái hư, chẳng đến
chẳng  đi,  lờ mờ  thường  cư Hoa  tạng  giới,  rực  rỡ  lặng  ngồi Niết
bàn  thành.   Ứng vật hiện hình,  tùy cơ phó cảm, như hồng chung 20

ngân  vọng,  tợ  hang  rỗng  truyền  thanh.    Nguyện  rũ  lòng  đại  bi
khôn cùng, soi xét một thời làm việc Phật.
  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ  tử _____, cung kính  thực
thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ nhất,
công  đức  làm  xong,  viên mãn  bên  trong.    Sửa  bày  đàn  tràng,
trang hoàng  tượng biếc, đèn nhúm cây  lửa, hương  tỏa  trầm đàn,
rải  năm màu  những  danh  hoa,  hiến  thơm  ngon  nhiều  diệu  quả. 
Ca  ngợi  Phạm  bối,  xưng  tán  hồng  danh,  hành  đạo  nhập  thiền,
tụng kinh trì chú, bao nhiêu công đức đều xin hồi hướng:  thường
trú  chân  thật  từ bi Tam bảo  trong pháp hội, hộ pháp  chư  thiên,
thần linh trong cõi thượng trung hạ, vong linh gần xa vô biên tình
huống.   Đức Phổ Hiền  soi  xét  công  đức  này,  khắp  chúng  sanh
hoan hỷ trong lòng, đem ân đức trải thiên giới nhân gian.  Mặt trời
giáo hóa hiện phương này cõi nọ, đạo  tràng viên mãn, mang  lại
lợi ích.  
  Thiết nghĩ, giờ này cầu sám hối đệ  tử _____, sám hối  tội  lỗi
cho  tiêu  tan, nghinh đón phước đức được an  lành, phát nguyện
cầu sanh Tịnh độ.
  Lại  nguyện:    Một  đời  tội  cấu  băng  tan,  một  kiếp  nghiệp
duyên  tuyết  sạch, một  tâm  tỏ  ngộ, một  đường  hướng  đến  chân
như, một niệm quay về, một thừa tạo nên diệu đạo.  Chuyển khổ
đau hóa  thành an  lạc, rưới nóng bức  làm cho mát  trong.   Tổ  tiên 21

tôn  thân quyết định vãng sanh nơi Tịnh độ, cả nhà quyến  thuộc
mong được hưởng mãi đến  tuổi già.   Kẻ oán  thân đồng  tắm gội
sóng ơn, người phàm thánh cùng dạo chơi đất báu.
  Nay  thời  theo văn sám hối, còn  lo khó  tránh  tội nghiệp nhỏ
nhiệm, nhọc xin đại chúng, cùng nhau khẩn cầu sám hối. 
  Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

(Nếu có sớ hay biểu thì hỏa hóa)

  Lương hoàng bảo sám quyển một công đức lực, nguyện diệt
tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Hoan Hỷ Địa.
  
Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám 22

    Quyển một đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Hoan Hỷ Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)
    


    
 








 23

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN HAI N HAI N HAI N HAI     

Hoa dâng hiến
    Văn Thù cùng Phổ Hiền
    Mẫu đơn, thược dược đẹp tuyệt trần
    Trăm hoa hiến cúng hoàng kim điện
    Hoa nở hoa tàn đầy sen vàng
    Áo xanh đồng tử cầm hoa
    Mắt thấy Từ tôn diện. 
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát (3 lần)

  Kính nghe:  Muốn được nhân pháp của hai không 11, phải
chứng cực quả của hai nghiêm 12, đã hiểu chân tục của hai đế,
ắt  rõ  vọng  duyên  của  sanh  tử.    Tám  bộ  long  thần  13  để  theo
hầu, linh thông u hiển mà thầm giúp.  Trước ngực nổi tàng chữ
vạn 14, dưới chân in vòng ngàn tăm 15.  Công đức của Phật thật
khó lường, muốn ngợi ca Phật sao cho hết.  Chẳng trái bản thệ,
khắp lợi hữu tình, cao phô đài sen trăm báu, soi xét hai thời làm
việc Phật.
  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ  tử _____, mở đầu  thiết
lập  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,  đang  là  quyển  thứ
hai,  duyên  khởi  nhập  đàn. Đệ  tử  chúng  con,  ba  nghiệp  trong 24

như tuyết, sáu căn sạch như băng, đốt hương Đâu lâu bà 16, rải
hoa Phân đà  lợi  17, xa dâng mười phương hiền  thánh, ca ngợi
chư Phật hồng danh,  rảy  từng giọt nước  cam  tuyền,  rửa  từng
tảng đá tội cấu. 
  Thiết nghĩ, giờ này cầu sám hối đệ  tử _____, xa  từ nhiều
kiếp đến tận đời nay, hai chướng 18 trói quanh nối tiếp sanh tử, 
hai không chưa ngộ ùn khởi ghét thương, sống tà kiến bằng hai
bên, đi khổ vui với hai đường.   Vô minh vội khởi, dâm sát đạo
vọng nên niệm niệm trôi chảy, phiền não ngày tăng, thân khẩu
ý nghiệp mà trùng trùng tạo tội. Huống chi giao báo thăng trầm,
như bánh xe nước quay, chỉ là đương nhiên nghiệp quả, tương
tự chùm trái ác xoa 19 . Nếu chẳng siêng tu lễ sám, do đâu miễn
thoát  tội khiên. Do vậy, ý khởi  lòng  thành,  tâm ôm hổ  thẹn, để
phân  ra  cảnh  phước  hiện  tiền, mãi  làm  cây  thước  tốt  diệt  tội. 
Con nguyện như vậy, Phật hẳn xót thương, ngước lạy hồng từ,
thầm thêm gia hộ.

    Phật diện như là trăng tròn lặng
    Như ngàn mặt nhựt phóng quang minh                                                                                   
    Hào quang khắp chiếu mười phương cõi
    Hỷ xả từ bi thảy đủ đầy. 25

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật. 









 26

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      HAI HAI HAI HAI     

    Lương hoàng bảo sám
    Trăn nói tiếng người
    Nhân do đời trước tạo oan khiên
    Rơi xuống chốn u minh
    Thọ khổ vô biên
    Ngày nào được an nhiên.
    
Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển hai rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Ly Cấu Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Muôn đức trang nghiêm làm nên diệu thể, chưa
rời Đâu Suất, giáng xuống hoàng cung.  Trăm phước tướng tốt gọi
là Từ  tôn,  chẳng  rời  bồ  đề  20,  thăng  lên Đao  Lợi.   Cúi  xin Giác
vương  rũ  lòng  thương  xót, đại bi cứu giúp, đoạn dòng  chảy  của
trầm luân, pháp nhãn tròn sáng, soi lòng thành của phàm tình. 27

  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ  tử _____, cung kính  thực
thi phương pháp sám hối đạo  tràng  từ bi, đang  là quyển  thứ hai,
công đức vuông  tròn.   Đại chúng  thanh  tịnh  trong đàn, xuất sám
nhập sám, hành đạo nhiễu quanh, đốt hương rải hoa, tụng kinh trì
chú.  Bao nhiêu công huân lễ sám quyển hai, đem hết hai thời hồi
hướng:  Phật đà, Đạt ma, Tăng già trong thể nhất chân; thiên tiên,
địa thần, thủy phủ trong cõi Tam giới, cảm ứng sanh tâm hoan hỷ,
soi thấy tâm ý chân thành, đem một chút bi ai, tròn hai nghiêm cụ
bị,  xuất  sanh  công đức, phụng  vì  cầu  sám hối đệ  tử  _____,  rửa
không ba nghiệp, thêm lớn hai nghiêm.
  Lại nguyện: sự chướng, lý chướng thảy tiêu tan, nhân không,
pháp  không  cho  trong  sạch.    Điên  đảo  hai  tâm  21  chẳng  khởi,
phước  tuệ  hai  thứ  trang  nghiêm,  nhập  pháp môn  không  hai  22,
chứng diệu lý chân thường.  Khắp rưới ba cõi, pháp giới oan thân,
được nhân pháp hai không, đắc vô sanh hai nhẫn 23.   Hai  tuệ 24
tròn  sáng,  hai  hạnh  25  tròn  đầy,  giong  chơi  nơi  thuyền  từ  biển
pháp, thỏa thích nơi quả Tát bà nhã 26 .
  Tuy  rằng,  theo văn sám hối, còn  lo chưa  thật chí  thành,  tội
nghiệp vi tế khó tránh, xin đại chúng chịu nhọc thêm một lần nữa,
cùng nhau khẩn cầu sám hối. 
  Nam mô Cầu Sám Hối bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 28

Lương hoàng bảo sám quyển hai công đức lực, nguyện diệt
tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Ly Cấu Địa.
    
Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 
    Lương hoàng bảo sám
    Quyển hai đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Ly Cấu Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 29

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      BA BABA BA     

Đèn rực rỡ
  Chói lọi mọi bảo đài
  Quang minh chiếu khắp hằng sa cõi 
  Đường mê sáng soi đều vô ngại
Diêm ma chiêm lễ tử kim đài
Nhiên Đăng Phật thành đạo 
Từng nhận trời người bái.
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:   Ba kỳ quả mãn, hiện hoa Ưu đàm xuất  thế, ba
loại hóa  thân, bày biển giáo pháp  khó  lường. Ba  xe dụ dẫn, bờ
bến cho hàm linh ba cõi, ba quán 27 sáng trong, tuyên dương cho
quốc độ ba ngàn.  Nghịch hạnh, thuận hạnh đâu không Phật sự,
cất bước hạ bước chính là đạo tràng.  Cúi xin Từ tôn soi xét lòng
thành.
  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ tử _____, mở đầu thiết lập
phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,  đang  là  quyển  thứ  ba,
duyên khởi nhập đàn. Đệ  tử chúng con, cất mình  làm lễ, cúi đầu
chí thành, quán tưởng Từ dung, xưng dương Giác hiệu, hiến món 30

ngon Hương  Tích,  cúng  hoa  quả  danh  viên, mong  chư Phật  rũ
lòng từ, xá nhiều đời bao tội cấu.
  Thiết nghĩ, cầu sám hối đệ  tử _____,  từ vô  thỉ kiếp cho đến
đời nay, ba biển  tâm mê 28,  tạo ba hữu 29  thăng  trầm chìm đắm,
ba  không  30  chưa ngộ,  làm ba đường  khổ  thú nguyên do.   Khởi
dậy ba hoặc tâm 31 nên ba nghiệp càng sâu, trần trần cách ngại,
hiểu  mờ  ba  tu  tập  32  mà  ba  nghiệp  chưa  tiêu,  niệm  niệm  vin
duyên.   Giống  tằm  kéo  kén,  như  voi  ngâm  bùn,  chìm  đắm  trói
buộc, không đường giải  thoát.   Nay  thời, hiểu  rõ  thân  tâm  là gốc
khổ,  tin  tưởng nghiệp quả khó  trốn  tránh, bày  tỏ xu hướng  từ bi
chân  thật, mở  ra  tâm  thành  biển  cả  tuệ  giác.   Nguyện mặt  trời
Phật sáng trên không, soi rọi nẻo tối tăm khổ thú, tu ba học 33 bậc
truy lưu, lễ ba ngàn đấng Đại giác.  Tâm con thắc mắc, Phật đức
cao vời, ngước lạy hồng từ, thầm thêm gia hộ. 
    
Bậc Từ bi ba ngàn cảnh giới
    Đấng Pháp vương trăm ức cõi trần
    Xin mở mắt sen soi phàm tình
    Chúng sanh nguyện cầu thảy ứng linh.
 31

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.









 32

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT TT T      SÁM VĂN QUY SÁM VĂN QUY SÁM VĂN QUY SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      BA BABA BA     

Lương hoàng bảo sám
Vũ Đế bi thương 
Thân dài mãng xà quấn thềm rồng
Mắt lửa sáng bay
Khải cáo Từ bi
Độ thoát khỏi A tỳ.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển ba rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Phát Quang Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính  nghe:    Thân Phật  tướng  hảo,  vòi  vọi  như  núi  tử  kim,
biển pháp  lắng  trong, vằng vặc như  trăng ngân hán.  Bồ  tát hiền
thánh, ứng cúng ở trên trời nhân gian, bích chi la hán, thuyết pháp
nơi phương này cõi nọ.  Đèn sáng cho ba ngàn thế giới, trời trăng 33

của  trăm ức  tối  tăm.   Công sâu chớ đo, đức  lớn khó  lường,  làm
đòn bẫy ra ba cõi, xây việc Phật trong ba thời. 
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
ba, công quả tròn đầy, người tu tam muội, xuất nhập ba thời, kính
lễ ba ngôi quí báu, một lòng ngay thẳng, đốt lên chân hương năm
phần, tung rải nhụy hoa ba xuân.  Mân trình món ngon món ngọt,
chén đầy trà mộc trà hoa.
   Chuông khánh giao hòa nên phạm âm mầu nhiệm, tụng kinh
hành đạo mà lặng vui thiền tư, việc làm từ nơi tâm, hoàn toàn xin
hồi  hướng:  Lạc  bang  Vô  Lượng  Thọ,  giáo  chủ  Thích  Ca  Văn,
Quán Âm với Địa Tạng,  la hán và  thanh văn,  thiên  tào cùng địa
phủ,  ba  cõi  chúng  cao  chân,  hàm  sanh  hoan  hỷ  niệm,  soi  xét
công  huân  thù  thắng  này,  lòng  bi  không mỏi mệt,  che  chở  bao
quần sanh.  Đem công đức bất tận này, phụng vì cầu sám hối đệ
tử _____, xé nát ba độc căn, vượt qua lưới ba cõi.
  Lại nguyện: Ba nghiệp thanh tịnh, ba giải thoát môn 34 được
thành  tựu,  ba  không  đốn  ngộ,  ba  vô  lậu  học  phải  tuyên minh. 
Thoát hẳn quả báo ba đường,  thường sanh ngôi nhà ba báu, ba
không  hợp  thẳng  vào  sắc  tâm,  ba  chướng  35  toàn  nên  cho  giải
thoát.   Ba kỳ quả đủ, ba giác 36 công  tròn, ba  thừa đắc đạo bậc
thánh hiền, ba cõi cùng thấm nhiều lợi lạc.  Sám văn tuy diễn nói, 34

khẩn  thiết  chưa  chí  thành,  thỉnh  đại  chúng  cung  kính,  thêm
nguyện cầu sám hối.
  Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

(Nếu có sớ hay biểu thì hỏa hóa)

  Lương hoàng bảo sám, quyển ba công đức lực, nguyện diệt
tất cả  tội chướng của chúng con,  thân chứng bồ  tát Phát Quang
Địa.

Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển ba đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi 35

    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Phát Quang Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)
















 36

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      TƯ TƯTƯ TƯ     

Tào Khê thủy
Một phái hướng đông lưu
Quán Âm tịnh bình trừ tai kiếp
Đề hồ quán đảnh sạch cấu trần
Cành dương rưới khắp thấm khô khan
Yết hầu tươm cam lộ
Có giọt quỳnh tương suốt.
Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính  nghe:   Bốn  trí  tròn  sáng  37  thể  nhiệm mầu,  vằng  vặc
sáng  trăng  giữa  ngôi  sao,  bốn  biện  không  ngại  38  tiếng  sâu  xa,
tuyệt vời  tánh không ngoài  thời kiếp.   Vận dụng bốn  tâm 39  trong
bốn  đường  ác,  thoát  ly  bốn  tướng  40  trong  bốn  sanh  loài.    Tin
tưởng  ân  Phật  trùm  khắp,  kính  mến  đức  thánh  cao  xa.    Xin
nguyện hồng ân soi xét, nhận cho lòng con khẩn thành.
  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ  tử _____, cung kính  thực
thi phương pháp sám hối đạo  tràng  từ bi, đang  là quyển  thứ  tư,
duyên khởi nhập đàn.  Nhân tất đàn 41 trong bốn phạm trù thành
tựu mang lại ba nghiệp trong sạch, khắc niệm nhiếp niệm tỏ lòng
thành, tâm chánh thân chánh mà hành lễ.  Bình chưng hoa xuân 37

ba đảo  42,  lò đốt hương  thơm sáu  thù 43, đèn khơi nến  tuệ, cúng
hiến như Thuần Đà, lễ bái cùng đi nhiễu, tụng niệm ngợi khen, chí
thành phát lồ, siêng năng sám hối.
  Thiết nghĩ, cầu sám hối đệ  tử _____,  từ bao đời kiếp,  thẳng
đến ngày nay, mê bốn đại của sắc  thân,  thọ bốn  loài  trong  luân
chuyển, khởi bốn vọng kiến điên đảo 44  , phạm bốn phép  tắc oai
nghi.    Từ  mê  vào  mê,  do  khổ  thêm  khổ,  theo  gió  cảnh  thuận
nghịch, chìm sông ái trầm luân, vô minh thật nặng thật sâu, phiền
não như keo như sơn.   Nương pháp  lớn để  tuyên dương,  tựa  lẽ
thật mà giải thích.  Nay thời tấc dạ mừng rỡ, khắc cốt ghi da, gom
góp đức  lớn  chảy  tràn,  vận dụng một  lòng  sám hối.   Ngước  lạy
hồng từ, thầm thêm gia hộ.

    Bốn lần tám trang nghiêm diệu tướng
    Ba tăng kỳ đại kiếp tu nhân
    Mặt như trăng tròn, mắt như sen
    Trên trời thế gian đều cung kính.

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 
 38

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.

  











 39

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      TƯ TƯTƯ TƯ     

    Lương hoàng bảo sám
    Sắc mạng sa môn
    Trên điện hoàng kim diễn huyền văn
    Kinh thành kéo mây lành
    Mưa pháp rực rỡ
    Trần thế cảm hoàng ân.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển bốn rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Diệm Huệ Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:   Trên  trời dưới  trời, đức Phật  tôn cao,  trong đời
ngoài đời, pháp Phật thù thắng, cam lộ thấm khắp cõi hằng sa, bồ
đề  hương  rải  trời  phương  ngoại.    Đảnh  hào  quang  bạch  ngọc
uyển chuyển,  thân diệu  tướng hoàng kim  rạng ngời, chúng sanh 40

cầu nguyện, cảm ứng hiện  tiền, xin nguyện hồng  từ, xót  thương
nhiếp thọ.
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
tư,  lễ  tụng  trọn  vẹn,  công huân  cáo  thành, bi  tâm  xoay  chuyển,
khắc  niệm  kính  thành.    Mây  lành  quấn  quít  hương  xông  nước
lắng, nến ngọc  lung  linh hoa nhụy Ưu đàm, hiến cúng cơm  thơm
bếp  thiên  trù, sửa soạn  tô đà vị  thiền duyệt, chuông khánh cùng
nhạc  trời  trỗi  tấu, phạm âm hòa diệu âm ngân nga.   Tập hợp  lợi
lành, giúp khắp hữu  tình, hồi hướng:   đức Giác Thiên kim  tướng,
bậc mãn mục Năng Nhân, đầy nửa đầy  chân  lý phổ  thông, học
không học xuất  trần  thượng sĩ,  trời đất âm dương  linh  triết, nhân
gian đền miếu âu cơ, soi xét  lòng  thành kính ngưỡng,  trùm khắp
ân điển  linh quang.   Xuất sanh công đức, phụng vì cầu sám hối
đệ  tử  _____,  sám  trừ  bốn  thứ  tội  sâu,  thể  nhập  bốn  không  45
chánh định.
  Lại nguyện, bốn loài căn bản nguyên nhân, như nước sôi rót
tuyết, bốn  trụ phiền não chướng cấu 46, giống mặt  trời rọi sương. 
Ra khỏi bốn dòng 47, rời sông ái nổi chìm, mau thành bốn đức 48,
đến  đất  vui  thảnh  thơi,  bốn  an  lạc  hạnh  49  luôn  thắp  sáng,  bốn
hoằng thệ nguyện mãi vững bền.  Cha mẹ nhiều đời cùng lên cửa
giải  thoát,  oan  thân  nhiều  kiếp  cùng  chứng  quả  bồ  đề.   Đây  là 41

theo văn sám hối,  lo sợ nghiệp cũ chưa  trừ, nhọc xin đại chúng,
cùng cầu sám hối.
Lương hoàng bảo sám, quyển bốn công đức lực, nguyện diệt
tất  cả  tội  chướng  của  chúng  con,  thân  chứng  bồ  tát Diệm Huệ
Địa.
    
Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển bốn đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên 42

    Diệm Huệ Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)



















 43

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      NĂM NĂM NĂM NĂM     

Kỳ viên quả
    Hương vị ngon lạ thường
    Dưa xanh, thị hồng, a lê tra
    Lệ chi, long nhãn mang cúng dường
    Quả nại ma la đời khó sánh
    Bà la môn tiên nhân
    Kính dâng liên đài thượng.
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Từ tôn sạch năm mắt 50, hiện chói lọi diệu tướng
quang minh,  giáo  hải mở  năm  thừa  51,  nói  trong  trẻo  huyền  âm
bát nhã.  Bậc thánh hiền trải năm mươi lăm vị 52,  mỗi một niệm là
quả mãn bồ đề, đấng đại sĩ đủ năm căn năm lực 53, mỗi một trần
là nhân duyên giải thoát.  Quy y thánh hiền thì tăng trưởng phước
điền, lễ niệm đại sĩ thì tiêu trừ tội cấu, vắng lặng chẳng động, cảm
ứng  liền  thông.   Nguyện ban  rải  từ quang, chứng minh con hiến
cúng.
  Giờ này, phụng vì cầu sám hối đệ  tử _____, cung kính  thực
thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ năm,
duyên khởi nhập đàn.  Kính soạn nhang đèn bình quả, dâng lên lễ 44

mọn  món  ngon,  cúng  khắp  chư  Phật  thánh  hiền,  xưng  dương
hồng danh bảo hiệu, cúi đầu lễ bái, chí thành bày tỏ.
  Thiết  nghĩ,  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  từ  nhiều  kiếp  xa  xưa
thẳng đến đời này, mê năm uẩn nên đến đi, sống năm trược 54 mà
lưu chuyển, năm tham dục 55 thắt buộc, năm trần cảnh 56 tiếp xúc,
năm  tội  nghịch  57  chưa  trừ,  khởi  ý  niệm  tôi  anh  yêu  ghét,  năm
pháp  tướng  58  chưa  ngộ,  sanh  tình  cảm mình  người  buồn  vui. 
Nhân duyên chẳng những không sai, quả báo làm sao trốn tránh. 
Nay thời, đại chúng lòng thành cung kính, cùng mở tung cánh cửa
giải  thoát, nương  tựa vào  trí đại viên cảnh 59,  tắm gội  trong biển
tánh bồ đề.  Tình ý như vậy, Phật hẳn xót thương, ngước lạy hồng
từ, thầm thêm gia hộ.
      
Thân Phật thanh tịnh tợ lưu ly
    Mặt Phật rạng ngời như trăng sáng
    Phật ở thế gian thường cứu khổ
    Tâm Phật không đâu không từ bi.

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 
 45

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.













 46

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      NĂM NĂM NĂM NĂM     

    Lương hoàng bảo sám
    Chí Công 60 tuyên dương
    Chín tầng cung điện phóng hào quang
    Hy Thị khỏi tai ương
    Cảm tạ quân vương
    Thoát khổ lên thiên đường.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển năm rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Nan Thắng Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:   Tướng  tốt  tuyệt vời vòi vọi như mặt  trời  tráng  lệ
treo không, phong thái từ bi rạng rỡ như sấm xuân chấn động địa
cầu.    Rưới  dòng  cam  lộ  lên  tâm  hồn  bụi  bặm,  rót  ngọn  đề  hồ
xuống  cảnh giới  cát đá.   Có  cầu  liền ứng,  không nguyện  chẳng 47

toại.  Như Lai mở năm mắt phóng quang minh, dung hội làm năm
thời bao Phật sự.  
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
năm,  lễ  tụng xong  rồi, công huân sẵn đủ.   Gom năm đức  61 cho
chảy  xa,  ngắm  năm  trời  62  bao  tướng  đẹp,  đốt  năm  phần  của
hương chân, điểm năm phương bằng đuốc tuệ, kệ tán chung một
điệu, hoa lay những năm màu, thiết cỗ đủ đầy đem hiến cúng, lễ
Phật  hiệu  bằng  ngưỡng  mộ,  tác  quán  tụng  kinh,  công  đức  ít
nhiều,  trước  đem  hồi  hướng  quả Phật  vô  thượng  bồ  đề,  sau  là
cùng khắp chúng sanh cõi nước hằng sa.   Xuất sanh công đức,
phụng vì cầu sám hối đệ tử _____, sám là ăn năn lỗi trước, tập là
gom chứa nhân mầu.
  Lại nguyện, mây năm uẩn  tự rỗng không,  tướng năm suy 63  
chẳng xuất hiện, năm căn năm lực đều đầy đủ, năm cái năm triền
64  thảy  tiêu  tan, sáng  tỏ năm  thứ  tâm hoa 65, nắm giữ năm phần
tịnh giới 66.  Quyến thuộc hiện còn vui năm phước 67 mãi đến già,
người  thân đã mất được năm minh  68 dần  thành  tựu.   Những kẻ
trôi  lăn chốn mịt mờ, xin cho dứt hết khổ đau cùng chứng bồ đề,
những  người  cố  chấp  nỗi  hận  thù,  xin  cho  cởi mở  oan  nghiệp
đồng sanh  thiện đạo.   Sơ  lược văn mầu hối  lỗi, nhỏ nhặt nghiệp 48

báo khó trừ, mỗi một cậy nhờ đại chúng, ngàn trùng cầu xin sám
hối.
  
  Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Lương  hoàng  bảo  sám,  quyển  năm  công  đức  lực,  nguyện
diệt  tất  cả  tội  chướng  của  chúng  con,  thân  chứng  bồ  tát  Nan
Thắng Địa.
    
Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 
    Lương hoàng bảo sám
    Quyển năm đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi 49

    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Nan Thắng Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)
















 50

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      SÁU SÁU SÁU SÁU     

Xuân muôn hoa
Cỏ cây một màu xanh
Nụ trà điểm xuyết toả hương bay
Bình ngọc chén trà hoa tuyết lay 
Công án Triệu Châu thêm mới mẻ
Thụy ma vương lui chạy
Mấy độ hoàng hôn trận.
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:   Đức Thích Ca  thị hiện sáu năm khổ hạnh, đạo
quả viên  thành, phá  thiên ma cõi  trời sáu dục  69, ánh sáng  trăm
báu rực rỡ, bồ  tát đều  tu sáu độ,  làm quyến  thuộc  trang nghiêm,
thanh văn thảy chứng sáu thông, ngồi vây quanh sau trước.  Lúc
thọ ký thì đất trời chấn động sáu cách 70, khi thuyết pháp thì mưa
hoa lả tả sáu thời.  Đức mầu khó nghĩ, ân sáng khắp trùm, xin rũ
xót thương, soi xét lòng thành.
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
sáu, duyên khởi nhập đàn. Hương ngát sáu  thù, đèn soi sáu địa, 51

sáu hoa bay sáu kết hợp đất trời, sáu vị cúng sáu dục thiên ngon
ngọt, dập đầu cúi lạy, ân cần hối lỗi.
  Thiết nghĩ, cầu sám hối đệ  tử _____, nhân  từ kiếp xưa, quả
đến đời nay,  theo đuổi sáu căn phóng  túng, do bởi sáu  thức vin
duyên, tham sáu trần huyễn hóa, tạo sáu nẻo luân hồi.  Không tu
sáu niệm 71 làm chánh nhân, chưa hành sáu độ làm phạm hạnh, 
trong mỗi đời sống, quả khổ không cùng, trong mỗi thế hệ, duyên
vọng không dứt.  Nay thời, lòng ôm hối lỗi, ý ấp chân thành, vâng
đức  lớn  sáu  hợp  72,  tu  sám  văn  sáu  quyển,  cậy  khẩn  thiết  sáu
thời, hiểu tội khiên sáu nẻo.  Ngữa lạy hồng từ, thầm thêm gia hộ.

    Đại từ đại bi thương chúng sanh
    Đại hỷ đại xả cứu muôn loài
    Tướng tốt chói sáng tự trang nghiêm
    Chúng con chí tâm quy mạng lễ.

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật,  52

Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.















 53

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      SÁU SÁU SÁU SÁU     

    Lương hoàng bảo sám
    Vũ Đế chí thành
    Ân tình cảm động thánh hiền tâm
    Phật pháp hiển uy linh
    Bốn biển nghe thanh
    Khắp chốn độ chúng sanh.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển sáu rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Hiện Tiền Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Ngày xưa Như Lai trong một niệm, cửa từ bi lớn
chẳng thể nói, như vậy tu hành tánh không rồi, nên được thân bất
hoại  vững  bền.   Từ  bi  rộng  lớn,  trí  dụng  khó  lường,  siêng  năng
sáu  thời,  tròn  sáng  sáu  độ,  ngữa  xin  Đại  giác,  mau  cho  cảm
thông. 54

  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
sáu,  công  khóa  tròn  đầy.   Hương  xông  bờ  biển,  nến  tỏ  tổ  ong, 
mâm bày diệu cúng thất trân, trà pha tiên xuân thượng uyển, cúng
dường  thánh  hiền  trong  pháp  hội,  cùng  chư  tôn  hộ  pháp  giám
đàn. Gom lợi lành này, giúp khắp hữu tình, phụng vì cầu sám hối
đệ  tử _____,  rửa sạch chướng duyên của đời  trước,  thêm  lớn an
lạc của sáu thiên.
  Lại  nguyện,  sáu  căn  thanh  tịnh  như mặt  trời  sáng  rỡ  treo
không, sáu  thức viên minh  tợ  trăng  thu vằng vặc ánh nước, sáu
xúc sáu  thọ đều chở nhân bát nhã, sáu ái sáu  trần  73 cùng vào
quả viên minh, được sáu thù thắng 74 nơi phương này cõi nọ, tròn
sáu độ hạnh ở thiên thượng trần gian.  Bốn loài chín hữu cùng lên
giải thoát pháp môn, sáu nẻo ba đường đều khỏi mê luân khổ sở. 
Tình đang chưa đủ,  lỗi nặng không  lời, nhọc xin đại chúng, cùng
cầu sám hối.

  Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Lương hoàng bảo sám, quyển sáu công đức lực, nguyện diệt
tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Hiện Tiền Địa.
     55

Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển sáu đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Hiện Tiền Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  

 56

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      B BB BẢ ẢẢ ẢY YY Y     

    Thiên trù cúng
    Thuần Đà đến rốt sau
    Đói ăn cơm gạo nuôi da đẫy
    Tiên nhân dâng cúng cơm chay này
    Hai nàng mục nữ hiến cháo thơm 
    Tứ thiên vương bưng bát  
    Xa vái lạy Linh sơn.
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:   Cổ Phật bảy Thế  tôn  làm đàn chủ chứng minh
sám hối, Pháp Hoa bảy thí dụ 75 mở cánh cửa tuệ giác giải thoát,
giàu có bảy  thánh pháp  tài  76, đầy đủ bảy bồ đề phần  77.   Rừng
chiên  đàn,  lấy  chiên  đàn  vây  quanh,  vua  sư  tử,  để  sư  tử  vươn
mình,  không  nguyện  chẳng  được,  có  cầu  liền  ứng.    Ngước  lên
mây từ bủa khắp, nhìn xuống trăng nước bao dung, cúi đầu trước
Phật đà, chứng minh con sám hối.
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
bảy, duyên khởi nhập đàn.  Người đàn tín hộ đàn ơn đủ, bậc truy
lưu như pháp  tu  trì,  chiêm ngưỡng  tôn  tượng nghiêm  trang, bày 57

biện  hoa  quả  nhang  đèn,  tinh  thành  hiến  cúng,  trăm  lạy  cung
kính.  Một lòng sám hối đệ tử _____, cha mẹ nhiều đời, oan thân
nhiều kiếp, trú ở bảy đường đi 78 trầm luân, biết việc ác không làm
việc  ác,  phóng  túng  bảy  tình  79  vọng  tưởng,  hiểu  việc  lành  làm
thêm việc  lành. Khởi núi cao bảy mạn 80, dối hiền  lừa  thánh, mê
phiền não bảy  lậu  81, xa giác  theo  trần, bảy  loại  tỳ ni  82 sót giữ,
bảy  tội giá nghịch khó  trừ 83, biết rằng nhiều đời, chưa  từng sám
hối.   Đời nay may mắn, được gặp Phật  thừa, ăn năn hướng  tôn
tượng chư Phật, rửa tội trước tấm gương tròn lớn.  Con cùng hiện
tiền đại  chúng,  tụng  lạy  sám hối  văn mầu, duyên  khởi  có bờ, bi
tâm không mé, mong Phật xót thương, thầm thêm gia hộ.
    
    Hết thảy chư Phật trong ba đời 
    Tại các quốc độ trong mười phương
    Con đem thân ngữ ý thanh tịnh
    Kính lạy khắp cả không thiếu sót.
      
Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật,  58

Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.














 59

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      B BB BẢ ẢẢ ẢY YY Y     

    Lương hoàng bảo sám
    Vũ Đế hoan hân
    Mây bay hiển hiện một thiên nhân
    Dung mạo đẹp thân vàng
    Cảm tạ hoàng ân
    Cứu khổ thoát trầm luân.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển bảy rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Viễn Hành Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Người quy y bảy Phật nhân từ, chẳng đọa mười
tám địa ngục, người  thọ  trì bảy  loại  tịnh giới,  liền sanh cung  trời
Hóa Lạc.   Xin nguyện Từ bi, chứng minh  lòng  thành, cứu chúng
sanh bảy nẻo, ngồi đài hoa bảy báu, nguyện rũ lòng đại bi cao cả,
soi xét ý hữu tình bé nhỏ. 60

  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
bảy,  công  khóa  tròn  đầy.   Con  cùng  đại  chúng,  nhập  sám  xuất
sám, thân đây tâm đây, đèn đốt đuốc tuệ, cúng như Thuần Đà, lò
vàng  cuồn  cuộn  khói mây  lành,  nến  ngọc  lung  linh  đất  khí  tốt,
chuông khánh ngân pháp nhạc leng keng, hoa quả bày vật phẩm
xum  xuê, hiến dâng  tinh  tươm,  lễ mọn đủ đầy,  cúng dường bậc
Thiện Thệ cao vời, tuyên dương pháp già đà câu cú, ngâm huyền
âm lỗi lạc, khen thánh đức trầm hùng, nhập lặng lẽ thiền quán, tu
các  thứ  công  huân,  trước  là  hồi  hướng  bồ  đề  quả  Phật,  mười
thánh ba hiền đồng chứng giám, sau đem thí khắp quốc độ hằng
sa,  bốn  loài  sáu  đường  thảy  triêm  ân.    Xuất  sanh  công  đức,
phụng vì cầu sám hối đệ tử _____, sạch các nghiệp chướng, được
đại cát tường.
  Lại nguyện, bảy lậu 84 hết để bảy tuệ giác tròn sáng 85, tánh
thiên rạng rỡ, bảy giới tịnh để bảy giá nghịch sạch trong, biển khổ
sóng êm, phá bảy ngạo mạn như núi  cao,  rõ bảy  cảm  tình bao
vọng tưởng, được bảy thánh tài trong pháp tạng, độ bảy đường đi
của hữu tình.  Hóa kiếm thọ làm rừng hương bảy quý, biến nghiệp
cấu  làm đất  thánh bảy báu  86, nghiệp quả chúng con khó  tránh,
núp bóng Từ bi sám hối.
 61

    Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Lương hoàng bảo sám, quyển bảy công đức lực, nguyện diệt
tất  cả  tội  chướng  của  chúng  con,  thân  chứng  bồ  tát Viễn Hành
Địa.

Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển bảy đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên 62

    Viễn Hành Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)



















 63

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      TÁM TÁM TÁM TÁM     

Thế gian bảo
    Nhiều đời xưa nay truyền
    San hô, hổ phách, tơ sợi trắng
    Xà cừ, mã não, xâu chuỗi ngọc 
    Cấp Cô trưởng giả xả Kỳ Viên
    Kim luân vương thuyết pháp
    Giữ mãi long cung điện.
  Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính  nghe:   Như  Lai  thị  hiện  tám  tướng  thành  đạo  87,  như
trăng báu treo giữa hư không, chỉ bày tám thứ hóa nghi 88, tợ mưa
pháp  thấm nơi sa giới.   Bốn loài bảy nẻo đều sanh  thiên,  tám bộ
trời  rồng  89  cùng  cung  kính.    Tám  muôn  đại  sĩ  thảy  trợ  tuyên
dương,  tám đại bồ  tát  90 đều  thường ủng hộ,  tám  thời được  tám
cát tường 91, tám giải 92 đủ tám công đức 93.  Thần cơ diệu dụng,
khắp  ứng  quần  sanh,  cúi  xin  rũ  lòng  từ,  chứng minh  bao  việc
Phật. 
  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
tám, nhập đàn duyên khởi, như pháp huân  tu, nỗ  lực  tinh  tấn,  lò 64

đốt  hương  giới,  hương  định,  hương  giải  thoát;  tay  rải  hoa  vàng,
hoa bạc, hoa mạn  thù; cây ngọc đèn  treo, mâm vàng quả hiến,
đầu  thành  trăm  lạy  vẻ  kim  dung,  khẩn  thiết một  lòng  thân  bảo
tướng.   Bày  tỏ  tội  cấu  của  nhiều  đời,  tiêu  trừ  lầm  lỗi  của  nhiều
kiếp.
  Thiết nghĩ, cầu sám hối đệ tử _____, từ khi có thức, cho đến 
hôm nay, hướng về tám tà đạo nên trái nghịch tám chánh đạo 94,
mở  ra  đủ  thứ  chông  gai,  xuôi  theo  tám  ham muốn  95  nên  quên
mất  tám giải  thoát,  sanh  thêm hoa đốm bên  trời.   Lấy  tám  thức
làm  sở  duyên,  dùng  tám  gió  96  làm  sở  chuyển,  than  tám  cấu  97
thật dễ nhiễm, lo tám nạn 98 thật khó trốn.  Ngày nay, hối lỗi như
vô phương, muộn  tâm còn  rất quý,  thực  thi một điều  lành  thì đã
vào  trong  giáo  lý  nhất  thừa,  ôm  ấp một  lòng  thành  thì  đã  đứng
trước  kim  thân  chư Phật,  vì  vậy  bày  tỏ  hết  các  tội  lỗi,  trải  lòng
thành  thật mà sám hối.   Ý niệm hợp như vậy,  tâm  tình được cởi
mở, kính lạy hồng từ, thầm thêm gia hộ.
  
    Ý niệm như bụi tính đếm được
    Nước trong biển cả uống sạch hết
    Không gian lường được, gió buộc được
    Không thể nói hết công đức Phật.
     65

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.









 66

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      TÁM TÁM TÁM TÁM     

    Lương hoàng bảo sám
    Vũ Đế huân tu
    Đốt đèn khơi nến đến muôn ngàn
    Lầu rồng nhạc trời vang 
    Ngợi ca trần gian
    Đất nước mãi thênh thang.
      
Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển sáu rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.    
Nam mô Bất Động Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính  nghe:    Trong  ao  tám  đức,  vọt  hiện  ngàn  hoa  diệu
tướng,  trong  cõi  tám  khổ,  ngước  nhìn  vạn  đức Từ  tôn,  nói  rộng
diệu pháp  tám âm 99  tám nhẫn  100, cứu khắp ngục hình  tám hàn
tám nhiệt 101.  Tuệ giác rũ soi, thương xót hữu tình, ân thấm người 67

trời  hữu  lậu,  phước  lợi  cõi  nước  vô  biên,  xin  thêm  bi mẫn,  soi
thắng nhân này.
Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
tám,  lễ  tụng đã xong.   Ở  trong đàn  tràng, xông hương đất sạch,
rải hoa  trang nghiêm, đốt đèn cây rực rỡ, hiến quả trái đầu mùa,
trà Dương tiện 102 nấu trước thềm Xuân, thức ăn trưởng giả Thuần
Đà dâng cúng sau cùng. Hồi hướng Đại giác kim tiên, chư vị bồng
lai  hải  đảo, minh  vương  đế  chúa  đời  trước,  trung  thần  liệt  sĩ  có
công.   Bốn  loài chín hữu  trong ba cõi, mười phương hưởng được
thiện  lợi  vô  giá,  thoát  hẳn  ngục  tù  hữu  lậu,  sanh  ra  lợi  ích  thù
thắng.  Phụng vì cầu sám hối đệ tử _____, sám trừ tội cấu, hoạch
đại cát tường.
Lại nguyện, xả  tám  tà kiến  103  trong  thế giới hữu  tình, hành
tám chánh đạo nơi địa vị vô  lậu,  tai ương của  tám khổ  tám nạn,
nương từ quang thảy tiêu mau, phước điền của tám thời tám loại,
mượn tu trì để chứng nhập.  Căn trần tự tại, tâm pháp viên dung,
sóng  lặng  biển  lớn,  trăng  in  ngàn  sông,  dư  âm  còn  nghe,  cùng
cầu sám hối.
Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 68

Lương hoàng bảo sám, quyển tám công đức lực, nguyện diệt
tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Bất Động Địa.

    Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển tám đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Bất Động Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 69

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      CHÍN CHÍN CHÍN CHÍN     

  Một trăm tám
  Trì kinh mãn tạng đồ
  Tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật
  Thể nhập Tỳ Lô, Du già bộ
  Đại thừa kinh điển, Phật Di Đà
  Chứng phương Nam
  Long nữ thẳng đến bồ đề lộ.
Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Kính nghe:  Đạo vượt qua chín trời Thích Phạm, hiệu gọi Thế
hùng, công siêu việt chín cõi  104 hàm  linh, danh xưng Điều ngự,
hoặc  cứu  khổ  trong  chín  nẻo  tối  tăm,  hoặc  độ  sanh  trong  chín
phẩm hoa sen,  tuần  tự xuất nhập chín  tầng  thiền định, một niệm
vượt  qua  chín  cảnh  105  sắc  thân,  tùy  duyên  thị  hiện,  sáng  trùm
pháp giới, đạo  thoát quần sanh. Nguyện  rũ muôn hạnh để  trang
nghiêm, soi xét chín thời làm việc Phật.
Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
chín, duyên khởi nhập đàn.   Kịp  thời chiếu  trải bày hoa quả,  liền
khi mâm sắp món ngon,  tỏ một  lòng này cúng dường Tam bảo,  70

rửa sạch tâm ý, phát lộ chân thành.  Pháp thân chẳng động, pháp
tánh lặng trong, pháp hóa trùm khắp, pháp âm phủ đầy, hiện thân
tướng rực rỡ vàng ròng, bày hào quang sáng ngời ngọc trắng.  Lễ
bái quy y,  thương  lo nhiếp  thọ,  trừ  tội cấu chưa  trừ, sám  lỗi  lầm
chưa sám.
Thiết nghĩ, cầu sám hối đệ tử _____, kiếp bụi trôi lăn cho đến
ngày nay, thường mê mờ nhân quả của chín cõi, vô minh tự che,
chẳng  tin  khổ  báo  nơi  chín  suối,  tà  kiến  sanh  thêm,  coi  thường
chín bộ  tôn kinh 106, mặc  tình  tạo  tội,  trói buộc chín kết 107 phiền
não, phóng ý làm sằng, khen mình chê người, lợi mình hại người. 
Hoặc vì cao ngạo mà  tự  lừa dối, hoặc vì  tửu sắc mà sanh  thác
loạn, tham đắm những phù phiếm thế gian, khó tránh khỏi cái khổ
cùng cực  trong nẻo  tối.   Giờ này, kịp biết ăn năn, cầu khởi  lòng
thành, quay về nương  tựa bậc phước điền chân  tịnh, khắp vì  tất
cả theo kinh văn sám hối.  Kính lạy hồng từ, thầm thêm gia hộ.

  Thân Phật đủ đầy trong pháp giới
  Hiện khắp tất cả trước quần sanh
  Tùy duyên cảm ứng mặc nơi đâu
  Thường ngồi bồ đề bao quốc độ.
 71

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.









 72

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      CHÍN CHÍN CHÍN CHÍN     

  Lương hoàng bảo sám
  Toàn là Phật ngôn
  Văn từ rực rỡ trong lang hàm
  Tin quả báo chiêu vời
  Lợi ích người trời
  Vạn cổ mãi lưu truyền.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển chín rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Thiện Huệ Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính nghe:  Đạo sư chín phẩm, chín phương thiên thể cõi lục
thiên gìn giữ, Từ phụ chín giới, chín thứ thiền định 108 bậc la hán
dự  phần.    Ngưỡng  nguyện  quyến  thuộc  từ  bi, mãi  hưởng  chín
tầng  then ngọc  cửa  vàng,  cứu  vớt  chúng  sanh ba  cõi,  cùng  lên 73

chín phẩm ao sen đất báu.   Công  thoát chín hữu, đạo vượt chín
thiên, kính xin Đại giác, chứng minh sám hối.
Trước nay, phụng vì cầu sám hối đệ tử _____, huân tu Lương
hoàng  bảo  sám,  đọc  tụng  hải  tạng  linh  văn,  đang  là quyển  thứ
chín,  xuất  nhập  hai  thời,  công  khóa  trọn  vẹn.    Cung  đối  tượng
Phật, cúi đầu quy y, đốt hương chiên đàn hải ngạn, hiến quả ngon
ngọt danh viên, trà đậm vị lay tỉnh hôn trầm, đèn chiếu sáng xua
tan  hắc  ám,  hoa  đẹp mầu  định  cả  thiên  cơ,  tiếng  trong  truyền
ngân vang tiên nhạc, chí thành sáu niệm, thiền quán một tâm, đối
chiếu suy nghĩ, đem hồi hướng cả,  tuệ giác Phật đà.   Thanh văn
la hán chư thiên, trời dọc đất ngang, âm dương nắm giữ trong tay,
tạo hóa quyền hành cân nhắc, tám bộ chúng trời rồng, xin nguyện
soi    lòng  thành, khắp xông chân  thường  lạc.   Phụng vì cầu sám
hối đệ tử _____, sám trừ nghiệp chướng muôn trùng, thu hoạch tốt
lành vĩnh viễn, liền lên chín phẩm, mau chứng bồ đề.
Lại nguyện, chín kết  tội  lỗi,  từ giờ này mong cho giải  thoát,
chín  tối khổ  thú, nương sám đây xin mở sáng  trong, chẳng mắc
chín địa, chín phẩm tư hoặc trong ba cõi 109, mau được chín bậc,
chín phẩm hoa sen của tịnh bang, oai nghi trau dồi chín công lâu
110, tư cách trang nghiêm chín đức dày 111.  Vậy nên bộc bạch bốn
lần,  thành khẩn còn e sai sót, nhọc xin đại chúng, ăn năn  thêm
nữa. 74

  
 Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Lương  hoàng  bảo  sám,  quyển  chín  công  đức  lực,  nguyện
diệt tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Bất Động
Địa.

    Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển chín đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên 75

    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Thiện Huệ Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần)


















 76

NH NHNH NHẬ ẬẬ ẬP SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUY P SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      MƯ MƯMƯ MƯỜ ỜỜ ỜI II I     

Y dâng hiến
Lụa là gấm vóc sa
Mượt mà óng ánh khôn miêu tả
Long nữ dệt thành tơ vàng nhả
Vua Ba Tư Nặc xả cà sa  
Mã Minh Vương bồ tát
Thệ nguyện thần thông hóa.
Nam mô Phổ Hiền Vương bồ tát ma ha tát. (3 lần)

Kính  nghe:    Mười  hiệu  Năng  Nhân  112  ngồi  hoa  sen  báu
thành  Đẳng  chánh  giác, mười  thân  113  Điều  Ngự  trong một  bụi
trần chuyển đại pháp luân, ánh sáng chiếu khắp cả mười phương,
phương tiện vượt xong hết mười địa 114, đầy đủ mười ba la mật 115,
nên  xưng mười  đại  nguyện  vương  116.   Ngước  lạy  hồng  từ,  cúi
thương soi suốt.
Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
mười,  nhập  đàn  duyên  khởi,  kính  cẩn một  lòng,  sửa  soạn mười
cúng 117, phụng hiến mười phương Tam bảo, huân tu mười quyển 77

nghi  văn,  nương mười  khoa  sám  pháp  118,  cởi mười  triền  119  tội
khiên.
Thiết nghĩ,  cầu  sám hối đệ  tử  _____, nhân  kiếp xưa phóng
túng, quả đời nay khổ sở, mờ chánh nhân mười thiện, tạo nghiệp
chướng mười ác  120.   Mười  triền cái  tự quấn, như xiềng xích  liền
nhau, mười tập khí 121 tự huân, giống thiêu thân vào lửa, dần đến
trăm ngàn  tội  lỗi,  lại  thành vô  lượng mầm nghiệp.   Ái kiến chưa
mất, tâm tham khó đủ, lửa sân bừng bừng đốt hết quả bồ đề, gió
nghiệp ào ào đạp đổ rừng công đức.  Năm tháng lần lữa, mới biết
lỗi  lầm, ngày giờ chốc  lát, vừa hiểu sai  trái.   Giờ này, nương cửa
huyền sám hối, may được đầu mối huân  tu, cậy đại chúng đồng
tu, đọc  tụng kinh vàng,  tu việc Phật  tròn đầy,  làm vô cùng pháp
lợi.  Đánh đổ vọng niệm muôn trùng bằng chánh niệm, biểu hiện ý
thành  mỗi  một  bằng  tâm  thành,  nguyện  Phật  rũ  thương,  thầm
thêm gia hộ.

  Một niệm quán khắp vô lượng kiếp
  Không đến, không đi, vui vô trú
  Như vậy hiểu rõ ba đời Phật
  Vượt các phương tiện thành mười lực.
 78

Mở  đầu  vận  dụng  phương  pháp  sám  hối  đạo  tràng  từ  bi,
chúng con nhất tâm đem tánh mạng mà qui y và đảnh lễ chư Phật
trong quá khứ, hiện tại và vị lai: 

Nam mô quá khứ Tì bà thi phật, 
Nam mô Thi khí phật, 
Nam mô Tì xá phù phật, 
Nam mô Câu lưu tôn phật, 
Nam mô Câu na hàm mâu ni Phật, 
Nam mô Ca diếp phật, 
Nam mô bổn sư Thích ca mâu ni phật, 
Nam mô đương lai Di lạc tôn phật.









 79

XU XUXU XUẤ ẤẤ ẤT SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUY T SÁM VĂN QUYỂ ỂỂ ỂN TH N TH N TH N THỨ ỨỨ Ứ      MƯ MƯMƯ MƯỜ ỜỜ ỜI II I     

  Lương hoàng bảo sám
  Công đức vuông tròn
  Khắp nhờ ơn lợi ích người trời
  Phước thọ thêm dài lâu
  Sức pháp vô biên
  Cùng nguyện lễ Tam bảo.

Lương hoàng bảo sám
Vạn đức hồng danh
Linh văn quyển chín rất rộng sâu
Tự thân khỏi gian truân
Đảnh lễ Phật danh
Tiêu tai được an bình.
  Nam mô Pháp Vân Địa bồ tát ma ha tát. (3 lần)

  Kính  nghe:    Mười  thân  tướng  tốt,  vòi  vọi  chẳng  động  núi
vàng ròng, mười hiệu Năng Nhân, phẳng lặng tròn đầy trăng bàng
bạc.   Thần  lực ứng khắp, hóa độ muôn phương, xin nguyện đức
Đại bi vô ngại, chứng cho việc Phật rốt sau này. 80

  Trước  nay,  phụng  vì  cầu  sám  hối  đệ  tử  _____,  cung  kính
thực thi phương pháp sám hối đạo tràng từ bi, đang là quyển thứ
mười, quả tốt tròn đầy.  Chúng con ở nơi đàn tràng, đốt đèn sáng
rỡ,  rải  hoa  trang  nghiêm,  nấu  trà  hiến  quả,  thiết  cúng  vận  tâm,
bày ra các thứ công huân, kính lễ mỗi hạt Phật đức, phát tâm cao
cả, chí thành hồi hướng:  mười phương ba đời Phật, các văn mầu
Hoa  tạng,  năm mắt Bích  chi Phật,  sáu  thông A  la  hán,  trời  đất
chân  thánh, nước  lửa hiền  triết, bốn phủ Diêm  la, mười phương
huyền tạo, cùng nguyện rũ soi thắng nhân.  Trước nay, phụng vì
cầu sám hối đệ  tử _____, sạch không  tội khiên vi  trần,  thành  tựu
phước lợi vô biên.
  Lại nguyện, đốn trừ mười sử 122, thoát ly mười triền, tròn phát
mười  tâm  123, mười  nguyện  tròn  đầy  như  trăng  vằng  vặc miền
chân không,  tu hành mười địa, mười chướng  124 đoạn  trừ  tợ hoa
rực  rỡ  vườn  tuệ  giác.   Mỗi một  trần mở  ra  cánh  cửa  giải  thoát
nhiệm mầu, mỗi một chỗ tỏ rõ biển cả Tỳ Lô Phật tánh.  Oan thân
khắp lợi, phàm thánh cùng giúp, nhận lấy duyên lành sám hối, thể
nhập lý mầu chân thường.  Tuy là theo văn sám hối, còn e lỗi nhỏ
chưa trừ, nhọc xin đại chúng, đều bày sám hối.

Nam mô Sám Hối Sư bồ tát ma ha tát. (3 lần)
 81

Lương  hoàng  bảo  sám,  quyển mười  công  đức  lực,  nguyện
diệt tất cả tội chướng của chúng con, thân chứng bồ tát Pháp Vân
Địa.

    Sám văn vừa xướng tội hoa bay
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Tiêu tai thêm phước tuệ
Thoát khổ sanh Đao Lợi.
    Giải oan rồi, sám tội rồi
    Thảnh thơi thẳng đến Long Hoa hội
Long Hoa ba hội nguyện tương phùng
Trước Phật Di Lặc được thọ ký.
  Nam mô Long Hoa Hội bồ tát ma ha tát. (3 lần)

    Lương hoàng bảo sám
    Quyển mười đã tụng xong
    Hồi hướng bốn ân cùng ba cõi
    Lễ sám chúng con thêm phước thọ
    Nguyện đem nước pháp rửa oan khiên
    Xin nguyện người mất sanh Tây thiên
    Pháp Vân Địa bồ tát, cúi xin thương nạp thọ.
  Nam mô Đăng Vân Lộ bồ tát ma ha tát. (3 lần) 82


CHÚ THÍCH CHÚ THÍCH CHÚ THÍCH CHÚ THÍCH     
                                                            
1 Bản dịch của H.T Huyền Quang.
2
 B n d ch c a H.T Nh t H nh.
3 Kinh Thủ Lăng Nghiêm, phẩm thứ sáu - HT.Thich Duy Lực dịch – nói về ba mươi hai ứng hóa thân của
bồ tát Quán Thế Âm như sau:  
Thế Tôn! Do con cúng dường Quán Âm Như Lai, Phật dạy con y tánh Văn như huyễn, huân tu Kim Cang
Tam Muội. Vì với chư Phật đồng một Từ Lực, nên khiến con được  thành  tựu 32 ứng  thân vào các quốc
độ.
1. Thế Tôn! Nếu chư Bồ Tát vào Tam Ma Địa tu pháp vô lậu, thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân
Phật, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.  
2. Nếu có hàng hữu học được tịch tịnh diệu minh, thắng giải đầy đủ, thì con hiện thân Độc Giác,
thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.  
3. Nếu có hàng hữu học đoạn mười hai nhân duyên được thắng tánh hiện tiền, thắng giải đầy đủ,
thì con hiện thân Duyên Giác, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.  
4. Nếu có hàng hữu học  tu Đạo nhập diệt, được pháp Không của Tứ Thánh Đế,  thắng giải đầy
đủ, thì con hiện thân Thanh Văn, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.  
5. Nếu có chúng sanh, muốn tâm minh ngộ, chẳng phạm dục trần, muốn thân trong sạch, thì con
hiện thân Phạn Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được giải thoát.  
6. Nếu  có  chúng  sanh, muốn  làm  thiên  chủ,  lãnh  đạo  chư  thiên,  thì  con  hiện  thân Đế  Thích,
thuyết pháp cho họ khiến được thành tựu.  
7. Nếu có chúng sanh, muốn  thân được  tự  tại, đi khắp mười phương,  thì con hiện  thân Tự Tại
Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
8. Nếu có chúng sanh, muốn thân được tự tại, bay khắp hư không,  thì con hiện thân Đại Tự Tại
Thiên, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
9. Nếu có chúng sanh, muốn thống lãnh quỷ thần, cứu giúp quốc độ, thì con hiện thân Thiên Đại
Tướng Quân, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
10. Nếu có chúng sanh, thích thống lãnh thế giới, bảo vệ chúng sanh, thì con hiện thân Tứ Thiên
Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
11. Nếu có chúng sanh, muốn sanh nơi thiên cung, sai khiến quỷ thần, thì con hiện thân Thái Tử
của Tứ Thiên Vương, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.   83

                                                                                                                                                                                              
12. Nếu  có  chúng  sanh, muốn  làm  vua  cõi  người,  thì  con  hiện  thân  vua,  thuyết  pháp  cho  họ,
khiến được thành tựu.  
13. Nếu có chúng sanh, thích làm chủ các dòng quý tộc, mọi người cung kính, thì con hiện thân
trưởng giả, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
14. Nếu có chúng sanh, thích đàm luận những lời hay giữ mình trong sạch, thì con hiện thân Cư
Sĩ, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
15. Nếu có chúng sanh, Thích Cai trị việc nước, trông coi các ban ấp, thì con hiện thân Tể quan,
thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
16. Nếu có chúng sanh, thích các số thuật, tự nhiếp tâm giữ thân, thì con hiện thân Bà La Môn,
thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
17. Nếu có  thiện nam  tử, ham học pháp xuất gia, giữ gìn giới  luật,  thì con hiện  thân Tỳ Kheo,
thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
18. Nếu có thiện nữ nhân, ham học pháp xuất gia, trì các giới cấm, thì con hiện thân Tỳ Kheo Ni,
thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
19. Nếu có  thiện nam  tử,  thích giữ ngũ giới,  thì con hiện  thân Ưu Bà Tắc,  thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.  
20. Nếu có thiện nữ nhân, tự giữ ngũ giới, thì con hiện thân Ưu Bà Di, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.  
21. Nếu có  thiện nữ nhân,  lập  thân  trong cung vua, chủ việc nội chính, giúp việc nước nhà,  thì
con hiện thân nữ chủ (hoàng hậu), hay phu nhân, mệnh phụ, đại gia (nữ giáo sư của hoàng hậu và các
cung phi), thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
22. Nếu có con trai, chẳng hoại trinh nam, thì con hiện thân đồng nam, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.  
23. Nếu có con gái, muốn giữ trinh nữ, chẳng cầu sự xâm bạo, thì con hiện thân đồng nữ, thuyết
pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
24. Nếu có chư Thiên, muốn  ra khỏi  loài  trời,  thì con hiện  thân chư Thiên,  thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.  
25. Nếu có con Rồng, muốn ra khỏi  loài rồng, thì con hiện thân rồng, thuyết pháp cho họ, khiến
được thành tựu.  
26. Nếu có Dược Xoa muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Dược Xoa,  thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.  
27. Nếu có Càn thát Bà muốn ra khỏi loài mình, thì con hiện thân Càn Thát Bà, thuyết pháp cho
họ, khiến được thành tựu.  
28. Nếu có A Tu La muốn  thoát khỏi  loài mình,  thì con hiện  thân A Tu La,  thuyết pháp cho họ,
khiến được thành tựu.   84

                                                                                                                                                                                              
29. Nếu có Khẩn Na La muốn  thoát khỏi  loài mình,  thì con hiện  thân Khẩn Na La,  thuyết pháp
cho họ, khiến được thành tựu.  
30. Nếu có Ma Hầu La Già muốn  thoát khỏi  loài mình,  thì con hiện  thân Ma Hầu La Già,  thuyết
pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
31. Nếu có chúng sanh  thích  làm người,  tu nghiệp người,  thì con hiện  thân người,  thuyết pháp
cho họ, khiến được thành tựu.  
32. Nếu có loài phi nhân, hoặc có hình, hoặc vô hình, hoặc có tưởng, hoặc vô tưởng, muốn thoát
khỏi loài mình, thì con hiện thân như họ, thuyết pháp cho họ, khiến được thành tựu.  
Ấy gọi là 32 ứng thân nhiệm mầu vào các quốc độ, những thân ấy đều do vô tác diệu lực của sự huân tu
tam muội tự tại thành tựu.  
4 Bảy nạn đó là lửa, nước, la sát, đâm chém đánh đập, tà ma quỷ quái, gông cùm, giặc cướp thù địch. Hai
sự mong cầu trong kinh nói là cầu con trai và con gái, ở đây còn muốn nói đến sự mong cầu phước đức,
trí tuệ và sự đoan chánh.
 
