CHƯ BỒ TÁT BỘ
Bản cập nhật tháng 6/2014
http://kinhmatgiao.wordpress.com 1
THAY LỜI TỰA
Bồ Tát, là lược xưng của Bồ Đề Tát Đỏa (tên Phạn Bodhisatva hay Bodhisattva),
dịch âm là Bồ Đề Tác Đa, Mạo Địa Tát Đát Phộc, hoặc Phù Tát. Bodhi nghĩa là Giác
Ngộ. Satva (hay sattva) ý là Hữu Tình. Bodhisatva được dịch ý là Giác Hữu Tình là
chúng sinh đang truy cầu sự Giác Ngộ.
Theo quan điểm của Phật Giáo Đại Thừa thì vị Bồ Tát mới phát Tâm cho đến khi
viên mãn thành Phật thì tổng cộng có 25 địa vị Bồ Tát. Bồ Tát là vị theo hầu bên cạnh
Đức Phật, mỗi vị Phật đều có hai vị Đẳng Giác Bồ Tát theo hầu bên cạnh (hiếp thị) như
Thế Giới Cực Lạc ở Phương Tây thì Đức Phật A Di Đà có hai vị Bồ Tát theo hầu là
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, hợp xưng là Tây Phương Tam Thánh, Thế Giới Sa
Bà hiện nay thì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có hai bị Bồ Tát theo hầu là Văn Thù và
Phổ Hiền, hợp xưng là Thích Ca Tam Tôn hay Hoa Nghiêm Tam Thánh, Thế Giới
Tịnh Lưu Ly ở phương Đông thì Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương có hai vị
Bồ Tát theo hầu là Nhật Quang Biến Chiếu và Nhật Quang Biến Chiếu, hợp xưng là
Dược Sư Tam Tôn hay Đông Phương Tam Thánh.
Đức Phật hiện tại cùng hợp sức với Bồ Tát hóa độ hết thảy chúng sinh đang chìm
đắm trong vòng Luân Hồi sinh tử, khiến cho họ biết tự mình khởi Tâm tu hành thành
Phật.
Trong thời gian gần đây, với sự yêu cầu của các bạn đồng tu muốn tự mình nắm
vững hơn về ý nghĩa của Hồng Danh, Tôn Hình, Chân Ngôn, Thủ Ấn của các vị Bồ
Tát trong Phật Giáo; nên tôi cố gắng sưu tầm, phiên dịch, tổng hợp và ghi chép lại vào
tập sách này
Điều không thể tránh khỏi là tập ghi chép vẫn còn nhiều thiếu sót. Ngưỡng mong
các Bậc Cao Tăng Đại Đức, chư vị Thiện Tri Thức hãy rũ lòng Từ Bi chỉ dạy, giúp cho
tôi kịp thời sửa chữa những lỗi lầm và hoàn thiện phần ghi chép này.
Mọi Công Đức có được trong tập ghi chép này, con xin kính dâng lên hương linh
của Thân Phụ (Nguyễn Vũ Nhan) và Thân Mẫu (Vũ Thị Ni) là hai bậc ân nhân đầu
tiên của con.
Con xin kính dâng các Công Đức có được lên Thầy Thích Quảng Trí và Thầy
Thích Pháp Quang là các bậc Thầy luôn theo dõi, hỗ trợ và thúc đẩy con nghiên cứu
Phật Pháp cho chính đúng.
Tôi xin cám ơn em Mật Trí (Tống Phước Khải) và các con tôi đã nhiệt tình hỗ
trợ tài liệu, phương tiện giúp cho việc hoàn tất bản ghi chép này.
Tôi xin chân thành cám ơn nhóm Phật Tử của Đạo Tràng Phổ Độ đã hỗ trợ phần
vật chất cho tôi trong thời gian soạn dịch kinh bản.
Tôi xin chân thành cám ơn người bạn đường Ngọc Hiếu (Vũ Thị Thanh Hà) đã
cam chịu mọi sự khó khăn trong cuộc sống để giúp tôi an tâm trên con đường tìm hiểu
Chính Pháp Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Cuối cùng nguyện xin hồi hướng Công Đức này đến toàn thể chúng hữu tình
trong ba cõi sáu đường đều mau chóng xa lìa mọi ách nạn khổ đau, thường được an
vui, thọ hưởng Pháp Vị Giải Thoát của Đấng Phật Đà.
Mùa Xuân năm Giáp Ngọ (2014)
Huyền Thanh (Nguyễn Vũ Tài) kính ghi
2
VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tên Phạn là Mañjuśrī, hay Maṃjuśrī; dịch âm là: Văn
Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi; dịch ý là Diệu Cát Tường, Diệu Đức. Lại có tên là
Văn Thù Sư Lợi Đồng Chân, Nhu Đồng Văn Thù Bồ Tát, Nhi Văn Thù Bồ Tát, Diệu
Thủ, Phổ Thủ, Nhu Thủ, Kính Thủ….
Bồ Tát này cùng với Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội với Kinh Điển thuộc
hệ Bát Nhã có quan hệ thâm sâu.
_Hoặc có thuyết nói Ngài là nhân vật lịch sử, như Kinh Văn Thù Sư Lợi Bát
Niết Bàn ghi chép: “Văn Thù Bồ Tát là con của một vị Bà La Môn Phạn Đức ở thôn
làng Đa La trong nước Xá Vệ tại Ấn Độ, khi Ngài sinh ra từ hông bên phải của mẹ thì
nhà cửa hóa như hoa sen, thân màu vàng tía. Mới sinh ra đã có thể nói chuyện, sau này
đến chỗ của các Tiên Nhân cầu Pháp xuất gia. Do không có người nào ứng đối lại, cho
nên đến chỗ của Đức Phật, xuất gia học Đạo”
Hoặc có thuyết nói Ngài là Phật đã thành, như Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam
Muội, quyển Hạ ghi nhận: “Ở kiếp quá khứ rất lâu xa, có Đức Long Chủng Thượng
Như Lai (Nāgagotrodara-tathāgata) thành Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác tại Thế
Giới Bình Đẳng ở phương Nam. Đức Phật ấy nay tức là Văn Thù Sư Lợi Pháp
Vương Tử”
Hoặc có thuyết nói Ngài là vị Phật đương lai, như Kinh Văn Thù Sư Lợi Phật
Thổ Nghiêm Tịnh, quyển Hạ nói rằng: “Vị Bồ Tát này từ na do tha a tăng kỳ kiếp đến
nay, đã phát mười tám loại Đại Nguyện nghiêm tịnh quốc thổ, đương lai sẽ thành Phật
hiệu là Phổ Hiện Như Lai” 3
Hoặc có thuyết nói vị Bồ Tát này giáo hóa tại Thế Giới thuộc phương khác, như
Tân dịch Hoa Nghiêm Kinh, quyển 12, phẩm Như Lai Danh Hiệu ghi chép: “Đi về
phương Đông trải qua số Thế Giới nhiều như hạt bụi nhỏ của mười cõi nước Phật, có
Thế Giới Kim Sắc (Survaṇa-rūpa), Đức Phật hiệu là bất Động Trí (Acala-jñāna) có
một vị Bồ Tát tên là Văn Thù Sư Lợi (Mañjuśrī)….”
_Tại Ấn Độ với Tây Vực… ghi chép rất ít về tín ngưỡng Văn Thù. Ở Trung
Quốc từ đời Đông Tấn thì tín ngưỡng Văn Thù dần dần được thịnh hành rồi lan truyền
sang các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam…
_Hoa Nghiêm Tông căn cứ vào Cựu Dịch Hoa Nghiêm Kinh, phẩm Bồ Tát
Trú Xứ ghi chép: “Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trụ ở núi thanh Lương ở phương Đông
Bắc” rồi dùng chùa Thanh Lương trên núi Ngũ Đài ở Sơn Tây làm Đạo Trường của
Văn Thù
_Trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Pháp Bảo Tàng Đà La Ni ghi nhận Đức Thích
Tôn đã từng dự đoán là: “Sau khi Ta diệt độ, ở phương Đông Bắc của cõi Thiệm Bộ
Châu (Jambu-dvīpa) này có nước tên là Chấn Na (Cina), trong nước ấy có ngọn núi
hiệu là Ngũ Đỉnh, Văn Thù Sư Lợi Đồng Tử du hành đến cư ngụ trong chỗ ấy, vì
chúng sinh nói Pháp”
Dựa vào đây, Phật Giáo Trung Quốc nhận định núi Ngũ Đỉnh ở nước Chấn Na
tức là núi Ngũ Đài (lại gọi là núi Thanh Lương) ở Trung Quốc. Từ đấy lưu truyền
thành ngọn núi đại biểu của Bồ Tát Văn Thù
_Trong Phật Giáo Đại Thừa: Văn Thù Sư Lợi cùng với Phổ Hiền Bồ Tát
(Samanta-bhadra) là hai vị hầu cận hai bên phải trái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Śākyamuṇi) nên người đời xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Do Văn Thù Sư Lợi là
Thượng Thủ (Pramukha) trong hết thảy Bồ Tát Đệ Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni, phụ giúp Đức Thích Tôn hoằng Pháp. Nhân đây được xưng là Văn Thù Sư Lợi
Pháp Vương Tử (Mañjuśrī-dharma-rāja-putra)
Y theo Kinh Điển Đại Thừa ghi chép thì ngay trong hết thảy Đại Bồ Tát, Văn Thù
Bồ Tát chẳng những tượng trưng cho Đại Trí trong bốn vị Đại Bồ Tát mà đã từng là
bậc Thầy của 7 vị Phật đời quá khứ. Trí Tuệ sắc bén ấy được ví dụ như là người mẹ 4
của chư Phật thành Đạo trong ba đời, nhân đấy có Tôn Hiệu là Nhất Thiết Giác Mẫu
Diệu Cát Tường. Lại nữa, y theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội đã ghi chép thì
ngay tại đời quá khứ lâu xa Ngài đã sớm thành Phật, hiệu là Long Chủng Thượng
Như Lai (Nāgagotrodara-tathāgata). Sở dĩ Ngài hiện làm một trong hai vị Đại Hiếp
Thị của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng qua chỉ là một loại Đại Quyền Thị Hiện
của sự Từ Bi hóa độ
Ngoài việc là Thầy của chư Phật đời quá khứ, Văn Thù Bồ Tát từng có ân nghĩa
dạy bảo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Kinh Phóng Bát ghi chép là: “Đức Phật bảo
các Bồ Tát, A La Hán rằng: (lược đoạn giữa). Nay Ta được thành Phật, có 32 Tướng,
80 tùy hình tốt đẹp, Uy Thần tôn quý, độ thoát tất cả chúng sinh trong mười phương
đều là ân của Văn Thù Sư Lợi vốn là bậc Thấy của Ta. Trước đây vô ương số chư Phật
đời quá khứ đều là Đệ Tử của Văn Thù Sư Lợi, bậc đương lai cũng là nơi do Uy Thần
Ân Lực của Ngài đã đem đến. Ví như Thế Gian con trẻ phải có cha mẹ thời Văn Thù
tức là bậc cha mẹ trong Phật Đạo vậy”
_Trong Kinh Đại Thừa Bản Sinh Tâm Địa Quán thì Bồ Tát Văn Thù được
xưng là Tam Thế Giác Mẫu Diệu Cát Tường cùng với Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-
bhadra) là hai vị hầu cận hai bên phải trái Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuṇi).
Người đời xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh. Trong đó Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī)
đại biểu cho Trí Đức, Tuệ Đức, Chứng Đức của tất cả chư Phật và Phổ Hiền Bồ Tát
(Samanta-bhadra) đại biểu cho Lý Đức, Định Đức, Hạnh Đức của tất cả chư Phật. Cả
hai vị này đều biểu hiện cho Lý Trí, Định Tuệ, Hạnh Chứng đã hoàn toàn viên mãn của
Đức Phật.
_Trong Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) bày rõ tất cả Phật Pháp quy về
Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana-tathāgata) với hai vị Đại Sĩ Phổ Hiền (Samanta-
bhadra), Văn Thù (Mañjuśrī). Ba vị này được xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh,
trong đó Phổ Hiền Bồ Tát đại biểu cho Bản Thể Hạnh Đức của tất cả Bồ Tát, Văn Thù
Bồ Tát đại biểu cho Chứng Đức của tất cả Bồ Tát.
5
_Hình tượng của Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát có nhiều loại. Hoặc tượng Văn Thù
mặc áo cỏ, hoặc tượng Văn Thù mang tướng Tăng, hoặc làm hình Đồng Tử, hoặc
tướng vượt qua biển… song, tượng Văn Thù có tay phải cầm cây kiếm trí, tay trái cầm
hoa sen xanh (hoặc cầm quyển Kinh Bát Nhã), cỡi trên con sư tử xanh là thường thấy
Hình tượng cầm cây kiếm ngồi trên lưng sư tử biểu thị cho sự sắc bén của Pháp
Môn. Tay phải cầm cây kiếm báu Kim Cương chặt đứt tất cả phiền não của chúng sinh,
dùng tiếng rống của sư tử không sợ hãi, trấn tỉnh chúng sinh đang bị mê đắm. Tòa ngồi
là Sư Tử (Siṃha) biểu thị cho sự uy mãnh của Trí Tuệ.
_Mật Tông Phật Giáo dựa vào số chữ nhiều ít tại Mật Bộ mà phân ra là: Nhất Tự
Văn Thù, Ngũ Tự Văn Thù, Lục Tự Văn Thù, Bát Tự Văn Thù...hoặc dựa vào hình
trạng của búi tóc trên đỉnh đầu của Ngài mà chia ra: Nhất Kế Văn Thù, Ngũ Kế Văn
Thù, Bát Kế Văn Thù…
.)Ngũ Tự Văn Thù, tên Phạn là Mañju-ghoṣa, dịch âm là Mạn Thù Già Sa, dịch
nghĩa là Diệu Âm, tức dùng năm chữ A La Ba Tả Na làm Chân Ngôn của Văn Thù
Bồ Tát
A (゚_ A): nghĩa là vốn vắng lặng không có sinh (Tỳ Lô Giá Na Phật nói)
La (ᜐ_RA): nghĩa là vốn trống rỗng lìa bụi bặm (A Súc Phật nói)
Ba (ᛈ_PA): nghĩa là vốn chân thật không có nhiễm dính, lìa dơ bẩn (Bảo Sinh
Phật nói)
Tả (ᘔ_ CA): nghĩa là vốn trong sạch, hành màu nhiệm (Quán Tự Tại Vương
Như Lai nói)
Na (ᚼ_ NA): nghĩa là vốn trống rỗng, không có Tự Tính (Bất Không Thành Tựu
Như Lai nói)
6
.)Nhất Tự Văn Thù lại xưng là Nhất Kế Văn Thù. Căn cứ vào việc Văn Thù
cột buộc một búi tóc, dùng búi tóc đó gọi là Nhất Kế mà xưng tên.
Trong Kinh Đại Phương Quảng Bồ Tát với Kinh Văn Thù Sư Lợi Căn Bản
Nhất Tự Đà La Ni nêu ra Chân Ngôn của Văn Thù Bồ Tát là Án xỉ lâm (OṂ
ŚRHYIṂ, hay ŚRĪṂ hoặc TRHYIṂ) bởi thế nên xưng là Nhất Tự Văn Thù
.)Lục Tự Văn Thù tức dùng sáu chữ Án phộc kê đạm nạp mạc (OṂ
VĀKEDA NAMAḤ hay OṂ VĀKYEDA NAMAḤ) làm Chân Ngôn của Văn Thù
Bồ Tát. Bồ Tát này trụ ở Tam Muội Diệt tội điều phục. Vì Chân Ngôn ấy có sáu chữ
nên xưng là Lục Tự Văn Thù. Nếu Hành Giả muốn sinh về Thế Giới Cực Lạc hoặc
cầu sống lâu thì có thể tu Pháp Lục Tự Văn Thù
7
.)Bát Tự Văn Thù: Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát trong Đại Thánh Diệu Cát Tường
Bồ Tát Bí Mật Bát Tự Đà La Ni Tu Hành Mạn Đồ La Thứ Đệ Nghi Quỹ Pháp
được nêu ra Chân Ngôn có tám chữ: “Án a vị la hồng khư tả lạc” (OṂ AḤ VĪRA
HŪṂ KHACARAḤ) cho nên xưng là Bát Tự Văn Thù. Nhân trên đỉnh đầu có tám
búi tóc nên lại xưng là Bát Kế Văn Thù Bồ Tát. Thông thường tu Pháp này trong các
trường hợp Tức Tai (ngưng trừ tai nạn), trừ bỏ mộng ác…
_ Mật Giáo Tây Tạng và Mông Cổ ghi nhận năm hình thức của Văn Thù Bồ Tát
là: Thánh Văn Thù (Ārya-mañjuśrī) màu vàng, Ngữ Vương Văn Thù (Vādi-rāja-
mañjughoṣa) màu vàng hay màu cam, Lợi Văn Thù (Tīkṣṇa-mañjuśrī) màu đen hoặc
xanh đậm, Ngữ Sư Tử Văn Thù (Vādi-siṃha-mañjughoṣa) màu vàng hay màu trắng,
Hồng Văn Thù (Rākta-mañju śrī) màu hồng hay màu đỏ
8
_Tại Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, đồng Thể với Vô Tận Ý Bồ Tát (Akṣaya-
mati) ở đầu phía Tây trong bốn Tôn ở phương Bắc tại Ngoại Đàn.
Mật Hiệu là: Bảo Ý Kim Cương, Vô Tận Kim Cương
Chữ chủng tử là: JÑA (㫦)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn biểu thị cho Trí Tuệ của Như Lai
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA
_ Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì Bồ Tát Văn
Thù được hiện bày ở vị trí Tây Nam của Trung Đài Bát Diệp Viện, và trong Văn Thù
Viện thì Ngài là vị Chủ Tôn.
.)Tại Trung Đài Bát Diệp Viện thì Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát biểu thị cho Hạnh
Trưởng Dưỡng Tâm Bồ Đề, tức là giai đoạn nuôi lớn Bát Nhã
Tôn Hình: Thân hiện màu vàng, tay trái cầm hoa sen, bên trên có chày Tam Cổ
hoặc Ngũ Cổ, tay phải cầm quyển Kinh
9
Mật Hiệu là: Cát Tường Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương trên hoa sen xanh, hoặc hoa sen xanh
Tướng Ấn là Liên Hoa Hợp Chưởng, hay Pháp Trụ Ấn : còn gọi là Như Lai
Pháp Trụ Ấn. Chắp 2 tay lại giữa trống rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) mở bung 2 ngón
giữa. Biểu thị cho Đức trụ bền lâu nơi tất cả Pháp Môn nên gọi là Pháp Trụ.
Chân Ngôn là :
ᚼᜃ ᝌᚼⴼ ᜬ㪤㖁 ゛ ᜮᚤ ᜪᚪ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ Ā VEDA VIDE _ SVĀHĀ
.)Tại Văn Thù Viện thì Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát là Chủ Tôn
Viện này là sự mở thấy chứng ngộ thuộc ba loại trang nghiêm không tận của
Đại Nhật Như Lai, đại biểu cho Bát Nhã Diệu Tuệ.
Văn Thù Viện biểu thị cho Trí Tuệ của Đại Nhật Như Lai, hay đoạn trừ tất cả lý
luận, lại ban cho Phước Đức, nhưng vẫn dùng Trí Đức làm gốc.
Viện này gồm có 25 Tôn được trình bày như sau:
_ Lớp bên trái có 10 Tôn
.) Hàng trên có 2 Tôn:
1_ Phì Xa Gia (ᜪ)
2_ A nhĩ Đa (ㅥ)
.) Hàng giữa có 6 Tôn:
1_ Đồng Mẫu Lô (ᚐ)
2_ Diệu Âm Bồ Tát (ᜂ)
3_ Nguyệt Quang Bồ Tát (ク)
4_ Vô Cấu Quang (ᦤ)
5_ Bảo Quan Bồ Tát (㒕)
6_ Quang Võng Bồ Tát (ᘶ) 10
.) Hàng dưới có 2 Tôn:
1_ Xả Gia (ㅼ)
2_ A Ba La Nhĩ Đa (ㅥ)
_ Lớp giữa có 5 Tôn
.) Hàng trên có 2 Tôn:
1_ Đại Thánh Quán Âm (ᝌ)
2_ Đại Thánh Phổ Hiền (㒕)
.) Hàng giữa có 01 Tôn là Văn Thù (ᜂ)
.) Hàng dưới có 2 Tôn:
1_ Bất Khả Việt Thủ Hộ ()
2_ Tương Hướng Thủ Hộ ()
_ Lớp bên phải gồm có 10 Tôn
.) Hàng trên có 2 Tôn
1_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (ᗚ)
2_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (ᗚ)
.) Hàng giữa có 6 Tôn
1_ Kế Thiết Ni Đồng Tử (ᗞ)
2_ Ưu Bà Kế Thiết Ni Đồng Tử (㒂)
3_ Chất Đát La Đồng Tử ()
4_ Địa Tuệ Đồng Tử (⸈)
5_ Triệu Thỉnh Đồng Tử (ㅥ)
6_ Bất Tư Nghị Tuệ Đồng Tử (ㅥ)
.) Hàng dưới có 2 Tôn
1_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (ᗚ)
2_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (ᗚ)
1_ Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī) là Tôn ở chính giữa Viện và xưng là Ngũ Kế
Văn Thù.
Tôn Hình: Thân màu vàng ròng, hiện hình Đồng Tử, đỉnh đầu có 5 búi tóc. Tay
phải ngửa lòng bàn tay hướng đầu ngón tay về bên phải. Tay trái cầm hoa sen xanh bên
trên có chày Tam Cổ dựng đứng, ngồi trên hoa sen trắng.
11
Thân màu vàng ròng biểu thị cho sự bền chắc của Tuệ thâm sâu.
Đỉnh đầu có 5 búi tóc biểu thị cho việc thành tựu đầy đủ 5 Trí của Như Lai.
Nhân làm duyên cho Nhân Duyên của Bản Thệ mà thị hiện làm hình Đồng Chân
Pháp Vương Tử.
Hoa sen xanh biểu thị cho sự chẳng nhiễm dính các Pháp.
Kim Cương Trí Tuệ Ấn biểu thị cho việc hay dùng ánh sáng Trí chiếu soi khắp
Pháp Giới
Mật Hiệu là:Bát Nhã Kim Cương
Chữ chủng tử là: MAṂ (ᜂ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ trên hoa sen, hay rương Kinh Phạn.
Tướng Ấn là Văn Thù Sư Lợi Ấn: Chắp hai tay lại, giữa trống rỗng. Các ngón
giữa, vô danh giao kết cùng giữ nhau. Đem hai ngón trỏ để trên hai ngón cái như hình
móc câu
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗜᜐᗘ㖁 ᛢ㪧㪱 ᛈᚙ ⽒ᚌ㖁 ỘᜐỘᜐ㖁
㛺ᚎ⼆㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ HE HE KUMĀRAKA VIMUKTI
PATHĀ-STHITA SMARA SMARA PRATIJÑAM SVĀHĀ
2_ Đại Thánh Quán Âm (Ārya-avalokiteśvara):
Avalokiteśvara dịch âm là A Phộc Lô Chỉ Để Thấp Phạt La. Dịch ý là Quán Tự
Tại, tức Quán Thế Âm Bồ Tát.
Lại tên Phạn Ārya-avalokiteśvara có nghĩa là Thánh Quán Thế Âm với Đại Thế
Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta) cùng theo hầu cận Đức Phật A Di Đà tại Thế Giới
Cực Lạc ở phương Tây và được xưng tên chung là Tây Phương Tam Thánh
Tôn này là vị Bồ Tát có bản nguyện dùng Từ Bi cứu độ chúng sinh.
Phàm chúng sinh gặp nạn mà tụng niệm danh hiệu của Ngài thì tức thời Bồ Tát
quán âm thanh ấy liền đến cứu giúp cho nên xưng là Quán Thế Âm. Lại do Bồ Tát này
ở cảnh Sự Lý không ngại cho nên xưng là Quán Tự Tại Bồ Tát.
Tôn này còn biểu thị cho Giác Tính nội tại ẩn khuất tại nơi rất sâu xa trong tâm
của chúng sinh, chẳng bị sự ràng buộc của phiền não mà hay được đại tự tại cho nên
xưng là Quán Tự Tại.
Trong Văn Thù Viện thì Tôn này biểu thị cho Đức Quyền Trí 12
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái cầm hoa sen, tay phải ngửa lòng bàn tay
úp trên đùi phải, ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Chính Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen nở rộ.
Tướng Ấn là: Bát Diệp Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᝌ
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ SA
3_ Đại Thánh Phổ Hiền (Ārya-samanta-bhadra, hoặc Viśva-bhadra):
Samanta-bhadra dịch âm là Tam Mạn Đa Bạt Đà La, Tam Mạn Đà Bạt Đà, Bật
Thâu Bạt Đà. Dịch ý là Biến Cát Bồ Tát.
Do thân tướng của Bồ Tát này ở khắp tất cả mọi nơi đều thuần một sự Diệu
Thiện cho nên gọi là Phổ Hiền.
Phổ Hiền Bồ Tát đại biểu cho Lý Đức và Định Đức của tất cả chư Phật. Ngài còn
đại biểu cho tất cả Hạnh Bồ Tát, tượng trưng cho tinh thần Đại Thừa cứu cánh, đại biểu
cho Bản Thể Hạnh Đức của tất cả Bồ Tát.
Trong Mật Giáo thì Phổ Hiền Bồ Tát đồng thể với Kim Cương Tát Đoả.
Tại Văn Thù Viện thì Tôn này biểu thị cho Hạnh Nguyện rộng lớn
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen bên trên có chày Tam Cổ, ngồi
trên đài sen.
13
Mật Hiệu là: Chân Như Kim Cương
Chữ chủng tử là: KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ trên hoa sen
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᝌᛸⴼ᛬ᦽㆎ 㛿
OṂ_ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ
4_ Bất Khả Việt Thủ Hộ (Durdharṣa-dvāra-pāla):
Durdharṣa-dvāra-pāla lại xưng là Nan Trì, Nan Thắng, Đối Hộ Môn, Phụng Giáo
Giả, Vô Năng Kiến Giả thường thủ hộ bên phải cửa nẻo bên trong (Nội Môn), vâng
nhận Giáo Sắc của Đức Như Lai giúp giữ cửa Pháp (Pháp Môn)
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay phải cầm cây kiếm, tay trái nắm quyền để ngang
ngực, hướng mặt về bên trái, giao hai ống chân mà ngồi
14
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE (), hay KHA (カ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
Tướng Ấn là: Bất Khả Việt Thủ Hộ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㮹⅔⇘ ᛸᝀ 㖁 ᗥᚤᜄ ᝌↄ ᚌᚙᗰᚍ㮬
ᗜ᜔㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DURDHARṢA, MAHĀ-ROṢAṆA
KHĀDAYA _ SARVA TATHĀGATA- AJÑAṂ KURU_ SVĀHĀ
5_ Tương Hướng Thủ Hộ (Abhimukha-dvāra-pāla):
Abhimukha-dvāra-pāla có vị trí cùng đối với Bất Khả Việt Thủ Ho cho nên
xưng là Tương Hướng Thủ Hộ. Xưng đầy đủ là Tương Hướng Thủ Hộ Môn Giả,
hoặc là Đối Diện Hộ Môn Giả, Tương Hướng Kim Cương
Tôn này cũng vâng nhận Giáo Sắc của Đức Như Lai giúp giữ cửa Pháp (Pháp
Môn)
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái cầm cây kiếm, tay phải nắm quyền duỗi
thẳng ngón trỏ, hướng mặt về bên phải, giao ống chân mà ngồi
15
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE (), hay KHA (カ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
Tướng Ấn là: Tương Hướng Thủ Hộ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ゚ᛮ㪧ᗤ ᛸ᧠ᘔⴤ㖁 ゚ᛮ㪧ᗤ㖁 㬊㪶
ᗥᚤᜄ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 ᝌᛸᜄ ᛸᛀỘᜐ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ABHIMUKHA HE MAHĀ-
PRACAṆḌA ABHIMUKHĀ GṚHṆA_ KHADAYA KIṂCIRĀYASI
SAMAYAM- ANUSMARA_ SVĀHĀ
6_ Quang Võng Bồ Tát (Jālīni-prabha):
Jālīni-prabha dịch âm là Chế Lợi Nê Ba La Bà (Hoặc Prabha-jāla: dịch âm là Ba
La Bà Xà La). Là một trong 8 Đại Đồng Tử của Văn Thù.
Tôn này tượng trưng cho ánh sáng Trí Tuệ của Văn Thù Bồ Tát như cái lưới
vòng khắp Pháp Giới, dùng mọi loại Anh Lạc trang nghiêm cái lưới của Giáo (Giáo
Võng) tung rộng khắp mười phương làm lợi ích cho chúng sinh.
Tôn này biểu thị cho Đức của Nội Chứng 16
Tôn Hình: Hình Đồng Tử màu vàng, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải cầm sợi
dây, ngồi trên toà hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Sắc Tướng Kim Cương, tức nghĩa tướng trang nghiêm của Diệu
Tuệ
Chữ chủng tử là: JAṂ (ᘶ), tức nghĩa Sinh chẳng thể đắc
_Tam Muội Gia Hình là: Móc câu, hoặc sợi dây.
Tướng Ấn là: Quang Võng Câu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗜᜐ㖁 ᜅᗰᚌ ᵘ᛭ᜨ ⽒ᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE HE KUMĀRA MĀYĀGATA_
SVABHĀVA STHITA_ SVĀHĀ
17
7_ Bảo Quan Bồ Tát (Ratna-kuṭa, hoặc Ratna-makuṭa):
Ratna-makuṭa dịch âm là La Đát Na Ma Câu Tra. Lại xưng là Bảo Quan Đồng
Tử, Bảo Quan Đồng Tử Bồ Tát.
Bảo Quan (cái mão báu) dịch ý là trang nghiêm tượng trưng cho Đức đặc biệt
Phước Tuệ Trang Nghiêm của Văn Thù Bồ Tát, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sinh
khiến cho kẻ ấy được Phước Tuệ trang nghiêm.
Tôn Hình:Thân màu vàng, tay phải ngửa lòng bàn tay ngang ngực, cầm Tam
BIện Bảo Châu. Tay trái mở khuỷu tay cầm hoa sen xanh, bên trên hoa có cái mão báu.
Ngồi Bán Già trên toà hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Trang Nghiêm Kim Cương
Chữ chủng tử là: KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là:Viên ngọc báu, hoặc mão báu trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᝌ㊱ᚙ ᜪ㈦ᚎ ᜪᗚ ᚰ↜ᚱᚐ ᚾ⃑ᚌ
ㇻ㖁㛿㐷 18
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SARVATHĀ-VIMATI-VIKIRAṆA-
DHARMA-DHĀTU NIRJĀTA SAṂ SAṂ HA _ SVĀHĀ
8_ Vô Cấu Quang Bồ Tát (Vimala-prabha):
Vimala-prabha lại xưng là Vô Cấu Quang Đồng Tử., là một trong 8 Đại Đồng Tử
của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này chủ yếu biểu hiện cho Lý Tất Cánh Không của Văn Thù Bồ Tát, dùng
Bản Tính trong sạch không dơ phóng toả ánh sáng ra bên ngoài cho nên xưng là Vô
Cấu Quang Bồ Tát.
Tôn Hình: Hình Đồng Tử, tay phải cầm cái bát báu bằng Mã Nãođể dưới rốn.
Tay trái cầm hoa sen xanh chưa hé nở. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Ly Trần Kim Cương
Chữ chủng tử là: TRA (ᦤ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa hé nở.
Tướng Ấn là:Quang Võng Câu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗜᜐ㖁 ᛢᘖ㜂 ᗰᚎ ᗜᜐ㖁ᛸᛀỘᜐ㖁
ᵙ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE KUMĀRA_ VICITRA GATI_
KUMĀRAM ANUSMARA_ SVĀHĀ
19
9_ Nguyệt Quang Bồ Tát (Candra-prabha):
Candra-prabha lại xưng là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ
Tát.
Tôn này biểu thị cho việc gìn giữ kho báu Chính Pháp
Tôn Hình: Quyền phải để ngang eo, cầm hoa sen, bên trên hoa có nửa vành trăng.
Tay trái dựng quyền cầm hoa sen chưa nở. Ngồi ngay thẳng trên đài sen.
Mật Hiệu là: Uy Đức Kim Cương
Chữ chủng tử là: CA (ク)
Tam Muội Gia Hình là: Trên hoa sen để nửa vành trăng.
Tướng Ấn là: Chấp Liên Hoa Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ク㪯㛺᛭ㆎ㖁 ᵙ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ CANDRA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ
20
10_ Diệu Âm Bồ Tát (Mañju-ghoṣa):
Diệu Âm Bồ Tát biểu thị cho Đức Thuyết Pháp của Văn Thù Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu vàng, hiện hình Đồng Tử, tóc có 3 búi, tay phải cầm hoa
sen xanh, tay trái cầm rương Kinh Phạn, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Cát Tường Kim Cương
Chữ chủng tử là: KI (ᗚ), hay MAṂ (ᜂ)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn.
Tướng Ấn là: Kế Bảo Ni Đao Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼᜬ㪤㖁 ᗜᜒᗞ㖁ᚤᜅ㪤㖁Ộᜐ᧠ᚎ㮬㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE HE KUMĀRIKE_
DAYĀJÑANĀṂ SMARA PRATIJÑAṂ _ SVĀHĀ 21
Hay ㅥᛈク㗍
A RA PA CA NA
11_ Đồng Mẫu Lô (Tumburu):
Tumburu dịch âm là Đô Mâu Lô, Đồng Mẫu Lô. Lại xưng là Đâu Mâu Lô Thiên,
Đồng Mẫu La Thiên.
Tôn này là anh của 4 chị em Nữ Thiên, cũng là quyến thuộc của chư Thiên trong
Dục Giới.
Tôn này là một biểu hiện của Đức Phật Tỳ Lô Giá Gia, còn 4 chị em Nữ Thiên
(Aparājitā, Ajitā, Jayā, Vijayā) ở chung quanh tượng trưng cho 4 đặc tính Thường,
Lạc, Ngã, Tịnh của Niết Bàn
Tôn Hình: Thân màu đen đỏ, răng trên cắn môi dưới, tay phải cầm cây gậy Độc
Cổ, tay trái nắm quyền để cạnh eo duỗi ngón giữa ngón trỏ, khoác Thiên Y, giao ống
chân ngồi trên tòa Cát Tường
22
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: TU (ᚐ), hay KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
12_ A nhĩ Đa (Ajitā):
Ajitā dịch âm là A Nhĩ Đa, dịch ý là Vô Thắng. Là một trong 4 chị em Nữ Thiên,
quyến thuộc của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Tịnh Đức của Niết Bàn
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình Đồng Nữ , quyền trái chống eo, tay phải cầm
cây gậy Độc Đổ, giao ống chân ngồi trên toà Cát Tường. (hình bên trên)
Mật Hiệu là: Kim Cương 23
Chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
13_ A Ba La Nhĩ Đa (Aparājitā):
Aparājitā dịch ý là Vô Năng Thắng, là một trong 4 chị em Nữ Thiên, quyến thuộc
của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Ngã Đức của Niết Bàn.
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình Đồng Nữ, quyền trái chống eo, tay phải cầm
cây gậy Độc Cổ, giao ống chân mà ngồi.(hình bên dưới)
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) 24
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
14_ Nị Giả Khiếp Gia (Vijayā):
Vijayā dịch âm là Nị Giả Gia, Vĩ Nhạ Gia, Tỳ Xã Gia, Vi Thệ Gia, Vi Nhạ Dã.
Dịch ý là Tối Thắng, Vô Thắng. Là một trong 4 chị em Nữ Thiên, quyến thuộc của
Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Lạc Đức của Niết Bàn.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải co cánh tay cầm chày Bán Độc Cổ, tay trái co
cánh tay để ở eo. (hình bên trên)
25
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
26
15_ Xả Gia (Jayā):
Jayā dịch âm là Nhạ Gia, Thệ Gia, Xả Gia, Bán Giả Gia. Dịch ý là Thắng, Tôn
Thắng. Là một trong 4 chị em Nữ Thiên, quyến thuộc của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Thường Đức của Niết Bàn.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải co cánh tay cầm chày Bán Độc Cổ, tay trái co
cánh tay để ở eo. (hình bên dưới)
Mật Hiệu là: Kim Cương
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ), hay JA (ㅼ), hay KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ _ 27
Văn Thù Sư Lợi Căn Bản Nghi Quỹ, quyển 4 ghi rằng: “Bốn chị em là quyến
thuộc của Văn Thù Bồ Tát, Bồ Tát thân cận của nhóm ấy thường đi lại trên Đại Địa để
cứu độ chúng sinh”
16_ Kế Thiết Ni Đồng Tử (Keśinī):
Keśinī lại xưng là Phát Đoan Nghiêm, là một trong 5 vị Sứ Giả của Văn Thù Bồ
Tát.
Tôn này biểu thị cho Hóa Trí Thanh Tịnh
Tôn Hình: Thân màu vàng, tay phải cầm cây kiếm, tay trái cầm hoa sen xanh,
hiện hình Đồng Tử.
Mật Hiệu là: Diệu Tuệ Kim Cương
Chữ chủng tử là: LO (ᜤ), hay KE (ᗞ), hay KILI (ᗚ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm bén, hay cây đao lớn.
Tướng Ấn là: Kiếm Ấn.
28
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗚ ᗜᜒᗞ㖁 ᚤᜅ㪤㖁 Ộᜐ
᧠ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ KILI HE KUMĀRIKE_
DAYĀJÑANĀṂ SMARA PRATIJÑAṂ _ SVĀHĀ
17_ Ưu Bà Kế Thiết Ni Đồng Tử (Upakeśinī):
Upakeśinī lại xưng là Tiểu Kế Thiết Ni Đồng Tử, Ô Ba Đồng Tử, Kế Thất Ni
Đồng Tử, Ô Ba Kế Thiết Ni Đồng Tử.
Upa là tiếp cận, lệ thuộc. Ke’sinì là mái tóc đẹp của cô gái. Upake’sinì dịch ý là
người nữ có mái tóc đẹp.
Ô Ba Kế Thiết Ni Đồng Tử là một trong 5 vị Sứ Giả, một trong 8 Đại Đồng Tử
của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Tam Muội Năng Thí của Văn Thù Bồ Tát
Tôn Hình: Hiện hình Đồng Nữ, đỉnh đầu có ba búi tóc, toàn thân màu vàng. Tay
phải để trước ngực cầm cây kích Độc Cổ, biểu thị cho Diệu Đức Sắc bén của Tôn này.
Khoác Thiên Y , ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Mật Trì Kim Cương
Chữ chủng tử là: KI (ᗚ), hay DILI (ᚦ), hay U (㒂)
Tam Muội Gia Hình là: Luân La, hay cây kích.
29
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, duỗi ngón giữa như cây kích.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚦ ᛮⵔᜅᛆ㖁 ᗜᜒᗞ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DILI BHINDHAYĀ-JÑĀNAṂ_ HE
KUMĀRIKE_ SVĀHĀ
18_ Chất Đát La Đồng Tử (Citraḥ):
Citraḥ có nghĩa là Nhiễm Sắc. Là một trong 5 vị Sứ Giả của Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Đức Phổ Hiện Sắc Thân của Văn Thù Bồ Tát
Tôn Hình:Thân màu vàng, tay phải cầm cây gậy (trượng), trên gậy có nửa vành
trăng, trên nửa vành trăng để vành trăng đầy. Tay trái cầm hoa sen xanh, ngồi trên hoa
sen đỏ.
Mật Hiệu là: Cát Tường Kim Cương
Chữ chủng tử là: MI (), hay MILI (), hay MṚ ()
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy (Trượng).
30
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, duỗi ngón trỏ và ngón cái.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᘖᦤ 㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ MILI CITRA_ SVĀHĀ
19_ Địa Tuệ Đồng Tử (Vasumati):
Vasumati dịch âm là Phộc Tô Ma Để. Lại xưng là Tài Tuệ Đồng Tử, Trì Tuệ
Đồng Tử, Địa Tuệ Đồng Tử. Là một trong 5 vị Sứ Giả, một trong 8 Đại Đồng Tử của
Văn Thù Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu vàng, hiện hình Đồng Nữ có ba búi tóc. Tay phải duỗi
hướng về bên phải cầm phan phướng. Dựng quyền trái trước ngực cầm hoa sen xanh
có lá nhỏ. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Bát Nhã Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay HILI (), hay KṚ (⸈)
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng.
31
Tướng Ấn là: Tay trái nắm quyền,dựng thẳng ngón út, ngón vô danh.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 Ộᜐ ᚼᗞᚐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HILI HE SMARA JÑĀNA-KETU_
SVĀHĀ
20_ Triệu Thỉnh Đồng Tử (Ākarṣāya, hay Ākarṣanī):
Ākarṣāya dịch âm là A Yết La Tẩy Dã, A Ca La Tẩy Dã. Lại xưng là Triệu Thỉnh
Đồng Tử, Triệu Câu Đồng Tử, Câu Triệu Đồng Tử. Là một trong 5 vị Sứ Giả của Văn
Thù Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Đức triệu thỉnh chúng sinh đến ở Bồ Đề Đạo của Văn
Thù Bồ Tát.
Tôn Hình: Hiện hình Đồng Tử hoặc hình Đồng Nữ, đỉnh đầu có ba búi tóc, toàn
thân màu vàng. Tay phải để trước ngực cầm cây kích Độc Cổ. Tay trái cầm hoa sen
xanh có lá nhỏ. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Phổ Tập Kim Cương
Chữ chủng tử là: MṚ (), hay A (ㅥ), hay AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu, biểu thị cho nghĩa Triệu thỉnh câu dẫn
32
Tướng Ấn là: Tay phải tác Liên Hoa Quyền, duỗi ngón trỏ rồi hơi co lại như móc
câu.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ゛ᗘ⇘ᜄ㖁 ᝌ㛼 ᗜ᜔ ゚㮬㖁 ᗜᜐᣌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀKARṢAYA SARVA KURU
AJÑAṂ KUMĀRASYA_ SVĀHĀ
21_ Bất Tư Nghị Tuệ Đồng Tư (Acintya-mati):
Acintya-mati là một trong 8 Đại Đồng Tử của Văn Thù Bồ Tát
Tôn Hình:Thân màu thịt, hai tay cầm cây gậy (trượng), trên gậy có nửa vành
trăng, quỳ ngồi trên hoa sen
Mật Hiệu là: (không rõ)
Chữ chủng tử là: Ā (゛) hay A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy Độc Cổ (Độc Cổ Bổng).
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
33
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ _
22_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (Kiṃkarīnī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, hai tay cầm cây kích Độc Cổ, Quỳ
ngồi trên hoa sen. (hình bên trên)
Mật Hiệu là: (chưa rõ)
Chữ chủng tử là: JA (ㅼ), hay KI (ᗚ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đao
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
34
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
23_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (Kiṃkarīnī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, hai tay cầm cây kích Độc Cổ, Quỳ
ngồi trên hoa sen. (hình bên dưới)
Mật Hiệu là: (chưa rõ)
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ), hay KI (ᗚ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đao
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
24_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (Kiṃkarīnī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, hai tay cầm cây gậy Độc Cổ, Quỳ ngồi
trên hoa sen. (hình bên trên)
35
Mật Hiệu là: (chưa rõ)
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay KI (ᗚ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đao
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
25_ Văn Thù Phụng Giáo Giả (Kiṃkarīnī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, hai tay cầm cây gậy Độc Cổ, Quỳ ngồi
trên hoa sen. (hình bên dưới)
36
Mật Hiệu là: (chưa rõ)
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay KI (ᗚ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây đao
Tướng Ấn là: Chư Phụng Giáo Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜧 ᛢỘᜄᚿᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ AḤ VISMAYANĪYE _ SVĀHĀ
37
_Ngoài ra các Kinh Quỹ có ghi nhận một số Tôn Tượng, Thủ Ấn và Chân Ngôn
của Bồ Tát Văn Thù là:
38
39
40
1_ Văn Thù màu vàng:
2_Văn Thù màu cam
41
3_Văn Thù màu trắng
42
4_Văn Thù màu đỏ:
43
44
5_Văn Thù màu đen (hay xanh đậm):
45
46
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Thủ Ấn (1)
Chắp hai tay lại, giữa trống rỗng. Các ngón giữa, vô danh giao kết cùng giữ nhau.
Đem hai ngón trỏ để trên hai ngón cái như hình móc câu
Chân Ngôn:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗜᜐᗘ㖁 ᛢ㪧㪱 ᛈᚙ ⽒ᚌ㖁 ỘᜐỘᜐ㖁
㛺ᚎ⼆㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ HE HE KUMĀRAKA VIMUKTI
PATHĀ-STHITA SMARA SMARA PRATIJÑAM SVĀHĀ
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Thủ Ấn (2)
Ấn này được trích ra từ Kinh Lý Thú. Hai tay nắm Kim Cương Quyền, quyền
trái đè đầu gối trái như cầm rương kinh Phạn, quyền phải dựng đứng trên đầu gối trái
như dạng cầm cây kiếm.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Thủ Ấn (3)
Tay Ấn trong Bồ Tát Bộ [Địa Tạng Phật Học Tư Nguyên] Ấn này được trích ra
từ Kinh Lý Thú. Tay trái tác Ấn cầm hoa, tức ngón cái với ngón trỏ cùng vịn nhau,
dựng đứng ba ngón còn lại, làm dạng cầm bông hoa để Quán, sau đó để ở trái tim. Tay
phải tác Kiếm Ấn tức đem ngón cái đè móng ngón vô danh với ngón út, dựng đứng hai
ngón còn lại. Tiếp theo dùng Kiếm Ấn của tay phải chém cọng hoa của tay trái ba lần.
Đây biểu thị cho nghĩa chặt đứt cách chấm của Phàm Phu.
Ngũ Tự Văn Thù Kiếm Ấn
Hai tay kết Ngoại Phộc, dựng hợp hai ngón giữa, cong gấp lóng trên như hình
cây kiếm. Lại gọi là Văn Thù Kiếm Ấn, là Kim Cương Lợi Bồ Tát Ấn trong Kim
Cương Giới Tam Muội Gia Hội
47
Chân Ngôn
゚ ᜐ ᛈ ᘔ ᚼ
A RA PA CA NA
(Mật Giáo Tây Tạng truyền dạy Ngũ Tự Chú này là:
OṂ _ A RA PA CA NA _ DHĪḤ
Ngũ Kế Ấn:
Ngón vô danh của tay phải với ngón út của tay trái cùng hợp đầu ngón. Tiếp đem
ngón út của tay phải với ngón vô danh của tay trái cùng hợp đầu ngón. Hai ngón giữa,
ngón trỏ, ngón cái cũng đều tự hợp đầu ngón. Ấn này có hình như dạng năm đỉnh núi.
Đem để ở trái tim, hai vai, cổ họng rồi đến đỉnh đầu
Trong Giác Thiền Sao đã nói thì hơi có sự chẳng đồng. Hai tay tác Kim Cương
Hợp Chưởng, đem mặt ngón út phải nghiêng đè mặt ngón giữa trái, đem mặt ngón giữa
phải nghiêng đè mặt ngón trỏ trái, kèm dựng đứng hai ngón cái. Ấn này có tên là Ngũ
Tự Văn Thù Sư Lợi Ấn
Chân Ngôn:
㫘 㯲カ ᘦセ ᚺ
OṂ_ DUḤKHA CHEDA DHAṂ
48
Lục Tự Văn Thù:
Ở trong lòng bàn tay, đem hai ngón vô danh, bên phải đè bên trái, cùng móc kết
nhau. Dựng thẳng ngón giữa cùng trụ nhau, cong hai ngón trỏ đều vịn lóng trên lưng
ngón giữa, đồng thời đưa ngón trỏ qua lại.
Chân Ngôn:
㫘 ᜩᗞᚤ ᚼᜃ
OṂ_ VĀKEDA NAMAḤ
(Mật Giáo Tây Tạng ghi nhận Lục Tự Chú này là
OṂ VĀKYEDA NAMAḤ
49
Bát Tự Văn Thù Thủ Ấn:
Chắp hai tay lại, giữa trống rỗng, đem hai ngón giữa phụ ở lưng hai ngón vô
danh, kèm dựng hai ngón cái, cong hai ngón trỏ hợp một để ở trên hai ngón cái.
Căn cứ vào Phẩm Mật Ấn của Kinh Đại Nhật đã thuật thì đây là Ấn của Thai
Tạng Văn Thù Viện với ngón giữa, ngón vô danh, ngón út biểu thị cho hoa sen xanh;
ngón cái, ngón trỏ là hình cây kiếm tức biểu thị cho Tam Muội Gia Hình
Chân Ngôn:
㫘 ォ ᜫ 㜪 カク
OṂ_ AḤ VĪRA HŪṂ KHACARAḤ
Bát Tự Văn Thù Đại Tinh Tiến Ấn:
Hai tay tác Nội Phộc, dựng thẳng hai ngón cái hơi cong lại rồi nghiêng đè hai
ngón trỏ, xong rồi hai ngón cái với hai ngón trỏ có khoảng giữa có hai loại nói Pháp
“mở, đóng”. Lúc mở thì như miệng sư tử há lớn (bên trái là cái miệng, bên phải là
mạnh bạo) ăn tất cả nhóm phiền não chẳng lành của chúng sinh. Lúc đóng thì như
miệng sư tử (bên trái là cái miệng, bên phải là mạnh bạo) ăn đã xong. Cho nên Ấn này
lại xưng là Sư Tử Khẩu hoặc gọi là Đại Tinh Tiến Ấn, Nhất Thiết Vô Úy Ấn, Sư
Tử Quán Ấn, Sư Tử Thủ Ấn, Văn Thù Sư Tử Khẩu Ấn, Bảo Châu Ấn, Diệu Cát
Tường Phá Chư Tú Diệu Ấn, Phá Tú Diệu Chướng Ấn, Phá Thất Diệu Nhất Thiết
ất Tường Ấn… mà đồng với Phật Bộ Tâm Tam Muội Gia
Chân Ngôn:
㫘 ォ ᜫ 㜪 カク
OṂ_ AḤ VĪRA HŪṂ KHACARAḤ 50
BÁT TỰ VĂN THÙ MAN ĐA LA
Soạn dịch: HUYỀN THANH
Đàn hướng về phương Nam, có ba Viện:
_Nội Viện: vẽ một vành tròn trịa (viên luân) giống như trăng tròn.
Ngay chính giữa viết chữ MAṂ (ᜂ). Tiếp theo thứ tự sau: mặt Bắc viết chữ OṂ
(㛸). Tiếp xoay theo bên phải, góc Đông Bắc viết chữ AḤ (㭻ï). Tiếp phương Đông,
viết chữ VĪ (ᜫ). Tiếp góc Đông Nam, viết chữ RA (ᜐ). Tiếp phương Nam, viết chữ
HŪṂ (㜪_Huømï). Tiếp góc Tây Nam, viết chữ KHA (ᗤ). Tiếp phương Tây, viết chữ
CA (ᘔ). Tiếp góc Tây Bắc, viết chữ RAḤ ()
Duøng chín chöõ naøy laøm Toân (Naøtha) trong Noäi Vieän.
_ Viện thứ thứ hai:
Trước mặt Tôn, mặt Nam vẽ Thỉnh Triệu Đồng Tử (Akarṣāya, hay Akarṣaṇī),
chữ chủng tử là AḤÏ(㭻)
Tiếp góc Tây Nam, vẽ Kế Thiết Ni Đồng Tử (Keśinī), chữ chủng tử là KE (ᗞ)
Tiếp phương Tây, phía bên phải, vẽ Cứu Hộ Tuệ Đồng Tử (Paritrāṇāśaya-mati),
chữ chủng tử là KA (オ)
Tiếp góc Tây Bắc, vẽ Ô Ba Kế Thiết Ni Đồng Tử (Upakeśinī), chữ chủng tử là U
(㆜)
Tiếp mặt phía sau, phương Bắc, vẽ Quang Võng Đồng Tử (Jālīni-prabha), chữ
chủng tử là JAṂ (ᘶ)
Tiếp góc Đông Bắc, vẽ Địa Tuệ Tràng Đồng Tử (Vasu-mati-ketu), chữ chủng tử
là A (ㅥ)
Tiếp phương Đông, phía bên trái, vẽ Vô Cấu Quang Đồng Tử (Vimala-prabha),
chữ chủng tử là TRA (ᦤ)
Tiếp góc Đông Nam, vẽ Bất Tư Nghị Tuệ Đồng Tử (Acintya-mati), chữ chủng
tử là A (ㅥ)
Như vậy, ở tám phương của Diệu Cát Tường Đồng Chân Bồ Tát đều hướng mặt
về Tôn chính giữa như thế phụng Giáo, đều ngồi trên hoa sen, mỗi một vị đều cỡi Sư
Tử, hai tay đều cầm Tiêu Xí Ấn Khế .
_ Lại ở trong bốn góc ở bên ngoài Viên Luân (vành tròn trịa) vẽ bốn vị Phẫn Nộ
Minh Vương (Krodha-vidya-rāja)
Góc Đông Nam, vẽ Giáng Tam Thế Cương (Trailokya-vijaya-vajra) màu xanh
có tám cánh tay. Hai tay ngang phía trước kết Ấn: Đàn Tuệ (2 ngón út) cùng móc
ngược nhau, còn lại nắm quyền, dựng Tiến Lực (2 ngón trỏ). Tay trái cầm cây cung, tai
phải cầm thân mũi tên. Bên trái: một tay cầm cái chày, một tay cầm sợi dây. Bên phải:
một tay cầm cây Kích, một tay cầm cây Bổng. Ba mặt, góc miệng hiện răng nanh, ngồi
trong lửa nóng rực. Chữ chủng tử là HŪṂ (㜪)
Góc Tây Bắc, Vô Năng Thắng Minh Vương (Apārajita-vidya-ràja) có bốn cánh
tay, màu xanh, ba mặt, tóc lửa dựng đứng đáng sợ. Bên phải: một tay nắm quyền dựng 51
ngón trỏ, một tay cầm cây Tam Cổ Kích. Bên trái: một tay tác Thí Nguyện, một tay
cầm cây Bổng, ngồi yên trên hoa sen. Chữ chủng tử là DHRIṂ (㪸)
Góc Tây Nam, Diêm Mạn Đức Ca Kim Cương (Yamāntaka-vajra) màu xanh
đen, 6 cái đầu, 6 cánh tay, 6 chân…đều cầm khí trượng. Bên trái: tay bên trên cầm cây
kích, tiếp theo tay bên dưới cầm cây cung, tiếp theo tay bên dưới cầm sợi dây. Bên
phải: tay bên trên cầm cây kiếm, tiếp theo tay bên dưới cầm mũi tên, tiếp theo tay bên
dưới cầm cây gậy. Cỡi con trâu xanh làm toà ngồi. Chữ chủng tử là HRĪḤ (㜫)
Góc Đông Bắc vẽ Mã Đầu Minh Vương (Hayagrīva-vidya-rāja) có ba mặt, 6
cánh tay (?8 cánh tay) đều cầm khí trượng. Bên trái: tay bên trên cầm hoa sen, một tay
cầm cái bình, một tay cầm cây gậy. Hai tay ngang trái tim kết Ấn Khế. Bên phải: tay
bên trên cầm cây búa, một tay cầm tràng hạt, một tay cầm Sách Luân Vương, ngồi
ngay trong hoa sen, tướng đại phẫn nộ, hiện thế cực ác mãnh lợi. Còn lại đều y theo
Bản Pháp. Chữ chủng tử là HAṂ (ᝢ)
_ Viện thứ ba, 16 vị Đại Thiên hộ bên ngoài
.) Ngay trước mặt Tôn (cửa Nam) là Câu Bồ Tát (tay trái nắm quyền, tay phải
cầm móc câu)[Aṃkuśa-bodhisatva]. Chữ chủng tử là JAḤ (ᘷ)
Tiếp theo, phía Tây là Diệm Ma Hậu (Yamī). Chữ chủng tử là YA (㗚)
Tiếp theo, phía Tây là La Sát Chủ (Niṛrtiḥ, hay Rākṣasa-rāja). Chữ chủng tử là
NṚ (⹔)
Ngay góc Tây Nam là Thiêu Hương Cúng Dường Bồ Tát (Dhūpa-pūja-
bodhisatva). Chữ chủng tử là AḤ (ォ)
Tiếp theo, phía Bắc là La Sát Hậu (Rākṣasī). Chữ chủng tử là RAḤ ()
Tiếp theo, phía Bắc là Thuỷ Thiên (Varuṇa). Chữ chủng tử là VA (テ)
.) Cửa Tây là Sách Bồ Tát (Pāśa-bodhisatva). Chữ chủng tử là HŪṂ (㜪)
Tiếp theo phía Bắc là Long Thiên Hậu (Nāgī). Chữ chủng tử là NA (ソ)
Tiếp theo, phía Bắc là Phong Thiên Vương (Vāyu). Chữ chủng tử là VĀ (ᜩ)
Góc Tây Bắc là Hoa Cúng Dường Bồ Tát (Puṣpa-pūja-bodhisatva). Chữ chủng
tử là OṂ (㛸)
Tiếp theo, phía Đông là Phong Thiên Hậu (Vāyavī). Chữ chủng tử là VÀ (ᜩ)
Tiếp theo, phía Đông là Tỳ Sa Môn Thiên Vương (Vaiśravaṇa). Chữ chủng tử là
VAI (ᜯ)
.) Phía sau Tôn, phương Bắc là Kim Cương Toả Bồ Tát (Vajra-sphoṭa-
bodhisatva). Chữ chủng tử là VAṂ (ᜲ)
Tiếp theo, phía Đông là Tỳ Sa Môn Hậu (Vaiśravaṇī). Chữ chủng tử là RU (᜔)
Tiếp theo, phía Đông là Y Xá Na Thiên Vương (Īśāna). Chữ chủng tử là I (㘳)
Góc Đông Bắc là Đăng Cúng Dường Bồ Tát (Āloka-pūja-bodhisatva). Chữ
chủng tử là DĪḤ (㫝)
Tiếp theo, phía Nam là Y Xá Na Hậu (Īśānī). Chữ chủng tử là RU (᜔)
Tiếp theo, phía Nam là Đế Thích Thiên Vương (Indra). Chữ chủng tử là Ī (㘴)
52
.) Phương bên trái, cửa Đông là Kim Cương Linh Bồ Tát (Vajra-ghaṃta-
bodhisatva). Chữ chủng tử là HOḤ (㫃)
Tiếp theo, phía Nam là Đế Thích Hậu (Aindrī). Chữ chủng tử là Ī (㘴)
Tiếp theo, phía Nam là Hoả Thiên Thần (Agni). Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Góc Đông Nam là Đồ Hương Cúng Dường Bồ Tát (Gandha-pūja-bodhisatva).
Chữ chủng tử là GAḤ (ᗻ)
Tiếp theo, phía Tây là Hoả Thiên Hậu (Agnayī). Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Tiếp theo, phía Tây là Diệm Ma Thiên (Yama). Chữ chủng tử là YAṂ (ᜎ)
Phần bên trên là viện thứ ba, an bày các Tôn xong
_ Bốn cửa với Thực Đạo (Lối nẻo bày thức ăn uống), bốn góc đồng với các Đàn
Pháp, Tính báu, cỏ cũng giống nhau. Lá hoa sen ở bốn cửa tinh tế như hoa sen xanh.
53
_ Nếu cầu Tức Tai thì ngay chính giữa, viết chữ MAṂ (ᜂï)
_ Nếu cầu Tăng Ích thì ngay chính giữa, viết chữ ŚRĪ (ᩃ)
54
_ Nếu cầu Kính Ái thì ngay chính giữa, viết chữ DHAṂ (ᚺ)
_ Nếu cầu Giáng Phục thì ngay chính giữa nên viết chữ ṢṬRI (㬲)
55
Nếu dùng Đại Mạn Đà La (Mahā-maṇḍala) thì chín chữ Phạn của Nội Viện này
được thay bằng Tôn Tượng Diệu Cát Tường Đồng Tử với đỉnh đầu có tám búi tóc.
Phía trước có năm búi tóc, một búi tóc trên đỉnh đầu, hai búi tóc phía sau đỉnh. Trên
mỗi một búi tóc đều có thân Phật. Vị trí của hai Viện còn lại đều an bày hình tượng của
các Tôn.
Chân Ngôn thông dụng là:
ᚼᜃ ゚ᛈᜐᚍᜈ㫦ᚼ 㫾ᜪᛂ 㬭ᚌ ᚒᘬ ᜑᘭᜄ ᚌᚙᗰᚍᜄ
ᚼᜀ ᜂᘰᩃ㗚 ᗜ㇂ ᛱᚍ㗚
ᚌᠼᚙ 㭻 ᜫ㇂ 㜪 ᗤᘔ
NAMAḤ APARIMITĀYURJÑĀNA SUVINEŚCITA-TEJA-RĀJĀYA
TATHĀGATĀYA
NAMO MAṂJUŚRĪYA-KUMĀRA-BHŪTĀYA
TADYATHĀ: AḤ VĪRA HŪṂ KHACARAḤ
56
57
_Kinh Kim Cương Đỉnh_Du Già Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát Pháp ghi nhận Văn
Thù Sư Lợi Bồ Tát Bách Tự Chân Ngôn là:
“Án, khát nga tát đát-phộc (1) tam ma gia ma nỗ bá la gia (2) khát nga tát
đát-phộc (3) để phệ nộ bả để sắt-xá (4) niết lý-trụ minh bà phộc (5) tố đổ sử dụ
minh bà phộc (6) a noa la cật-đổ minh bà phộc (7) tố bổ sử-dụ minh bà phộc (8)
tát phộc tất đề minh, bát-la dã sai (9) tát phộc yết ma tố giả minh (10) chất đa,
thất-lợi dược cú lỗ (11) hồng, ha, ha, ha, ha, hộc, bà nga tông (12) tát phộc đát tha
nghiệt đa (13) khát nga, ma, minh, môn giả (14) khát nghê bà phộc (15) ma ha
tam ma gia, tát đát-phộc, Ác (16)”
㫘 ᗤ⺨ᝌᲰ ᝌᛸᜄᛸᛀᛉᜄ ᗤ⺨ᝌᲰ Ჶᛄᛈᚎ⼈ ⹌ᝠ ᛬ᜨ
㫾ᚔᡐ ᛬ᜨ ゚ᛀᜐ㰊 ᛬ᜨ 㫾ᛌᣈ ᛬ᜨ ᝌ⇀ ᝎ㫩 ᧠ᜄ㜯
ᝌ⇀ᗘ↜㫾 ᘔ ᘖが 㰴ᜎ ᗜ᜔ ゖ 㫃 ᛬ᗰᜲ ᝌ⇀ ᚌᚙᗰᚌ
ᗤ⺨ 㮞ᘔ ᗤ⺫ ᛬ᜨ ᛸ ᝌᛸᜄᝌᲰ 㜧
OṂ –KHADGA-SATVA SAMAYAṂ ANUPĀLAYA – KHADGA-SATVA
TVENA UPATIṢṬA – DṚḌHO ME BHAVA- SUTOṢYO ME BHAVA-
ANURAKTO ME BHAVA- SUPUṢYO ME BHAVA _ SARVA SIDDHIṂ ME
PRAYACCHA SARVA KARMASU CA ME CITTA ŚRĪYAṂ KURU HŪṂ HA
HA HA HA HOḤ – BHAGAVAṂ – SARVA TATHĀGATA KHADGA, MĀ ME
MUṂCA _KHADGĪ BHAVA- MAHĀ-SAMAYA-SATVA- ĀḤ
58
_Kết Kim Cương Lợi Ấn ở trên trái tim
Tụng Bách Tự Chân Ngôn gia trì thân của mình. Giả sử trong đời quá khứ đã
gây tạo mọi loại nghiệp ác, tất cả tội chướng của nhóm Vô Gián… do Bách Tự Chân
Ngôn này gia trì cho nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt, thân đời này đắc được
Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Śuraṃgama-samādhi)
Nếu Tâm tán loạn thì số lần tụng Minh này là hoặc bảy lần, hoặc 21 lần cho đến
49 lần, 108 lần thời Tâm lìa duyên bám níu (phan duyên) mau được Tam Ma Địa
(Samādhi).
59
NĂM TÔN VĂN THÙ
Theo Tạng Truyền Phật Giáo thì Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī) là nơi mà Trí Tuệ
của chư Phật đã hóa hiện, Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara) là nơi mà Từ Bi của
chư Phật đã hóa hiện, Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi) là nơi mà Lực Lượng của
chư Phật đã hóa hiện. Do đó, ba vị Bồ Tát này tức là Trí Tuệ, Từ Bi với Lực Lượng
của chư Phật, được hợp xưng là Tam Bộ Chủ
Văn Thù có nhiều loại Hóa Tướng, hiện ra nhiều phong mạo chẳng đồng: có lúc
tay phải cầm hoa sen tượng trưng cho sự thuần khiết cao thượng của Trí Tuệ, có lúc thì
tay cầm cây kiếm báu biểu thị cho Trí Tuệ hay đoạn trừ tất cả phiền não, có lúc ngồi
trên con sư tử biểu thị cho uy vũ dũng mãnh, có lúc ngồi trên đài sen biểu thị cho sự
thanh tịnh không nhiễm dính, có lúc ngồi trên con chim công biểu thị cho sự bay bổng
tự tại….
Tu trì Pháp Môn của Văn Thù hay được sáu loại Trí Tuệ tức: Tốc Tuệ, Thâm
Tuệ, Quảng Tuệ, Thuyết Pháp Tuệ, Biện Pháp Tuệ với Trước Soạn Tuệ. Sáu loại
Tuệ này đều có sự chẳng đồng, thông thường:
Người thấy một chữ mà có thể biết ý nghĩa của một loại ấy, tức là người có đủ
Tuệ mau chóng (Tốc Tuệ)
Thấy một chữ mà có thể biết nghĩa bên trong của nhiều loại, tức là người đủ
Tuệ sâu xa (Thâm Tuệ), liền khiến cho người khác đặt câu hỏi rồi giải quyết vấn đề ấy
một cách tinh thâm, rõ ràng
Quảng Tuệ chỉ Trí Năng bao quát nhiều mặt
Người có Thuyết Pháp Tuệ thì khi giảng Kinh rất ư khéo léo
Người có Biện Pháp Tuệ thì rất tinh tế trong việc biện luận nghĩa của Pháp, nói
năng mười phần tốt đẹp
Trước Soạn Tuệ tức chỉ tài năng biên soạn tác phẩm khiến cho người được lợi
ích
_Tại Tạng Truyền Phật Giáo, Văn Thù Bồ Tát có nhiều loại Hóa Thân, thường
thấy có Hồng Hoàng Văn Thù, Nhu Đồng Văn Thù, A Lạp Bạc Tra Văn Thù
(cũng là Ngũ Tự Văn Thù), Bạch Văn Thù với Hắc Văn Thù … Năm Tôn của Môn
này đều hợp xưng là năm Văn Thù. Năm Văn Thù tuy đồng là Văn Thù Đại Sĩ, nhưng
mà Phật Bộ ấy với Hóa Thân đều có sự chẳng đồng, ngoài ra cũng có lợi ích thù thắng
chẳng đồng.