5
 Theo Kinh Dịch, vũ  trụ bắt đầu bằng: Vô Cực sinh Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi
sinh Tứ  tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến hóa ra vô cùng. Tức  là: Từ Không  thành Có, Từ
Có sanh Âm Dương, Âm Dương sanh Bốn Hướng, Bốn Hướng Sanh Tám Phương, Tám Phương biến hóa
vô tận.  Vô Cực là hư vô, hư không, chân không, không có dưỡng khí, không có sự sống. Thái Cực là có
dưỡng khí, có sự sống.  Lưỡng Nghi là hai cực Âm, Dương.  Tứ Tượng: 1. Thái Dương, Mặt Trời,  2. Thiếu
Dương, Mây, 3. Thái Âm, Mặt Trăng, 4. Thiếu Âm, Sao.  Bát Quái:  1. Càn = trời, tây bắc, 2. Đoài = đầm
(hồ), tây, 3. Ly = hỏa (lửa), nam, 4. Chấn = sấm, đông, 5. Tốn = gió, đông nam, 6. Khảm = nước, bắc, 7.
Cấn = núi, đông bắc, 8. Khôn = đất,  tây nam.   Khảm  là nước nhưng  là nước của con sông đang chảy.
Cấn là núi yên tĩnh.
6 Bài Thùy dương liễu do ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư (538 – 597) cảm tác.  Sau đây là đoạn văn trích
trong sách Thâm Ý Qua Hình Tượng Phật, Bồ Tát của H.T Thanh Từ: 
“Muốn diễn  tả  lòng  từ bi cao cả của Bồ-tát Quán Thế Âm,  tác giả dùng giọt nước nhành dương,
thật là linh động biến ảo. Nước không cố định ở một hình thức nào, tùy duyên biến chuyển, có khi là thể
lỏng, có khi là thể cứng, có lúc lại biến thành hơi. Nếu chúng  ta chấp nước chỉ có ở thể lỏng, tức không
hiểu được nước. Không phải chỉ ở một hình thức cố định, mà linh động tùy duyên. Đủ duyên cơ cảm thì
Bồ-tát ứng hiện.
Nước khi đọng dưới hồ thu trong xanh in hiện bóng trăng, khi lóng trong khe đá làm nhà cửa loài
rồng, lúc chảy ầm ầm thành suối gào thác đổ, thật không thể lường được diệu dụng của nước. Lòng từ bi 85

                                                                                                                                                                                              
của Bồ-tát cũng thế, mênh mông như bể cả bao hàm tất cả chúng sanh, tràn trề như ngọn triều lên mang
hạnh phúc cho mọi loài thọ hưởng. Bất cứ nơi nào, chốn nào có cảm thì Bồ-tát đều ứng hiện. Sự ứng hiện
tùy  theo căn  tánh chúng sanh, kẻ  thấy Bồ-tát ở hình  thức này, người cảm Bồ-tát nơi  tướng  trạng khác.
Tựu trong có cảm thông nhất định có linh ứng. 
Chỉ một giọt nước (nhỏ mực) đọng dưới ngòi bút của hàng vua chúa cũng đủ làm cho muôn dân
thấm nhuần ơn vũ  lộ. Hoặc một giọt nước  (giọt cam  lồ) nằm  trên đầu nhành dương  liễu của bậc Bồ-tát
cũng đủ giải thoát mọi loài chúng sanh. Lòng từ bi không phải chỉ có ở trong tâm Bồ-tát, trong tâm những
kẻ tu hành, mà còn có ở trong lòng bậc đế vương, trong lòng kẻ có quyền thế. Cho nên, ai cũng có thể là
bậc cứu khổ chúng sanh, miễn họ phát tâm từ bi. Từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu
hành, mà nó là của chung tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ
bi được, nếu trong lòng chứa sẵn từ bi.
Qua những lời tán dương trên, chúng ta thấy lòng từ bi cao cả khôn lường. Chúng ta lễ tượng đức
Quán Thế Âm luôn luôn phải ghi nhớ hai đức tánh căn bản của Ngài: nhẫn nhục và từ bi, để đem áp dụng
vào bản thân chúng ta. Có thế, sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng.”
7 Thần chú Thánh Vô Lượng Thọ quyết định quang minh vương.
8
  “Thân của bồ  tát Phổ Hiền cao vô  lượng,  tiếng nói của ngài có vô  lượng âm  thanh, ngài có vô số sắc
thân nhưng vì muốn xuống thế giới này nên phải dùng thần thông biến hóa ra thân hình bé nhỏ. Vì người
trong cõi Diêm Phù Đề chịu ba trọng chướng, nên với sức oai thần ngài hiện thân cưỡi voi trắng sáu ngà,
bảy chân. Dưới mỗi chân  có hoa sen. Voi trắng như  tuyết, đến cả pha  lê và núi  tuyết Hy Mã Lạp Sơn
cũng không sánh kịp. Thân voi dài 450 do tuần cao 400 do tuần. Ở cuối mỗi ngà có một ao. Nơi mỗi ao
có 14 hoa sen nở rộ kín khắp, trông như vua của các loài cây ở cõi trời. Trên mỗi hoa sen có ngọc nữ, sắc
diện đỏ như hồng đào, có hào quang phóng ra hơn cả thiên nữ. Trên tay ngọc nữ hiện ra 5 cây đàn hạt,
mỗi cây đàn hạt lại có 500 nhạc cụ khác họa kèm. Nổi bật lên trên hoa và lá có  500 loài chim gồm vịt ta,
ngỗng trời, ngan, tất cả mang  màu sắc báu vật. Vòi voi có hoa, cuống màu hồng ngọc, nụ hoa màu vàng
sắp nở. Sau khi đã chứng kiến những điều như vậy, nếu người nào biết sám hối nhất  tâm  liên  tục quán
tưởng vào pháp Đại thừa tức thời người ấy sẽ thấy hoa nở có ánh sáng sắc vàng phát ra. Đài sen là chén
ngọc Chân  thúc ca được  tô điểm bằng những hạt ngọc Phạm Thiên vi diệu, còn nhụy hoa  thì bằng kim
cương. Hóa Phật ngồi trên cánh hoa, đức bồ tát thỉnh đến ngồi ở nhụy hoa. Từ lông mày hóa Phật một tia
hào quang phóng ra chiếu thẳng vào trong vòi voi. Tia hào quang màu sen đỏ này phát ra từ vòi chiếu lên
mắt, từ mắt vào tai, từ tai lên đầu hiện thành chén vàng. Trên đầu voi có 3 hóa nhân: Một vị cầm xa luân,
một vị cầm báu vật, còn vị kia cầm chùy kim cang. Khi vị cầm chùy chỉ vào voi tức  thời voi cất bước đi,
chân không dẵm đất,  lơ  lửng cách mặt đất 7  thước,  tuy vậy vẫn để  lại dấu chân kết hợp hài hòa  thành
bánh xe ngàn gọng. Nơi trục bánh xe có hoa sen lớn, hiện một thân voi cũng có bảy chân bước theo voi 86

                                                                                                                                                                                              
lớn. Mỗi khi voi này nhấc chân  lên xuống  lại hiện  ra 7 ngàn voi con,  thảy đều bước  theo voi  lớn  thành
đoàn tùy tùng. Trên vòi voi màu sen đỏ, có hóa Phật phóng hào quang từ chặng giữa mày. Cũng thế, hào
quang chiếu vào  trong vòi,  rồi  từ đó chiếu  lên mắt,  từ mắt vào  tai,  từ  tai  lên đầu,  lần  lần đến  lưng. Hào
quang nơi lưng từ từ biến hóa thành chỗ ngồi, trang hoàng bằng bảy báu. Bốn góc có trụ bằng bảy báu
trang hoàng đồ quý làm thành đài trân bảo, nơi đây có nhụy sen bảy báu. Nhụy sen cũng được tạo thành
bằng trăm đá quý. Đài hoa là hột kim cương lớn.
Bồ  tát Phổ Hiền ngồi kiết già  trên đài hoa. Thân ngài  thanh  tịnh như hạt kim cương  trắng ngần,
phóng  ra 50  tia hào quang đủ màu khác nhau, hợp  thành vầng hào quang quanh đầu ngài. Từ các  lỗ
chân  lông nơi thân ngài cũng phát hào quang. Ở cuối các tia hào quang, có vô số hóa Phật cùng bồ tát
quyến thuộc tùy tùng.
Voi  lặng lẽ chậm chạp đi trước, rải mưa sen báu  lớn, theo sau  là hành giả Đại thừa. Khi nào voi
mở miệng, thì các ngọc nữ trong ao nơi ngà trổi các kỹ nhạc, âm thanh huyền diệu, tán thán pháp bất nhị
của Đại thừa. Thấy được cảnh vi diệu đó, hành giả vui mừng kính lễ, đọc tụng nghĩa kinh sâu rộng, đảnh
lễ vô  lượng chư Phật mười phương,  tạ ơn  tháp Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca, cùng  lễ  lạy bồ  tát Phổ
Hiền và chư đại bồ tát mà phát nguyện rằng: Nếu con được đủ phước đức kiếp  trước, thì hôm nay được
gặp ngài Phổ Hiền. Xin ngài cho con được thấy sắc thân ngài. 
Phát nguyện  thế rồi hành giả phải khấn nguyện,  lễ  lạy chư Phật mười phương ngày đêm 6  thời,
đồng thời hành trì sám hối, lại phải đọc tụng suy tưởng nghĩa lý, tu tập kinh điển, kính phụng chư vị hành
trì kinh Đại  thừa,  thấy  tất cả mọi người như chư Phật, đối với chúng sinh như cha mẹ. Sau khi hoàn  tất
những quán tưởng trên,  liền thấy bồ  tát Phổ Hiền phóng hào quang từ hảo tướng lông  trắng giữa chặng
mày,  thân sắc ngài oai nghi như núi vàng ròng,  thành  tựu đủ 32  tướng  tốt. Từ các  lỗ chân  lông, phát ra
ánh sáng chiếu vào voi  lớn, các hóa voi cùng chư bồ  tát hóa  thân, cũng  thành sắc vàng. Ánh sáng  lại
chiếu  và  biến vô  lượng  thế giới phương Đông  cũng  thành  sắc  vàng. Các phương  còn  lại  trọn đủ mười
phương cũng đều biến hóa như vậy.                                                                                                             
Mỗi phương đều có một vị bồ  tát cưỡi  tượng vương 6 ngà, y hệt bồ  tát Phổ Hiền, nhờ vậy khiến
người hành trì kinh Đại thừa trông thấy được các hóa voi, ở vô lượng vô biên mười phương thế giới. Thấy
được chư vị bồ tát, bấy giờ người ấy sẽ cảm thấy thân tâm an lạc, lễ lạy mà thưa rằng: Đấng Đại từ đại bi,
xin thương xót con mà nói pháp. Khi ấy hết thảy chư bồ tát đồng giảng pháp thanh tịnh của kinh Đại thừa,
và dùng kệ để ngợi khen. Đây gọi là bậc Sơ quán Tâm pháp định Phổ Hiền.” 
(Trích Kinh Quán Phổ HIền – Vũ Hữu Đệ dịch từ bản Anh ngữ The Sutra of meditation on the Bodhisattva
universal-virtue,  dịch  từ Phạn  ngữ  bởi Yoshiro Tamura  and Kojiro Miyasaka,  hiệu  đính  bởi Pier P. Del
Campana. Hán ngữ là  Quán Phổ Hiền Hạnh Pháp Kinh, ĐTK 277, 1 quyển, do Đàm Vô Mật Đa dịch)

9 Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược Vương bồ tát, thứ 23. 87

                                                                                                                                                                                              
10
 Kinh Pháp Hoa, phẩm Hóa Thành Dụ, thứ 7.
11 Hai không: nhân không và pháp không.
12 Hai nghiêm: trang nghiêm bằng phước và trí.
13 Tám bộ thiên long: Trong tám bộ chúng, đứng đầu là Trời và Rồng, nên gọi là thiên long bát bộ hay còn
gọi là Long thần bát bộ.  Tám bộ chúng gồm có: 1. Thiên chúng, 2. Long chúng, 3. Dạ Xoa, 4. Càn Thát
bà, 5. A tu la, 6. Ca lầu la, 7. Khẩn na la, 8. Ma hầu la già.
14 Chữ Vạn  là một  trong 32  tướng đại nhân của Phật, căn cứ Kinh Trường A Hàm nói, nó  là  tướng đại
nhân thứ mười sáu, nằm trước ngực đức Phật. Lại trong Tát Giá Ni Kiền Tử Sở Tuyết Kinh, quyển 6 nói,
đó là tướng tốt thứ 80 của đức Phật Thích Ca. Trong Thập Địa Kinh Luận, quyển 12 nói: Bồ Tát Thích Ca
lúc chưa  thành Phật,  trước ngực đã có  tướng chữ Vạn công đức  trang nghiêm kim cương. Đây  là  tướng
công  đức  trước  ngực  như  người  ta  thường  bảo.  Song  trong  Phương Quảng  Đại  Trang  Nghiêm  Kinh,
quyển 3, nói rằng  tóc của đức Phật cũng có 5  tướng chữ Vạn. Trong Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự, quyển
29, nói Phật ở giữa hông cũng có tướng chữ Vạn. Thực ra Vạn chỉ là ký hiệu mà không phải là văn tự. Nó
biểu thị sự kiết tường vô lượng, gọi là kiết tường hải vân, lại gọi là kiết tường hỉ toàn. Do đó trong Kinh Đại
Bát Nhã, quyển 381 nói: “Tay chân và  trước ngực đều có  tướng kiết  tường hỉ  toàn để biểu  thị công đức
của Phật.”  (Chữ Vạn có ý nghĩa gì? – Thích Minh Quang dịch từ Phật Học Quần Nghi)
15 Thiên bức luân (vòng ngàn tăm): chỉ cho tướng quý có hình bánh xe ngàn căm do các đường vân hiện
thành dưới lòng bàn chân Phật.  Tướng này rất tinh xảo vi diệu, bậc thiên tử có phước nghiệp vi diệu cũng
không thể có được.  Nghiệp nhân cảm được tướng này là do thưở xưa đức Phật đã vì cha mẹ, sư trưởng,
bạn lành cho đến tất cả chúng sanh mà bôn ba qua lại thực hành bố thí, cúng dường.  Tướng này không
chỉ hiện dưới lòng bàn chân mà còn thấy trong lòng hai bàn tay của đức Phật.  Thiên bức luân tướng còn
tượng trưng cho việc chuyển bánh xe pháp của đức Phật, hiện dưới lòng bàn chân là biểu thị cho việc
ngài du hóa khắp nơi để chuyển bánh xe pháp.  Lúc thuyết pháp thì ấn chuyển pháp luân hiện trong lòng
bàn tay, dùng để chỉ thị các sự vật, hiện ở răng biểu thị cho giáo lý của Phật tuyên thuyết.
16 Đâu lâu bà: loài cỏ có mùi thơm dịu.
17 Phân đà lợi: hoa sen trắng.
18 Hai chướng: phiền não chướng và sở tri chướng. 88

                                                                                                                                                                                              
19 Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy: "Tất cả chúng sanh từ hồi nào đến giờ, điên đảo đủ điều, là do
hạt giống nghiệp sẵn có, nó dính liền nhau, như chùm trái ác xoa. Người tu hành không thể thành quả vị
vô thương Bồ đề, mà chỉ thành Thinh văn Duyên giác và Thiên ma ngoại đạo v.v... là bởi không biết hai
món "chơn" và "vọng". Nếu các ông  lầm  lộn  tu  tập  theo vọng niệm, mà muốn chứng đạo quả Bồ đề,  thì
cũng như người nấu cát muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp cũng không kết quả được".  Ác xoa là
tên cây ở Ấn Độ, thường ba trái dính lại một chùm, dụ cho ba chướng là hoặc, nghiệp và Khổ. Hoặc thuộc
về phiền não chướng, nghiệp  thuộc về nghiệp chướng, khổ  thuộc về báo chướng. Ba chướng này như
chùm trái ác xoa, có liên quan tương thông lẫn nhau, một tức là ba, ba tức là một.
20 Thọ vương: cây cổ thụ, chỉ cây bồ đề, nơi Phật thành đạo.
21 Nhị kiến điên đảo = nhị biên kiến: hai quan điểm  thiên  lệch hay cực đoan;  thiên chấp một  trong hai
quan điểm: 1. Thường kiến, chủ trương thế giới và tự ngã là thường tồn. 2. Đoạn kiến, hay đoạn diệt luận,
chủ nghĩa hư vô, chủ trương không có thế giới này, không có thế giới khác, không có tồn tại sau khi chết.
22
 B t nh pháp môn:  Kinh Duy Ma C t S Thuy t ghi:  “V    n Thù
i s nói, theo ý tôi thì
i v
i các pháp
không nói không r ng, không ch không bi t, siêu vi t v n
áp, y là nh p  vào pháp môn b t nh .”
23 Vô sanh nhị nhẫn: là bất thối nhẫn và vô sanh pháp nhẫn.  Nhẫn có nghĩa là an nhẫn, nghĩa là đối với lý
quyết định, không có ý niệm di động.  Theo Ðại Thừa Nghĩa Chương, quyển 9, chữ nhẫn có nghĩa là: “huệ
tâm an trụ nơi pháp thì gọi là nhẫn”; quyển 11 lại ghi: “an trụ trong thật tướng của pháp là nhẫn”. Bất thối
nhẫn chính là tâm niệm an trụ vào lý bất thối chẳng hề di động. Ðấy là mỗi niệm đều chẳng thối chuyển.
Nói cách khác, bất  thối nhẫn  là niệm bất  thối  trong ba  thứ bất  thối chuyển. Có ba  thứ bất  thối: a. Vị bất
thối: địa vị mình đã tu được chẳng bị lui sụt. b. Hạnh bất thối: chẳng hề thối thất hạnh pháp đã tu. c. Niệm
bất thối: chẳng thối chuyển chánh niệm. Theo Trí Ðộ Luận, vô sanh pháp nhẫn  là an trụ vào  lý pháp vô
sanh, chẳng động  tâm.   Chứng quả vô sanh pháp nhẫn  tức  là phá  trừ hết ngã chấp và pháp chấp, đạt
được chơn trí, và chơn trí ấy xứng hợp với chân lý, lý và trí không hai.

24 Nhị tuệ = nhị trí: Ở đây là chỉ cho trí tuệ xuất thế gian của chư thánh giả, chư Phật. Có nhiều pháp số
về hai loại trí tuệ: 
1. Căn bản trí (hay vô phân biệt trí là loại trí tuệ do đoạn tận các hoặc chướng mà trực tiếp chứng
nhập  lý  thể chân như,  thấy  rõ nhân không và pháp  không, không còn niệm phân biệt nào đối với vạn
pháp) và hậu đắc  trí (do đã  thành  tựu căn bản  trí mà có được hậu đắc  trí,  là  loại  trí  tuệ có phân biệt,  là
các loại phương tiện thiện xảo mà chư Phật dùng để hóa độ chúng sinh).  89

                                                                                                                                                                                              
2. Tận trí (trí tuệ vô  lậu của bậc vô học do tận diệt phiền não) và vô sinh trí (trí tuệ biết rõ mình
không còn bị thối chuyển vào vòng sinh tử). 
3. Thật  trí  (trí  tuệ khế hợp với  lý  thể chân  thật) và quyền  trí  (trí  tuệ quyền xảo,  thông suốt các
phương tiện độ sinh). 
4. Như  lý  trí (trí  tuệ chiếu soi rõ ràng chân  lý đệ nhất nghĩa,  thuộc chân đế) và như  lượng  trí (trí
tuệ chiếu soi rõ rang sum la vạn tượng trong vũ trụ, thuộc tục đế.) 
5. Nhất thiết chủng trí (tương đương với như  lý trí, thật trí) và nhất thiết trí (tương đương với như
lượng trí, quyền trí.) 
6. Quán sát trí (trí tuệ thấu suốt nhân không và pháp không, lý thể chân như hiển hiện, hoàn toàn
bình đẳng, không phân biệt năng chứng cùng sở chứng) và thủ tướng trí (trí tuệ thấy rõ và giữ lấy tướng
trạng sai biệt của vạn pháp, đối với các pháp sự và lý hoàn toàn viên dung vô ngại.) 
Nhìn chung thì tận trí, căn bản trí, thật trí, như lý trí, nhất thiết chủng trí, và quán sát trí, đều là những tên
gọi khác nhau của cùng một  trí  thể, chẳng qua  là tùy từng trường hợp mà gọi tên này hay tên kia; đó  là
loại  trí  tuệ căn bản,trí  tuệ bản  thể, hiển nhiên,  thường nhiên của chư Phật,  là mặt  thể của  trí  tuệ Phật.
Trong khi đó, vô sinh trí, hậu đắc trí, quyền trí,như lượng trí, nhất thiết trí, và thủ tướng trí, cũng là những
tên gọi khác nhau của cùng một lực dụng; đó là loại trí tuệ phương tiện Phật dùng để độ sinh, là mặt dụng
của trí tuệ Phật. 

25 Nhị hạnh: chỉ cho  tự  lợi hạnh và  lợi  tha hạnh.   Nhị hạnh còn chỉ cho chánh hạnh và  tạp hạnh  trong
hạnh nghiệp vãng sanh của pháp môn  tịnh độ,  theo chủ  trương của ngài Thiện Đạo đời Đường, Trung
Quốc.
26 Tát Bà Nhã, Trung Hoa dịch là Nhứt thiết trí tướng.  Trong nhơn thì gọi là Bát mhã, tại quả thì gọi là Tát
bà nhã, tức là Nhứt thiết trí của chư Phật. 
27 Nhất tâm tam quán: pháp này nguyên tôn giả Tuệ Văn phát giác từ bài tụng sau đây trong luận Trung
Quán của Long Thọ đại sĩ: Nhân duyên sở sinh pháp/ Ngã  thuyết  tức  thị không/ Diệc danh vi giả danh/
Diệc  thị  trung đạo nghĩa (Các pháp duyên sinh/  tôi nói  là không/ cũng nói  là giả/ đó  là  trung đạo). Theo
cái lý trung đạo đó, tôn giả Tuệ Văn lập ra nhất tâm tam quán: không quán, giả quán, trung quán.  Nhất
tâm tam quán là chỉ về nhất như. Thiên thai tông chủ trương rằng "chư pháp duy nhất tâm". Nhất tâm là
cái Tâm đồng nhất hay duy nhất. Tâm ấy như thế nào?  Đáp rằng: Không nói tâm ở trước, còn nhất thiết
pháp ở sau. Cũng không nói nhất thiết pháp ở sau, còn tâm ở trước. Nếu bảo rằng nhất tâm sinh ra nhất
thiết pháp thời không được. Nếu bảo rằng  tâm nhất thời bao hàm nhất thiết pháp thời cũng không được.
Tâm vốn là nhất thiết pháp, nhất thiết pháp ấy là tâm. Hai cái không phải là khác, cũng không phải là một. 90

                                                                                                                                                                                              
"Chư pháp duy nhất tâm". Tâm ấy tức là chúng sinh. Tâm ấy tức là Bồ tát, Phật. Sinh tử cũng ở nơi tâm
ấy. Niết bàn cũng ở nơi  tâm ấy.   Tâm bao  tàng  tất cả.   Mà  luận cứu đến nhất  tâm, phải  lấy  tam quán:
Không quán, giả quán, trung quán.  Trong không quán có giả với trung, không phải tuyệt nhiên là không.
Trong giả quán có không với trung, không phải  tuyệt nhiên  là giả. Trung quán phải dung nạp hết hai cái
không với giả; không thế không phải là trung đạo.  Nếu cứ giả mà xem, thời có chi là không giả? Nếu cứ
không mà xem, thời chi không phải là không? Trung, thời thống hiệp cả giả với không. Ngoài cái trung ra
không có giả không gì cả.  Lấy một trong ba, tức  là gồm hết cả ba, không có cái nào sau cái nào trước,
không có cái nào sinh ra cái nào.   Xét về  lý  thể của chân như với  tâm và vật, ba cái ấy quan hệ,  thí dụ
như  thấp  tánh (hygrométricité), nước và sóng. Lý  thể của chân như cũng như  thấp  tánh. Tâm cũng như
nước. Vật cũng như sóng.  Ngoài thấp tánh không có nước. Ngoài nước không có sóng. Ngoài chân như
không có tâm. Ngoài tâm không có vật.  Chân như, tâm và vật, ba cái quan hệ nhau như thế, cho nên ba
cái không rời nhau, mà không là một, không là khác.
28 Ba thứ mê hoặc: tham, sân, si.
29 Tam cõi = tam hữu = tam giới:  tức 3 cõi Dục, Sắc và Vô Sắc.  Tam giới mà nói  là hữu, là vì:  1.  Sắc
giới và vô sắc giới vẫn còn sanh tử liên tục chưa phải giải thoát;  2.   Cả 3 cõi đều là cảnh giới sanh tử, có
nhân có quả mà có (hữu), tức nói quả báo dị thục.
30 Ba không: ba thứ không được lập ra dựa vào sở chấp của chúng sanh, đó là:  1. Ngã không: xét 5 uẩn
là vô  tự  tánh, không  thấy có ngã  thể;   2. Pháp không: xét các pháp như huyễn như hóa, đều do nhân
duyên sanh, không có  tự  tánh;   Ngã pháp nhị không:  trừ được ngả chấp và pháp chấp, năng và sở đều
mất, khế hợp bản tánh.
31 Ba hoặc  tâm:   Kiến  hoặc  là  sự mê  lầm  về  kiến  thức. Tư hoặc  là  sự mê  lầm  về  tư  tưởng. Trên  con
đường tu chứng, đoạn trừ Kiến Tư hoặc chỉ là mới đạt phương tiện, chưa đạt cứu cánh. Cần phải tiến lên
nữa và phải đoạn hai món mê lầm là Trần sa hoặc và Vô minh hoặc. Trần sa hoặc là sự mê lầm nhỏ nhặt
như vi trần. Vô minh hoặc là sự mê lầm cội gốc do căn bản vô minh gây nên.
32 Ba tu tập: giới, định và tuệ.
33 Ba học: văn, tư và tu. 91

                                                                                                                                                                                              
34 Ba  giải  thoát môn:  ba  cánh  cửa  dẫn  đến  giải  thoát:  không môn,  vô  tướng môn  và  vô  nguyện môn.
Không là tánh không nghĩa là các pháp không có tự tánh vì do duyên sinh.  Vô tướng là các pháp không
có tướng nhất định, luôn luôn biến đổi.  Vô tác là không tạo tác ác nghiệp.  Muốn chứng đước tánh không
phải quán duyên khởi. Muốn chứng được vô tướng phải quán vô thường.  Muốn chứng được vô tác phải
quán khổ .
35 Ba chướng: ba chướng ngại cản trở tu tập Thánh đạo của bồ tát: nghiệp chướng, báo chướng và phiền
não chướng. Nói đơn giản, nghiệp chướng  là 5  tội nghịch, 10 điều ác, báo chướng  là quả báo sanh  tử
luân hồi trong 6 nẻo, phiền não chướng là tham sân si.
36 Ba giác: tự giác, giác tha và giác hạnh viện mãn.
37 Tứ trí: là quả tu tập do Tông Duy Thức lập ra. 1. Chuyển thức thứ tám (A lại da) thành Đại viên cảnh trí:     
Trí này lìa các phân biệt, hành tướng sở duyên vi tế khó biết, không mê vọng, không ngu si đối với tất cả
cảnh  tướng,  tánh  tướng  thanh  tịnh,  lìa  các  tạp nhiễm, như ánh  sáng  của gương  tròn  lớn  soi  khắp  vạn
tượng, sự lý không sót một mảy may. 2. Chuyển thức thứ bảy (mạt na) thành Bình đẳng tánh trí:  Trí này
quán  tất cả các pháp,  tự  tha, hữu  tình đều bình đẳng,  thường  tương ưng với đại  từ bi  ... bình đẳng với
muôn loài.  3. Chuyển thức thứ sáu thành Diệu quán sát trí: Trí này khéo quán tự tướng, cộng tướng của
các pháp, chuyển biến vô ngại,tự  tại  thuyết pháp  tùy  theo căn cơ của chúng hữu  tình để giáo hóa.   4. 
Chuyển 5 thức trước (nhãn thức, nhĩ thức,..) thành      Thành sở tác trí: Trí này do muốn  làm  lợi  lạc các loài
hữu  tình,  cho nên  có  khả  năng  ở  trong 10 phương  vì  chúng  snah mà  hành  thiện bằng 3  nghiệp  thân,
khẩu, ý của mình, thành tựu theo năng lực của bản nguyện
38 Tứ vô ngại biện:   Biện  tài,  tài hùng biện, có 4:  thông suốt văn  tự  (pháp vô ngại),  thông suốt nghĩa  lý
(nghĩa vô ngại), thông suốt sinh ngữ (từ vô ngại) và thông suốt trình bày hay trình bày vui vẻ (biện vô ngại
= nhạo thuyết vô ngại).
39
 B n  tâm:  t , bi, h   và x .   Nhiếp  luận  tán dương 4  vô  lượng  tâm của Phật như sau:  “Kính  lạy đấng
thương xót chúng sanh, phát khởi 4 thứ ý  lạc: muốn chúng sanh hòa đồng cái vui, muốn chúng sanh xa
lìa nỗi khổ, muốn chúng sanh không mất hoan hỷ, muốn chúng sanh hưởng mọi lợi lạc”.
40 Bốn tướng: ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng và thọ giả tướng.  Tướng là ý tưởng, khái niệm,
là ngã chấp: ý niệm về cái tôi (ngã), cái tôi là 1 sinh thể có tâm thức (chúng sanh), sinh thể ấy có đời sống
từ khi sinh đến khi chết (thọ giả), sinh thể ấy có 1 linh hồn sẽ tái sinh đời sống khác y như đời này (nhân). 92

                                                                                                                                                                                              
41 Tứ  tất đàn  là bốn phép  thành  tựu viên mãn Phật đạo. Trong cuộc đời  thuyết pháp của đức Thế Tôn,
Ngài luôn diệu dụng tứ tất đàn làm cho chúng sinh mau chứng ngộ. 
1. Thế giới tất đàn: Những điều Như Lai phương tiện tùy thuận chúng sinh mà nói (như người, vật,
nhà, xe, núi, voi, mưa nắng v.v...).
2. Vị nhân tất đàn: Như Lai tùy căn cơ trình độ của mỗi người mà dạy phép này phép khác khiến
họ dễ tiếp thu, mau tiến hóa.
3. Đối  trị  tất đàn: Như Lai  tùy  thuận chỗ mê  lầm của chúng sinh mà nói những pháp đối  trị như
lương y tùy bệnh cho thuốc.
4. Đệ nhất nghĩa tất đàn: Khi thấy cơ duyên của chúng sinh đã thuần thục Ngài không dùng phép
tương đối như trên nữa mà khai thị trung đạo thuyết cái thật tướng của các pháp khiến họ sớm đạt chân
lý.     
42 Ba đảo = bồng  lai  tam đảo:  tức ba đảo  tiên, gồm Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu.   Tương
truyền, ba đảo  thần  tiên này ở vịnh Bột Hải. Liệt Tử Xung Hư Chân Kinh nói:  “Phía đông của Bột Hải,
không rõ là xa bao nhiêu dặm, có một vùng nước lớn. Thực tế ở đó là một thung lũng không có đáy. Bởi
phía dưới của thung lũng không có đáy nên thung lũng được gọi là Quy Khư. Nước từ tám phương trời và
chín vùng đất, và nước sông Ngân Hà đều chảy đổ vào nơi này,  thế mà nước ở đấy chẳng  tăng chẳng
giảm. Ở nơi này có năm ngọn núi. Ngọn thứ nhất tên là Đại Dư, ngọn thứ hai là Viên Kiều, ngọn thứ ba là
Phương Hồ, ngọn thứ tư là Doanh Châu, và ngọn thứ năm là Bồng Lai. Các núi này cao 30.000 dặm, và
chu vi 30.000 dặm. Đỉnh núi  là vùng bằng phẳng, có đường kính 9.000 dặm. Các núi cách nhau 70.000
dặm, là nơi dân cư ở. Những đền đài và đạo quán trên đỉnh núi thì bằng vàng và ngọc. Cầm thú ở đó có
màu trắng tinh khiết. Cây cối bằng ngọc trai và san hô. Hoa trái có vị thơm ngon dễ chịu. Ai mà ăn được
hoa quả ấy sẽ không già và không chết."
43 Lục thù:  Chỉ cho tiền tệ ngày xưa, 24 thù là 1 lượng, lục thù nặng nửa lạng.  Trong bài phú Vịnh Vân
Yên Tử, Trúc Lâm tam tổ Huyền Quang có câu: Quán thất bảo vẽ bao Bụt hiện/ Áo lục thù tiếng gió tiên
phiêu/ Thầy  tu  trước đã  lên Phật quả/ Tiểu  tu sau còn vị  tỳ kheo. Áo  lục  thù hẳn  là nhẹ  lắm như áo  tiên
vậy. Có người cho áo  lục  thù  là áo của chư  thiên  trên cõi  trời Đâu Suất.   Áo  lục  thù còn  là áo mặc cho
người chết trên có in chú Tỳ Lô Giá Na Quán Đảnh.

44 Bốn điên đảo (Tứ điên đảo): có hai  loại, một  là bốn điên đảo của phàm phu, hai  là bốn điên đảo của
hàng Nhị thừa. Phàm phu sống trong thế gian vô thường mà cho đó là thường, chịu mọi khổ não mà cho
đó là vui, thế gian bất tịnh, nhơ nhuốc mà cho đó là thanh tịnh, trong sạch, thế gian không có thật ngã mà
kể cho đó là bản ngã. Đối với hàng Nhị thừa, tuy đã thoát những nỗi khổ của phàm phu nhưng vẫn chưa 93

                                                                                                                                                                                              
được giải thoát rốt ráo, còn bị vô minh che lấp, nên đối với Niết-bàn của chư Phật là thường tồn mà cho là
vô  thường,  thường vui mà cho  là không có gì vui, có chân ngã mà cho  là vô ngã,  thường  thanh  tịnh mà
cho là bất tịnh. Đó gọi là bốn điên đảo của hàng Nhị thừa.
45 Tứ không định: sau khi đã trãi qua Tứ thiền và đã thành tựu viên mãn, hành giả tiếp tục tu thiền định và
sẽ  trãi qua bốn giai đoạn gọi  là  tứ không định sau đây. Sở dĩ gọi  là  tứ không, vì khi vào bốn định này,
hành giả sẽ không còn thấy có cảnh thức tâm nữa.  
1. Không vô biên xứ: quán Không xứ phá cái  tưởng hữu sắc  trong và ngoài. Diệt cái  tưởng hữu
đối, không nghĩ tưởng các thứ hình sắc. Quán Không vô biên xứ là xét hình sắc là lỗi lầm, nghĩ tưởng cái
định Không xứ là công đức thượng diệu. Tập nghĩ tưởng pháp này dần dần được định Không xứ.
2. Thức vô biên xứ: quán Thức xứ là xét cái Không xứ là lỗi lầm, nghĩ tưởng công đức vô lượng của
Thức xứ. Tập nghĩ tưởng pháp này dần dần được định Thức xứ. 
3. Vô sở hữu xứ: quán Vô sở hữu xứ, xét Thức xứ là lỗi lầm, nghĩ tưởng công đức của Vô sở hữu
xứ. Tập nghĩ tưởng pháp này liền được định Vô sở hữu xứ.
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ: quán Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ, xét tất cả tưởng là hoạn họa
rất nhiều, như bệnh, như ghẻ, còn vô tưởng là chỗ ngu si. Thế nên Phi hữu tưởng phi vô tưởng là chỗ tốt
an ổn bậc nhất. Xét lỗi lầm của Vô sở hữu xứ, nghĩ công đức Phi hữu tưởng phi vô tưởng. Tập nghĩ pháp
này liền được định Phi hữu tưởng phi vô tưởng.
46 Tứ trụ phiền não: 1. kiến hoặc  trong tam giới là một trụ: tất cả kiến hoặc trụ địa, tức là kiến hoặc phân
biệt  trong  tam giới, do ý căn đối với pháp  trần khởi phân biệt, dấy các  tà kiến  trụ  trước  tam giới. 2. Tư
hoặc trong tam giới phân làm ba trụ: a. Dục ái trụ địa hoặc, do năm căn đối cảnh năm trần khởi tâm tham
ái, mà trụ trước nơi Dục giới. b. Sắc ái trụ địa hoặc, tức là  tư hoặc trong Sắc giới, do chẳng rõ hoặc này
nên  trụ  trước  thiền định Sắc giới không  thể bỏ  lìa. c. Hữu ái  trụ địa hoặc,  tức  là  tư hoặc Vô sắc giới, do
chẳng rõ hoặc này nên trụ trước thiền định Vô sắc giới không thể bỏ lìa.
47 Bốn bộc  lưu: Bốn dòng nước cuốn,  là dục  lưu, hữu  lưu, kiến  lưu và vô minh  lưu. Tánh nó hay nhận
chìm chúng sanh, nhận chìm pháp lành, nên gọi là bộc lưu.  1. Dục bộc lưu: chỉ phiền não thuộc cõi Dục,
thể nó có 29, tức lấy 41 hoặc thuộc lậu, trừ đi 5 kiến Khổ đế, 2 kiến thuộc Tập đế, 3 kiến thuộc Diệt đế, 3
kiến  thuộc Đạo đế, ở cõi Dục  (cộng  thành 12 kiến), gọi đó  là dục bộc  lưu. 2. Hữu bộc  lưu: chỉ những
phiền não ở hai cõi Sắc và Vô sắc, tự thể nó có 28, tức lấy 52 hoặc thuộc hữu lậu trên kia, trừ đi 24 kiến
của cõi Sắc và Vô sắc, còn lại 28 hoặc, gọi đó là hữu bộc lưu. 3. Kiến bộc lưu: chỉ tất cả các tâm khởi lên
bởi mê 5 bộ pháp (kiến đạo Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế là 4, thêm tu đạo là 5) cả trong ba cõi. Thể 94