Pháp Môn của Hồng Hoàng Văn Thù trừ Trí Tuệ ra cũng có tác dụng Hoài
Nhiếp (Tăng ích)
Nhu Đồng Văn Thù là Hóa Tướng của Văn Thù bên trong Tâm của Đại Uy
Đức Kim Cương
Pháp Môn của A Lạp Bạc Tra Văn Thù đối với sự chứng ngộ Không Tính
đặc biệt có sự trợ giúp
Pháp Môn của Bạch Văn Thù trừ Trí Tuệ ra cũng đặc biệt lợi cho sự sinh ra
Tâm Bồ Đề
Hắc Văn Thù trừ Trí Tuệ ra cũng là một vị Bản Tôn trừ chướng
Ngoài ra, Hóa Tướng của Văn Thù lại chia ra nhiều loại tướng: bên ngoài
(ngoại), bên trong (nội) với kín đáo (mật). Chú ấy cũng đều có sự chẳng đồng.
60
_Tùy theo sự truyền thừa mà Pháp Tướng của năm Tôn Văn Thù được ghi nhận
khác nhau:
.)Năm Văn Thù là sự hiển hiện chẳng đồng của Văn Thù Bồ Tát. Trung ương là
A Lạt Ba Tạp Văn Thù (tức Ngũ Tự Văn Thù). Phần bên trên: phía trái là Hồng
Hoàng Văn Thù, phía phải là Tứ Tý Văn Thù. Phần bên dưới: phía trái là Bạch Văn
Thù, phía phải là Hắc Văn Thù. Năm loại Thân biến hóa của Văn Thù này đều có
năm loại màu thân chẳng đồng, cùng với Ngũ Trí Như Lai mỗi mỗi đối ứng, biểu thị
cho Văn Thù gom tập năm loại Trí Tuệ ở một Thân
.)Thangka (tranh Maṇḍala) của Mông Cổ (Thế kỷ 19) ghi nhận năm hình thức
Văn Thù Bồ Tát là:
1_Trung tâm: Ārya-mañjuśrī (màu vàng)
2_Bên trên, phía trái: Tīkṣṇa-mañjuśrī (màu xanh đậm)
3_Phía dưới, bên trái: Rakta-mañjuśrī (màu đỏ)
4_Bên trên, phía phải: Vādita-mañjughoṣa (màu vàng)
5_Phía dưới, bên phải: Vadi-siṃha-mañjughoṣa (màu vàng)
Phần bên trên, ở trung tâm là Đại Sư Je-tsoṅ-kha-pa.
Hai bên trái phải và trung tâm ở bên dưới ghi nhận năm tháp báu của Phật, đại
biểu cho năm Đỉnh
61
Ở Trung Quốc, biểu hiện năm Văn Thù Sư Lợi theo màu sắc là: trắng, vàng
(hoặc : màu cam) , màu đỏ, màu xanh và màu xanh lá cây .
62
.)Năm Văn Thù Bồ Tát là nơi hóa hiện của năm Đức Phật, đại biểu cho Như
Lai của năm Bộ.
Văn Thù Chủ Tôn được xưng là A Lạp Ba Trát Văn Thù (tức Ngũ Tự Văn
Thù), lại xưng là Văn Thù Vương. Là Tôn ngồi ở trung ương, thân màu cam, đầu đội
mão năm Phật, tay phải cầm cây kiếm Trí Tuệ biểu thị cho sự chặt đứt tất cả năm độc,
Vô Minh. Phiền não… Tay trái cầm hoa Ô Ba Lạp (utpāla), trên hoa có Kinh Điển Bát
Nhã biểu thị cho Trí Tuệ của Phật
Bạch Văn Thù có thân màu trắng, đầu đội mão năm Phật. Tay phải để ở đầu
gối tác Ấn Thí Nguyện, vịn cành hoa sen, trên hoa có cây kiếm Trí Tuệ dựng đứng.
Tay phải để ngang ngực tác Ấn Chuyển Pháp Luân, vịn cành hoa sen, trên hoa có
quyển Kinh Bát Nhã, Tôn này chủ yếu là có thể làm cho ngưng dứt tất cả tai nạn, cũng
là Pháp Tức Tai, có thể tiêu trừ tất cả Nghiệp Lực. Bạch Văn Thù có thể dùng trị trăm
bệnh. Trì Chú của Bạch Văn Thù có thể dùng trị bách bệnh
Hoàng Văn Thù có thân màu vàng của trái quất (màu cam), đầu đội mão năm
Phật. Tay phải cầm hoa sen, trên hoa có cây kiếm Trí Tuệ. Tay trái cầm hoa sen, trên
hoa có quyển Kinh Bát Nhã. Tôn này chủ về sự ban Phước, biểu thị cho Pháp Tăng
Ích
Tứ Tý Văn Thù được trích ra từ Văn Thù Chân Thật Danh Kinh, thân màu
vàng hồng, đầu đội mão năm Phật, có bốn cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất giơ lên cao
cầm cây kiếm Trí Tuệ chém đứt tất cả phiền não Vô Minh, tay thứ hai cầm mũi tên.
Bên trái: tay thứ nhất cầm cành hoa Ô Ba Lạp, trên hoa có quyển Kinh Bát Nhã, tay
thứ hai cầm cây cung. Tứ Tý Văn Thù chuyên chủ về Pháp Kính Ái
Hắc Văn Thù có thân màu đen hay màu xanh lam đậm, đầu đội mão năm Phật,
Tay phải giơ lên cao cầm cây kiếm Trí Tuệ, Tay trái cầm hoa sen, trên hoa có quyển
Kinh Bát Nhã. Tôn này chủ về trừ Ma Chướng, tức có thể dùng Pháp Giáng Phục.
Hắc Văn Thù có khẩu quyết quán tường bí mật có thể dùng trừ bỏ tất cả chướng ngại
63
_Tác giả Sách Lãng thuộc Miễn Tát Họa Phái (hiện đại) đã vẽ năm loại Văn
Thù để phổ biến và xưng gọi là Ngũ Tính Văn Thù
Trung ương là Kỵ Sư Giả Hồng Văn Thù.
Bên trên, phía trái là Trì Kiếm Hoàng Văn Thù, hoặc xưng là Văn Thù Dũng
Sĩ
Bên trên, phía phải là Bạch Văn Thù, hoặc xưng là Trí Tuệ Luân Văn Thù
Bên dưới, phía trái là Tứ Tý Văn Thù
Bên dưới, phía phải là Hắc Văn Thù
Ngay chính giữa Thiên Giới là Tung Tam Thế Phật biểu thị cho khái niệm thời
gian
_Chân Ngôn chính của năm Tôn Văn Thù là Văn Thù Ngũ Tự Chân Ngôn:
A (゚): nghĩa là vốn vắng lặng không có sinh (Tỳ Lô Giá Na Phật nói)
RA (ᜐ): nghĩa là vốn trống rỗng lìa bụi bặm (A Súc Phật nói)
PA (ᛈ): nghĩa là vốn chân thật không có nhiễm dính, lìa dơ bẩn (Bảo Sinh Phật
nói)
CA (ᘔ): nghĩa là vốn trong sạch, hành màu nhiệm (Quán Tự Tại Vương Như
Lai nói)
NA (ᚼ): nghĩa là vốn trống rỗng, không có Tự Tính (Bất Không Thành Tựu Như
Lai nói)
64
_Khi cúng phụng chung năm Tôn Văn Thù thì dùng Ngũ Tự Văn Thù Kiếm Ấn
Hai tay kết Ngoại Phộc, dựng hợp hai ngón giữa, cong gấp lóng trên như hình
cây kiếm. Lại gọi là Văn Thù Kiếm Ấn, là Kim Cương Lợi Bồ Tát Ấn trong Kim
Cương Giới Tam Muội Gia Hội
Chân Ngôn là:
OṂ _ A RA PA CA NA DHĪḤ
Pháp Môn của năm Tôn Văn Thù hàm chứa năng lực Tả Tác (biên chép tạo
làm), năng lực Biện Tài, năng lực giảng Pháp, năng lực phân tích sự vật… giúp cho
chúng ta đạt được Trí Tuệ phi thường. Có thể khiến cho chúng ta tăng trưởng Tâm Bồ
Đề, Tâm Đại Từ Đại Bi, Trí Tuệ của sự tu hành nhóm Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục,
Tinh Tiến, Thiền Định.
_Trong năm Tôn Văn Thù thì ba Tôn: Hoàng Văn Thù, Bạch Văn Thù và Hắc
Văn Thù được truyền dạy rộng rãi hơn. Trong đó:
.)Hoàng Văn Thù là Bản Tôn khai phát Trí Tuệ Không Tính. Tu trì Pháp Môn
của Hoàng Văn Thù thời có thể đắc được Trí Tuệ thông đạt Không Tính, phá trừ sự
chấp dính và mê mờ đối với biểu tượng của sự vật, từ đây khám phá tướng huyễn hóa,
đắc được sự tự tại và sự tự nhiên không có trói buộc của Nội Tâm… tức tăng trưởng
Trí Tuệ thuộc phương diện Thắng Nghĩa Đế
Chân Ngôn là: OṂ A RA PA CA NA DHĪḤ
.)Bạch Văn Thù là Bản Tôn giúp cho mau chóng tăng trưởng sự ghi nhớ và biện
tài. Trong Tạng Truyền Phật Giáo thì Bạch Văn Thù còn được xưng là Trí Tuệ Luân
Văn Thù. Tu trì Pháp Môn của Tôn này thì rất mau chóng đạt được Trí Tuệ, đặc biệt 65
đối với sức tăng trưởng sự ghi nhớ, Mẫn Tiệp Tuệ cùng với Trí Tuệ diễn giảng, biện
luận có hiệu quả rất đặc thù… tức tăng trưởng Trí Tuệ thuộc phương diện Tục Đế
Chân Ngôn là: OṂ_ VĀKYEDA NAMAḤ
.)Hắc Văn Thù là Bản Tôn chủ về trừ Ma Chướng. Tu trì Pháp Môn của Tôn
này sẽ mau chóng được sự gia trì, có thể trừ khử rất nhiều chướng ngại, đạt được Trí
Tuệ, trị liệu bệnh tật, giáng phục loại Thi Biến, đuổi trừ Ma Chướng, đạt được công
năng tự bảo hộ thân mình rất đặc thù
Chân Ngôn là: OṂ_ A RA PA CA NA DHĪḤ HŪṂ
66
PHỔ HIỀN BỒ TÁT
Phổ Hiền Bồ Tát, tên Phạn là: Samanta-bhadra, hay Viśva-bhadra, dịch âm là
Tam Mạn Đa Bạt Đà La, Tam Mạn Đà Xá Hoành Đà, Bật Thâu Hoành Đà
(Viśva-bhadra)….dịch nghĩa là Tác Biến Cát (làm khắp mọi việc tốt lành), làm đầy đủ
vô lượng Hạnh Nguyện, bày khắp Bồ Tát của tất cả cõi Phật hiện tại cho nên Phật
Giáo Đồ thường tôn xưng là Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát để làm rõ Đức đặc biệt ấy.
Tên Phổ Hiền Bồ Tát bắt đầu xuất hiện trong Kinh Tam Mạn Đà Bạt Đà La Bồ
Tát, sau thấy rộng rãi ở các Kinh rồi thành Tín Ngưỡng phổ biến.
_ Đại Nhật Kinh Sớ, quyển thứ nhất nói: “Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ (Samanta,
hay Viśva) nghĩa là khắp tất cả nơi chốn, Hiền (Bhadra) nghĩa là rất Diệu Thiện”
nhằm nói Phổ Hiền Bồ Tát y theo Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta) để khởi Nguyện Hạnh với
Thân Khẩu Ý thảy đều bình đẳng, khắp tất cả nơi chốn thuần một Diệu Thiện, đầy đủ
mọi Đức cho nên gọi là Phổ Hiền.
_ Kinh Pháp Hoa (Saddharma-puṇḍarika-sūtra) ghi nhận Phổ Hiền là vị Bồ Tát
ở cõi nước Tịnh Diệu của Đức Phật Bảo Uy Đức Thượng Vương Như Lai phía Đông
cõi Sa Bà (Sāha-loka-dhātu) nghe Thế Giới này nói Kinh Pháp Hoa liền thống lãnh
năm trăm vị Đại Bồ Tát đến nghe Pháp và phát Tâm hộ trì Chính Pháp của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi)
Phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát ghi nhận Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên lưng con voi
trắng sáu ngà, thủ hộ cho người trì Kinh Pháp Hoa
67
_Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Tam Muội Bí Mật Tam Ma Gia ghi nhận Phổ
Hiền Bồ Tát là Bản Tôn của 14 Phẩm sau của Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma-
puṇḍarīka):
“Tát Đoả (tức Kim Cương Tát Đỏa: Vajrasatva) lại bạch Phật rằng: “14 Phẩm
sau của Diệu Pháp Liên Hoa thì Phổ Hiền là Bản Tôn của các Phẩm ấy. Điều này có ý
gì ư ?”
Đức Già Na (Vairocana) bảo rằng: “Phẩm Khuyến Phát ghi: Nếu Kinh Pháp Hoa
lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề mà có người thọ trì thì nên tác niệm này “Đều là sức uy
thần của Phổ Hiền”. Nếu có thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ chính đúng, hiểu nghĩa thú ấy,
như Thuyết tu hành thì nên biết người đó hành Hạnh Phổ Hiền (Samanta-bhadra-
caryā)”
Tát Đoả lại bạch: “Bản Tôn của Diệu Pháp Liên Hoa là Phổ Hiền lại có cạn, sâu
ư?”
Đức Già Na (Vairocana) lại nói: “Ông tự mình là Phổ Hiền, sao lại hỏi Tự ư ?
Phổ Hiền cạn, sâu có năm lớp khác nhau.
1_ Đẳng Giác Phổ Hiền
2_ Diệu Giác Phổ Hiền
3_ Bản Giác Phổ Hiền
4_ Văn Tự Phổ Hiền
5_ Thật Tướng Phổ Hiền
Thứ nhất Đẳng Giác Biến Hoá Phổ Hiền là Phổ Hiền ở cánh sen Đông Nam
thuộc tám cánh sen của Diệu Pháp Liên Hoa. Lại Phẩm Khuyến Phát từ phương Đông
đến là Phổ Hiền vậy.
Thứ hai Diệu Giác Phổ Hiền là Bảo Sinh Như Lai ở cánh sen phương Nam
thuộc tám cánh sen của Diệu Pháp Liên Hoa.
Thứ ba Bản Giác Phổ Hiền là bản Giác Đại Nhật Như Lai ở Trung Đài của
Diệu Pháp Liên Hoa
Thứ tư Văn Tự Phổ Hiền là một chữ căn bản của Diệu Pháp Liên Hoa. Chữ A
(ㅥ) chẳng sinh vòng khắp Pháp Giới là Phổ Hiền vậy.
Thứ năm Thật Tướng Phổ Hiền tức Thật Tướng của các Pháp trong Diệu Pháp
Liên Hoa là Phổ Hiền vậy”
Lại nữa, Kim Cương Tát Đoả bạch Phật rằng: “Có Tự Tính Thân Phổ Hiền, Tự
Thọ Dụng Phổ Hiền, Tha Thọ Dụng Phổ Hiền, Biến Hoá Thân Phổ Hiền ư?”
Đức Già Na (Vairocana) bảo rằng: “Thứ nhất Tự Tính Thân Phổ Hiền. Kinh
Hoa Nghiêm bày: chỉ y theo Như Như, chẳng y theo cõi nước, là Tự Tính Thân Phổ
Hiền Tôn vậy.
Thứ hai Tư Thọ Dụng Phổ Hiền. Lại ghi rằng: Trong một lỗ chân lông của Phổ
Hiền có cõi Phật nhiều như bụi nhỏ chẳng thể nói được, là Tự Thọ Dụng Phổ Hiền
Tôn vậy
Thứ ba Tha Thọ Dụng Phổ Hiền. Ở Sắc Cứu Cánh (Akaniṣṭha, hay Aghaniṣṭha)
thành Tự Thọ Dụng Thân vì giáng phục 59 loại Ngoại Đạo, giáng xuống Nam Diêm
Phù Đề hiện tám tướng Thành Đạo là Tha Thọ Dụng Phổ Hiền Tôn vậy
Thứ tư Biến Hoá Thân Phổ Hiền. Kinh Pháp Hoa nói: Phổ Hiền Bồ Tát từ
phương Đông đến. Kinh Phổ Hiền ghi rằng: Phổ Hiền Bồ Tát liền sinh về cõi nước
Tịnh Diệu ở phương Đông. Tướng của cõi nước ấy ở trong Kinh Tạp Hoa đã rộng
phân biệt. Là Biến Hoá Thân Phổ Hiền Tôn vậy.
Lại nữa Đức Đại Nhật Như Lai bảo rằng: “Có chín lớp Phổ Hiền
1_ Đẳng Lưu Phổ Hiền 68
2_ Diệu Pháp Liên Hoa Đẳng Giác Phổ Hiền
3_ Diệu Pháp Liên Hoa Diệu Giác Phổ Hiền
4_ Diệu Pháp Liên Hoa Trung Đài Bản Giác Đại Nhật Phổ Hiền
5_ Diệu Pháp Liên Hoa Bình Đẳng Bản Giác Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phổ
Hiền
6_ Diệu Pháp Liên Hoa Chư Pháp Bản Giác Tỳ Lô Giá Na Như Lai Phổ Hiền
7_ Diệu Pháp Liên Hoa Nhất Luân Phổ Hiền
8_ Diệu Pháp Liên Hoa Đệ Nhất Phổ Hiền
9_ Diệu Pháp Liên Hoa Đỉnh Thượng Phổ Hiền
Bấy giờ Tát Đoả đầu đội mão báu Ngũ Trí, tay trái cầm cái chuông Kim Cương,
tay phải cầm cái chày Kim Cương Ngũ Cổ, chày đè ở trái tim, ngồi trên đài hoa sen,
phóng ánh sáng chiếu Pháp Giới, bạch với Đức Bạc Già Phạm (Bhagavaṃ: Thế Tôn)
rằng: “Nay con hiểu lời răn dậy của Đức Phật là Diệu Pháp Liên Hoa có ba Bản Tôn.
1_ Thích Ca Như Lai là Tôn Tượng biến hoá của Đại Nhật Như Lai
2_ 14 Phẩm trước thì Văn Thù Sư Lợi là Bản Tôn của các Phẩm ấy
3_ 14 Phẩm sau thì Phổ Hiền Bồ Tát là Bản Tôn của các Phẩm ấy
Diệu Pháp Liên Hoa tu hành đồng nhập vào một cung Bản Giác, Bản Địa lâu xa,
Vô Lượng Thọ Mệnh Quyết Định Như Lai, Ma Ha Tỳ Lô Giá Na Như Lai”
_ Theo truyền thống Hoa Văn thì Phổ Hiền Bồ Tát là đại biểu của Bồ Tát Đại
Thừa, tượng trưng cho tinh thần Đại Thừa (Mahā-yāna) rốt ráo.
Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra) còn đại biểu cho Lý Đức, Định Đức, Hạnh
Đức của tất cả chư Phật cùng đối với Trí Đức, Tuệ Đức, Chứng Đức của Văn Thù
Bồ Tát (Maṃjuśrī). Hai vị này là bậc Đại Hiếp Thị của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Śākya-muṇi) là hai bậc Thượng Thủ (Pramukha) của tất cả các Bồ Tát, thường hỗ trợ
tuyên dương sự hoá đạo nhiếp ích của Đức Như Lai. Văn Thù cỡi sư tử, Phổ Hiền cỡi
voi biểu thị cho Lý Trí Tương Tức, Hành Chứng tương ứng.
_Trong Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra) bày rõ tất cả Phật Pháp quy về
Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana-tathāgata) với hai vị Đại Sĩ Phổ Hiền (Samanta-
bhadra), Văn Thù (Maṃjuśrī). Ba vị này được xưng là Hoa Nghiêm Tam Thánh, 69
trong đó Phổ Hiền Bồ Tát đại biểu cho Bản Thể Hạnh Đức của tất cả Bồ Tát, Văn Thù
Bồ Tát đại biểu cho Chứng Đức của tất cả Bồ Tát.
_ Kinh Hoa Nghiêm (Avataṃsaka-sūtra), phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, quyển
40 có nói mười loại Hạnh Nguyện rộng lớn của Phổ Hiền là: “Lễ kính chư Phật, xưng
tán Như Lai, rộng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tuỳ hỷ Công Đức, thỉnh
chuyển Pháp Luân, thỉnh Phật trụ đời, thường tuỳ Phật Học, luôn thuận chúng
sinh, hồi hướng đều khắp”. Trong Kinh mỗi mỗi thuật về 10 Nguyện lớn này, minh
hoạ cho Công Đức vô lượng. Khi sắp chết được Nguyện Vương này dẫn đường để
vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc (Sukha-vatī) của Đức Phật A Di Đà (Amitābha: Vô
Lượng Quang, hay Amitāyus: Vô Lượng Thọ). Như thế 10 Nguyện lớn này là sự biểu
tượng cho Hạnh Nguyện của tất cả Bồ Tát, nên cũng xưng là Biển Nguyện của Phổ
Hiền.
_ Đài Tông Nhị Bách Đề, quyển 10 lập Hữu Tướng Phổ Hiền Luận Đề y theo
Hạnh Hữu Tướng lễ sám tụng Kinh đạt thành cảm ứng nhìn thấy (Cảm Kiến) ý chỉ
của Phổ Hiền.
70
_Chân Ngôn Tông của Nhật Bản ghi nhận Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) vệ
hộ Phật Giáo là Hóa Thân của Bồ Tát Phổ Hiền. Mật Giáo là do Kim Cương Tát Đỏa
đã khai sáng. Có thuyết nói Kim Cương Tát Đỏa là thân biến hóa của Bồ Tát Đại Thế
Chí hoặc là hóa thân của Phật Bồ Tát khác
_Trong Tạng Truyền Phật Giáo thì Phái Ninh Mã ghi nhận Phổ Hiền Bồ Tát là
Báo Thân của Phổ Hiền Vương Phật (Samanta-bhadra-rāja-buddha)
Kim Cương Thừa (Vajra-yāna) nhận định Phổ Hiền là hiện thân của Pháp Thân
(Dharma-kāya) nhằm chỉ Đức Bản Sơ Phật (Ādi-buddha)
_Y theo Kinh Điển của Mật Giáo đã ghi chép: Nếu có chúng sinh hay đối trước
vị Bồ Tát này như Pháp tu trì và cầu đảo ắt rốt ráo chẳng bị đọa vào ba nẻo ác, quyết
định tăng Thọ Mệnh. Suốt đời không có chết yểu, sợ hải bị đoản mệnh cũng không có
sợ hãi về mộng ác, Yểm Mỵ, Chú Trớ, Quỷ Thần La Sát có hình ác.
Phật Giáo Trung Hoa ghi nhận núi Nga My ở Tứ Xuyên là Đạo Trường của Bồ
Tát Phổ Hiền và cũng là một trong bốn ngọn núi nổi tiếng ở Trung Quốc
HÌNH TƯỢNG CỦA PHỔ HIỀN BỒ TÁT
_Thông thường Tôn Tượng của Phổ Hiền Bồ Tát có thân màu vàng ròng, đội mão
năm Phật, tay phải cầm hoa sen hoặc ngọc Như Ý, tay trái kết Thí Nguyện Ấn, ngồi
Bán Già trên con voi trắng sáu ngà
.) Thân màu vàng ròng đội mão năm Phật: biểu thị cho Báo Thân viên mãn
.) Tay cầm hoa sen hay ngọc Như Ý: biểu thị cho Phật Trí 71
.) Tay Thí Nguyện: biểu thị cho sự ban bố giúp đỡ tất cả chúng sinh thành tựu
phương cách tu hành Chính Pháp Giải Thoát
.) Voi trắng sáu ngà: biểu thị cho sáu căn thanh tịnh, hoặc biểu thị cho sáu Ba La
Mật (Ṣaḍ-pāramitā) là phương pháp tu hành để đạt đến Niết Bàn
.) Voi có bốn chân: biểu thị cho bốn Như Ý Túc hay bốn loại Thiền Định
Từ ý nghĩa này, Giáo Đồ Phật Giáo còn thờ phụng Tôn Tượng Phổ Hiền Bồ Tát
có tay phải cầm hoa sen (hiển bày Phật Trí), tay trái cầm quyển Kinh (biểu thị cho sự
gìn giữ và truyền bá phương pháp tu hành để đạt đến Niết Bàn), ngồi trên con voi trắng
có bốn chân đứng trên bốn hoa sen
Hoặc Tôn Tượng có thân đội mão năm Phật, tay phải cầm quyển Kinh, tay trái kết
Ấn Giáo Hóa (Vitarka-mudrā), ngồi tại tòa sen trên con voi trắng sáu ngà
72
Hoặc Tôn Tượng hai tay kết Ấn Giáo Hóa cầm hoa sen, trên hoa có quyển Kinh,
ngồi tại tòa sen trên con voi trắng sáu ngà
73
Tôn Tượng có hai tay cầm quyển Kinh, ngồi trên con voi trắng
74
Tôn Tượng Phổ Hiền có tay phải cầm cây phất trắng, tay trái cầm ngọc Như Ý,
ngồi trên con voi trắng, biểu thị cho phương cách phủi sạch bụi dơ Vô Minh phiền não,
hiện bày Phật Trí
Tôn Tượng có hai tay cầm Chày Kim Cương ngồi trên con trắng sáu ngà, biểu thị
cho ý nghĩa Kim Cương Tát Đỏa (Vajrasatva) là Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Phổ
Hiền Bồ Tát
75
_Trong Kinh Uy Nghi Hình Sắc của Pháp Hoa Mạn Đà La thì Phổ Hiền Bồ
Tát có vị trí ở cánh hoa phương Bắc biểu thị cho nghĩa nhập vào Tri Kiến của Phật
Tôn hình là:
“Phổ Hiền Bồ Tát
Mão đẹp nghiêm tóc búi
Tóc biếc rũ cạnh tai
Thân tướng màu tím nhạt
Tả Định (tay trái) Kiếm (cây kiếm) trên sen
Hữu Tuệ (tay phải) Quyền đè gối (đầu gối)
Tướng Đại Bi thương xót
Vòng ngọc với Cà Sa
Áo khoác, Anh Lạc đẹp
Vòng, xuyến ngọc đeo tay
Dây lưng ngàn màu sắc
Xiêm đẹp màu đỏ sáng
Anh sáng Thân màu hồng
Hoa báu dùng làm tòa
An trụ biển vành trăng (nguyệt luân hải)”
Tôn hình này được thay đổi theo dạng thức: tay phải ngửa lòng bàn tay, co hai
ngón út và vô danh, duỗi thẳng ba ngón còn lại (tượng trưng cho Tam Bảo). Tay trái
cầm hoa sen đỏ, trên hoa có cây kiếm rực lửa sáng (tượng trưng cho Phật Trí tỏa rạng
trong Tâm Bồ Đề). Ngồi tại tòa sen đỏ trên con voi trắng sáu ngà (tượng trưng cho sự
viên mãn sáu Pháp Ba La Mật)
76
Ngoài ra, Phổ Hiền Bồ Tát còn được thờ phụng qua nhiều hình tượng khác nhau
77
78
79
80
81
_Do Phổ Hiền Bồ Tát có Tính Đức tăng ích sống lâu nên lúc trụ vào cảnh giới
của Tăng Ích Diên Mệnh Tam Muội thời được thành Phổ Hiền Diên Mệnh Bồ Tát
(Samanta-bhadrāyuḥ)
82
Trong Tạng Truyền Phật Giáo thì Phổ Hiền được vẽ với thân màu xanh (tượng
trưng cho Tính Không) hợp nhất với vị phối ngẫu màu trắng (tượng trưng cho Nhất
Thể)
83
Đôi khi Phổ Hiền Bồ Tát này cũng được biểu thị trong hình tướng phẫn nộ được
gọi là Heruka là vị thần có cánh với thân hình màu xanh đậm có ba mặt, sáu tay và
bốn chân, ôm giữ vị phối ngẫu màu xanh lợt.
Theo hệ thống Thuần Mật thì Phổ Hiền đại biểu cho Hạnh Bồ Tát rộng lớn. Khi
một cá nhân thực hiện viên mãn Hạnh Bồ Tát thì gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Còn viên
mãn quả vị của Phổ Hiền Bồ Tát tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana-tathāgata).
Chúng sinh đang đợi đầy đủ Nhân của Phổ Hiền, đấy tức là Tính của Tỳ Lô Giá Na
Phật
_ Tại Trung Đài Bát Diệp Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-
dhātu-maṇḍala) thì Phổ Hiền Bồ Tát được an trí ở góc Đông Nam biểu thị cho Hạnh
Thâm Nhập Tâm Bồ Đề, tức là giai đoạn Tịnh Tâm Bồ Đề
Tôn Hình: Thân hiện màu thịt trắng, đầu đội mão báu 5 Phật, tay trái cầm hoa
sen, trên hoa để cây kiếm bén chung quanh rực lửa sáng, tay phải mở cánh tay giương
duỗi ngửa lòng bàn tay, kết Ấn Tam Nghiệp Thiện Diệu, co ngón vô danh với ngón út
84
Mật Hiệu là: Chân Như Kim Cương
Chữ chủng tử là: AṂ (ㆦ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm trên hoa sen, hay Hiền Bình
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng hay Nhất Thiết Chi Phần Sinh Ấn : Còn
gọi là Tùng Phật Chi Phần Sinh Ấn. Chắp 2 tay lại như hình đóa hoa chưa nở (Vị Khai
Phu Hoa Hợp Chưởng) dựng thẳng đứng 2 ngón cái rồi hơi co lại. Biểu thị cho Đức
của Tâm Bồ Đề được sinh ra từ từng phần của Đức Phật.
Hoặc Phổ Hiền Bồ Tát Thủ Ấn: Chắp hai tay lại, chụm mười ngón tay hợp
nhau. Bên trong hai lòng bàn tay thành dạng tròn trịa của Tâm trống rỗng.
Chân Ngôn là :
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 エォ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ AṂ AḤ _ SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Phổ Hiền biểu
thị cho Tâm Bồ Đề, được công nhận là đồng Thể với Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi),
Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva), Nhất Thiết Nghĩa Thành Tựu Bồ Tát
(Sarvārtha-siddhi).
85
.) Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Phổ Hiền Bồ Tát là một trong 16 vị Bồ Tát
đời Hiền Kiếp, được an trí ở phương Bắc tại vị trí sau cùng của bốn vị Bồ Tát (Vô Tận
Ý Bồ Tát, Biện Tích Bồ Tát, Kim Cương Tạng Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát)
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phổ Nhiếp Kim Cương, Như Ý Kim Cương
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kiếm
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ォ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ AḤ
Hay 㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ォ ᵙ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA AḤ SVĀHĀ
.) Tại Tam Muội Gia Hội thì Phổ Hiền Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kiếm. Biểu thị cho Đức Niết Bàn của Như Lai, xa lìa
tất cả phiền não
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ A
86
.) Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Phổ Hiền Bồ Tát có thân màu thịt trắng, tay trái
nắm quyền để ngang eo, tay phải cầm cây kiếm.
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ォ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ AḤ
.) Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Phổ Hiền Bồ Tát dùng hai tay nâng trước
ngực cầm hoa sen, trên sen có cây kiếm.
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ォ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ AḤ 87
.) Tại Lý Thú Hội (Naya) thì Phổ Hiền Bồ Tát được xưng là Kim Cương Tát
Đỏa (Vajra-satva) tức con trưởng của tất cả Như Lai, là Tâm Bồ Đề của tất cả Như Lai,
là Tổ Sư của tất cả Như Lai. Chính vì thế cho nên tất cả Như Lai lễ kính Kim Cương
Tát Đỏa.
Tôn này trụ Đại Trí Ấn từ Kim Cương Giới đến Kim Cương Linh Bồ Tát dùng
37 Trí thành Thân Quả Đức Tự Thọ Dụng, Tha Thọ Dụng. Tôn này cũng là Tự Tính
Thân, chẳng sinh chẳng diệt, ngang bằng với hư không, tức là Thân tràn khắp Pháp
Giới
Chữ chủng tử là: OṂ (㫘)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, đầu đội mão Ngũ Phật, tay phải cầm chày Kim
Cương Ngũ Cổ vặn nghiêng cổ tay trước ngực, tay trái để ngang đầu gối cầm cái
chuông Ngũ Cổ
Tam Muộ Gia Hình là: Chày Kim Cương Ngũ Cổ dựng đứng trên hoa sen
88
Tướng Ấn là: Kim Cương Tát Đỏa Đại Ấn.
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᝌᲸᝢ
VAJRA-SATVA-UHAṂ
.) Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Phổ Hiền Bồ
Tát có chữ chủng tử là: VAṂ (ᜲ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có cây kiếm.
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm.
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ᜲ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ VAṂ
.) Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Phổ
Hiền Bồ Tát có chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm. Biểu thị cho Đức Niết Bàn của Như Lai, xa lìa
tất cả phiền não 89
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌᛸⴼ᛬ᦽᜄ ᵙ ォ
OṂ _ SAMANTA-BHADRĀYA SVĀHĀ _ AḤ
_Ngoài ra trong các Kinh Điển còn ghi nhận một số Thủ Ấn với Chân Ngôn của
Phổ Hiền Bồ Tát là:
.) Phổ Hiền Bồ Tát Căn Bản Ấn:
Hai tay Ngoại Phộc, dựng đứng hai ngón giữa cùng hợp đầu ngón. Lại gọi là
Tam Muội Gia Căn Bản Ấn
Chân Ngôn là:
ᝌᛸㆎ 㬼
SAMAYA STVAṂ
.) Phổ Hiền Ngoại Ngũ Cổ Ấn:
Hai tay Ngoại Phộc kèm dựng hai ngón giữa, hai ngón cái, hai ngón út. Cong hai
ngón trõ như hình móc câu đặt bên cạnh lưng hai ngón giữa sao cho không dính nhau.
Hình chày Ngũ Cổ dựng đứng tức biểu thị cho Ngũ Trí Kim Cương nên Ngũ Cổ
Ấn lại có tên là Đại Yết Ma Ấn, Ngũ Phong Ấn, Ngũ Đại Ấn…Lại Ngoại Ngũ Cổ Ấn
còn có Ngoại Phộc Ngũ Cổ Ấn, Trí Tháp Ấn, Đại Tốt Đô Bà Ấn, Thập Chân Như
Ấn… với tên gọi chẳng đồng.
Chân Ngôn là:
㫘 ㉷᥄ᝌᲰ ㆧ
OṂ_ VAJRA-SATVA AḤ
90
.) Phổ Hiền Nhất Thiết Chi Phần Ấn:
Hai tay tác Liên Hoa Hợp Chưởng, kèm dựng hai ngón cái rồi hơi co đầu ngón.
Đây là Nhất Thiết Chi Phần Sinh Ấn thuộc tám Ấn bí mật trong Kinh Đại Nhật.
Như Nhập Phật Tam Muội Gia Ấn hai ngón cái thành hình tướng của cái bình
nhỏ dùng để quán tưởng rưới rót nước Đại Bi Trí ban cho tất cả chúng sinh khác. Có
điều Ấn Đồ là Hợp Chưởng hơi giương ra, cong hai ngón cái đều tự chia đứng như
bụm nước đưa đi
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 エォ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ AṂ AḤ _ SVĀHĀ
_Phật nói Kinh Phổ Hiền Đà La Ni ghi nhận bài Nhất Thiết Tối Thượng
Mẫu Đà La Ni là:
TADYATHĀ: OṂ _ NAMO NAMAḤ SATVA BHUVANEŚVARA MAHĀ-
BHOGĀYA, ASAMASAMA, AMITA-SAMA, ANANTA-SAMA, GAGANA-
SAMA, TRIBHAVA-SAMA, ĀVEŚA-SAMA, PARAMĀRTHA-SAMA,
SVABHĀVA-SAMA, TATHĀGATA-SAMA, ARAJA-SAMA, ŚUDDHE-SAMA,
BUDDHA-SAMA, DHARMA-TATHĀGATA-SAMA, SIṂHA-VIṢAMA-SAMA,
EKA-NĀYA SĀGARA VIŚUDDHA, ĀLOKA HI HI, LABDHA LABDHA,
VIJAYA VIJAYA_ ĀṂ , PRAŚAKTA NAYA NAYA_ HAṂ, CIRA
ADHIṢṬHĀNA SAṂBHOGA_ AṂ, SANA ALAYA ALAYA DHARMĀGRA,
DHARA DHARA, JAYA JAYA, HŪṂ HŪṂ , DHAMA DHAMA SVĀHĀ
[TADYATHĀ: Như vậy, liền nói Chú là
OṂ: Ba thân
NAMO: Quy mệnh
NAMAḤ : Kính lễ
SATVA: Bậc Hữu Tình
BHUVANEŚVARA: Chủ của Thế Giới, chủ của Đại Địa
MAHĀ-BHOGĀYA: Đại tài vật, đại trân tài, đại thực
ASAMASAMA: Vô đẳng đẳng, không có gì ngang bằng
AMITA-SAMA: Vô lượng đẳng
ANANTA-SAMA: Vô biên đẳng
GAGANA-SAMA: Hư không đẳng
TRIBHAVA-SAMA: Tam Hữu đẳng
ĀVEŚA-SAMA: Nhiệt Tâm đẳng
PARAMĀRTHA-SAMA: Đệ Nhất Nghĩa Đế đẳng
SVABHĀVA-SAMA: Tự Tính đẳng
TATHÀGATA-SAMA: Như Lai đẳng
ARAJA-SAMA: Vô trần cấu đẳng
ŚUDDHE-SAMA: Thanh tịnh đẳng
BUDDHA-SAMA: Phật đẳng 91
DHARMA-TATHĀGATA-SAMA: Pháp Như Lai đẳng
SIṂHA-VIṢAMA-SAMA: Sư Tử sai biệt đẳng
EKA-NĀYA SĀGARA VIŚUDDHA: Đều khiến cho biển Nhất Thừa thanh tịnh
ĀLOKA: Xuất Thế Gian
HI HI: Thật tốt, tốt thay
LABDHA LABDHA: đã đạt được, đã phát hiện được
VIJAYA VIJAYA: Tối thắng , tối thắng
ĀṂ: Tràn đầy khắp cả
PRAŚAKTA: Vui dính với
NAYA NAYA: Lý thú, giáo nghĩa bên trong bên ngoài
HAṂ CIRA ADHIṢṬHĀNA SAṂBHOGA: Từ lâu xa tôi đã gia trì Báo Thân
AṂ: Thành tựu
SANA: Từ thời cổ đại
ALAYA ALAYA: không có ngừng nghỉ, chẳng diệt
DHARMĀGRA: Sự thượng diệu bậc nhất của Pháp
DHARA DHARA: Gia trì, gia trì
JAYA JAYA: Thắng, Tôn Thắng
HŪṂ HŪṂ: Khủng bố hai chướng bên trong bên ngoài
DHAMA DHAMA: Khiến cho dung hóa hai chướng bên trong bên ngoài
SVĀHĀ : Quyết định thành tựu].
Đức Phật bảo: “Nếu có người nghe Pháp Đà La Ni này thì trải qua vô số kiếp gây
tạo tội thảy đều trừ diệt hết, cũng hay làm khô cạn biển lớn Phiền Não, tồi hoại núi cao
Ngã Kiến. Ví như có người gặp trăm ngàn Đức Phật , trải qua vô biên kiếp gây tạo căn
lành cũng chẳng bằng công đức của Chân Ngôn này.
Đại Đà La Ni này là biển Đại Công Đức Viên Mãn của tất cả Như Lai Tâm để có
thể sinh ra Bồ Đề Trí Chủng (Hạt giống Trí Bồ Đề) thành tựu Nhất Thiết Trí Địa mà
các Phật Pháp chẳng thể bằng. Tên Hiệu của Đà La Ni này, giả sử trăm ngàn na do tha
câu chi kiếp cũng khó được nghe.
Nếu có người đối với Kinh Điển này , thọ trì đọc tụng, cung kính cúng dường thời
chúng sinh của nhóm ấy khéo giải Tổng Trì, hay làm sống Tuệ Mệnh, trụ Như Lai Vị,
thành tựu tất cả công đức.
Nếu có người đọc tụng Kinh này một biến, hai biến cho đến ba biến thì người ấy
được công đức tối thượng. Hay diệt tất cả tội, hay chặt đứt tất cả phiền não, lại được
gặp thẳng chư Phật, chẳng nhận tất cả lo buồn khổ não.
Nếu ở nơi vắng lặng, dưới gốc cây đơn độc, một lòng trì tụng thì người ấy được
Pháp thành tựu tất cả, mọi người yêu kính.
Nếu có người ở rừng vắng rộng lớn, ngồi Kiết Già, tụng Kinh Điển này đủ 7 biến
thì chẳng bao lâu người ấy được Đại Thiền Định, cắt đứt tất cả phiền não, lại được Phổ
Hiền Bồ Tát ngồi Kiết Già hiện ra trước mặt.
Nếu có người tùy theo khả năng dùng hương hoa cúng dường, tụng Đà La Ni này
cho đến lúc mệt mỏi nằm ngủ thì ở trong mộng thấy Phổ Hiền Bồ Tát duỗi bàn tay
phải, tỏa ánh hào quang của Pháp rưới chiếu thân tâm và nói rằng: “Lành thay! Lành
thay Phật Tử! Như Lai Đại Mạn Noa La chuyển thân mà được Đại Bồ Tát Vị ” thân
tâm an lạc, đủ Đại Phước Đức Trí Tuệ, thường thấy Phổ Hiền Bồ Tát Ma Ha Tát”
_Cuối bản Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán (Đại Tạng Kinh, tập 10, No.297) do
Tam Tạng Sa Môn Bất Không dịch có ghi nhận bài Tốc Tật Mãn Phổ Hiền Hạnh
Nguyện Đà La Ni là: 92
“Nương ma tất-đế-lý dã, địa-vĩ ca nam (1) đát đà nghiệt đá nam (2) Án (3) a
tuất phộc la, vĩ nghĩ nễ, sa-phộc ha (4)”
ᚼᜃ 㭿㯞ᗙ㪤 ᝌ⇀ ᚌᚙᗰ㏯㪤
㛸 ㅥ㫾 ᜩ ᜪᗱ㗍 㛿
NAMAḤ STRIYA-DHVIKĀNĀṂ TATHĀGATĀNĀṂ (Kính lễ chư Như Lai
ba đời)
OṂ (Nhiếp triệu)_ ASU-VĀRA (sự thắng diệu của sinh mệnh) VIGĀNA (Chán
ghét điều ác) SVĀHĀ (thành tựu sự tốt lành)
Mỗi ngày tụng Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện, sau đó liền tụng Chân Ngôn này.
Vừa mới tụng một biến thì Hạnh Nguyện của Phổ Hiền thảy đều viên mãn Nhân của
Tam Ma Địa, mau được Tam Muội hiện tiền, hai loại trang nghiêm: Phước Đức, Trí
Tuệ được Pháp bền chắc, mau chóng thành tựu.
_Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quyển 7, phẩm 28: Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến
Phát ghi chép rằng:
Khi ấy Bồ Tát Phổ Hiền bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Năm trăm năm sau, ở trong
đời Ác Trược, nếu có người thọ trì Kinh Điển đó thì con sẽ thủ hộ, trừ suy hoạn của
người ấy khiến cho được an ổn, khiến cho không có kẻ rình tìm có được dịp thuận tiện
để gây hại. Hoặc Ma (Māra), hoặc con của Ma (Māra-putra), hoặc Ma nữ, hoặc Ma
dân, hoặc kẻ bị Ma nhiếp dính, hoặc Da Xoa (Yakṣa), hoặc Cưu Bàn Trà
(Kuṃbhaṇḍa), hoặc Tỳ Xá Xà (Piśāca), hoặc Cát Già (Cchaya), hoặc Phú Đan Na
(Pūtana), hoặc Vi Đà La (Vetala), các loài gây phiền não cho con người… đều chẳng
được dịp thuận tiện gây hại
Ngưới đó, hoặc đi hoặc đứng mà đọc tụng Kinh này. Lúc đó Con cỡi Bạch Tượng
Vương sáu ngà, cùng với chúng Đại Bồ Tát đều đi đến chỗ của người ấy, rồi tự hiện
thân cúng dường thủ hộ, an ủi Tâm của người ấy, cũng làm cúng dường Kinh Pháp
Hoa.
Người đó, nếu ngồi suy nghĩ Kinh này. Khi ấy con lại cỡi Bạch Tượng Vương,
hiện trước mặt người ấy. Nếu người ấy đối với Kinh Pháp Hoa có quên mất một câu,
một bài Kệ thì con sẽ dạy bảo cho, cùng nhau đọc tụng khiến cho thông lợi trở lại. Lúc
đó người thọ trì đọc tụng Kinh Pháp Hoa được thấy Thân của con, rất ư vui vẻ, chuyển
phục tinh tiến. Do nhìn thấy con cho nên liền được Tam Muội (Samādhi) với Đà La
Ni (Dhāraṇī) trên là Tuyền Đà La Ni, Bách Thiên vạn ức Tuyền Đà La Ni, Pháp
Âm Phương Tiện Đà La Ni. Được nhóm Đà La Ni như vậy
Thế Tôn! Nếu đời sau này, sau năm trăm năm, trong đời ác trược. Tỳ Kheo, Tỳ
Kheo Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, người tìm cầu, người thọ trì, người đọc tụng, người
viết chép…muốn tu tập Kinh Pháp Hoa đó. Ở trong 21 ngày nên một lòng tinh tiến, đủ
21 ngày xong thì con sẽ cỡi con voi trắng sáu ngà cùng với vô lượng Bồ Tát, tự vây
quanh. Dùng Thân mà tất cả chúng sinh đã vui thấy, hiện trước mặt người ấy vì họ nói
Pháp, dạy bày lợi hỷ, cũng ban cho Đà La Ni Chú ấy. Do được Đà La Ni đó cho nên
không có loài Phi Nhân nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ gây loạn
hoặc, Thân của con cũng tự thường hộ giúp người đó. Nguyện xin Đức Thế Tôn lắng
nghe con nói Đà La Ni Chú này”
Liền ở trước mặt Đức Phật, rồi nói Chú là:
“A đàn địa (1) đàn đà bà địa (2) đàn đà bà đế (3) đàn đà cưu xá lệ (4) đàn đà
tu đà lệ (5) tu đà lệ (6) tu đà la bà để (7) phật đà ba thiên nỉ (8) tát bà đà la ni, a
bà đa ni (9) tát bà bà sa, a bà đa ni (10) tu a bà đa ni (11) tăng già bà lý xoa ni
(12) tăng già niết già đà ni (13) a tăng kì (14) tăng già ba già địa (15) đế lệ a nọa 93
tăng già đâu lược, a la đế bà la đế (16) tát bà tăng già tam ma địa già lan địa (17)
tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế (18) tát bà tát đỏa, a nậu lâu đà kiều xá lược, a
(Nậu) già địa (19) tân a tỳ cát lợi địa đế (20)”
ㅥᚤ㕡᙮ ᚤⴤ㙝ᚎ ᚤⴥ㙝㜿㍅ ᚤⴤᗜ㗣ᜢ ᚤⴤ㫾ᚱᜒ 㫾ᚱᜒ 㫾ᚱ㇂ㆼᚎ
㳆㛰 ㆼᢴᛂ ᝌ㎉ᚱ㇂ᚂ ㅦ㙝㜿㍅ ᝌ㎉᛭ᣁテ㜿㍅ 㫾㖄㙝㜿㍅ ᗼ ㆼᜓᝤᚂ
ᗼ ㍅₡ᚌ㍅ ㅥᗶ ᗱㆼᗰᚒ ᦦㅥ㭤ᗰ ᚐᢜ ᧡〜 ᝌ㊱ ᗼ ᝌᛸᚎ ᣱⵂ
ᝌ㊱ ᚰ↜ ㆼᜓᝦᚒ ᝌ㏜ᝌᲰ ᜔ᚌ ᗡ㗣ᢝᛀᗰᚒ 㭄ナ ᜪᣳᙪᚒ 㛿
Adaṇḍe daṇḍavati daṇḍāvartani daṇḍakuśale daṇḍa-sudhāri, sudhāri
sudhārapati buddha paśyane, sarva dhāraṇi āvartani, sarva bhāṣyāvartani, su-
āvartani, saṃgha parīkṣaṇi, saṃgha nirghātani asaṃge, saṃgāpagate, tri-
adhva-saṃga tulya prāpta, sarva saṃgha samati krānte, sarva dharma
suparīkṣite, sarva satva ruta kauśalya, anugate siṃha vikrīḍite, svāhā
[Adaṇḍe: Bên trong cây Quyền Trượng chẳng sinh chẳng diệt
daṇḍavati: Đầy đủ quyền trị phạt
daṇḍāvartani: Sự sinh hoạt của cây quyền trượng
daṇḍakuśale: Sự tốt lành của cây quyền trượng
daṇḍasudhāri: Khéo cầm giữ cây quyền trượng
sudhāri: Khéo gìn giữ
sudhārapati: Thiện Trì Chủ
buddha paśyane: Đức Phật xem xét thấy
sarva dhāraṇi āvartani: Tất cả Tổng Trì hồi chuyển
sarva bhāṣyāvartani: Hồi chuyển tất cả ngữ ngôn
su-āvartane: Khéo hồi chuyển
saṃgha parīkṣaṇi: Sự thực nghiệm của Hợp Chúng (tăng già)
saṃgha nirghātani asaṃge saṃgāpagate tri-adhva-saṃga: Hợp Chúng
(tăng già) không có đấu tranh, xa lìa sự đấu tranh, sự đấu tranh của ba đời
tulya prāpta sarva saṃgha samati krānte: Giống như đắc được bước đi trong
Tính bình đẳng của tất cả Hợp Chúng (tăng già)
sarva dharma suparīkṣite: Khéo đã thành nghiệm tất cả Pháp
sarva satva ruta kauśalya anugate siṃha vikrīḍite: Khéo léo dùng ngôn
ngữ của tất cả Hữu Tình, thuận theo Sư Tử Thần Biến
svāhā: Quyết định thành tựu]
Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát được nghe Đà La Ni đó, thời nên biết là sức Thần Thông
của Phổ Hiền. Nếu Kinh Pháp Hoa lưu hành trong cõi Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa), có
người thọ trì thì nên tác niệm này: “Đều là sức Uy Thần của Phổ Hiền”
Nếu có người thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ chính đúng, hiểu nghĩa thú ấy, như
Thuyết tu hành thì nên biết người đó thực hành Hạnh Phổ Hiền (Samanta-bhadra-
caryā), ở trong chỗ của vô lượng vô biên chư Phật gieo trồng căn lành thâm sâu, được
các Như Lai dùng bàn tay xoa đỉnh đầu.
Hoặc chỉ cần viết chép thì người đó khi mệnh chung sẽ sinh lên cõi Trời Đao Lợi,
khi ấy tám vạn bốn ngàn vị Thiên Nữ (Apsara) tấu mọi kỹ nhạc đi đến nghênh đón,
người ấy liền đội cái mão bảy báu, ở trong nhóm Cung Nữ vui đùa khoái lạc, huống
chi là người thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ chính đúng, hiểu nghĩa thú ấy, như Thuyết tu
hành.
Nếu có người thọ trì, đọc tụng, hiểu nghĩa thú ấy. Khi người đó mệnh chung thời
được chư Phật trao vào bàn tay, khiến cho chẳng sợ hãi, chẳng bị rơi vào nẻo ác, liền đi
đến chỗ của Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) trên cõi Trời Đâu Suất (Tuṣita). Bồ Tát Di Lặc 94
với chúng Đại Bồ Tát có 32 tướng cùng nhau vây quanh, có trăm ngàn vạn ức vị Thiên
Nữ làm quyến thuộc, rồi sinh trong cõi ấy.
Có Công Đức lợi ích của nhóm như vậy, thế nên người có Trí cần phải một lòng
tự viết, hoặc sai người viết, thọ trì, đọc tụng, nghĩ nhớ chính đúng, như Thuyết tu hành.
Thế Tôn! Nay con dùng sức Thần Thông ủng hộ Kinh đó, sau khi Đức Như Lai
nhập diệt, bên trong cõi Diêm Phù Đề sẽ rộng khiến cho lưu bố, khiến chẳng bị đoạn
tuyệt”
_Phổ Hiền Bồ Tát Diên Mệnh Thủ Ấn:
Hai tay đều nắm Kim Cương Quyền, duỗi giương hai ngón trỏ, đem ngón trỏ
phải đè ngón trỏ trái. Cả hai cùng móc kết nhau rồi để ở đỉnh đầu.
Ngón trỏ trái (Phong) là Tức Phong (gió của hơi thở) sinh diệt của Phàm Phu.
Ngón trỏ phải (Phong) là Mệnh Phong (Gió của sinh mệnh) Kim Cương Bất Hoại của
cõi Phật. Cả hai cùng móc kết nhau tức biểu thị cho gió sinh mệnh bị chia chặt của
chúng sinh hòa với Đệ Nhất Mệnh thường trụ của Như Lai, kết hợp tiến vào bờ mé vốn
chẳng sinh tức là chúng sinh chư phật là Kim Cương Thọ Mệnh của Nhất Như để
thành tựu Diên Mệnh (sống lâu)
[Chân Ngôn]
“Án (1) phộc nhật la dụ sái (2) hồng hồng (3) thi khí (4) toa ha (5)”
㫘 ㉷᥅ᜈᝆ 㜪㜪 ᜶ᗦ 㛿
OṂ_ VAJRĀYUṢE HŪṂ HŪṂ ŚIKHI SVĀHĀ
95
Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh_ Tập 55_ No.914
PHỔ HIỀN BỒ TÁT PHÁT NGUYỆN VĂN
Hán văn: Thiên Đài Trí Khải Đại Sư soạn
Việt dịch: HUYỀN THANH
Cúi lậy tất cả chư Phật ba đời ở mười phương.
Nguyện chứng biết cho con (họ tên là….).
Hết thảy tất cả Ba La Mật Hạnh của chư Phật, ngày nay con sẽ như điều ấy tu
học. Nguyện xin chư Phật Như Lai Từ Bi thương nhớ.
Con nguyện đối với Tâm Bồ Đề được sức bền chắc to lớn. Ở trong Pháp của chư
Phật chẳng thể nghĩ bàn, được sức tin sâu xa. Ở trong Đa Văn, được sức chẳng quên. Ở
trong sinh tử qua lại, được sức không có mệt mỏi. Ở trong các chúng sinh, được sức
Đại Bi bền chắc. Ở trong Bố Thí, được sức buông xả bền chắc. Ở trong Trì Giới, được
sức chẳng hoại. Ở trong Nhẫn Nhục, được sức nhận chịu bền chắc. Loài Ma chẳng thể
hoại được sức Trí Tuệ. Ở trong Pháp thâm sâu, được sức tin vui.
Một là: Nguyện con ở tất cả nơi sinh ra, trong tất cả Pháp thường được cúng
dường tất cả chư Phật mười phương, tận bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Hai là: Nguyện con thọ trì biển Pháp thâm sâu của Như Lai, liền tự mình hiểu rõ,
chẳng do người khác mà ngộ, tận bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Ba là: Chư Phật ngồi ở chốn Đạo Trường. Nguyện con ở bên trong, làm Tác
Nhiếp Thượng Thủ thỉnh chuyển bánh xe Pháp, độ thoát chúng sinh, tận bờ mé vị lai
không có ngưng nghỉ.
Bốn là: Nguyện con tu hành tất cả Nguyện rộng lớn vô biên của các Bồ Tát, tận
bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Năm là: Nguyện con giáo hoá tất cả chúng sinh: sinh từ trứng (noãn sinh), sinh từ
bào thai (thai sinh), sinh từ chỗ ẩm ướt (thấp sinh), sinh từ sự biến hoá (hoá sinh) thảy
đều khiến vào Vô Dư Niết Bàn, tận bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Sáu là: Nguyện con sinh vào các cõi Phật như đối trước mắt, tận bờ mé vị lai
không có ngưng nghỉ.
Bảy là: Nguyện con nghiêm tịnh biển cõi nước thâm sâu của các Phật Như Lai,
tận bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Tám là: Nguyện con cùng với tất cả các Bồ Tát đồng hành, tập các căn lành, tận
bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
Chín là: Nguyện hết thảy Nghiệp thân miệng ý của con, nếu chúng sinh thấy nghe
đều được lợi ích như vua cây thuốc (Dược thụ vương) không có sự tiếp đãi thiếu sót,
tận bờ mé vị lai không có ngưng nghỉ.
96
Mười là: Nguyện con ở trong tất cả Đạo nhỏ như hạt bụi thành Chính Đẳng
Giác, chuyển bánh xe Đại Pháp, độ thoát chúng sinh, tận bờ mé vị lai không có ngưng
nghỉ.
_”Này Phật Tử ! Nếu hay phát mười Nguyện lớn này thì trăm vạn a tăng chi
Nguyện Môn thảy đều thấy phát.
Nguyện đem Thệ Nguyện rộng lớn này, mọi loại căn lành...hồi hướng cho tất cả
chúng sinh. Nguyện đều lìa hẳn nỗi khổ trong ba đường ác, đầy đủ Hạnh Nguyện của
Phổ Hiền Bồ Tát.
Ta lại đem căn lành này hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cầu quả báo của
Thế Gian, Nhị Thừa.
Ta lại đem căn lành này hối hướng đến biển Chân Như Pháp Giới, Chân Như Vô
Diệt, Vô Lậu, Vô Vi chẳng thể phá hoại”
Nguyện cho căn lành của con cũng lại như vậy. Như chư Phật ba đời hồi hướng,
con cũng hồi hướng như vậy.
_ Hồi Hướng xong, quy mệnh lễ Tam Bảo.
_Hết_
97
QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
Quán Thế Âm Bồ Tát, tên Phạn là Avalokiteśvara, trong đó AVA: có nghĩa là
phía bên dưới, LOKITA: có nghĩa là nhìn thấy, trông thấy, xem xét kỹ lưỡng,
ĪŚVARA: có nghĩa là Tự Tại, vị Chúa Tể, bậc có quyền hành xử mọi việc một cách tự
do .
AVALOKITA ĪŚVARA được viết gọn thành AVALOKITEŚVARA nên dịch
nghĩa là Quán Tự Tại. Và đây cũng là tên gọi chính xác nhất của vị Bồ Tát này
AVALOKITEŚVARA là vị Bồ Tát thực hành Trí Tuệ Bát Nhã thâm sâu, quán
sát đốí tượng Đương Thể Tức Không và không bị một chướng ngại bởi các yếu tố giả
hợp tạo thành cái ảo tưởng của đương thể nên được gọi là Quán Tự Tại
Theo ý nghĩa khác, Bồ Tát Avalokiteśvara quán sát tất cả các Pháp tự do tự tại,
tất cả Công Đức hợp với chúng sinh khiến cho họ xa rời bể khổ đạt đến sự an vui phỉ
lạc nên Ngài được xem là “Bậc có uy lực xem xét và bảo hộ chúng sinh một cách tự
tại ” nên Ngài có tên là Quán Tự Tại .
Một danh tự khác của Bồ Tát này là LOKEŚVARA trong đó LOKA là thế gian
và ĪŚVARA là Tự Tại hay là vị Chúa Tể nên LOKEŚVARA được dịch là Thế Tự
Tại hoặc là vị Chúa Tể của Thế Gian. Lokeśvara là vị Bồ Tát quán rõ các Pháp Thế
Gian là huyễn hoá đồng thời điều dụng được toàn bộ Danh Pháp của Thế Gian một
cách vô ngại nên đạt quả Tự Tại. Lại nữa, do Ngài quán biết căn cơ của chúng sinh nên
sự giáo hóa được tự tại. Vì vị Bồ Tát này có đầy đủ BI TRÍ, LÝ SỰ vô ngại nên có
tên là Quán Tự Tại.
_ Trong quyển 1 của “Chú Duy Ma Cật Kinh”, Ngài Cưu Ma La Thập từng
nêu ra rằng: “Đời có nguy nạn, xưng tên tự quy, Bồ Tát quán sát âm thanh đó liền được
giải thoát. Cũng gọi là Quán Thế Niệm, cũng tên là Quán Tự Tại vậy.” Y theo đây có
thể biết Ngài Cưu Ma La Thập cũng thừa nhận bên trong Hồng Danh “Quán Thế
Âm” đã hàm chứa nghĩa “Quán Tự Tại.”
_ Trong quyển thượng “Bát Nhã Tâm Kinh U Tán”, Đại Sư Khuy Cơ cho rằng
“Quán” nghĩa là chiếu soi, tức Trí Tuệ thông đạt Không Hữu. “Tự Tại” nghĩa là tùy ý
nhận làm tức là Thắng Quả của Sở Đắc. Quá khứ rộng hành sáu Độ, hiện tại được
chứng Quả trọn vẹn, Tuệ Quán là trước tiên thành được mười loại Tự Tại.
Mười Tự Tại là:
1) Thọ Tự Tại: Hay kéo dài bảo vệ tính mạng.
2) Tâm Tự Tại: chẳng nhiễm ở sinh tử.
3) Tài Tự Tại: Hay theo ý vui thích mà hiện, do Sở Đắc của Bố Thí.
4) Nghiệp Tự Tại: Chỉ làm việc lành và khuyên người khác làm lành.
5) Sinh Tự Tại: Tùy theo ý muốn hay hướng tới, do Sở Đắc của Giới Hạnh.
6) Thắng Giải Tự Tại: Hay tùy theo sự ham muốn Biến Hiện, do Sở Đắc của An
Nhẫn.
7) Nguyện Tự Tại: Tùy theo Quán nơi vui vẻ mà thành tựu, do Sở Đắc của Tinh
Tiến.
8) Thần Lực Tự Tại: Bắt đầu Tối Thắng Thần Thông, do Sở Đắc của Định lực.
9) Trí Tự Tại: Thuận theo lời nói âm thanh Trí Tuệ.
10) Pháp Tự Tại: Vào Khế Kinh …. Do Sở Đắc của Trí Tuệ.
Ngài Khuy Cơ lại cho rằng, địa vị của Quán Thế Âm Bồ Tát là Bổ Xứ Bồ Tát, tu
đạo thành Chứng Đẳng Giác, có đầy đủ Thắng Quả của mười loại Tự Tại kể trên, cho
nên có tên là “Quán Tự Tại.” 98
_ Do vị Bồ Tát này lấy bản nguyện Từ Bi cứu giúp chúng sinh nên có tên là Đại
Bi Tâm Giả (Mahā Kāruṇika), hay Đại Bi Thánh Giả (Ārya-mahā-kāruṇika)
_ Do Ngài cầm hoa sen là biểu tượng cho Trí thanh tịnh hay Diệu Pháp nên có
tên là Liên Hoa Thủ Bồ Tát (Padma-pāṇi-bodhisatva).
_ Do quán sát và thực hành Pháp môn Không Hai nên có tên là Bất Nhị Bồ Tát
(Advaita-bodhisatva)
_ Do hành trì năm Pháp Quán (Chân Quán, Thanh Tịnh Quán, Quảng Đại Trí
Tuệ Quán, Bi Quán, Từ Quán) mà hiện rõ ánh sáng thanh tịnh vô cấu nhiễm tức là ánh
sáng của Trí Tuệ hay phá các ám tối phiền não nhờ đó mà hàng phục được Bản Tâm
cho nên mới có thể đem Trí quang minh mà soi khắp các cõi để cứu khổ cho chúng
sinh. Đấy là biểu thị cho sự diệu dụng , lợi tha , do vậy Ngài có tên là Quang Âm Bồ
Tát (Abhāsvara Bodhisatva) với Abhā là ánh sáng (Quang) svara là âm thanh, tiếng
(Âm)
_ Do công hạnh quán sát tất cả các tiếng kêu cứu của mọi chúng sinh trong cõi
Ta Bà (Sāhaloka-dhātu) để kịp thời cứu độ nên Ngài có tên Quán Thế Âm Bồ Tát
(Avalokita-lokasvara-bodhisatva)
_ Do luôn hành trì Công Đức của Trí tuệ Bát Nhã nên có tên là Bát Nhã Bồ Tát
(Prajñā-bodhisatva)
_ Do Ngài luôn đem lại sự không sợ hãi và ban cho sự an ổn đến các chúng sinh
nên có tên là Thí Vô Úy giả (Abhayaṃdāda)
_ Do Ngài dùng ba Pháp Văn Tuệ (Śrutimayo Prajñā), Tư Tuệ (Cintāmayò
Prajñā), Tu Tuệ (Bhāvanāmayò Prajñā) làm cho Nhĩ Căn Viên Thông nên có tên là
Quán Âm Bồ Tát (Avalokitasvara-bodhisatva)
_ Trong Kinh A Di Đà quyển thượng, Kinh Vô Lượng Thọ quyển thượng và
Kinh Quán Âm Thọ Ký đều dùng hồng danh Thánh Quán Thế Âm (Ārya
Avalokitasvara) để chỉ vị Nhất Bổ Xứ Bồ Tát hầu cận Đức Phật A Di Đà (Amitābha-
buddha) tại Thế Giới Cực Lạc (Śukha-vatī-lokadhātu) ở phương Tây của cõi Ta Bà.
Vị Bồ Tát này thường cùng với Bồ Tát Đại Thế Chí (Mahā-sthāma-prāpta) phụ giúp
Đức Phật giáo hóa chúng sinh trong cõi Tịnh Độ ấy và ba Tôn này được hợp xưng là
Tây Phương Tam Thánh
99
_Theo sự ghi nhận của Kinh Quán Âm Tam Muội và Kinh Thiên Thủ Thiên
Nhãn Đại Bi thì Quán Âm Bồ Tát có sức uy thần chẳng thể tư nghị, ở vô lượng kiếp
trước đã thành Phật rồi, hiệu là Chính Pháp Minh Như Lai (Samyak-dharma-vidya-
tathāgata) Nay vì nguyện lực Đại Bi mới thị hiện thân Bồ Tát để cứu khổ chúng sinh .
_Trong Kinh Pháp Hoa quyển 7 và Kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm
quyển 6 có ghi:“Vị Bồ Tát này ở khắp mọi nơi, mọi đất nước. Hiện đủ loại thân tướng,
ứng với căn cơ của chúng sinh để hóa độ” cho nên còn gọi là các Ứng Hoá Thân Bồ
Tát.
_Phật Giáo Đông Độ nhận định rằng: Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo Chủ của
Thế Giới Sa Bà (Sāha-loka-dhātu) hiện tại. Bồ Tát Quán Thế Âm (Avalokiteśvara) có
hạnh nguyện Đại Bi (Mahā-kāruṇa) luôn quán sát lắng nghe âm thanh cầu cứu của
chúng sinh liền hóa hiện vô số Hóa Thân đến cứu khổ. Bồ Tát Địa Tạng (Kṣiti-garbha)
đã nhận lời phó chúc của Đức Phật Thích Ca, ở trong thời đại không có Phật cho đến
lúc Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) thành Đạo, Ngài sẽ làm vị Bồ Tát tự thề cứu độ hết
chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi ở cõi Sa Bà này thì mới thành tựu Nguyện
(Praṇidhāna) của mình. Vì thế mới thiết lập tượng thờ Đức Phật Thích Ca chung với
hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Địa Tạng và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh (hay Ta Bà
Tam Thánh).