                                                                                                                                                                                              
của nó có 36 kiến, và nó rất nhạy bén, nên từ trong các hoặc lậu tách riêng nó ra thành một bộc lưu. 4.
Vô minh bộc lưu: tức 15 phiền não si khởi lên bởi mê 5 bộ pháp trong ba cõi, tương đồng với vô minh.
48
 B n
c c a ni t bàn: thư ng, l c, ngã và t nh.
49 Bốn an lạc hạnh: an lạc hạnh nghĩa là luôn luôn duy trì một cái tâm bình an, hạnh phúc và hoan hỷ tu
tập. 1. hạnh an  lạc  về  thân  (thân an  lạc hạnh): đối  xử  thế nào, 2. hạnh an  lạc  về miệng  (khẩu an  lạc
hạnh): nói năng thế nào, 3. hạnh an lạc về ý (ý an lạc hạnh): giữ thái độ tâm thức thế nào, 4. hạnh an lạc
về nguyện (nguyện an lạc hạnh): nỗ lực thực hiện lý tưởng như thế nào. 
50 Bồ-Tát Văn Thù hỏi Phật: Tri kiến thế nào gọi là ngũ nhãn? Thế Tôn nói: 
1. Nhục nhãn: chỉ thấy chỗ sáng, không thấy chỗ tối, chỉ thấy trước mắt, không thấy sau lưng 
2. Thiên nhãn: trước sau, trong ngoài, núi gò, vách đá đều thấy thông suốt không ngăn ngại. 
3. Huệ nhãn: thấy được nghĩa lý trong văn tự sâu cạn, nhân quả lành dữ, kiếp trước, kiếp sau rõ
rệt như xem chỉ trong lòng bàn tay. 
4. Pháp  nhãn: Thấy  được  các  phương  tiện  của  chư Phật  trong  ba  đời  và  hiểu  được  các  pháp
phương tiện tùy theo căn cơ cao thấp mà truyền đạo không sai lạc, như bệnh nào cho thuốc nấy. 
5. Phật nhãn:  tròn sáng, soi khắp kiếp  từ vô  thỉ đến vô chung,  tất cả nhân quả đều  thấy  trước
mắt, một mảy lông, cọng tóc cũng không sót. 
Năm thứ con mắt này đều do phước lành chiêu cảm mà ra. Duy có Phật là hoàn toàn đầy đủ, các
bậc khác chưa được. Con mắt chia ra làm năm mà gốc tại cái tâm tu hành đến chỗ kiến tánh rồi thì ai ai
cũng có được. 
(Trích kinh Đại Thừa Kim Cang, http://tudien.daitangkinhvietnam.org) 
51 Ngài Hiền Thủ, tổ sư tông Hoa Nghiêm, chia Thánh giáo của Phật nói trong 1 đời thành 5 giáo 10 tông. 
Năm giáo là: 1.  Tiểu thừa giáo, 2.  Đại thừa thỉ giáo,  3.  Đại thừa chung giáo,  4.  Đốn giáo,  5.  Viên
giáo.  Mười tông là:  1.  Ngã pháp câu hữu tông,  2.  Pháp hữu ngã vô tông,  3.  Pháp vô khứ lai tông,  4. 
Hiện thông giả thật tông,  5.  Tục vọng chân thật tông,  6.  Chư pháp đãn danh tông,  7.  Nhất thiết giai
không tông,  8.  Chân đức bất không tông,  9.  Tướng tưởng câu tuyệt tông,  10.  Viên minh cụ đức tông. 
Trong 10 tông, 6 tông trước thuộc Tiểu thừa giáo, tông 7 thuộc Đại thừa thỉ giáo, tông 8 thuộc Đại thừa
chung giáo, tông 9 thuộc Đốn giáo và tông 10 thuộc Viên giáo.
52 Năm mươi  lăm vị:   Năm mươi hai giai vị bồ  tát đại  thừa được ghi  trong kinh Anh Lạc, đó  là:    thập  tín,
thập trụ, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa, đẳng giác và diệu giác. 95

                                                                                                                                                                                              
1.  Thập tín: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Huệ tâm, Định tâm, Bất thoái tâm, Hồi hướng tâm,
Hộ pháp tâm, Giới tâm và Nguyện tâm.
2.  Thập  trụ: Phát  tâm  trụ, Trị địa  trụ, Tu hành  trụ, Sinh quý  trụ, Cụ  túc phương  tiện  trụ, Chính
tâm trụ, Bất thoái trụ, Đồng chân trụ, Pháp vương tử trụ và Quán đảnh trụ. 
3.  Thập hạnh: Hoan hỷ hạnh, Nhiêu  ích hạnh, Vô vi nghịch hạnh, Vô khuất nhiễu hạnh, Vô si
loạn  hạnh,  Thiện  hiện  hạnh,  Vô  trước  hạnh,  Nan  đắc  hạnh,  Thiện  pháp  hạnh,  Chân  thật
hạnh. 
4.  Thập hồi hướng: Cứu chư chúng sinh  ly chúng sinh  tướng hồi hướng, Bất hoại hồi hướng,
Đẳng  nhất  thiết  chư Phật  hồi  hướng, Chí  nhất  thiết  hồi  hướng,  Vô  tận  công  đức  tạng  hồi
hướng, Nhập nhất thiết bình đẳng thiện căn hồi hướng, Đẳng tùy thuận nhất thiết chúng sinh
hồi hướng, Chân như tướng hồi hướng, Vô phược vô trước giải thoát hồi hướng và Nhập pháp
giới vô lượng hồi hướng.
5.  Thập địa: Tứ vô lượng tâm, Thập thiện tâm, Minh quang tâm, Diệm huệ tâm, Đại thắng tâm,
Hiện tiền tâm, Vô sanh tâm, Bất tư nghì tâm, Huệ quang tâm và Thọ vi tâm.
Tâm ở địa thứ 51 gọi là Nhập pháp giới tâm, tức là Đẳng giác.
Tâm ở địa thứ 52 gọi là Tịch diệt tâm, tức là Diệu giác.
Tam hiền  thập  thánh: Ba hiền  là 30 bồ  tát vị, dùng  tợ giải mà dẹp chướng hoặc và gọi chung  là
hiền, đó  là 10  trú, 10 hạnh và 10 hướng.   Mười địa  là 10 bồ  tát vị sau hết, dùng chân  trí mà  trừ chướng
hoặc và gọi chung là thánh.
   Thất hiền  thất  thánh: Theo Phật giáo nguyên  thỉ và bộ phái  thì muốn kiến đạo, nghĩa  là muốn
thành  thánh quả,  thì phải đi qua 7 hiền vị. Đó  là: 1. Ngũ đình  tâm quán, 2. Biệt  tướng niệm  trú, 3. Tổng
tướng niệm trú, 4. Noãn pháp, 5. Đảnh pháp, 6. Nhẫn pháp, 7. Thế đệ nhất pháp.  Thánh quả có 4 là: Tu
đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm và A la hán. Bốn thánh quả có 7 thánh giả là: tùy tín hành, tùy pháp hành,
tín giải, kiến chí, thân chứng, tuệ giải thoát và câu giải thoát.  Có thể chia thất hiền thất thánh làm 3 giai
đoạn: 1. Giai đoạn trước của 7 hiền vị: giữ giới thanh tịnh, siêng tu 3 tuệ (văn, tư, tu) thuận với sự kiến đế,
và thanh tịnh thân khí.  2. Giai đoạn chính của 7 hiền vị, như trên đã nói, 3. Giai đoạn chứng 4 thánh quả,
bao gồm kiến đạo, tu đạo (hữu học vị) và cứu cánh (vô học vị).  Như vậy 55 vị hiền thánh, tạm hiểu là 3
giai đoạn hiền thánh thuộc tiểu thừa và 52 giai vị hiền thánh của đại thừa.
 
 

53 Năm căn năm  lực: Năm căn là Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Ðịnh căn và Tuệ căn. Tín căn là đặt  lòng
tin vào sự giác ngộ của Phật.  Tấn căn là tinh tấn tu tập tứ chánh cần.  Niệm căn là quán niệm về tứ niệm 96

                                                                                                                                                                                              
xứ. Định căn  là  tứ sắ`c định, sau khi đã  từ bỏ pháp sở duyên, được định, được nhất  tâm.   Tuệ căn  là  tri
kiến về tứ đế.  Sức mạnh của Ngũ căn được gọi là Ngũ lực. Ðó là: Tín lực, Tấn lực, Niệm lực, Ðịnh lực và
Tuệ lực. Hiểu rõ Ngũ căn ở trên là hiểu rõ Ngũ lực. Ngũ căn và Ngũ lực là pháp môn mà một bậc Thánh
Bất lai (A na hàm) cần phải tu tập viên mãn để đoạn tận nhứt thiết hoặc, hoặc tận vô minh.
54 Năm  trược = ngũ  trược ác  thế: năm  thứ vẩn đục:  thời kỳ dữ dội, kiến  thức sai  lầm,  tâm  lý độc ác, con
người  xấu  kém,  đời  sống  ngắn  ngủi  (kiếp  trược,  kiến  trược,  phiền  não  trược,  chúng  sanh  trược, mạng
trược). Giai đoạn ngũ trược thì dẫn đến giai đoạn tam tai, tức là 3 tai nạn đao binh, tật dịch, cơ cẩn (chiến
tranh, nhiễm độc, nhân mãn).  
55 Ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thụy. Nghĩa là ham muốn của cải, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon và ngủ
nghỉ.
56 Năm  trần cảnh: sắc,  thanh, hương, vị và xúc (sắc đẹp,  tiếng hay, hương  thơm, vị ngon và những cản
giác êm dịu). Năm  trần cảnh  thường phỉnh gạt  tất cả phàm phu, khiến  lòng say đắm và đưa đến phạm
nhiều tội lỗi.   
57 Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A la hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu.
58 Ngũ pháp: 1. Tướng; 2. Danh; 3. Phân biệt; 4. Chánh trí; 5. Như như 
1. Tướng: là pháp hữu vi, nhiều vô lượng, nhưng pháp nào cũng đều tự nhơn duyên sanh ra mà
hiện ra đủ tướng trạng. 
2. Danh:  là cũng nương nơi nhơn duyên để kêu gọi cái  tướng của các pháp kia, mà nảy  ra cái
danh của mỗi pháp. Bởi  tướng  là sở  thuyên, còn danh  là năng  thuyên. Tướng, Danh ấy  là cái cảnh sở
biến do nơi tâm hữu lậu của phàm phu nó biến hiện ra. 
3. Phân biệt: cựu dịch  là vọng  tưởng,  là cái  tâm năng biến  ra 2 cái  tướng phân biệt và phần sở
biến. Ba pháp trên đó, là phần năng biến và phần sở biến của tâm hữu lậu. 
4. Chánh trí: là tất cả vọng tưởng nó xen vào tâm vô lậu. Bốn pháp trên đó chung là pháp hữu vi,
để riêng biệt phần hữu lậu và vô lậu. 
5. Như như: là cái chân như do chánh trí trước mà chứng được.  Do nơi trí đúng như lý mà chứng
được chân như nên nói là như như, là phần vô vi. Dùng năm pháp ấy để gồm thâu tất cả các pháp hữu vi
và vô vi, không sót một pháp nào. 
59 Đại viên cảnh trí: là trí do chuyển dị thục thức (thức thứ 8, A lại da) mà thành. Yên tịnh không lặng tròn
sáng chẳng động là Đại viên cảnh trí. 97

                                                                                                                                                                                              
60 Chí Công hay Bảo Chí (418-514)  là một bậc  thần kỳ nhất  trong các vị cao  tăng  thời Lương Vũ Đế,  là
sám chủ của Lương hoàng sám. Sư họ Châu, xuất gia từ nhỏ, theo thầy Tăng Kiệm chùa Đạo Lâm tu tập
thiền định.  Trong khoảng năm 466-471, sư thường lui tới vùng Đô Ấp, không trụ chỗ nào nhất định.  Thi
phú, ngôn ngữ của sư có  lúc giống như sấm ký, dân chúng  tranh nhau hỏi điều họa phước.   Tề Vũ Đế
cho  là mê hoặc quần chúng nên hạ ngục sư, nhưng ngày ngày vẫn  thấy sư dạo chơi ngoài chợ  trong
làng.  Vua bèn mời vào vườn Hoa Lâm cúng dường và cấm sư ra vào, nhưng sư vẫn tới lui các chùa Long
Quang, Kế Tân, Hưng Hoàng, Tịnh Danh … Đến khi Lương Vũ Đế phế Hòa Đế nước Tề mà  lên ngôi
(502)  thì mới  thả sư ra.   Sư  là người chỉ dẫn cho Lương Vũ Đế soạn Thủy Lục Đại Trai, và  thường đàm
luận với vua, như khi được hỏi làm thế nào để đối trị phiền não mê hoặc,  thì sư đáp,  lấy sự tinh tấn  liên
tục, bao hàm sự bái sám.   Tháng 12 năm 514, sư thị  tịch, thọ 96 tuổi.  Lương Vũ Đế cho an táng tại gò
Độc Long, lại chiếu chỉ cất chùa Khai Thiện bên mộ, cùng ban thụy hiệu Đại sư Quảng Tế.
61 Năm đức, theo kinh Phước Điền, là:  1. Phát tâm xuất gia vì cảm bội Phật pháp,  2. Hủy bỏ hình đẹp vì
thích ứng pháp y,  3.  Cắt ái từ thân vì không còn thân sơ,  4.  Vất bỏ thân mạng vì tôn sùng Phật pháp, 
5.  Chí cầu đại thừa vì hóa độ mọi người.
62 Ngũ thiên: là chư thiên đến ủng hộ đạo tràng, vân tập ở 5 hướng đông, tây, nam, bắc và trung ương.    
63 Năm suy = ngũ suy:  Năm tướng suy của chư thiên hiện ra khi tuổi thọ sắp hết: 1. Hoa trên mũ héo úa;
2. Nách  ra mồ hôi; 3. Áo quần nhơ nhớp;   4. Thân mất vẻ uy nghi, có mùi hôi và mắt  thường chớp;   5.
Không thích chỗ ngồi cũ của mình hoặc làm những việc thô tháo với ngọc nữ. 
64 Năm triền cái:   1. Dục tham, 2. Sân, 3. Hôn trầm  thụy miên, 4. Trạo hối, 5. Nghi. Triền cái là sự ngăn
che, làm chướng ngại quá trình tu tập thiền định và phát tuệ giải thoát.
65 Ngũ chủng tâm: 1. Bồ đề tâm, 2. Hiếu thuận tâm, 3. Từ bi tâm, 4. Cung kính tâm, 5. Chân tâm.
66 Ngũ giới:  là năm điều ngăn cấm mà Phật đã chế  ra, để ngăn những  tưởng niệm ác, nói năng chẳng
lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: Không được giết hại, không được trộm cướp, không được
tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
67 Năm phước: 1. Trường thọ, 2. Phú quý, 3. Khương ninh, 4. Hảo đức, 5. Thiện chung. 98

                                                                                                                                                                                              
68 Ngũ minh là Thanh minh, Công xảo minh, Y phương minh, Nhân minh và Nội minh. Thanh minh, là khả
năng thông thạo về ngôn ngữ, văn từ. Công xảo minh là khả năng thông thạo về nghề nghiệp, toán học,
khoa học, văn chương, triết lý thuộc ngoại điển. Y phương minh là khả năng hiểu biết về y lý, thuốc men,
trị bệnh. Nhân minh là khả năng thông thạo về chánh, tà, đúng, sai... là khả năng luận lý, lý giải. Nội minh
là kiến thức thông rõ (gồm cả kinh nghiệm tu tập) ba tạng Kinh điển của Phật giáo.
69 Lục dục thiên: Sáu tầng trời ở cõi dục: 1. Tứ thiên vương, 2. Đao lợi hay Tam thập tam thiên, 3. Dạ ma
hay Tu dạ ma thiên, 4. Đâu-suất thiên, 5. Hoá lạc thiên, 6. Tha hoá tự tại thiên. 
70 Sáu cách chấn động:   Ba cách về  tiếng: 1.  tiếng nổ, 2.  tiếng  loài hữu  tình kêu  la, 3.  tiếng  loài vô  tình
khua chạm.   Ba cách về hình: 1. rung động qua  lại, 2. vọt  lên khỏi chỗ cũ, 3. đang nằm bỗng đứng dậy
dựng lên.
71 Lục niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên.
72 Lục hòa là sáu phép tắc hay quy tắc chung sống hòa hợp với nhau, tôn kính lẫn nhau. Sáu phép đó là:
1. Thân hòa đồng trú, 2. Khẩu hòa vô tránh,  3. Ý hòa đồng duyệt,  4. Giới hòa đồng tu 5. Kiến hòa đồng
giải, 6. Lợi hòa đồng quân.
73 Sáu đối tượng của tham ái là: 1. Sắc ái: Sắc trần  là đối tượng của tham ái, 2. Thanh ái: Thanh trần là
đối tượng của tham ái. 3. Hương ái: Hương trần là đối tượng của tham ái, 4. Vị ái: Vị trần là đối tượng của
tham ái, 5. Xúc ái: Xúc trần là đối tượng của tham ái, 6. Pháp ái: Pháp trần là đối tượng của tham ái.
74 Sáu thứ thù thắng: Sáu thứ ý lạc do tu tập tác ý sáu độ, thống nhiếp mọi tác ý mến trọng, tùy hỷ và vui
thích: 1. ý  lạc  rộng  lớn, 2. ý  lạc  trường kỳ, 3. ý  lạc hoan hỷ, 4. ý  lạc mang ơn, 5. ý  lạc chí  lớn, 6. ý  lạc
thuần lành. (Nhiếp luận)
75 Pháp Hoa  thất dụ: 1. Hỏa  trạch dụ (phẩm Thí Dụ), 2. Cùng  tử dụ (phẩm Tín giải), 3. Dược  thảo dụ =
vân  vũ  dụ  (phẩm Dược  thảo  dụ),  4. Hóa  thành  dụ  (phẩm Hóa  thành  dụ),  5. Y  châu  dụ  =  hệ  châu  dụ
(phẩm Ngũ bách đệ tử thọ ký), 6. Kế châu dụ = đảnh châu dụ (phẩm An lạc hạnh), 7. Y sư dụ = y tử dụ
(phẩm Như Lai thọ lượng).
76 Bảy thánh tài: tài sản của bậc thánh:
1. Tín: đức tin, lòng tịnh tín nơi tam bảo.
2. Giới: giới hạnh, sự ngăn ngừa điều ác của thân khẩu.
3. Tàm: hổ thẹn, sự hổ thẹn đối với điều ác bất thiện pháp. 99

                                                                                                                                                                                              
4. Quý: sĩ nhục, sự ghê sợ đối với điều ác bất thiện pháp.
5. Văn: đa văn, là nghe nhiều học rộng Phật pháp.
6. Thí: xả thí, là sự dứt bỏ lòng bỏn xẻn, ưa thích bố thí với hai bàn tay rộng mở.
7. Tuệ: trí tuệ, là trí hiểu điều lợi ích, hiểu nhân quả, hiểu điều thiện ác, hiểu bản chất danh sắc,
chánh kiến.
Bảy pháp này  là  tài sản cao quí,  thù  thắng hơn  tài sản vật chất vì không bị cướp đoạt, không bị
hư hoại; mặt khác thánh tài này làm cho tâm an lạc và cũng tạo được tài sản vật chất. Người nào có bảy
thánh tài này được gọi là người giàu có.

77 Thất bồ đề phần =  thất giác chi:  là bảy pháp  tu  tập  tuần  tự hướng đến đạo quả vô  thường Bồ đề,
hay bảy pháp giúp người tu hành thành tựu đạo quả Ðại giác, gồm có: 
1.  Trạch pháp: là dùng trí huệ để lựa chọn pháp lành để tu, pháp dữ để tránh.  
2.  Niệm: đối các pháp, chánh niệm tu tập.
3.  Định: là thường phát khởi diệu huệ thanh tịnh. 
4.  Tinh tấn: đối với việc hành thiện, siêng năng không giải đãi.  
5.  Khinh an: đối với các pháp xa lìa thô trọng, điều phục thân tâm.
6.  Xả: đối với các pháp xa lìa phóng dật, khiến tâm tịch tịnh.
7.  Hỷ: đối với các pháp mà sinh hỷ thọ.
78 Thất đạo = thất hữu: Bảy quả báo đường lành đường dữ, đó là: 1. Địa ngục, 2. Súc sanh, 3. Ngạ quỷ, 4.
Nhân, 5. Thiên, 6. Nghiệp hữu, 7. Trung hữu.  Bảy loại này được gọi là hữu vì còn sanh tử liên tục chưa
được giải thoát, vì do có nhân có quả mà có (hữu), tức n ói quả báo dị thục. Nghiệp hữu là nhân của quả
báo dị  thục nên gọi  là hữu.   Trung hữu (thân  trung ấm)  là phương  tiện để đưa đến quả báo dị  thục nên
cũng gọi là hữu.
79 Thất tình: Bảy thứ tình cảm biểu  lộ ra bên ngoài mà ai cũng có như: Vui mừng, giận dữ, buồn bã, vui
vẻ, yêu thương, giận ghét và ham muốn (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố và dục). Bảy trạng thái tâm lý nầy luôn luôn
tiềm ẩn ở nơi tâm thức chúng ta, hễ khi nào gặp một cơ hội  thuận tiện, tự nhiên cái tình cảm ấy sẽ hiện
nguyên ra bên ngoài như bộc lộ ra nơi nét mặt, qua cử chỉ, trong lời nói. Một trong 7 thứ tình cảm trên mà
thái quá thì khiến cho tâm sinh lý con người xáo trộn, mất quân bình và gây ra những hành động thiếu ý
thức và tai hại. 
80 Thất mạn: 1. Mạn: người kém bảo mình hơn, người bằng bảo mình bằng, đối tượng dù đúng nhưng tâm
lý cất cao nên gọi là mạn, 2. Quá mạn: người bằng bảo mình hơn, người hơn bảo mình bằng, 3. Mạn quá
mạn: người hơn bảo mình hơn nữa, 4. Ngã mạn: chấp ngã ngã sở làm cho tâm lý cất cao, 5. Tăng thượng 100

                                                                                                                                                                                              
mạn: chưa chứng thánh đạo mà bảo đã chứng, 6. Ty mạn: người hơn rất nhiều bảo mình chỉ kém ít thôi,
7. Tà mạn: làm ác, đắc ý với điều ác mà tâm lý cất cao.
81 Thất  lậu: 1. Kiến  lậu: mắt  trông  thấy sắc không  rõ sắc với  tánh  là bình đẳng cứ đắm vào phần sắc
tướng mà sanh  tâm phân biệt, nhận cảnh  tốt xấu mà sanh  tâm yêu ghét, 2. Chư căn  lậu: không những
nhãn căn mà cả các căn khác cũng  thế, 3. Vong  lậu: quên điều  lành, dong ruổi  theo điều ác, 4. Ác  lậu:
đối với nghịch cảnh sanh tâm ghét bỏ, 5. Thân cận lậu: không tuân lời thầy dạy, gần gũi bạn ác, 6. Ái lậu:
gặp cảnh thuận thì ham mê mải miết, 7. Niệm lậu: không hiểu chân tâm vô niệm, cứ dong ruổi theo vọng
niệm.
82 Thất tụ: còn gọi là thất phạm tụ, thất tội tụ, có nghĩa  là   Tướng phạm giới được chia làm 7 loại, tức là
chia các giới điều thuộc 5 thiên và ngoài 5 thiên thành 7 loại, hay nhóm, đó là:
Nhóm 1: Ba la di (Đoạn đầu)
Nhóm 2: Tăng già bà thi sa (Tăng tàn)
Nhóm 3: Thâu lan giá (Đại chướng thiện đạo)
Nhóm 4: Ba dật đề (Đọa)
Nhóm 5: Ba la đề đề xá ni (Hướng bỉ hối)
Nhóm 6: Đột cát la (Ác tác)
Nhóm 7: Ác thuyết
Căn cứ ở  tội  tính và nguyên nhân của  tội mà xét  tư cách  tỳ kheo, ví dụ như Thâu  lan giá gọi  là phương
tiện  tội  (:nhân  tội) của Ba-la-di và Tăng  tàn, ác  tác  là  tội phạm về  thân, ác  thuyết  là  tội phạm về khẩu. 
Phân  loại theo các việc cần phải cấm chỉ không được làm (chỉ trì) hoặc cần phải  làm (tác trì)  thì có bảy
nhóm như trên. Những việc không được làm, nếu làm thì phạm, gọi là “chỉ trì tác phạm”, như giới sát đạo
dâm vọng. Những việc phải làm không được bỏ qua thì gọi là “tác trì chỉ phạm”, như việc bố tát, yết ma,
an cư, tự tứ.

83 Giá  tội  là  tội  làm chướng ngại  thánh đạo không  thể phát sanh. Nghịch  tội  là  tội ác  làm nghịch với bổn
nguyên tâm địa. Bảy tội nghịch  là làm cho thân Phật xuất huyết, giết cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết
xà  lê, phá kiết ma  tăng và pháp  luân  tăng, giết  thánh giả. Nếu có bảy  tội nghịch  thì kẻ ấy  thân hiện  tại
không thể được Bồ tát giới. Bảy tội nghịch còn gọi là 7 sự cản trở (thất giá). 
84  Bảy lậu = bảy tùy miên: Tham dục tùy miên, sân tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên, mạn tùy miên,
hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên. (kinh Thập Thượng, số 34, Trường bộ kinh)
85 Bảy tuệ giác: Theo kinh Bảy Trạm Xe, số 24, Trung bộ kinh  và  kinh Thập Thượng, số 34, Trường bộ
kinh, có 7 giai đoạn thanh lọc tâm mà mỗi hành giả phải hành trì để khai phát tuệ giác.    
1. Thanh lọc giới đức (Giới tịnh) 101

                                                                                                                                                                                              
2. Thanh lọc tâm (Tâm tịnh)
3. Thanh lọc quan kiến (Kiến tịnh)
4. Thanh lọc bằng cách khắc phục hoài nghi (Ðoạn nghi tịnh)
5. Thanh lọc bằng cách thấu hiểu và nhận thấy thế nào là Con Ðường, thế nào không phải là Con
Ðường (Ðạo phi đạo tri kiến tịnh)
6. Thanh lọc bằng cách thấu hiểu và nhận thấy Con Ðường (Ðạo tri kiến tịnh)
7. Thanh lọc bằng cách thấu hiểu và nhận thấy (Tri kiến tịnh)
Theo kinh Tất Cả Lậu Hoặc, Trung bộ kinh, các  lậu hoặc sanh khởi và  tăng  trưởng  là do không
như lý tác ý, và các lậu hoặc không sanh khởi và đoạn trừ là do như lý tác ý.  Tác ý là nền tảng của nhận
thức,  theo đó  lậu hoặc sanh khởi hay không sanh khởi.   Kinh dạy 7 cách đoạn  trừ  lậu hoặc bằng: 1. Tri
kiến, 2. Phòng hộ, 3. Chân chánh thọ dụng, 4. Kham nhẫn, 5. Tránh né, 6. Trừ diệt, 7. Tu tập.
Bảy tuệ giác còn được hiểu là bảy chi phần giác ngộ (thất giác chi): Niệm, Trạch Pháp, Tinh Tấn,
Hỷ, Tịnh, Ðịnh, Xả.
86 Bảy báu: bảy thứ ngọc báu quý giá ở thế gian: vàng, bạc, lưu li, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não (kinh
A Di Đà) hay vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, trân châu, mai khôi (kinh Pháp Hoa).
87  Tám tướng thành đạo: giáng thần, nhập thai, trú thai, xuất thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân,
nhập niết bàn.
88 Tám  thứ  hóa  nghi:  chỉ  cho  tám  chánh  đạo: Chánh  kiến, Chánh  tư  duy, Chánh  ngữ, Chánh  nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định.
89 Tám bộ thiên long:  Trong tám bộ chúng, đứng đầu là Trời và Rồng, nên gọi là thiên long bát bộ hay
còn gọi là Long thần bát bộ.  Tám bộ chúng gồm có: 1. Thiên chúng, 2. Long chúng, 3. Dạ Xoa, 4. Càn
thát bà, 5. A tu la, 6. Ca lầu la, 7. Khẩn na la, 8. Ma hầu la già.
90 Tám đại bồ  tát: Theo kinh Đại Bảo Tích  là: Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Vô Si Kiến Bồ Tát, Bửu
Tướng Bồ Tát, Ly Ác Thú Bồ Tát, Trừ Chư Cái Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát, Biện Nghiêm Bồ Tát, Vô Si
Hành Bồ Tát.  Theo kinh Dược Sư là: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Ðắc Ðại Thế Bồ Tát,
Vô Tận Ý Bồ Tát, Bảo Ðàn Hoa Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát.
91 Tám cát tường: 1. Chẳng đọa ba nẻo ác, 2. Mau được đạo vô thượng, 3. Tự giác, phát đạo ý, 4. Thấy
Phật liền khai giải, 5. Trong ngoài thường vui vẻ, 6. Tâm cúng dường cung kính, 7. Hành ác thảy tiêu trừ,
8. Mau được hiểu rõ pháp. (Phật nói kinh Bát cát tường thần chú, ĐTK 427).  Tám biểu  tượng cát tường
của Phật giáo Tây Tạng  là: bảo bình, bảo cái,  thắng  lợi  tràng, cát  tường kết, kim ngư, bạch hải  loa,  liên 102

                                                                                                                                                                                              
hoa, kim  luân  (bình báu,  lộng báu,  tràng  thắng  lợi,  thắt kết cát  tường, cá vàng, ốc biển  trắng, hoa sen,
bánh xe vàng).
92 Bát Giải Thoát: Còn gọi  là Bát Bối Xả,  tám  loại Thiền Ðịnh diệt  trừ hết mọi  trói buộc của phiền não ở
tam giới. 
1. Nội hữu sắc  tưởng, quán ngoại sắc giải  thoát: nếu nội  tâm nghĩ  tưởng đến sắc chất  (nội hữu
sắc  tướng)  tất sẽ dẫn khởi  tham  tâm. Vì vậy, quán  tưởng các pháp bên ngoài đầy dẫy bất  tịnh, để  tham
tâm không thể phát sanh, nên gọi là giải thoát (quán ngoại sắc giải thoát). Giải thoát này nương định Sơ
thiền phát khởi, duyên với sắc của Dục giới. 
2. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc giải thoát: Tức tuy nội tâm không nghĩ tưởng đến sắc (nội vô
sắc tưởng), song muốn cho tâm không tham thêm kiên cố nên vẫn hằng quán tưởng các ngoại pháp đầy
bất tịnh, để tham tâm vĩnh viễn không sanh khởi, nên gọi là giải thoát (quán ngoại sắc giải thoát). Nương
Nhị thiền phát khởi, duyên với sắc của Sơ thiền. 
3. Tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ: Nhất tâm quán tưởng các sắc quang minh, thanh tịnh,
kỳ diệu gọi  là  tịnh giải  thoát. Khi quán  tưởng  tịnh sắc này, khiến  tham  tâm không  thể sanh khởi, chứng
minh tâm tánh này đã giải thoát nơi thân nên gọi là thân tác chứng. Lại sức quán tưởng này đã hoàn toàn
viên mãn, đủ an trụ nơi định này nên gọi là cụ túc trụ. Giải thoát này nương Tứ thiền sanh khởi, duyên với
sắc của Dục giới. 
4. Không vô biên xứ giải thoát: hoàn toàn tận diệt sắc tưởng hữu đối, tu theo hành tướng không
vô biên xứ mà thành tựu được định này.
5. Thức vô biên xứ giải thoát: xả bỏ tâm không vô biên, tu tướng của thức vô biên, nên thành tựu
được định này.
6. Vô sở hữu xứ giải  thoát: xả bỏ  tâm  thức vô biên,  tu  tướng của vô sở hữu mà  thành  tựu định
này.
7. Phi  tưởng phi phi  tưởng xứ giải  thoát: Bốn  thứ giải  thoát  từ Không vô biên đến Phi phi  tưởng
này nương vô sắc định sinh khởi, nơi định đắc được quán  tưởng Khổ, Không, Vô  thường, Vô ngã, khiến
tâm xả bỏ hết thảy, nên gọi là giải thoát. 
8. Diệt thọ tưởng định thân tác chứng cụ túc trụ giải thoát: Diệt thọ tưởng định còn gọi là Diệt tận
định. Ðã có năm căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tất phải lãnh thọ năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Do
vậy, phát sanh đủ mọi vọng tưởng. Nếu đủ sức định diệt trừ được thọ tưởng, tất sẽ diệt trừ được hết mọi
vọng tưởng, cho nên là Diệt tận định. 
93 Bát công đức thủy = nước đủ 8 đặc tánh qúi:  1. Trong sạch, 2. Mát mẻ, 3. Ngọt ngào, 4. Nhẹ nhàngï,
5. Nhuần gội,  6. Không gây tai họa, 7. Hết bịnh kể cả bịnh đói và mọi thứ tội ác, 8. Trưởng dưỡng giác
quan và thiện căn. 103

                                                                                                                                                                                              
94 Bát  chánh đạo:  là phương pháp để  trở  thành bậc Thánh, đó  là: 1. Chánh  kiến, 2. Chánh  tư duy, 3.
Chánh ngữ, 4. Chánh nghiệp, 5. Chánh mạng, 6. Chánh  tinh  tấn, 7. Chánh niệm, 8. Chánh định. Tà  là
phản nghĩa của chánh. Tám tà đạo là: 1. Tà kiến, 2. Tà tư duy, 3. Tà ngữ, 4. Tà nghiệp, 5. Tà mạng, 6. Tà
tinh tấn, 7. Tà niệm, 8. Tà định.
95 Tám ham muốn: 1. Ham ăn, 2. Ham sống, 3. Ham uống, 4. Ham chơi, 5. Ham ngủ, 6. Ham tiền, 7. Ham
âm nhạc, 8. Ham coi nhìn.
96 Tám gió: 1 và 2, là lợi suy, là được hay mất sự vừa ý; 3 và 4, là hủy dự, là khen hay chê sau lưng; 5 và
6, là xưng cơ, là khen hay chê trước mặt; 7 và 8, là khổ lạc, là khổ hay vui tâm ý.
97 Tám món cấu: cấu  là nhơ bẩn, đối với Tam bảo chẳng những không  tín ngưỡng  tán  thán  lại còn phỉ
báng. Đó là: (1, 2, 3.) Ba cấu ở ba nghiệp; 4. Bất hiếu với cha mẹ; 5. Không kính thờ sư trưởng; 6. Không
cứu giúp kẻ bần cùng; 7. Không săn sóc người đau ốm; 8. Không thương xót chúng sinh. Ba điều trước là
kính điền, hai điều kế  là ân điền, ba điều sau  là bi điền. Tám điều này đều  là phước điền cả. Đã không
chăm nom  ruộng phước ấy mà  lại còn không cung kính, không biết ơn, không  thương xót cho nên nói
rằng vì tám cấu mà tạo ra tất cả tội.
98 Bát nạn  :  tám  trường hợp không may mắn, chướng nạn cho sự  thấy Phật nghe pháp: 1. địa ngục, 2.
ngạ quỷ,   3. súc sanh,  (1,2,3  là 3 đường dữ) 4. Bắc câu  lô châu  (sống quá sướng), 5.  trời Trường  thọ
(sống quá lâu),  6. Làm người mà đui, điếc, câm, ngọng, 7. Làm người mà thế trí biện thông, 8. Làm người
mà sanh trước hay sau Phật xuất thế và nhằm chỗ hay lúc không có Phật pháp. 
99 Bát âm: 1) Nhạc không  lời dân  tộc cổ  truyền dùng  trong các nghi  lễ,  tế  lễ hay những buổi giao  tiếp
trang trọng. 2) Âm nhạc do dàn nhạc gồm tám loại âm sắc nhạc cụ cổ truyền trình diễn. Tám loại âm sắc
đó là: kim (kim loại như chuông, khánh đồng, chiêng cồng...), thạch (các loại khánh đá, mõ đá...), thổ (đất
nung, như các loại còi...), ti (tơ như các nhạc cụ dây xưa thường dùng dây tơ xe), trúc (tre, trúc, như các
loại sáo), bào (bầu, như các loại khèn), cách (da, như các loại trống bịt bằng da) và mộc (gỗ, như các loại
phách, xênh  tiền, đàn phiến gỗ hình  thuyền...). Trong các nghệ nhân còn  lưu  truyền một quan niệm về
tính âm, tính dương và tính trung của âm sắc nhạc cụ, coi kim, thạch, thổ là dương, trong đó kim là thuần
dương;  ti,  trúc, bào  là âm,  trong đó bào  là  thuần âm, còn cách và mộc  thì mang  trung  tính vì cách vốn
thuộc âm mà lại xâm vào cõi dương theo nguyên tắc “dương trung hữu âm”; mộc vốn thuộc dương mà lại
xâm vào cõi âm theo nguyên tắc “âm trung hữu dương”. 
100 Bát nhẫn: Là trí nhẫn được và chứng nhập lý tứ đế của cõi Dục và hai cõi trên Sắc và Vô sắc. Nhẫn tứ
đế của cõi Dục gọi  là  tứ pháp nhẫn: Khổ pháp nhẫn, Tập pháp nhẫn, Diệt pháp nhẫn, Ðạo pháp nhẫn. 104