_ Trong hệ thống Thuần Mật của Mật Giáo thì Đức Quán Thế Âm Bồ Tát được
nhận định qua nhiều hình tượng và danh từ khác nhau.
*) Căn cứ vào Thai Tạng Giới Man Đà La (Garbha-dhātu-maṇḍala) thì vị Bồ
tát này được an vị trong các viện: Trung Đài Bát Diệp viện, Biến Tri viện, Quán Âm
viện, Thích Ca viện, Văn Thù viện , Hư Không Tạng viện, Tô Tất Địa viện. Tùy theo
vị trí được an lập, vị Bồ Tát này biểu thị cho các phẩm Đức khác nhau. 100
+ Trong Trung đài bát diệp Viện: Vị Bồ Tát này biểu thị cho Tịnh Đức là Đức
thứ tư trong 4 Đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Hoặc biểu thị cho hạnh chứng ngộ Tâm
Bồ Đề là một trong 4 hạnh của Như Lai là Phát Tâm Bồ Đề, Tĩnh Tâm Bồ đề, Chứng
Ngộ Tâm Bồ Đề, Nhập Tâm Bồ Đề.
Tôn Hình: Thân hiện màu thịt trắng, tay trái để trước ngực thành Thí Vô Úy Ấn,
tay phải cầm hoa sen, đầu đội mão báu, trên mão có Vô Lượng Thọ Như Lai
Tôn này có Mật Hiệu là: Chính Pháp Kim Cương
+ Trong Biến Tri Viện : Vị Bồ tát này được nhận biết qua danh hiệu Chuẩn Đề
Phật Mẫu (Cuṅdhe-buddha-mātṛ) biểu thị cho Tĩnh Đức và là Mẫu của tất cả các Tôn
thuộc Liên Hoa Bộ trong PHẬT BỘ.
Tượng Chuẩn Đề Phật Mẫu với thân màu trắng vàng, ngồi Kiết Già trên hoa
sen, thân tỏa hào quang tròn có dính hạt thóc nhẹ như áo của 10 Ba La Mật Bồ Tát,
phía trên bên dưới đều tác màu trắng. Lại góc áo khoác ngoài (Thiên Y) có quấn anh
Lạc, đội Mão Trời, cánh tay đều đeo vòng xuyến. Đàn Tuệ (2 bàn tay) đều đeo vòng
báu. Mặt Tượng ấy có 3 mắt, 18 cánh tay.
Hai tay bên trên tác tướng Thuyết Pháp
Bên phải: Tay thứ hai tác Thí Vô Úy, tay thứ ba cầm cây Kiếm, tay thứ tư cầm
vòng hoa báu, lòng bàn tay thứ năm cầm Cụ Duyên Quả, tay thứ sáu cầm cây Búa, tay
thứ bảy cầm Móc Câu, tay thứ tám cầm chày Kim Cương, tay thứ chín cầm Tràng Hạt.
Bên trái: Tay thứ hai cầm cây Phướng báu Như Ý, tay thứ ba cầm Hoa Sen
hồng hé nở, tay thứ tư cầm Quân Trì, tay thứ năm cầm Sợi Dây, tay thứ sáu cầm Bánh 101
Xe, tay thứ bảy cầm Thương Khư (Śaṅkha_Vỏ ốc), tay thứ tám cầm Hiền Bình, tay
thứ chín cầm rương Kinh Bát Nhã”
Tôn này có Mật Hiệu là Tối Thắng Kim Cương
+ Trong Văn Thù Viện : Vị bồ Tát này biểu thị cho Đức Quyền Trí
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái cầm hoa sen, tay phải ngửa lòng bàn tay
úp trên đùi phải, ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Chính Pháp Kim Cương
102
+ Trong Thích Ca Viện : Vị Bồ Tát này biểu thị cho Đức Chân Tướng
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm cây phất trắng, tay trái chống eo,
đứng thẳng trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Thanh Tịnh Kim Cương , hoặc Chính Pháp Kim Cương
+ Trong Hư Không Tạng Viện : Vị Bồ Tát này được nhận biết qua danh hiệu
Thiên Thủ Quán Thế Âm, biểu thị cho Đức Pháp Tài.
Tôn Hình: Thân có 27 đầu mặt, một ngàn cánh tay trong đó có 40 tay cầm khí
trượng. Ngồi trên hoa sen báu.
103
+ Trong Tô Tất Địa Viện : Vị Bồ Tát này được nhận biết qua danh hiệu Thập
Nhất Diện Quán Thế Âm, biểu thị cho dụng của TỪ BI.
Tôn Hình: Thân có 4 cánh tay, ngồi xếp bằng trên Hoa Sen, hai bên mặt chính
đều có 1 mặt, bên trên có 5 mặt, lại ở trên nữa có 3 mặt, hợp với mặt chính nên thành
11 mặt . Bên phải tay thứ nhất Kết Thí Vô Úy Ấn, tay thứ hai cầm Tràng Hạt. Bên trái
tay thứ nhất cầm Hoa Sen, Tay thứ hai cầm bình Quân Trì.
+ Tại Quán Âm Viện: Quán Thế Âm Bồ Tát được xưng là Quán Tự Tại Bồ Tát
là Chủ Tôn của viện này
Viện này có vị trí ở phương Bắc của Trung Đài Bát Diệp Viện. Lại xưng là Liên
Hoa Bộ Viện, Pháp Bộ Viện
Viện này đại biểu cho Lý Đức “Chúng sinh vốn có đủ tâm Tịnh Bồ Đề”. Tức
biểu thị cho Diệu Đức Đại Bi Tam Muội của Như Lai, hoặc Diệu Quán Sát Trí là
một trong năm Trí của Như Lai.
Do trong thân chúng sinh vốn có đủ Lý Thanh Tịnh của Tâm Tịnh Bồ Đề. Tuy ở
tại 6 nẻo, 4 loài, Thế Giới mê vọng… bị luân chuyển trong bùn dơ sinh tử nhưng Tâm
Tịnh Bồ Đề vốn có đủ ấy vẫn chẳng bị nhiễm chẳng bị dơ, giống như hoa sen xuất ra
từ bùn dơ mà chẳng bị nhiễm dính, vì thế được xưng là Liên Hoa Bộ Viện
Lại nữa, do Tam Muội Đại Bi của Như Lai hay làm cho rạng rỡ tươi tốt muôn điều
lành giúp cho chúng sinh tự thấu ngộ bản Tâm thanh tịnh không cấu nhiễm vốn có của
mình nên được gọi là Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya)
Vì Viện này đại biểu cho dụng của Diệu Quán Sát Trí (Pratyavekṣana-jñāna) là
sự quán tưởng của Trí xem xét mọi tướng chung, tướng riêng của các Pháp mà không
hề bị ngăn ngại cho nên được xưng là Pháp Bộ (Dharma-kulāya) 104
Viện này có 37 Tôn gồm 21 Tôn Chủ và 16 Tôn bạn thuộc nhóm Đại Thế Chí
(Mahā-sthāma-prāpta).
_ Hàng thứ nhất (từ phải qua trái, từ trên xuống dưới):có 10 Tôn
1_ Liên Hoa Bộ Phát Sinh (ᝌ)
2_ Đại Thế Chí ()
3_ Tỳ Câu Đê ()
4_ Sứ Giả của Tỳ Câu Đê (ᚳ)
5_ Thánh Quán Âm (ᝌ)
6_ Sứ Giả của Thánh Quán Âm (ᨂ)
7_ Đa La (ᚖ)
8_ Sứ Giả của Đa La (ᚳ)
9_ Đại Minh Bạch Thân (ᝌ)
10_ Mã Đầu (㮌)
_ Hàng thứ hai (từ phải qua trái, từ trên xuống dưới): có 14 Tôn
1_ Đại Tùy Cầu (㛺))
2_ Ba sứ Giả của Đại Tùy Cầu (ᚳ) (ᚳ) (ᚳ)
3_ Tát Đỏa Bà Đại Cát Tường (ᝌ)
4_ Gia Du Đa La (ㆎ)
5_ Sứ Giả của Gia Thâu Đa La (ᚳ)
6_ Như Ý Luân (㜫)
7_ Sứ Giả của Như Ý Luân (㈦)
8_ Đại Cát Tường Đại Minh (ᝌ) 105
9_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Đại Minh ()
10_ Đại Cát Tường Minh (ᝌ)
11_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Minh (ᝢ)
12_ Tịch Lưu Minh (ᝌ)
_ Hàng thứ ba (từ phải qua trái, từ trên xuống dưới): có 13 Tôn
1_ Bị Diệp Y (ᝌ)
2_ Bạch Thân (ᝌ)
3_ Phong Tài (ᝌ)
4_ Sứ Giả của Phong Tài (ᚳ)
5_ Bất Không Quyến Sách (ᜀ)
6_ Sứ Giả của Bất Không Quyến Sách (ᚰ)
7_ Thủy Cát Tường (ᝌ)
8_ Hai Sứ Giả
_Bên trái: Đồ Hương Cúng Dường Sứ Giả (ᗰ)
_Bên phải: Thiêu Hương Cúng Dường Sứ Giả (㈦)
9_ Đại cát Tường Biến (ᝌ)
10_ Hai vị Sứ Giả (ᚳ) (ᚳ)
11_ Bạch Xứ (ᛒ)
1_ Liên Hoa Bộ Phát Sinh Bồ Tát ( Padma-kulodbhava):
Tôn này biểu thị cho việc Hành Giả bắt đầu tu tập hạnh Đại Bi đối với tất cả
chúng sinh, sinh ra mọi Công Đức Hóa Tha của Liên Hoa Bộ, để dần dần hoàn thiện
mọi tướng tốt của Báo Thân Phật, tức 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái để ngang ngực cầm hoa sen hé nở, tay phải để
ngang trái tim co ngón vô danh, ngồi yên trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Vô Tận Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) hay MO (ᜀ) 106
Tam Muội Gia Hình là:Hoa sen chưa nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㛱㪤㖁 ᝯ ᚯ ᜎ ᗢ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ - KṢAḤ DAḤ RA YAṂ KAṂ
2_ Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta):
Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta), dịch ý là Đắc Đại Thế, Đại Tinh Tiến.
Lược xưng là Thế Chí Bồ Tát.
Tôn này dùng ánh sáng Trí Tuệ chiếu khắp tất cả khiến cho chúng sinh lìa xa ba
nẻo ác, được sức vô thượng. Khi Tôn này bước đi thời tất cả đại địa đều chấn động cho
nên xưng là Đại Thế Chí.
Tôn này với Quán Thế Âm Bồ Tát cùng theo hầu Đức Phật A Di Đà tại Thế Giới
Cực Lạc, nên được xưng chung là Tây Phương Tam Thánh
Lúc còn ở Nhân Địa thời Đại Thế Chí Bồ Tát dùng Tâm niệm Phật mà nhập vào
Vô Sinh Nhẫn cho nên nay nhiếp chúng sinh niệm Phật ở Thế Giới Ta Bà (Sāha-loka-
dhātu) quy về Tịnh Thổ.
Tôn này hay khiến cho chúng sinh xa lìa ba Độc, được sức vô thượng.
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen mở khép, tay phải giương lòng bàn
tay co 3 ngón ở giữa (vô danh, giữa, trỏ) để trước ngực, ngồi yên trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Trì Luân Kim Cương
Chữ chủng tử là: SAṂ () hay SAḤ () 107
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa nở
Tướng Ấn là:Hư Tâm Hợp Chưởng
Hoặc Không Tâm Hợp Chưởng giống như hoa sen chưa hé nở.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᘶ ᘶ 㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ JAṂ JAṂ SAḤ_ SVĀHĀ
3_ Tỳ Câu Chi Bồ Tát (Bhṛkuṭi):
Tôn này là Hóa Thân của Thánh Mẫu Tārā, chủ về sự kính vâng theo Pháp Cứu
Độ thanh tịnh và nhằm chặn đứng sự tàn phá của Trí Đại Không (Mahā-śūnya-jñāna)
để hoàn thiện phước báu Diệu Hữu.
Tôn Hình: Thân màu thịt, có búi tóc hình mũ giống như đất giữ gìn vạn vật, chung
quanh kết bởi các báu, chính giữa có hình Đức Phật A Di Đà trụ tướng Thuyết Pháp.
Điều này biểu thị cho sự kính vâng theo Trí Tuệ Phổ Môn (Viśva-mukhe-jñāna) của
Như Lai để hoàn thiện Phước Đức.
108
Thân hình có 4 tay. Bên phải: Tay thứ nhất rũ xuống thành Ấn Dữ Nguyện, tay
thứ hai co ngửa lên cầm Tràng hạt .Bên trái: tay thứ nhất co lên cầm hoa sen, tay thứ
hai cầm Bình Quân Trì.
Mật Hiệu là: Định Tuệ Kim Cương (Ngoài ra còn có Mật Hiệu khác là: Giáng
Phục Kim Cương, Trừ Chướng Kim Cương)
Chữ chủng tử là: BHṚ () hay TRĀ (ᦥ)
Tam Muội Gia Hình là: chuỗi tràng hạt (Sổ Châu Man)
Tướng Ấn là: Tỳ Câu Chi Ấn. Chắp hai tay lại, giữa rỗng không, nhấc 2 Phong
Luân (2 ngón trỏ ) so le áp cùng nhau
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᝌ㛼 ᛬ᜄ ᦥᝌᚾ㖁 㜪 ⾌㪪ᜄ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SARVA BHAYA TRĀSANI HŪṂ
SPHAṬYA_ SVĀHĀ
4_ Sứ Giả của Tỳ Câu Chi (Phụng Giáo Sứ Giả: Pratihāri):
Tôn này Thị Giả của ở cạnh bên phải Tỳ Câu Chi, cầu xin hoàn chỉnh Phước Báu
Hữu Vi
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, tay phải đè bắp đùi, ngồi yên trên
hoa sen
109
Chữ chủng tử là :DHĪ (ᚳ)
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
5_ Thánh Quán Âm (Ārya-avalokiteśvara):
Lại xưng là Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát, Chính Quán Thế Âm Bồ Tát, Chính
Quán Âm. Là Bộ Chủ của Liên Hoa Bộ Viện tượng trưng cho Bản Nguyện dùng Từ Bi
cứu tế chúng sinh.
Quán Thế Âm Bồ Tát còn đại biểu cho Tâm Đại Bi của chư Phật, biểu tượng của
Ngài là hoa sen tượng trưng cho Trí thanh tịnh.
Nguyên Quán Thế Âm Bồ Tát cùng với Đức Phật A Di Đà chỉ là sự sai khác về
Nhân và Quả, Ngài là Nhân còn A Di Đà Phật là Quả, có Nhân ắt có Quả, Quả ấy
chứng tỏ chẳng trống rỗng (Bất Không) đồng thời biểu thị cho tức Nhân tức Quả ,
hiện bày Lý không hai của Nhân Quả, vì thế trong mão báu của Ngài có Đức Hóa Phật
A Di Đà và Ngài được xem là Chính Pháp Luân Thân của Đức Phật A Di Đà.
Tôn này biểu thị cho Đức Giải Thoát là một trong 3 Đức của Niết Bàn là Pháp
Thân Đức , Bát Nhã Đức, Giải Thoát Đức.
Tôn Hình:Thân màu thịt trắng, đầu đội mão báu, trên mão có Đức Vô Lượng Thọ
Như Lai, tay trái cầm hoa sen đỏ, tay phải hơi co các ngón tay cầm một cánh hoa sen
làm dạng bóc mở hoa sen, ngồi trên tòa hoa sen
Đức Vô Lượng Thọ Phật trong mão báu biểu thị cho Quả cuối cùng của Hạnh
Liên Hoa, tức là Trí Phương Tiện Phổ Môn của Như Lai 110
Hoa sen đỏ ở tay trái biểu thị cho Tâm sen (liên tâm) Bản Giác của chúng sinh bị
vô minh phiền não ràng buộc che lấp trong vô lượng kiếp, chẳng thể hé nở cho nên bị
chìm đắm trong biển khổ.
Tay phải làm thế bóc hoa tượng trưng cho ý nghĩa: dùng Công Đức Đại Bi làm
phương tiện để giải trừ sự Vô Minh mê vọng và giúp cho Tâm sen của chúng sinh tự
hé nở, tức là giác ngộ được Bản Tâm thanh tịnh vốn có của mình
Mật Hiệu là: Chính Pháp Kim Cương, Bản Tịnh Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) hay MO (ᜀ) hay HRĪḤ (㜫)
Tam Muội Gia Hình là: Sơ Cát Liên Hoa (hoa sen mới cắt)
Tướng Ấn là: Bát Diệp Ấn (Quán Tự Tại Ấn)
Hay Liên Hoa Bộ Tâm Ấn: Hai tay tác Nội Phộc, duỗi thẳng ngón cái phải, xưng
là Liên Hoa Bộ Tâm An
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᝌ㛼 ᚌᚙᗰᚍᜨᜤᗚᚌ ᗙ᜔ᚂ ᛸᜄ㖁 ᜐ ᜐ ᜐ 㜪
ᘷ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SARVA TATHĀGATA
AVALOKITA KĀRUṆI MAYA_ RA RA RA HŪṂ JAḤ_ SVĀHĀ
6_ Sứ Giả của Thánh Quán Âm (Liên Hoa Quân Trà Lợi: Padma-kuṇḍali):
Tôn này là Thị Giả ở bên cạnh phải của Thánh Quán Thế Âm Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu xanh, tóc như lửa mạnh dựng đứng, cầm hoa sen chưa nở,
mặc áo khoác ngoài (thiên Y), ngồi yên trên đài sen
111
Mật Hiệu là: Giáng Phục Kim Cương
Chữ chủng tử là: KU (ᗜ) hay BRAṂ (ᨂ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
7_ Đa La Bồ Tát (Tārā):
Còn gọi là Đa Lợi Bồ Tát, dịch ý là con mắt, con ngươi (đồng tử), Diệu Mục Tinh,
Cứu Độ
Tôn này lại được xưng là Đa La Tôn, Đa Lợi Tôn, là thân Hóa Hiện của Quán Thế
Âm cho nên cũng xưng là Đa La Tôn Quán Âm, Đa Lợi Quán Thế Âm.
Tārā là con mắt hay con mắt tĩnh diệu. Tôn này là một thân Hóa Hiện của Quán
Thế Âm được sinh ra bởi ánh quang minh phóng ra từ mắt của ngài. Tôn này luôn nhìn
tất cả chúng sinh giống như bà mẹ hiền theo dõi chăm sóc con thơ. Mục đích của Ngài
là cứu độ chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử. Do chủ về hai Đức đại Bi và hàng phục
nên Tôn này được xem là Phật Mẫu của Liên Hoa Bộ.
Tôn này có 21 loại Hóa Thân nên lại xưng là 21 Độ Mẫu.
Tôn Hình: Thân màu trắng xanh, mặc áo Yết Ma, đầu đội mão tóc, trên có vị Hóa
Phật, chắp hai tay lại, tay cầm hoa sen xanh, ngồi Bán Già trên tòa sen
112
Mật Hiệu là: Bi Sinh Kim Cương, Hạnh Nguyện Kim Cương
Chữ chủng tử là TĀ (ᚍ), hay TAṂ (ᚖ), hay TRA (ᦤ)
Tam Muội Gia Hình là hoa sen xanh
Tướng Ấn là: Thanh Liên Hoa Ấn. Hai tay tác Nội Phộc, nhấc 2 Phong Luân (2
ngón trỏ) giống như mũi kim nhọn, để 2 Hư Không Luân (2 ngón cái) lên Phong Luân
(ngón trỏ)
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᚍ ᚍᜒᚂ㖁 ᗙ᜔ᚈ㝂ᜮ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ TĀRE TĀRIṆI KĀRUṆA-
UDBHAVE_ SVĀHĀ
8_ Sứ Giả của Đa La (Tārā-ceṭi):
Tôn này là Thị Giả ở cạnh bên trái của Đa La Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu thịt, quỳ gối chắp hai tay lại, nâng hoa sen chưa nở
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là:Hoa sen chưa hé nở
113
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
9_ Đại Minh Bạch Thân Bồ Tát (Gaurī-mahā-vidya):
Tôn này là một trong 8 vị Minh Phi (Vidya-rājñi) có tên gọi là Ngạo Lý Minh Phi
(Gaurī: Bạch Y Nữ) nên đồng Thể với Bạch Y Quán Âm, biểu thị cho Tâm Bồ Đề
trắng tịnh.
Tôn Hình: Thân màu vàng lợt, tay phải co cánh tay kết Dữ Nguyện Ấn để trước
ngực, tay trái co khuỷu tay cầm hoa sen hé nở, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Thường Tịnh Kim Cương, Phóng Quang Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ), nghĩa là Đệ Nhất Nghĩa Đế chẳng thể đắc
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hé nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
114
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㛱㪤㖁 ᝯ ᚯ ᜎ ᗢ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ - KṢAḤ DAḤ RA YAṂ KAṂ
10_ Mã Đầu Minh Vương Bồ Tát (Hayagrīva):
Lại xưng là Mã Đầu Quán Âm, là một trong sáu vị Quán Âm hóa độ sáu nẻo. Là
thân Hóa cứu độ chúng sinh trong nẻo súc sinh của Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tôn này là một hiện thân của Quán Thế Âm với hình dáng to lớn , tóc dựng đứng
lên, đôi mắt đầy phẫn nộ. Tôn tượng có 3 mặt, mỗi mặt có 3 mắt. Hiện tướng lộ 2 nanh
cong lên hai bên mép miệng. Trên đỉnh trán của mặt chính có hình vị Hóa Phật, và đội
đầu con ngựa ngay giữa đỉnh . Do đó Tôn này có tên là Quán Âm Đầu Ngựa (Mã Đầu
Quán Âm ).
Tôn này có đầy đủ tính cách của một vị Minh Vương nên được kể vào 8 đại Minh
Vương (Mahā-vidya-rāja) và gọi là Mã Đầu Minh Vương (Hayagrīva-vidya-rāja) .
Tôn này do nhân Đại Bi nên không trú ở Niết Bàn mà trụ trong cảnh giới Vô minh để
đoạn tận các nẻo ác. Nói cách khác, Quán Thế Âm hiện thân Mã Đầu là để tượng trưng
cho sức tinh tiến của các vị Bồ Tát không bao giờ ngưng nghỉ ở bất cứ chỗ nào trong
vòng sinh tử , cương quyết anh dũng đánh dẹp vô minh khổ não chẳng kể đến thân
mệnh mình. Vì thế Tôn này có mật hiệu là Tấn Tốc Kim Cương
Lại nữa, Quán Thế Âm hiện thân Mã Đầu để biểu dương sức mạnh có thể nuốt
được tất cả lửa dữ của Chúng Sinh nên Tôn này còn có Mật Hiệu là Đạm Thực kim
Cương (Khada-vajra)
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, ba mặt hai cánh tay. Hai tay kết Ấn, dựng đầu gối
phải, đầu đội cái đầu ngựa trắng, ngồi yên trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Tấn Tốc Kim Cương, Đạm Thực Kim Cương
Chữ chủng tử là: HAṂ (ᝢ) hay HŪṂ (㮌)
Tam Muội Gia Hình là: Đầu ngựa trắng
115
Tướng Ấn là: Mã Đầu Ấn. Hai tay tác Không Tâm Hợp Chưởng, đưa ngón vô
danh vào trong lòng bàn tay co 2 Ngón trỏ đặt dưới gốc ngón cái cách nhau giống như
hạt lúa mạch
Chân Ngôn là:
㫘 ㅥ㜮ᚔ⾤㉷ 㜪 㗑㪪 㛿
OṂ_ AMṚTODBHAVA HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Hay:ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㜪 ᗥᚤᜄ ᛶᘬ ⾌㪪ᜄ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ KHĀDAYA BHAṂJA
SPHAṬYA_ SVĀHĀ
11_ Đại Tùy Cầu Bồ Tát (Mahā-pratisarā):
Lược xưng là Tùy Cầu Bồ Tát, hay khiến cho tất cả chúng sinh viên mãn sự mong
cầu.
Do Tôn này thường tùy theo sự nguyện cầu của chúng sinh mà diệt trừ Tội Vô
Gián; trừ tai nạn về nước, lửa, đao binh, thuốc độc; trừ nạn Rồng Cá; miễn trừ nạn vua
quan; cầu mưa; làm ngưng mưa gió; ban cho con cái, giúp cho vãng sinh về cõi Cực
Lạc…. nên có tên là Đại Tùy Cầu.
Tôn Hình: Thân hình màu vàng đậm, một mặt , đội mão báu bên trong có vị Hóa
Phật, 8 cánh tay dơ cao theo dạng Vô Úy . Bên phải, theo thứ tự 4 tay cầm : Chày Kim
Cương Ngũ Cổ, Kích Xoa, Kiếm báu, Búa . Bên trái, 4 tay theo thứ tự cầm : Hoa sen
(hoặc bánh xe) , Rương Kinh Phạn, cây Phướng báu, sợi dây.
Mật Hiệu là: Dữ Nguyện Kim Cương
Chữ chủng tử là PRA (㛺) hay SA (ᝌ), VAṂ (ᜲ), AḤ (ォ), HŪṂ (㜪) 116
Tam Muội Gia Hình là: Phạn Khiếp hay Chày Ngũ Cổ, Tháp Suất Đỗ Ba trong đó
có chứa rương Kinh Phạn.
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᜐ㙰 ᛬ᜐ㙰 㯴㯷ᜄ ᜪᚰᚾ ゖゖ ᜔᜔ ᘔᜢ ᵙ
OṂ_ BHARA BHARA _ SAṂBHARA SAṂBHARA _ INDRIYA
VIŚODHANI HŪṂ HŪṂ _ RURU CALE SVĀHĀ
12,13,14_ Ba vị Sứ Giả của Đại Tùy Cầu Bồ Tát:
Ba Tôn này đều có tên gọi là Liên Hoa Bộ Sứ Giả (Padma-ceti) ở trước mặt, phía
bên phải Đại Tùy Cầu Bồ Tát.
Tôn Hình: Ba Tôn này đều hiện thân màu thịt, quỳ gối , vị chính giữa có tay trái
cầm hoa, tay phải cầm cây kiếm. Hai vị còn lại ở hai bên trái phải đều chắp tay để
trước ngực.
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kiếm trên hoa sen
117
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
15_ Tát Đỏa Bà Đại Cát Tường Bồ Tát (Stūpa-mahā-śrī):
Lại xưng là Tốt Đổ Ba Đại Cát Tường Bồ Tát. Là một trong 7 vị Bạch Cát Tường.
Lại xưng là Tháp Đại Cát Tường Bồ Tát, Đới Tháp Đức Bồ Tát, Đới Tháp Cát Tường
Bồ Tát.
Hoặc nói Tôn này là Di Lặc Bồ Tát, biểu thị cho Bồ Tát nối tiếp địa vị Như Lai
Phật
Tôn Hình: Thân màu thịt, hai tay trái phải đều để ngang ngực cầm hoa sen, ngồi
yên trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Trì Lạc Kim Cương, hoặc Lợi Ích Kim Cương
Chữ chủng tử là :SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hé nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
118
Chân Ngôn là:
㛸 ゛㛽 ⽉ᛈ ㈦ᩃ 㛿㐷
OṂ_ ĀRYA-STŪPA-MAHĀ-ŚRĪ SVĀHĀ
16_ Gia Du Đà La Bồ Tát (Yaśodhara):
Lại xưng là Gia Du Đa La, Gia Duy Đàn. Dịch ý là Hoa Sắc, Tác Trì Dự , Trì
Xưng.
Lại xưng là La Hầu La Mẫu (Rāhula-māta) là người nữ cầm cây gậy (Daṇḍa-
pāṇi) thuộc giòng họ Thích (Śākya) tại thành Ca Tỳ La ở Trung Ấn Độ, vợ chính của
Thái Tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha), mẹ đẻ của La Hầu La (Rāhula)
Một Thuyết nói là con gái của Đại Thần Ma Ha Ná Ma (Mahā-nāma) thuộc giòng
họ Thích của Tộc Bà Tư Tra (Vaśiṣṭhā)
Hoặc nói nguyên là con gái của vua Thiện Giác (Suprabuddha) của thành Thiên
Tý (Devadaha), em gái của Đề Bà, tướng tốt đoan nghiêm, thù diệu bậc nhất, đủ các
đức mạo.
Năm năm sau khi Đức Thích Tôn thành Đạo, Gia Du Đà La cùng với di mẫu của
Đức Thích Tôn là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Mahā-prajapati) và 500 cô gái thuộc tộc
Thích Ca…. xuống tóc nhuộm áo, thọ nhận Cụ Túc Giới làm Tỳ Khưu Ni.
Tôn này là vị Minh Phi có thế lực lớn, chủ trì việc an lập hạt giống Bồ Đề của tất
cả chúng sinh. Các loại Công Đức đều hàm tàng trong vị Minh Phi này mà sinh ra
Tôn Hình: Thân màu vàng chói, hiện tượng Thiên Nữ, đầu đội mão kim tuyến, tay
phải kết Dữ Nguyện Ấn, tay trái cầm cành cây
Mật Hiệu là: Thị Hiện Kim Cương
Chữ chủng tử là: YA (ᜄ)
Tam Muội Gia Hình là: Dương Liễu hoặc cành cây
119
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜎ㖁ᜄᚰᜐᜄ㖁㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ YAṂ - YAŚODHARAYA -
SVĀHĀ
17_ Sứ Giả của Gia Du Đà La (Duṭī):
Dutì còn được gọi là Liên Hoa Bộ Sứ Giả có vị trí ở trước mặt Gia Du Đà La.
Tôn Hình: Thân màu thịt, ngồi Bán Già, dựng đứng gối trái, tay phải nắm quyền
để trên đùi bên phải, tay phải cầm hoa sen chưa nở.
Chữ chủng tử là : DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
120
18_ Như Ý Luân Quán Âm (Cintā-maṇi-cakra):
Cintā-maṇi-cakra, dịch âm là Chấn Đa Ma Nê.
Trong Tôn Danh ấy: Cintā có nghĩa là suy tư, ước vọng, nguyện vọng. Maṇi có
nghĩa là viên ngọc báu. Cakra có thể dịch là Viên (tròn trịa) hay Luân (bánh xe).Do
vậy dịch ý là: Sở Nguyện Bảo Châu Luân, hoặc Như Ý Châu Luân. Nhưng từ xưa đến
nay , phần lớn dịch là Như Ý Luân, Như Ý Luân Vương.
Do Bồ Tát này an trụ ở Tam Muội Như Ý Bảo Châu có thể như ý sinh ra vô số
trân bảo, thường chuyển bánh xe Pháp nhiếp hóa hữu tình, như Nguyện trao cho phú
quý, tài sản, Trí Tuệ, Thế Lực, Uy Đức… nên tên gọi được xưng đầy đủ là Như Ý
Luân Quán Thế Âm Bồ Tát. Lại xưng là Như Ý Luân Bồ Tát, Như Ý Luân Vương Bồ
Tát.
Như Ý Luân Quán Âm có một tay cầm viên ngọc Như Ý tượng trưng cho sự hay
sinh ra hai loại tài bảo của Thế Gian với báu Thật Tướng của Xuất Thế Gian, hay khiến
cho chúng sinh đầy đủ Phước Đức. Một tay cầm bánh xe vàng (kim luân) tượng trưng
cho sự chuyển động tất cả Pháp Thật Tướng, hay khiến cho chúng sinh đầy đủ Trí
Đức.
Tôn này thường dạo chơi trong sáu nẻo, dùng phương tiện Đại Bi giải trừ các khổ
não cho chúng sinh.
Tôn Hình:Thân màu vàng, trên đầu kết báu quanh đỉnh tóc biều thị sự trang
nghiêm, trong mão có Đức Phật A Di Đà trụ tướng thuyết pháp. Thân ngồi Bán GIà
trên hoa sen đỏ, một mặt 6 cánh tay. Bên phải: tay thứ nhất nâng mặt làm dạng suy tư
biểu thị cho sự mẫn niệm chúng hữu tình, tay thứ hai cầm báu Như ý biểu thị cho sự
làm mãn túc ước nguyện của tất cả chúng sinh, tay thứ ba cầm Tràng hạt biểu thị cho
sự cứu khổ chúng sinh. Bên trái: Tay thứ nhất duỗi thẳng xuống ấn núi Quang Minh
biểu thị cho sự khiến chúng sinh chẳng dao động Tín hạnh, tay thứ hai cầm hoa sen
biểu thị cho sự hay trừ các phi pháp, tay thứ ba cầm bánh xe biểu thị cho sự chuyển
pháp Vô Thượng.
Mật Hiệu là: Trì Bảo Kim Cương , hoặc Dữ Nguyện Kim Cương
Chữ chủng tử là : HRĪḤ (㜫) 121
Tam Muội Gia Hình là: viên ngọc báu Như Ý
Tướng Ấn là Như Ý Luân Căn Bản Ấn: Hai tay tác Hư Tâm Hợp Chưởng, cong
hai ngón cái như hình báu, hai ngón giữa cũng co như dạng cánh sen, các ngón còn lại
đều hợp đầu ngón như cây phướng.
Đến đây, trên cây phướng có hoa sen, trên hoa sen có viên ngọc báu.Lại do ngón
giữa là lửa, Hỏa Đại là màu đỏ cho nên dùng đây là Bảo Bồ Tát của Liên Hoa Bộ. Vì
thế dùng hình này biểu thị cho Bản Tôn Như Ý Luân.
Ngoài ra Như Ý Luân để trên cây phướng ắt biểu thị cho Đức Tự Chứng Hóa
Tha
Chân Ngôn:
㫘 ᛈ㝃 ᘖⴽᛸᚂ ᱐ 㭽
OṂ_ PADMA CINTĀMAṆI JVALA HŪṂ
19_ Sứ Giả của Như Ý Luân (Ratna-pūja):
Tôn này tên là Bảo Cúng Dường (Ratna-pūja) là Thị Giả ở trước mặt Như Ý
Luân Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu thịt, qùy gối trên đài sen, hai tay bưng cái mâm Kim Cương
chứa đầy ngọc báu
Mật Hiệu là: Cúng Dường Kim Cương
Chữ chủng tử là: RA (ᜐ) hay MA (ᛸ) 122
Tam Muội Gia Hình là: ngọc báu trên cái mâm Kim Cương
Tướng Ấn là: Phổ Cúng Dường Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ㅥᜀㆫ ᛍㅼ ᛸᚂ ᛈ㝃 ᜨ᥊ ᚌᚙᗰᚌ ᜪᜤᗚᚒ ᝌ㈦㜾 㛺ᝌ
㭽
OṂ_ AMOGHA PŪJA MAṆI PADMA VAJRE TATHĀGATA VILOKITE
SAMANTA PRASARA HŪṂ
20_ Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát (Mahā-śrī- mahā-vidya):
Đại Cát Tường (Mahā-śrī) biểu thị cho sự chẳng nhiễm sinh tử, là Tam Muội
Thanh Tịnh Vô Cấu Liên Hoa
Đại Minh (Mahā-vidya) có nghĩa là chiếu ứng độ cơ không có bờ mé
Lại xưng là Đại Cát Tường Quán Tự Tại Bồ Tát, Đại Cát Tường
Tôn Hình: Thân màu thịt, ngồi trên hoa sen đỏ, tay trái cầm hoa sen hé nở để bên
cạnh eo, tay phải co khuỷu tay, dựng đứng lòng bàn tay hướng ra ngoài, co 4 ngón tay
lại, dựng thẳng ngón cái vịn cạnh ngón trỏ.
Mật Hiệu là: Linh Thụy Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) 123
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hé nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㛱㪤㖁 ᝯ ᚯ ᜎ ᗢ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ - KṢAḤ DAḤ RA YAṂ KAṂ
21_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Đại Minh (Mālā-pūja)
Vị Sứ Giả này tên là Man Cúng Dường (Mālā-pūja) có vị trí ở cạnh bên trái của
Đại Cát Tường Đại Minh Bồ Tát
Tôn Hình: Hai tay cầm vòng hoa, khoác Thiên Y, ngồi yên trên đài sen
Mật Hiệu là: Đại Luân Kim Cương
Chữ chủng tử là: MA (ᛸ) hay SAṂ ()
Tam Muội Gia Hình là: vòng hoa
Tướng Ấn là Liên Hoa Hợp Chưởng để trước đầu
124
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㛱㪤㖁ᛸ ᦦᜅᢈ⺨ᚒ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ MAHĀ-MAITRIYA
ABHYUDGATE_ SVĀHĀ
22_ Đại Cát Tường Minh Bồ Tát (Śrī-mahā-vidya):
Lại xưng là Cát Tường Quán Tự Tại Bồ Tát, Cát Tường Bồ Tát, Cát Tường.
Tôn này biểu thị cho sự chẳng nhiễm sinh tử, trong sạch không dơ, tức dùng Pháp
Môn trong sạch không nhiễm dính phá trừ sự ưu ám của chúng sinh.
Tôn Hình: Thân màu thịt, ngồi trên hoa sen đỏ, tay trái cầm hoa sen chưa hé nở,
tay phải dựng lòng bàn tay hướng ra ngoài, co ngón vô danh và ngón út, dựng thẳng ba
ngón còn lại
Mật Hiệu là: Thường Khánh Kim Cương
Chữ chủng tử là SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa hé nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ㈦ᩃ ᜪᡂ㖁 㛿㐷
OṂ_ MAHĀ-ŚRĪ-VIDYE SVĀHĀ
125
23_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Minh Bồ Tát (Padma-kula-ceṭì)
Tôn này là Liên Hoa Bộ Sứ Giả (Padma-kula-ceṭì) có vị trí ở bên cạnh thân của
Đại Cát Tường Minh Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm cây kiếm, tay phải cầm hoa sen, phân biệt
tượng trưng cho Trí Tuệ và Từ Bi, thân khoác Thiên Y. ngồi trên đài sen
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ) hay HAṂ (ᝢ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kiếm dựng đứng trên hoa sen, trên mũi kiếm có hoa
sen
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
24_ Tịch Lưu Minh Bồ Tát (Śivāvaha-vidya):
Tôn này là thân phẫn nộ (krodha-kāya) của Liên Hoa Bộ. Quan hệ với Tôn của
Định Môn, chọn lấy sự vắng lặng làm nghĩa lưu giữ của Tâm nên xưng là Tịch Lưu
Minh
Tôn Hình: Thân màu thịt, đội mão Kim Tuyến, tay trái duỗi ngón trỏ, co 4 ngón
còn lại để trước ngực. Tay phải hướng lòng bàn tay ra ngoài giơ cao lên, khoác Thiên
Y, ngồi trên hoa sen đỏ.
126
Mật Hiệu là: Định Quang Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: hoa sen hé nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ᜶ᜩᜨ㗮ᜪᡂ㖁 㛿㐷
OṂ_ ŚIVĀVAHA-VIDYE SVĀHĀ
25_ Bị Diệp Y Quán Âm (Palāśambarī):
Palāśambarī còn được ghi nhận tên Phạn là Parṇaśavari, dịch ý là mặc áo lá (bị
diệp y). Lại xưng là Diệp Y Quán Tự Tại Bồ Tát, Diệp Y Bồ Tát, Diệp Y Quán Âm, là
một trong các ứng hóa thân của Quán Âm. Do thân này ở trong lá sen nên xưng lạ Bị
Diệp Y.
Tôn này chuyên trừ các loại bệnh tật, cầu trường thọ, đảo bệnh, an trấn phòng ốc
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm sợi dây, tay phải cầm cây gậy, co dựng đầu
gối trái, ngồi trên hoa sen đỏ.
127
Mật Hiệu là: Dị Hạnh Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy trên có hoa sen chưa nở
Thủ Ấn là: Tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, tay trái cầm sợi dây
Chân Ngôn là:
㫘 ᛈ㎛ᜓ 㜪 㗑㪪
OṂ_ PALĀŚAṂBARĪ HŪṂ PHAṬ
Hay 㫘 ᛈℤデᜨᜒᜓ 㜪 㗑㪪
OṂ_ PARṆAŚAVARĪ HŪṂ PHAṬ
26_ Bạch Thân Quán Tự Tại Bồ Tát (Śveta-bhagavati):
Lại xưng là Thấp Phệ Đa Bồ Tát, Bạch Thân Bồ Tát, Ma Ha Thấp Phệ Đa Bồ Tát,
Thấp Phệ Đa Bạch Thân Bồ Tát, Bạch Thân Quán Âm, Bạch Tôn Giả.
Bạch (Śveta:màu trắng) biểu thị cho Đại Bi thanh tịnh. Thân (Aṃge: trong các
chi phần của thân) biểu thị cho Đức tụ tập. Bạch Thân (Śvetāṃge) biểu thị cho ý tụ
tập Đại Bi thanh tịnh
Tôn này biểu thị cho sự tụ tập Đại Bi trắng tịnh
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, tay trái cầm hoa sen, tay phải duỗi năm ngón úp
lại hướng về vai và co khuỷu tay để trên đầu gối phải, gối phải hơi dựng xéo, ngồi trên
hoa sen đỏ
128
Tay trái cầm hoa sen biểu thị cho Đức thanh tịnh xưa nay, dùng sự tu hành thành
tựu Đức ấy mà hiển Phật Trí. Tay phải chống khuỷu tay trên đầu gối phải, úp bàn tay
hướng che vai biểu thị cho sự phổ hóa chúng sinh.
Mật Hiệu là: Phổ Hóa Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen mở khép
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ㈦ᛈ㯡 ᵆ㐞ᗶ 㫬᜔㫬᜔ 㛿
OṂ_ MAHĀ-PADME ŚVETĀṂGE HURU HURU SVĀHĀ
27_ Phong Tài Bồ Tát (Bhogavatī):
Phong Tài Bồ Tát (Bhogavatī), dịch ý là: Phước Đức, Tôn Quý. Lại xưng là Tư
Tài Chủ Bồ Tát.
Do Phước Đức , Trí Tuệ, Tư Tài của Tôn này rất dư dả, hay tự tại ban cho người
mong cầu cho nên xưng là Phong Tài Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho hai Môn Phước,Trí
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái cầm hai hoa sen trong có có một hoa sen
đã nở và một hoa chưa nở, tay phải co khuỷu tay để ngang vai, ngửa lòng bàn tay co
ngón vô danh và ngón út, ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Như Ý Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) 129
Tam muội Gia Hình là: Hai hoa sen với một hoa đã nở, một hoa chưa nở
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ゛㛽 ᚰᜑᜒ 㛿
OṂ_ ĀRYA-DHARĀRI SVĀHĀ
Hay: 㫘 ゛㛽 ᛴᗰᜨᚏ 㛿
OṂ_ ĀRYA-BHOGAVATĪ SVĀHĀ
28_ Sứ Giả của Phong Tài Bồ Tát (Padma-kula-ceṭī):
Tôn này là Liên Hoa Bộ Sứ Giả
Tôn Hình: Thân màu thịt, hai tay bưng cái mâm vàng chứa đầy hoa sen
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen trên cái mâm vàng
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ 130
29_ Bất Không Quyến Sách Quán Âm (Amogha-pāśa):
Lại xưng là Bất Không Quyến Sách Quán Tự Tại, Bất Không Vương Quán Thế
Âm Bồ Tát, Bất Không Quảng Đại Minh Vương Quán Thế Âm Bồ Tát, Bất Không Tất
Địa Vương Quán Thế Âm Bồ Tát. Là một trong 6 vị Quán Âm
Bất Không (Amogha) là một tên gọi của Bất Không Quyến Sách Quán Âm, ý
nghĩa là chỉ Tâm Nguyện chẳng Không.
Quyến Sách (Pāśa) nguyên là chỉ ở Ấn Độ Cổ Đại, trong lúc chiến tranh hoặc
săn bắn dùng dây thừng để bắt Người và Ngựa.
Dùng Bất Không Quyến Sách làm tên gọi , ý nghĩa là tượng trưng cho Quán
Thế Âm Bồ Tát dùng sợi dây của Từ Bi, cứu độ hóa đạo chúng sinh, Tâm Nguyện ấy
chẳng nhiễm dính sự trống rỗng (bất nhiễm không), nên cũng dùng sợi dây làm Tam
Muội Gia Hình
Tôn này biểu thị cho ý nghĩa Nhiếp Phục chúng sinh, thể hiện Từ Bi rộng lớn
của Thệ Nguyện thâm sâu.
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng , 3 mặt 4 cánh tay, mỗi mặt có 3 mắt . Mặt chính
diện màu thịt, mặt bên phải màu xanh, mặt bên trái màu đen. Ba mặt biểu thị cho 3
Đức. Bên trái: Tay thứ nhất cầm hoa sen, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên phải: tay thứ
nhất cầm tràng hạt, tay thứ hai cầm bình Quân Trì.
Mật Hiệu là: Đẳng Dẫn Kim Cương
Chữ chủng tử là: MO (ᜀ)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây
Tướng Ấn là: Bất Không Quyến Sách Ấn. Hai tay tác Liên Hoa Hợp Chưởng.
Hai ngón trỏ, ngón cái cài chéo nhau bên ngoài, duỗi ngón cái phải đến khoảng giữa
ngón cái trái và ngón trỏ trái (hổ khẩu). Lại có tên là Liên Hoa Quyến Sách Ấn 131
Liên Hoa Hợp Chưởng biểu thị cho gốc của Liên Hoa Bộ, là Tự Tính vốn có của
hoa sen mà ngón cái ngón trỏ bốn ngón cài chéo nhau bên ngoài ắt tác quán hoa sen ở
đầu sợi dây (Sách đoan liên hoa quán). Sợi dây biểu thị cho Bản Thể đem bốn loại dây
như ngư dân ở Thế Gian câu cá để tế độ chúng sinh cực ác.
Chân Ngôn:
㫘 ㅥᜀㆫ ᜪㅼㆎ 㜪 㗑㪪
OṂ_ AMOGHA-VIJAYA HŪṂ PHAṬ
Hay 㫘 ㅥᜀㆫ ᛈ㝃 ᛉデ ᚱ㒕⇘ㆎ 㛺ᜮデㆎ ㈦ ᛈᛈᚎ ㆎ㈦ ᜨ᜔
ᗜᜮ ᧸㬍 ᜮデᚰ ᛈ㝃ᗜ㇃ ᝌ㈦ᜎ 㰵㰵
OṂ_ AMOGHA-PADMA-PĀŚA-KRODHA AKARṢAYA PRAVEŚAYA
MAHĀ-PAŚUPATI-YAMA-VARUṆA- KUVERA-BRAHMA-VEŚA-DHARA
PADMA-KULA-SAMAYAṂ HUṂ HUṂ
30_ Sứ Giả của Bất Không Quyến Sách Bồ Tát (Dūṭī):
Tôn này tên Dūṭī, là Liên Hoa Bộ Sứ Giả
Tôn Hình: Thân màu thịt, quỳ gối trên đài sen, hay tay bưng cái mâm Kim Cương,
bên trong chứa đầy hoa tươi.
Chữ chủng tử là: DHA (ᚰ) hay DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa tươi đầy trên cái mâm Kim Cương
132
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
31_ Thủy Cát Tường Bồ Tát (Udaka-śrī):
Lại xưng là Đại Thủy Cát Tường Bồ Tát.
Tôn này được xem là quyến thuộc của Đa La Bồ Tát, dùng nước Trí (Trí Thủy)
của Đại Nhật Như Lai rưới rót chúng sinh.
Tôn Hình: Tôn hình màu vàng lợt , tay trái dựng đứng bàn tay, co 3 ngón : cái, trỏ,
giữa lại, cầm hoa sen mới nở biểu thị cho phương tiện Đại Bi hay làm cho muôn điều
lành tốt đẹp thêm lên . Tay phải duỗi các ngón xuống dưới thành Ấn Dữ Nguyện biểu
thị cho sự làm thỏa mãn các nguyện của chúng sinh. Ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Nhuận Sinh Kim Cương
Chữ chủng tử là :SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen
133
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ゛㛽 ㈂セ㒕 ᩃ 㛿
OṂ_ ĀRYA-UDAKAŚRĪ SVĀHĀ
32_ Sứ Giả của Thủy Cát Tường Bồ Tát (Dhūpa-pūja)
Tôn này là Thiêu Hương Cúng Dường Sứ Giả (Dhūpa-pūja) là vị Bồ Tát dâng
hương cúng dường và là Sứ Giả của Thủy Cát Tường Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, tay cầm lò hương, ngồi Kiết Già thên
đài sen
Chữ chủng tử là: DHU (ᚴ) hay DHA (ᚰ) hay MA (ᛸ)
Tam Muội Gia Hình là: Lò hương
Tướng Ấn là: Hai tay co ngón út, ngón vô danh, ngón giữa sau cho lưng ngón hợp
nhau. Dựng thẳng hai ngón trỏ cùng chạm đầu ngón, hai ngón cái đè bên cạnh hai ngón
trỏ.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᚰ㜭ᚱᚐ㖁 ゚ᛀᗰᚒ㖁 㛿㖁
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DHARMA-DHĀTU ANUGATE_
SVĀHĀ
134
33_ Sứ Giả của Thủy Cát Tường Bồ Tát (Gandha-pūja)
Tôn này là Đồ Hương Cúng Dường Sứ Giả (Gandha-pūja), là Sứ Giả của Thủy
Cát Tường Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, chắp hai tay lại để ngang ngực, cầm hoa sen chưa hé nở
Chữ chủng tử là: GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Vật khí chứa hương xoa bôi
Tướng Ấn là: Đồ Hương Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᛢ ᗰ᳨㝂ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VIŚUDDHA GANDHA-UDBHAVE_
SVĀHĀ
34_ Đại Cát Tường Biến Bồ Tát (Lakṣma-mahā-vidya):
Lại xưng là Đại Cát Biến Bồ Tát. Tôn này trụ ở Tam Muội Như Huyễn , biểu thị
cho Đức của Phổ Môn Thị Hiện
Tôn Hình: Thân màu thịt, ngồi trên hoa sen đỏ, tay trái dựng thẳng lưng bàn tay,
úp xuống làm dạng Quyền, cầm hoa sen chưa hé nở. Tay phải ngửa lòng bàn tay, hơi
co ngón cái, để trước ngực. 135
Mật Hiệu là: Công Dụng Kim Cương
Chữ chủng tử là : SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen mở khép
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
㫘 ヅỰ ㈦ ᜪᠼ 㛿
OṂ_ LAKṢMA MAHĀ-VIDYA SVĀHĀ
35_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát (Dūṭī)
Tôn này tên là Dūṭī, là Sứ Giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát và là Liên Hoa Bộ
Sứ Giả.
Tôn Hình: Thân màu thịt, qùy gối trên đài sen , chắp hai tay lại
136
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ)
Tam Muội Gia Hình là: Hợp Chưởng Thủ
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
36_ Sứ Giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát (Dūṭī)
Tôn này tên là Dūṭī, là Sứ Giả của Đại Cát Tường Biến Bồ Tát và là Liên Hoa Bộ
Sứ Giả.
Tôn Hình: Thân màu thịt, dựng đứng gối trái, co gối phải, quỳ trên đài sen, hai tay
bưng cái mâm Kim Cương, bên trong chứa đầy hoa sen hé nở.
Chữ chủng tử là: DHĪ (ᚳ)
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚳ ᩃ ᝢ ᨾ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ DHĪ ŚRĪ HAṂ BRAṂ _ SVĀHĀ
137
37_ Bạch Xứ Tôn Bồ Tát (Pāṇḍara-vāsinī):
Bạch Xứ Tôn Bồ Tát tức Bạch Y Quán Âm (Pāṇḍara-vāsinī). Dịch ý là Bạch Trú
Xứ.
Tôn này trú ở tâm Bồ Đề trắng tịnh nên xưng là Đại Bạch Y Quán Âm, Bạch Xứ
Tôn Bồ Tát, Bạch xứ Quán Âm, Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Tôn này biểu thị cho BỘ
MẪU của Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya) hay sinh ra các Tôn thuộc Liên Hoa Bộ.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, khoác áo trắngcó một mặt hai tay. Tay phải duỗi
các ngón ngửa ra hướng xuống dưới thành Ấn Dữ Nguyện ( Varada Mudra ), tay trái
co lại cầm cành hoa sen trắng. Ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ
Ngoài ra còn có tượng 3 mặt 6 tay, phần nhiều là tượng nuôi con nít nên là đối
tượng của những người cầu con. Do đó Tôn này còn có tên là Tống Tử Quan Âm
Mật Hiệu là: Ly Cấu Kim Cương, Phổ Hóa Kim Cương
Chữ chủng tử là PA (ᛈ) hay PAṂ (ᛒ)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen hé nở
Tướng Ấn là Bạch Xứ Tôn Ấn: Hai tay tác Hư Tâm Hợp Chưởng, co hai ngón vô
danh vào trong lòng bàn tay, kèm hai ngón cái chạm hai ngón vô danh biểu thị cho Tôn
này là Bộ Mẫu của Liên Hoa Bộ, hay sinh các Tôn trong Liên Hoa Bộ
Chân Ngôn :
㗍ᜃ ᝌ㗗ⴼ ᜬ㪤 ᚌᚙᗰᚌ ᜪトㆎ 㗕ᜮ ᛈ㝃 ᚾ 㛿
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _TATHĀGATA-VIṢAYA-
SAṂBHAVE PADMA-MĀLINI SVĀHĀ 138
*) Căn cứ vào Kim Cương Giới Man Đà La (Vajra-dhātu-Maṇḍala) thì vị Bồ
Tát này được nhận biết dưới danh hiệu Kim Cương Pháp Bồ Tát (Vajra-dharma
Bodhisatva) là một trong bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Phật A DI ĐÀ (Amitābha:
Vô Lượng Quang, hay Amitāyus: Vô Lượng Thọ) ở phương Tây.
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Pháp Bồ Tát (Vajra-dharma)
lại được xưng là Kim Cương Nhãn Bồ Tát (Vajra-cakṣu)
Tôn này được sinh ra từ Trí Tuệ tự tại không nhiễm của tất cả Như Lai.
_ Lược thuật Kim Cương Đỉnh Du Già phân biệt Thánh Vị tu chứng Pháp
Môn ghi nhận rằng:
“Ở Nội Tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật chứng đắc Kim Cương Pháp Thanh Tĩnh
Vô Nhiễm Tam Ma Địa Trí . Vì tự thọ dụng cho nên từ Kim Cương Pháp Thanh Tĩnh
Vô Nhiễm Tam Ma Địa Trí tuôn ra ánh sáng Kim Cương Pháp (Pháp của Kim Cương)
chiếu khắp mười phương Thế Giới tĩnh trừ năm dục của chúng sinh khiến cho thân tâm
được thanh tịnh giống như hoa sen chẳng nhiễm bụi dơ, rồi quay trở lại thu làm một
Thể.Vì khiến cho tất cả Bồ Tát thọ dụng Tam Ma Địa Trí cho nên thành hình Kim
Cương Pháp Bồ Tát trụ ở vành trăng trước mặt Quán Tự Tại Vương Như Lai”.
Do Kim Cương Pháp Bồ Tát gia trì cho nên chứng được bản tính Thanh Tịnh của
Pháp, đều hay diễn nói Pháp Môn vi diệu, biết tất cả Pháp đều như Phiệt Dụ (cái bè
đưa qua sông), chẳng thể chấp trước.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái để trước ngực cầm hoa sen, tay phải cầm một
cánh sen làm thế bóc mở
Mật Hiệu là: Chính Pháp Kim Cương, Liên Hoa Kim Cương
Chữ chủng tử là: HRÌH (㜫) 139
Tam Muội Gia Hình là: Chày Liên Hoa Độc Cổ
Tướng Ấn là: Tay trái cầm hoa sen, tay phải cầm một cánh sen làm thế bóc mở
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᚰ㜭 㜫
OṂ_ VAJRA-DHARMA HRĪḤ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Pháp Bồ Tát có chữ chủng tử
là: RI (ᜒ)
Tam Muội Gia Hình là: Trên chày Độc Cổ có hoa sen. Biểu thị cho sự dùng Môn
Thù Thắng Hạnh, lý nghĩa vi diệu, phương tiện Đại Bi mà kết thành bè Nhân vào
Hạnh Nguyện Bồ Đề, Thắng Nghĩa mà đốn chứng.
Tướng Ấn là:Ngoại Phộc, kèm dựng hai ngón cái, co hai ngón trỏ như hoa sen
Chân Ngôn là:
ᝌ⇀ ᗙᜒ
SARVA KĀRI
140
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Pháp Bồ Tát có chữ chủng tử là: HRĪḤ
(㜫)
Tôn Hình:Tay trái để trên đầu gối ngửa lòng bàn tay, tay phải kết Thuyết Pháp
Ấn.
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᛈṈ ゛㯉㒕
VAJRA-PADMA-ĀTMAKA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Pháp Bồ Tát có chữ chủng tử là:
HRĪḤ (㜫)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, bên trên có chày Độc Cổ, đầu chày có hoa sen.
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc để trên miệng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᝌ⇀ ᚌᚙᗰᚌ ᜨ᥄ᚰ↜ᚍ ᝌᚲ㫢 㫌ᛄ ᛸᚰ↝ᤊ 㜫
OṂ_ SARVA TATHĀGATA VAJRA DHARMATĀ SAMĀDHIBHIḤ
STUNOMI MAHĀ-DHARMA-AGRI HRĪḤ
141
.)Tại Tứ Ấn Hội (Catur-mudra) thì Kim Cương Pháp Bồ Tát đại biểu cho Đức
Phật Vô Lượng Thọ (Amitāyus-buddha) và là một trong 4 vị Bồ Tát thân cận của Đại
Nhật Như Lai, biểu thị cho Pháp Trí Ấn (Dharma-jñāna-mudra) trong 4 loại Trí Ấn
của Như Lai
Chữ chủng tử là: HRĪḤ (㜫)
Tôn Hình: Lược đồng với Thành Thân Hội, thân hiện màu thịt đỏ.
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc, duỗi hai ngón giữa như hình hoa sen.
Chân Ngôn là:
ᚾᝀ㛺ᛈ㐝ᜨ㱠㛲←ᜨᚐ ᝌↄ ᚌᚙᗰᚌ ᝌᚰᜌ ゛ㅼㆎ㫵
NIṢAPRAPAÑCA-VAK-SIDDHI-RBHAVATU_ SARVA-TATHĀGATA-
SAMĀDHAYOME ĀJAYANTĀṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương
Pháp Bồ Tát có chữ chủng tử là: DHA (ᚰ)
Tôn Hình: Hai tay nắm Kim Cương Quyền, giao chéo nhau trước ngực.
142
Tam Muội Gia Hình là: Chày Liên Hoa Độc Cổ
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ᚰ↜ᚰ ᜪᚽデㆎ ᜪᚱㆎ ゖ ᛔ㪪
OṂ_ VAJRA-DHARMA-KRODHA-VINĀŚAYA VIŚODHĀYA HŪṂ
PHAṬ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-Samaya) thì Kim
Cương Pháp Bồ Tát có chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Liên Hoa Độc Cổ. Biểu thị cho sự dùng Môn Thù
Thắng Hạnh, lý nghĩa vi diệu, phương tiện Đại Bi mà kết thành bè Nhân vào Hạnh
Nguyện Bồ Đề, Thắng Nghĩa mà đốn chứng.
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᚶ㗮㗍ᜑㆎᝌↄ㮹⼉ᴞ
OṂ_ VAJRA-ŚUDDHA-KRODHE HANA MĀRĀYA SARVA DUṢṬĀṂ
DHI
143
ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Địa Tạng Bồ Tát tên Phạn là Kṣiti-garbha, dịch âm là Tát Khất Xoa Để Nghiệt
Bà.
Kṣi là động từ mang nghĩa: chịu đựng, tồn tại, cư trú, ở
Kṣiti: nghĩa là trú xứ, nơi đang cư ngụ, căn nhà, đất trồng trọt, đất nước, quê
hương, trái đất.
Garbha: nghĩa đen là Tử cung, dạ con, có thai, thọ thai, tưởng tượng, hình thành
trong trí óc. Nghĩa bóng là cất chứa, ôm giữ.
Kṣiti-garbha được dịch ý là Địa Tạng, tức là người ôm giữ trái đất hoặc Mẫu
Thể của Đại Địa.
Do đất hay chuyên chở vạn vật, giúp cho vạn vật sinh sôi nảy nở, hàm chứa vô số
nguồn lợi, tiền tài, vật báu…cho nên Địa Tạng là vị Bồ Tát biểu thị cho kho báu tiềm
ẩn trong Đại Địa, hay chuyên chở mọi khổ nạn của tất cả chúng sinh, khiến cho họ phát
triển căn lành, được tài bảo vô tận, tròn đủ Phước Đức (Puṇya) Trí Tuệ (Prajñā).
Nếu người tu hành theo Pháp của Địa Tạng Bồ Tát thì có thể khiến cho ngũ cốc
[Đại Mạch (Yava), Tiểu Mạch (Godhūma), Lúa gié (Śāli), Tiểu Đậu (Masūra), mè
(Atasī)] đầy kho, kéo dài mạng sống, tránh mọi hiểm nạn, tròn đủ tư lương
(Sambhāra) Phước Trí vượt thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi
_ Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển rất sớm trong các Tông Phái Đại Thừa
(Mahā-yāna) ở Ấn Độ (Thế Kỷ thứ 4)
Khởi nguyên của Tín Ngưỡng Địa Tạng có thể được khai triển từ Tín Ngưỡng
Địa Thiên (Pṛthivi), tức là Địa Thần, Kiên Lao Địa Thần, Kiên Lao Địa Thiên, Trì Địa
Thần. Đây là vị Thần cai quản Đại Địa, biểu thị cho Thể Tính của đất là bền chắc
chẳng động hay giúp cho vạn vật cư trú, lại có tác dụng hay giữ gìn vạn vật.
Vị Thần này nguyên là vị Thần Kỳ (Thần đất) được sùng ngưỡng trong thời Ấn
Độ cổ đại. Trong Lê Câu Phệ Đà (Ṛg-veda), A Thát Bà Phệ Đà (Artha-veda) đều
khen ngợi là vị Nữ Thần có đầy đủ Đức tốt đẹp (mỹ đức) như: sự vĩ đại, bền chắc, Tính
chẳng bị diệt, nuôi dưỡng quần sinh, đất đai sinh sôi…
Hiện tượng Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển từ Tín Ngưỡng Địa Thiên có
thể được nhận biết qua hình tượng được ghi nhận trong Phật Giáo đời Thanh ở Trung
Quốc là:
144
Đầu đội mão Trời, thân khoác áo lụa mỏng, đeo chuỗi Anh Lạc với các vật báu
trang sức, tay trái cầm cây lúa (tượng trưng cho ngũ cốc phong phú), tay phải cầm viên
ngọc Như Ý để ngang ngực (tượng trưng cho việc thỏa mãn mọi mong cầu của chúng
sinh), ngồi trên tòa sen.
Do Tín Ngưỡng Địa Tạng không nhận được sự sùng mộ của dân Ấn Độ, nên đã
mất dần các dấu tích.
_ Sau này, Tín Ngưỡng Địa Tạng theo bước chân những Tăng Đoàn truyền giáo
Phật Giáo du nhập vào vùng Trung Á, trạm dừng chân đầu tiên là Turkestan. Từ đây
một hình tượng phổ biến của Địa Tạng Bồ Tát là: “Nhà sư cầm cây gậy hành hương
với một viên ngọc Như Ý” được phụng thờ như là vị Bồ Tát bảo vệ người lữ hành thoát
khỏi mọi hiểm nguy. Hàng ngàn hình tượng Địa Tạng được tôn thờ trong những hang
động tại vùng Lung-Men và Tun-Hoang đã minh họa cho Tín Ngưỡng này.
145
_ Khoảng Thế Kỷ thứ 5, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến tại Trung Hoa
qua Kinh Đại Tạng Bồ Tát Thập Luân (Daśa-cakra-Kṣitigarbha-sūtra) trong đó nêu
lên những Đức Tính của Ngài.
.) Sau đời Tùy (581_618), Đường (618_917) thì Tín Ngưỡng Địa Tạng được
sùng mộ hưng thịnh. Ví dụ như Đời Tùy y theo Kinh Địa Tạng Thập Luân (Daśa-
cakra-Kṣitigarbha-sūtra) mà đề cao thuyết Phổ Phật, Phổ Pháp cùng với Địa Tạng
Bồ Tát Lễ Nghi Sám Pháp và xưng là Tam Gia Giáo.
.) Đời Tống, Thường Cẩn có soạn một quyển sách ghi nhận 32 loại sự tích linh
nghiệm liên quan đến Địa Tạng Bồ Tát từ đời Lương (502_557) đến đời Tống
(960_1279). Do điều này mà Tín Ngưỡng Địa Tạng được phổ biến rộng rãi, người đời
lúc bấy giờ đều lưu truyền, phỏng họa hình tượng của Bồ Tát Địa Tạng để trong Tự
Viện hoặc Phật Đường của tư nhân mà lễ bái cúng dường. Nổi tiếng nhất là hình tượng
Địa Tạng Bồ Tát được vẽ trên bức tường phía Đông của chùa Thiện Tịch, huyện Đức
Dương, Hán Châu trong Đời Lương.
.) Lại nữa, Phật Giáo Trung Hoa còn xếp Địa Tạng Bồ Tát là một trong bốn vị
Đại Bồ Tát (Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Am, Địa Tạng) ứng hóa giảng thuyết tại Đạo
Tràng ở núi Cửu Hoa thuộc tỉnh An Huy.
146
Điện thờ Địa Tạng Vương Bồ Tát trên đỉnh núi Cửu Hoa
Tống Cao Tăng Truyện, quyển 20 ghi nhận rằng: “Địa Tạng Bồ Tát sinh hạ vào
giòng Vương Tộc ở nước Tân La, tên là Kim Kiều Giác rồi xuất gia. Sau thời Đường
Huyền Tôn thì đến Trung Hoa tu Đạo ở núi Cửu Hoa, ở 75 năm đến ngày 30 tháng 7
năm Khai Nguyên thứ 26, đời Đường thì viên tịch, thọ thế 99 tuổi. Vì nhục thân chẳng
hư hoại nên đem toàn thân vào Tháp, tức là Nhục Thân Điện tại núi Cửu Hoa, tương
truyền tức là nơi Địa Tạng Bồ Tát thành Đạo”. Từ sự tích này nên người dân Trung
Hoa chọn ngày 30 tháng 7 Âm Lịch làm ngày Thánh Sinh của Địa Tạng Bồ Tát.
.) Đến đời Thanh (1644_1911) thì Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn chủ
quản ngũ cốc phong phú đồng thời cũng chủ về sự kính ái, phù hộ cho gia đình hòa
thuận.
.) Ngày nay, đại đa số người dân Trung Hoa đều cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị
Chủ Tể tối cao của Địa Ngục và xưng tán Ngài là U Minh Giáo Chủ Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ Tát cai quản mười điện Diêm Vương, tức là Bản Tôn chuyên cứu độ
chúng sinh bị khổ đau trong cõi Địa Ngục.
147
Nguồn gốc của danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát được nói ở trong Kinh Địa Tạng Bồ
Tát Thập Luân (Daśa-cakra-Kṣitigarbha-sūtra) là: “An nhẫn chẳng động giống như
đại địa, lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật (Bí Tạng) cho nên gọi là Địa Tạng”
“An nhẫn chẳng động giống như đại địa” là nói Nhẫn Ba La Mật (Kṣānti-
pāramitā) bậc nhất của Địa Tạng Bồ Tát, giống như đại địa (đất đai) hay chịu đựng
chuyên chở mọi loại nghiệp tội của tất cả chúng sinh.
“Lặng lẽ suy nghĩ” trong câu “Lặng lẽ suy nghĩ ngầm biết kho tàng bí mật” là
hiển rõ sự chẳng thể luận bàn của Trí Tuệ Thiền Định ấy
.) Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển một nói rằng:"Địa Tạng có ý
nghĩa là ẩn chứa (kho báu bị che dấu trong lòng đất)" tức là nói tất cả kho báu ngầm
dấu kín trong lòng đất đều là Địa Tạng
.) Cứu Cánh Nhất Thừa Bảo Tính Luận, quyển 4 ghi rằng: "Dùng kho tàng ẩn
chứa trong lòng đất ví như hiển bày Như Lai Tạng (Tathāgata-garbha). Nhưng kho
báu này, một phương diện là đại biểu cho Phật Tính (Buddhatā) trong sạch không
nhiễm bẩn của chúng sinh, hay khiến cho chúng sinh thành tựu viên mãn Phật Quả.
Một phương diện khác là đại biểu cho Phước Đức, Trí Tuệ, Tài Bảo vô tận của sinh
mệnh, cho nên Địa Tạng đại biểu cho tất cả kho tàng ẩn chứa Công Đức chẳng thể
nghĩ bàn”.
Địa (đất) còn có bảy ý nghĩa đặc trưng là:
1_ Đất hay sinh ra vạn vật
2_ Đất thu nhiếp vạn vật
3_ Đất chuyên chở vạn vật
4_ Đất cất giữ nhiều kho tàng của cải vật chất
5_ Đất hay nuôi dưỡng giúp cho vạn vật tăng trưởng
6_ Đất hay nâng đỡ, là chỗ dựa của vạn vật
7_ Đất bền chắc vững vàng, chẳng động
Do đó dùng hình dạng cụ thể của Đất (địa) để biểu thị cho Phước Đức có được
của Địa Tạng Bồ Tát là:
1_ Địa Tạng Bồ Tát hay sinh ra mọi Pháp lành
2_ Địa Tạng Bồ Tát hay thâu nhiếp mọi Pháp lành trong Tâm Đại Giác
3_ Địa Tạng Bồ Tát hay gánh vác tất cả chúng sinh, dìu dắt họ tiến dần trên con
đường giác ngộ.
4_ Địa Tạng Bồ Tát hay cất giữ mọi Pháp màu nhiệm
5_ Địa Tạng Bồ Tát hay dùng mọi Pháp lành bình đẳng giúp cho mọi chúng sinh
tăng trưởng Chính Pháp giải thoát.
6_ Địa Tạng Bồ Tát là chỗ dựa vững chắc của tất cả chúng sinh.
7_ Địa Tạng Bồ Tát hay hiển bày tâm Bồ Đề mầu nhiệm, bền chắc như Kim
Cương chẳng thể bị phá hoại.
Trong Kinh lại ghi rằng: "Địa Tạng Bồ Tát trụ ở Kim Cương Bất Khả Hoại
Hạnh Cảnh Giới Tam Muội, giống như Kim Cương Địa Luân rất bền chắc chẳng
thể phá hoại, cho nên hay trụ giữ vạn vật khiến cho chẳng lay động. Lại giống như trái
đất hay ẩn chứa các loại kho tàng quý báu không có cùng tận, hàm chứa tất cả hạt
giống, khiến cho chẳng mục nát, dần dần tươi tốt thêm.
Địa Tạng hay khiến cho đầy đủ tất cả Tâm Nguyện của chúng sinh thuộc Thế
Gian và Xuất Thế Gian, là thai mẹ (Mẫu Thai) hay sinh ra chúng sinh để thành Phật.
Đại Địa ở ý nghĩa hiện tượng cụ thể trên, có đầy đủ tính chất đặc biệt là: Sinh
trưởng, bền chắc, trụ giữ vạn vật, chẳng động, rộng lớn, cùng với thai mẹ có đầy đủ 148
khả năng sinh ra tất cả kho báu. Do Địa Tạng Bồ Tát cũng có đầy đủ Phước Đức như
vậy, cho nên dùng Địa Tạng để tác làm danh hiệu đó".
.) Phẩm Tựa của Kinh Đại Phương Quảng Thập Luân, quyển 1 và Kinh Chiêm
Sát Thiện Ac Nghiệp Báo, quyển 1 ghi rằng: “Địa Tạng Bồ Tát do Thệ Nguyện Đại
Bi ở đời quá khứ, nên thị hiện thành thân Đại Phạm Vương, thân Đế Thích, thân Thanh
Văn, thân Diêm La Vương, thân sư tử, thân cọp, thân chó sói, thân bò, thân ngựa cho
đến thân La Sát, thân Địa Ngục…vô lượng vô số thân khác loài để giáo hóa chúng sinh
và đặc biệt là thuận theo niệm của chúng sinh, thọ nhận nỗi khổ đau ở đời ác năm
Trược, tương ứng với điều mong cầu của chúng sinh giúp cho họ tiêu Tai tăng Phước.
Do thành thục căn lành của chúng sinh mà Địa Tạng Bồ Tát biến hiện vô số Hóa Thân
như vậy để cứu độ chúng sinh, nên lại được xưng là Thiên Thể Địa Tạng”
.) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra), Phẩm
Phân Thân Tập Hội ghi nhận lời phó chúc của Đức Thích Tôn, ở trong thời đại không
có Phật, từ sau khi Đức Phật Thích Ca (Śākyamuṇi-buddha) viên tịch cho đến lúc Bồ
Tát Di Lặc (Maitreya) thành Đạo, thời Địa Tạng sẽ làm vị Bồ Tát tự thề độ hết chúng
sinh trong sáu nẻo mới thành tựu Nguyện. Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát là vị Bồ
Tát có Bi Nguyện (Kāruṇa-praṇidhāna) đặc biệt sâu nặng.
Dựa vào Đức đặt biệt này mà Phật Giáo Đồ thường xưng tán Ngài là Đại Nguyện
Địa Tạng Vương Bồ Tát.
.) Do trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra),
có ghi nhận hai tiền thân của Địa Tạng Bồ Tát là: Bà La Môn Nữ và Quang Mục Nữ
vì muốn cứu độ mẹ thoát khỏi nỗi khổ đau trong Địa Ngục mà chuyên tâm tu hành, thề
cứu giúp mẹ với tất cả chúng sinh. Cho nên Phật Giáo Trung Quốc nhận định Kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện là Kinh báo hiếu của nhà Phật nhằm nhấn mạnh việc tu
học bắt đầu từ sự hiếu kính cha mẹ, tôn trọng Thầy Tổ cho đến cứu giúp chúng sinh.
.) Địa Tạng Bồ Tát lại được xem như là kho tàng ẩn chứa các Công Đức vi diệu,
đầy đủ các trân bảo giải thoát, giống như viên ngọc Như Ý tuôn mưa mọi tài bảo. Tùy
theo sự mong cầu chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa hoặc là cầu Phước Đức, tiền
của, giàu có đều khiến được mãn túc.
Kinh Đại Thừa Đại Tập Địa Tạng Thập Luân ghi rằng: "Tùy theo chỗ ở. Nếu
quần áo, thức ăn uống, đồ dùng hàng ngày của các hữu tình có chỗ thiếu thốn mà hay
chí tâm xưng tên niệm tụng, quy kính cúng dường Địa Tạng Bồ Tát, thời tất cả đều
được như Pháp mong cầu".
Lại nói rằng: "Hay thủ hộ cho Hành Giả tu học pháp môn của Địa Tạng Bồ Tát,
khiến cho tất cả tiền của, quan vị chẳng thiếu thốn".
Do điều này mà Địa Tạng Bồ Tát được xem là Bản Tôn Tài Bảo, hay khiến cho
tất cả chúng sinh thỏa mãn mọi mong cầu, chẳng luận là cầu xin ngũ cốc được mùa
hoặc cầu Phước Đức, tiền của, giàu có.
.) Địa Tạng Bồ Tát còn được xem là vị Thần bảo toàn đời sống qua tên gọi là
Diên Mệnh Địa Tạng tức Thân Hóa Hiện bởi Thệ Nguyện của Địa Tạng Bồ Tát để
khiến cho sống lâu làm lợi ích cho đời, hay tránh khỏi sự chết yểu, đoản mệnh có đủ
Đức của Pháp khoẻ mạnh sống lâu.
Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra), quyển
Thượng, Phẩm Như Lai Tán Thán ghi chép rằng: “Nếu có người nào mới sinh con 149
trai hoặc con gái, nội trong bảy ngày, sớm vì đứa trẻ mới sinh ra đó mà đọc tụng Kinh
Điển không thể nghĩ bàn này, lại vì đứa trẻ mà niệm danh hiệu của Ngài Địa Tạng Bồ
Tát đủ một vạn biến. Được vậy thời đứa trẻ hoặc trai hay gái mới sinh ra đó, nếu đời
trước nó đã gây tạo tội vạ chi cũng được thoát khỏi cả, nó sẽ an ổn vui vẻ dễ nuôi, lại
thêm được sống lâu. Còn như nó là đứa nương nơi Phước Lực mà thọ sinh, thì đời nó
càng được an vui hơn sống lâu hơn”.
.) Mật Giáo của Trung Hoa ghi nhận:
Địa Tạng Bồ Tát là Tôn Chủ của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Mạn Đà
La (Garbha-dhātu-maṇḍala), hiển hình Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có cây
phướng báu Như Ý, tay phải cầm viên ngọc báu ngồi trên hoa sen.
Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Địa Tạng Bồ
Tát được ghi nhận qua tên gọi Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) là một trong
bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Bảo Sinh Như Lai (Ratna-saṃbhava-tathāgata)
Căn cứ vào sự đề xuất của Kinh Bát Đại Bồ Tát Man Đồ La thì Địa Tạng Bồ
Tát là một trong tám vị Đại Bồ Tát gồm có: Quán Tự Tại (Avalokiteśvara), Từ Thị
(Maitreya), Hư Không Tạng (Ākāśa-garbha), Phổ Hiền (Samanta-bhadra), Kim
Cương Thủ (Vajra-pāṇi), Văn Thù (Maṃjuśrī), Trừ Cái Chướng (Sarva-nīvaraṇa-
viṣkaṃbhin), Địa Tạng (Kṣitigarbha) vây quanh Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
(Śākyamuṇi-buddha) biểu thị cho Pháp tu “chuyển tám Thức (Aṣṭau-vijñānāni) của
chúng sinh thành Tướng thanh tịnh màu nhiệm”.Tám vị Bồ Tát này cùng phụ giúp
Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn các chúng sinh về Thế Giới Cực Lạc
.) Do Địa Tạng Bồ Tát dùng sức Bi Nguyện cứu độ chúng sinh, nhất là đối với
chúng sinh đang chịu khổ tại cõi Địa Ngục, lại đặc biệt thương xót, thị hiện thân Diêm
La Vương (Yama-rāja-kāya), thân Địa Ngục (Nakara-kāya) rộng vì chúng sinh chịu
tội khổ mà nói Pháp để giáo hóa cứu độ. Do điều này mà thân Diêm La Vương thường
được xem là một Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Địa Tạng Bồ Tát. Như Kinh Địa Tạng
Bồ Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương
là Địa Tạng Bồ Tát.
Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng Địa Ngục
(Nakara) trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra)
nên dân gian Trung Hoa cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục.
Trong động Thiên Phật ở Đôn Hoàng có ghi nhận hình vẽ Địa Tạng Thập
Vương tức hội các tượng của Địa Tạng Bồ Tát với mười vị vua Diêm La kèm theo lời
văn minh họa. Hình vẽ này được tạo lập trong đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng
Quốc, năm thứ tám (983) nhằm nhấn mạnh rằng Ngài là “Đấng giải thoát khỏi cực
hình Địa Ngục”
Chính tư tưởng bên trên đã khiến cho một số người ngộ nhận, cho rằng Địa Tạng
Bồ Tát chỉ ở tại Địa Ngục để cứu độ chúng sinh trong Địa Ngục. Từ đấy trong việc làm
tang ma, Thanh Minh tảo mộ qua tiết Trung Nguyên, Pháp Hội Siêu Độ…thường cúng
phụng Địa Tạng Bồ Tát để cầu đảo cho vong linh được siêu độ. Ngoài ra tại nghĩa địa,
linh tháp hoặc gặp chiến loạn, sự cố, đất đang phát triển mà mọi người đều đi qua….
thường xây dựng Miếu bái tế Địa Tạng với hy vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo vệ
người sống, siêu độ vong linh
Thật ra ở trong cả sáu nẻo, Ngài đều có năng lực giáo hóa tế độ. Điều đó được
biểu thị qua sáu vị Địa Tạng, tức là Địa Tạng độ hóa chúng sinh trong sáu nẻo. 150
Tên của sáu vị Địa Tạng đều y theo Thế Giới Sa Bà (Sāha-loka-dhātu) có chúng
sinh trong sáu nẻo mà nói. Thế Giới ở phương khác hoặc có bảy nẻo, hoặc năm nẻo…
chẳng giống nhau thời Địa Tạng cũng y theo nhân duyên của mỗi phương để mỗi mỗi
thị hiện ứng hóa.
.) Danh xưng của Địa Tạng trong sáu nẻo thời các Kinh Quỹ ghi chép chẳng
giống nhau. Nhưng theo đại thể mà nói thì đều bắt nguồn ở Đại Nhật Kinh Sớ, quyển
thứ năm là: Sáu vị Thượng Thủ (Ṣaḍa-pramukha) trong chín Tôn (Nava-nātha) của Địa
Tạng Viện trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhātu) tức là: Địa Tạng (Kṣitigarbha), Bảo
Xứ (Ratnakāra), Bảo Chưởng (Ratna-pāṇi), Trì Địa (Dharanin-dhāra), Bảo Ấn Thủ
(Ratna-mudrā-hasta), Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāsaya). Trong đó
Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục
Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ
Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh
Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo A Tu La
Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người
Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời.
.) Kinh Thập Vương ghi nhận rằng:
1_ Dự Thiên Hạ Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc Như
Ý, tay phải kết Thuyết Pháp Ấn
2_ Phóng Quang Vương Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm cây
Tích Trượng, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn
3_ Kim Cương Tràng Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm cây
phướng Kim Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn
4_ Kim Cương Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm cây Tích
Trượng, tay phải tác Tiếp Dẫn Ấn
5_ Kim Cương Mật Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm viên
ngọc báu, tay phải tác Cam Lộ Ấn
6_ Kim Cương Nguyện Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây
phướng Diêm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn.
.) Kinh Liên Hoa Tam Muội ghi nhận là:
1_ Đàn Đà Địa Tạng hay hóa độ nẻo Địa Ngục, tay cầm cây phướng đầu người
[Đàn Đa (danda)dịch là Nhân Đầu Tràng]
2_ Bảo Châu Địa Tạng hay hóa độ nẻo Ngạ Quỷ, tay cầm viên ngọc báu
3_ Bảo Ấn Địa Tạng hay hóa độ nẻo Súc Sinh, duỗi bàn tay Như Ý Bảo Ấn
4_ Trì Địa Địa Tạng hay hóa độ nẻo Tu La, hay gìn giữa đại địa ủng hộ hàng Tu
La
5_ Trừ Cái Chướng Địa Tạng hay hóa độ nẻo người, vì con người trừ sự che
chướng của tám khổ
6_ Nhật Quang Địa Tạng hay hóa độ nẻo Trời, soi chiếu năm hiện tượng suy
thoái của người Trời để trừ khổ não cho họ.
.) Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Tân Biên ghi nhận 6 vị Địa Tạng là:
Hộ Tán Địa Tạng, Diên Mệnh Địa Tạng, Mâu Ni Địa Tạng, Tán Long Địa
Tạng, Phá Thắng Địa Tạng, Bất Hưu Tức Địa Tạng
151
Ngoài ra còn có thuyết ghi nhận là: Địa Tạng Bồ Tát cùng với các vị Bồ Tát Quán
Âm (Avalokiteśvara), Đại Thế Chí (Mahā-sthāmaprāpta), Long Thọ (Nāgarjuna)…đều
là các vị theo hầu Đức Phật A Di Đà (Amitābha-buddha) và xưng là A Di Đà Ngũ
Phật. Cũng còn nói là khi Đức Phật A Di Đà còn là con người thì Bồ Tát Pháp Tạng
(Dharmākara) với Bồ Tát Địa Tạng có cùng một Thể.
Người dân Trung Hoa thờ phụng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni cùng với Tầm
Thanh Cứu Khổ Quán Thế Âm Bồ Tát, Thệ Nguyện Độ Tận Chúng Sinh Địa Tạng
Bồ Tát và hợp xưng là Sa Bà Tam Thánh
_ Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng:
Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ nói : “Sáu vị Sứ Giả của Địa Tạng Tôn là:
1_ Diễm Ma Sứ Giả (Yama-ceṭa): hóa độ Địa Ngục
2_ Trì Bảo Đồng Tử (Ratna-dhāra-kumāra): hóa độ Ngạ Quỷ
3_ Đại Lực Sứ Giả (Mahā-bala-ceṭa): hóa độ súc sinh
4_ Đại Từ Thiên Nữ (Mahā-maitreya-devī): hóa độ Tu La
5_ Bảo Tạng Thiên Nữ (Ratna-garbha-devī): hóa độ loài người
6_ Nhiếp Thiên Sứ Giả (Pratigrahadeva-ceṭa): hóa độ chư Thiên
Nghi Quỹ niệm tụng này, tuy chẳng do ngài Bất Không dịch. Xong cùng với
nhóm Diên Mệnh Địa Tạng Kinh, Liên Hoa Tam Muội Kinh đều là Bản thuộc Nghi
Tự Bộ.
_ Tại Tây Tạng, khoảng Thế Kỷ thứ 8, do sự phát triển của Mật Giáo nên Địa
Tạng Bồ Tát được minh họa trong các bức tranh và các Mạn Đà La (Maṇḍala) như là
một trong tám vị Bồ Tát vây quanh Đức Phật, biểu thị cho ý nguyện Từ Bi vĩ đại là:
“Địa Ngục chưa trống rỗng
Thề Nguyện chẳng thành Phật
Khi độ hết chúng sinh
Mới chứng đắc Bồ Đề”
Ngoài ra Phật Giáo Tây Tạng cũng nhận định Địa Tạng Bồ Tát là một trong các
Bản Tôn Tài Bảo
_Tại Nhật Bản, Tín Ngưỡng Địa Tạng bắt nguồn trong thời kỳ Bình An
(Heian:794_1192) và được phát triển qua từng giai đoạn cho đến ngày nay như sau:
.) Kim Tích Vật Ngữ Tập ghi nhận Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh
trong đời hiện tại và dẫn dắt họ sang Thế Giới Cực Lạc (Sukhāvatī) 152
.) Bộ Nhật Bản Linh Dị Ký tin rằng Địa Tạng là vị Bồ Tát cứu độ chúng sinh
sau khi lâm chung.
.) Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát chuyên cứu độ linh hồn
của trẻ con bị chết yểu nên thường dựng các tượng đá Jizò (Địa Tạng) trong các nghĩa
trang và khoác quần áo của trẻ con đã chết ấy lên bức tượng.
Dần dần Địa Tạng Bồ Tát được đồng hóa với vua Diêm La (Yama-rāja) và được
xem là vị chủ tể của cõi U Minh, chuyên cứu độ tất cả chúng sinh trong cõi Địa Ngục.
Như quyển Bồ Đề Tâm Luận của ngài Trân Hải cho rằng Địa Tạng Bồ Tát hóa hiện
thành thân Phật hoặc thân Diêm La Vương để vào Địa Ngục cứu độ chúng sinh
Biểu tượng thường thấy nhất là tượng Địa Tạng Bồ Tát được tạo dựng trong các
nghĩa trang của Phật Giáo hoặc các tranh tượng Địa Tạng qua hình nhà sư đi vào lửa
ngục để giải cứu những linh hồn chịu khổ nạn.
153
.) Ngày nay tại Nhật Bản, Địa Tạng Bồ Tát được thờ phượng qua hình dáng nhà
sư đầu trần chân đất, đi vào xã hội cứu độ chúng sinh ngay trong đời này chứ không
phải ở chốn Địa Ngục.
Trong Thế Kỷ thứ 9, Tín Ngưỡng Địa Tạng được Thiên Đài Tông và Chân
Ngôn Tông phổ biến qua hình tướng của sáu vị Địa Tạng.
Giác Thiền Sao ghi rằng:
1_ Đại Kiên Cố Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Trời, tay trái cầm viên ngọc báu,
tay phải cầm quyển Kinh
2_ Đại Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Người, tay trái cầm viên ngọc
báu, tay phải kết Thí Vô Úy An
3_ Thanh Tịnh Vô Cấu Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi A Tu La, tay trái cầm viên
ngọc báu, tay phải cầm rương Kinh Phạn
4_ Đại Quang Minh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Súc Sinh, tay trái cầm viên
ngọc báu, tay phải cầm Như Ý
5_ Đại Đức Thanh Tịnh Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ, tay trái cầm
viên ngọc báu, tay phải tác Dữ Nguyện An.
6_ Đại Định Trí Bi Địa Tạng là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục, tay trái cầm cây
Tích Trượng, tay phải cầm viên ngọc báu.
Hoặc sáu hình tượng Địa Tạng là sáu Hóa Tôn của sáu nẻo đã được ghi nhận
trong Đại Nhật Kinh Sớ
Ngoài sáu hình tướng trên, Nhật Bản còn lưu truyền nhiều hình tướng Địa Tạng
khác là:
_ Pháp Tính Địa Tạng: Còn gọi là Bất Hưu Tức Địa Tạng
_ Địa Trì Địa Tạng (Jiji Jizò): Còn gọi là Hộ Tán Địa Tạng
154
_ Bảo Tính Địa Tạng: Còn gọi là Phá Thắng Địa Tạng
_ Pháp Ấn Địa Tạng: Còn gọi là Tán Long Địa Tạng
_ Đà La Ni Địa Tạng: Còn gọi là Biện Ni Địa Tạng
155
_ Long Quy Địa Tạng: Còn gọi là Diên Mệnh Địa Tạng hay Quang Vị Địa
Tạng
_ Dự Thiên Địa Tạng (Yotenga Jizò):Tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải tác
Thuyết Pháp Ấn, cứu độ nẻo Trời Người.
_ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò):Tay trái cầm cây Tích
Trượng, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, giúp cho Ngũ Cốc được mùa
156
_ Kim Cương Tràng Địa Tạng (Kongòtò Jizò):Tay trái cây phướng Kim
Cương, tay phải tác Thí Vô Úy Ấn, cứu độ nẻo Tu La
_ Kim Cương Bi Địa Tạng (Kongòhi Jizò):Tay trái cầm cây Tích Trượng, tay
phải tác Dẫn Tiếp Ấn, cứu độ nẻo Súc Sinh
_ Kim Cương Bảo Địa Tạng (Kongòhò Jizò):Tay trái cầm viên ngọc báu, tay
phái tác Cam Lộ Ấn, cứu độ nẻo Quỷ đói
157
_ Kim Cương Nguyện Địa Tạng (Kongògan Jizò):Tay trái cầm cây phướng
Diễm Ma, tay phải tác Thành Biện Ấn, vàu Địa Ngục cứu khổ
_ Khỏa Địa Tạng: (Hadaka Jizò: Địa Tạng lõa thể)
Trường hợp đặc biệt, Địa Tạng Bồ Tát cũng có thể mang hình tướng một bà già
qua tên gọi Mẫu Địa Tạng (Uba Jizò)
Hoặc mang hình tướng của người nữ với tên gọi là Tử Dục Địa Tạng (Kosodate
Jizò) được kêu cầu như vị Thần bảo vệ và nuôi lớn trẻ con
158
_ Tử An Địa Tạng (Koyasu Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ và nuôi con dễ dàng.
Tín Ngưỡng này đã thâm nhập vào Tín Ngưỡng Dân Gian từ sau thời đại Khiếm
Thương (Kamakura: 1192_1336) tức lấy sự thị hiện của Bồ Tát Địa Tạng ở vùng Tắc
Hà là vị cứu hộ trẻ con, giúp phụ nữ sinh đẻ dễ dàng… và có vẽ hình, ca vịnh tán tụng.
Tại Kiyomizu ở Kyoto có dựng tượng Jizò (Địa Tạng) là nơi dùng để tưởng niệm
những đứa trẻ bị chết yểu.
_ Thủy Tử Địa Tạng hay Ấu Thủy Địa Tạng (Mizuko Jizò): Giúp cho những
vong linh trẻ con chết yểu hoặc chết trong thai mẹ…được an lành. Do điều này mà
tượng Địa Tạng Bồ Tát thường được đặt dọc theo bờ sông Sai-no-Kawara nhằm giúp
cho những vong linh chết trẻ, thoát khỏi mọi hình phạt, sớm được siu thốt. Hoặc thiết
lập các nghi lễ cầu siêu cho trẻ con bị chết khi người mẹ bị sẩy thai hay phá thai….
Hình tượng Mizuko Jizò tại chùa Chòsenji (Trường Tuyền Tự)
159
Người dân Nhật Bản tin tưởng rằng Địa Tạng Bồ Tát có rất nhiều quyền năng như
di chuyển, bay, nói hoặc nhổ gai khỏi chân những kẻ lữ hành… Từ đó vô số Tín
Ngưỡng Dân Gian đã gắn liền với Địa Tạng như:
_ Thích Phi Địa Tạng (Togenuki Jizò): hay giúp cho người lữ hành nhổ gai góc
đâm vào chân
_ Thường Thí Địa Tạng (Ajimi Jizo): hay giúp cho các vị tu sĩ chuẩn bị các món
ăn đặc biệt ở nhà bếp
_ Cốc Đoàn Bính Địa Tạng (Botamochi Jizò): hay giúp cho nhà nông có các cái
bánh hình tròn để ăn trong thời gian gieo trồng lúa mạ.
_ Tỵ Thủ Địa Tạng (Hanatori Jizò): chăm sóc ngựa và gia súc
_ Hỏa Tiêu Địa Tạng (Hikeshi Jizò) hay Hỏa Phần Địa Tạng (Hitaki Jizò): bảo
vệ nhà cửa, ruộng vườn tránh khỏi hỏa hoạn
_ Thủy Dẫn Địa Tạng (Mizuhiki Jizò): mang nước đến giúp cho lúa mạ, cây cối
tăng trưởng
_ Vũ Khất Kỳ Địa Tạng (Amagoi Jizò): Cầu đảo xin trời mưa
_ Lập Sơn Địa Tạng (Tachiyama Jizò): tạo làm nơi chốn cho phụ nữ nông dân
nghỉ ngơi
_ Điền Thực Địa Tạng (Taue Jizò): giúp cho ngũ cốc được mùa
_ An Sản Địa Tạng (Anzan-Jizò): giúp cho phụ nữ sinh đẻ dễ dàng
160
_ Nhật Hạn Địa Tạng (Higiri Jizò): giúp cho con người tránh khỏi Thiên Tai
_ Tâm Bình Địa Tạng (Shinpei Jizò): giúp cho linh hồn của con người được an
bình
_ Đạo Dẫn Địa Tạng (Michibiki Jizò): bảo vệ, chỉ đường cho những người đi
trong vùng hoang vắng hiểm trở
_ Thắng Quân Địa Tạng (Shokògun Jizò): Giúp cho chiến thắng và bình an
trong trận mạc
_ Diên Mệnh Địa Tạng (Enmei Jizò): giúp cho con người mạnh khỏe sống lâu,
không bị bệnh tật.
_ Du Huyền Địa Tạng (Aburakake Jizò): chữa trị bệnh tật cho con người
161
_ Bảo Ấn Địa Tạng ((Hòin Jizò): Cứu độ súc sinh
_ Phóng Quang Vương Địa Tạng (Hòkò- ò- Jizò) hoặc Kiên Cố Ý Địa Tạng
(Kenko-i Jizò) hoặc Nhật Quang Địa Tạng (Nikkò Jizò): Cứu độ hàng Trời
_ Bảo Xứ Địa Tạng (Hòsho Jizò): Cứu độ A Tu La
_Bảo Chưởng Địa Tạng (Hòshò Jizò): Cứu độ Quỷ đói
_Trì Địa Địa Tạng (Jiji Jizo) hoặc Trừ Cái Chướng Địa Tạng (Jogaishò Jizò):
Cứu độ loài người
_ Bảo Châu Địa Tạng (Hòju Jizò): Cứu độ nẻo Địa Ngục
_ Hỏa Phục Địa Tạng (Hifuse Jizò): ngăn chận nạn núi lửa. Điển hình là các
Tượng Địa Tạng được dựng gần núi lửa Chasudake tại Nhật
Ngoài ra Địa Tạng Bồ Tát còn được thờ phụng qua nhiều tên gọi như sau:
_ Đàn Đà Địa Tạng (Danda Jizò)
_ Nê Túc Địa Tạng (Doroashi Jizò)
_ Phúc Đới Địa Tạng (Hara-Obi Jizò)
_ Bị Mạo Địa Tạng (Hibò Jizò)
_ Hắc Địa Tạng (Kuro Jizò)
_ Không Thủ Địa Tạng (Karate Jizò)
_ Lạp Địa Tạng (Kasa Jizò)
_ Khái Chỉ Địa Tạng (Sekidome Jizò)
_ Thúc Tử Địa Tạng (Tawashi Jizò)
_ Lung Địa Tạng (Tsunbo Jizò)
_ Thỉ Điền Địa Tạng (Yata Jizò)
_ Thủ Chấn Địa Tạng (Kubifuri Jizò)
Người dân Nhật thường khắc hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát trên đá hoặc dùng
đá tảng, cắt xẻ đục đẽo đơn sơ rồi dựng hình tượng của Ngài trên các bệ đá dựng ở ven
đường, cổng ra vào của làng mạc, nơi hoang vắng nguy hiểm… nhằm bảo vệ cho làng
mạc và khách lữ hành.
162
Riêng ở Tokyo có hơn 500 bức tượng Jizò (Địa Tạng) được dựng dọc theo nhiều
tuyến đường
Do người Nhật tin tưởng Địa Tạng là vị Bồ Tát giám hộ trẻ thơ, nên thường cho
trẻ con chơi đùa loanh quanh, gần một bức tượng Địa Tạng với niềm tin là Ngài sẽ
trông coi và bảo vệ cho lũ trẻ.
163
Phật Giáo Nhật Bản chọn ngày 24 tháng bảy theo Lịch của Nhật Bản là ngày vía
của Địa Tạng Bồ Tát và chọn ngày 23, 24 tháng tám làm ngày lễ hội Địa Tạng Bồn
(còn gọi là ngày truyền thống của trẻ thơ), nhằm nhắc nhở đến sự mệnh thiêng liêng
của Ngài là bảo vệ trẻ thơ vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của đời người.
Nhiều chùa ở Nhật Bản có dựng một dãy tượng Địa Tạng bằng đá đẽo thô mộc,
gọi là Sentai Jizò (ngàn thân Địa Tạng)
164
Do Bản Tính khoan hòa, từ ái của Địa Tạng Bồ Tát kèm với hình tướng nhà sư,
khiến Ngài có vẻ gần gũi với dân gian hơn là vị Thần khác. Ngài được gắn liền với
Đức Phật A Di Đà cùng với Bồ Tát Quán Âm thì được xưng tán là “Nhất Phật Nhị Bồ
Tát”.
Đôi khi, Địa Tạng Bồ Tát còn được biểu thị như là một chiến binh của Thần Đạo
Nhật Bản được đồng hóa với Atago Gongen (vị Thần bảo vệ khỏi bị lửa đốt, là một
Nhập Thể tạm thời của Jizi được thờ phụng trên núi Atago thuộc tỉnh Kyoto) với hình
dáng một chiến tướng ngồi trên lưng ngựa, tay cầm cây gậy hành hương và viên ngọc
ước. Thần Thú của Thần Atago Gongen là con lợn rừng, biểu tượng cho sức mạnh,
lòng dũng cảm và ý chí kiên cường….nhằm giải cứu cho những chiến binh thoát khỏi
mọi tình huống khó khăn nguy cấp hoặc tránh sự gây hại của lợn rừng.
_ Tại Việt Nam, Tín Ngưỡng Địa Tạng được phát triển song hành với sự phát
triển của Phật Giáo. Tuy nhiên phần lớn người dân Việt thường chuyên tụng Kinh Địa
Tạng Bồ Tát Bản Nguyện với mục đích cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, con cái, họ hàng
thân thuộc… tức chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị
Chủ Tể tối cao của Địa Ngục, Giáo Chủ của cõi U Minh… chứ không hề biết rằng Địa
Tạng Bồ Tát không chỉ độ hóa chúng sinh trong cõi Địa Ngục, mà còn giúp đỡ bảo vệ
cho sinh mệnh của chúng sinh, an dân trấn quốc, viên mãn Phước Trí ngay trong đời
hiện tại. 165
.) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra), quyển
Thượng, Phẩm Đao Lợi Thiên Cung Thần Thông ghi rằng: “Vào kiếp lâu xa trong
thời quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là con của một vị Đại Trưởng Giả. Nhân thấy tướng tốt
trang nghiêm của Đức Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai mà phát sinh
tâm kính ngưỡng, nói rằng để chứng đắc được tướng trang nghiêm này mà phát
Nguyện cho đến hết các kiếp chẳng thể tính đếm, ở đời vị lai độ thoát tội khổ của
chúng sinh trong sáu nẻo”
Lại ghi rằng: “Một trong các kiếp trong a tăng kỳ kiếp chẳng thể nghĩ bàn, Địa
Tạng Bồ Tát là người nữ thuộc giòng Bà La Môn, vì cứu độ mẹ thoát khỏi Địa Ngục đã
thay mẹ cúng dường tu Phước và phát Nguyện cho đến hết kiếp vị lai đều rộng cứu độ
tội khổ của chúng sinh”
.) Trong Phẩm Diêm Phù Chúng Sinh Nghiệp cảm của Kinh trên cũng ghi nhận
hai thuyết là:
_ “Vào thời lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát làm vua của một nước. Do
thấy người dân trong nước tạo nhiều tội ác, nên đã phát Nguyện độ hết tội của các
chúng sinh, đều đến Bồ Đề. Nếu chẳng như vậy thì không thành Phật”
_”Ở một kiếp lâu xa trong quá khứ, Địa Tạng Bồ Tát là một người nữ tên là
Quang Mục. Do mẹ của nàng bị đọa vào Địa Ngục nên Quang Mục vì muốn cứu độ
mẹ, đã phát Nguyện cứu giúp nhổ bứt tất cả tội khổ của chúng sinh, đợi cho chúng sinh
thành Phật rồi, sau đó mình mới thành Chính Giác”
Các Thuyết ghi trên đều tùy theo Tín Ngưỡng Địa Tạng mà rộng truyền trong
dân gian, cho nên trong Phật Giáo thường dùng các câu:
_“Địa Ngục chưa trống rỗng
Thề Nguyện chẳng thành Phật
Khi độ hết chúng sinh
Mới chứng đắc Bồ Đề”
_ “Ta chẳng vào Địa Ngục thì ai vào Địa Ngục ?”
Để hình dung lời Nguyện rộng lớn thuộc Tâm Từ Bi thương xót của Địa Tạng Bồ
Tát.
.) Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện, Phẩm Địa Thần Hộ Pháp đề cập đến
mười điều lợi ích của việc cúng dường Địa Tạng Bồ Tát. Trong đó hay đắp tượng vẽ
tranh, cho đến dùng vàng, bạc, đồng, sắt đúc hình tượng Ngài Địa Tạng, đốt hương
cúng dường, chiêm lễ ngợi khen, thì nơi người đó ở liền được mười điều lợi ích là:
1_Đất cát tươi tốt.
2_Nhà cửa an ổn.
3_Người đã chết được sinh lên cõi Trời.
4_ Những người hiện còn được tăng thọ.
5_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý
6_ Không có tai họa về lửa và nước.
7_ Trừ sạch việc hư hao.
8_ Dứt hẳn mộng ác.
9_ Khi ra lúc vào có Thần theo hộ vệ.
10_ Thường được gặp bậc Thánh Nhân.
.) Trong Phẩm Chúc Lụy Nhân Thiên nói rằng: “Nếu trong đời sau có kẻ trai
lành người nữ thiện nào, nhìn thấy hình tượng Ngài Địa Tạng và nghe Kinh này, cho
đến đọc tụng, dùng hương hoa, thức ăn uống, quần áo, trân bảo, bố thí cúng dường,
ngợi khen chiêm lễ, sẽ được hai mươi tám điều lợi ích là: 166
1_Trời, Rồng thường hộ niệm.
2_Quả lành ngày càng tăng.
3_ Gom chứa Nhân vô thượng của bậc Thánh.
4_ Chẳng thoái Bồ Đề
5_Ăn mặc được đầy đủ.
6_ Thân không bị vướng những bệnh tật, nạn dịch
7_ Xa lìa tai họa về lửa và nước.
8_ Không bị nạn trộm cướp.
9_ Người khác nhìn thấy đều sinh lòng kính trọng.
10_ Quỷ Thần theo hộ trì.
11_ Đời sau sẽ chuyển thân nữ thành thân nam.
12_ Đời sau sẽ làm con gái của các bậc Vương Giả Đại Thần.
13_ Tướng mạo xinh đẹp.
14_ Phần lớn được sinh về cõi Trời.
15_ Làm bậc vua chúa.
16_ Có Trí sáng biết rõ những việc trong đời trước.
17_ Cầu nguyện gì cũng được toại ý
18_ Quyến thuộc an vui.
19_ Các tai họa đột ngột đều được tiêu diệt.
20_ Các nghiệp về nẻo ác đều dứt hẳn.
21_ Đi đến đâu cũng không bị trở ngại.
22_ Đêm nằm mộng được an ổn vui vẻ.
23_ Những người thân tộc đã chết nếu có tội thời được khỏi khổ.
24_ Nếu đời trước có Phước thì được thọ sinh về cõi vui sướng.
25_ Được các bậc Thánh ngợi khen.
26_ Căn Tính lanh lợi thông minh.
27_ Giàu lòng Từ Tâm thương xót.
28_ Cuối cùng thành Phật.
Trong băng đĩa Cửu Hoa Sơn (thuộc Tứ Đại Danh Sơn) có ghi nhận bài Địa
Tạng Sám nhằm nhấn mạnh vào Pháp Tu Chính Pháp Giải Thoát qua sự nhiếp hóa
của Bồ Tát Địa Tạng như sau:
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con lìa hẳn ba nẻo ác
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con mau dứt Tham Sân Si
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con siêng tu Giới Định Tuệ
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con thường tùy các Phật Học
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con chẳng thoái Tâm Bồ Đề
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con quyết định sinh An Nhẫn
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con mau được thọ Thánh Ký
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con phân thân khắp các cõi
_Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương
Nguyện con rộng độ các chúng sinh 167
HÌNH TƯỢNG CỦA ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
Hình tượng của Địa Tạng Bồ Tát trong Kinh Thập Luân nói là tướng Thanh Văn.
Loại hình tướng này của Địa Tạng Bồ Tát là “Bên ngoài hiện tướng Tỳ Kheo,
bên trong ẩn chứa hạnh Bồ Tát”, đó là vì khiến chúng sinh hay xa lìa việc luân hồi
trong các nẻo ác, cho nên đặc biệt thị hiện tướng Thanh Văn, xa lìa Thế Gian, hướng
về đạo Chính Giác.
Đức Phật A Di Đà và bốn vị Bồ Tát (A Di Đà Ngũ Phật) tiếp dẫn chúng sinh về
cõi Cực Lạc.
168
Trong quyển 28 “Biệt Tôn Tạp Ký” và “Giác Thiền Sao_ Địa Tạng Thượng”
nêu ra là hình Tỳ Kheo, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải tác Dữ Nguyện Ấn, ngồi
trên hoa sen.
Tượng Địa Tạng Bồ Tát biến hầm lửa thành hoa sen
169
Trong Phật giáo Trung Quốc, hình tượng Địa Tạng phần nhiều là hiện tướng Tỳ
Kheo Thanh Văn, với tay trái cầm viên ngọc Như Ý, tay phải cầm cây Tích Trượng.
170
171
172
Tượng Địa Tạng đội mão Ngũ Phương Phật.
173
Diên Mệnh Địa Tạng tức Thân Hóa Hiện bởi Thệ Nguyện của Địa Tạng Bồ
Tát để khiến cho sống lâu làm lợi ích cho đời, hay tránh khỏi sự chết yểu, đoản mệnh
có đủ Đức của Pháp khoẻ mạnh sống lâu. Vị Bồ Tát này hiện tướng Tỳ Kheo Thanh
Văn, ngồi bán già trên đài sen, tay phải cầm cây Tích Trượng, tay trái cầm viên ngọc
báu.
174
Sau này lại có Tôn Tượng Địa Tạng Bồ Tát có 6 cánh tay biểu thị cho sự hóa độ
tại sáu nẻo
175
Thần Tăng Truyện ghi chép: “Địa Tạng Bồ Tát có dẫn theo con chó trắng tên là
Thiện Thính (hoặc Đề Thính) cùng vượt biển đến Trung Quốc”
Từ Thánh Tích này nên có hình Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên lưng con chó Thiện
Thính.
176
177
Hình tượng Địa Tạng Bồ Tát ngồi trên lưng con chó trắng, bên trái có vị Tỳ Kheo
trẻ tên là Đạo Minh, bên phải có một ông già tên là Mẫn Các
Hình tượng Địa Tạng Bồ Tát cùng với Đạo Minh và Mẫn Các
178
Hình Địa Tạng Bồ Tát, Đạo Minh, Mẫn Các, mười vị vua Diêm La và hai vị Hộ
Pháp
Hình tượng Địa Tạng Bồ Tát, Đạo Minh, Mẫn Các với vua Diêm La
179
Tượng Địa Tạng Bồ Tát và hai vị Đồng Tử Khuyến Thiện, Thắng Ác (Hoặc
Chưởng Thiện, Chưởng Ác)
(Bích họa, động Đôn Hoàng, đời Ngũ Đại)
.) Hình tượng Địa Tạng Bồ Tát được minh họa theo nghệ thuật biểu hiện Đường
Ca, vẽ từ đời Thanh, lưu trữ tại viện Bảo Tàng Cố Cung, Bắc Kinh là:
Địa Tạng Bồ Tát có sắc thân màu xanh, đầu đội mão báu, thân khoác Thiên Y,
tay phải cầm cây lúa tượng trưng cho ngũ cốc phong phú, tay trái đặt bên hông, hai
chân ngồi xếp bằng trên hoa sen.
180
Hình tượng thường gặp của Địa Tạng Bồ Tát ở Tây Tạng là: Đầu đội mão Trời,
thân màu hồng nhạt, tay phải cầm viên ngọc Như Ý để ngang ngực (hoặc kết Thí Vô
Úy Ấn), tay trái cầm hoa sen bên trên có cái chuông báu, ngồi trên tòa sen.
Kinh Đại Nhật ghi nhận: “Địa Tạng Bồ Tát cũng có hình dáng như Bồ Tát, đầu
đội mão Trời, dùng chuỗi Anh Lạc, vật báu… trang nghiêm thân. 181
Trong “Địa Tạng Bồ Tát Nghi Quỹ” cũng nói: Địa Tạng Bồ Tát hình tướng
Thanh Văn, mặc áo cà sa phủ lên vai trái rất trang nghiêm, tay trái cầm hình Doanh
Hoa, tay phải tác Thí Vô Úy, ngồi trên hoa sen.
Nếu như hiện tướng Đại Sĩ, thì đỉnh đầu đội mão Trời, mặc áo cà sa, tay trái cầm
cuống hoa sen, tay phải như lúc trước, ngồi yên trên đài có 9 hoa sen (Cửu liên đài)
Trong quyển 5 “Đồ Tượng Sao”quyển 28 ; “Biệt Tôn Tạp Ky”, “Giác Thiền
Sao. Địa Tạng Thượng” Địa Tạng quyển 110 trong “A Sa Phộc Sao”…. đều nêu rõ
Tượng này.
Ngày nay Địa Tạng Bồ Tát có hai loại hình tượng: Một là tướng xuất gia, hiện
bày tượng Sa Môn. Hai là tướng tại gia, thông thường đầu đội mão Trời, thân khoác áo
cà sa, tay trái cầm viên ngọc báu, tay phải nắm cây Tích Trượng.
182
_Trong Kim Cương Giới Mạn Đà La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Địa Tạng Bồ
Tát được ghi nhận qua tên gọi Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) là một trong
bốn vị Bồ Tát thân cận của Đức Bảo Sinh Như Lai (Ratna-saṃbhava-tathāgata)
.) Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Địa Tạng Bồ Tát được xưng là Kim Cương
Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu):
Tôn này được sinh ra từ Nghĩa viên mãn ước nguyện rộng lớn của tất cả Như
Lai.
_ Lược thuật Kim Cương Đỉnh Du Già phân biệt Thánh Vị tu chứng Pháp
Môn ghi nhận rằng:
“Ở Nội Tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật chứng đắc Kim Cương Bảo Tràng Tam
Ma Địa Trí . Vì tự thọ dụng cho nên từ Kim Cương Bảo Tràng Tam Ma Địa Trí tuông
ra ánh sáng Kim Cương Tràng (Cây phướng Kim Cương) chiếu khắp mười phương
Thế Giới mãn ý nguyện của tất cả chúng sinh, rồi quay trở lại thu làm một Thể. Vì
khiến cho tất cả Bồ Tát thọ dụng Tam Ma Địa Trí cho nên thành hình Kim Cương
Tràng Bồ Tát trụ ở vành trăng bên trái Bảo Sinh Như Lai”.
Do Kim Cương Tràng Bồ Tát gia trì cho nên hay mãn hết thảy ước nguyện về
Thế Gian và Xuất Thế Gian của chúng Hữu Tình, giống như cây phướng báu Chân Đà
Ma Ni (Cintā-maṇi-ketu)
Tôn Hình: Thân màu thịt, hai tay cầm cây phướng Như Ý 183
Mật Hiệu là: Viên Mãn Kim Cương, Nguyện Mãn Kim Cương
Chữ chủng tử là: TRAṂ (), hay TRĀṂ (㫹)
Tam Muội Gia Hình là: Phan Phướng NhưÝ
Tướng Ấn là: Kim Cương Tràng Yết Ma Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᗞᚐ 㫹
OṂ _ VAJRA-KETU TRĀṂ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Địa Tạng Bồ Tát (hay Kim Cương Tràng
Bồ Tát) có chữ chủng tử là: TI (ᚎ) hay PTI (〞)
Tam Muội Gia Hình là: Đầu cây gậy có Tam Biện Bảo Châu, sợi dây quấn ràng
có cây phướng báu, tùy theo gió lay động. Biểu thị cho việc để dễ dàng ban thưởng thù
đáp thì nên có Đàn Thí, tức Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra Ketu Bodhisatva) kiến
lập trên cây phướng Đại Ma Ni, đặt viên ngọc báu tỏa ánh sáng chiếu diệu. Tuôn mưa
Ma Ni, trăm báu, phướng, lọng, hương hoa vi diệu... đều ban cho tất cả Hữu Tình tùy
theo ý nguyện, mãn túc hạnh nguyện Đàn Ba La Mật, đủ Tâm Đại Bi, vô lượng trân
bảo với tâm “ Cho nhưng không có nơi cho, nơi được mà không có gì được”.
184
Tướng Ấn là: Kim Cương Tràng Ấn
Chân Ngôn là:
゚ℼ᧡〞
ARTHA PRĀPTI
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Địa Tạng Bồ Tát (hay Kim Cương Tràng Bồ Tát)
có chữ chủng tử là: TRAṂ ()
Tôn Hình: Hai tay cầm cây phướng báu Như Ý
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄㭤ᘭᤈ ᜲ
VAJRA-DHVAJA-AGRA VAṂ
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Bồ Tát Địa Tạng (hay Kim Cương Tràng) có
chữ chủng tử là: TRAṂ ()
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, bên trên có cây phướng báu Như Ý.
185
Tướng Ấn là: Kim Cương Ngoại Phộc, để ở trên đỉnh đầu, giương duỗi hai cánh
tay.
Chân Ngôn là:
㛸 ᚼᜃ ᝌ⇀ᚌᚙᗰᚍ ᜵ᛈᜒᛍᜐ ᘖⴽᛸᚂ 㭤ᘭᤎᢌ ᜨ᥄㭤ᘭᤊ
OṂ_ NAMAḤ SARVA TATHĀGATĀ ŚĀPARIPŪRAṆA CINTĀ-MAṆI
DHVAJA-AGREBHYO VAJRA-DHVAJA-AGRI TRĀṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Bồ Tát Địa
Tạng (hay Kim Cương Tràng) có chữ chủng tử là HE ()
Tôn Hình: Hai tay nắm Kim Cương Quyền, giao chéo nhau ở trước ngực.
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng Như Ý.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ᚰᗞᚐ ᚪ ゖ ᛔ㪪
OṂ_ VAJRA-KRODHA-KETU DEHI HŪṂ PHAṬ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Bồ Tát Địa
Tạng (hay Kim Cương Tràng) có chữ chủng tử là HṆA (㪶)
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng Như Ý. Biểu thị cho việc kiến lập trên cây
phướng Đại Ma Ni, đặt viên ngọc báu tỏa ánh sáng chiếu diệu. Tuôn mưa Ma Ni, trăm
báu, phướng, lọng, hương hoa vi diệu... đều ban cho tất cả Hữu Tình tùy theo ý
nguyện, mãn túc hạnh nguyện Đàn Ba La Mật, đủ Tâm Đại Bi, vô lượng trân bảo với
tâm “ cho nhưng không có nơi cho, nơi được mà không có gì được”.
186
Chaân Ngoân laø:
㫘 ᜨ᥄㭤ᘭᤈ ᗞᜉᜓ ㈦ᚶ ᚪ ᝌ㰳 ᘮ
OṂ_ VAJRA-DHVAJA-AGRA KEYŪRĪ MAHĀ-KRODHE DEHI ME
SARVĀṂ JI
_Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) thì Bồ Tát Địa Tạng là Chủ Tôn có vị trí ở chính giữa viện.
Các Tôn trong Viện này như Đại Địa bền chắc chẳng hoại, Tâm Bồ Đề kiên cố
hay trụ giữ vạn vật. Lại như mọi loại kho báu của Đại Địa, đầy đủ căn lành của Tâm
Bồ Đề như đồng với Địa Tạng hay sinh ra mọi báu của tất cả Công Đức, giáo hoá
chúng sinh về Diệu Đức của nhóm Nhẫn Nhục, Tinh Tiến…Vì thế Địa Tạng Viện tức
là hành động thực tiễn Đại Bi Cứu Tế của Liên Hoa Bộ, biểu thị cho Bi Môn (Kāruṇa-
mukhe) của Quán Âm, hay cứu mê tình của 9 Giới.
Viện này có 9 Tôn được trình bày từ trên xuống dưới như sau:
187
1_ Trừ Nhất Thiết Ưu Não (ᚮ)
2_ Bất Không Kiến (ォ)
3_ Bảo Ấn Thủ (ᛞ)
4_ Bảo Quang (ᘶ)
5_ Địa Tạng (ㇻ)
6_ Bảo Thủ (ᝊ)
7_ Trì Địa (ᘒ)
8_ Kiên Cố Thâm Tâm (ᜦ)
9_ Nhật Quang Bồ Tát (㒕)
1_ Trừ Nhất Thiết Ưu Não Bồ Tát (Sarva-Śokatamoghāta-mati):
Sarva-Śokatamoghāta-mati lại xưng là Trừ Nhất Thiết Ưu Ám Bồ Tát, Trừ Ưu
Ám Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Bản Thệ trừ tất cả ưu não ám tối của chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, dựng đứng khuỷu tay phải, hơi ngửa lòng bàn
tay hướng về bên phải. Tay trái cầm cành cây, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Đại Xá Kim Cương
Chữ chủng tử là: DAṂ (ᚮ)
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây 188
Tướng Ấn là: Trừ Nghi Quái Kim Cương Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜪ㈦ᚎ 㜵セ㒕㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VIMATI-CCHEDAKA _ SVĀHĀ
2_ Bất Không Kiến Bồ Tát (Amogha-darśana):
Amogha-darśana là vị Bồ Tát dùng 5 loại mắt: mắt thịt, mắt Trời, mắt Tuệ, mắt
Pháp, mắt Phật nhìn khắp sự bình đẳng, sai biệt của chúng sinh trong Pháp Giới, hay
trừ tất cả nẻo ác khiến chuyển hướng về Chính Đạo Bồ Đề, Niết Bàn cứu cánh. cho
nên gọi là Bất Không Kiến.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có lửa rực sáng kèm với
con mắt, mũi, miệng. Tay phải dựng lòng bàn tay, hướng tâm lòng bàn ra bên ngoài,
ngồi trên hoa sen đỏ.
189
Mật Hiệu là: Phổ Quán Kim Cương
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: Đầu Phật trên hoa sen, hay khuôn mặt ánh sáng trên hoa
sen.
Tướng Ấn là:Phật Nhãn Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ㅥᜀ㖦 セ㱣ᚽㆎ㖁 㛿㐷
OṂ_ AMOGHA-DARŚANĀYA AḤ _ SVĀHĀ
190
3_ Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratna-mudrā-hasta):
Ratna-mudrā-hasta dịch âm La Đát Nẵng Mộ Nại La Hạ Tát Đa, là vị Bồ Tát này
dùng Ấn Trị quyết định chứng quả vị Tam Bồ Đề (Saṃbodhi: Chính Giác).
Tôn này biểu thị cho Tam Muội Gia Bản Thệ Môn của Địa Tạng Bồ Tát, cứu tế
chúng sinh.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái rũ trên đầu gối cầm hoa sen, trên hoa có chày
Độc Cổ. Co cánh tay phải để trước ngực, ngửa lòng bàn tay cầm vành trăng. Ngồi Kiết
Già trên tòa hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Chấp Trì Kim Cương, hoặc Chấp Cật Kim Cương
Chữ chủng tử là: PHAṂ (ᛞ) , hay HAṂ (ᝢ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ trên ngọc báu.
Tướng Ấn là: Ngoại Ngũ Cổ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜐᾰ ᚾ⃐ᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RATNA NIRJĀTA _ SVĀHĀ
4_ Bảo Quang Bồ Tát (Ratna-kalā, hay Ratnākara): 191
Ratnàkara dịch âm là La Đát Nẵng Ca La. Lại xưng là Bảo Xứ Bồ Tát, Bảo Sinh
Bồ Tát, Bảo Tác Bồ Tát, Bảo Chưởng Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho việc dùng lòng bàn tay tuôn ra mọi báu ban bố cho chúng
sinh
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải tác Thí Vô Uý Ấn. Tay trái dựng lòng bàn tay,
co ngón trỏ ngón giữa cầm hoa sen, trên sen có chày Tam Cổ. Ngồi Kiết Già trên hoa
sen đỏ.
Mật Hiệu là:Tường Thụy Kim Cương
Chữ chủng tử là: JAṂ (ᘶ)
Tam Muộ Gia Hình là: Chày Liên Hoa Tam Cổ hoặ chày Tam Cổtrên ngọ báu.
Tướng Ấn là: Bảo Xứ BồTát Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᛸ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE MAHĀ MAHĀ _ SVĀHĀ
5_ Địa Tạng Bồ Tát (Kṣiti-garbha): 192
Kṣiti-garbha dịch âm là Khất Xoa Để Ngiệt Bà, nghĩa là đất hoặc Trú Xứ, hoặc
hàm tàng (che dấu bên trong).
Địa Tạng Bồ Tát giống như Đại Địa hay nâng chịu tất cả Nghiệp Tội của chúng
sinh mà an nhẫn chẳng động, đầy đủ Định Tuệ, hay biết rõ tất cả Bí Tạng.
Địa Tạng là vị Bồ Tát tự thề cứu độ hết chúng sinh trong sáu nẻo thì mới nguyện
thành Phật.
Tôn này biểu thị cho Đại Nguyện Nhẫn Nhục, Tinh Tiến cứu độ tất cả chúng
sinh
Tôn Hình: Hiện hình Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có cây phướng báu
Như Ý. Tay phải cầm viên ngọc báu. Ngồi trên hoa sen
Mật Hiệu là: Bi Nguyện Kim Cương, hay Dữ Nguyện Kim Cương
Chữ chủng tử là: HA (ㇻ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây phướng Bảo Châu trên hoa sen.
Tướng Ấn là:Địa Tạng Kỳ Ấn (Nội Phộc, duỗi dựng hai ngón giữa).
193
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛢỘᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HA HA HA VISMAYE _ SVĀHĀ
6_ Bảo Thủ Bồ Tát (Ratna-pāṇi):
Ratna-pāṇi dịch âm là La Đát Nẵng Bá Ni. Lại xưng là Bảo Chưởng Bồ Tát.
Do viên ngọc Như Ý tại bàn tay hay khiến cho ước nguyện của tất cả chúng sinh
được đầy đủ cho nên xưng là Bảo Thủ Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho việc dùng viên ngọc báu Như Ý của Tâm Bồ Đề thanh tịnh
hay thành mãn Tất Địa của Thế Gian và Xuất Thế Gian.
Tôn Hình: Tay trái để ở eo cầm hoa sen, trên hoa có chày Kim Cương Tam Cổ,
trên chày có vòng hoa lửa của viên ngọc báu. Tay phải duỗi lòng bàn tay nâng viên
ngọc báu ngang ngực, ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Mãn Túc Kim Cương
Chữ chủng tử là: SAṂ (ᝊ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ trên báu.
Tướng Ấn là:Bảo Thủ Bồ Tát Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜐᾸ㝂ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RATNA-UDBHAVA _ SVĀHĀ 194
7_ Trì Địa Bồ Tát (Dharaṇi-dhāra):
Tôn này biểu thị cho Đức đặc biệt giống như Đại Địa hay giữ gìn vạn vật, nuôi
lớn Tâm Bồ Đề của chúng sinh.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có chày Tam Cổ.
Tay phải tác Thí Vô Uý Ấn. Ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Nội Tu Kim Cương, Tịnh Giới Kim Cương
Chữ chủng tử là: JAṂ (ᘶ) hay ṄAṂ (ᘒ)
Tam Muội Gia Hình là: Bên trên ngọc báu có hai đầu Kim Cương Nhất Cổ chính
giữa có hình Ngũ Cổ, hoặc Chày Tam Cổ trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᚰᜐᚂ ᚱᜐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DHARAṆI-DHĀRA _ SVĀHĀ
195
6_ Kiên Cố Thâm Tâm Bồ Tát (Dṛḍhādhyāsaya):
Dṛḍhādhyāsaya dịch âm là Niết Lý Nại Địa Dã Xã dã, Địa Lợi Đát Địa Dã Xả
Dạ. Lại xưng là Kiên Cố Tuệ Bồ Tát, Kiên Cố Bồ Tát, Kiên Cố Ý Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho sự Nội Chứng của Địa Tạng Bồ Tát là Tâm Đức bền chắc
của Đại Địa.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải cầm hoa sen nở rộ, trên hoa có Yết Ma Kim
Cương rực lửa. Tay trái nắm quyền hướng lên trên đặt trên đùi. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Siêu Việt Kim Cương
Chữ chủng tử là: LAṂ (ᜦ) hay ṆAṂ (ᚊ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Yết Ma trên báu.
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng, hơi cách lìa ngón cái ngón trỏ.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜨ᥄ ᛬ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VAJRA SAṂBHAVA _ SVĀHĀ
9_ Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha):
Tôn này biểu thị cho Đức đặc biệt như ánh sáng mặt trời hay trừ ưu não ám tối
cho chúng sinh của Địa Tạng Bồ Tát. 196
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để vành mặt trời. Ngồi
trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Uy Đức Kim Cương
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ) hay KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là: Vành mặt trời.
Tướng Ấn là: Hai tay, 2 đầu ngón trỏ, 2 đầu ngón cái cùng tiếp chạm nhau.
Giương mở 3 ngón còn lại như hình mặt trời phóng ánh sáng.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᝑ㛽㛺᛭ㆎ㖁㛿㐷
ON _ SŪRYA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ
Trong Viện này thì 6 Tôn: Địa Tạng (Kṣitigarbha), Bảo Xứ (Ratnakāra), Bảo Thủ
(Ratna-pāṇi), Trì Địa (Dharaṇi-dhāra), Bảo Ấn Thủ (Ratna-mudrā-hasta), Kiên Cố Ý
(Dṛḍhādhyāsaya) được hợp xưng là sáu Địa Tạng biểu thị cho 6 Tôn hóa độ sáu nẻo 197
THỦ ẤN CHÂN NGÔN CỦA ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
_ Chữ Chủng Tử của Địa Tạng Bồ Tát là: A (ㅥ), hoặc HA ()
_ Tam Muội Gia Hình là: Trên Hoa Sen có viên ngọc báu có cờ phướng
1_ Địa Tạng Bồ Tát Ấn:
Các ngón cài nhau hướng vào bên trong. Duỗi ngón út và ngón vô danh sao cho
đầu ngón chạm nhau như chóp núi. Hai ngón cái để ngang nhau duỗi thẳng
Quán tưởng hai ngón trỏ, ngón cái là viên ngọc báu, tức là viên ngọc báu trên cây
phướng.
Chân Ngôn là:
㗍ᜃ ᝌ㈦ⴼ ᜬ㪤㖁 㗮㗮㗮㖁 㫾ᚌᛀ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ HA HA HA SUTANU SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp hết chư Phật
HA HA HA : lìa ba Nhân
SUTANU: Diệu Thân (thân màu nhiệm)
SVĀHĀ: Thành tựu]
2_ Địa Tạng Bồ Tát Diêm Ma Vương Ấn :
Chắp 2 tay lại. Co ngón út, ngón trỏ vào lòng bàn tay. Hợp móng, duỗi 2 ngón
cái vượt lên trên 2 ngón trỏ đè lóng giữa của 2 ngón giữa. Đấy là một thể của Địa Tạng
và Diêm Ma Vương vậy
Chân Ngôn là :
㫘 㗚㗚㖁ㅥᜪ㇂㜪ᗮ㖁㛿㐷
OṂ_ YAMĀYA _ A VIRA HŪṂ KHAṂ _ SVĀHĀ
(Quy mệnh Diêm Ma Đẳng, quyết định thành tựu Chân Ngôn của Báo Thân)
198
3_ Địa Tạng Tâm Chân Ngôn:
㫘 ᝧ㛠 ㇠㇂㖁 ᝌ㈴ ㈿ᚲ 㜪
OṂ_ KṢĪḤ HICARA _ SARVA BODHI HŪṂ
(Quy mệnh Đấng chưởng quản trái đất, khiến cho thành tựu tất cả Tuệ Giác)
4_ Địa Tạng Bồ Tát Pháp Thân Ấn :
Ngửa 2 tay. Hai ngón trỏ, hai ngón vô danh đều móc nhau, bên phải đè bên trái.
Hai ngón cái đều co vào trong lòng bàn tay, co hai ngón giữa lại đè trên móng hai ngón
cái. Lại co đều 2 ngón út vào lòng bàn tay. Hai ngón cái đưa qua đưa lại.
Chân Ngôn là :
㫘㖁 㛺ᛸᚂㆼᚎ㖁㛿
OṂ _ PRAMAṆI-PATI _ SVÀHÀ
(Quy mệnh Đức Thắng Như Ý Ma Ni Bảo Chủ, quyết định thành tựu tốt lành)
_Bản khác ghi Chân Ngôn này là :
㫘㖁 㛺ᛸᚂᚥᛂ㖁㛿
OṂ _ PRAMAṆI-DĀNE _ SVĀHĀ
(Hỡi Đức Thắng Như Ý Ma Ni Bảo, hãy ban cho sự thành tựu tốt lành)
Ấn Chú của Pháp này. Vào mỗi ngày 14 của kỳ Bạch Nguyệt, ngày 14 của kỳ Hắc
Nguyệt. Dùng nước thơm tắm gội, đứng trên mặt đất, hai chân đặt song song, ngay
thẳng thân mình. Kết Ấn này, tụng Chú thì Hộ Thân, diệt tội, trừ ôn dịch ắt ứng
nghiệm cực tốt
5_ THẦN CHÚ TĂNG TRƯỞNG TÀI BẢO THẾ LỰC
Địa Tạng Bồ Tát vì muốn khiến cho chúng sinh hay đạt được tất cả Pháp lành của
Thế Gian như là: Tăng trưởng ghi nhớ, thọ mệnh, thân thể, sức lực của thân thể, danh
tiếng. và khiến cho họ tăng trưởng tất cả Pháp lành của Xuất Thế Gian như là: Trí Tuệ,
Đại Từ, Đại Bi….mà tuyên nói Thần Chú chẳng thể nghĩ bàn như bên dưới.
Thần Chú này hay khiến cho danh tiếng truyền ra khắp thế giới và hay tăng
trưởng tất cả tinh khí vị ngon của Đại Địa, khiến cho ánh sáng của Trí Tuệ sinh khắp
nơi, cho đến viên mãn Bồ Tát Hạnh, thành tựu Niết Bàn Giải Thoát.
Chân Ngôn chẳng thể nghĩ bàn này tên là: “Cụ Túc Thủy Hỏa Cát Tường
Quang Minh Đại Ký Minh Chú Tổng Trì Chương Cú”.
Chân Ngôn này hay khiến tăng trưởng tất cả Pháp trắng trong sạch, tăng trưởng
tất cả tinh khí vị ngon của tất cả thực vật như là: Hạt giống, gốc rễ, mầm non, cành lá,
hoa quả, dược liệu, ngũ cốc ...Cũng hay khiến cho mưa thuận gió hoà, tăng trưởng có
ích cho năng lượng của bốn Đại: Đất, Nước, Gió, Lửa... khiến cho thân tâm vui mừng,
Tài Bảo, Thắng Lực, cùng với tất cả và nhân duyên hưởng thụ hoàn cảnh bên ngoài,
đều được tăng ích, và khiến Trí Tuệ lanh lợi, đập nát tất cả phiền não.
Chân Ngôn Thần Chú này như sau:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ĀRYA KṢITI-GARBHA BODHI-SATVĀYA MAHĀ-SATVĀYA
TADYATHĀ: KṢAṂ-BHU, KṢAṂ-BHU, KṢUD KṢAṂ-BHU, ĀKĀŚA
KṢAṂ-BHU, VĀRAKA KṢAṂ-BHU, ABHŪ KṢAṂ-BHU, VAIRA KṢAṂ-BHU,
VAJRA KṢAṂ-BHU, ĀLOKA KṢAṂ-BHU, DAMA KṢAṂ-BHU, SATYĀMA
KṢAṂ-BHU, SATYA NIRHĀRA KṢAṂ-BHU, VYAVALOKA KṢAN VĀ
KṢAṂ-BHU, UPAŚAMA KṢAṂ-BHU, NATANA KṢAṂ-BHU, PRAJÑĀ 199
SAṂBHUTI RAṆA KṢAṂ-BHU, KṢAṆA KṢAṂ-BHU, VIŚĪLYA KṢAṂ-BHU,
ŚĀSTĀLĀVA KṢAṂ-BHU, VYĀḌA SUṬA MAHILE DĀHILE DAME ŚAME,
CAKRĀSI CAKRA MAṢILE KṢILE BHĪRE, HIRE GRAH SAṂVALA VṚĀTE
RATNA PĀLE, CA CA CA CA, HĪRE MILE EKĀRTHA THAḤKHETHA
GOLO, THALE THALE MILE, BĀṬHE TĀḌE KULE KU MILE, AMILE
AÑGO CITTĀVI, ARI GILI PARAGILI KUŚA ŚAMALE, JAÑGE JAÑGULE,
HURU HURU HURU HURU, STU-MILE MIMĪLEḌHE ŚAMILE TARE BHĀ
DADA HĀRA, HĪRA HĪRE, HURU HURU NU, BHĀVA RAJA VIŚODHANE
SVĀHĀ
KALIYUGA VIŚODHANE SVĀHĀ
KALUṢA MANA VIŚODHANE SVĀHĀ
KALUṢA MAHĀ-BHŪTA VIŚODHANE SVĀHĀ
KALUṢA RASA VIŚODHANE SVĀHĀ
KALUṢA OJA VIŚODHANE SVĀHĀ
SARVA ĀŚA PARIPŪRAṆI SVĀHĀ
SARVA SASYA SAṂPĀDANE SVĀHĀ
SARVA TATHĀGATA ADHIṢṬHITE SVĀHĀ
SARVA BODHI-SATVA ADHIṢṬHITA ANU MODITE SVĀHĀ
Khi Địa Tạng Bồ Tát tuyên nói Chân Ngôn thù thắng này lưu chuyển vào núi,
sông, trái đất và tất cả pháp giới thời hết thảy cây cỏ trong trái đất đều vui mừng nẩy
nở tươi tốt thêm, tất cả hoàn cảnh đều thu được sự sinh sôi nảy nở không thể nào so
sánh được, hết thảy cộng đồng sinh mệnh cùng phồn thịnh, tốt lành hòa kính tất cả,
tràn đầy giữa vũ trụ. Điều này thật sự là khiến cho tất cả Đại Địa được tăng trưởng thủ
hộ, tất cả sinh mệnh được tăng ích, có thể nói đó là Chú màu nhiệm kỳ diệu để bảo vệ
sinh mệnh.
6_ THỦ ẤN CỦA SÁU VỊ ĐỊA TẠNG
a) Địa Tạng Bồ Tát Căn Bản Ấn:
Đây là Thủ Ấn của Địa Tạng Bồ Tát tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới, có
tên gọi là Kỳ Ấn
Hai tay tác Nội Phộc, dựng đứng hai ngón giữa cùng đối nhau.
Hai ngón giữa tượng trưng cho hai trang nghiêm của Phước Trí. Tức có nghĩa là:
hai tay sinh Phước Trí trao cho tất cả chúng sinh khác. Lại hai ngón giữa dựng đứng
như dạng cây cờ cho nên gọi là Kỳ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㖁ᜪỘᜊ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HA HA HA VISMAYE SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
HA HA HA : lìa ba Nhân
VISMAYE: Hiếm có
SVĀHĀ: Thành tựu]
200
b) Bảo Xứ Bồ Tát An:
Tay phải nắm quyền. Duỗi 3 ngón: út, vô danh, giữa cho thẳng. Ngón trỏ vịn
đầu ngón cái
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᛸ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE MAHĀ MAHĀ _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
HE: mừng thay
MAHĀ- MAHĀ: sự to lớn bên trong sự to lớn
SVĀHĀ: Thành tựu]
c) Bảo Thủ Bồ Tát Ấn:
Tay phải nắm quyền, đem ngón cái đè các ngón và duỗi ngón vô danh thẳng đứng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜐᾸ㝂ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RATNA-UDBHAVA _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
RATNA-UDBHAVA: sinh ra báu, tuôn ra vật báu
SVĀHĀ: Thành tựu]
d) Trì Địa Bồ Tát An: (Kim Cương Bộ Tam Muội Gia Ấn)
Tay phải ngửa, tay trái sấp. Bắt chéo ngón cái phải với ngón út trái và ngón út
phải với ngón cái trái sao cho ngón cái và ngón út phải hướng xuống dưới, ngón cái và
ngón út trái hướng lên trên
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᚰᜐᚂ ᚱᜐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DHARAṆI-DHĀRA _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
DHARAṆI-DHĀRA: Trì giữ đất đai
SVĀHĀ: Thành tựu] 201
e) Bảo Ấn Thủ Bồ Tát Ấn: (Ngoại Ngũ Cổ Ấn)
Chắp 2 tay lại, các ngón đều cài nhau bên ngoài. Duỗi 2 ngón giữa khiến cho đầu
ngón dựa nhau. Ngón cái và ngón út đều đứng thẳng. Cong 2 ngón trỏ đặt phía sau
lưng 2 ngón giữa sao cho đừng chạm lưng ngón , hình trạng như chày Ngũ Cổ Kim
Cương
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜐᾰ ᚾ⃐ᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RATNA NIRJĀTA _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
RATNA NIRJĀTA: Sinh ra vật báu
SVĀHĀ: Thành tựu]
f) Kiên Cố Ý Bồ Tát Ấn:
Liên Hoa Hợp Chưởng, hơi cách lìa ngón cái ngón trỏ.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜨ᥄ ᛬ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VAJRA SAṂBHAVA _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
VAJRA SAṂBHAVA: Sinh ra từ Kim Cương
SVĀHĀ: Thành tựu] 202
LỤC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT PHÁP ĐÀN
_ Trung Tâm Đàn là chữ OṂ (㫘) biểu thị cho Pháp Thân của Địa Tạng Bồ Tát
_ Tam Giác có đỉnh hướng lên trên hiển hiện ba chữ chủng tử biểu thị cho ba cõi:
A Tu La, Ngạ Quỷ, Thiên Giới
.) Chữ PHAṂ (ᛞ) biểu thị cho Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi A Tu
La.
.) Chữ SAṂ (ᝊ) biểu thị cho Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ
.) Chữ ṆAṂ (ᚊ) Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời.
_ Tam Giác có đỉnh hướng xuống dưới hiển hiện ba chữ chủng tử biểu thị cho ba
cõi: Địa Ngục, Súc Sinh, Nhân Giới
.) Chữ YAṂ (ᜎ) biểu thị cho Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục
.) Chữ JAṂ (ᘶ) biểu thị cho Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh
.) Chữ ṄAṂ (ᘒ) biểu thị cho Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người
_6 chữ giáp bên trong vòng tròn biểu thị cho cho Hóa Thân của Địa Tạng Bồ
Tát
㖁ᜪỘᜊ
HA HA HA VISMAYE 203
[HA HA HA : lìa ba Nhân
VISMAYE: Hiếm có]
_6 chữ bên ngoài vòng tròn biểu thị cho Báo Thân của Địa Tạng Bồ Tát
㗮㗮㗮㖁 㫾ᚌᛀ㖁
HA HA HA SUTANU
[HA HA HA : lìa ba Nhân
SUTANU: Diệu Thân (thân màu nhiệm)]
*) Ý nghĩa của Pháp Đàn :
Do Địa Tạng Bồ Tát dùng sức Bi Nguyện cứu độ chúng sinh, nhất là đối với
chúng sinh đang chịu khổ tại cõi Địa Ngục, lại đặc biệt thương xót, thị hiện thân Diêm
La Vương (Yāma-rāja), thân Địa Ngục (Nakara-kāya) rộng vì chúng sinh chịu tội khổ
mà nói Pháp để giáo hóa cứu độ. Do điều này mà thân Diêm La Vương thường được
xem là một Hóa Thân (Nirmāṇa-kāya) của Địa Tạng Bồ Tát. Như Kinh Địa Tạng Bồ
Tát Phát Tâm Nhân Duyên Thập Vương đề xuất Bản Địa của Diêm La Vương là
Địa Tạng Bồ Tát.
Vì chịu ảnh hưởng sâu xa của tư tưởng này cùng với tư tưởng Địa Ngục
(Nakara) trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bản Nguyện (Kṣitigarbha-praṇidhāna-sūtra)
nên dân gian Trung Hoa cho rằng Địa Tạng Bồ Tát là vị Chủ Tể tối cao của Địa Ngục.
Chính tư tưởng bên trên đã khiến cho một số người ngộ nhận, cho rằng Địa Tạng
Bồ Tát chỉ ở tại Địa Ngục để cứu độ chúng sinh trong Địa Ngục. Từ đấy trong việc làm
tang ma, Thanh Minh tảo mộ qua tiết Trung Nguyên, Pháp Hội Siêu Độ…thường cúng
phụng Địa Tạng Bồ Tát để cầu đảo cho vong linh được siêu độ. Ngoài ra tại nghĩa địa,
linh tháp hoặc gặp chiến loạn, sự cố, đất đang phát triển mà mọi người đều đi qua….
thường xây dựng Miếu bái tế Địa Tạng với hy vọng Địa Tạng Vương Bồ Tát bảo vệ
người sống, siêu độ vong linh
Thật ra ở trong cả sáu nẻo, Ngài đều có năng lực giáo hóa tế độ. Điều đó được
biểu thị qua sáu vị Địa Tạng, tức là Địa Tạng độ hóa chúng sinh trong sáu nẻo.
Tên của sáu vị Địa Tạng đều y theo Thế Giới Sa Bà (Sāha-loka-dhātu) có chúng
sinh trong sáu nẻo mà nói. Thế Giới ở phương khác hoặc có bảy nẻo, hoặc năm nẻo…
chẳng giống nhau thời Địa Tạng cũng y theo nhân duyên của mỗi phương để mỗi mỗi
thị hiện ứng hóa.
.) Danh xưng của Địa Tạng trong sáu nẻo thời các Kinh Quỹ ghi chép chẳng
giống nhau. Nhưng theo đại thể mà nói thì đều bắt nguồn ở Đại Nhật Kinh Sớ, quyển
thứ năm là: Sáu vị Thượng Thủ (Saḍa-pramukha) trong chín Tôn (Nava-nātha) của Địa
Tạng Viện trong Thai Tạng Giới (Garbha-dhātu) tức là: Địa Tạng (Kṣiti-garbha), Bảo
Xứ (Ratnakāra), Bảo Chưởng (Ratna-pāṇi), Trì Địa (Dharaṇindhāra), Bảo Ấn Thủ
(Ratna-mudrā-hasta), Kiên Cố Ý (Dṛḍhādhyāsaya). Trong đó
Địa Tạng Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Địa Ngục
Bảo Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Ngạ Quỷ
Bảo Xứ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo Súc Sinh
Bảo Ấn Thủ Bồ Tát là Hóa Tôn của nẻo A Tu La
Trì Địa Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Người
Kiên Cố Ý Bồ Tát là Hóa Tôn của cõi Trời.
_Ở vô lượng kiếp trước, với tâm Đại Bi vô hạn, Địa Tạng Bồ Tát muốn cứu thoát
tất cả chúng sinh ra khỏi biển khổ sinh tử luân hồi, nên đối trước chư Phật mười 204
phương, Ngài phát nguyện rằng: “Nguyện con cứu độ hết tất cả chúng hữu tình. Nếu
còn có chúng sinh nào ở Địa Ngục thì con thề không chứng nhận quả vị Chính
Đẳng Chính Giác”.
.)Cõi Trời (Sura hay Deva) là một cõi thụ hưởng. Trong cõi đó, chư Thiên
thường khởi tâm tự mãn và bám chặt vào các ảo tưởng về những niềm vui tạm thời. Do
đó, Đức Địa Tạng Bồ Tát hiện thành thân Kiên Cố Ý Bồ Tát (Dṛḍhādhyāsaya) biểu thị
cho sự Nội Chứng của Địa Tạng Bồ Tát là Tâm Đức bền chắc của Đại Địa, đánh thức
chư Thiên thoát khỏi những ảo tưởng của phước báo mà họ đang thụ hưởng, đồng thời
đưa họ đến một thực tại cao siêu hơn, một sự hòa hợp sâu sắc hơn và vĩnh cửu hơn.
.)Cõi Tu La (Asura) hay cõi Thần (Devatā) là cõi chiến đấu. Trong cõi đó, chư
Thần thường khởi tâm ganh tỵ, chỉ thích tranh đấu để chiếm đoạt các quả của cây
Kalpa Taru (cây Thỏa mãn mọi ước nguyện) đứng giữa cõi Trời và cõi Thần. Do đó, 205
Đức Địa Tạng Bồ Tát hiện thân Bảo Ấn Thủ Bồ Tát (Ratna-mudrā-hasta) biểu thị cho
Tam Muội Gia Bản Thệ Môn của Địa Tạng Bồ Tát, cứu tế chúng sinh, dứt trừ các
mối dây ràng buộc bởi sự thèm khát, đồng thời dậy cho chư Thần sự chiến đấu cao
thượng để đạt thành quả của sự thấy biết mà thoát khỏi mọi tham dục.
.)Cõi Người (Manuṣyana hay Nāra) là cõi hành động. Đây là thế giới của sự cố
gắng, của hoạt động có ý thức về mục đích của mình, trong đó sự tự do quyết định giữ
một vai trò thiết yếu. Trong cõi này, con người có khả năng biết rõ các đặc tính của các
cõi và tất cả hiện tượng đều do “Nhân duyên mà sinh khởi” như nhau, đồng thời con 206
người có thể tìm ra được bản tính chân thật của vũ trụ và nhận thức được con đường
vĩnh viễn ra khỏi vòng sinh tử luân hồi. Tuy vậy, đại đa số con người thường mang
tâm: tự kiêu, ích kỷ, hoài nghi mà bị trói buộc trong các hoạt động nhằm tìm cầu chiếm
hữu và thỏa mãn dục tình cho riêng mình. Do đó, Đức Địa Tạng Bồ Tát hiện ra hình
tướng Trì Địa Bồ Tát (Dharaṇindhāra) biểu thị cho Đức đặc biệt giống như Đại Địa
hay giữ gìn vạn vật, nuôi lớn Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta) của chúng sinh nhằm chỉ bày
con đường giải thoát cho những ai có khả năng xóa bỏ mọi dục vọng tư kỷ, dứt trừ tâm
kiêu mạn hoài nghi, thực hiện công hạnh cứu độ tối hậu.
.)Cõi Súc Sinh (Tiryanc hay paśu) là cõi sợ hãi. Trong cõi đó, các loài vật
thường mang tâm thức thờ ơ gắn chặt với bản năng, không đủ năng khiếu phát triển tư
tưởng. Vì thế, chúng luôn luôn sống trong sự sợ hãi qua sự đuổi bắt, vây hãm, ăn nuốt
lẫn nhau và bị đẩy vào số phận mù quáng của những nhu cầu tự nhiên, những bản năng
không thể kiểm soát được. Do đó, Đức Địa Tạng Bồ Tát hiện thân Bảo Xứ Bồ Tát 207
(Ratna-kalā, hay Ratnākara) biểu thị cho việc dùng lòng bàn tay tuôn ra mọi báu (Trí
Tuệ) ban bố cho chúng sinh, nhằm nâng cao Tâm thức trì độn mù quáng của loài súc
sinh để hướng chúng tới một tinh thần phát triển, vượt thoát bản năng tăm tối.
.)Cõi Ngạ Quỷ (Preta) là cõi ước mong không được thỏa mãn. Là thế giới đầy
dẫy sự thèm khát mong muốn tham dục mà không bao giờ thực hiện được. Chúng sinh
trong cõi này thường mang những hình tướng quái dị như: thân thể cao lớn, đầu to như
núi, cuống họng nhỏ như cây kim, đầu tóc lởm chởm, miệng như ngọn đuốc lửa, bụng
to lớn …. dù gặp vật thực cũng chẳng ăn nuốt được. Hoặc có loài da đen như than, đầu
tóc lởm chởm, miệng khô đắng, ưa le lưỡi tự liếm miệng, thường chịu đói khát. Hoặc 208
có loài tên là Mãnh Diễm Mang, mỗi khi ăn uống đều bị hóa lửa đốt làm cho đói khát
khổ đau.
Tất cả loài Ngạ Quỷ này đều bị đói khát dày vò không bao giờ được thỏa thích no
đủ. Vì thế, tâm thức của chúng gắn chặt với sự tham dục đam mê không biết nhàm
chán và luôn bị sự thất vọng dày xéo bủa vây. Do đó, Đức Địa Tạng Bồ Tát liền hiện
thân Bảo Thủ Bồ Tát (Ratna-pāṇi) biểu thị cho việc dùng viên ngọc báu Như Ý của
Tâm Bồ Đề thanh tịnh hay thành mãn Tất Địa của Thế Gian và Xuất Thế Gian, nhằm
xoa dịu những nỗi khổ đau vì thèm khát của loài Ngạ Quỷ, khơi động Tâm Thức nhàm
chán những đối tượng nhiễm ô và khởi Tâm ưa thích những đối tượng thanh khiết
(nghĩa là thay Dục Lạc bằng Pháp Lạc, tìm hiểu Chính Tri Kiến và Chân lý) để cho
chúng mau chóng hồi tâm sám hối, vượt thoát cảnh khổ đau.
.)Cõi Địa ngục (Nāraka hay Niraya) là cõi hành hạ đền tội. Đó là thế giới đầy
dẫy những cảnh khổ đau qua những cuộc hành hạ tra tấn. Chúng sinh của cõi này luôn
luôn chịu đựng những nỗi thống khổ, là những phản ảnh không thể tránh được do
chính các hành động của họ gây ra. Vì thế, tâm thức của họ luôn bị sự giận dữ oán ghét 209
bủa vây. Do đó, Đức Địa Tạng Bồ Tát hiện thân Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa
có cây phướng báu Như Ý. Tay phải cầm viên ngọc báu, ngồi trên hoa sen. Biểu thị
cho Đại Nguyện Nhẫn Nhục, Tinh Tiến cứu độ tất cả chúng sinh: “Địa Ngục chưa
trống rỗng, thề chẳng thành Phật”, nhằm thanh lọc Tâm Thức bị ô nhiễm bởi sự
giận ghét và biến đổi các cuộc hành hình tội nhân thành ngọn lửa thanh lọc để giúp họ
vươn tới những hình thức sinh sống tốt đẹp hơn.
Do công hạnh ứng hóa trong sáu cõi (Saḍa gatayaḥ hay saḍa Kula) để hóa độ
chúng sinh nên Lục Địa Tạng Pháp Đàn có hiệu quả đặc biệt nhằm tịnh hóa 06 phiền
não gốc (ảo tưởng kiêu mạn, ganh tỵ tranh đấu, hoài nghi tự kiêu, trì độn mù
quáng, tham dục thèm khát, giận dữ oán hận) để ngăn ngừa sự tái sinh vào 06 cõi và
xua tan các nỗi khổ đau ẩn tàng trong mỗi cõi, đồng thời giúp cho Hành Giả thực
chứng được Thánh Quả giải thoát.
18/02/2014 210
DI LẶC BỒ TÁT
Bồ Tát Di Lặc tên Phạn là Maitreya, dịch âm Hán Việt là Di Đế Lệ, Mai Đê Lê,
Mê Đế Lệ, Mai Đát Lệ, Mỗi Đát Lý, Mai Đát Lệ Dược, Muội Đát Lý Duệ…là họ của
Bồ Tát, nghĩa là Từ Thị, còn tên của Ngài là A Dật Đa (Ajita) nghĩa là Vô Năng
Thắng.
_ Bồ Tát Di Lặc có hiệu là Từ Thị, tên hiệu đó xác lập căn bản tối hậu là Bản
Nguyện Sở Hạnh của Ngài. Ngay trên Duyên Khởi, đời đời kiếp kiếp Ngài đều tu tập
Tam Muội Từ Tâm (Maitra-citta-samādhi), thực hiện Từ Hạnh (Maitra-caryā) để cứu
độ chúng sinh. Đức đặc biệt của Di Lặc là sau khi bứt trừ sự thống khổ của các chúng
sinh, liền tiến thêm một bước là ban cho chúng sinh niềm vui của Pháp (Pháp Lạc)
.) Kinh Nhứt Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm Nhân Duyên Bất
Thực Nhục ghi rằng: “Bồ Tát Di Lặc phát tâm không ăn thịt, vì nhân duyên này mà có
tên là Từ Thị (Maitreya)”.
.) Đại Nhật Kinh Sớ, quyển 1 ghi nhận là: “Từ Thị Bồ tát dùng Tâm Từ
(Maitra-citta) trong bốn Tâm Vô Lượng của Phật làm đầu, Lòng Từ này từ trong
Chủng Tính của Như Lai sinh ra, hay khiến cho tất cả Thế Gian chẳng bị đứt mầm
giống Phật cho nên xưng là Từ Thị”.
.) Kinh Đại Thừa Tâm Địa Quán ghi nhận rằng: “Bồ Tát Di Lặc là con của vị
Pháp Vương, từ khi phát Tâm vì muốn kết duyên lành hóa độ hết thảy chúng sanh, nên
không ăn thịt, vì nhân duyên đó mà có tên là Từ Thị”
_ Do Di Lặc là vị Bồ Tát vào thời đương lai sẽ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề, nối
tiếp sau Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuṇi) để thành Phật, vì thế được xưng là
Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát (Ekajāti-pratibaddha-bodhisatva), Bị Xứ Tát Đỏa hoặc Di
Lặc Như Lai (Maitreya-tathāgata)
.) Kinh Di Lặc Thượng Sinh và Phẩm Ba Bà Ly của Kinh Hiền Ngu Nhân
Duyên ghi nhận rằng:
Tại thời đại khi Đức Phật Đà trụ ở đời thì lưu vực của sông Hằng có nước Ba La
Nại (Vārāṇasī), thôn Kiếp Ba Lợi (Kalpali), lại có tên gọi là Ba Bà Lợi (Bàvari).
Trong nhà Bà La Môn, Bồ Tát Di lặc hạ sinh làm con của Bà La Môn. Thân thể của
Ngài có màu vàng ròng, lại có 32 Tướng, 80 loại vẻ đẹp, Tâm Tính nhân từ, lấy tên gọi
là A Dật Đa (Ajita), là cao nhân có Trí Tuệ, ở tại nhà phú quý được răn dạy vệ hộ
trưởng thành.
Di Lặc nhận sự sai khiến của người cậu tên là Ba Bà Lê (Bàvari) đi đến núi Thứu
Đầu (Gṛdhrakūṭa) ở thành Vương Xá (Śrāvasti) bái kiến Đức Phật Đà. Khi gần đến
núi Thứu Đầu thời nhìn thấy tướng bánh xe ngàn căm (thiên bức luân) của Đức Phật,
nên Tâm rất ngưỡng mộ, sau đó theo Đức Phật xuất gia, làm vị Tỳ Khưu Tăng
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (‘Sākyamuṇi) trước sau ở trong Kinh, nhiều lúc Thọ
Ký cho Bồ Tát Di Lặc, tương lai sẽ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa) thành
Phật hóa độ chúng sinh. Ngay tại đây, trước tiên hộ trì cho chúng sinh trong chốn này
và lưu bày Chính Pháp khiến chẳng bị đoạn tuyệt.
A Dật Đa (Ajita) quay về nước của mình, ngồi Kiết Già nhập diệt, Thân màu
vàng tía, ánh sáng như đồng, Toàn Thân Xá Lợi như tượng vàng đúc, trong hào quang
tròn của thân có chữ nghĩa của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, Bát Nhã Ba La Mật
sáng rực. Chư Thiên liền tạo dựng cái Tháp màu nhiệm bằng mọi vật báu, cúng dường
Xá Lợi 211
Sau khi Bồ Tát Di Lặc nhập diệt thì ở tòa Sư Sử của điện Ma Ni tại cung Trời
Đâu Suất (Tuṣiṭa), đột nhiên hóa sinh ngồi Kiết Già trên hoa sen, thân có màu vàng
Diêm Phù Đàn với 32 Tướng 80 loại vẻ đẹp, đỉnh đầu có Nhục Kế màu Lưu Ly xanh
biếc, dùng báu Ma Ni làm mão Trời, trong mão phóng ra ánh sáng có vô số vị Hóa
Phật với các vị Bồ Tát. Sợi lông trắng (Ūrṇa: bạch hào) ở tam tinh tuôn ra màu sắc
trăm báu, cùng với các vị Thiên Tử (Deva-putra) đều ngồi tại tòa hoa, ngày đêm
thường nói Pháp chẳng thoái chuyển, đợi Duyên sinh xuống ở cõi Diêm Phù Đề….
_ Vấn đề liên quan đến việc Bồ Tát Di Lặc được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thọ
ký sẽ thành vị Phật nối tiếp Ngài trong thời tương lai đã được ghi nhận sớm nhất tại Ấn
Độ trong bản Kinh Cakkavatti Sutta (Kinh Chuyển Luân Vương Thánh Vương Sư Tử
Hống) ở Digha Nikaya (Trường Bộ 26) thuộc Kinh Tạng Pali.
_ Trường Bộ Kinh
Digha Nikaya
26. Kinh Chuyển luân Thánh vương Sư tử hống
(Cakkavati-Sìhanàda sutta)
25. Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người lên đến tám vạn tuổi, có Thế Tôn
tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn; như Ta nay sanh ra ở đời này, là bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn
Sư, Phật, Thế Tôn. Vị này tự mình biết, chứng, và tuyên thuyết quả đất này, gồm có
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời,
loài Người; như Ta hiện nay tự mình biết, chứng và tuyên thuyết quả đất này, gồm có
Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, Thế giới này với Sa môn, Bà la môn, loài Trời và
loài Người. Vị này sẽ thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự
đầy đủ và tuyên thuyết đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; như Ta hiện
nay thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa lý văn tự đầy đủ và tuyên
thuyết đời sống phạm hành hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh. Vị này sẽ có khoảng vài ngàn
vị Tỷ kheo Tăng đoàn; như Ta hiện nay có khoảng vài trăm vị Tỷ kheo Tăng đoàn vậy.
26. Này các Tỷ kheo, vua Sankha sẽ cho thiết lập cung điện mà vua Mahà Panada
đã thiết lập. Sau khi thiết lập, vua trú tại đó. Sau vua lại bố thí cung điện ấy, dâng cúng
cho các vị Sa môn, Bà-la-môn, các hàng bần cùng, du đãng, ăn xin, cạo bỏ râu tóc, mặc
áo cà sa, từ bỏ gia đình, sống không gia đình dưới sự chỉ đạo của Thế Tôn Metteyya,
bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Vị này xuất gia như vậy, sống một mình, biệt lập, tinh
tấn, trì chú, chuyên tâm, chẳng bao lâu chứng được vô thượng phạm hạnh, mà vì mục
đích này các thiện nam tử đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Với vô
thượng phạm hạnh này, ngay trong hiện tại, vị này tự tu, tự chứng, đạt đến và an trú.
(Bản dịch của Thượng Tọa Thích Minh Châu)
Sau đó truyền thống Di Lặc sẽ thành Phật trong thời vị lai được ghi nhận trong
một số Kinh Bản và được lưu trữ trong Tạng Hán Văn
_ Kinh Phật thuyết Pháp Diệt Tận ghi rằng: “Lúc Pháp của Ta diệt thời cũng
như đèn diệt, từ đây về sau khó thể đếm nói. Như vậy sau đó hàng ngàn vạn năm thời
Di Lặc (Maitreya) sẽ xuống Thế Gian làm Phật (Buddha), thiên hạ thái bình, độc khí
tiêu trừ, mưa thấm nhuần ôn hoà thích hợp, năm loại lúa đậu tươi tốt, cây cối lớn dài,
người cao tám trượng đều sống đến 84 ngàn tuổi, chúng sinh được độ chẳng thể xưng
đếm”. 212
_ Kinh Chuyển Luân Vương Tu Hành (trích trong Kinh Trường A Hàm do
Thích Tuệ Sĩ dịch) có ghi:
“Khi thọ mạng kéo dài đên bốn vạn tuổi, người bấy giờ lại suy nghĩ: ‘Chúng ta do
tu thiện mà tuổi thọ kéo dài thêm. Vậy nay hãy tăng thêm một ít điều thiện nữa. Nên tu
tập điều thiện gì? Ta nên hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng.’ Từ đó mọi người
đều hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, và thọ mạng tăng lên đến tám vạn tuổi.
“Trong lúc nhân loại sống tám vạn tuổi, con gái đến năm trăm tuổi mới gả chồng,
và có chín thứ bịnh là lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, tham dục, ham ăn và
già. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng không có rạch hầm, gò nổng gai gốc, cũng không mòng
muỗi, rắn rết, trùng độc. Ngói, đá, cát, gạch thì biến thành lưu ly. Nhân dân sung túc,
ngũ cốc rẻ thường, dồi dào, phước lạc không xiết tả. Có tám vạn thành lớn được dựng
lên, thôn thành san sát gần nhau, gà gáy cùng nghe được.
“Vào thời kỳ ấy thì có đức Phật ra đời hiệu là Di-Lặc
Như Lai, Chí Chân, Đẳng
Chánh Giác, mười hiệu đầy đủ, như đức Thích-ca Như Lai ngày nay không khác. Đức
Di-lặc kia ở giữa hàng Chư Thiên, Đế Thích, Ma, Thiên Ma, Sa-môn, Bà-la-môn, và
nhân gian, mà tự thân tác chứng, cũng như Ta ngày nay ở ngay giữa hàng Chư Thiên,
Đế Thích, Ma hoặc Thiên Ma, Sa-môn, Bà-la-môn và nhân gian mà tự mình tác chứng
vậy.
“Đức Di-lặc sẽ thuyết pháp, khoảng đầu, giữa và cuối đều trọn lành, đầy đủ nghĩa
vị, tịnh tu phạm hạnh, như ngày nay Ta thuyết pháp, khoảng đầu, giữa, cuối đều chân
chánh, nghĩa vị đầy đủ, phạm hạnh thanh tịnh vậy.
“Đức Di-lặc có chúng đệ tử vô số ngàn vạn, như Ta ngày nay có đệ tử vài
trăm. Nhân dân lúc ấy gọi đệ tử ngài là Từ tử như gọi đệ tử ta nay là Thích tử.
_ Kinh Thuyết Bổn (trích trong Kinh Trung A Hàm do Thích Tuệ Sĩ dịch) ghi
là:
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
“Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ tám vạn tuổi sẽ có Đức Phật
hiệu là Di-lặc, Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn;
cũng như hôm nay Ta đã thành vị Như Lai Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh
Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
“Đức Phật ấy ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như
hôm nay Ta ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người
cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ.
“Đức Phật ấy sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau
cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta
hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có
nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
“Đức Phật ấy sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ
người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu
bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi, hiển
hiện.
“Đức Phật ấy sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như Ta hôm nay có
vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.”
Bấy giờ Tôn giả Di-lặc đang ở trong chúng ấy, từ chỗ ngồi đứng dậy, kéo lệch áo
đang mặc, vòng tay hướng về Đức Phật, thưa rằng: 213
“Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến
tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Cũng như bây giờ Đức Thế Tôn là Như Lai, Vô
Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng
Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
“Con sẽ ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như
hôm nay Thế Tôn ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ.
“Con sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi
diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Thế Tôn hôm
nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có
nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
“Con sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho
đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố
phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển
hiện.
“Con sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như hiện giờ Thế Tôn có vô
lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.”
Bấy giờ Đức Thế Tôn tán thán Tôn giả Di-lặc rằng:
“Lành thay! Lành thay! Di-lặc, ngươi phát tâm cực diệu là dẫn lãnh đại chúng. Lý
do vì sao? Vì ngươi đã nghĩ:
“– Bạch Thế Tôn! Một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con người thọ mạng đến
tám vạn tuổi, con sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước, Đẳng Chánh
Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều Ngự Trượng Phu,
Thiên nhân sư, Phật, Thế Tôn. Cũng như bây giờ Đức Thế Tôn là Như Lai, Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Con sẽ ở trong đời này gồm
Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như hôm nay Thế Tôn ở trong đời này gồm
Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự
thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Con sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi
diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh
tịnh. Cũng như Thế Tôn hôm nay, thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và
phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Con
sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời,
khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Thế Tôn hôm nay quảng diễn, lưu bố phạm hạnh
với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển hiện.”
Đức Phật lại nói: “Này Di-lặc, vào một thời gian lâu dài ở thời vị lai, lúc con
người thọ đến tám vạn tuổi, ngươi sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc Như Lai, Vô Sở Trước,
Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Giống như Ta hiện nay là Như Lai
Vô Sở Trước, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
“Ngươi sẽ ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ
người cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. Cũng như
hôm nay Ta ở trong đời này gồm Chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, từ người
cho đến trời, mà tự tri tự giác, tự thân chứng đắc, thành tựu và an trụ. 214
“Ngươi sẽ thuyết pháp, phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi
diệu, có nghĩa, có văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh. Cũng như Ta hôm nay,
thuyết pháp phần đầu vi diệu, phần giữa vi diệu và phần sau cũng vi diệu, có nghĩa, có
văn, hiển hiện phạm hạnh đầy đủ thanh tịnh.
“Ngươi sẽ quảng diễn, lưu bố phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người
cho đến trời, khéo phát khởi, hiển hiện. Cũng như Ta hôm nay quảng diễn, lưu bố
phạm hạnh với những đại hội vô lượng, từ người cho đến trời, khéo phát khởi hiển
hiện.
“Ngươi sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo, cũng như hiện giờ Ta có vô
lượng trăm ngàn chúng Tỳ-kheo.”
Bấy giờ, Tôn giả A-nan cầm quạt đứng hầu Phật. Lúc đó, Đức Thế Tôn quay lại
bảo:
“Này A-nan, ngươi hãy lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ vàng dệt mang lại đây.
Nay Ta muốn cho Tỳ-kheo Di-lặc.”
Bấy giờ Tôn giả A-nan vâng lời Đức Thế Tôn, liền lấy tấm y được dệt bằng sợi tơ
vàng dệt mang lại trao cho Đức Thế Tôn. Sau khi Đức Thế Tôn nhận tấm y được dệt
bằng chỉ vàng từ Tôn giả A-nan, Ngài bảo:
“Này Di-lặc, ngươi hãy nhận tấm y được dệt bằng chỉ vàng này từ Như Lai mà bố
thí cho Phật, Pháp và Đại chúng. Lý do vì sao? Này Di-lặc, các Đức Như Lai Vô Sở
Trước, Đẳng Chánh Giác vì muốn cứu hộ thế gian và mong cầu thiện lợi và hữu ích,
mong an ổn khoái lạc.”
Bấy giờ Tôn giả Di-lặc nhận lấy tấm y dệt bằng chỉ vàng từ Đức Như Lai xong,
liền dâng cúng cho Phật, Pháp và Đại chúng.
_ Đến thời kỳ phát triển Phật Giáo thì các Kinh Bản có liên quan đến tín ngưỡng
Di Lặc đã được phổ biến khá sớm tại Trung Quốc, bắt đầu từ thời Nam Bắc Triều, dần
dần thịnh hành tại đời Đường, hình thành pháp tu Di Lặc Tịnh Độ và kéo dài đến cho
ngày nay. Trong đó có 6 Bộ Kinh thuật lại việc Bồ Tát Di Lặc sinh lên cõi Trời Đâu
Suất và từ cung Trời Đâu Suất hạ sinh xuống cõi Diêm Phù Đề thành Phật, cùng Quốc
Độ, thời tiết, nhân duyên, chủng tộc, xuất gia, thành Đạo và chuyển bánh xe Pháp.
6 Bộ Kinh này được lưu trữ trong Đại Chính Tân Tu Đại Tạng Kinh, tập 14,
gồm có:
1_ Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên Kinh, 1
quyển, [do Cư Sĩ Thư Cừ Kinh Thanh dịch ở đời Liêu Tống Nam Triều] (No.452)
2_ Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh Kinh, 1 quyển, [do Tam Tạng Trúc Pháp Hộ
dịch ở đời Tây Tấn, năm 303] (No.453)
3_ Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật Kinh, 1 quyển, [do Tam Tạng
Cưu Ma La Thập dịch ở đời Hậu Tần, năm 402] (No.454)
4_ Phật Thuyết Di Lặc Hạ Sinh Thành Phật Kinh, 1 quyển, [do Tam Tạng
Pháp Sư Nghĩa Tịnh dịch ở đời Đường, năm 701] (No.455)
5_ Phật Thuyết Di Lặc Đại Thành Phật Kinh, 1 quyển, [do Tam Tạng Cưu Ma
La Thập dịch ở đời Diêu Tần, năm 402] (No.456)
6_ Phật Thuyết Di Lặc Lai Thời Kinh, 1 quyển, [Đời Đông Tấn, mất tên người
dịch ] (No.457)
Trong 6 Bộ Kinh này thì 3 Bộ Kinh số 454, 455, 567 được gọi riêng là Di Lặc
Tam Bộ Kinh
Trọng tâm của các Kinh Bản này xiển dương Pháp tu giúp cho con người được
sinh về cung Trời Đâu Suất, tiếp tục tu hành dưới sự hóa độ của Bồ Tát Di lặc và đợi
đến ngày cùng với Bồ Tát Di Lặc sinh xuống cõi Diêm Phù Đề (khi đó tuổi thọ của con 215
người là tám vạn tuổi). Lúc đó sẽ thật sự thoát khỏi sự chi phối của sinh, già, bệnh,
chết và luôn hưởng thụ được Phước Lạc vô biên.
Từ 6 bản Kinh này, tại Trung Hoa đã xuất hiện hai Pháp Môn tu theo tín ngưỡng
Di Lặc là:
1_ Tín ngưỡng Di Lặc Thượng Sinh: là Tín ngưỡng tu hành dựa theo tinh thần
của Kinh Phật Thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên, cầu sinh
về Tịnh Độ của Phật Di Lặc tại Cung Trời Đâu Suất. Đại Sư Đạo An ở đời Đông Tấn
(314-385) là người khởi xướng và hành trì Pháp Môn này. Ngài đã từng cùng Đệ Tử
Pháp Ngụ và tám người khác ở trước tượng của Đức Di Lặc phát nguyện vãng sanh về
cung Trời Đâu Suất. Tiếp theo là các Ngài: Đạo Kiểu, Tăng Nghiệp, Huệ Nghiêm,
Đạo Uông, Đạo Pháp, Pháp Thịnh, Đàm Phó, Đàm Vô….Đến đời Đường, các Ngài
Huyền Trang, Khuy Cơ cũng hoằng dương tín ngưỡng Thượng Sinh Đâu Suất và
tín ngưỡng này trở thành truyền thống của Pháp Tướng Tông.
_ Các Chú Sớ về Kinh Di Lặc Thượng Sinh gồm có:
Di Lặc Kinh Du Ý, 1 quyển của Ngài Cát Tạng
Di Lặc Thượng Sinh Kinh Tông Yếu, 1 quyển của Ngài Nguyên Hiểu
Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên Kinh Tán (hay Di Lặc
Thượng Sinh Kinh Sớ), 2 quyển do Ngài Khuy Cơ soạn.
2_ Tín ngưỡng Di Lặc Hạ Sinh: là tín ngưỡng tu hành dựa theo tinh thần của các
Kinh Di Lặc Hạ Sinh và Kinh Phật nói Pháp Diệt Tận… cầu mong được sinh vào
cảnh Tịnh Độ giữa nhân gian khi Đức Di Lặc ra đời, thành Phật dưới cây Long Hoa và
nói Pháp 3 Hội để cứu độ chúng sinh. Đây là thuyết Long Hoa Tam Hội.
_ Các Chú Sớ về Kinh Di Lặc Hạ Sinh gồm có:
Di Lặc Hạ Sinh Kinh Sớ, 1 quyển của Cảnh Hưng
Di Lặc Hạ Sinh Kinh Nghĩa Sớ, 1 quyển của Thiện Châu
Di Lặc Hạ Sinh Kinh Thuật Tát, 1 quyển (không rõ người biên soạn)
_ Do thuyết Di Lặc Hạ Sinh phù hợp với tinh thần Tịnh Độ Nhân Gian của Phật
Giáo Đại Thừa và tinh thần Thế Ngoại Đào Viên của dân tộc Trung Hoa, cho nên tín
ngưỡng Hạ Sinh và Long Hoa Tam Hội được phổ biến rất rộng rãi
Xuất Tam Tạng Ký, tập 12_ Pháp Uyển Tạp Duyên Nguyên Thủy Tập Mục
Lục Tự ghi nhận là: “ Đời Lưu Tống, vua Minh Đế (tại vị: 465-471) soạn Long Hoa
Thệ Nguyện Văn
Châu Ngung soạn Kinh Sư Chư Ấp Tạo Di Lặc Tam Hội Ký
Đời Tiêu Tề, Cánh Lăng Văn Tuyên Vương soạn Long Hoa Hội Ký
Ngài Nam Nhạc Huệ Tư soạn Lập Thệ Nguyện Văn
_ Theo các sách sử ghi chép thì các nhóm phản loạn thường dựa vào tín ngưỡng
Di Lặc Hạ Sinh mà xuyên tạc Kinh Văn rồi xúi giục dân chúng nổi loạn rất nhiều
.) Đời Tùy, năm 613 Tống Tử Hiền và Hướng Hải Minh tự xưng là Phật Di Lặc
xuất thế, tập hợp dân chúng làm loạn
.) Đời Đường, khoảng năm 713_755, ở Bối Châu (Hà Bắc) Vương Hoài Cổ tự
xưng là Tân Phật (tức Phật Di Lặc) dấy binh làm loạn và bị bắt
.) Khoảng năm 873_ 888 giáo đồ Di Lặc ở Tây Thục mở rộng thanh thế, tổ chức
Hội Di Lặc
.) Đời Bắc Tống, khoảng năm 1022_1063 Vương Tắc ở Bối Châu thống lãnh
giáo đồ Di Lặc khởi loạn 216
.) Đời Nam Tống, đời Nguyên, Bạch Liên Giáo trà trộn vào Di Lặc Giáo, mượn
danh Di Lặc Hạ Sinh để mưu phản
_ Ngoài tín ngưỡng Di Lặc Tịnh Độ ra, Pháp tu theo Đức Di Lặc còn được ghi
nhận qua nhiều Kinh Bản khác
.) Kinh Nhứt Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm Nhân Duyên Bất
Thực Nhục (No.183) ghi nhận tiền thân của Đức Di Lặc.
.) Đời Tây Tấn, Tam Tạng của nước Nguyệt Chi là Trúc Pháp Hộ dịch một
quyển Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Bản Nguyện Kinh (No.349)
.) Đời Hậu Ngụy, Thiên Trúc Tam Tạng Bồ Đề Lưu Chí đã dịch Bộ Phát Khởi
Bồ Tát Thù Thắng Chí Lạc Kinh (còn gọi là Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh) gồm 2
quyển và Bộ Di Lặc Bồ Tát Sở Vấn Kinh Luận gồm 9 quyển (No.1525).
.) Bộ Mật Giáo, tập 20 ghi nhận 4 Bộ Kinh liên quan đến Bồ Tát Di Lặc là:
1_ Từ Thị Bồ Tát Lược Tu Dũ Nga Niệm Tụng Pháp, 2 quyển [do Tam Tạng
Thiện Vô Úy dịch ở đời Đường] (No.1141)
2_ Phật Thuyết Từ Thị Bồ Tát Đà La Ni, 1 quyển [do Minh Giáo Đại Sư Pháp
Hiền dịch ở đời Tống] (No.1142)
3_ Phật Thuyết Từ Thị Bồ Tát Thệ Nguyện Đà La Ni Kinh, 1 quyển [do Minh
Giáo Đại Sư Pháp Hiền dịch ở đời Tống] (No.1143)
4_ Phật Thuyết Di Lặc Bồ Tát Phát Nguyện Vương Kệ, 1 quyển [do Tổng
Quản Nghi Tân Công Bố Tra Bố dịch ở đời Thanh] (No.1144).
_ Do Tín Ngưỡng Di Lặc rất phổ biến tại Trung Hoa, cho nên việc tạo Tượng Di
Lặc rất nhiều
Đời Nam Tề, Ngài Tăng Hộ có phát nguyện dựng tượng Di Lặc cao khoảng
303m ở núi Thạch Thành huyện Diệm nhưng Tâm Nguyện chưa thành. Đến năm 516
ngài Tăng Hựu hoàn thành tượng này và được người đời gọi là Tam Thế Thạch
Phật, Đại Phật huyện Diêm
Đời Bắc Ngụy, vua Hiến Văn Đế tạo động Di Lặc ở hang thứ 13 Vân Cương
Đại Đồng và an trí pho tượng ngồi cao 16m. Sau khi dời Đô về Lạc Dương, vua Hiến
Văn Đế còn tạo hang động Long Môn trong đó có hơn 100 pho tượng Di Lặc lớn nhỏ.
Đời Bắc Triều, trên sườn núi Hoàng Thạch ở Lịch Thành, Sơn Đông và ở núi
Thiên Phật cũng có nhiều tượng Di Lặc.
_ Đặc biệt vào đời nhà Lương thời Ngũ Đại có vị Hóa Thượng họ Thị tự xưng là
Khế Thử, hiệu là Trường Đinh Tử, người ở Phụng Hóa thuộc Minh Châu (hoặc nói
là người ở Tứ Minh), tỉnh Chiết Giang. Hàng ngày, Ngài thường dùng cây gậy gánh
một cái túi vải, thấy vật liền xin, cho nên người đời gọi Ngài là Bố Đại Hòa Thượng
Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, quyển 27 ghi nhận rằng: “Thân của Bố Đại Hòa
Thượng béo phì, lông mày rậm, bụng to, lời nói ra không có định được, nằm ngủ ở bất
kỳ chỗ nào, thường dùng cây gậy gánh một cái túi vải, hễ ai cho thứ gì thời đều bỏ vào
trong cái túi ấy nên người đời gọi là Trường Đinh Tử Bố Đại Sư. Sư hay chỉ bày cho
người việc tốt xấu, có thể dự báo được thời tiết”
Đời Lương, Trinh Minh năm thứ hai (916) tháng 03, sư sắp thị tịch nên ngồi
ngay thẳng trên tảng đá bên dưới Đông Lang ở chùa Nhạc Lâm rồi nói Kệ rằng:
“彌勒真彌勒,
Di Lặc chân Di Lặc 217
分身千百億;
Phân thân thiên bách ức
時時示時人,
Thời thời thị thời nhân
時人自不識
Thời nhân tự bất thức”
(Di Lặc thật Di Lặc
Phân thân ngàn trăm ức
Mọi lúc dạy người đời
Người đời chẳng tự biết)
Nói Kệ xong, an nhiên nhập tịch. Về sau, có người ở Châu khác nhìn thấy sư phụ
Bố Đại đang đi. Người đời cho rằng Sư là Thân ứng hóa của Bồ Tát Di Lặc, nên chọn
ngày mồng một Tháng Giêng (ngày sinh của Sư) làm ngày vía của Đức Phật Di Lặc và
xưng tụng là Xuân Di Lặc. Từ đây trở đi, hình tượng Hòa Thượng Bố Đại được tạo
dựng ở rất nhiều nơi và người dân Trung Hoa thường xem các Tôn Tượng này là tượng
Phật Di Lặc.
Sau này, sự tích của Hòa Thượng Bố Đại lưu truyền đến Nhật Bản thì Sư trở
thành một trong 7 vị Phúc Thần của dân tộc Nhật.
Hiện nay tại Trung Hoa, tín ngưỡng Di Lặc không còn thịnh hành như ngày xưa
là do tín ngưỡng vãng sinh về Thế Giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà phát triển
mạnh mẽ hơn, thế nhưng tín ngưỡng này vẫn còn phát triển sâu rộng ở Hàn Quốc, Nhật
Bản
_ Tại Việt Nam, tín ngưỡng vãng sinh về cung trời Đâu Suất tu tập dưới sự chỉ
dạy của Bồ Tát Di Lặc rất mờ nhạt, thế nhưng thuyết Long Hoa Tam Hội của Đức
Phật Di Lặc thì lưu truyền rất rộng trong dân gian.
Đại đa số người dân Việt Nam cho rằng Bố Đại Hòa Thượng tức là Đức Phật Di
Lặc nên thường phụng thờ Ngài qua hình tượng mập mạp phúc hậu và thường lễ bái
cầu xin Ngài ban cho sự vui vẻ, hạnh phúc, giàu có….cho dù những người chưa hề quy
y Tam Bảo, rất ít đến chùa chiền, nhưng hàng năm vẫn được nghe đến xuân Di Lặc và
Pháp Hội Long Hoa của Đức Phật Di Lặc trong thời vị lai. 218
HÌNH TƯỢNG BỒ TÁT DI LẶC
Hình tượng Bồ Tát Di Lặc được phụng thờ theo nhiều cách:
_ Hiện nay Bồ Tát Di Lặc đang mang thân Thiên Chủ ngự trong nội cung Đâu
Suất giáo hóa Đồ Chúng, nên Ngài thường được phụng thờ qua hình tượng vị Nhất Bổ
Xứ Bồ Tát
.) Kinh Quán Di Lặc Bồ Tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên ghi nhận là:
“Bồ Tát ngồi Kiết Già ở sàng tọa Sư Tử, trên điện Ma Ni, bên trong cái đài bảy
báu. Thân như màu vàng Diêm Phù Đàn, dài sáu mươi Do Tuần, thảy đều đầy đủ ba
mươi hai tướng, tám mươi chủng tử.
Nhục Kế trên đỉnh đầu phát ra màu Lưu Ly xanh biếc, mão báu được trang
nghiêm bằng Thích Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni (Śakrābhi lagna-maṇi-ratna), trăm ngàn
vạn ức báu Chân Thúc Ca (Kiṃśuka:đá báu màu đỏ).
Mão báu của cõi Trời ấy có trăm vạn ức màu sắc, trong mỗi một màu sắc có vô
lượng trăm ngàn vị Hóa Phật (Nirmāṇa-buddha), các vị Hóa Bồ Tát (Nirmāṇa-
bodhisatva) dùng làm Thị Giả (Ante-vāsin)
Lại có các vị Đại Bồ Tát ở phương khác, tác thập bát biến (18 loại thần biến),
tùy ý tự tại trụ trong mão Trời.
Tam Tinh của Di Lặc có ánh sáng của tướng Bạch Hào (Ūrṇā: sợi lông màu trắng
xoay vòng theo bên phải) tuôn ra mọi ánh sáng làm màu sắc của trăm loại báu.
Ba mươi hai tướng, trong mỗi một tướng có năm trăm ức màu sắc báu, mỗi một
vẻ đẹp (hảo) cũng có năm trăm ức màu sắc báu. Ánh lửa của mỗi một vẻ đẹp tuôn ra
tám vạn bốn ngàn đám mây ánh sáng cùng với các vị Thiên Tử đều ngồi trên Tòa hoa,
ngày đêm sáu thời thường nói Hạnh Bất Thoái Chuyển Địa Pháp Luân. Trải qua một
thời, thành tựu năm trăm ức Thiên Tử khiến chẳng thoái chuyển nơi A Nậu Đa La Tam
Miểu Tam Bồ Đề.
Như vậy (Bồ Tát) ở cõi Trời Đâu Suất Đà, ngày đêm luôn nói Pháp này, hóa độ
các vị Thiên Tử. Khi số tuổi ở cõi Diêm Phù Đề là năm mươi sáu ức vạn tuổi, thì Ngài
mới sinh xuống cõi Diêm Phù Đề”
219
220
.) Bồ Tát Di Lặc và Đồ Chúng trong nội cung Đâu Suất
221
222
.) Bồ Tát Di Lặc và chúng Thánh tiếp dẫn người vãng sinh về cung Trời Đâu
Suất:
223
.) Hình tượng Bồ Tát Di Lặc có hai tay, Tay trái cầm một đài sen báu, trên Đài
hoa có Táo Bình. Tay phải ngang vai, mở năm ngón tay làm thế Vô Úy Thí
_ Từ Thị Bồ Tát Lược Tu Dũ Nga Niệm Tụng Pháp, quyển hạ ghi nhận là:
Tượng Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát Tối Thắng Đại Tam Muội Gia, hiệu là Mãng
Hạ Muội Đát-Lợi Gia Tam Muội Gia (Mahā-maitreya-samaya), cũng có tên gọi là
Từ Sinh Tam Muội Gia. Tượng đoan chính vi diệu bậc nhất, màu sắc như màu Đàn
Kim (vàng đỏ lợt) của cõi Thiệm Bộ Châu (Jambu-dvīpa). Vẽ tượng có màu vàng đỏ
đậm là đúng nhất. Đầu đội mão bảy báu của năm Phật Trí, mọi loại Anh Lạc trang
nghiêm, áo khoác ngoài, vòng xuyến, vòng hoa, sợi dây Chú, chân châu, giải áo buông
thả, dây lưng trắng, cái đãi cột tóc….
Ở trong đại viên minh, vẽ hoa sen trăm báu lớn. Vẽ tượng ngồi Kiết Già ở trên
hoa sen, nhập Tam Muội Ngưng Định, diện mạo Từ Bi mỉm cười, có đủ 30 cánh tay
đều cầm hoa sen báu, ở trên hoa sen đều nắm giữ Bản Ấn Khế, đều biểu thị cho Tam
Muội Gia chẳng giống nhau. Có mọi loại hào quang ở thân, đỉnh đầu, sau lưng cũng
vậy
Đầu tiên, tay thứ nhất bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa vẽ Pháp Giới Tháp Ấn.
Tay thứ nhất bên phải nắm Kim Cương Quyền, duỗi Phong Tràng (ngón trỏ) chỉ gò má
phải khiến chẳng đến ba phân
Tiếp, tay thứ hai bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa dựng thẳng vẽ Thất Bảo Kim
Luân (bánh xe vàng bảy báu). Tiếp tay thứ hai bên phải tác Kim Cương Quyền, cũng
duỗi Phong Tràng (ngón trỏ) xoay ngang múa giỡn Tam Cổ Va Đam-La (chày Kim
Cương Tam Cổ)
Tiếp tay thứ ba bên trái dựa theo tay bên phải dựng xoay múa giỡn chày Kim
Cương Ngũ Cổ. Tay thứ ba bên phải cầm móc câu Kim Cương
Tiếp tay thứ tư bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen để sợi dây Kim Cương. Tay
thứ tư bên phải lật úp xuống vẽ cái loa báu như xoay múa giỡn hình chày Ngũ Cổ
Tiếp tay thứ năm bên trái cầm phướng phan báu. Tay thứ năm bên phải cầm hoa
sen, ở trên hoa sen vẽ cung điện bảy báu
Tiếp tay thứ sáu bên trái cầm tràng hạt. Tay thứ sáu bên phải cầm hoa sen, ở trên
hoa sen để Yết Ma Kim Cương 224
Tiếp tay thứ bảy bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen để Bảo Kim Cương. Tay
thứ bảy bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen để Pháp Kim Cương
Tiếp tay thứ tám bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai Hào Tướng
Tam Muội Gia. Tay thứ tám bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai My
Hình Tam Muội Gia
Tiếp tay thứ chín bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai Nhãn Tam
Muội Gia. Tay thứ chín bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ hình Như Lai Tỵ
Tam Ma Địa
Tiếp tay thứ mười bên trái cầm Như Lai Nhĩ Căn Tam Muội Gia với Tam
Mãng Địa Ấn. Tay thứ mười bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai Thiệt
Căn Tam Muội Gia
Tiếp tay thứ mười một bên trái cầm Như Lai Khẩu Tam Mãng Địa. Tay thứ
mười một bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Phật Tâm Tam Muội Gia
Tiếp tay thứ mười hai bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai Tề Tam
Ma Địa. Tay thứ mười hai bên phải cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Lai Mã Âm
Tàng Tam Ma Địa
Tiếp tay thứ mười ba bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ Như Ý Ma Ni
(Cintà-mani). Tay thứ mười ba bên phải cầm cây gậy Như Ý (Như Ý Bổng)
Tiếp tay thứ mười bốn bên trái cầm cây kiếm báu Như Ý. Tay thứ mười bốn bên
phải cầm cái gương báu của Như Lai (Như Lai Bảo Kính)
Tiếp tay thứ mười lăm bên trái cầm hoa sen, ở trên hoa sen vẽ sư tử báu. Tay thứ
mười lăm bên phải cầm chuông chày Kim Cương (Kim Cương Xử Đạc)
Phần bên trên, 32 tay như vậy đều dùng Kim Cương Quyền cầm hoa sen báu, ở
trên hoa sen để Ấn Khế đều dùng dây đai của cõi Trời để cột buộc, lửa rực sáng vây
quanh với dùng áo khoác ngoài, mỗi loại trang nghiêm Tượng.
225
_ Hệ thống Mật Giáo ghi nhận tôn tượng của Bồ Tát Di Lặc trong Trung Đài
Bát Diệp Viện thuộc Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) là:
Mật Hiệu là: Tấn Tật Kim Cương
Chữ chủng tử là: YU (㳡)
Tam Muội Gia Hình là: Táo Bình trên hoa sen, hoặc Tấn Tật Ấn trên hoa sen
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng Ấn, hay Tấn Tật Trì Ấn Còn gọi là Thế
Tôn Tấn Tật Trì Ấn. Hai tay kết Hư Tâm Hợp Chưởng, đan chéo 10 đầu ngón tay với
nhau, bên phải đè bên trái, cùng nhau gia trì rồi tự xoay chuyển. Biểu thị cho lực gia trì
nhanh chóng của sức Thần Biến Bí Mật của Như Lai.
Chân Ngôn là :
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᜌᗰ ᜌᗲᚾ㖁 ᜌᗶ㫭ᜒ㖁 ᗮ ᘬᜓᗞ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ MAHĀ-YOGA YOGINI
YOGEŚVARI _ KHAṂ JARĪKE _ SVĀHĀ
226
_ Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala), Di Lặc Bồ Tát là
một vị thuộc 16 Tôn đời Hiền Kiếp được an trí ở đầu phía Bắc bên phương Đông của
nhóm Tam Muội Gia Hội.
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Di Lặc Bồ Tát có Tôn Hình giống như 1000
vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là:Tấn Tật Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (゚), hay MAI ()
Tam Muộ Gia Hình là:cái bình Quân Trì
Tướng Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng, hai móng ngón trỏ cùng hợp nhau, hai
ngón cái đè mặt bên cạnh ngón trỏ
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿 ゚
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ A
Hay 㛸 ᦪᜅᜄ ゚ 㛿
OṂ_ MAITREYĀYA A SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Di Lặc Bồ Tát có chữ chủng tử là:A
(ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái bình Quân Trì. Biểu thị cho việc dùng nước của cái
bình năm Trí rưới rót mọi loài trong Pháp Giới
227
Tướng Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng, hai móng ngón trỏ cùng hợp nhau, hai
ngón cái đè mặt bên cạnh ngón trỏ
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿 ゚
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ A
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Di Lặc Bồ Tát có Chữ chủng tử là: MAI ()
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái ngửa trước rốn cầm bình Quân Trì, tay
phải đè nắp bình.
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ MAI
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Di Lặc Bồ Tát có chữ chủng tử là: MAI ()
Tôn Hình: Hai tay cầm đài hoa sen, bên trên có bình Quân Trì.
228
Tướng Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng, hai móng ngón trỏ cùng hợp nhau, hai
ngón cái đè mặt bên cạnh ngón trỏ
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ MAI
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Di Lặc Bồ Tát
có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Hai tay cầm đài sen, bên trên có bình Quân Trì.
Tam Muội Gia Hình là: Cái bình Quân Trì.
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿 ㅥ
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ A
229
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Di Lặc
Bồ Tát có chữ chủng tử là: MO (ᜀ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái bình Quân Trì. Biểu thị cho việc dùng nước của cái
bình năm Trí rưới rót mọi loài trong Pháp Giới
Chân Ngôn là:
㛸 ᦪᜅᜄ 㛿 ᜀ
OṂ_ MAITREYĀYA SVĀHĀ _ MO
_ Bồ Tát Di Lặc còn được phụng thờ qua hình tượng Đức Phật là:
230
231
Tượng Đại Phật Di Lặc ở Lạc Sơn, Tứ Xuyên, Trung Quốc được khởi tạo năm
713
232
_ Dân gian thường thờ phụng Bồ Tát Di Lặc qua hình tượng Bố Đại Hòa
Thượng là:
233
234
Hình Tượng Bố Đại Hòa Thượng ngồi với 5 đứa trẻ tượng trưng cho năm Dục đã
được giáo hóa.
Hình Tượng Bố Đại Hòa Thượng ngồi với 6 đứa trẻ tượng trưng cho “Lục tặc -
Lục căn” đã được giáo hóa.
235
Ngày nay, công trình xây dựng Đại Phật Di Lặc ở Kushinagar tại Ấn Độ theo
phong cách Di Lặc cổ xưa, có thể là tượng Phật Di Lặc lớn nhất thế giới.
236
THỦ ẤN CHÂN NGÔN CỦA DI LẶC BỒ TÁT
Chữ chủng tử là: YU (㳡) hay MAI () hay A (ㅥ)
Mật Hiệu là: Tấn Tật Kim Cương
Tam Muội Gia Hình là: Táo Bình trên hoa sen, hoặc Tấn Tật Ấn trên hoa sen
1_ Di Lặc Bồ Tát Thủ Ấn (1)_ Tốt Tháp Bà Ấn (Stūpa-mudra)
Ấn này biểu thị cho nghĩa Di Lặc Bồ Tát cầm cái tháp có tất cả Pháp Thân. Đối
với tất cả Ái Kiến, Phiền Não cho đến vật chẳng thể thắng của hàng Nhị Thừa thời đều
thắng được. Biết tất cả tính hiểu biết (Tri Tính) của chúng sinh, tương ứng mà khởi
nghĩa Từ (ban niềm vui). Lại xưng là Phát Sinh Phổ Biến Đại Bi Tâm Tam Muội
Gia Ấn.
Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) kèm dựng đứng hai ngón cái
hợp nhau rồi tiếp chạm phần gốc của hai ngón giữa, co cong hai ngón trỏ vịn nhẹ đầu
ngón của hai ngón cái
*) Từ Thị Bồ Tát Căn Bản Chân Ngôn:
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ĀRYA-AVALOKITEŚVARĀYA BODHISATVĀYA MAHĀ-
SATVĀYA MAHĀ-KĀRUṆIKĀYA
TADYATHĀ: OṂ _ MAITRI MAITRI _ MAITRA MANASE _ MAITRA-
SAṂBHAVE _ MAITRODBHAVE _ MAHĀ-SAMAYA _ SVĀHĀ
[NAMO RATNA-TRAYĀYA: Quy mệnh Tam Bảo
NAMAḤ ĀRYA-AVALOKITEŚVARĀYA BODHISATVĀYA MAHĀ-
SATVĀYA MAHĀ-KĀRUṆIKĀYA: Kính lễ Đấng có đầy đủ Tâm Đại Bi là Thánh
Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha Tát
TADYATHĀ: Liền nói Chú là
OṂ: Nhiếp triệu
MAITRI: Từ, tâm ý hiền thiện hay đem lại niềm vui cho người khác
MAITRI: Từ
MAITRA MANASE: ý nguyện sâu xa về lòng Từ
MAITRA-SAṂBHAVE: Phát sinh ra lòng Từ
MAITRODBHAVE = MAITRA + UDBHAVE: Hiện lên lòng Từ
MAHĀ-SAMAYA SVĀHĀ: Quyết định thành tựu Đại Thệ Nguyện]
237
2_ Di Lặc Bồ Tát Thủ Ấn (2) _ Liên Hoa Hợp Chưởng:
Đây là Thủ Ấn của Di Lặc Bồ Tát tại Trung Đài Bát Diệp Viện trong Thai Tạng
Giới, là Liên Hoa Hợp Chưởng.
Hay Tấn Tật Trì Ấn còn gọi là Thế Tôn Tấn Tật Trì Ấn. Hai tay kết Hư Tâm
Hợp Chưởng, đan chéo 10 đầu ngón tay với nhau, bên phải đè bên trái, cùng nhau gia
trì rồi tự xoay chuyển. Biểu thị cho lực gia trì nhanh chóng của sức Thần Biến Bí Mật
của Như Lai.
Chân Ngôn là :
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᜌᗰ ᜌᗲᚾ㖁 ᜌᗶ㫭ᜒ㖁 ᗮ ᘬᜓᗞ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ MAHĀ-YOGA YOGINI
YOGEŚVARI _ KHAṂ JARĪKE _ SVĀHĀ
[NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ: Quy mệnh khắp cả chư Phật
MAHĀ-YOGA: Đại Tương Ứng
YOGINI: Người tương ứng (Người tu Du Già)
YOGEŚVARI: Tương ứng tự tại
KHAṂ: Hư Không
JARĪKE: Tác sinh
SVĀHĀ: Quyết định thành tựu]
3_ Di Lặc Bồ Tát Thủ Ấn (3):
Đây là Thủ Ấn của Di Lặc Bồ Tát tại Thành Thân Hội của Kim Cương Giới.
Chắp hai tay lại giữa rỗng, hai ngón trỏ cùng hợp móng ngón, hai ngón cái đè
mặt ngón bên cạnh hai ngón trỏ
Chân Ngôn là:
㫘 ᦪㆎ ㅥ 㛿
OṂ _ MAITREYA _ A _ SVĀHĀ
[OṂ: Quy mệnh
MAITREYA: Từ Thị, Di Lặc
A: Chủng tử
SVĀHĀ: Quyết định thành tựu]
238
_Từ Thị Bồ Tát Thệ Nguyện Đà La Ni:
㗍ᜀ 㗕ᗰテᚒ ᜵ᝰ㪧ᚁᜊ ᚌᚙᗰᚍ⇰ᚒ ᝌ㛹㛶㳆㛱㗚
ᚌ㜀ᚙ ㅥᘮᚒ ㅥᘮᚖ ㅼᜊ 㗕㇂㗕㇂ ᦥテᜤᗚᚒ オ㇂オ㇂ ᛸ
ᝌᛸ㇁ ᝎ㛲 㗕㇂㗕㇂ 㐅㛲 ソ ᜫ ㍅ Ộ㇂Ộ㇂ ㅥ㋍ᗢ ᝌᛸᜎ 㐅㛲 㐅㛲
ᛸ㐅㛲 㛿
Namo bhagavate Śākyamuṇāye tathāgatāya arhate samyaksaṃbuddhāya
Tadyathā: Ajite ajitaṃ jaye, bhara bhara, maitra avalokite, kara kara,
mahā-samaya siddhi, bhara bhara, bodhi māna vī ni, smara smara, asmākaṃ
samayaṃ, bodhi bodhi mahā-bodhi svāhā
[Namo bhagavate Śākyamuṇāye tathāgatāya arhate samyaksaṃbuddhāya:
Quy y Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chính Giác
Tadyathā: Như vậy, liền tuyên nói Chú là
Ajite: Vô Năng Thắng
Ajitaṃ: Nhóm Vô Năng Nắng
Jaye: Tôn Thắng
Bhara bhara: Đắc được, đạt được
Maitra avalokite: Tâm Từ quán chiếu khắp cả
Kara kara: Tác làm, gây tạo
Mahā-samaya siddhi: Thành tựu Đại Thệ Nguyện
Bhara bhara: Đắc được, đạt được
Bodhi māna vī ni: Dẫn đến ý chí Bồ Đề
Smara smara: Ghi nhớ, ghi nhớ
Asmākaṃ samayaṃ: Thệ Nguyện của chúng ta
Bodhi bodhi mahā-bodhi : Giác Tuệ, Giác Tuệ, Đại Giác Tuệ
Svāhā: Quyết định thành tựu]
Từ Thị Bồ Tát lại phát lời nguyện: “Nếu có chúng sinh ở thời Mạt Pháp trong đời
vị lai mà hay đọc tụng, thọ trì. Giả sử Nghiệp xưa (Túc Nghiệp) bị đọa vào ngục A Tỳ
thì khi Tôi thành Phật sẽ dùng Phật Lực cứu bạt ra khỏi, lại trao cho A Nậu Đa La
Tam Miệu Tam Bồ Đề Ký”
_Từ Thị Bồ Tát Đà La Ni:
ᚌ㜀ᚙ ᝎᜒᝎᜒ ᝌ㇂ᝌ㇂ 㫾᜔㫾᜔ ᚰ㇂ᚰ㇂ ᘔ㗟 ᘔ㗟 ᛸᘔ㗟
㗕㇂ 㗕㇂ ᛸ㗕㇂ ᗢㆼ ᗢㆼ ᛸᗢㆼ 㜪 ᜪᝌ㇂ ᚰ↜ ㅥᤈ ᝍᗰ㇂ 㛿
Tadyathā: Siri siri, sara sara, suru suru, dhara dhara, cala cala mahā-cala,
bhara bhara mahā-bhara, kaṃpa kaṃpa mahā-kaṃpa, hūṃ visara dharma
agra-sāgara svāhā
[Tadyathā: Như vậy, liền tuyên nói Chú là
Siri siri: Tuôn chảy điều tốt lành
Sara sara: Lưu chuyển sự bền chắc
Suru suru: Tuôn chảy nước Cam Lộ
Dhara dhara: Gìn giữ phụng trì
Cala cala mahā-cala: Lay động, lay động, lay động lớn mạnh
Bhara bhara mahā-bhara: Đắc được, đạt được, đạt được sự to lớn
Kaṃpa kaṃpa mahā-kaṃpa: Chấn động, chấn động, chấn động lớn mạnh
Hūṃ: Thành tựu
Visara dharma agra-sāgara: Kéo dài dẫn đến biển tối thắng của Pháp
svāhā: Quyết định thành tựu]
239
KIM CƯƠNG TÁT ĐỎA BỒ TÁT
Kim Cương Tát Đỏa, tên Phạn là Vajra-satva, dịch âm là Phộc Nhật-La Tát Đỏa,
dịch ý là Dũng Mãnh Hữu Tình. Lại xưng là Chấp Kim Cương, Trì Kim Cương, Kim
Cương Thủ, Kim Cương Thủ Bồ Tát Ma Ha Tát, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ, Kim
Cương Thủ Bí Mật Chủ, Trì Kim Cương Cụ Tuệ Giả, Kim Cương Thượng Thủ, Đại
Lạc Kim Cương, Tô La Đa Kim Cương, Nhất Thiết Như Lai Phổ Hiền, Phổ Hiền Bồ
Tát, Phổ Hiền Kim Cương Bồ Tát, Kim Cương Thắng Bồ Tát, Kim Cương Tạng, Chấp
Kim Cương, Bí Mật Chủ…
_Kim Cương Tát Đỏa là vị Tổ thứ hai trong tám vị Tổ của Chân Ngôn Tông. Là
vị Thánh Tôn rất được tôn sùng trong Phật Giáo Mật Tông
_Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva): Xưa dịch là Mật Tích, nếu giản lược cho rõ
nghĩa thì Bí Mật Chủ (Guhyādhipati) tức là Dạ Xoa Vương (Yakṣa-rāja) cầm chày
Kim Cương hộ vệ Đức Phật, cho nên nói là Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi). Nhưng
trong ý nghĩa sâu xa, khi nói Dạ Xoa (Yakṣa) tức là Thân Ngữ Ý mật của Như Lai, chỉ
Phật với Phật mới có thể biết, cho đến hàng Bồ Tát Di Lặc (Maitreya) đối với Thần
Thông bí mật như vậy chẳng phải là nơi mà sức theo kịp. Rất bí mật trong bí mật ấy là
Chủ của Tâm Mật, cho nên nói là Bí Mật Chủ, hay cầm giữ Ấn này cho nên nói là
Chấp Kim Cương (Vajra-dhāra)
_Vì Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát cầm chày Kim Cương cho nên có tên gọi là Kim
Cương Thủ (Vajra-pāṇi), thuộc Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya) là thân hóa hiện Phẫn
Nộ của Bồ Tát Đại Thế Chí (Mahā-sthāma-prāpta) cùng với nhóm Quán Âm
(Avalokiteśvara), Văn Thù (Maṃjuśrī) hợp làm Tam Tộc Tính Tôn, phân biệt đại 240
biểu cho ba loại đặc tính là Lực Lượng, Từ Bi, Trí Tuệ… cho nên xưng là Đại Lực
Kim Cương Thủ
_ Trong điển Tịch của Phật Giáo: Khi Đức Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocana-
buddha) nhập vào Phổ Hiền Tam Muội (Samanta-bhadra-samādhi) thì sinh ra Kim
Cương Tát Đỏa (hay Kim Cương Thủ) cho nên Kim Cương Tát Đỏa thuộc Phật Bộ
(Buddhā-kulāya) cùng với Bồ Tát Phổ Hiền (Samanta-bhadra) là vị Thánh Tôn đồng
Thể khác tên, cũng được xưng là Kim Cương Tâm Bồ Tát (Vajra-citta-bodhisatva)
_Tạng Truyền Phật Giáo ghi nhận Kim Cương Tát Đỏa là một trong rất nhiều vị
Kim Cương Trì (Vajra-dhāra), thường thường giảng giải đến Pháp Thân Phổ Hiền.
Theo Giáo Lý thì năm Đức Phật ở năm phương là năm vị Kim Cương Trì: Đại Nhật
Như Lai ở phương trung ương, A Súc Phật ở phương Đông, Bảo Sinh Phật ở phương
Nam, A Di Đà Phật ở phương Tây, Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc. Riêng
Pháp Thân Phổ Hiền tức là vị Kim Cương Trì thứ sáu thì chính là Kim Cương Tát Đỏa
và Ngài còn có tên gọi là Kim Cương Tổng Trì
_Bí Tạng Ký ghi nhận Tôn này là Kim Cương Tát Đỏa của Thai Tạng Giới
(Garbha-dhātu)
Phần cuối của Bí Tạng Ký lại đề cử Ngài là Tát Đỏa (Satva) của Kim Cương
Giới (Vajra-dhātu)
_Kim Cương Tát Đỏa tượng trưng cho Tâm Bồ Đề bền chắc chẳng hoại và ý
nghĩa phiền não tức Bồ Đề. Tôn này là Bộ Chủ của Đại Trí Kim Cương Bộ, chủ về
Đức chiết phục, có Bản Thệ là tồi phá tất cả Ma ác.
HÌNH TƯỢNG CỦA KIM CƯƠNG TÁT ĐỎA
_Lý Thú Thích Kim Cương Tát Đỏa Sơ Tập Hội Phẩm nói rằng: “Kim Cương
Tát Đỏa: đầu đội mão năm Phật, vui vẻ mỉm cười, tay trái kết Kim Cương Mạn Ấn,
tay phải rút ném Bản Chử Đại Kim Cương (chày Kim Cương), làm thế Dũng Tiến
.)Bản Chử (chày Kim Cương) là Pháp Giới xưa nay vốn thanh tịnh
.) Tay trái kết Kim Cương Mạn Ấn: là giáng phục hữu tình Tả Đạo Tả Hạnh
khiến quy thuận Đạo
.) Tay phải rút ném chày Kim Cương Ngũ Trí, làm thế Dũng Tiến: là khiến cho
Tam Ma Địa thâm sâu của Ta Người thuận theo Phật Đạo, niệm niệm thăng tiến, đắc
được Địa của Bồ Tát Phổ Hiền. Nắm quyền để bên cạnh eo là Kim Cương Mạn Ấn”
_Kim Cương Đỉnh Liên Hoa Bộ Tâm Niệm Tụng Nghi Quỹ nói rằng: “Quyền
trái để bên cạnh eo, tay phải rút ném cái chày”
241
_Lý Thú Thích Tỳ Lô Giá Na Lý Thú Hội Phẩm nói rằng: “Kim Cương Tát
Đỏa Bồ Tát có vành trăng ở lưng, đội mão năm Đức Phật, tay phải cầm chày Kim
Cương, tay trái cầm cái chuông, ngồi Bán Già”
_Ngũ Bí Mật Quyết nói rằng: “Dùng năm Đức Phật làm mão đội, lưng dựa vành
trăng, ngồi trên hoa sen trắng, tay phải cầm chày Kim Cương Ngũ Trí an trên trái tim,
tay trái cầm cái chuông Bát Nhã Ba La Mật Kim Cương đè trên háng, thân màu trắng”
.)Tay phải cầm chày Kim Cương an trên trái tim: Kim Cương Tát Đỏa này chủ
về Pháp Ấn Kim Cương của tất cả Như Lai, người cầm cái chày này hay nghiền nát
mười loại phiền não
.) Tay trái cầm cái chuông: biểu thị cho việc dùng Pháp Âm thanh tịnh của Bát
Nhã Ba La Mật cảnh giác tất cả hữu tình với người thuộc Nhị Thừa (Thanh Văn Thừa
và Duyên Giác Thừa)
.)Thân màu trắng: biểu thị cho Kim Cương trắng tinh không có nhiễm dính
242
_Tạng Truyền Phật Giáo ghi nhận hình tượng của Bản Tôn Kim Cương Thủ Bồ
Tát (hay Kim Cương Tát Đỏa) là: “Thân màu xanh đen, một đầu hai cánh tay, đội mão
năm đầu lâu, ba mắt có ba con ngượi tròn trịa, màu vàng tu Pháp Nghịch Thụ, thân
khoác áo Trời tung bay, dùng da cọp làm quần, tay phải nâng cao Phẫn Nộ Ấn cầm cái
chày Kim Cương, tayh trái để ngang ngực Phẫn Nộ Ấn cầm sợi dây Kim Cương, co
chân phải duỗi chân trái, đứng trên vành trăng hoa sen bảy màu trong lửa rực của Bát
Nhã
_Do Kim Cương Tát Đỏa là vị Chủ Tôn duy nhất của Tiêu Nghiệp diệt Tội.
Hành Giả vì Sám Tội Giải Oan nên tu Pháp của Bản Tôn ắt công hiệu rất lớn. Vả lại,
muốn thành tựu Vô Thượng Bồ Đề đều phải trải qua từng giai đoạn, nếu thường trì
Chân Ngôn của Bản Tôn sẽ hay phá trừ phiền não, chận đứng các niệm ác, sinh các
Công Đức. Bởi vậy Hành Giả tu Mật Giáo trước tiên thường tu Pháp của Kim Cương
Tát Đỏa (hay Kim Cương Thủ) để giáng phục sự quấy nhiễu của Ma, hộ trì cho Hành
Giả.
Phàm tu Pháp tụng Kinh trì Chú, khi thời khóa xong rồi thì nên tụng thêm Kim
Cương Tát Đỏa Bách Tự Minh ba biến hoặc bảy biến, sau đó Hồi Hướng ắt viên mãn
tất cả Công Đức. Giả sử có sai sót thì Kim Cương Hộ Pháp chẳng bắt lỗi.
Kim Cương Tát Đỏa Bách Tự Minh là:
㛸 㙝᥄ᝌᲰ ᝌᛸᜄᛸᛀᛉᜄ 㙝᥄ᝌᲰ Ჶᛄᛈᚎ⼈ ⹌ᙼ ᜨ 㫾ᚔᣈ
᛬ᜨ 㫾ᛐᣈ ᛬ᜨ ゚ᛀᜐ㬎 ᛬ᜨ ᝌ⇀ᝎ㫩 ᧠ᜄ㜯 ᝌ⇀ ᗘ↜㫾 ᘔ
ᘖが 㰴ᜎ ᗜ᜔ ゖ ᝠ ᛬ᗰᜲ ᝌ⇀ ᚌᚙᗰᚌ 㙝᥄ 㮞ᘔ 㙝᥇ ᛬ᜨ
ᛸ ᝌᛸᜄ ᝌᲰ ㅴ 㜪
OṂ_ VAJRA-SATVA SAMAYAM ANUPĀLAYA_VAJRA-SATVA
TVENA-UPATIṢṬA DṚḌHO ME BHAVA, SUTOṢYO ME BHAVA, SUPOṢYO
ME BHAVA, ANURAKTO ME BHAVA, SARVA SIDDHIṂ ME
PRAYACCHA, SARVA KARMASU CA ME CITTAṂ ŚRĪYAṂ KURU, HŪṂ
HA HA HA HA HOḤ, BHAGAVAṂ SARVA TATHĀGATA VAJRA, MA ME
MUṂCA, VAJRĪ BHAVA, MAHĀ-SAMAYA-SATVA, AḤ HŪṂ 243
* ) Tạm diễn dịch là :
Hỡi Kim Cương Tát Đỏa! Xin Ngài hãy giữ gìn Bản Thệ! Xin Kim Cương Tát
Đỏa hãy trú ngụ nơi con! Làm cho con được kiên cố vững chắc. Giúp cho con hoàn
thành mọi nguyện cầu. Thúc đẩy con phát khởi Tâm Đại Trí mà thành tựu tất cả. Đồng
thời làm cho Tâm của con được tinh khiết trong sáng trong mọi hành động_ Hùm Ha
Ha Ha Ha Hốc_ Xin Đức Thế Tôn, tất cả Như Lai Kim Cương đừng bỏ rơi con. Hãy
giúp con phát sinh được Trí Tuệ Đại Không phá hoại mọi phiền não. Đừng để con
phân cách với Đấng Kim Cương Tát Đỏa mà thành tựu đại nguyện hữu tình_ Ắc, Hùm
.) Kim Cương Tát Đỏa Tâm Chú là:
㛸 㙝᥄ᝌᲰ㜪
OṂ_ VAJRA-SATVA HŪṂ
_Tu Pháp của Kim Cương Tát Đỏa (hay Kim Cương Thủ) có vô lượng Công
Đức chẳng thể nghĩ bàn. Nói đơn giản là hay đầy đủ Uy Quyền lớn, chế phục các Ma
và Ngoại Đạo, tiêu diệt tất cả tai nạn do tất cả đất, nước, lửa, gió, hư không sinh ra,
tất cả mong cầu không có gì chẳng thành tựu như Nguyện. Khi mệnh chung thời sinh
thẳng về Tịnh Thổ ở phương Tây, ấy là do Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát thống lãnh tất
cả Kim Cương Hộ Pháp phụ trợ Đức Phật A Di Đà hóa độ chúng sinh
Trong tám vị Bồ Tát trợ giúp cho Đức Phật A Di Đà thì Kim Cương Thủ (Vajra-
pāṇi) biểu thị cho Diệu Đức Nội Chứng của Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) là
chiết phục và tồi phá tất cả Ma ác
_Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-manḍala) thì Kim Cương
Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi) là Chủ Tôn của Kim Cương Thủ Viện, biểu thị cho Diệu
Đức Nội Chứng của Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva). Do đó Kim Cương Thủ Viện
còn được xưng là Tát Đỏa Viện. 244
Viện này có vị trí ở phương Nam của Trung Đài Bát Diệp Viện, biểu thị cho
Đức Đại Trí của Như Lai, giáng phục các Ma Não, tức đại diện cho Phật Trí có công
năng làm đủ tất cả Nguyện. Đây là Trí Thân giống như hư không chẳng có thể phá
hoại được và tất cả mọi thứ đều không thể hàng phục Trí này được. Do đó các Tôn
trong viện này đều đội các mão báu biểu thị cho Bát Nhã Ba La Mật Đa, cho đến khi
đạt Quả Địa của Tâm thì đổi tên là Nhất Thiết Chủng Trí
Kim Cương Thủ Viện đại biểu cho Đức trên cầu Đại Trí, tức do Đức Nội Chứng
của Tỳ Lô Giá Na Như Lai (Vairocana-tathāgata) gia trì cho nên từ Nhất Thiết Trí Ấn
đều hiện thân Chấp Kim Cương (Vajra-dhāra) với hình sắc tính loại đều có biểu
tượng tùy theo Bản Duyên Tính Dục dẫn nhiếp chúng sinh. Đây cũng là diệu dụng của
Thành Sở Tác Trí hay khiến cho ba Nghiệp đồng với Bản Tôn, từ một Môn này được
vào Pháp Giới, tức là vào khắp tất cả Pháp Giới Môn
Trong ba Bộ: Phật Bộ, Liên Hoa Bộ và Kim Cương Bộ thì Viện này biểu thị cho
Đức Đại Trí của Kim Cương Bộ , hay tồi phá phiền não.
Viện này có 33 Tôn của nhóm Hư Không Vô Cấu Luân Trì Kim Cương biểu thị
cho Đức Đại Trí Thượng Cầu (bên trên cầu Đại Trí). Trong đó có 21 Tôn Chủ và 12
Tôn quyến thuộc
_Hàng thứ nhất (từ bên trái qua bên phải, từ trên xuống dưới):gồm 14 Tôn
1_ Phát Sinh Kim Cương Bộ (ᜨ)
2_ Kim Cương Câu Nữ (ㅥ)
3_ Kim Cương Thủ Trì Kim Cương (㜪)
4_ Bên phải: Kim Cương Sứ Giả Nữ (ᜨ)
Bên trái: Kim Cương Sứ Giả (ᜨ)
5_ Kim Cương Tát Đỏa (㜪)
6_ Bên trái: Sứ Giả (ᜨ)
Bên phải Kim Cương Câu (㈦)
7- Trì Kim Cương Phong (㜪)
8_ Bên trái: Sứ Giả (ᜨ)
Bên phải: Kim Cương Trì (ᜨ)
9_ Kim Cương Quyền (㜪)
10_ Tốn Bà Bồ Tát (ᜨ)
11_ Nguyệt Yểm Phẫn Nộ (㜫)
_Hàng thứ hai (từ bên trái qua bên phải, từ trên xuống dưới):gồm 12 Tôn (?11
Tôn) 245
1_ Hư Không Vô Cấu Trì Kim Cương (㜪)
2_ Kim Cương Lao Trì Bồ Tát (㜪)
3_ Phẫn Nộ Trì Kim Cương (㜪)
4_ Kim Cương Sứ Giả (ᜨ)
5_ Hư Không Vô Biên (㜪)
6_ Kim Cương Quyền (ᜨ)
7_ Kim Cương Tỏa (ᜲ)
8_ Kim Cương Đồng Tử (㒕)
9_ Kim Cương Trì (㜪)
10_ Bên trái: Tốn Bà Kim Cương (㫾) [Đồ hình này ghi dư, vì Tôn này chính là
Tốn Bà Bồ Tát ở hàng thứ nhất]
Bên phải: Kim Cương Vương Bồ Tát (ᜨ)
11_ Trú Vô Hý Luận (㜪)
_Hàng thứ ba (từ bên trái qua bên phải, từ trên xuống dưới): gồm 08 Tôn
1_ Kim Cương Luân Trì (㭿)
2_ Kim Cương Nhuệ (㫾)
3_ Thích Duyệt Trì Kim Cương Man (㜪)
4_ Kim Cương Nha (㜪)
5_ Ly Hý Bồ Tát (㜪)
6_ Kim Cương Sứ Giả (ᜨ)
7_ Trì Diệu Kim Cương (㜪)
8_ Trì Kim Cương Lợi (㜪)
1_ Phát Sinh Kim Cương Bộ Bồ Tát (Vajra-kulodbhava):
Tôn này biểu thị cho Tâm Bồ Đề bền chắc chẳng hoại
Tôn Hình: Thân màu vàng lợt, tay kết Định Ấn, trên ấn có chày Độc Cổ dựng
đứng, khoác Thiên Y, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Bất Hoại Kim Cương
Chữ chủng tử là VA (ᜨ) 246
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
2_ Kim Cương Câu Nữ Bồ Tát (Vajrāṃkuśī):
Tôn này dùng móc câu Bát Nhã, triệu tập chúng sinh, ban cho Trí Tuệ của chân
thắng.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải co cánh tay, ngửa lòng bàn tay để dưới nách,
các ngón tay đều hướng xuống dưới, giương mở ngón cái, hơi mở ngón trỏ. Tay trái
cầm móc câu Kim Cương, dựng đứng đầu gối trái, mặt hướng về bên phải nhìn xưống
dưới, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Triệu Tập Kim Cương
Chữ chủng tử là: ĀḤ (㭻) hay A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Tam Cổ , hay cái mâu Tam Cổ
247
Tướng Ấn là: Đại Câu Triệu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㭻 ᝌ⇀ᦥ㛺ᚎᚒ㖁 ᚌᚙᗰ㫫ᗜ᜴㖁 ᜰᚲᘕ↨
ᛈᜒᛍᜐᗘ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀṂ_ AḤ SARVATRA APRATIHATE
TATHĀGATA-AṂKUŚA BODHI-CĀRYA PARIPŪRAKA_ SVĀHĀ
3_ Kim Cương Thủ Trì Kim Cương Bồ Tát (Vajra-hasta-vajra-dhāra):
Tôn này đồng Thể với Mang Mãng Kê Bồ Tát (Māmaki) của Kim Cương Bộ
Mẫu, chủ về Đức hay sinh (Năng Sinh) của Kim Cương Bộ
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, Tay trái hướng vào bên trong cầm chày Tam Cổ,
tay phải tác Thí Nguyện , mắt hới hướng về bên phải, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Kiên Cố Kim Cương hoặc Bí Mật Kim Cương
Chữ chủng tử là: TRIṂ (㳏)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
248
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁 ᦦᙐ ᦦᙐ㖁 ᘬᜄᚎ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ TRIṬA TRIṬA JAYATI_ SVĀHĀ
4_ Kim Cương Sứ Giả (Vajra-ceṭa):
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải cầm cây gậy (Bổng)
Mật Hiệu là: Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Độc Cổ Kích
Tướng Ấn là: Phụng Giáo Đao Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ
249
5_ Kim Cương Sứ Giả Nữ (Vajra-ceṭī):
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện tướng phẫn nộ, tay phải cầm cây đao, co dựng đầu
gối trái, giao ống chân mà ngồi.
Mật Hiệu là: Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: cây đao
Tướng Ấn là: Phụng Giáo Đao Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ
6_ Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva):
Kim Cương Tát Đỏa tượng trưng cho tâm Bồ Đề bền chắc chẳng hoại và ý nghĩa
phiền não tức Bồ Đề.
Tôn này là Bộ Chủ của Đại Trí Kim Cương Bộ, chủ về Đức chiết phục, có Bản
Thệ là tồi phá tất cả Ma ác
Tôn Hình: Thân màu thịt, nghiêng đầu về bên phải. Co cong cánh tay phải hơi
nâng hướng lên trên, ngửa lòng bàn tay hướng lên trên, hơi co 5 ngón tay, trong lòng 250
bàn tay cầm cái chày Tam Cổ. Co cong cánh tay trái, nâng bàn tay hướng lên trên, nắm
quyền để trước ngực, đối lưng lòng bàn tay với tay phải.
Mật Hiệu là: Chân Như Kim Cương
Chữ chủng tử là: VAṂ (ᜲ) hay HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương Ngũ Cổ
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁ᘔⴤ ᛸ ᝀ 㖁 㜪㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ CAṆḌA MAHĀ-ROṢAṆA_ HŪṂ
7_ Kim Cương Quân Trà Lợi (Vajra-kuṇḍalī):
Tôn này biểu thị cho nghĩa dùng nước Cam Lộ tẩy rửa tâm của chúng sinh, hoặc
dùng gia trì vật cúng dường
Tôn Hình: Thân màu thịt, hai tay giao chéo nhau trước ngực, dựng thẳng 3 ngón
trỏ, giữa, vô danh; co ngón út và ngón cái. 251
Mật Hiệu là: Cam Lộ Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Đại Tam Muội Gia Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜀ ᜐᾰᦤᜅᜄ
ᚼᜃ 㫿ⴤ ᜨ᥄ᚱᜄ
㛸 㫬ᜠ 㫬ᜠ ᚎ⼈ᚎ⼈ ᜨ᳠ᜨ᳠ ㇻ㗍ㇻ㗍 ゚㜮ᚒ ゖ ᛔ㪪
NAMO RATNA-TRAYĀYA
NAMAḤ ŚCAṆḌA MAHĀ-VAJRA-KRODHĀYA
OṂ – HULU HULU – TIṢṬA TIṢṬA – BANDHA BANDHA – HANA
HANA – AMṚTE HŪṂ PHAṬ.
8_ Kim Cương Câu Nữ (Vajrāṃkuśī):
Tôn này đồng Thể với Kim Cương Câu Nữ Bồ Tát, hay câu triệu tất cả chúng
sinh, viên mãn công đức của Như Lai
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay trái cầm móc câu Kim Cương, dựng đứng đầu gối
phải đạo xéo lên lòng bàn chân trái, khoác Thiên Y
252
Mật Hiệu: Triệu Tập Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪) hay ĀḤ (㜧)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu
Tướng Ấn là: Đại Câu Triệu Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 㭻 ᝌ⇀ᦥ㛺ᚎᚒ㖁 ᚌᚙᗰ㫫ᗜ᜴㖁 ᜰᚲᘕ↨
ᛈᜒᛍᜐᗘ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀṂ_ AḤ SARVATRA APRATIHATE
TATHĀGATA-AṂKUŚA BODHI-CĀRYA PARIPŪRAKA_ SVĀHĀ
9_ Trì Kim Cương Phong Bồ Tát (Vajràgra-dhàri):
Tôn này đại biểu cho Phật Đà dùng cây cọc Trí Tuệ sắc bén phá trừ phiền não
của chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái kết Trí Quyền, ngửa hướng lòng bàn tay lên
trên, để dưới rốn, tay phải cầm cây gậy (bổng)
Mật Hiệu là: Tấn Lợi Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (ゖ) 253
Tam Muội Gia Hình là: Độc Cổ Kích
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
㫘 㛺ᚎ㬊㪶 Ჰᜂ ᝌᲺ ᛸㇷᜧ
OṂ _ PRATI-GṚHṆA-TVAM-IMAṂ-SATVAṂ MAHĀ-BALAḤ
10_ Kim Cương Sứ Giả (Vajra-ceṭa):
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình phẫn nộ, tay trái cầm chày Độc Cổ
Mật Hiệu là: Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Đao
Tướng Ấn là: Phụng Giáo Đao Ấn
254
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ
11_ Kim Cương Trì (Vajra-dhāra):
Tôn này dùng sức mạnh to lớn phá trừ vô minh căn bản của chúng sinh, nên có
tên gọi là Đại Lực Kim Cương (Mahā-bala-vajra).
Tôn Hình:Thân màu thịt, hiện hình phẫn nộ, tay trái cầm chày Độc Cổ, khoác
Thiên Y
Mật Hiệu là: Đại Động Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Bổng Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ 255
12_ Kim Cương Quyền Bồ Tát (Vajra-muṣṭi):
Tôn này dùng Trí Tuệ Kim Cương phá hoại phiền não, ba độc Tham Sân Si của
chúng sinh. Tay cầm cái chày Thập Tự Yết Ma đại biểu cho Sở Hạnh mãnh liệt mau
chóng phá trừ phiền não.
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái nắm quyền ngửa lòng bàn tay lên trên, tay
phải cầm cái chày Thập Tự Độc Cổ.
Mật Hiệu là: Bí Mật Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Thập Tự Độc Cổ
Tướng Ấn là: Kim Cương Quyền Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁⾔ゴㆎ ᜨ᥄ ᛬ᜮ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SPHOṬAYA VAJRA-SAṂBHAVE _
SVĀHĀ
13_ Tốn Bà Bồ Tát (Sumbha):
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác Thiên Y, tóc kết mão báu, giao ống chân ngồi,
tay trái cầm chày Độc Cổ, nâng lên trước vai, tay phải nắm quyền để trước ngực, dựng
đứng ngón cái và ngón út, đều co gập ba ngón còn lại 256
Mật Hiệu là: Tối Thắng Kim Cương
Chữ chủng tử là: MA (㈦) hay SU (㫾) hay GṚ (㬊)
Tam Muội Gia Hình là : Chày Độc Cổ, hoặc sợi dây
Tướng Ấn là Giáng Tam Thế Ấn: Hai tay tác Phẫn Nộ Quyền, tay trái ở dưới,
tay phải ở trên, hai lưng bàn tay hướng vào nhau; lúc này hai ngón út cùng móc kết
nhau, dựng đứng hai ngón trỏ.
Chuyển bên trái là Tịch Trừ
Chuyển bên phải tức Kết Giới.
Chân Ngôn là:
㛸 㫾ⶐ ᚾ㫾ⶐ ゖ 㬊㪶㬊㪶 ゖ 㬊㪶 ゚ᛈᜄ ゖ ゛ᚼᜄ 㫃 ᛬ᗰᜲ ᜨ᥄ ゖ
ᛔ㪪
OṂ – SUMBHA NISUMBHA HŪṂ – GṚHṆA GṚHṆA HŪṂ – GṚHṆA
APAYA HŪṂ – ĀNAYA HOḤ – BHAGAVAṂ VAJRA HŪṂ PHAṬ
14_ Nguyệt Yểm Phẫn Nộ Bồ Tát (Krodha-candra-lilaka):
Lại xưng là Phẫn Nộ Trì Minh Nguyệt Yểm Tôn, Phẫn Nộ Nguyệt Yểm Tôn, Kim
Cương Nguyệt Yểm, Nguyệt Yểm Tôn.
Tôn này hay giáng phục Đại Chướng
Tôn Hình: Thân màu đen xanh, đội mão Trời, ba mắt 4 cánh tay, hiện hình phẫn
nộ, miệng có 4 răng nanh. Hai tay thứ nhất nắm quyền giao cổ tay để trước ngực, tay
trái thứ hai giương cánh tay cầm chày Độc Cổ, tay phải thứ hai co khuỷu tay cầm Tam
Cổ Kích, ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ.
257
Mật Hiệu là: Để La Kim Cương
Chữ chủng tử là HRĪṂ (㪴) hay HRĪḤ (㜫)
Tam Muội Gia Hình là: cây Kích Tam Cổ, hay Độc Cổ Kích
Tướng Ấn là: Nội Ngũ Cổ Ấn (Kim Cương Tuệ Ấn)
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁 㪴 㜪 ᛔ㪪㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HRĪṂ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
Hay ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜫 㜪 ᛔ㪪㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HRĪḤ HŪṂ PHAṬ SVĀHĀ
15_ Hư Không Vô Cấu Trì Kim Cương Bồ Tát (Gaganāmala-vajra-dhāra):
Lại xưng là Hư Không Vô Cấu Chấp Kim Cương Bồ Tát.
Tôn này cầm Kim Cương Trí Ấn của Đại Nhật Như Lai, biểu thị cho Đức Nhân
trong năm chuyển, cũng tức là Tâm Thể Bồ Đề của chúng sinh, dùng Tâm Thể Bồ Đề
lìa tất cả phiền não oán địch, trong sạch giống như hư không, cho nên xưng là Hư
Không Vô Cấu.
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay phải co cánh tay ngửa lòng bàn tay kết Dữ Nguyện
Ấn, tay trái dựng quyền cầm chày Độc Cổ để bên trái trước ngực , mặt hướng về bên
phải, ngồi trên hoa sen trắng 258
Mật Hiệu là: Ly Nhiễm Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
16_ Kim Cương Lao Trì Kim Cương Bồ Tát (Śivajra-dhāra):
Tôn này đại biểu cho lời thề bền chắc hộ thủ tất cả chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái cầm chày Độc Cổ, tay phải tác Dữ
Nguyện Ấn, ngồi trên hoa sen đỏ 259
Mật Hiệu là: Thủ Hộ Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Chùy Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
17_ Phẫn Nộ Trì Kim Cương Bồ Tát (Vajrāgra-vajra-dhāraḥ):
Lại xưng là Kim Cương Lợi Trì Bồ Tát, Kim Cương Phong Trì Bồ Tát.
Tôn này có đủ Trí Kim Cương rất mạnh bén của Như Lai. Dùng sự tồi phá tất cả
sự mê hoặc, phiền não của chúng sinh làm Bản Thệ.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải co cánh tay mở khuỷu tay, ngửa lòng bàn tay
tác Dữ Nguyện Ấn, tay trái cầm chày Tam Cổ để trước ngực, dựng đầu gối phải, ngồi
trên hoa sen trắng. 260
Mật Hiệu là:Uy Mãnh Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Kích Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
18_ Kim Cương Sứ Giả (Vajra-ceṭa):
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình phẫn nộ, tay trái cầm cây kích Tam Cổ
261
Mật Hiệu: Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Cổ Kích
Tướng Ấn là: : Phụng Giáo Đao Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ
19_ Hư Không Vô Biên Siêu Việt Bồ Tát (Gagagānanta-vikirama):
Lại xưng là Việt Vô Lượng Hư Không Bồ Tát, Hư Không Vô Biên Du Bộ Kim
Cương Bồ Tát, Hư Không Du Bộ Chấp Kim Cương Bồ Tát
Du Bộ nghĩa là chẳng trụ, thắng tiến, thần biến… dùng tâm Tịnh Bồ Đề ở tất cả
Pháp đều không có chỗ trụ mà thường tiến tu vạn hạnh , khởi đại thần biến cho nên có
tên là Hư Không Du Bộ.
Tôn Hình: Thân màu trắng vàng, tay phải co cánh tay mở khuỷu tay, ngửa lòng
bàn tay hướng đầu ngón tay về bên phải, tay trái hướng vào bên trong để trước ngực
cầm chày Tam Cổ, dựng đầu gối phải, giao ống chân ngồi trên hoa sen đỏ, đầu áo kéo
che vai trái, rũ xuống dưới
262
Mật Hiệu là: Quảng Đại Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
20_ Kim Cương Quyền (Vajra-daṇḍa):
Tôn này đồng Thể với Kim Cương Quyền Bồ Tát, tay cầm cây gậy (bổng) tượng
trưng cho sự phá trừ phiền não của chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái co khuỷu tay ngửa lòng bàn tay để dưới vú trái,
tay phải co khủy tay để dưới vú phải, cầm cây gậy, ngồi trên đài sen
Mật Hiệu là: Bí Mật Kim Cương
Chữ chủng tử là: HÙM (㜪) hay DA (セ)
Tam Muội Gia Hình là: cây gậy (bổng) hay chày Thập Tự Độc Cổ
263
Tướng Ấn là: Kim Cương Quyền Ấn để ở eo, miệng
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁⾔ゴㆎᜨ᥄ ᛬ᜮ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ SPHOṬAYA-VAJRA SAṂBHAVE
SVĀHĀ
21_ Kim Cương Tỏa Bồ Tát (Vajra-śaṃkhara):
Lại xưng là Kim Cương Thương Yết La Bồ Tát.
Kim Cương Tỏa là những vòng xích liền nhau, hai đầu xích có chày Kim Cương
biểu thị cho sự nhiếp giữ hóa độ chúng sinh ngang ngược khó giáo hóa.
Tôn này biểu thị cho Trí Tuệ của Kim Cương Bộ, hay cột buộc tất cả chúng sinh
khiến cho thoát khỏi phiền não, hai chướng Sở Tri
Tôn Hình: Thân màu vàng lợt, tay phải cầm sợi xích vàng, tay trái ngửa quyền để
ở eo, dựng đầu gối phải, mặt hướng về bên phải, chéo hai bàn chân ngồi trên hoa sen
đỏ
Mật Hiệu là: Kiên Trì Kim Cương, Kiên Cố Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪) hay BAṂ (ᜲ)
Tam Muội Gia Hình là: Kim Cương Tỏa (móc xích Kim Cương)
264
Tướng Ấn là: Chuyển Pháp Luân Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁 ㎅᳠㎅᳡ㆎ ᜀゴᜀᙑㆎ ᜨ᥌⾤ᜮ
ᝌ⇀ᦥ㛺ᚎᚒ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ BANDHA BANDHĀYA MOṬA
MOṬĀYA VAJRODBHAVE SARVATRA APRATIHATE SVĀHĀ
22_ Kim Cương Đồng Tử (Kaṇi-krodha):
Dùng Tôn này là Bản Tôn của pháp tu Tức Tai, Điều Phục… thì xưng là Kim
Cương Đồng Tử Pháp, khi tu thời có thể được hiện tướng Tất Địa, hiện thân Kim
Cương Nhi (con nít), thấy chư Phật, được tài bảo, trừ sợ hãi, được các Công Đức của
nhóm Văn Trì
Tôn Hình: Thân màu thịt, hiện hình phẫn nộ, duỗi giương hai cánh tay, tay trái
cầm chày Kim Cương, vai phải có hiện bày 7 Đức Phật, tay phải hướng xuống dưới kết
Thí Vô Úy Ấn, hai chân dẫm đạp trên hoa sen, dơ cao bàn chân phải, đầu có hào
quang, tóc dựng lên trên như dạng lửa rực
Mật Hiệu là: Sự Nghiệp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là Phẫn Nộ Tâm Mật Ấn: Chắp hai tay lại giữa rỗng, co ngón vô danh
và ngón trỏ vào trong lòng bàn tay, kèm dựng ngón cái đè bên cạnh ngón trỏ, dựng
thẳng hai ngón út như răng nanh 265
Chân Ngôn là:
㜪 ᜨ᥄ᗜ ᗘᚂ 㬃ᚾ ゖゖ ᛔ㪪
HŪṂ VAJRA-KUMĀRA- KAṆI DHUNI HŪṂ HŪṂ PHAṬ
23_ Kim Cương Trì Bồ Tát (Vajra-dhāra):
Tôn này biểu thị cho nghĩa nắm giữ Trí Đại Không, tồi phá tất cả chướng ngại.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, tay phải co khuỷu tay hướng lòng bàn tay lên
trên cầm đầu bên dưới của cái chày Độc Cổ dựng đứng, tay phải cũng nắm chày Độc
Cổ để ở ngực trái, khoác Thiên Y, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Thường Định Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
266
24_ Kim Cương Vương Bồ Tát (Vajra-rāja):
Tôn này có Bản Thệ dùng 4 Nhiếp Pháp câu triệu tất cả hữu tình
Tôn Hình:Thân hiện màu xanh lục nhạt (hay màu thịt), hai tay nắm Quyền dựng
đứng ngón trỏ, giao cổ tay để trước ngực, khoác Thiên Y, đai áo tung bay hướng lên
trên, chéo hai bàn chân ngồi trên đài sen
Mật Hiệu là: Tự Tại Kim Cương, Chấp Câu Kim Cương
Chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: Hai móc câu
Tướng Ấn là: Hai Quyền, dựng ngón trỏ thành dạng móc câu, giao chéo nhau
trước ngực.
Ấn Câu Triệu này biểu thị cho việc: “Trên y theo sự tự lợi của tất cả Như Lai,
dưới đem lại sự lợi ích dẫn dắt chúng sinh”. Tức đối với hai Lợi Tự Tha đều hành,
nguyện không ngại, được tự tại
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᜑㅼ ᘷ
OṂ_ VAJRA-RĀJA JAḤ
25_ Trụ Vô Hý Luận Bồ Tát (Aprapace-vihārī):
Lại xưng là Trụ Vô Hý Luận Chấp Kim Cương [Bản khác ghi là: Trì Kim
Cương Lợi Bồ Tát (Vajrāgra-dhāra)]
Tôn này trụ ở Đại Không Tuệ, quán sát Thật Tướng của Duyên Khởi, không sinh
không diệt, chẳng đoạn chẳng thường, cũng chẳng phải đi đến…. Chỗ đấy đều dứt các
hý luận giống như Niết Bàn. Vì cầm giữ Trí Ấn như vậy cho nên có tên gọi là Trụ Vô
Hý Luận.
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái cầm chày Độc Cổ, dựng đứng đầu gối phải,
ngồi trên hoa sen đỏ 267
Mật Hiệu là: Vô Lượng Ngữ Kim Cương , hay Vô Ý Ngữ Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ, hoặc chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
26_ Kim Cương Luân Trì Bồ Tát (Cakra-vajra-dhàra):
Tôn này dùng Trí Tuệ sắc bén của Kim Cương tồi phá tội chướng phiền não
Tôn Hình: Thân màu thịt, úp tay trái để trên đùi trái, tay phải dựng lòng bàn tay
để ngang ngực, co ngón giữa và ngón vô danh, dựng đứng ba ngón còn lại
268
Mật Hiệu là: Tồi Phục Kim Cương
Chữ chủng tử là: STRYI (㭿) hay CA (ク)
Tam Muộ Gia Hình là: Bánh xe Kim Cương
Tướng Ấn là: Đại Kim Cương Luân Sám Hối Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ 㯤ᜄᗙ㪤 ᝌ⇀ ᚌᚙᗰᚍ㪤 㫷 ᜪᜐᘮ ᜪᜐᘮ ᛸᘔᣰ
ᜨ᥆ ᝌᚌ ᝌᚌ ᝌᜐᚒ ᝌᜐᚒ ᦤᜆ ᦤᜆ ᜪᚰᛸᚎ ᛶᘬᚾ
ᦤᛸᚎ ᝎ ゚ᤊᜊ 㫹 ᵙ
NAMAḤ STRIYADHVIKĀNĀṂ SARVA TATHĀGATĀNĀṂ_ ĀṂ
VIRAJI VIRAJI _ MAHĀ-CAKRA-VAJRI _ SATA SATA_ SARATE SARATE_
TRAYI TRAYI_ VIDHAMATI SAṂBHAṂJANI_ TRAMATI SIDDHI AGRYE
TRĀṂ_ SVĀHĀ
27_ Kim Cuơng Nhuệ Bồ Tát (Vikhyāto- vajra-dhāraḥ):
Tôn này là tên khác của Kim Cương Châm Bồ Tát (Vajra-suci), biểu thị cho Tuệ
bền bén của một tướng một duyên
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái cầm hoa sen, bên trên có chày Tam Cổ
dựng đứng, dựng đứng đầu gối phải, ngồi trên hoa sen đỏ
269
Mật Hiệu là: Nhận Tấn Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪) hay SU (㫾)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ
Tướng Ấn là: Kim Cương Châm Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁 ᝌ⇀ ᚰ㜭 ᚾᜮᚰᚾ ᜨ᥄㫾ᘖ ᜨᜐᚪ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ SARVA DHARMA NIRVEDHANI
VAJRA-SUCI VARADE_ SVĀHĀ
28_ Dịch Duyệt Trì Kim Cương Bồ Tát (Sarata-vajra-dhāra):
Tôn này đại biểu cho sự an trụ ở Pháp Lạc, cảnh địa vui thích màu nhiệm
Tôn Hình: Thân màu vàng lợt, tay phải dựng đứng chày Độc Cổ trong lòng bàn
tay, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Hỷ Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪) hay SU (㫾)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
270
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
29_ Kim Cương Nha Bồ Tát (Vajra-daṃṣṭra):
Lại xưng là Đại Phương Tiện Bồ Tát, Tồi Phục Ma Bồ Tát.
Tôn này hay ăn nuốt phiền não của tất cả chúng sinh cương cường, hướng họ về
Vô Thượng Bồ Đề.
Tôn này biểu thị cho Bản Thệ Đại Bi, hay theo Như Lai phòng hộ chúng sinh, ăn
nuốt tất cả Hoặc Nghiệp phiền não của chúng sinh, thường hay đập nát Thiên Ma và tất
cả các loài gây chướng
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, tay trái cầm hoa sen, trên hoa có một nửa hình chày
Tam Cổ , tay phải co 4 ngón tay để ngang ngực, khoác Thiên Y, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Điều Phục Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Răng nanh trên hoa sen
271
Tướng Ấn là: Kim Cương Dược Xoa Đại Bi Tam Muội Gia Minh Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃᝌᛸⴼᜬ㪤㜉ᗰᜫ ㎅ㇶ 㓢ᦩ 㜪㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ GAVĪ BALA ŚATRŪ HŪṂ
SVĀHĀ
30_ Ly Hý Luận Bồ Tát (Niṣpra-pañca-vihāri-vajra-dhāra):
Lại xưng là Vô Hý Luận Bồ Tát, hiển thẳng Thật Tướng của Đệ Nhất Nghĩa
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải dựng đứng lòng bàn tay ngang ngực, dựng
đứng ngón trỏ, hướng lòng bàn tay ra ngoài, tay trái nắm quyền úp xuống dưới cầm
phần trên của chày Độc Cổ, đầu chày ở bên dưới cắm chạm hoa sen , dựng đầu gối
phải, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Chân Hạnh Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
272
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
31_ Kim Cương Sứ Giả (Vajra-ceṭa)
Tôn Hình: Thân màu xanh, tay phải cầm cây đao
Mật Hiệu là: : Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: HE () hay VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: cây đao
Tướng Ấn là: Phụng Giáo Đao Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄ᚊ㖁 㮀ᘖᜑᜄᝎ㖁 㬊㪶 㬊㪶㖁 ᗥᚤ ᗥᚤ
ᛈᜒᛍᜐᜄ㖁 ᝌ⇀ 㮀ᗘᜑᚊᵙ㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HE HE_ KIṂCĪRAYASI GṚHṆA
GṚHṆA_ KHĀDA KHĀDA_ PARIPŪRAYA_ SARVA KIṂKARĀṆAM _
SVĀPRATIVIJÑĀṂ_ SVĀHĀ
273
32_ Trì Diệu Kim Cương Bồ Tát (Suvajra-dhāra):
Lại xưng là Đẳng Diệu Kim Cương Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái đề ngang eo cầm chày Tam Cổ của GIáng
Tam Thế Hội, tay phải cầm chày Độc Cổ dựng đứng, ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Vi Tế Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Yết Ma Trấn Đàn
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
33_ Trì Luân Kim Cương Bồ Tát (Mahā-cakra-vajra):
Lại nói Tôn này là Trì Kim Cương Lợi Bồ Tát
Tôn này biểu thị cho sự gìn giữ bền chắc Giáo Pháp tối thắng của Kim Cương Bộ
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, mắt hơi nhìn hướng lên trên, tay phải co cánh tay
cầm tràng hạt, tay trái co cánh tay cầm chày Tam Cổ để trước ngực, dựng đứng đầu gối
trái, ngồi trên hoa sen trắng 274
Mật Hiệu là: Bát Nhã Kim Cương
Chữ chủng tử là: HÙM (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ, hoặc chày Độc Cổ
Tướng Ấn là: Trì Địa Ấn
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥄㬆㖁㜪㜪㜪 ᛔ㪪ᛔ㪪ᛔ㪪 ᘶᘶ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRAṆĀṂ_ HŪṂ HŪṂ HŪṂ PHAṬ PHAṬ
PHAṬ JAṂ JAṂ _ SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) là một
trong bốn Tôn hầu cận Đức Phật A Súc (Akṣobhya-buddha) được sinh ra từ Thể Tính
bền chắc của Bồ Đề của tất cả Như Lai
_ Lược thuật Kim Cương Đỉnh Du Già phân biệt Thánh Vị tu chứng Pháp
Môn ghi nhận rằng:
“Ở Nội Tâm của Tỳ Lô Giá Na Phật chứng đắc Kim Cương Tát Đỏa Dũng
Mãnh Bồ Đề Tâm Tam Ma Địa Trí .Vì tự thọ dụng cho nên từ Kim Cương Tát Đỏa
Dũng Mãnh Bồ Đề Tâm Tam Ma Địa Trí tuôn ra ánh sáng Ngũ Phong Kim Cương
(Chày Kim Cương có năm ngọn) chiếu khắp mười phương Thế Giới khiến cho tất cả
chúng sinh đốn chứng (chứng ngay) Hạnh Phổ Hiền, rồi quay trở lại thu làm một Thể. 275
Vì khiến cho tất cả Bồ Tát thọ dụng Tam Ma Địa Trí cho nên thành hình Kim Cương
Tát Đỏa Bồ Tát trụ ở vành trăng trước mặt A Súc Như Lai”
Do Kim Cương Tát Đỏa gia trì cho nên ở sát na mãnh lợi Tâm, chứng ngay (Đốn
Chứng ) Vô Thượng Bồ Đề.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải cầm chày Ngũ Cổ để trước ngực, tay trái cầm
cái chuông Ngũ Cổ
Mật Hiệu là: Chân Như Kim Cương, Đại Dũng Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (゚), Ā (゛), AḤ (ㆧ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Ngũ Cổ dựng thẳng đứng
Tướng Ấn là: Kim Cương Tát Đỏa Ấn. Tay trái nắm Kim Cương Quyền để ở eo,
tay phải tác Kim Cương Quyền để ở tim, dùng quyền phải làm thế rút nắm như chưởng
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ᝌᲰ ㆧ
OṂ _ VAJRA-SATVA AḤ
276
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Tát Đỏa có chữ chủng tử là:
SVTA (㯧) hay STVAṂ (㪥)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Ngũ Cổ dựng đứng. Biểu thị cho Tâm Đại Bồ Đề.
Từ lúc mới phát ý, kiên cố dõng mãnh trụ Tam Ma Địa Trí, ánh sáng rực rỡ của thân
Tự Thọ Dụng rộng chiếu vô biên, cầm Chày Ngũ Trí Kim Cương giữ gìn tòa vị, ngạo
mạn tự tại
Tướng Ấn là: Kim Cương Tát Đỏa Tam Muội Gia Ấn
Chân Ngôn là:
ᝌᛸᜄ 㪥
SAMAYA STVAṂ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Tát Đỏa có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ ゛㯉㒕
VAJRA- ĀTMAKA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Tát Đỏa có chữ chủng tử là: AḤ
(ォ) hay ĀḤ (㜧) 277
Tôn Hình: Hai tay chắp lại cầm hoa sen trên hoa có chày Độc Cổ, bên trên chày
có hoa sen chưa nở.
Tướng Ấn là: Ngoại Phộc Quyền để ngang ngực.
Chân Ngôn là:
㫘 ᝌ⇀ ᚌᚙᗰᚌ ᝌ⇀ ゛㯉 ᚾ↩ᚌᚼ ᛍᘬ ⾌ᜐ ᗘ↜ ᜨ᥆ 㜧
OṂ_ SARVA TATHĀGATA SARVA-ĀTMA NIRYĀTANA PŪJA
SPHARAṆA KARMA-VAJRI _ ĀḤ
.)Tại Tứ Ấn Hội (Catur-mudra) thì Kim Cương Tát Đỏa biểu thị cho Đức Phật A
Súc (Akṣobhya-buddha)
Chữ chủng tử là : HŪṂ (㜪)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội, thân hiện màu xanh.
278
Tam Muội Gia Hình là: Chày Ngũ Cổ.
Tướng Ấn là: Kim Cương Tát Đỏa Đại Ấn, Kim Cương Tam Muội Gia Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘 ⺈セㆎ ㈦ᚾᝂ㏯ᚾ ᝌↄ ᚌᚙᗰᚌ ᝎ㪽㫵
OṂ_ HṚDAYA-MANIṢITĀNI SARVA-TATHĀGATA SIDDHYANTĀṂ
.)Tại Lý Thú Hội (Naya) thì Hội này biểu thị việc Đức Đại Nhật Như Lai
(Vairocana-tathāgata) hiện thân Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) dùng Chính Pháp
hóa Độ chúng sinh. Lại gọi là Tát Đỏa Hội, Phổ Hiền Hội
Hội này diễn nói Lý Thú của Nghĩa Phiền não tức Bồ Đề là Nội Chứng của Kim
Cương Tát Đỏa .
Hội này có 17 Tôn được trình bày như sau:
Đồ Thức có 3 hình vuông gồm có 17 Tôn được trình bày như sau
_ Hình vuông thứ nhất được chia ra làm 9 hình vuông nhỏ bao quanh 9 vành
trăng: 279
Vành trăng chính giữa là vị trí của Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) (㫘)
Vành trăng phương Đông là vị trí của Dục Kim Cương (㈦)
Vành trăng phương Nam là vị trí của Xúc Kim Cương ()
Vành trăng phương Tây là vị trí của Ái Kim Cương (㫾)
Vành trăng phương Bắc là vị trí của Mạn Kim Cương (カ)
Vành trăng góc Đông Nam là vị trí của Ý Sinh Kim Cương Nữ (Hương) (ᜨ)
Vành trăng góc Tây Nam là vị trí của Kế Lý Cát La Nữ (Hoa) (᥄)
Vành trăng góc Tây Bắc là vị trí của Ái Kim Cương Nữ (Đăng) (ᝌ)
Vành trăng góc Đông Bắc là vị trí của Mạn Kim Cương Nữ (Đồ) (Ჰ)
_ Hình vuông thứ hai có 8 vành trăng nhỏ:
Vành trăng phương Đông là vị trí của Sắc Kim Cương (Câu) (ᘷ)
Vành trăng phương Nam là vị trí củ Thanh Kim Cương (Sách) (㜪)
Vành trăng phương Tây là vị trí của Hương Kim Cương (Tỏa) (ᜲ)
Vành trăng phương Bắc là vị trí của Vị Kim Cương (Linh) (㫃)
Vành trăng góc Đông Nam là vị trí của Xuân Kim Cương (Hý) (㫾)
Vành trăng góc Tây Nam là vị trí của Hạ Kim Cương (Man) ()
Vành trăng góc Tây Bắc là vị trí của Thu Kim Cương (Ca) (ᚌ)
Vành trăng góc Đông Bắc là vị trí của Đông Kim Cương (Vũ) (㪥)
_ Hình vuông thứ ba có 4 đài hoa sen ở 4 phương, 4 chày Kim Cương ở 4 góc và
các hoa văn xen kẽ.
1_ Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva):
Kim Cương Tát Đỏa là Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra) tức con trưởng của
tất cả Như Lai, là Tâm Bồ Đề của tất cả Như Lai, là Tổ Sư của tất cả Như Lai. Chính vì
thế cho nên tất cả Như Lai lễ kính Kim Cương Tát Đỏa.
Tôn này trụ Đại Trí Ấn từ Kim Cương Giới đến Kim Cương Linh Bồ Tát dùng
37 Trí thành Thân Quả Đức Tự Thọ Dụng, Tha Thọ Dụng. Tôn này cũng là Tự Tính
Thân , chẳng sinh chẳng diệt, ngang bằng với hư không, tức là Thân tràn khắp Pháp
Giới
Chữ chủng tử là: OṂ (㫘)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, đầu đội mão Ngũ Phật, tay phải cầm chày Kim
Cương Ngũ Cổ vặn nghiêng cổ tay trước ngực, tay trái để ngang đầu gối cầm cái
chuông Ngũ Cổ.
280
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương Ngũ Cổ.
Tướng Ấn là: Kim Cương Tát Đỏa Đại Ấn.
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᝌᲸᝢ
VAJRA-SATVA-UHAṂ
2_ Dục Kim Cương (Iṣṭa-vajra):
Lại xưng là Y Sắt Tra Phộc Nhật La, Dục Kim Cương, Tiễn Kim Cương, Ý Sinh
Kim Cương, Kim Cương Tiễn, Nhãn Tiễn.
Tôn này là Bát Nhã Ba La Mật (Prajñā-pāramitā), hay thông đạt tất cả Phật
Pháp , không ngưng trệ không ngăn ngại như Kim Cương hay sinh ra chư Phật.
Tôn này cầm mũi tên Kim Cương bắn tất cả hạt giống Hữu Lậu trong A Lại Gia
Thức (Tàng Thức), thành Đại Viên Kính Trí. Cũng dùng Mũi tên Dục của Đại Bi bắn
sự Tham Dục trong tâm của chúng sinh khiến cho hay ngộ nhập Lý Thú thanh tịnh của
Bát Nhã.
Chữ chủng tử là: MA (㈦) hay JAḤ (ᘷ)
Tôn Hình:Thân màu thịt đỏ, đầu đội mão báu, hai tay cầm mũi tên.
281
Tam Muội Gia Hình là: Mũi tên Kim Cương. Biểu thị cho việc dùng mũi tên
Tâm Bồ Đề câu triệu tất cả hữu tình, an trí vào Phật Đạo.
Tướng Ấn là: Kim Cương Vương Ấn.
Chân Ngôn là:
ᘷ ᜨ᥄ ⹌⼊ ᝌᜄᗞ ᛸ㪪
JAḤ _ VAJRA-DṚṢṬI SAYAKE MAṬ
3_ Xúc Kim Cương (Kīlikīla):
Kīlikīla (Hay Kelikila) dịch âm Phạn là Kế Ly Cát La Kim Cương, Kế Lý Kế La
Kim Cương, Kế Lợi Cát La Kim Cương. Lại xưng là Kim Cương Hỷ Duyệt Bồ Tát.
Xưng đầy đủ là Kế Lợi Cát La Kim Cương Bồ Tát, hoặc Kim Cương Kế Ly Cát La Bồ
Tát.
Tôn này là Hư Không Tạng Tam Ma Địa (Ākāśa-garbha-samādhi) ban an vui
cho vô biên chúng sinh, cứu vớt chúng sinh bị chìm đắm trong bùn nghèo túng, mọi
ước nguyện mong cầu Thế Gian với Xuất Thế Gian đều khiến cho đầy đủ.
Tôn này ôm Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) biểu thị cho sự Tịnh Thức thứ
bảy (Manas-vijñāna: Mạt Na Thức) vọng chấp Thức thứ tám (Ālaya-vijñāna: Tàng
Thức) làm Ngã Si, Ngã Kiến, Ngã Mạn, Ngã Ái… thành Bình Đẳng Tính Trí
(Samatā-jñāna), tức biểu thị cho Tính của việc tiếp chạm (Xúc Tính) tức là Bồ Đề.
Hoặc lại dùng Trí không nhiễm quán sát chia Y Tha Tính, trao cho Viên Thành chẳng
tức là chẳng sai khác (bất tức bất dị) trong địa vị Quả Đức, biết tất cả Pháp cùng với
Bồ Đề Niết Bàn chẳng tức là chẳng sai khác
Chữ chủng tử là: HĀ (), hay HŪṂ (㜪)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, đầu đội mão báu, thân đeo Anh Lạc, hai tay giao
chéo nhau, ôm dính chày Tam Cổ (hoặc chày Ngũ Cổ).
282
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ. Biểu thị cho Đại Phương Tiện Kim
Cương Thừa khiến chứng Trí chẳng nhiễm.
Tướng Ấn là: Hai tay làm thế giao nhau, ôm chày Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㭽 ᜨ᥄ᗛᗛᜢ ゖ
HŪṂ VAJRA-KĪLIKĪLE HŪṂ
4_Ái Kim Cương (Rāga-vajra):
Lại xưng là Ái Phộc Kim Cương, Ái Lạc Kim Cương, Bi Mẫn Kim Cương.
Tôn này là Đa La Bồ Tát (Tārā) hay trụ Đại Bi Giải Thoát thương xót vô biên
hữu tình bị khổ, thường cưu mang bạt tế, ban cho an vui.
Tôn này cầm cây phướng Ma Kiệt hay tịnh Ý Thức (Manōvijñāna: Thức thứ sáu)
duyên lự nơi Tâm Hữu Lậu tịnh nhiễm thành Diệu Quán Sát Trí (Pratyeka-kṣana-
jñāna). Cũng hay dùng Đại Bi Thiên Nhãn (mắt Trời Đại Bi) quán thấy Thể Phổ Hiền
trong thân của tất cả hữu tình chẳng tăng chẳng giảm
Chữ chủng tử là: SU (㫾), hay VAṂ (ᜲ)
Tôn Hình: Thân màu xanh, hai tay cầm cây phướng Yết Ma dựng đứng sát bên
trái.
283
Tam Muội Gia Hình là: Cây phướng Yết Ma. Biểu thị cho việc dùng sợi dây yêu
nhớ cột buộc khắp chúng sinh dẫn họ đến Bồ Đề, cuối cùng chẳng buông bỏ…
giống như con cá lớn Ma Kiệt ăn nuốt tất cả vật đã tiếp chạm, một khi đã vào trong
miệng xong thì không có cơ hội thoát khỏi.
Tướng Ấn là: Kim Cương Tràng Yết Ma Ấn. Biểu thị cho Đại Bi Kim Cương
Tỏa trải qua vô lượng kiếp ở sinh tử, tâm chẳng dời đổi, cứu độ tất cả chúng sinh dùng
làm Đạo ấy.
Chân Ngôn là:
ᜲ ᜨ᥆ᚂ 㯪ᜐ ᜐ㪪
VAṂ_ VAJRIṆI SMĀRA RAṬ
5_ Mạn Kim Cương (Mana-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Mạn, Kim Cương Phỏng, Ý Khí Kim Cương, Kim
Cương Dục Tự Tại.
Tôn nay là Đại Tinh Tiến Ba La Mật (Mahā-vīrya-pāramitā) hay trụ vô ngại
giải thoát, rộng làm việc Phật ở vô biên Như Lai với làm lợi ích cho chúng sinh.
Tôn này đem hai Kim Cương Quyền để ở háng biểu thị cho tịnh thân chất ngại
của năm thức, khởi đại cần dũng, khắp hết hữu tình không dư sót đều mau khiến thành
Phật , hay tịnh năm thức thân thành Thành Sở Tác Trí. Cũng dùng con mắt thịt trong
sạch không ngại, quán tất cả hữu tình ở tại địa vị sinh khác nhau, tuy trần lao che ngăn
Bản Tính thanh tịnh. Nếu cùng với đại tinh tiến tương ứng tức được thanh tịnh lìa dơ
bẩn.
Chữ chủng tử là: KHA (カ) hay HOḤ (㫃)
Tôn Hình: Thân màu vàng, hai tay nắm Kim Cương Quyền để trên đùi, hướng
đầu về bên trái.
284
Tam Muội Gia Hình là: Hai Kim Cương Quyền Ấn.Biểu thị cho Đức của Tha
Hóa Tự Tại
Tướng Ấn là: Hai tay tác Kim Cương Quyền để trên đùi, hướng đầu về bên trái.
Chân Ngôn là:
㫃 ᜨ᥄ᗙ㫭ᜒ 㫹
HOḤ_ VAJRA-KĀMEŚVARI TRĀṂ
6_ Ý Sinh Kim Cương Nữ :
Lại xưng là Kim Cương Phần Hương Bồ Tát (Vajra-dhūpa), Dục Kim Cương Nữ
(Iṣṭa-vajri)
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ) hay A (ㅥ)
Tôn Hình: Màu xanh, hai tay cầm lò hương hình hoa sen.
Tam Muội Gia Hình là: Lò hương báu
Tướng Ấn là: Hai tay tác Kim Cương Quyền kèm song song nhau, hướng xuống
dưới bung tán, như đám mây hương lan tỏa khắp. 285
Chân Ngôn là:
ᛸ ᜐᚌ ᜨ᥆ 㫃
MAHĀ RATA VAJRI HOḤ
7_ Kế Lý Cát La Nữ (Kīlikīle):
Lại xưng là Kim Cương Hoa Bồ Tát (Varja-puṣpa), Xúc Kim Cương Nữ.
Chữ chủng tử là: JRA (᥄)
Tôn Hình: Màu vàng lợt, tay trái cầm vật khí chứa đầy hoa, tay phải tựa dạng bốc
lấy.
Tam Muội Gia Hình là: vật khí chứa đầy hoa
Tướng Ấn là: Hai tay tác Kim Cương Quyền, ngửa lên rồi bung tán
286
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ ᜐ㭒
HE VAJRA RATIḤ
hay ᜨ᥄ ᜨᚎ
HE VAJRA VATI
8_ Ái Kim Cương Nữ (Rāga-vajri):
Lại xưng là Kim Cương Đăng Bồ Tát (Vajra-Āloka)
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tôn Hình: Thân mày thịt đỏ, hai tay cầm đài nến.
Tam Muội Gia Hình là: Đèn nến báu
Tướng Ấn là: Hai tay nắm Kim Cương Quyền, dựng thẳng hai ngón cái kèm
song song.
287
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᜤᘔᛂ
OM VAJRA LOCANE
9_ Mạn Kim Cương Nữ (Mana-vajri):
Lài xưng là Kim Cương Đồ Hương Bồ Tát (Vajra-gandha)
Chữ chủng tử là: TVA (Ჰ)
Tôn Hình: Thân màu xanh lục, tay trái cầm vật khí chứa hương xoa bôi, tay phải
bốc giữ.
Tam Muội Gia Hình là: Vật khí chứa hương xoa bôi (Đồ Hương Khí)
Tướng Ấn là: Hai tay đều nắm quyền, mở lòng bàn tay xoa bôi ngực.
Chân Ngôn là:
ᛸ㰴ᜨ᥆ 㯫
MAHĀŚRĪ-VAJRI HIḤ
Hay 㫘 ᛸ㰴 ᜨ᥆
OṂ_ MAHĀŚRĪ-VAJRI HE 288
10_Sắc Kim Cương (Rūpa-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Câu Bồ Tát (Vajra-aṃkuśa):
Chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu Kim Cương
Tướng Ấn là: Giáng Tam Thế Ấn, hai ngón trỏ đều co như móc câu
Chân Ngôn là:
ᜨ㫞ᗜ ᘷ
VAJRA AṂKUŚE JAḤ
Hay:㫘 ᜨ᥄᜕ᛎ ᘷ
OṂ_ VAJRA-RŪPE JAḤ
11_ Thanh Kim Cương (Śabda-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Sách Bồ Tát (Vajra-pāśa):
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪) 289
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây Kim Cương
Tướng Ấn là: Hai quyền chung lưng, hai ngón út cùng móc nhau, hai đầu ngón
cùng trụ nhau như sợi dây.
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᛉ᜴ ゖ
VAJRA-PĀŚA HŪṂ
Hay 㫘 ᜨ᥄デ⽢ 㜪
OṂ_ VAJRA-ŚABDE HŪṂ
12_ Hương Kim Cương (Gandha-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Tỏa Bồ Tát (Vajra-sphoṭa):
Chữ chủng tử là: VAṂ (ᜲ) 290
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Kim Cương Tỏa (móc xích Kim Cương)
Tướng Ấn là: Hai tay tác Kim Cương Quyền, hai ngón út và hai ngón trỏ cùng
móc nhau như hình móc xích.
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᗘ ᜲ
VAJRA ŚAṂKARE VAṂ
Hay 㫘 ᜨ᥄ᗰ᳦ ᜲ
OṂ_ VAJRA-GANDHE VAṂ
13_ Vị Kim Cương (Rasa-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Linh Bồ Tát (Vajra-aveśa)
Chữ chủng tử là: HOḤ (㫃) 291
Tôn Hình: Đại lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Cái chuông Tam Cổ
Tướng Ấn là: Hai quyền chung lưng, hai ngón út, hai ngón trỏ cùng móc nhau, cổ
tay hơi cách nhau
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᘆᙖ 㫃
VAJRA GHAṂTE HOḤ
Hay 㫘 ᜨ᥄ᝒ 㫃
OṂ_ VAJRA-RASE HOḤ
14_ Xuân Kim Cương (Vasanta-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Hy Hý Bồ Tát (Vajra-lāse)
Chữ chủng tử là: SU (㫾)
Mật Hiệu là: Trang Nghiêm Thanh Tịnh, Xuân Kim Cương 292
Tôn Hình: Hai tay để cạnh eo nắm Kim Cương Quyền.
Tam Muội Gia Hình là: Chày Tam Cổ uốn cong
Tướng Ấn là: Kết hai quyền, úp xuống kèm nhau ngang trái tim, chuyển theo bên
phải
Chân Ngôn là:
ᜐᚎ ᜨ᥄ᜪᝎᚾ ᦤ㪪
HE RATI VAJRA-VILĀSINI TRAṬ
15_Hạ Kim Cương (Grīṣma-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Man Bồ Tát (Vajra-māla):
Chữ chủng tử là: RA ()
Mật Hiệu là: Ý Tư Nhuận, Hạ Kim Cương. 293
Tôn Hình: Lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: vòng hoa báu (Bảo Man)
Tướng Ấn là: Hai quyền úp xuống kèm nhau, nâng lên ngang miệng thì bung
duỗi dần dần từ ngón út.
Chân Ngôn là:
ᜐᚎ ᜨ᥄ᝒ
HE RATI VAJRA-HĀSE HA HA
16_Thu Kim Cương (Śarat-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Ca Bồ Tát (Vajra-gīta):
Chữ chủng tử là: TA (ᚌ)
Mật Hiệu là: Quang Minh, Thu Kim Cương 294
Tôn Hình: Lược đồng với Thành Thân Hội
Tam Muội Gia Hình là: Kim Cương Không Hầu
Tướng Ấn là: Hai tay tác Quyền, duỗi ngón trỏ hơi co lại, co dựng cánh tay trái
như đàn Không Hầu, ngón tay phải làm thế búng gảy dây đàn Không Hầu.
Chân Ngôn là:
ᜐᚎ ᜨ᥄㫛ᚒ ᚒ ᚒ
HE RATI VAJRA-GĪTE TE TE
17_Đông Kim Cương Śiśira-vajra):
Lại xưng là Kim Cương Vũ Bồ Tát (Vajra-nṛtye):
Chữ chủng tử là: STVAṂ (㪥)
Mật Hiệu là: Thân Lạc, Đông Kim Cương 295
Tôn Hình: Lược đồng với Thành Thân Hội.
Tam Muội Gia Hình là: Chày Yết Ma
Tướng Ấn là: Hai quyền để ngang ngực chuyển múa. Liền tác Hư Tâm Hợp
Chưởng đưa đến miệng rồi bung mở.
Chân Ngôn là:
ᜐᚎ ᜨ᥄⹔ᠪ ᜮᛈ ᜮᛈ
HE RATI VAJRA-NṚTYE VEPA VEPA 296
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương Tát
Đỏa hiện thân phẫn nộ là nơi hóa hiện của Đại Nhật Như Lai. Thân này có tên gọi là
Giáng Tam Thế Minh Vương (Trailokya-vijaya). Lại xưng là Thắng Tam Thế,
Nguyệt Yểm Tôn, Phẫn Nộ Trì Minh Vương...Là một trong 5 vị Đại Minh Vương của
Mật Giáo, là Giáo Lệnh Luân Thân của Kim Cương Bộ thuộc 5 Bộ.
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ) hay HŪṂ (ゖ)
Tôn Hình: Đồng với Giáng Tam Thế Minh Vương. Thân màu đen xanh, 4 mặt 8
cánh tay, đội mão tóc lửa, mỗi mặt đều có 3 mắt. Mặt chính màu xanh, mặt bên phải
màu vàng, mặt bên trái màu xanh lục, mặt phía sau màu hồng. Hai tay thứ nhất để
trước ngực, kết Ấn. Bên phải: Tay thứ hai cầm chày Kim Cương, tay thứ ba cầm mũi
tên, tay thứ tư cầm cây đao. Bên trái: Tay thứ hai cầm chày Tam Cổ, tay thứ ba cầm
cây cung, tay thứ tư cầm sợi dây. Bàn chân trái đạp lên Tự Tại Thiên (Maheśvara),
bàn chân phải đạp lên Ô Ma Phi (Uma).
Tam Muội Gia Hình là: Chày Thập Tự Ngũ Cổ.
Tướng Ấn là: Giáng Tam Thế Ấn.
297
Chân Ngôn là:
㛸 㫾ⶐ ᚾ㫾ⶐ ゖ 㬊㪶㬊㪶 ゖ 㬊㪶 ゚ᛈᜄ ゖ ゛ᚼᜄ 㫃 ᛬ᗰᜲ ᜨ᥄ ゖ
ᛔ㪪
OṂ – SUMBHA NISUMBHA HŪṂ – GṚHṆA GṚHṆA HŪṂ – GṚHṆA
APAYA HŪṂ – ĀNAYA HOḤ – BHAGAVAṂ VAJRA HŪṂ PHAṬ
Hay 㛸 ᜨ᥄ᝌᲰ ᚰ ゖ ᛔ㪪
OṂ_ VAJRA-SATVA KRODHA HŪṂ PHAṬ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Tát Đỏa hiển hiện Tam Muội Gia Hình của Giáng Tam Thế Minh Vương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Thập Tự Ngũ Cổ. Biểu thị cho sự phát khởi Tâm
Đại Bồ Đề , kiên cố dung mãnh trụ Tam Ma Địa Trí, ánh sáng rực rỡ của thân Tự Thọ
Dụng rộng chiếu vô biên, cầm chày Thập Tự Ngũ Cổ, ngạo mạn tự tại giáng phục 3
độc Tham Sân Si và 3 cõi Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới. Điều phục Thiên Ma,
giáng phục Vô Minh Phiền não căn bản
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᚰ ᝌ㈦ᜊ ᘺ
OṂ_ VAJRA-KRODHA SAMAYE JHI
298
ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
Đại Thế Chí Bồ Tát, tên Phạn là Mahā-sthāma-prāpta, dịch âm là Ma Ha Sa Thái
Ma Bát La Bát Đá, dịch nghĩa là Đắc Đại Thế. Lại xưng là Đại Thế Chí, Đại Tinh Tiến
hoặc lược xưng là Thế Chí
_Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: Vị Bồ Tát này dùng ánh sáng Trí Tuệ chiếu
khắp tất cả khiến cho chúng sinh xa lìa ba nẻo ác, được sức Vô Thượng cho nên xưng
vị Bồ Tát này là Đại Thế Chí.
Ngài cùng với Quán Thế Âm Bồ Tát cùng là vị hầu cận bên cạnh Đức Phật A Di
Đà. Di Đà, Quán Âm, Thế Chí được hợp xung là Tây Phương Tam Thánh phân biệt
tượng trưng cho Trí, Bi của Đức Phật A Di Đà.
Do thân lượng của Đại Thế Chí Bồ Tát, lớn nhỏ đều ngang bằng với Quán Thế
Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara), hào quang tròn bốn phương lớn nhỏ đều là 125 Do Tuần, 299
chiếu đến 250 Do Tuần. Toàn thân tỏa ánh sáng màu vàng tía chiếu khắp mười phương
quốc thổ, hay khiến cho chúng sinh có duyên tự mình nhìn thấy. Chỉ cần nhìn thấy ánh
sáng phóng ra từ một lỗ chân lông của Ngài thì kẻ ấy sẽ thấy ánh sáng tịnh diệu của vô
lượng chư Phật ở mười phương
Tôn này dùng ánh sáng Trí của vô lượng, giáng phục ba Hoặc (Kiến Tư Hoặc,
Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc), chiếu khắp mười phương cho nên xưng là Vô Lượng
Quang (Amita-prabha)
_Y theo sự ghi chép của Kinh Lăng Nghiêm thì Chỗ tu (Sở Tu) tại Nhân Địa của
Đại Thế Chí Bồ Tát là Niệm Phật Tam Muội. Nhân đây, Ngài đem Pháp Môn Niệm
Phật dạy Đạo cho chúng sinh.
Trong Kinh ghi là: Chư Phật Như Lai ở mười phương có tâm thương xót chúng
tựa như bà mẹ nhớ nghĩ đến con cái. Nếu quả nhiên tâm của chúng sinh cũng như vậy
nhớ Phật, niệm Phật thì đời này, đời sau quyết định hay nhìn thấy Phật
Do đó Ngài đã mở bày Pháp Môn đó là: Đều nhiếp sáu căn, tịnh niệm nối tiếp,
được Tam Ma Địa. Đây là bậc nhất trong mọi Pháp Môn. Ở đời sau thành chuẩn mực
trọng yếu của Hành Giả tu Tịnh Độ
Trong Kinh Thất Phật Bát Bồ Tát Thần Chú của Mật Giáo với Kinh Dược Sư
Bản Nguyện xếp vị Bồ Tát vào một trong tám vị Đại Bồ Tát.
Hệ Thống Mật Giáo ghi nhận Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi-bodhisatva)
là thân Phẫn Nộ (Krodha-kāya) của Đại Thế Chí Bồ Tát, biểu tượng cho việc chiết
phục và tồi phá tất cả Ma ác
300
_Kinh Điển của hệ Đại Nhật Kinh đem Tôn này xếp thuộc vào Quán Âm Bộ,
Mật Hiệu là Trì Luân Kim Cương, Trì Quang Kim Cương, Chuyển Luân Kim
Cương, Không Sinh Kim Cương….
Tại Quán Âm Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
thì Tôn này dùng ánh sáng Trí Tuệ chiếu khắp tất cả khiến cho chúng sinh lìa xa ba nẻo
ác, được sức vô thượng. Khi Tôn này bước đi thời tất cả đại địa đều chấn động cho nên
xưng là Đại Thế Chí.
Lúc còn ở Nhân Địa thời Đại Thế Chí Bồ Tát dùng Tâm niệm Phật mà nhập vào
Vô Sinh Nhẫn cho nên nay nhiếp chúng sinh niệm Phật ở Thế Giới Sa Bà (Sāha-dhātu)
quy về Tịnh Thổ.
Tôn này hay khiến cho chúng sinh xa lìa ba Độc, được sức vô thượng.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen mở khép, tay phải giương lòng bàn
tay co 3 ngón ở giữa (vô danh, giữa, trỏ) để trước ngực, ngồi yên trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Trì Luân Kim Cương
Chữ chủng tử là: SAṂ () hay SAḤ ()
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen chưa nở
Tướng Ấn là: Hư Tâm Hợp Chưởng
Hoặc Không Tâm Hợp Chưởng giống như hoa sen chưa hé nở.
301
Hoặc Đại Thế Chí Bồ Tát Thủ Ấn:
Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) co mười ngón tay vào bên
trong thành dạng hình tròn như hoa sen chưa hé nở. Tiếp theo đem hai ngón giữa hơi
đánh mở, tức là Vị Phu Liên Hoa Ấn
Hư Tâm Hợp Chưởng, liền ở hoa sen chưa hé nở, rõ rệt như rương báu của Như
Lai rồi hé nở, rút lại như hợp khép.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᘶ ᘶ 㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ JAṂ JAṂ SAḤ _ SVĀHĀ
302
NHẬT QUANG BỒ TÁT
Nhật Quang Bồ Tát, tên Phạn là Sūrya-prabha, dịch âm là Tô Lợi Gia Bát La Bà.
Lại xưng là Nhật Quang Biến Chiếu Bồ Tát, Nhật Diệu Bồ Tát hay Nhật Quang Phổ
Chiếu Bồ Tát.
Danh hiệu Nhật Quang Bồ Tát được lấy từ ý tưởng: “Mặt trời phóng ra ngàn
ánh sáng chiếu khắp thiên hạ, phá mọi ám tối”. Vị Bồ Tát này y theo Bản Nguyện Từ
Bi, Tam Muội Phổ Thí chiếu diệu Pháp Giới, bụi thế tục… phá nát sự tối tăm của sinh
tử giống như ánh sáng mặt trời chiếu khắp thế gian, cho nên có tên này.
303
Kinh Dược Sư ghi nhận Nhật Quang Bồ Tát vị đứng hầu bên trái Đức Phật Dược
Sư, cùng với vị Nguyệt Quang Bồ Tát đứng hầu bên phải, là hai vị Đại Phụ Tá của Đức
Phật Dược Sư trong quốc thổ Tịnh Lưu Ly ở phương Đông. Đây là hai vị Bồ Tát
thượng thủ của vô lượng chúng Bồ Tát, thọ trì kho báu Chính Pháp của Đức Dược Sư
Như Lai.
Đức Phật Dược Sư với hai vị Bồ Tát này được hợp xưng là Đông Phương Tam
Thánh
Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đức Phật Dược Sư có quan hệ rất sâu xa. Trong thời
quá khứ xa xưa, ngay khi Đức Điện Quang Như Lai hành hóa ở thế gian thời có một
vị Phạm Sĩ (Brāhmaṇa: Bà La Môn) nuôi dưỡng hai đứa con. Ba cha con đều cảm thấy
sự trược loạn của thế gian, khi ấy phát khởi Tâm Bồ Đề, thề nguyện cứu chữa chúng
sinh bị bệnh khổ nên Đức Điện Quang Như Lai đối với họ khen ngợi khác thường, liền
vì vị Phạm Sĩ đổi tên là Y Vương, hai người con được đổi tên là Nhật Chiếu, Nguyệt
Chiếu. Do nương nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai nên sau khi thành
Phật thì vị Phạm Sĩ ấy tức là Đức Dược Sư Như Lai. Hai người con tức là hai vị Đại
Hiếp Thị Nhật Quang, Nguyệt Quang mà Nhật Chiếu tức là Nhật Quang Bồ Tát. 304
Hình tượng của Nhật Quang Bồ Tát được minh họa theo nhiều dạng khác nhau
305
306
_Nhật Quang Bồ Tát cùng với Đại Bi Chú của Quán Thế Âm Bồ Tát có quan hệ
mật thiết. Người trì tụng Đại Bi Chú được Nhật Quang Bồ Tát hợp với vô lượng Thần
Nhân đi đến chứng minh kèm tăng thêm hiệu nghiệm. Phàm người trì tụng Chú Đại Bi
nếu hay trì tiếp Nhật Quang Bồ Tát Đà La Ni ắt hay tịch trừ Ma Chướng, được quả báo
tốt lành chẳng thể nghĩ bàn
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi rằng:
Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha) vì người thọ trì Đại Bi Tâm Đà La Ni, nói
Đại Thần Chú để ủng hộ là:
“Nam mô bột đà cù na mê (1) Nam mô đạt ma mạc ha đê (2) Nam mô tăng
già đa dạ nê (3) Để lý bộ tất tát đốt diêm nạp ma”.
㗍ᜀ 㐰㛱 ᗜ
㗍ᜀ ᚰ㜭 ᛸ㍣ᚎ
㗍ᜀ 㐂ᗼ ㅑᜅ㍽
ᚎᜐᛱᛢ ㍖Ჰᚮ 㗍ᛸ
NAMO BUDDHĀ KUṆAMI
NAMO DHARMA MAHATI
NAMO SAṂGHA TAYĀNI
TIRABHŪBI SATVADAṂ NAMA
Tụng Chú này diệt được tất cả tội, cũng hay đuổi được Ma và trừ thiên tai. Nếu
kẻ nào tụng một biến, lễ Phật bái, Như vậy mỗi ngày, riêng ba Thời tụng Chú lễ Phật
thì trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân sẽ được mỗi một tướng mạo đoan chính, được
quả báo đáng vui mừng”.
_Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) thì Nhật Quang Bồ Tát biểu thị cho Đức đặc biệt như ánh sáng mặt trời hay
trừ ưu não ám tối cho chúng sinh của Địa Tạng Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen để vành mặt trời. Ngồi
trên hoa sen đỏ. 307
Mật Hiệu là: Uy Đức Kim Cương
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ) hay KA (㒕)
Tam Muội Gia Hình là: Vành mặt trời.
Tướng Ấn là: Hai tay, 2 đầu ngón trỏ, 2 đầu ngón cái cùng tiếp chạm nhau.
Giương mở 3 ngón còn lại như hình mặt trời phóng ánh sáng.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᝑ㛽㛺᛭ㆎ㖁㛿㐷
ON _ SŪRYA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ
308
NGUYỆT QUANG BỒ TÁT
Nguyệt Quang Bồ Tát, tên Phạn là Candra-prabha, dịch âm là Tán Nại La Bát La
Bà. Lại xưng là Nguyệt Tịnh Bồ Tát, Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Xuất xứ của Nguyệt Quang Bồ Tát có nhiều Thuyết chẳng đồng nhau, thông
thường có ba loại giải thích:
1_ Ngài là vị Đế Vương cổ xưa của Ấn Độ, tức là tiền thân của Đức Thích Ca tu
Bồ Tát Hạnh ở đời quá khứ
Kinh Hiền Ngu, quyển 6_Kinh Nguyệt Quang Bồ Tát_Kinh Đại Bảo Tích,
quyển 80… ghi chép là: “Vị vua này có Đại Uy Đức, sau này bố thí cái đầu cho Bà La
Môn Lao Độ Sai để đầy đủ Hạnh Đàn Ba La Mật. Lại xưng là Nguyệt Quang Bồ Tát”
2_Nguyệt Quang là tên gọi khác của Ba Tư Nặc (Prasenajit) là vua của nước Xá
Vệ (Śrāvastī) ở Trung Ấn Độ khi Đức Phật còn tại thế
Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát Nhã Ba La Mật, quyển Thượng nói rằng:
“Chủ của nước Xá Vệ là vua Ba Tư Nặc có tên gọi là Nguyệt Quang”
Ba Tư Nặc (Prasenajit) lại xưng là Tác La Tê Na Thị Đa Vương, La Tẩy Nẵng
Dụ Na Vương. Dịch ý là Thắng Quân Vương, Thắng Quang Vương, Hòa Duyệt
Vương, Nguyệt Quang Vương, Minh Quang Vương. Ngài là vị vua của nước Kiều Tát
La (Kauśala) tại thành Xá Vệ (Śrāvastī) ở Trung Ấn Độ đồng thời đại với Đức Thích
Tôn, là bậc Đại Ngoại Hộ cho Giáo Đoàn của Đức Thích Tôn kèm thống lãnh nước Ca
Thi (Kāśi) cùng với nước Ma Yết Đà (Magadha) đều là đại cường quốc. Ban đầu, nhà
vua rất bạo ác không có niềm tin, sau khi quy y Đức Phật, được Đức Phật Đà giáo hóa
thì mới dốc lòng tin Phật Pháp, từng cùng với vị phu nhân của Ngài là Ma Lợi Ca
(Mallikā) hỏi đáp, được kết luận là “con người đều yêu chính mình nhất”, sau đó
Ngài thỉnh giáo Đức Thích Tôn. Cuộc đối thoại ấy còn lưu lại ở đời cho đến ngày nay. 309
3_Nguyệt Quang Bồ Tát là vị hầu cận bên phải Đức Phật Dược Sư (Bhaiṣaijya-
guru-buddha) tại Thế Giới Tịnh Lưu Ly (Vaiḍurya) ở phương Đông cùng với vị hầu
cận bên trái Đức Phật Dược Sư là Nhật Quang Bồ Tát (Sūrya-prabha). Cả ba vị này
được hợp xưng là Đông Phương Tam Thánh
Tương truyền Đức Dược Sư Như Lai cùng với Nhật Quang, Nguyệt Quang vốn là
cha con, từng ở trong Pháp Vận của Đức Điện Quang Như Lai siêng tu Phạm Hạnh
(Brahma-caryā), nhận sự phó chúc của Đức Điện Quang Như Lai, phân biện cải tên gọi
là Y Vương cùng với Nhật Chiếu, Nguyệt Chiếu phát Đại Nguyện Vô Thượng Bồ
Đề thề cứu tất cả hữu tình trong sáu nẻo thoát khỏi khổ Luân Hồi
_Trong Phật Pháp thì Nguyệt Quang Bồ Tát biểu thị cho sự lắng tâm tĩnh lự
nhập vào Thiền Định (tĩnh định), ánh sáng trong suốt rực rỡ có thể dung nhiếp mỗi
một chúng sinh trong Đại Thiên khiến cho miễn trừ được sự bức não của ba Độc
Tham, Sân, Si
Căn cứ vào sự ghi chép trong Kinh Dược Sư Như Lai Bản Nguyện thời Nguyệt
Quang Bồ Tát cùng với Nhật Quang Bồ Tát đồng là bậc thượng thủ của vô lượng vô số
chúng Bồ Tát, Thứ Bổ Phật Xứ (Vị Bồ Tát chờ thành Phật) thọ trì kho báu Chính
Pháp của Đức Dược Sư Như Lai
_Nguyệt Quang Bồ Tát lại được xưng là Nguyệt Thần (Thần mặt trăng) là vị
Thần Tiên được lưu truyền rất rộng trong dân gian Trung Quốc
HÌNH TƯỢNG CỦA NGUYỆT QUANG BỒ TÁT
_Tôn Tượng của Nguyệt Quang Bồ Tát xuất hiện chẳng nhiều, hình tướng cùng
với vật trang sức chẳng sai khác lắm so với vị Bồ Tát Ma Ha Tát
.) Y theo Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp ghi chép: “Nguyệt Quang Bồ
Tát có thân màu trắng, ngồi trên tòa ngỗng, tướng tốt đẹp trang nghiêm, thân đeo Anh
Lạc với vật trang sức, tay cầm hoa sen xanh, trên sen có hình nửa vành trăng. Hoặc là
nâng bàn tay cầm một vành trăng sáng” 310
Ánh sáng mặt trăng biểu thị cho ánh sáng hiền thiện (từ quang) trong mát yên
tĩnh, ở trong chốn hắc ám phát ra ánh sáng trắng tinh dẫn đưa Tà vào Chính
.)Hoặc Nguyệt Quang Bồ Tát có hình Đồng Tử, ngồi trên hoa sen đỏ, trang điểm
màu vàng, tay phải cầm hoa sen xanh bên trên có nửa vành trăng, tay trái cầm hoa sen
chưa nở
Sau này Tôn Tượng Nguyệt Quang Bồ Tát được phụng thờ theo nhiều dạng thức
khác nhau
311
312
313
Đồ Chúng Phật Giáo còn thờ phượng chung cả hai Tôn Tượng của Nguyệt Quang
Bồ Tát và Nhật Quang Bồ Tát
314
Hệ Mật Giáo ghi nhận Nguyệt Quang Bồ Tát có vị trí ở Văn Thù Viện trong Thai
Tạng Giới Mạn Đa La, cũng là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp thuộc Kim Cương
Giới Mạn Đa La.
_Tại Văn Thù Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
thì Nguyệt Quang Bồ Tát (Candra-prabha) biểu thị cho việc gìn giữ kho báu Chính
Pháp
Tôn Hình: Quyền phải để ngang eo, cầm hoa sen, bên trên hoa có nửa vành trăng.
Tay trái dựng quyền cầm hoa sen chưa nở. Ngồi ngay thẳng trên đài sen.
Mật Hiệu là:Uy Đức Kim Cương
Chữ chủng tử là: CA (ク)
Tam Muộ Gia Hình là: Trên hoa sen để nửa vành trăng.
Tướng Ấn là Chấp Liên Hoa Ấn: Tay phải, dựng lòng bàn tay đem ngón cái và
ngón trỏ cùng vịn nhau.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ク㪯㛺᛭ㆎ㖁 ᵙ㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ CANDRA-PRABHĀYA_ SVĀHĀ 315
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có Tôn Hình giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Thanh Lương Kim Cương, Hoạt Duyệt Kim Cương
Chữ chủng tử là: CA (ᘔ) hay MA (ᛸ)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng
Tướng Ấn là:Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ᛸ
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ MA
Hay 㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử
là: YA (ㆎ)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng. Biểu thị cho việc phóng tỏa ánh sáng soi
chiếu chúng sinh trong nẻo hắc ám, khiến cho họ hướng về Trí Tuệ của Phật Quả
Tướng Ấn là:Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ᜄ
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ YA 316
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: BHA
(᛬)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm giữ vành trăng, tay trái nắm quyền
để cạnh eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ᛬
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là:
BHA (᛬)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có nửa vành trăng.
Tướng Ấn là:Tay phải tác Thanh Liên Hoa Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ᛬
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA 317
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Nguyệt Quang
Bồ Tát có chữ chủng tử là: YA (ㆎ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có nửa vành trăng.
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng.
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ㆎ
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ YA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì
Nguyệt Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: BHA (᛬)
Tam Muội Gia Hình là: Nửa vành trăng. Biểu thị cho việc phóng tỏa ánh sáng
soi chiếu chúng sinh trong nẻo hắc ám, khiến cho họ hướng về Trí Tuệ của Phật Quả
Chân Ngôn là:
㛸 ᘔ㪯 ᧠᛭ᜄ ᵙ ᛬
OṂ _ CANDRA-PRABHĀYA SVĀHĀ _ BHA 318
_Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn
Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà La Ni ghi nhận bài Nguyệt Quang Bồ Tát Đà La Ni là:
“Thâm đê đế đồ tô tra (1) A nhược mật đế ô đô tra (2) Thâm kỳ tra (3) Ba lại
đế (4) Gia di nhược tra ô đô tra (5) Câu la đế tra kỳ ma tra (6) sa bà ha”.
㗍ᜀ ㎷ᚶᚎ ᚐᝅㆳ ㅦᚎ ㅪᚑㆳ ㎷ᗟㆳ 㗏ᜥᚎᜊᘬㆳ ㅪᚑㆳ
ᗡᚕㆳ ᗟᜀㆳ 㛿㏆
NAMO SAṂDHETI TUṢŪṬHA ĀMITI ŪTŪṬHA SAṂKAIṬHA
PALAUTIYEMEJAṬHA ŪTŪṬHA KAULĀTAUṬHA KAIMOṬHA SVÀHÀ
Tụng Chú này năm biến, lấy chỉ ngũ sắc làm sợi dây Chú (Chú Sách) rồi cột
buộc ở chỗ bị đau nhức. Chú này do bốn mươi hằng hà sa chư Phật đời quá khứ đã nói,
nay tôi cũng nói, vì các Hành Nhân mà làm ủng hộ để trừ tất cả chướng nạn, trừ sự đau
nhức của tất cả bệnh ác, thành tựu tất cả Pháp lành, xa lìa tất cả các sự sợ hãi.
Đức Phật bảo: “Này A Nan ! Ông nên dùng Tâm sâu xa trong sạch mà thọ trì Đà
La Ni này, rộng nói lưu truyền nơi cõi Diêm Phù Đề đừng để cho đoạn tuyệt. Đà La Ni
này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong ba cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi
thân, dùng Đà La Ni này mà trị thì không có bệnh nào chẳng khỏi.
Dùng Đại Thần Chú chú vào cây kho héo thì cây ấy còn được sinh cành lá, hoa
quả huống chi hữu tình là chúng sanh Thức. Nếu thân có bệnh hoạn, dùng Chú này trị
mà chẳng lành, ắt không có chuyện đó
Thiện Nam Tử ! Sức uy thần của Đà La Ni này chẳng thể luận bàn ! Chẳng thể
luận bàn ! Khen ngợi không thể hết được! Nếu chẳng phải là người từ đời quá khứ lâu
xa đến nay đã rộng gieo căn lành, thì cho đến tên gọi còn chẳng được nghe, huống chi
là được thấy! Đại Chúng các ông, Trời, Người, Rồng,Thần… nghe Ta khen ngợi đều
nên tùy vui”. 319
DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT VÀ DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT
Dược Vương Bồ Tát, tên Phạn là Bhaiṣaijya-rāja hay Bhaiṣajya-rāja, dịch âm là
Bệ sái thệ la nhạ.
Dược Thượng Bồ Tát, tên Phạn là Bhaiṣaijya-samudgata hay Bhaiṣajya-
samudgata, dịch âm là Bệ Sái Thệ Tam Muột yết đa.
Do hai vị Bồ Tát này ở đời quá khứ hay ban cho thuốc tốt cứu trị hai loại bệnh
Thân Tâm của chúng sinh cho nên được tên gọi là Dược Vương và Dược Thượng.
Hai Tôn này đều là một trong 25 vị Bồ Tát của Đức Phật A Di Đà (Amitābha-
buddha), một trong tám vị Đại Bồ Tát của Đức Phật Dược Sư (Bhaiṣaijya-gūru-
buddha)
Hai vị Bồ Tát này tu Phạm Hạnh (Brahma-caryā), các Nguyện đã mãn thời ở đời
vị lai: Bồ Tát Dược Vương thành Phật hiệu là Tịnh Nhãn Như Lai. Bồ Tát Dượng
Thưỡng cũng thành Phật, hiệu là Tịnh Tạng Như Lai
Hai vị Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng thường luôn luôn đi theo hầu cận
cúng dường Đức Phật Dược Sư (thuyết khác nói là Nhật Quang Bồ Tát và Nguyệt
Quang Bồ Tát). Có lúc cả hai vị Bồ Tát này hợp làm người hầu cận (hiếp thị) của Đức
Phật Thích Ca hoặc Đức Phật A Di Đà… để biểu thị cho Đức vốn đồng một Thể của
chư Phật
_Phật nói Kinh quán hai Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng ghi chép rằng:
“Đức Phật bảo A Nan: Ở thời quá khứ cách nay vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp,
lại gấp bội mỗi mỗi cõi nước đó chẳng thể nói. Thời đó có Đức Phật hiệu là Lưu Ly
Quang Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chính Biến Tri Minh Hạnh Túc Thiện Thệ Thế
Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, kiếp đó
tên là Chính An Ổn, cõi nước tên là Huyền Thắng Phan, chúng sinh sinh ở nước đó
có thọ mệnh tám đại kiếp.
Đức Phật Thế Tôn ấy hiện ra ở Thế Gian 16 Đại Kiếp, sau đó ở giảng đường Liên
Hoa (Padma) nhập vào Bát Niết Bàn (Parinirvāṇa). Sau khi Đức Phật vào Niết Bàn 320
(Nirvāṇa) thì Chính Pháp trụ ở đời đủ tám Đại Kiếp, Tượng Pháp trụ ở đời cũng tám
Đại Kiếp. Ở trong thời Tượng Pháp có một ngàn vị Tỳ Kheo phát Tâm Bồ Đề (Bodhi-
citta) cầu Bồ Tát Giới, vì khắp chúng sinh du hành giáo hóa
Thời ấy trong Chúng có một vị Tỳ Kheo tên là Nhật Tạng (Sūrya-garbha) thông
minh đa Trí, dạo qua các làng xóm, thôn, doanh, thành, ấp, tăng phòng, nhà gác, chốn
A Luyện Nhã với đến Luận Đường (nơi luận bàn)… vì các Đại Chúng rộng khen Bản
Duyên của Bồ Tát Đại Thừa, cũng nói Đại Tuệ vô thượng bình đẳng thanh tịnh của
Như Lai
Lúc đó trong Chúng có một vị Trưởng Giả tên là Tinh Tú Quang (Nakṣatra-
prabha) nghe nói Đại Tuệ bình đẳng của Đại Thừa nên tâm sinh vui vẻ, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, cầm quả Ha Lê Lặc với các tạp dược (thuốc đủ loại) đến chỗ của Nhật
Tạng rồi bạch rằng:”Đại Đức ! Con nghe Nhân Giả nói thuốc Cam Lộ. Như Ngài đã
nói, người uống thuốc này sẽ chẳng già chẳng chết”
Nói lời đó xong, cúi đầu mặt sát đất, lễ bàn chân của vị Tỳ Kheo. Lại cầm thuốc
này dâng lên Tỳ Kheo rồi bạch rằng:”Nhân Giả ! Nay đem thuốc này dâng lên Nhân
Giả với Đại Đức Tăng”
Bấy giờ Nhật Tạng liền làm Chú Nguyện, nhận Ha Lê Lặc. Trưởng Giả nghe
Pháp, lại nghe Chú Nguyện nên tâm sinh vui vẻ, lễ khắp vô lượng chư Phật ở mười
phương, ở trước mặt Nhật Tạng phát Hoằng Thệ Nguyện rồi nói lời này:
“Con nghe Nhân Giả nói thuốc của Phật Tuệ. Như Ngài đã nói chân thật chẳng
hư dối. Nay cầm thuốc tốt (lương dược) của núi Tuyết dâng lên Nhân Giả cùng với
chúng Tăng. Dùng Công Đức này, nguyện cho con đời đời chẳng cầu Phước Báo trong
ba cõi của Người, Trời. Chính tâm hồi hướng A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề.
Nay con chí thành phát Tâm Vô Thượng Đạo, ở đời vị lai ắt sẽ thành Phật.
Nguyện này chẳng hư dối như Phật Tuệ mà Tôn Giả đã nói. Khi con được sức trong
sạch của Bồ Đề thời, tuy chưa thành Phật. Nếu có chúng sinh nghe tên của con thì
nguyện được trừ diệt ba loại bệnh khổ của chúng sinh.
1_ 404 bệnh trong thân của chúng sinh, chỉ xưng tên của tôi liền được trừ khỏi.
2_ Nguyện vĩnh viễn chẳng nhận chịu nỗi khổ của Tà Kiến, ngu si với nẻo ác. Khi
tôi thành Phật thời các chúng sinh trong quốc độ của tôi thảy đều ngộ giải Đại Thừa
bình đẳng, lại thêm không có nẻo khác
3_ Trong Diêm Phù Đề với phương khác, có tên gọi của ba nẻo ác. Người nghe
tên của tôi vĩnh viễn chẳng nhận chịu thân trong ba nẻo ác. Giả sử bị rơi vào nẻo ác thì
cuối cùng tôi chẳng thành A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề
Nếu có người lễ bái, buộc niệm, quán thân tướng của tôi. Nguyện cho chúng sinh
này tiêu trừ ba Chướng như Lưu Ly trong sạch, trong ngoài sáng tỏ.
Thấy sắc thân của Phật cũng lại như vậy, nếu có chúng sinh thấy sắc thân thanh
tịnh của Đức Phật. Nguyện cho chúng sinh này ở Tuệ bình đẳng, vĩnh viễn chẳng lùi
mất”
Phát Nguyện này xong, cúi năm vóc sát đất, lễ khắp vô lượng chư Phật ở mười
phương. Lễ chư Phật xong, cần hoa trân châu rải trên Nhật Tạng rồi bạch rằng:
“Hòa Thượng ! Nhân vào Hòa Thượng cho nên được nghe Phật Tuệ vô thượng
thanh tịnh. Con nghe điều đó xong, ở trước Hòa Thượng đã phát Tâm A Nậu Đa La
Tam Miểu Tam Bồ Đề. Nếu Nguyện này chẳng hư dối ắt thành Phật thì khiến cho hoa
trân châu màu nhiệm mà con đã rải, hóa làm lọng hoa trụ trên Hòa Thượng”
Nói lời đó xong thì ngọc báu đã rải như hoa sen báu bày thành hàng trong hư
không, biến thành cái lọng hoa. Cái lọng ấy có ánh sáng đầy đủ màu vàng ròng.
Tất cả Đại Chúng nhìn thấy việc này đều khác miệng đồng âm khen ngợi Đại
Trưởng Giả Tinh Tú Quang rằng: “Lành thay ! Lành thay Đại Trưởng Giả ! Ông hay 321
ở trong Đại Chúng này, đã hay phát Đại Hoằng Thệ Nguyện thâm sâu nên hiện tướng
điềm lành vi diệu như đây. Nay chúng tôi quán tướng điềm lành này ắt được thành
Phật, không có nghi ngờ”
Thời đó Trưởng Giả Tinh Tú Quang có người em trai tên là Điện Quang Minh
thấy người anh phát Tâm Bồ Đề nên thân tâm tùy vui, bạch rằng:”Đại Huynh ! Nay em
trong nhà có Đề Hồ với thuốc tốt, nguyện xin anh nghe em đem cho khắp tất cả chúng
Tăng chằng giới hạn”
Người anh ấy bảo rằng: “Cứ thuận theo ý của em”
Khi ấy Điện Quang Trưởng Giả bạch với anh rằng: “Nay em cũng lại tùy theo
Đại Huynh, muốn phát Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề thâm sâu”
Người anh ấy đáp rằng: “Nếu muốn phát Tâm. Nay em nên lễ chư Phật ở mười
phương, ở trước mặt Đại Hòa Thượng Nhật Tạng Tỳ Kheo, thích hợp phát ý Vô
Thượng Đạo thâm sâu”
Người em bạch với anh rằng: “Nay em đem Đề Hồ, thuốc tốt này bố thí tất cả. Lại
đem vật khí thơm tho dâng lên mười phương Phật, hồi Công Đức này, nguyện như Đại
Huynh đã phát Thệ Nguyện, không có khác. Nếu ước nguyện của em thành thật cẳng
hư dối thời khiến cho hoa sen màu nhiệm mà em đã rải, trụ trong hư không giống như
cây hoa (hoa thọ)”
Thời Đại Chúng trong Hội thấy hoa sen mà Điện Quang Trưởng Giả đã rải, xếp
thành hàng, trụ trong hư không. Mỗi một hoa ấy như cây Bồ Đề xếp thành hàng, trụ
trong hư không, đầy đủ hoa quả.
Lúc đó Đại Chúng khác miệng đồng âm cũng đều khen ngợi Điện Quang Trưởng
Giả, rồi nói lời này:“Nay điềm lành của ông, ứng như người anh Trưởng Giả không có
khác. Ở đời vị lai ắt được thành Phật không có nghi ngờ”
Đức Phật bảo A Nan:”Nay ông nên biết. Khi Đại Trưởng Giả đem Ha Lê Lặc,
Thắng Dược của núi Tuyết dâng cho chúng Tăng. Chúng Tăng uống vào xong được
nghe Diệu Pháp, do sức của thuốc cho nên trừ hai loại bệnh. Một là bốn Đại tăng giảm,
hai là phiền não giận dữ. Nhân thuốc này cho nên khi các Đại Chúng đều phát Tâm A
Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề thời xướng lên lời này:”Chúng tôi ở đời vị lai đều
sẽ thành Phật”
Thời các Đại Chúng đều cùng nhau nói rằng: “Nay chúng tôi nhân vào hai loại
thuốc mà Đại Sĩ ban cho nên được phát Tâm của Vô Thượng Pháp Vương, làm vua
của ba ngàn Đại Thiên Thế Giới. Vì báo ân cho nên tạo lập Hiệu, nhân vào Hạnh mà
lập tên gọi, cho nên gọi là Dược Vương (Bhaiṣaijya-rāja)”
Đức Phật bảo A Nan: “Nay ông nên biết. Dược Vương Bồ Tát này nghe các Đại
Chúng vì mình tạo lập Hiệu thời kính lễ Đại Chúng rồi nói lời này:
“Đại Đức Chúng Tăng vì tôi lập Hiệu, tên gọi là Dược Vương. Nay tôi cần phải
y theo tên gọi mà định thật.
Nếu mọi Sở Thí của tôi hồi hướng Phật Đạo đều được thành tựu. Nguyện cho hai
bàn tay của tôi, tuôn mưa tất cả thuốc xoa rửa chúng sinh, trừ tất cả bệnh
Nếu có chúng sinh nghe tên của tôi, lễ bái tôi, quán thân tướng của tôi sẽ khiến
cho nhóm này đều uống thuốc Pháp không ngại của Đà La Ni màu nhiệm thâm sâu. Sẽ
khiến cho nhóm này trên thân hiện tại, trừ khử các ác, không có Nguyện gì chẳng theo.
Lúc tôi thành Phật thời nguyện cho các chúng sinh đầy đủ Hạnh Đại Thừa”
Nói lời đó xong thời ở trong hư không, tuôn mưa lọng bảy báu che bên trên Dược
Vương. Trong ánh sáng của cái lọng, mà nói Kệ rằng:
“Đại Sĩ ! Nguyện diệu thiện
Ban thuốc cứu tất cả
Vị lai sẽ thành Phật 322
Hiệu gọi là Tịnh Nhãn
Rộng độ các Trời, Người
Tâm Từ không bờ mé
Mắt Tuệ chiếu tất cả
Vị lai sẽ thành Phật”
Bấy giờ Dược Vương nghe Kệ này xong thì thân tâm vui vẻ, liền nhập vào Tam
Muội. Tam Muội ấy tên là Duy Vô Trang Nghiêm, do sức của Tam Muội cho nên
thấy Phật vô số, tịnh trừ nghiệp chướng, liền được vượt qua tội của 900 vạn ức a tăng
kỳ kiếp sinh tử
Khi ấy trong Chúng tạo lập Hiệu, nay chính là Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát
này
Đức Phật bảo A Nan: “Nay ông ở thời này nên biết người em trưởng giả đem
thuốc bố thí cho người. Nhân vào thuốc bố thí cho nên người đời khen ngợi thuốc của
Trưởng Giả này dùng bố thí cho chúng Tăng với ban cho tất cả. Người uống thuốc này
được khí lực cao, được thuốc diệu thượng cũng nghe thuốc Pháp Đại Thừa thượng
diệu. Người đời của thời đó nhân vào Hạnh mà lập tên, gọi là Dược Thượng
Bấy giờ Dược Thượng Bồ Tát nghe các người đời khen ngợi Đức của mình, gọi là
Dược Thượng. Nhân phát Nguyện: “Nay tất cả Đại Chúng của Thế Gian này vì tôi lập
Hiệu, gọi là Dược Thượng
Nguyện tôi đời sau , lúc được thành sức của 16 loại thanh tịnh thời dùng thuốc
Thượng Pháp ban cho khắp tất cả
Nguyện cho các chúng sinh nghe tên của tôi, mau được tiêu diệt lửa mạnh phiền
não
Nếu có chúng sinh lễ bái tôi, xưng tên của tôi, quán thân tướng của tôi sẽ khiến
cho nhóm này được uống Thượng Diệu Bất Tử Giải Thoát Cam Lộ Thượng Dược”
Khi ấy Đại Chúng nghe lời đó xong, đều cởi chuỗi Anh Lạc, rải trên Dược
Thượng Bồ Tát. Chỗ đã rải Anh Lạc, lớn như cái đài bảy báu, đứng trụ trong hư không.
Trong cái đài có ánh sáng thuần màu vàng rực, tiếng như Phạm Âm mà nói Kệ là:
“Lành thay ! Thắng Đại Sĩ
Hiển phát Hoằng Thệ Nguyện
Đều độ chúng sinh khổ
Tâm không có nghi lo
Vị lai sẽ thành Phật
Hiệu, gọi là Tịnh Tạng
Cứu giúp các Thế Gian
Người chìm trong biển khổ”
Đức Phật bảo A Nan:” Nay ông khéo nên nghe cho kỹ lời của Phật, cẩn thận đừng
quên mất. Hai vị Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng tức là Quán Đỉnh Pháp Tử của
chư Phật Thế Tôn ba đời quá khứ hiện tại vị lai
Nếu có chúng sinh nghe tên của hai vị Bồ Tát này thì vượt qua hẳn biển khổ
chẳng bị đọa trong sinh tử, luôn được gặp thẳng chư Phật Bồ Tát, huống chi là tu hành
đầy đủ như đã nói.
Nếu có kẻ trai lành, người nữ thiện nghe Thần Chú mà hai vị Bồ Tát đã nói, hoặc
quán thân tướng của hai vị Bồ Tát này thì ở đời hiện tại đều được thấy Dược Vương
Dược Thượng với nhìn thấy Ta, ngàn Đức Phật đời Hiền Kiếp. Ở đời vị lai, thấy vô số
Phật, mỗi một Đức Thế Tôn vì kẻ ấy nói Pháp, sinh vào cõi Phật thanh tịnh, tâm ấy bền
chắc, cuối cùng chẳng thoái chuyển Tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề”
323
_Kinh này lại ghi nhận Uy Đức của Danh Xưng và Đà La Ni của hai vị Bồ Tát
này là:
“Đức Phật bảo Bảo Tích: “Chúng sinh đời vị lai có đủ năm nhân duyên sẽ được
nghe tên của hai vị Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng. Thế nào là năm ?
1_ Tâm hiền lành (từ Tâm) chẳng giết chóc, đủ Cấm Giới của Phật, chẳng khuyết
uy nghi
2_ Hiếu dưỡng cha mẹ, hành mười điều Thiện của đời.
3_ Thân tâm an tịch, buộc niệm chẳng loạn
4_ Nghe Kinh Phương Đẳng, tâm chẳng nghi sợ, chẳng mất chẳng lùi
5_ Tin Phật chẳng diệt, ở Tâm Đệ Nhất Nghĩa như nước chảy, niệm niệm chẳng
dứt”
Đức Phật bảo Bảo Tích: “Nếu có chúng sinh đủ năm duyên này thì đời đời sinh ra
được nghe tên của hai vị Bồ Tát này với nghe tên của chư Phật Bồ Tát ở mười phương.
Nghe Kinh Phương Đẳng thì tâm không có nghi lo. Đã được nghe tên của hai vị Bồ Tát
này, do sức uy Thần cho nên đời đời sinh ra, trong năm trăm a tăng kỳ kiếp chẳng bị
rơi vào nẻo ác”
Khi Đức Phật nói lời đó thời Dược Vương Bồ Tát nương theo uy thần của Đức
Phật, liền nói Chú là:
“A mục khư (1) ma ha mục khư (2) toạ lệ (3) ma ha toạ lệ (4) đả sí (5) ma ha đả sí
(6) thường cầu lợi (7) ma ha thường cầu lợi (8) ô ma trí (9) ma ha ô ma trí (10) đả sí,
đả sí (11) ma ha đả sí (12) đâu đế, đâu đế (13) ma ha đâu đế (14) a thâu, a thâu (15)
ma ha a thâu (16) lâu già ca (17) ma ha lâu già ca (18) đà xa mị (19) ma ha đà xa mị
(20) đa đâu, đa đâu (21) ma ha đa đâu (22) ca lưu ni ca (23) đà xa la toa ha (24) a
trúc khâu, a trúc khâu (25) ma trừng kì (26) ba đăng thư (27) già đệ (28) già lâu ca đệ
(29) phật đà già lê (30) ca lưu ni ca (31) toa ha”
A mukha mahā-mukha, jvale mahā-jvale, dakṣi mahā-dakṣi, jaṅguli
mahā-jaṅguli, umati mahā-umati, dakṣi dakṣi mahā-dakṣi, dyote mahā-dyote,
ayu ayu mahā-ayu, rucaka mahā-rucaka, dhasame mahā-dhasame, tattvo
tattvo maha-tattvo, kāruṇika dhasala svāhā
A cakṣu, A cakṣu, mataṅgi pataṃge cate, carudgate, buddha-cārye
kāruṇika, svāhā
Khi ấy Dược Vương Bồ Tát Ma Ha Tát nói Chú đó xong liền bạch Phật rằng:
“Thế Tôn ! Như Thần Chú (Mantra) này là điều mà tám mươi ức Phật ở đời quá khứ đã
nói, ngày nay Đức Thích Ca Mâu Ni Phật của đời hiện tại với ngàn vị Phật Hiền Kiếp
ở đời vị lai cũng nói Chú đó. Sau khi Đức Phật diệt độ nếu Tỳ Kheo (Bhikṣu), Tỳ Kheo
Ni (Bhikṣuṇī), Ưu Bà Tắc (Upāsaka), Ưu Bà Di (Upāsikā) nghe Chú này, tụng Chú
này, trì Chú này, trong sạch thì các Nghiệp Chướng, Báo Chướng, Phiền Não Chướng
mau được trừ diệt. Ở thân hiện tại tu các Tam Muội, trong mỗi mỗi niệm nhìn thấy sắc
thân của Phật, cuối cùng chẳng quên mất tâm A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề
(Anuttāra-samyaksaṃbuddhi)
Nếu Dạ Xoa (Yakṣa), hoặc Phú Đan Na (Putana), hoặc La Sát (Rākṣasa), hoặc
Cưu Bàn Trà (Kuṃbhaṇḍa), hoặc Cát Già (Cchāya), hoặc Tỳ Xá Đồ (Piśāca), ăn nuốt
tinh khí con người, tất cả Quỷ ác…có thể xâm hại được thời không có chuyện đó. Lúc
mạng muốn dứt thời chư Phật mười phương thảy đều đến nghênh đón, tùy theo ý, vãng
sinh về Tịnh Quốc ở phương khác”
Bấy giờ Đức Thế Tôn khen Dược Vương Bồ Tát rằng:”Lành thay ! Lành thay !
Nam Tử chóng nói Chú này, chư Phật ba đời cũng nói Chú này. Ta đối với Chú này
sinh tùy hỷ sâu xa”
324
Khi ấy Dược Thượng Bồ Tát cũng ở trước mặt Đức Phật mà nói Chú là:
“Nan na mưu (1) phù trí phù (2) lưu phù khâu, lưu phù khâu (3) ca lưu ni ca (4) lễ
mưu, lễ mưu, ca lưu ni ca (5) tỳ đệ, tỳ đệ (6) ca lưu ni ca (7) a tỳ đệ tha (8) a tiện tha, a
tiện tha (9) ca lưu ni ca (10) san già la, toa ha (11)”
Dāna muc_ bhūti bhūḥ _ rūpa-akṣa rūpa-akṣa kāruṇika _ ripu ripu
kāruṇika_ viṭi viṭi kāruṇika_ abhitiṣta _ atyanta atyanta _ kāruṇika saṅkara
svāhā
Dược Thượng Bồ Tát nói Chú đó xong, liền bạch Phật rằng:”Thế Tôn ! Nay con ở
trước mặt Đức Như Lai, nói Giáng Phiền Não Hải Quán Đỉnh Đà La Ni đó. Đà La
Ni Chú này là điều mà chư Phật ba đời đã tuyên nói. Nếu có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Ưu
Bà Tắc, Ưu Bà Di nghe Chú này, tụng Chú này, trì Chú này sẽ được mười Công Đức
lợi. Nhóm nào là mười ?
1_ Do sức uy thần của Chú này cho nên tội sát sinh mau được trong sạch
2_ Hủy Cấm, tên ác thảy đều trừ diệt
3_ Người hoặc Phi Nhân chẳng được dịp thuận tiện gây hãm hại
4_ Phàm chỗ tụng niệm, nhớ giữ chẳng quyên giống như A Nan
5_ Là nơi kính trọng của Thích Phạm, chư Thiên Hộ Thế
6_ Là nơi kính trọng của quốc vương, đại thần
7_ Chín mươi lăm loại các Tà Luận Sư chẳng thể khuất phục
8_ Tâm dạo Thiền Định, chẳng ưa thích niềm vui của đời.
9_ Là nơi hộ niệm của chư Phật với các Bồ Tát ở mười phương và các Thanh
Văn đều đến thưa hỏi, thọ nhận.
10_ Lúc mệnh chung thời tịnh trừ nghiệp chướng, chư Phật ở mười phương
phóng ánh sáng màu vàng ròng, đều đến nghênh tiếp, vì mình nói Diệu Pháp, tùy theo
ý vãng sinh về nước Phật thanh tịnh”.
_Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quyển 7, phẩm Đà La Ni ghi nhận Đà La Ni Chú
của Bồ Tát Dược Vương ủng hộ cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa là:
“Khi ấy Bồ Tát Dược Vương bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Nay con đem Đà La Ni
Chú cho người nói Pháp, dùng để thủ hộ”
Liền nói Chú là: “An nhĩ (1) mạn nhĩ (2) ma nỉ (3) ma ma nỉ (4) chỉ lệ (5)
già lê đệ (6) xa mê (7) xa lý đa vĩ (8) thiên đế (9) mục đế (10) mục đa lý
(11) sa lý (12) a vĩ sa lý (3) tang lý (14) sa lý (15) xoa duệ (16) a xoa duệ
(17) a kì nị (18) thiên đế (19) xa lý (20) đà la ni (21) a lô già bà sa bá giá
tỳ xoa nị (22) nỉ tỳ thế (23) a tiện đá la nỉ lý thế (24) a đản đá ba lệ du địa
(25) ẩu cứu lệ (26) mưu cứu lệ (27) a la lệ (28) ba la lệ (29) thủ ca sái (30)
a tam ma tam lý (41) phật đà tỳ cát lợi trật đế (32) đạt ma ba lợi sái đế (33)
tăng già niết cồ sa nỉ (34) bà xá bà xá du địa (35) mạn đá la (36) mạn đá la
xoa dạ đa (37) bưu lâu đá (38) bưu lâu đá kiều xá lược (39) ác xoa la (40) ác
xoa dã đa dã (41) a bà lô (42) a ma nhã na đa dạ (44)”
ㅥᡚ ᛸᡚ ᛸᛂ ᛸᛸᛂ ᘖげ ᘔᜒᚒ ᝌ ᝌᚍ ᜪ᜵ⵂ 㪧㐡ᚒ 㪧㐡スス
ᝌ ㅥᜪᝀ ᝌᛸᝌ ㅼᜊ ㈰ᜊ ㅥ㈰ᜊ ㅥᝦᚆ ᜵ⵂᝌᚒ ᚱ㇂ᚂ
ㅦᜤㅵ᛭ᝆ 㛺ᠤ㊞ᝤᚂ ㍅ᚲ᜔ ㅥᢄⴼ㇂ ㍅ᜪ⼎ ㅥᢄⴼ㇂ ᛉᜒ㛲 ㈂㐶ᗜᜢ
㪧㐶ᗜᜢ ㅥ㇂᙮ ㆼ㇂᙮ 㫾ᗙⷾ ㅥᝌᛸᝌ 㳆㛰 ᜪᜤᗚᚒ ᚰ↜ ㆼᜓᝦᚒ ᗼ
㍅₨ᝀᚂ チᜅチ㗚 ᜪᚰ㍅ ᛸ㰥 ᛸᦥᝤ㗚ᚒ ᜔ᚒ ᜔ス ᗡ㗣ᢢ ㅥ㈰ᜊ ㅥ㈰㗚
㙝㍽ᚍᜊ 㙝㳄ᜢ ㇱᜤᦀ ㅥᛸᡔソᚍᜊ 㛿
Anye manye, mane mamane citte carite, same samitā viśānte, mukte
muktatame, same aviṣame samasame, jaye kṣaye akṣaye, akṣiṇe śānte samite 325
dhāraṇi, ālokabhāṣe pratyavekṣiṇi, nidhiru abhyantara niviṣṭe, abhyantara
pāriśuddhi, utkule mutkule, araḍe paraḍe sukaṅkṣi asamasame, buddha
vilokite, dharma parīkṣite, saṃgha nirghoṣaṇi, bhayābhaya viśodhani, mantre
mantrākṣaye, rute ruta kauśalya akṣaye, akṣaya vanitāye vak-kule baloḍra
amanyanatāye svāhā
[Anye: Rực rỡ hiếm có
Manye: Điều đã suy nghĩ
Mane: Ý niệm
Mamane: Không có Ý niệm
Citte: bên trong Tâm ý
Carite: Điều đã thực hành phụng tu
Same: Lặng lẽ
Samitā: Đạm bạc
Viśānte: Chí hướng lặng yên
Mukte: Giải thoát
Muktatame:Tế độ
Same: Bình đẳng
aviṣame: Không có nghiêng lệch
sama: An hòa
same: Ngang bằng khắp cả
jaye: Tôn thắng
kṣaye: Diệt hết
akṣaye: Không có cùng tận
akṣiṇe: Tuyệt không đánh mất
śānte: Vô Vi thanh tịnh
samite: Yên lặng
dhāraṇi: Tổng trì
ālokabhāṣe pratyavekṣiṇi: Quán sát rõ ràng ánh sáng Xuất Thế
nidhiru: Sáng rực
abhyantara niviṣṭe: Có chỗ nương cậy tựa nhờ bên trong
abhyantara pāriśuddhi: Thanh tịnh rốt ráo
Utkule: Không có hầm hố
mutkule: Cũng không có cao thấp
araḍe: Không có hồi chuyển
paraḍe: Nơi chốn đã xoay vòng
sukaṅkṣi: Sự trong sạch của con mắt
asamasame: Không có gì ngang bằng
buddha vilokite: Giác Tuệ (Phật) quán chiếu
dharma parīkṣite: Pháp đã thành nghiệm
saṃgha nirghoṣaṇi: Hợp Chúng (Tăng) không có âm tiếng
bhayābhaya viśodhani mantre: Bên trong Thần Chú khiến cho sự sợ hãi và sự
không sợ hãi đều được thanh tịnh
mantrākṣaye: Thần Chú không có cùng tận
rute ruta kauśalya akṣaye: Sự khéo léo của âm tiếng ngữ ngôn không có cùng
tận
akṣaya vanitāye vak-kule baloḍra: Mong ước hiểu rõ chủng tính năng lực của
ngôn ngữ không có cùng tận
amanyanatāye: Không có dính mắc 326
svāhā: quyết định thành tựu]
Thế Tôn! Đà La Ni Thần Chú đấy là điều mà 62 ức hằng ha sa đẳng chư Phật đã
nói. Nếu có kẻ nào xâm hủy vị Pháp Sư này tức là xâm hủy chư Phật đó vậy”.
Thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākya-muṇi) khen Bồ Tát Dược Vương rằng:
“Lành thay ! Lành thay Dược Vương! Ông thương nhớ, ủng hộ vị Pháp Sư này cho nên
nói Đà La Ni đấy, đối với chúng sinh có nhiều sự nhiêu ích”
_Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quyển 7, Phẩm Diệu Trang Nghiêm Bản Sự
ghi nhận: “Tại vô số kiếp đời quá khứ có Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí
giải nói Kinh Pháp Hoa (Saddharma-puṇḍarīka). Thời đó có vị vua tên là Diệu Trang
Nghiêm, vị phu nhân tên là Tịnh Đức, hai người con tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn.
Do vị vua ấy có Tà Kiến chỉ tin tưởng mãnh liệt vào Pháp của Ngoại Đạo cho nên vị
phu nhân cùng với hai người con lập bày mọi loại phương tiện khiến nhà vua đi đến
chỗ của Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí nghe Kinh Pháp Hoa, cùng nhau
được lợi ích.
Sau khi được nghe Đức Phật ấy nói pháp, chỉ dạy làm cho lợi ích an vui. Nhà vua
cùng với vị phu nhân cởi chuỗi Trân Châu đeo ở cổ, đem rải trên Đức Phật. Chuỗi
ngọc ấy ở giữa hư không hóa thành cái Đài báu có bột cây trụ, trong Đài có cái giường
báu trải ngàn muôn cái áo Trời, trên đó có Đức Phật ngồi Kiết Già phóng ánh sáng lớn.
Khi ấy nhà vua nghĩ rằng: “Thân Phật tốt đẹp lạ kỳ hiếm có, thành tựu sắc thân vi diệu
bậc nhất”.
Bấy giờ Đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí bảo bốn Chúng rằng: “Vị
vua này ở trong Pháp của Ta, làm vị Tỳ Kheo siêng năng tu tập các món Trợ Phật Đạo
Pháp, sau này sẽ được thành Phật hiệu là Đa La Thọ Vương, tên nước là Đại Quang,
kiếp tên là Đại Cao Vương”
…. Đức Phật (Đức Phật Thích Ca) bảo Đại Chúng: “Ý của các ông thế nào? Vua
Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào khác, nay chính là Hoa Đức Bồ Tát, vị Tịnh-
Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát hiện đang ở
trước Phật, vì thương xót vua Diệu-Trang-Nghiêm và quyến thuộc nhà vua nên vị Bồ-
Tát này sinh sống trong cung. Còn hai người con nay chính là Dược Vương Bồ Tát và
Dược Thượng Bồ Tát".
_Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, quyển 6, Phẩm Dược Vương Bồ Tát Bản Sự
ghi nhận: “Ở đời quá khứ cách nay vô lượng hằng hà sa kiếp có Đức Phật, hiệu là Nhật
Nguyệt Tinh Minh Đức Như Lai. Thời ấy có vị Bồ Tát tên là Nhất Thiết Chúng
Sinh Hỷ Kiến ưa thích tu Khổ Hạnh mà được Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội.
Khi được Tam Muội ấy rồi thì sinh khởi Tâm rất vui vẻ, lại nhập vào trong Tam Muội
cúng phụng Đức Nhật Nguyệt Tinh Minh Đức Như Lai.
Cúng dường như vậy xong rồi, từ Tam Muội khởi dậy mà tự nghĩ rằng: "Dù Ta
dùng Thần Lực cúng dường Đức Phật, cũng chẳng bằng dùng thân cúng dường".
Liền uống các thứ hương: Chiên Đàn, Huân Lục, Đâu Lâu Bà, Tất Lực Ca, Trầm Thủy
Giao Hương. Lại uống dầu thơm các thứ bông Chiêm Bặc v.v.. mãn một ngàn hai trăm
năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân ở trước mặt Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức
dùng áo báu cõi Trời, tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện Thần
Thông, tự đốt thân của mình cúng dường Đức Phật.
Sau khi mệnh chung, Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại sinh vào trong
nước của Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức rồi đi đến chỗ Đức Phật ngự. Khi ấy
Đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức giao phó Phật Pháp lại cho vị Bồ Tát này rồi
vào khoảng cuối đêm nhập vào Niết Bàn. 327
Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến dùng Chiên Đàn làm giàn cúng dường
để thiêu đốt thân Phật. Sau đó thâu lấy Xá Lợi đựng trong tám vạn bốn ngàn cái bình
báu, xây tám vạn bốn ngàn cái tháp, dùng phan, lọng, chuông báu, các thứ trang
nghiêm.
Bấy giờ Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến lại tự nghĩ rằng: "Dù cho Ta
làm việc cúng dường đó nhưng lòng còn chưa đủ. Nay Ta nay lại nên cúng dường
Xá Lợi". Liền ở trước tám vạn bốn ngàn cái tháp đốt cánh tay trăm phước trang
nghiêm, mãn bảy vạn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh-
Văn, vô lượng vô số người phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác, đều làm cho
trụ trong Hiện Nhất Thiết Sắc Thân Tam Muội
Lúc đó, các Bồ-Tát, Trời, Người, A-tu-la v.v.., thấy Ngài không có tay nên buồn
rầu thương cảm nói rằng: "Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến này là Thầy của
chúng ta, giáo hoá chúng ta, nay lại đốt tay, nên thân chẳng đầy đủ.
Khi ấy Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong Đại Chúng lập lời thề
rằng: “Tôi bỏ hai tay này ắt sẽ được thân màu vàng ròng của Đức Phật. Nếu là thật,
không có hư dối thì khiến cho hai tay của tôi hoàn phục như cũ”. Nói lời thề ấy xong
thì hai tay tự nhiên hoàn phục, đấy là do Phước Đức Trí Tuệ thuần hậu của Bồ Tát mà
cảm ứng như thế.
Ngay lúc đó ba ngàn Đại Thiên Thế Giới đều chấn động theo sáu cách, Trời tuôn
hoa báu, tất cả người, Trời được việc chưa từng có.
Đức Phật (Đức Phật Thích Ca) bảo ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát rằng: "Ý của ông
thế nào? Bồ Tát Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến đâu phải người nào khác, nay chính
là Dược Vương Bồ Tát vậy”
HÌNH TƯỢNG CỦA DƯỢC VƯƠNG BỒ TÁT
_Phật nói Kinh quán hai Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng ghi chép rằng:
“Thân của Dược Vương Bồ Tát đó dài 12 do tuần, tùy ứng chúng sinh hoặc 18
trượng hoặc hiện tám xích (8/3 m). Thân màu vàng tía, có 32 tướng 80 tùy hình tốt đẹp
như Đức Phật không có khác. Nhục Kế trên đỉnh đầu có 40 viên ngọc Ma Ni, mỗi một
viên ngọc có 40 góc (lăng), mỗi một khoảng góc có 40 bông hoa dùng nghiêm sức mão
trời (thiên quan). Bên trong mão trời ấy có mười phương Phật với các Bồ Tát thảy đều
ảnh hiện như mọi báu, Hào Tướng ở tam tinh có màu Lưu Ly trắng, nhiễu quanh thân
bảy vòng như trướng báu màu trắng. Các lỗ chân lông trên thân tuôn ra ánh sáng như
viên ngọc Ma Ni, số đủ tám vạn bốn ngàn. Mỗi một viên ngọc ấy uyển chuyển xoay
theo bên phải như bảy báu thành hoa Ưu Bát La. Trên mỗi một hoa có một vị Hóa
Phật, thân cao trượng sáu như Đức Thích Ca Mâu Ni. Mỗi một Đức Như Lai có 500 vị
Bồ Tát dùng làm Thị Giả.
Hai cánh tay của Dược Vương Bồ Tát đó như màu sắc của trăm báu, mười đầu
ngón tay tuôn mưa các bảy báu. Nếu có chúng sinh quán mười đầu ngón tay của Bồ
Tát này thì 444 bệnh tự nhiên trừ diệt, các phiền não của thân thảy đều chẳng khởi.
Bên dưới hai bàn chân của Ngài tuôn mưa báu Kim Cương, mỗi một viên ngọc
hóa thành đài mây, trong đài mây ấy có vị Hóa Bồ Tát, vô số chư Thiên dùng làm Thị
Giả. Thời vị Hóa Bồ Tát diễn nói bốn Đế (Catvāri-ārya-satya), Khổ (Duḥkha), Không
(Śūnya),Vô Thường (Anitya), Vô Ngã (Anātman)… cũng nói các Bồ Tát Hạnh
(Bodhisatva-cārya) thâm sâu”.
328
329
330
331
Chữ chủng tử là Hūṃ (㜪)
Chân Ngôn là;
NAMO BHAIṢAIJYA-RĀJA SVĀHĀ_ HŪṂ
HÌNH TƯỢNG CỦA DƯỢC THƯỢNG BỒ TÁT
_Phật nói Kinh quán hai Bồ Tát Dược Vương Dược Thượng ghi chép rằng:
“Thân của Dược Thượng Bồ Tát đó dài 60 do tuần, như màu vàng tía, các ánh
sáng của thân như màu vàng Diêm Phù Đà Na, ở trong ánh sáng tròn (viên quang) có
60 ức vị Hóa Phật, thân cao tám xích (8/3 m), ngồi Kiết Già trên hoa sen báu. Mỗi một
vị Hóa Phật có 60 vị Bồ Tát dùng làm Thị Giả đều cầm hoa màu trắng, tùy theo hào
quang xoay theo bên phải, bên trong ánh sáng của toàn thân có mười phương Thế Giới,
chư Phật Bồ Tát với các Tịnh Thổ đều hiện ở trong. Nhục Kế trên đỉnh đầu như Thích
Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni Bảo Châu, bốn mặt của Nhục Kế hiển phát ánh sáng vàng ròng.
Trong mỗi một ánh sáng có bốn hoa báu đủ màu sắc của trăm báu. Trên mỗi một hoa
hóa Phật Bồ Tát, hoẳc hiển hoặc ẩn, số chẳng thể biết.
Dược Thượng Bồ Tát đó có 32 tướng 80 tùy hình tốt đẹp, trong mỗi một tướng có
ánh sáng năm màu, trong mỗi một tùy hình tốt đẹp có trăm ngàn ánh sáng. Hào Tướng
(Ūrṇa: sợi lông xoáy vòng) ở tam tinh như màu vàng Diêm Phù Đàn Na, trăm ngàn
viên ngọc báu màu trắng dùng làm Anh Lạc. Mỗi một viên ngọc ấy phóng trăm ánh 332
sáng báu trang điểm sợi lông xoáy vòng ở tam tinh (hào) như cây phướng pha lê, đông
đầy tượng vàng ròng (chân kim), các vật dụng trang nghiêm đều hiện ở trong.
333
Chữ chủng tử là Aṃ (エ)
Chân Ngôn là:
NAMO BHAIṢAIJYA-SAMUDGATA SVĀHĀ_ AṂ
334
HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha, hay Gagana-gañja):
Ākāśa-garbha dịch âm là A Ca Xả Nghiệt Bà. Gagana-gañja dịch âm là Nga
Nga Nẵng Ngạn Bà. Tức đầy đủ hai kho tàng Phước Trí không có hạn lượng ngang
bằng với hư không; ý là rộng lớn vô biên. Lại xưng là Hư Không Dựng Bồ Tát.
Tôn này hay tuôn ra Pháp Bảo vô lượng ban cho khắp điều ước muốn, làm lợi lạc
cho chúng sinh. Nhân đây lại được gọi là Như Ý Kim Cang, Phú Quý Kim Cang, Vô
Tận Kim Cang.
Trong Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh, quyển 16 ghi nhận là: “Đức Phật Đà
bảo Tốc Biện Bồ Tát nói: "Hư Không Tạng Bồ Tát ở trong hư không tùy theo điều mà
chúng sinh mong cầu, hoặc bố thí Pháp, hoặc bố thí tiền của, hay bố thí ban cho hết,
đều khiến cho vui vẻ. Chính vì thế cho nên, này kẻ trai lành! Hiền Sĩ đó dùng Trí
phương tiện nên có tên là Hư Không Tạng”.
Lại nói "Hư Không Tạng Bồ Tát ở đời quá khứ, lúc Đức Phổ Quang Minh
Vương Như Lai ra đời, là con của Công Đức Trang Nghiêm Chuyển Luân Thánh
Vương, tên là Sư Tử Tiến, cùng với các vương tử của hàng Sư Tử…. từ bỏ Vương vị
của đời, xuất gia tu đạo. Sau này vì độ hóa Tâm kiêu mạn của đức vua Công Đức
Trang Nghiêm, hiện vô lượng Thần Biến: Ở trong hư không tuôn mưa mọi loại vật
màu nhiệm là các hương, hoa, hương bột, hương xoa bôi, lọng lụa màu, phướng, phan,
làm các loại nhạc Trời, Mỹ Thiện (Yến tiệc), thức ăn uống, Anh Lạc, quần áo, các loại
trân bảo đều từ trong không trung rực rỡ rơi xuống. Mưa báu như vậy, tràn đầy ba ngàn 335
Đại Thiên Thế Giới, chúng sinh được điều chưa từng có, đều rất vui mừng. Bấy giờ, từ
Địa Thần, Chư Thiên, bên trên đến Trời A Ca Nhị Tra (Akaniṣṭha: Sắc Cứu Cánh)
đều vui mừng hớn hở, xướng lên như vầy : "Đại Bồ Tát này xứng đáng được tên là Hư
Không Tạng. Sở dĩ như thế là do từ trong hư không tuôn mưa vô lượng trân bảo tràn
đầy tất cả". Lúc này Đức Thế Tôn liền Ấn Khả lời nói đó, đặt tên là Hư Không
Tạng”.
Trong Kinh cũng ghi chép rằng: “Hư Không Tạng Bồ Tát được người đời xưng
là Nhất Thiết Chúng Sinh Ý Tam Muội, người đã dùng sức Tam Muội này ở ba ngàn
Đại Thiên Thế Giới này, trong hư không trên Diệu Bảo Trang Nghiêm Đường tuôn
mưa mọi loại vật màu nhiệm, tùy theo mong muốn của chúng sinh mà ban cho đầy đủ.
Ấy là cần hoa thì tuôn mưa hoa, cần vòng hoa, cần hương, cần hương bột, cần hương
xoa bôi, cần lọng phan phướng bằng lụa màu, cần mọi loại âm nhạc, cần vật dụng Anh
Lạc quần áo nghiêm thân, cần thức ăn uống ngon ngọt đẹp đẽ, cần xe cộ người theo
hầu; cần Vàng, Bạc, Lưu Ly, Pha Lê, Xà Cừ, Mã Não, trân châu, San Hô...thì tuôn
mưa mọi loại trân bảo như vậy, tùy theo ý ban cho.
Có Người cần Pháp, muốn Pháp, ưa thích Pháp, thì ở trong hư không tùy theo
điều thích nghe sẽ phát ra mọi Pháp Âm mà tai ưa thích, ấy là: Khế Kinh, Âm Hợp Kệ
Kinh, Thọ Ký Kinh, Kệ Kinh, Kết Khả Kinh, Nhân Duyên Kinh, Song Cú Kinh, Bản
Sanh Kinh, Thắng Xứ Kinh, Phương Đẳng Kinh, Vị Tằng Hữu Kinh, Đại Giáo Sắc
Pháp...Người cần Kinh của nhóm như vậy đều tương ứng xuất ra hết.
Người cần ví dụ, người cần khắp âm thanh (biến âm) của hàng Na La (Nāra:loài
người), người cần ngôn ngữ khéo, người cần mọi loại tạp âm, người cần âm thanh
thâm sâu, người cần âm thanh cạn cợt của phương tiện...người cần âm thanh của nhóm
như vậy đều tương ứng xuất ra hết.
Người cần Thanh Văn Thừa (Śrāvaka-yāna) độ thì tương ứng tuôn ra Pháp bốn
Đế, người cần Duyên Giác (Pratyeka-buddha) độ thì tương ứng tuôn ra Pháp Âm
(Dharma-ghoṣa) của mười hai Nhân Duyên thâm sâu, người cần Đại Thừa (Mahā-
yāna) độ thì tương ứng tuôn ra Pháp Âm chẳng thoái chuyển của sáu Ba La Mật (Ṣaḍ-
pāramitā)…………..
Dùng sức Thần của Hư Không Tạng Bồ Tát cho nên, ở trên không trung tuôn mưa
Pháp màu nhiệm và tiền của như vậy, khiến cho tất cả chúng sinh trong ba ngàn Đại
Thiên Thế Giới được đầy đủ vô lượng ước nguyện khoái lạc chẳng thể nghĩ bàn.
Chúng sinh có bệnh khổ sẽ được thuốc trừ khỏi bệnh, chúng sinh cô đơn nghèo
khó được vô lượng trân bảo, chúng sinh bị cột trói cấm đoán được khai ngộ giải thoát,
các Căn chẳng đủ đều được đầy đủ”.
_ Quyển 2 “Biệt Tôn Tạp Ký” ghi chép rằng: “Hư Không Tạng Bồ Tát biểu thị
cho hằng sa Công Đức Phước Tụ Tư Lương của tất cả Như Lai. Người tu Du Già
(Yoga) thì vào trong Bộ này, nhanh chóng thành tựu tất cả Phục Tàng đã mong cầu,
đều hiện được báu Chân Đa Ma Ni (Cintāmaṇi)”.
_ “Giác Thiền Sao” trích dẫn quyển 11 ”Đại Nhật Kinh Sớ” nói rằng: “Như hư
không (Ākāśa, hay Gagana) chẳng thể phá hoại, tất cả chẳng thể thắng được, cho nên
gọi là Hư Không (Ākāśa) …. Lại nói về chữ Tạng (Garbha): Như con người có kho
báu lớn, ban cho điều mong muốn, tự tại lấy dùng chẳng bị nghèo túng. Tạng Hư
Không của Như Lai cũng lại như vậy, tất cả việc lợi lạc của chúng sinh đều từ bên
trong tuôn ra vô lượng Pháp Bảo, tự tại nhận dùng, không bao giờ cạn hết, nên gọi là
Hư Không Tạng. Tạng này hay sinh ra tất cả Phật Sự vậy".
336
_ Quyển 4 “Giáo Vương Kinh Sớ” lại nêu rằng: "Hư Không Tạng Đại Bồ Tát, là
chủ của Tam Muội, tức là Hạnh mà vị Bồ Tát này đã tu, cho nên nói là Hư Không
Tạng Bồ Tát Tam Muội Gia, gom tụ Phước Đức vô biên không có bờ mé, giống như
Hư Không, cho nên nói là Tạng".
Lược lại, có ba nghĩa là: Một là Năng Tàng (hay tàng chứa) nên gọi là Tạng, hai
là Sở Tàng (nơi chứa) nên gọi là Tạng, ba là Năng Sinh (hay sinh) nên gọi là Tạng.
Tam Muội Gia (Samaya) này bao hàm gom tụ Phước Đức (Puṇya) của Thế Gian
(Loka) và Xuất Thế Gian (Lokottara), không có chỗ nào gây trở ngại được.
Nói Năng Tàng mà gọi là Tạng, cho nên trong “Lý Thú Thích” nói rằng: “Bồ
Tát này ở vành trăng bên phải, biểu thị cho nhóm gom tụ Tư Lương hằng sa Công Đức
thuộc Chân Như của tất cả Như Lai.
Lại chúng sinh Phước mỏng chẳng thể cảm nhận được, nên vì kẻ có Phước mỏng
mà hiển bày Phục Tàng, cho nên gọi là Sở Tàng.
Đại Thánh Từ Bi thương xót Hữu Tình, mở Tạng Pháp Giới, sinh ra vô lượng
Kim Cang, bảy báu ban cho tất cả, cho nên nói Năng Sinh là Tạng vậy".
_ Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát Thần Chú ghi nhận Đức Phật Đà ngợi khen Hư
Không Tạng Bồ Tát rằng:
Thiền Định như biển
Tịnh Giới như núi
Trí như hư không
Tinh tiến như gió
Nhẫn như Kim Cang
Tuệ như hằng sa.
Là Pháp Khí của Chư Phật, con mắt của Chư Thiên, Chính Đạo của con người,
chỗ nương tựa của súc sinh, nơi Quỷ đói theo về, Pháp Khí cứu hộ chúng sinh ở Địa
Ngục.... xứng đáng thọ nhận sự cúng dường tối thắng của tất cả chúng sinh”. Có thể
thấy Công Đức thù thắng của vị Bồ Tát này vậy.
_ Kinh Hư Không Tạng Bồ Tát lại ghi nhận rằng:" Khi Đức Phật Đà ở núi Khư
La Để Xí thời Hư Không Tạng Bồ Tát từ chỗ của Đức Phật Thắng Hoa Phu Tạng tại
Thế Giới Nhất Thiết Hương Tập Y ở phương Tây cùng với mười tám ức Bồ Tát đi
đến Thế Giới Sa Bà, cùng nhau dùng sức Thần đó biến hóa Thế Giới Sa Bà trở thành
Tịnh Thổ, khiến cho tất cả Đại Chúng trong Hội, hai tay đều có viên ngọc Như Ý Ma
Ni, viên ngọc ấy phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp Thế Giới, cùng tấu nhạc Trời sinh
ra mọi loại vật báu".
_ A Sa Phộc Sao nêu ra trong “Lý Thú Thích” rằng: "Người tu hành tu Hư
Không Tạng Bồ Tát Tam Ma Địa Hạnh, cần phải xây dựng Mạn Trà La của Bản
Tôn Bồ Tát này. Chính giữa vẽ Hư Không Tạng Bồ Tát như bản hình, phía trước vẽ
Kim Cang Bảo, bên phải vẽ Kim Cang Quang, bên trái vẽ Kim Cang Tràng, phía
sau vẽ Kim Cang Tiếu, bốn góc của Nội Ngoại Viện đều đặt riêng bốn Cúng Dường
của Nội Cúng như bản hình. Cửa Đông an trí cái Chày Kim Cang, cửa Nam an trí Báu,
cửa Tây an trí Hoa Sen cửa Bắc an trí cái Chuông. Người tu hành nếu vào Mạn Trà La
này, thời khiến cho mọi mong cầu trong đời này của người khác đều được tất cả phú
quý, quan vị, diệt tất cả sự nghèo túng".
Ngoài ra, trong quyển thứ 300 “A Sa Phộc Sao”cũng nêu ra trong “Đại Hư
Không Tạng Quỹ” rằng: "Tại gia, Xuất Gia có Phước mỏng, thiếu Đức, thiếu thốn vật
dụng...mong cầu Thắng Nguyện thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, phần nhiều chẳng 337
toại ý. Nếu y theo Giáo Pháp này tu hành thì chướng của nhóm nghiệp báo thảy đều
tiêu trừ; tăng trưởng Phước Đức, tâm thần vui vẻ, tịnh tín Đại Thừa, lợi lạc Hữu Tình,
tâm không thoái chuyển; hết thảy Tài Bảo thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian thảy đều
đạt được, đối với tất cả chúng sinh hay làm lợi ích. Một lần xưng một lần niệm đều
gom tụ được Phước giống như Hư Không, huống chi tác ý như Pháp Tu trì, mọi
nguyện ắt được thành tựu thù thắng".
Từ đây có thể biết hiệu nghiệm của Pháp cầu Tài Bảo Phú quý ấy là giống nhau.
TÔN TƯỢNG CỦA HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
_ Trong Kinh Quán Hư Không Tạng Bồ Tát ghi nhận rằng: "Bấy giờ nên khởi
Tâm nhìn tưởng Hư Không Tạng Bồ Tát đó, trên đỉnh có viên ngọc Như ý, viên ngọc
Như ý ấy có màu vàng tía (tử kim sắc). Nếu thấy viên ngọc Như Ý liền thấy mão Trời,
trong mão Trời đó có 35 tượng Phật. Tượng Phật ở mười phương trong viên ngọc Như
Ý hiện thân Hư Không Tạng Bồ Tát, dài hai mười do tuần. Nếu hiện thân lớn, ngang
bằng với Quán Thế Âm. Bồ Tát này ngồi Kiết Già, tay nâng viên ngọc Như Ý, viên
ngọc Như ý diễn mọi Pháp Âm".
_ Giác Thiền Sao nêu ra trong “Lý Thú Thích” rằng: "Lưng của Hư Không Tạng
Bồ Tát có vành trăng, tay phải cầm báu Kim Cang, tay trái tác Thí Nguyện, ngồi Bán
Già". 338
Lại ghi nhận Niệm Tụng Kết Hộ nói là: “Hư Không Tạng Bồ Tát có thân màu
vàng tía, đỉnh đội năm Đức Phật, tay trái tác Thí Vô Úy, tay phải cầm Hoa Sen xanh,
trong Hoa Sen có báu pha lê hồng. Bồ Tát ở Hoa Sen xanh Trung Thừa, ngồi trong
vành trăng”.
339
_ Mật Giáo Tây Tạng ghi nhận Tôn Tượng của Hư Không Tạng Bồ Tát (Nan-
mkhaḥi-sñiṅ-po, Nam-mkhaḥ-mdsod) là:
340
_ Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Hư Không Tạng Bồ
Tát được xưng là Kim Cương Tràng Bồ Tát (Vajra-ketu) và là một trong 16 vị Bồ
Tát đời Hiền Kiếp, có vị trí thứ ba tại phương Nam của cái Đàn hình vuông ở Ngoại
Viện.
.) Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Hư Không Tạng Bồ Tát có Tôn Hình giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phú Quý Kim Cương, Viên Mãn Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) hay Ā (゛)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Biện Bảo Châu
Tướng Ấn là: Kim Cương Phộc, hai ngón trỏ cùng vịn nhau như hình báu, hai
ngón cái kèm song song nhau
341
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ᵙ ゛
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA SVĀHĀ _ Ā
Hay 㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ゛ ᵙ
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA Ā SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Hư Không Tạng Bồ Tát hay Bảo Ba La
Mật Bồ Tát có chữ chủng tử là: TRĀḤ (㜩)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Biện Bảo Châu. Biểu thị cho việc được tròn đủ ước
nguyện của tất cả chúng sinh, không còn thiếu thốn
Tướng Ấn là:Ngoại Phộc, co 2 ngón giữa cùng chạm đầu ngón, thành hình báu
Chân Ngôn là:
ᜨ᥄ᗹᜓ 㜩
VAJRA-GAURĪ TRĀḤ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Hư Không Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: HŪṂ
(㜪)
Tôn Hình:Thân màu thịt trắng, lòng bàn tay phải cầm viên ngọc báu Như Ý, tay
trái để ngang eo nắm quyền.
342
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ᵙ 㜪
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA SVĀHĀ _ HŪṂ
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Hư Không Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là:
HÙM (㜪)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có viên ngọc báu Như Ý.
Tướng Ấn là: Kim Cương Phộc, hai ngón trỏ cùng vịn nhau như hình báu, hai
ngón cái kèm song song nhau
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ᵙ 㜪
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA SVĀHĀ _ HŪṂ
.) Tại Tứ Ấn Hội (Catur-mudra) thì Hư Không Tạng Bồ Tát được xưng là Kim
Cương Bảo Bồ Tát (Vajra-ratna-bodhisatva)
Chữ chủng tử là: TRĀḤ (㜩)
Tôn Hình: Màu vàng, đầu đội mão báu Tam Biện Bảo Châu, tay trái cầm Tam
Biện Bảo Châu, tay phải kết Dữ Nguyện Ấn.
343
Tướng Ấn là: Hai tay tác Ngoại Phộc, hai ngón giữa cùng vịn nhau như hình báu.
Chân Ngôn là:
ᝌↄ 㪧㱨 ᧣ㆎ ᛬ᜨᚐ
SARVA-MUDRĀṂ ME PRĪYA BHAVATU
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Hư Không
Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có viên ngọc báu Như Ý.
Tam Muội Gia Hình là: Tam Biện Bảo Châu.
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA SVĀHĀ _ Ā
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Hư
Không Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Tam Biện Bảo Châu. Biểu thị cho việc mở bày vạn Đức,
tùy theo sự mong cầu, hay sinh ra vạn Pháp 344
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰᗰᚼ ᗰᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ GAGANA GAÑJĀYA SVĀHĀ _ A
_ Trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
.) Tại Thích Ca Viện thì Hư Không Tạng Bồ Tát là vị theo hầu bên trái Đức
Thích Ca Mâu Ni Phật và đại diện cho Tăng Bảo
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải dựng lòng bàn tay, co ngón trỏ ngón
giữa cầm cây phất trắng. Tay trái úp quyền để phía trước rốn cầm hoa sen, trên hoa sen
có viên ngọc màu xanh lục, khoác Thiên y, đứng thẳng trên tòa hoa sen.
Mật Hiệu là: Vô Tận Kim Cương
Chữ chủng tử là: I (㯑)
Tam Muội Gia Hình là: Viên ngọc Như Ý trên hoa sen.
345
Tướng Ấn là: Hư Không Tạng Ấn (Hư Tâm Hợp Chưởng, co 2 ngón trỏ để bên
dưới hai ngón giữa, đưa ngón cái vào trong lòng bàn tay).
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ゛ᗙ᜴ ᝌᛸⴽᛀᗰᚌ㖁 ᛢᘖ㫹 ᜨᜐ ᚰᜐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀKĀŚA SAMANTA-ANUGATA
VICITRĀṂ VARA-DHARA_ SVĀHĀ
.) Tại Hư Không Tạng Viện thì Hư Không Tạng Bồ Tát là Chủ Tôn của viện.
Viện này đại biểu cho Bi Trí Hợp Nhất, hàm chứa vạn Đức, hay trao cho chúng
sinh tất cả báu màu nhiệm kèm Trí Đức đầy đủ nhưng dùng Phước Đức làm gốc. Trong
đó:
Hư Không Tạng Bồ Tát: Tay phải cầm cây kiếm biểu thị cho Trí Đức. Tay trái
cầm hoa sen biểu thị cho Phước Đức. Tôn này và các quyến thuộc biểu thị cho Đức của
Phật Bộ
Thiên Thủ Quán Âm dùng Liên Hoa Bộ Quán Âm Viện làm Nhân Hạnh để
sinh ra Quả Đức. Tôn này và các quyến thuộc biểu thị cho Đức của Liên Hoa Bộ
Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát dùng Kim Cương Bộ Kim Cương Thủ Viện
làm Nhân Hạnh để sinh ra Quả Đức. Tôn này và các quyến thuộc biểu thị cho Đức của
Kim Cương Bộ
10 vị Ba La Mật Bồ Tát: 5 vị Bồ Tát Đàn, Giới, Nhẫn, Tiến, Thiền biểu thị
cho Phước Môn. 5 vị Bồ Tát Bát Nhã, Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí biểu thị cho
Trí Môn.
Viện này gồm có 28 Tôn được trình bày như sau:
_ Hàng trên từ trái qua phải có 14 Tôn
1_ Phi Thiên ()
2_ Phi Thiên ()
3_ Thiền (㜪)
4_ Tiến (ᜪ)
5_ Nhẫn (㈰)
6_ Giới ()
7_ Đàn (セ)
8_ Tuệ (ᚳ) 346
9_ Phương ()
10_ Nguyện (ᝌ)
11_ Lực (ᘶ)
12_ Trí (㫦)
13_ Sứ Giả(ㅥ)
14_ Sứ Giả(ㅥ)
_ Hàng giữa từ trái qua phải có 3 Tôn
1_ Thiên Thủ (㜫)
2_ Hư Không Tạng (㯑)
3_ Kim Cương Tạng (22 mặt, 108 tay) (㰵)
_ Hàng dưới từ trái qua phải có 11 Tôn kèm 2 hoa sen
1_ Công Đức Thiên (ᩃ)
2_ Bà Tô Đại Tiên (ᛈ)
3_ Bất Không Câu Quán Thế Âm (ᚲ)
4_ Phẫn Nộ Câu Quán Thế Âm (ㅥ)
5_ Sinh Niệm Xứ Bồ Tát (ᗺ)
6_ Cộng Phát Trí Chuyển Luân Bồ Tát (ク)
7_ Vô Cấu Thệ BồTát (㪩)
8_ Tô Bà Hồ(㜪)
9_ Kim Cương Châm (ᜨ)
10_ Tô Tất Địa Già La BồTát (ᘮ)
11_ Mạn Đồ La Bồ Tát (㜪)
12_ Liên (Sen)
13_ Liên (sen)
_
1_ Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha, hay Gagana-gañja):
Tôn này hay tuôn ra Pháp Bảo vô lượng ban cho khắp điều ước muốn, làm lợi lạc
cho chúng sinh. Là Chủ Tôn của Hư Không Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa
La
Tôn Hình: Thân màu thịt, đầu đội mão Ngũ Phật, co cánh tay phải cầm cây kiếm,
chung quanh cây kiếm toả lửa sáng. Tay trái để bên cạnh eo cầm hoa sen, trên sen có
viên ngọc báu Như Ý. Ngồi trên hoa sen báu.
Hiện thân màu thịt biểu thị cho nghĩa Nhân của vạn hữu tức là Quả, Nhân Quả
chẳng phải hai.
Đầu đội mão Ngũ Phật biểu thị cho Quả Đức của Tôn này có đầy đủ vạn Đức.
Tay phải cầm cây kiếm báu biểu thị cho Trí của Nội Chứng mà 5 Ba La Mật Bồ
Tát: Tuệ, Phương, Nguyện, Lực, Trí …do đây sinh ra.
Tay trái cầm hoa sen, trên sen có viên ngọc báu. Viên ngọc báu có một múi, ba
múi hoặc 5 múi. Viên ngọc có một múi (Nhất Biện Bảo Châu) biệu thị cho Tâm Bồ Đề
của một Thật Tướng. Ba múi biểu thị cho 3 Bộ của Thai Tạng Giới: Đại Định, Tuệ,
Trí. Viên ngọc báu có 5 múi (Ngũ Biện Bảo Châu) biểu thị cho 5 Trí của Kim Cương
Giới, cũng tức biểu thị cho Phước Đức của Nội Chứng, từ đây tuôn ra 5 Ba La Mật Bồ
Tát: Đàn, Giới, Nhẫn, Tiến, Thiền… 10 vị Ba La Mật Bồ Tát thuộc Yết Ma y theo hai
Nghiêm Phước Trí của Hư Không Tạng Bồ Tát mà hiện ra, thành quyến thuộc của Bát
Nhã Bồ Tát.
347
Mật Hiệu là:Như Ý Kim Cương
Chữ chủng tử là: I (㯑)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm báu
Tướng Ấn là: Hư Không Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ゛ᗙ᜴ ᝌᛸⴽᛀᗰᚌ㖁 ᛢᘖ㫹 ᜨᜐ ᚰᜐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀKĀŚA SAMANTA ANUGATA
VICITRĀṂ-VARA DHARA_ SVĀHĀ
2_Đàn Ba La Mật Bồ Tát (Dāna-pāramitā-bodhisatva):
Dāna-pāramitā dịch âm là Đàn Na Ba La Mật Đa. dịch ý là Bố Thí Đáo Bỉ Ngạn. 348
Tôn này được sinh ra từ Phước Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát,
và thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma, tay trái cầm cái mâm Kim Cương,
trên mâm chứa đầy hoa hoặc quả trái. Tay phải dựng lòng bàn tay, co ngón cái, ngón
giữa cùng vịn nhau, giao ống chân ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là:Phổ Thí Kim Cương
Chữ chủng tử là: DA (セ)
Tam Muội Gia Hình là: Quả trái ngon ngọt.
Tướng Ấn là Đàn Ba La Mật Ấn: Ngửa lòng bàn tay phải co độ Nhẫn (Ngón giữa
phải) cùng vịn Thiền độ (ngón cái phải), các ngón khác đều duỗi thẳng
Chân Ngôn là:
㫘㖁㗕ᗰ㍭ᚒ ᚥᚽ㎴㗏ᚎ㖁㍢⺄ᘬ 㪦ᜐᜄ ᚥᛆ㖁 㛿㏆
Oṃ_ bhagavate dānādhipati visṛja pūraya dānaṃ svāhā
Do kết Ấn, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp keo kiệt trong vô
lượng Kiếp, đắc được Phước của ba loại Thí là: Tư Sinh Thí, Vô Úy Thí, Pháp Thí…
tức viên mãn Đàn Ba La Mật (Dāna-pāramitā). Đời này được giàu có, đầy đủ tư
duyên, Tâm được tự tại, thọ mệnh lâu dài.
349
3_ Giới Ba La Mật Bồ Tát (Śīla-pāramitā-bodhisatva):
Śīla-pāramitā dịch âm là Thi La Ba La Mật Đa, dịch ý là Giới Đáo Bỉ Ngạn. Là
một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát và thường dùng hương Giới để trang nghiêm nghiệp
của Thân Khẩu Ý.
Tu học Pháp Môn của Giới Ba La Mật Bồ Tát ắt hết thảy tội vi phạm vào 4
Trọng Cấm, hoặc Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni phạm vào 8 tội nặng đều được trong sạch,
ngày sau tuỳ theo ước nguyện được sinh về cõi Phật thắng diệu trong sạch
Tôn này được sinh ra từ Phước Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát,
và thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình:Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma. Dựng lòng bàn tay phải , co cong
ngón trỏ và ngón giữa, tay cầm cây gậy ngắn, đầu gậy có viên ngọc báu ba múi toả lửa
sáng. Úp lòng bàn tay trái trên đầu gối, mắt hướng về bên phải nhìn xuống dưới. Giao
ống chân ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Thi La Kim Cương
Chữ chủng tử là: Śī ()
Tam Muội Gia Hình là: Viên Ngọc báu
Tướng Ấn là: Giới Ba La Mật Ấn, hai tay cài chéo các ngón bên trong rồi nắm
thành quyền, dựng thẳng hai ngón cái.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᚱᜒᚂ 㗕ᗰ㍭ᚒ 㜪㖁 ᝣ
Oṃ_ Śīla-dhāriṇi bhagavate hūṃ haḥ
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp phá Giới
trong vô lượng Kiếp, được Công Đức của 3 loại Giới là: Nhiếp Luật Nghi Giới,
Nhiếp Thiện Pháp Giới, Nhiêu Ích Hữu Tình Giới… tức viên mãn Giới Ba La Mật
(Śīla-pāramitā) thường dùng hương Giới trang nghiêm nghiệp thân khẩu ý. Hết thảy
việc vi phạm bốn Trọng Cấm (4 loại Cấm Giới rất nghiêm trọng của Tỳ Khưu), Bật 350
Sô (Bhikṣu) Bật Sô Ni (Bhikṣunī) phạm tám Tha Thắng Tội (Pārājika: tội nặng của
Tỳ Khưu) thảy đều thanh tĩnh, ngày sau tùy theo Nguyện được sinh về cõi cõi Phật
Tịnh Diệu.
4_ Nhẫn Nhục Ba La Mật Bồ Tát (Kṣānti-pāramitā-bodhisatva):
Kṣānti-pāramitā dịch âm là Khất Xoa Để Ba La Mật Đa, dịch ý là Nhẫn Đáo Bỉ
Ngạn. Là một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát.
Tôn này được sinh ra từ Phước Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát,
và thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma. Tay phải hơi co ngón giữa, ngón vô
danh, ngón út, dựng lòng bàn tay hướng về thân. Tay trái cầm cái mâm vàng hướng về
trái tim. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Đế Sát Kim Cương, hoặc Đế Lợi Kim Cương
Chữ chủng tử là: Kṣa (㈰) hay Kṣaṃ (ᝮ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái gương báu
Tướng Ấn là Nhẫn Nhục Ba La Mật Ấn: Dựa theo Giới Ba La Mật Ấn, đem Tiến
Lực (2 ngón trỏ) hợp nhau như cây kim, kèm đứng Thiền Trí (2 ngón cái).
Chân Ngôn là:
㫘㖁㗕ᗰ㍭ᚒ ᝥⴾ ᚱᜒᚂ㖁 㜪 㗑㪪
Oṃ_ bhagavate kṣānti-dhāriṇi hūṃ phaṭ 351
Do kết Ấn này tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp giận ghét
trong vô lượng kiếp, đắc được Công Đức của ba loại Nhẫn là: Hại Oán Nại Nhẫn, An
Thọ Khổ Nhẫn, Đế Sát Pháp Nhẫn. Tức viên mãn Nhẫn Nhục Ba La Mật (Kṣānti-
pāramitā). Nghi dung đoan nghiêm khiến người ưa nhìn, chẳng khởi ganh ghét, đều
đến gần gũi phụ giúp, Thắng Giải (Adhimokṣa) thâm sâu, tùy niệm biến hóa.
5_ Tinh Tiến Ba La Mật Bồ Tát (Vīrya-pāramitā-bodhisatva):
Vīrya-pāramitā dịch âm là Vi Lợi Dã Ba La Mật Đa, dịch ý là Tinh Tiến Đáo Bỉ
Ngạn. Là một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát.
Tôn này được sinh ra từ Phước Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát,
và thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma. Tay trái cầm cây kích Độc Cổ. Dựng
đứng lòng bàn tay phải, co ngón vô danh với ngón út, biểu thị cho Thệ Cú (câu thề
nguyện) của dũng mãnh tinh tiến.
Mật Hiệu là:Tuệ Hộ Kim Cương
Chữ chủng tử là: Vi (ᜪ), hoặc Vī (ᜫ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Kích
Tướng Ấn là Tinh Tiến Ba La Mật Ấn: Dựa theo Nhẫn Ba La Mật An, mở bẻ
Tiến Lực (2 ngón trỏ) liền thành.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᜫ↨ᗙᜒ 㜪㖁 ᜫ↮ ᜫ↮㖁 㛿㏆
Oṃ_ vīrya-kāri hūṃ, vīrye vīrye svāhā 352
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp giải đãi, lười
biếng, đắc được ba loại Tinh Tiến là: Bị Giáp Tinh Tiến, Nhiếp Thiện Pháp Tinh
Tiến, Lợi Lạc Hữu Tình Tinh Tiến, tức viên mãn Tinh Tiến Ba La Mật (Vīrya-
pāramitā) thân tâm an vui, xa lìa các bệnh tật, không có khổ não, đều được thành biện
(thành công) Nguyện Phước Trí của Xuất Thế Gian (Lokottara)
6_ Thiền Ba La Mật Bồ Tát (Dhyāna-pāramitā-bodhisatva):
Dhyāna-pāramitā dịch âm là Địa Dã Tha (Thiền Na) Ba La Mật Đa, dịch ý là
Tĩnh Lự Đáo Bỉ Ngạn. Lược xưng là Thiền Ba La Mật, là một trong 10 vị Ba La Mật
Bồ Tát.
Tu học Pháp Môn của Thiền Na Ba La Mật Bồ Tát sẽ hay viên mãn Thiền Ba La
Mật, thân tâm nhẹ nhàng linh hoạt, hết thảy thần thông đều được thành tựu, các Ma
chẳng thể xâm hại, tất cả Nghiệp Chướng thảy đều tiêu diệt.
Tôn này được sinh ra từ Phước Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát,
và thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, khoác áo Yết Ma, tay kết Pháp Giới Định Ấn,
ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Chính Định Kim Cương
Chữ chủng tử là: Hūṃ (㜪), hoặc Dhyā (ᡉ)
Tam Muội Gia Hình là: Định Ấn.
Tướng Ấn là Di Đà Định Ấn: Liền ngồi Kiết Già, ngửa lòng bàn tay trái đặt trên
Già Phu, ngửa lòng bàn tay phải đặt trên tay trái, để hai độ Thiền Trí (2 ngón cái) cùng
chạm móng nhau.
Chân Ngôn là:
㫘㖁㗕ᗰ㍭ᚒ ㍖㎉ ㍛㍛㏆ᜒᚂᜊ ᛸ㏆ ᚪᠪ㖁㜪 㜪 㜪 㜪 㗑㪪
Oṃ_ bhagavate sarva-pāpāhāriṇiye, mahā-detye hūṃ hūṃ hūṃ hūṃ phaṭ 353
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp tán loạn
trong vô lượng Kiếp, đắc được ba loại Tĩnh Lự là: An Trụ Tĩnh Lự, Dẫn Phát Tĩnh
Lự, Biện Sự Tĩnh Lự, tức viên mãn Thiền Ba La Mật (Dhyāna-pāramitā). Thân tâm
nhẹ nhàng lanh lợi, mau được thành tựu Thần Thông đã tu, các Ma chẳng dám xâm
nhiễu, tất cả nghiệp chướng thảy đều tiêu diệt.
7_ Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát (Prajñā-pāramitā-bodhisatva):
Prajñā-pāramitā dịch ý là Tuệ Đáo Bỉ Ngạn. Lại xưng là Tuệ Ba La Mật Bồ Tát,
là một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát.
Tu trì Pháp Môn của Bát Nhã Ba La Mật Bồ Tát sẽ hay chứng được Trí Tuệ viên
mãn của Bát Nhã Ba La Mật mà ngộ giải Pháp của Thế Gian với Xuất Thế Gian. Rộng
lớn thông đạt 5 Minh của Bồ Tát là: Thanh Minh, Nhân Minh, Y Phương Minh, Công
Xảo Minh, Nội Minh.
Tôn này được sinh ra từ Trí Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát, và
thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải để cạnh eo cầm cây kiếm. Tay trái dựng lòng
bàn tay, co ngón trỏ ngón giữa và duỗi giương 3 ngón còn lại. Hơi dựng đầu gối phải,
khoác áo cà sa.
Mật Hiệu là: Đại Tuệ Kim Cương
Chữ chủng tử là: Dhī (ᚳ), hoặc Pra (㛺)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm báu
354
Tướng Ấn là Phạn Khiếp Ấn: Tay trái duỗi năm ngón bằng phẳng, ngửa đặt dưới
trái tim, đem tay phải che ở trên tay trái.
Chân Ngôn là:
㫘㖁㮴 ᩃ㖁 ᩅᚌ ㍢ᘬᜊ㖁 㛿㏆
Oṃ_ dhīḥ śrī śrūta vijaye svāhā
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp ngu si trong
vô lượng Kiếp, đắc được ba loại Tuệ là: Nhân Không Vô Phân Biệt Tuệ, Pháp
Không Vô Phân Biệt Tuệ, Câu Không Vô Phân Biệt Tuệ, tức viên mãn Bát Nhã Ba
La Mật (Prajña-pāramitā), đắc được thông minh Trí Tuệ, ngộ giải (lĩnh ngộ hiểu rõ)
Pháp Thế Gian (Loka) và Xuất Thế Gian (Lokottara), thông đạt rộng rãi nghĩa lý
thâm sâu của năm Minh [Panca-vidyā-sthānāni: gồm có Thanh Minh (Śabda-vidyā),
Công Xảo Minh (Śilpa-karma-vidyā), Y Phương Minh (Cikitsā-vidyā), Nhân Minh
(Hetu-vidyā), Nội Minh (Adhyātma-vidyā)]
8_ Phương Tiện Ba La Mật Bồ Tát (Upāyā-pāramitā-bodhisatva):
Upāyā-pāramitā dịch ý là Phương Tiện Đáo Bỉ Ngạn, là một trong 10 vị Ba La
Mật Bồ Tát.
Tu học Pháp Môn của Phương Tiện Ba La Mật Bồ Tát có thể tiêu trừ Nghiệp
chất chồng trong vô lượng kiếp để đắc được phương tiện khéo léo của sự Hồi Hướng,
phương tiện khéo léo cứu tế chúng sinh.
Tôn này được sinh ra từ Trí Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát, và
thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, co khuỷu tay phải cầm sợi dây. ngửa bàn tay trái để
trước ngực nhận đầu sợi dây. Ngồi trên toà hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Cứu Cánh Kim Cương, hoặc Cứu Cánh Thiện Xảo Kim Cương 355
Chữ chủng tử là: Mai ()
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây
Tướng Ấn là Phương Tiện Ba La Mật Ấn: Tay phải: Tuệ (ngón út) Phương (ngón
vô danh) nắm Trí độ (ngón cái). Tay trái: Đàn (ngón út) Giới (ngón vô danh) nắm
Thiền độ (ngón cái). Hai tay cùng nắm lại, Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) quay lưng lại
với nhau,dựng thẳng như cây kim, duỗi bằng Tiến Lực ( 2 ngón trỏ) cùng trụ bên cạnh
nhau.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᛸ㏆ ᦤ ᘖげ㖁 㛿㏆
Oṃ_ mahā-maitra-citte svāhā
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống Nghiệp phương tiện
không khéo léo trong vô lượng Kiếp, đựơc hai loại Phương Tiện khéo léo là: Hồi
Hướng Phương Tiện Thiện Xảo, Bạt Tế Hữu Tình Phương Tiện Thiện Xảo, tức
viên mãn Phương Tiện Ba La Mật (Upāya-pāramitā). Tu trì sáu Ba La Mật (Saḍ-
pāramitā) của Thế Gian (Loka). Do Ấn Chân Ngôn này tương ứng Du Già (Yoga) chỉ
thực hiện chút ít công nghiệp sẽ mau được thành tựu Phước Đức rộng nhiều, đều đến
Cứu Cánh (Uttara) thành Tư Lương (Sambhāra) của Vô Thượng Bồ Đề (Agra-
bodhi).
9_ Nguyện Ba La Mật Bồ Tát (Praṇidhāna-pāramitā-bodhisatva):
Praṇidhāna-pāramitā dịch âm là Ba La Ni Na Ba La Mật Đa, dịch ý là Thệ
Nguyện Đáo Bỉ Ngạn. Là một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát.
Bồ Tát này dùng nhóm 5 Đại Nguyện làm Nội Chứng, dùng sự hoá độ chúng
sinh làm Bản Thệ.
Tu trì Pháp Môn của Nguyện Ba La Mật Bồ Tát có thể tiêu trừ Nghiệp chất
chồng trong vô lượng kiếp, được hai loại Thắng Nguyện: một là Cầu Vô Thượng Bồ
Đề Nguyện, hai là Lợi Lạc Hữu Tình Nguyện, viên mãn Nguyện Ba La Mật. Trong
khoảng từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành Phật, mọi mong cầu thuộc Thượng
Nguyện thù thắng của Thế Gian với Xuất Thế Gian đều được viên mãn.
Tôn này được sinh ra từ Trí Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát, và
thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát. 356
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, khoác áo Yết Ma. Dựng lòng bàn tay phải
hướng cạnh tay ra ngoài, co ngón vô danh với ngón út. Dựng đứng lòng bàn tay trái,
hơi ngửa hướng lên trên, co ngón trỏ ngón giữa cầm Lộc Thủy Nang (Parisrāvaṇa: Cái
túi lọc nước khử trùng), Ngồi bán Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Thành Tựu Kim Cương
Chữ chủng tử là: SA (ᝌ), hoặc SAM (㐂) có ý là thành tựu, viên mãn. Biểu thị
cho sự viên mản tất cả chúng sinh thành tựu Thệ Nguyện
Tam Muội Gia Hình là: Thuỷ Nang (Parisrāvaṇa: Cái túi lọc nước khử trùng)
Tướng Ấn là Thí Vô Uý Ấn: Tay phải dựng thẳng năm ngón, đưa lòng bàn tay
hướng ra ngoài làm thế Thí Vô Úy.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᗙ᜔ᚂ㖁 ㍣ ㍣ ㍣ 㐂
Oṃ_ Kāruṇi ha ha ha saṃ 357
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp Nguyện ác
trong vô lượng Kiếp, đắc được hai loại Thắng Nguyện là: Cầu Vô Thượng Bồ Đề
Nguyện, Lợi Lạc Hữu Tình Nguyện, tức viên mãn Nguyện Ba La Mật (Praṇidhāna-
pāramitā) từ lúc bắt đầu phát Tâm cho đến khi thành Phật, ở trong khoảng giữa ấy, mọi
mong cầu Thế gian và Xuất Thế gian với Thượng Nguyện Thù Thắng đều được viên
mãn.
10_ Lực Ba La Mật Bồ Tát (Bala-pāramitā-bodhisatva):
Bala-pāramitā dịch âm là Phộc La Ba La Mật Đa, tức là ý có đủ sức mạnh đến
được bờ bên kia. Là một trong 10 vị Ba La Mật Bồ Tát.
Tu học Chân Ngôn của Bồ Tát này sẽ tiêu trừ nghiệp chồng chất của tâm ý kém
cỏi, đắc được sức tinh tiến lựa chọn quyết định và sức tu tập, điều phục tất cả phiền
não, đoạn trừ tất cả Hoặc Nghiệp, lúc tu Đạo thời được quyết định Thắng Giải. Tất cả
bạn bè của Thiên Ma tà ác chẳng thể cải biến được chí hướng của người ấy, và được
Thánh Quả chẳng thoái chuyển.
Tôn này được sinh ra từ Trí Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát, và
thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình:Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma. Tay phải giang duỗi cùi chỏ, tay cầm
lá sen, trên lá có một con sư tử. Tay trái nắm quyền chống eo, hướng mặt về bên phải
nhìn vật đang cầm. Hai bàn chân: chân phải bên trong, chân trái bên ngoài cùng giao
chéo nhau, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Dũng Lực Kim Cương
Chữ chủng tử là: Jaṃ (ᘶ), hoặc Ba (㍭), hay Jaḥ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: Con sư tử trên lá sen.
358
Tướng Ấn là Lực Ba La Mật Ấn: Dựa theo Giới Ba La Mật Ấn lúc trước, đều
dựng Thiền Trí (2 ngón cái) Tiến Lực (2 ngón trỏ) Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) sao cho
cùng hợp đầu ngón.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᚤᛸ㊩ 㪧ᚦᚒ 㜪㖁 ㍣ ㍣ ㍣ 㜪 ᘷ
Oṃ_ damani mudite, hūṃ ha ha ha hūṃ jaḥ
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống nghiệp ý kém cỏi của
Thế Gian và Xuất Thế Gian trong vô lượng Kiếp, đắc được hai loại Lực là: Tư Trạch
Lực, Tu Tập Lực, tức viên mãn Lực Ba La Mật (Bala-pāramitā). Đối với các pháp
đối trị, giáng phục các phiền não, cắt đứt các Hoặc Chướng. Lúc tu Đạo thì quyết định
Thắng Giải (Adhimokṣa), tất cả Thiên Ma bạn ác chẳng dám dời đổi, đắc được bất
thoái chuyển (Avaivartika).
11_ Trí Ba La Mật Bồ Tát (Jñāna-pāramitā-bodhisatva):
Jñāna-pāramitā dịch âm là Nhạ Nương Nẵng Ba La Mật Đa. Là một trong 10 vị
Ba La Mật Bồ Tát.
Tôn này được sinh ra từ Trí Đức trang nghiêm của Hư Không Tạng Bồ Tát, và
thành quyến thuộc của Bát Nhã Bồ Tát.
Tôn Hình: Thân màu thịt, khoác áo Yết Ma. Tay phải dựng lòng bàn tay cầm
rương Kinh Phạn với một bộ phận của rương Kinh thòng xuống dưới. Ngửa lòng bàn
tay trái để trước ngực, co ngón vô danh ngón út. Ngồi trên hoa sen trắng.
359
Mật Hiệu là: Viên Mãn Kim Cương
Chữ chủng tử là: Jña (㫦)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn
Tướng Ấn là Trí Ba La Mật Ấn: Hai tay cài chéo nhau bên ngoài rồi nắm quyền,
dựng thẳng Đàn Tuệ (2 ngón út) trợ giao nhau chút ít, co đầu Tiến Lực (2 ngón trỏ) trụ
tròn trịa, dựng thẳng Nhẫn Nguyện (2 ngón giữa) sao cho đầu ngón hợp nhau.
Chân Ngôn là:
㫘㖁 ᛸᛸ ᚼ ᗙᜒ 㜪㖁 㛿㏆
Oṃ_ mahā-jñāna-kāri hūṃ svāhā
Do kết Ấn này, tụng Chân Ngôn ba biến, liền diệt hạt giống Câu Sinh Ngã Chấp
và hạt giống Câu Sinh Pháp Chấp trong vô lượng Kiếp, đắc được hai loại Thọ Dụng
Trí là: Thọ Dụng Pháp Lạc Trí, Thành Tựu Hữu Tình Trí [thiếu: tức viên mãn Trí
Ba La Mật (Jñāna-pāramitā)]. Chặt đứt hai loại Chướng (Avaraṇa) là: Phiền Não
Chướng (Kleśāvaraṇa) và Sở Tri Chướng (Jñeyāvaraṇa). Chứng được tất cả các Pháp
như Huyễn, như dợn nước dưới nắng (dương diệm), như mộng, như ảnh tượng, như
tiếng vang (cốc hưởng), như quang ảnh, như bóng trăng dưới nước (thủy nguyệt), như
biến hóa, như Nhân Đà La võng (Indra-jāla: lưới trời Đế Thích), như hư không; chẳng
bao lâu mãn túc mười Địa (Daśa-bhūmi), trụ Pháp Vân Địa (Dharma-megha-bhūmi)
làm Đại pháp sư.
12_ Cộng Phát Ý Chuyển Luân Bồ Tát (Saha-cittotpāda-dharma-cakra):
Saha-cittotpāda-dharma-cakra dịch âm là Sa Ha Chất Đô Đát Bả Đà Đạt Ma
Chước Yết La. Lại xưng là Cộng Phát Tâm Pháp Chuyển Bồ Tát, đồng với Tôn Tài
Phát Tâm Chuyển Pháp Luân Bồ Tát trong Kinh Bát Nhã Lý Thú
Tôn Hình: Thân màu thịt. Dựng đứng lòng bàn tay phải cầm giữ hoa sen, trên sen
có bánh xe. Ngửa lòng bàn tay trái lên trên, để một cái chày Độc Cổ trên lòng bàn tay.
Hướng về bên trái, ánh mắt nhìn xuống bên dưới, ngồi trên hoa sen đỏ
360
Mật Hiệu là: Pháp Luân Kim Cương
Chữ chủng tử là: CA (ク)
Tam Muộ Gia Hình là: Bánh xe vàng trên hoa sen
Tướng Ấn là: Chuyển Pháp Luân Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㱄㖁ᘔᣰᜨ㬬㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RIṂ_ CAKRA VARTTI_ SVĀHĀ
361
13_ Sinh Niệm Xứ Bồ Tát (Smṛti-sajātyaḥ):
Smṛti-sajātyah có ý chỉ vị Bồ Tát sinh ra phương pháp và Trí Tuệ. Lại xưng là
Ức Niệm Sinh Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho 4 Hạnh Đức: Từ, Bi, Hỷ, Xả của Hư Không Tạng Bồ Tát
Tôn Hình:Thân màu thịt. Tay phải cầm hoa sen, trên hoa sen là vành trăng có
Pháp Loa. Tay trái duỗi ngón trỏ, hơi co các ngón khác để ngang ngực rồi ngửa lên.
Ngồi Bán Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Ức Trì Kim Cương
Chữ chủng tử là: GAṂ (ᗺ), hay GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Yết Ma trên hoa sen. Hoặc Thương Khư (Pháp
Loa)
Tướng Ấn là: Thương Khư Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᗰᚖ㖁 ᚰ㜭᛬ᜨ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ GATAṂ _ DHARMA-SAṂBHAVA _
SVĀHĀ 362
14_Phẫn Nộ Câu Quán Tự Tại Bồ Tát: tên Phạn là Amogha-krodha-aṃkuśa-
rāja dịch âm là A Mục Khư Cú Lộ Đà Ương Cú Xả La Nhạ, dịch nghĩa là Phẫn Nộ
Câu Vương. Lại xưng là Phẫn Nộ Câu Bồ Tát
Trong Hư Không Tạng Viện của Thai Tạng Giới Man Đa La thì Tôn này có ba
mặt bốn cánh tay. Mặt chính màu thịt, mặt bên trái màu xanh, mặt bên phải màu xanh
lục, mỗi mặt đều có 3 con mắt, trên mặt có vị Hoá Phật. Bên trái: tay thứ nhất cầm hoa
sen, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên Phải: tay thứ nhất cầm Thiết Câu, tay thứ hai tác Dữ
Nguyện Ấn. Ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Trì Câu Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay O (ウ)
Tam Muội Gia Hình là: Việt Câu (móc câu có lưỡi búa)
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng Ấn, hoặc Liên Hoa Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᗜᜨᜄ㖁㛿㐷
Namaḥ samanta buddhānāṃ_ Kuvalaya svāhā
363
15_ Bất Không Câu Quán Tự Tại Bồ Tát có tên Phạn là Amogha-aṃkuśa, dịch
âm là A Mộ Già Ương Câu Xả, dịch nghĩa là Bất Không Câu. Lại xưng là Bất Không
Câu Quán Tự Tại Bồ Tát.
Bồ Tát này có Bản Thệ là dùng móc câu Đại Bi dẫn nhiếp chúng sinh, hay câu
triệu Thánh Trí của chư Phật nhập vào tâm của chúng sinh và hay câu triệu tất cả
chúng sinh nhập vào cảnh giới của chư Phật, ý nguyện ấy quyết định chẳng trống rỗng
(Amogha: bất không).
Trong Hư Không Tạng Viện của Thai Tạng Giới Man Đa La thì Tôn này có
thân màu thịt, có bốn mặt bốn cánh tay. Bên trái: tay thứ nhất cầm hoa sen bên trên có
móc câu, tay thứ hai cầm sợi dây. Bên phải: Tay thứ nhất cầm móc câu, tay thứ hai
cầm chày Tam Cổ.
Mật Hiệu là: Hoá Hiện Kim Cương
Chữ chủng tử là: DHI (ᚲ) hay DHIRAṂ (ᚲ)
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu dựng đứng trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Bát Diệp Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᚲ㖁ᛈṉᜄ㖁㛿㐷
Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Dhiraṃ padmālaya svāhā
Theo Bí Tạng Ký: thì Tôn này có toàn thân màu thịt, 3 mặt 4 tay, 2 mặt bên trái
bên phải màu xanh. Bên trái: Tay ở trên cầm Hoa Sen trên có cái móc câu, tay ở dưới
cầm Sợi Dây. Bên Phải: Tay ở trên cầm cây Móc Câu, tay ở dưới cầm cái Chày Tam
Cổ.
Cũng có lưu truyền Hình Tượng có 3 mặt 4 cánh tay. 364
16_Thiên Thủ Quán Âm (Sahasra-bhūja-ārya-avalokiteśvara):
Sahasra-bhūja-ārya-avalokiteśvara dịch là Thiên Thủ Thánh Quán Tự Tại.
Tu trì Pháp Môn của Thiên Thủ Thánh Quán Tự Tại có thể thành tựu 4 Pháp:
Tức Tai, Tăng Ích, Giáng Phục, Kính Ái Câu Triệu
Tôn này biểu thị cho Đức Pháp Tài
Tôn Hình: Thân có 27 đầu mặt, một ngàn cánh tay trong đó có 40 tay cầm khí
trượng. Ngồi trên hoa sen báu.
27 đầu mặt xếp thành 5 tầng, biểu thị cho 9 cõi hiển Phật Giới, tức hiển thị cho
10 Giới Thể, trong đó :
25 mặt biểu thị cho 25 Hữu là 6 nẻo luân hồi sinh tử, gồm có
4 nẻo ác là Địa Ngục, Ngạ Quỹ, Súc Sinh, Tu La (A Tu La).
4 châu là : Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu
Hóa Châu, Bắc Cu Lâu Châu.
6 trời Dục giới là: Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Diễm Ma Thiên,
Đâu Suất Đà Thiên, Hóa Lạc Thiên,Tha Hóa Tự Tại Thiên
4 trời Sắc Giới là: Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, Tứ Thiền .
3 trời : Vô Tưởng Thiên, Tĩnh Cư Thiên, A Na Hàm Thiên.
4 trời Vô Sắc Giới : Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu
Xứ, Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ .
Mặt thứ 26 biểu thị cho Quả Nhị Thừa .
Bồ Tát Đương Tôn không có mặt riêng.
Mặt thứ 27 là mặt Phật ở trên đỉnh đầu biểu thị cho Pháp Giới .
40 tay (tức 40 pháp) biểu thị cho 5 Trí Tuệ của Như Lai nhằm minh họa cho vạn
đức cứu cánh . Trong đó:
a. Như Lai Bộ (Tathāgata-kulāya): biểu thị cho Pháp Giới Thể Tính Trí
(Dharma-dhātu-prakṛti-jñāna) là cái Trí thâm nhập khắp nơi của Pháp Giới, 8 tay thuộc
Bộ này là: Hóa Phật, Dây Lụa, Thí Vô Úy, Phất Trần Trắng, Bàng Bài, Việt Phủ, Kích
Báu, Dương Liễu minh họa cho pháp Tức Tai (Śāntika) là pháp tiêu trừ các loại bệnh
nạn,việc ác của thân mình hoặc người khác. 365
b. Kim Cương Bộ (Vajra-kulāya): biểu thị cho Đại Viên Kính Trí (Adarśa-
jñāna) là cái Trí phản chiếu mọi sự vật mà không dính mắt vào sự vật nào, cũng không
bị sự vật ấy động chạm hay lay động được. Có 8 tay thuộc Bộ này là Bạt Chiết La
(Tam Cổ Kim Cương), Chày Kim Cương (Độc Cổ Kim Cương) Kiếm báu,Cung điện,
Bánh xe vàng (Kim Luân), Bát báu, Nhật Tinh Ma Ni, Nguyệt Tinh Ma Ni minh họa
cho pháp Điều Phục (Abhicāruka) là pháp tu chiết phục các nhóm ác hoặc điều phục
các người ác.
c. Bảo Bộ (Ratna-kulāya): biểu thị cho Bình Đẳng Tính Trí (Samatā-jñāna) là
cái trí phô bày tâm thức Từ Bi Bình Đẳng. Tám tay thuộc Bộ này là: Ngọc Như Ý,
Kinh Báu, cây Cung Báu, Hoa Sen Trắng, Hoa Sen xanh, Chuông báu, Hoa Sen
tím,Chùm Bồ Đào minh họa cho pháp Tăng Ích (Puṣṭika) là pháp tu tăng ích về Trí
Huệ, phước đức, thọ mệnh cho mình và người khác .
d. Liên Hoa Bộ (Padma-kulāya): biểu thị cho Diệu Quán Sát Trí
(Pratyavekṣana-jñāna) là sự quán tưởng của Trí xem xét mọi tướng chung, tướng riêng
của các pháp mà không hề bị ngăn ngại. Tám tay thuộc Bộ này là: Hợp Chuởng,
Gương báu, Ấn báu,Vòng ngọc, Hồ Bình, Quân Trì Bình, Hoa Sen hồng , Tích Trượng
minh họa cho pháp Kính Ái (Vaśikaraṇa) là pháp tu cho mình và người khác được
Chư Phật, Bồ Tát gia hộ hoặc muốn được Quân Vương và mọi người yêu thương giúp
đở .
e. Yết Ma Bộ (Karma-kulāya): biểu thị cho Thành Sở Tác Trí (Kṛtya-muṣṭhāna-
jñāna) là cái trí khéo léo thi hành mọi việc của thế gian chuyển chúng thành phương
tiện giải thoát. Tám tay thuộc Bộ này là: Thiết Câu, Đỉnh Thượng Hóa Phật, Tràng
Hạt, Hoa Báu, mũi Tên Báu, Rương báu, Độc Lâu, Mây Ngũ Sắc minh họa cho pháp
Câu Triệu (Ākarṣaṇi) là pháp triệu thỉnh Bản Tôn, chư Thần. Thông thường thì pháp
này thường được nhiếp trong Kính Ái .
_Mật Hiệu là: Đại Bi Kim Cương
Chữ chủng tử là: HRĪḥ (㜫)
Tam Muội Gia Hình là: Hoa sen nở rộ.
Tướng Ấn là: Cửu Phong Bát Hải Ấn. Hai tay tác Kim Cương Hợp Chưởng,
hơi cong lưng bàn tay cách xa nhau, hai ngón giữa cùng hợp với nhau, chia mở dựng
thẳng hai ngón cái và hai ngón út
Chân Ngôn là:
㫘 ᜨ᥄ᚰ↜ 㜫
Oṃ_ Vajra-dharma Hrīḥ 366
17_ Bà Tô Đại Tiên (Vasu-ṛṣī):
Vasu-ṛṣī lại gọi là Bà Tự Tra, Phộc Tư Tiên, Bà Tư Tiên, Bà Tô Tiên Nhân. Gọi
lược là Bà Tư, Bà Tra. tức là vị Tiên trong thời đại Phệ Đà của Ấn Độ. Tôn này cũng là
một trong 7 vị Đại Tiên, một trong 10 vị Đại Tiên, một trong 28 Bộ Chúng.
Trong Mật Giáo thì Tôn này là một vị theo hầu Đức Thiên Thủ Quán Âm và là
một trong 28 Bộ Chúng của Quán Âm.
Tôn Hình: Thân màu thịt, hình Tiên Nhân tu khổ hạnh. Nâng bàn tay phải tựa thế
búng ngón tay. Tay trái cầm cây gậy Tiên. Đứng thẳng ở bên trái, phía trước Thiên Thủ
Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát
Mật Hiệu là: chưa rõ
Chữ chủng tử là: PA (ᛈ), hoặc ṚṢAṂ (゠ᝊ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây gậy Tiên
Tướng Ấn là: Thành Tựu Trì Minh Tiên Ấn.
Chân Ngôn là:
_ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜨᝎ⼔゠㫈㖁㛿㐷
Namaḥ samanta-buddhānāṃ_ Vasiṣṭha-ṛṣiṃ svāhā
18_ Công Đức Thiên (Śrī-devī):
Śrī-devī là vị Nữ Thần ban bố Phước Đức. Lại xưng là Cát Tường Thiên, Ma Ha
Thất Lợi, Thất Lợi Nữ Thiên, Cát Tường Thiên Nữ, Cát Tường Công Đức Thiên, Bảo
Tạng Thiên Nữ, Đệ Nhất Uy Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên…
Lúc đầu, Thiên Nữ này vốn là một Vị Thần trong Thần Thoại Ấn Độ, là Ái Phi
của Na La Diên Thiên (Nārāyaṇa-deva), mẹ của Thần Ái Dục (Kāma) .
Truyền thuyết khác cho rằng Thiên Nữ này có tên là Lạc Khất-Sử Mính (Lakṣmi:
Cát Khánh hoặc Công Đức Thiên). Cha tên là Đức Xoa Ca Long Vương (Takṣaka-
nāga-rāja), mẹ tên là Ha Lị Đế Mẫu (Hṛtye-mātṛ), Anh tên là Tỳ sa Môn Thiên
(Vaiśravaṇa-deva). 367
_ Sau này Thiên Nữ cùng với chư Thần của hàng Đế Thích (Indra), Ma Hê Thủ
La (Maheśvara), Tỳ Thấp Nô (Viṣṇu)... du nhập vào Phật Giáo và trở thành hàng
Thiên Thần Hộ Pháp cho Phật Giáo.
Truyền thuyết của Phật Giáo Ấn Độ lại ghi nhận Thiên Nữ có cha tên là Đức Xoa
Ca Long Vương , mẹ là Quỷ Tử Mẫu Thần, chồng là Tỳ Sa Môn Thiên Vương
Theo Phật Giáo Trung Hoa, Công Đức Bản Khởi Kinh ghi là: Thiên Nữ có cha
tên là Luân Đầu Đàn Vương, mẹ là Pháp Giới Ma Gia
Tế Dư Bản Đỉnh Kinh ghi là: Thiên Nữ có cha tên là Đỉnh Đa Môn Thiên
Vương, mẹ là Âm Cụ Đại Nữ
Đồng thời hầu hết Kinh Bản đều ghi nhận Cát Tường Thiên Nữ là Hậu Phi của
Tỳ Sa Môn Thiên Vương và xác nhận Thiên Nữ là vị Bồ Tát Bát Địa, vì Đại Nguyện
Lực nên hiện hình Thiên Nữ ban bố lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Theo truyền thống Mật Giáo thì Cát Tường Thiên Nữ còn có người em gái tên là
Hắc Nhĩ (Kṛṣṇa-karṇa). Hai chị em cùng đi chung với nhau chẳng rời. Chị tên Cát
Tường, đi đến đâu đều đem lợi ích đến đó. Em tên Hắc Nhĩ, do có lỗ tai màu đen mà
có tên, xưa dịch là Hắc ám, đi đến đâu đều gây nên sự tổn hoại. Do đó hai chị em
(Công Đức Thiên, Hắc Ám Nữ ) biểu thị cho nghĩa Phước Họa Tương Tùy. Vì thế
lúc tu Pháp của Cát Tường Thiên Nữ thì nên niệm tụng Chân Ngôn của Đại Tuỳ Cầu
Bồ Tát để khử trừ tai hoạ do Hắc Ám Thiên Nữ gây ra
Trong Hư Không Tạng Viện thì Cát Tường Thiên Nữ là một vị theo hầu Đức
Thiên Thủ Quán Âm và biểu thị cho việc đắc được Phước Đức, đầy đủ không thiếu sót
công đức của mọi điều lành.
Tôn Hình:Thân màu thịt, hiện hình Thiên Nữ, tay cầm nhiều hoa. Đứng thẳng ở
bên phải, phía trước Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát
Mật Hiệu là:Hộ Pháp Kim Cương
Chữ chủng tử là: ŚRĪ (ᩃ)
Tam Muội Gia Hình là: hoa tràn đầy, hay viên ngọc báu
368
Tướng Ấn là: Bát Diệp Ấn (Cát Tường Thiên Nữ Ấn)
Chân Ngôn là:
㫘㖁㈦ᩃᜊ㖁㛿㐷
Oṃ_ mahā-śrīye svāhā
Hay 㫘㖁㈦ᩃᜄᜊ㖁㛿㐷
Oṃ_ mahā-śrīyaye svāhā
19_ Phi Thiên (Devatā):
Phi Thiên là Thiên Nhân bay trong hư không đem nhóm hương, hoa, ca, vũ cúng
dường chư Phật Bồ Tát.
Tôn này là một trong hai vị Hoa Cúng Dường Nữ Sứ biểu thị cho nghĩa của
biển mây cúng dường
Tôn Hình: Hình Thiên Nữ bay trên hư không, rải hoa cúng dường
Chữ chủng tử là: RO ()
20_ Phi Thiên (Devatā)
Tôn này là một trong hai vị Hoa Cúng Dường Nữ Sứ biểu thị cho nghĩa của
biển mây cúng dường
Tôn Hình: Hình Thiên Nữ bay trên hư không, rải hoa cúng dường
Chữ chủng tử là: RO ()
21_ Vô Cấu Thệ Bồ Tát (Vimala-gata):
Vimala-gata dịch âm là Vĩ Ma La Nga Để. Lại xưng là Hư Không Vô Cấu Bồ
Tát (Ākāśa-vimala, hay Gagana-vimala).
Tôn này biểu thị cho Đức không nhiễm dơ của Hư Không Tạng Bồ Tát 369
Tôn Hình: Tay phải tác Thí Nguyện Ấn. Tay trái co ngón trỏ, ngón giữa cầm sợi
dây hoa sen. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Minh Triệt Kim Cương
Chữ chủng tử là: HĀṂ (㪩), hay HAṂ (ᝢ)
Tam Muộ Gia Hình là: Sợi dây hoa sen
Tướng Ấn là: Hai tay kết Đao Ấn.
Chân Ngôn là:
_ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㪩㖁ᗰᗰᚽⴼ ᗸᘔᜐ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HĀṂ _ GAGANA-ANANTA
GOCARA _ SVĀHĀ
370
22_ Tô Bà Hồ Bồ Tát (Subāhuḥ):
Subāhuḥ dịch âm là Tô Bà Hô, Tô Ba Hồ. Dịch ý là Diệu Tý.
Tôn này biểu thị cho Đức cát tường của Hư Không Tạng Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu thịt. Hướng lòng bàn tay phải ra ngoài rồi ngửa lên như Thí
Vô Uý Ấn. Dựng lòng bàn tay trái cầm hoa sen xanh, trên sen có sợi dây hoa sen xanh
chưa hé nở. Dựng đầu gối trái, ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là: Tất Địa Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Sợi dây hoa sen xanh trên hoa sen. Hoặc chày Độc Cổ
trên hoa sen.
Tướng Ấn là: Thanh Liên Hoa Ấn.
371
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㜪㖁㫦ᛄ㝂ᜨ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HŪṂ _ JÑĀNA-UDBHAVA _
SVĀHĀ
23_ Kim Cương Châm Bồ Tát (Vajra-sūci):
Vajra-sūci dịch âm là Phộc Nhật La Tô Chỉ. Lại xưng là Đại Lực Kim Cương
Châm Bồ Tát.
Cây Kim (Sūci) có nghĩa là Trí sắc bén. Do Tôn này hay dùng Trí sắc bén của
Kim Cương, quán đạt tất cả các Pháp cho nên có tên gọi là Kim Cương Châm.
Tôn Hình: Thân màu thịt. Dựng lòng bàn tay trái co ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô
danh để cầm hoa sen, trên sen có chày Độc Cổ dựng đứng. Ngửa lòng bàn tay phải,
hướng đầu ngón tay về bên phải, hơi co ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh. Ngồi trên
hoa sen trắng.
Mật Hiệu là:Tinh Tiến Kim Cưông
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ), hay HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ trên hoa sen
Tướng Ấn là: Kim Cương Châm Ấn
372
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜨ᥅ᚊ㖁ᝌ⇀ᚰ㜭 ᚾᜮᚰᚾ ᜨ᥄ᝑᘖ ᜨᜐᚪ㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA VAJRĀṆĀṂ_ SARVA DHARMA NIRVEDHANI
VAJRA-SŪCI VARADE_ SVĀHĀ
24_ Tô Tất Địa Già La Bồ Tát (Susiddhi-kara):
Susiddhi-kara dịch ý là Diệu Thành Tựu Nghiệp Giả. Lại dịch là Tô Tất Địa Yết
La Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho Đức của Vạn Pháp Diệu Thành Tựu hay thành tựu tất cả
Tác Nghiệp thuộc Thế Gian và Xuất Thế Gian, cho nên xưng là Diệu Thành Tựu
Tôn Hình: Thân màu trắng vàng. Hai tay tác Hư Tâm Hợp Chưởng, hướng đầu
ngón tay xuống dưới để trước ngực. Ngồi Kiết Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Thành Tựu Kim Cương
Chữ chủng tử là: JI (ᘮ) là nghĩa giáng phục tất cả Chướng, thành tựu Công Đức.
Đây tức biểu thị cho nghĩa vạn Đức sinh ra thành tựu.
Tam Muội Gia Hình là: Cây kiếm, có ý nghĩa là đoạn trừ chướng ngại
Tướng Ấn là: Liên Hoa Hợp Chưởng. Hoặc Quân Đồ Lợi Ấn
373
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᘮ㖁㙝᥄ ⽒㇂ 㳆㛳 ᛍ㎉ᜑḰ ᛸ㜂 ᝌ㇂㖁㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ _ JI _ VAJRA- STHIRA BUDDHE
PŪRVARA-ATMA MANTRA SARA _ SVĀHĀ
25_ Mạn Đồ La Bồ Tát (Mahà-cakra):
Mahà-cakra dịch âm là Ma Ha Chước Yết