                                                                                                                                                                                              
Nhẫn  tứ đế của cõi Sắc và Vô sắc goi  là: Khổ  loại nhẫn, Tập  loại nhẫn, Diệt  loại nhẫn, Ðạo  loại nhẫn.
(Loại là tợ loại, vì ở hai cõi trên sự nhẫn không hoàn toàn giống như cõi Dục, bởi lẽ các cõi trên tương đối
ít khổ hơn.)   Nhờ bát nhẫn mà đọan được kiến hoặc ba cõi. Ðoạn được kiến hoặc  rồi, quán chiếu một
cách rõ ràng thì gọi là bát trí. Bát nhẫn là Vô gián đạo, bát trí là Giải thoát đạo. Nhẫn là nhơn của Trí, Trí
là quả của Nhẫn. Hợp cả bát trí và bát nhẫn gọi là mười sáu tâm kiến đạo.
101 Tám ngục lạnh, tám ngục nóng: Tám địa ngục lạnh là: 1. Át bộ đà: da thịt phồng lên vì rét buốt;  2. Ni
thích bộ đà: da thịt phồng lên rồi nứt nẻ;  3. A tra tra: rét buốt đến nổi môi không cử động được, chỉ kêu
lên tiếng a tra tra;  4. A bà bà: rét buốt đến nổi lưỡi không thể cử động, chỉ phát ra tiếng a bà bà;  5. Hổ
hổ bà: rét buốt tùy mức độ mà phát ra tiếng khác nhau; 6. Ốt bát la: da thịt bị nứt như hoa sen xanh;  7.
Bà đầu ma: thịt ở thân nứt toát ra như hoa sen hồng;  8. Ma ha bà đầu ma: da thịt lạnh cứng nứt ra, toàn
thân biến  thành màu hồng, như hoa sen  lớn màu hồng.   Tám ngục nóng  là:   1. Đẳng hoạt:bị các nhục
hình tưởng đã chết, gió lạnh thổi qua, da thịt lành lặn rồi sống lại;  2. Hắc thằng:  dây sắt nóng quấn thân
người tội rồi thọ hình;  3. Chúng hợp: núi đá đè ép thịt xương nát nhừ;  4. Kiếu hoán: tội nhân bị bỏ trong
chảo lớn hầm nấu, gào khóc kêu la;  5. Đại kiếu hoán: sau khi ham nấu, sống dậy, tội nhân bị bỏ vào lò
xay bằng sắt, rên la thống thiết; 6. Tiêu nhiệt: ở trong ngục sắt, lửa cháy trong ngoài, cháy rục khổ sở;  7.
Đại tiêu nhiệt: ở trong thành sắt, lửa cháy hừng hực trong ngoài, có ham lửa cháy đỏ, hai bên hầm lửa là
núi  lửa,  thiêu nướng  tội nhân;   8. Vô gián:  tội nhân chịu khổ  liên  tục, đau đớn  thống khổ, không có gián
đoạn.
102 Dương Tiện trà: Dương Tiện tức là Nghi Hưng ở Giang Tô. Loại trà này được Lục Vũ phát phiện và dẫn
tiến, bắt đầu  từ đời Đường Túc Tông  thì được  liệt vào danh sách cống phẩm. Mỗi năm phải đưa  trà vào
cung trước lễ Thanh minh, để trong cung chuẩn bị "thanh minh yến",  loại  thượng hạng để cho hoàng đế
ngự, còn lại mới phân phối cho các vương công đại thần. 
103 Tám tà = tám diệt pháp: tám tà: tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định.
104 Cửu hữu hàm linh: Chín cõi chỉ là một cách phân chia khác của “ba cõi” hay “sáu nẻo”, đều chỉ cho cái
vòng sinh tử luân hồi. Chín cõi ấy là:
1. Ngũ thú tạp cư địa: chư thiên cõi Dục, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
2.  Ly sanh hỷ lạc địa: cõi trời Sơ thiền của cõi Sắc.
3. Định sanh hỷ lạc địa:cõi trời Nhị thiền của cõi Sắc.
4.  Ly hỷ diệu lạc địa: cõi trời Tam thiền của cõi Sắc.
5. Xả niệm thanh tịnh địa: cõi trời Tứ thiền của cõi Sắc.
6. Không vô biên xứ địa.
7. Thức vô biên xứ địa. 105

                                                                                                                                                                                              
8. Vô sở hữu xứ địa.
9. Phi tưởng phi phi tưởng xứ địa.
105 Cửu giới sắc thân = chín chúng sanh cư: Kinh Tăng nhất (Trường A Hàm) nói về chín chúng sanh cư
như sau:  1. Hoặc có chúng sanh có nhiều thân khác nhau, với nhiều tưởng khác nhau, tức là một phần
chư Thiên và  loài Người. Đó  là nơi cư  trú  thứ nhất của chúng sanh. 2. Lại có chúng sanh có nhiều  thân
khác nhau, nhưng với một tưởng giống nhau, tức là trời Phạm chúng lúc mới sanh thời kiếp sơ. Đó là cư
trú  thứ hai của chúng sinh. 3. Lại có chúng sanh với một  thân giống nhau, nhưng với nhiều  tưởng khác
nhau, tức là trời Quang Âm. Đó là cư trú thứ ba của chúng sanh. 4. Lại có chúng sanh với một thân một
tưởng giống nhau, tức là trời Biến Tịnh. Đó là cư trú thứ tư của chúng sanh. 5. Lại có chúng sanh không
có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô tưởng. Đó là cư trú thứ năm của chúng sanh. 6. Lại có chúng
sanh an trú hư không vô biên xứ. Đó là cư trú thứ sáu của chúng sanh. 7. Lại có chúng sanh an trú thức
vô biên xứ. Đó là an trú thứ bảy của chúng sanh. 8. Lại có chúng sanh an trú vô sở hữu xứ. Đó là cư trú
thứ  tám của chúng sanh. 9. Lại có chúng sanh an  trú phi  tưởng phi phi  tưởng xứ. Đó  là cư  trú  thứ chín
của chúng sanh. (Tuệ Sỹ dịch)
106 Chín bộ kinh: Thể văn và sự lý trong các kinh chia ra làm 9 loại: 1. Tu đa la dịch là khế kinh, thể văn
trường hang nói  thẳng pháp nghĩa, khế  lý khế cơ; 2. Kỳ dạ dịch ứng  tụng,  thể văn chỉnh cú ứng với văn
trường hàng mà lặp lại pháp nghĩa đã nói; 3. Già đà dịch kệ, thể văn chỉnh cú không theo trường hàng mà
tự nói pháp nghĩa; 4. Y đế mục đa dịch bổn sự, là Phật thuật lại nhân duyên quá khứ của đệ tử; 5. Xà đa
già dịch bổn sanh, là Phật nói về nhân duyên quá khứ của ngài; 6. A phù đạt ma dịch vị tằng hữu, là ghi
lại những việc bất tư nghị của thần lực Phật thị hiện; 7. Ưu đà na dịch tự thuyết, là Phật tự nói chứ không
có ai hỏi được; 8. Tỳ phật  lược dịch phương quảng, nói về chân  lý chính xác và  rộng  lớn; 9. Hòa già  la
dịch thọ ký, thọ ký thành Phật cho bồ tát.
107 Cửu kết: Ái kết, huệ kết, mạn kết, vô minh kết, kiến kết, thủ kết, nghi kết, tật kết, xan kết.
108 Chín thứ định mà một vị a la hán phải trải qua: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Không vô biên
xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi phi tưởng xứ và Diệt tận định.
109
 Chín phẩm Tư hoặc nhân cho ba cõi, gồm chín địa, mỗi địa có 9 phẩm tư hoặc, cộng thành 81 thứ
tư hoặc.  
I. Dục giới: 1.Ngũ thứ tạp cư địa.  
II.Sắc giới:  2. Sơ Thiền, ly sanh hỷ lạc địa,  3. Nhị thiền định sanh hỷ lạc địa,  4. Tam thiền ly
hỷ lạc địa, 5. Tứ thiền xả niệm thah tịnh địa. 
III. Vô sắc giới:  6. Không vô biên xứ địa, 7. Thức vô biên xứ địa, 8. Vô sỡ hữu xứ địa, 9. Phi
phi tưởng xứ địa,  106

                                                                                                                                                                                              
110 Chánh văn là cửu công, ý nói cần mẫn tiến tu, càng lâu dần dần mới được thuần thục. Như việc chăn
trâu,  “dày  công  lâu mới  chịu  xoay đầu”  (nhật  cửu  công  thâm  thủy  chuyển  đầu),  xoay đầu  tức  là được
thuần thục vậy.
111 Cửu đức: chín đức là: trung thành, tín nghĩa, khiêm cung, bền chí, mềm mỏng, hòa ái, an định, thủy
chung, đồng thuận (trung, tín, kính, cương, nhu, hòa, cố, trinh, thuận). 
112 Mười hiệu Năng Nhân: Mười hiệu là Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế
gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.  Thích Ca, Trung Hoa dịch là
Năng nhân. Mâu Ni dịch là Tịch Mặc. Nghĩa là người hay phát khởi lòng nhân mà tâm hồn luôn luôn yên
tĩnh.

113
 Mười thân Phật có 2 loại: 
I. Mười thân dung thông 3 đời: 1. Thân chúng sanh, 2. Thân quốc độ, 3. Thân nghiệp báo, 4. Thân
Thanh văn, 5. Thân Độc giác, 6. Thân bồ  tát, 7. Thân Như  lai, 8. Thân  trí  (thân chứng được  thật  trí), 9.
Thân pháp (thân thể hội chân lý), 10. Thân hư không (thân ly nhiễm tịnh, biến khắp pháp giới).
II. Mười  thân mà Phật có đủ: 1. Thân bồ đề, 2. Thân nguyện, 3. Thân hóa, 4. Thân  trụ  trì, 5. Thân
tướng hảo trang nghiêm, 6. Thân thế lực, 7. Thân như ý, 8. Thân phước đức, 9. Thân trí, 10. Thân pháp.
114 Thập địa: là mười quả vị tu chứng của các vị Bồ Tát. Có nhiều hệ thống khác nhau nhưng theo Bồ Tát
địa  và Thập địa kinh thì Thập địa gồm:
1.  Hoan hỷ địa: đắc quả này bồ tát rất hoan hỉ trên đường giác ngộ. Bồ tát đã phát bồ đề tâm và thệ
nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh  thoát khỏi  luân hồi, không còn nghĩ  tới mình, Bố thí không
cầu phước và chứng được vô ngã tánh của tất cả các pháp.
2.  Ly cấu địa: bồ tát giữ giới và thực hiện thiền định.
3.  Phát quang địa: bồ  tát chứng được quy  luật vô  thường,  tu  tâm nhẫn nhục khi gặp chướng ngại
trong việc cứu độ tất cả chúng sinh. Để đạt đến cấp độ này, bồ tát phải diệt trừ ba độc tham, sân,
si, thực hiện được tứ thiền và chứng đạt năm thông.
4.  Diệm huệ địa: bồ tát đoạn hết tất cả những quan niệm sai lầm, tu tập trí tuệ bát nhã và 37 Bồ đề
phần.
5.  Nan thắng địa: bồ tát nhập định, đạt trí huệ, nhờ đó liễu ngộ tứ diệu đế và chân như, tiêu diệt nghi
ngờ và được trí phân biệt. Bồ tát tiếp tục hành trì 37 giác chi.
6.  Hiện tiền địa: bồ tát liễu ngộ mọi pháp là vô ngã, ngộ lý duyên khởi của 12 nhân duyên và chuyển
hoá trí phân biệt thành trí bát nhã, nhận thức tánh Không. Trong địa này, bồ tát đã đạt đến trí tuệ
bồ đề và có thể nhập Niết bàn thường trụ. Vì lòng từ bi đối với chúng sinh, bồ tát lưu lại trong thế
gian, nhưng không bị sinh tử ràng buộc, đó là Niết bàn vô trụ. 107

                                                                                                                                                                                              
7.  Viễn hành địa: đạt tới cảnh giới này, bồ tát có đầy đủ khả năng, có mọi phương tiện để giáo hoá
chúng sinh. Đây là giai đoạn mà bồ tát tuỳ ý xuất hiện trong mọi dạng thức để cứu độ.
8.  Bất động địa: trong giai đoạn này, không còn bất kỳ cảnh ngộ gì làm bồ tát dao động. Công phu
tu tập được thực hiện một cách vô ngại. Theo kinh Giải thâm mật thì những phiền não vi tế nhất
cũng bị diệt trừ ở đây.
9.  Thiện huệ địa:  trí tuệ bồ tát viên mãn, đạt thập  lực,  lục thông, tứ vô sở uý, bát giải thoát. Biết rõ
cơ sở mọi giáo pháp và giảng dạy giáo pháp.
10. Pháp vân địa: bồ tát đạt nhất thiết trí, đại hạnh. Pháp thân của Bồ tát đã đạt tới mức viên mãn. Bồ
Tát ngự trên toà sen với vô số bồ tát chung quanh nơi cung trời Đâu suất. Phật quả của bồ tát đã
được chư Phật ấn chứng. Những bồ tát đạt cấp độ này là bồ tát Di lặc, bồ tát Quán thế âm và bồ
tát Văn thù sư lợi.
115 Mười ba la mật: 1. Thí ba la mật, 2. Giới ba la mật, 3. Nhẫn ba la mật, 4. Tấn ba la mật, 5. Định ba la
mật, 6. Tuệ ba la mật, 7. Phương tiện ba la mật, 8. Nguyện ba la mật, 9. Lực ba la mật, 10. Trí ba la mật. 
116 Mười đại nguyện: 1. lễ kính chư Phật, 2. xưng tán Như lai, 3. quảng tu cúng dường, 4. Sám hối nghiệp
chướng, 5. tùy hỷ công đức, 6. thỉnh chuyển pháp luân, 7. thỉnh Phật trụ thế, 8.  thường tùy Phật học, 9.
hằng thuận chúng sanh, 10. phổ giai hồi hướng.
117 Mười cúng: hương, hoa, đăng, trà, quả, thực, thủy, bảo, châu, y.
118 Chỉ mười quyển của Lương Hoàng Sám.
119 Thập Triền:  là mười pháp  trói buộc chúng sanh. Triền khác hơn kết, phược ở  chỗ kết  là  thắt cứng,
phược là cột chặt. Triền là cột quấn thường.  
1. Ái dục triền: là bị buộc do đắm say ngũ dục.
2. Ái sắc triền: là bị trói buộc do tâm luyến ái cảnh và cõi thiền Sắc giới.
3. Phẩn uất triền: là bị trói buộc là vì tâm sân hận.
4. Ngã mạn triền: là bị trói buộc do sự kiêu căng.
5. Kiến triền: là bị tà Kiến trói buộc.
6. Giới cấm thủ triền: là bị buộc chặt trong giới luật tà đạo, tức là vâng giữ theo những giáo điều
phi lý không lợi ích.
7. Hoài nghi triền: là bị sự nghi hoặc ràng buộc.
8. Tật triền: là tâm thức bị cột trói bởi tánh ganh ghét, hơn thua.
9. Lận triền: là thân tâm bị cột trói bởi lòng keo kiệt bỏn xẻn.
10. Vô minh triền: là bị sự si mê trói buộc. 108

                                                                                                                                                                                              
 
120 Thập thiện nghiệp: là 10 hành vi lành.  Về thân có 3: không sát-sanh, không trộm cắp, không tà hạnh. 
Về  ngữ  nghiệp  có  4:  không  nói  dối,  không  nói  hai  lưỡi,  không  nói  ác  khẩu,  không  nói  thêu  dệt.  Về  ý
nghiệp có 3: không tham lam, không sân hận, không ngu si tà kiến. Hợp cả thân, ngữ, ý thành 10 nghiệp
lành, trái lại tức là 10 nghiệp ác.
121 Mười tập khí = mười phiền não: là mười pháp làm cho tâm nhơ đục.  1. Tham, 2. Sân, 3. Si, 4. Mạn, 5.
Nghi, 6. Tà Kiến, 7. Hôn trầm, 8. Phóng dật, 9. Vô tàm, 10. Vô quý.  
122 Mười sử:  là  tham, sân, si, mạn, nghi (ngũ độn sử),  thân kiến, biên kiến,  tà kiến, kiến  thủ kiến và giới
cấm thủ kiến (ngũ lợi sử). Sử là sai khiến, là thúc đẩy mình phải làm, phải đi theo con đường đó.

123 Mười tâm: Theo kinh Phật thuyết trang nghiêm bồ đề tâm, ĐTK 307, bồ tát có mười thứ tâm phải phát,
đó là: 1. Thành tựu các điều lành, 2. Thực hành bố thí, 3. Thực hành trì giới, 4. Thực hành nhẫn nhục, 5.
Thực hành  tính  tấn, 6. Thực hành  thiền định, 7. Thực hành  trí  tuệ, 8. Thực hành phương  tiện, 9. Muốn
đầy đủ bản nguyện, 10. Muốn thành tựu nhất thiết chủng trí.
Kinh Bảo Tích nói: Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức  thế Tôn! Như Thế Tôn đã
nói những công đức lợi ích của Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc. Lại bảo: Nếu có chúng sanh nào phát
mười thứ tâm, một lòng chuyên niệm hướng về Phật A Di Đà, khi người ấy mạng chung sẽ được sanh về
thế giới của đức Phật kia. Bạch đức Thế Tôn, thế nào là phát mười thứ tâm, và do tâm này sanh về Cực
Lạc? Phật bảo: Này Di Lặc, mười  thứ  tâm ấy không phải hạng người phàm phu, bất  thiện có  thể phát
được. Những gì  là mười tâm: 1. Đối với chúng sanh khởi  lòng đại từ không  làm tổn hại. 2. Đối với chúng
sanh khởi  lòng đại bi không  làm bức não. 3. Với chánh pháp của Phật khởi  lòng hộ  trì không  tiếc  thân
mạng. 4. Với  tất cả pháp  lành sanh  lòng  thắng nhẫn, không chấp  trước. 5. Tâm an vui  trong sạch,  tôn
trọng, không  tham  lợi dưỡng, sự cung kính. 6. Tâm cầu chứng  trí của Phật,  trong  tất cả  thời không xao
lãng. 6. Đối với  tất cả chúng sanh hằng  tôn  trọng cung kính, không khinh  rẻ  là hèn  thấp. 7. Không say
đắm theo thế luận, đối với phần bồ đề sanh lòng quyết định. 8. Tâm thanh tịnh tu các căn lành, không hề
tạp nhiễm. 10. Đối với các đức Như Lai, xả lìa các tướng, lòng tùy niệm. Di Lặc, đó là mười thứ phát tâm
của bồ tát, do tâm nào sẽ được sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Di Lặc, nếu có người nào  trong
mười tâm này, tùy ý thành tựu được một tâm, ưa thích muốn về Cực Lạc, quyết không lẽ nào không được
vãng sanh”.

124 Mười  chướng: Theo Thành duy  thức  luận, bồ  tát  có 10  trọng  chướng: 1. Chướng  của  tánh Dị  sanh
(phàm  phu),  2. Chướng  của  tà  hạnh,  3. Chướng  của  sự  ám  độn,  4. Chướng  của  phiền  não  vi  tế  hiện
hành, 5. Chướng của hạ thừa Bát niết bàn, 6. Chướng của thô tướng hiện hành, 7. Chướng của tế tướng 109

                                                                                                                                                                                              
hiện hành, 8. Chướng của sự tác ý gia hạnh vô tướng, 9. Chướng không muốn thật hành việc lợi tha, 10.
Chướng đối với các pháp chưa được tự tại.



                         

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét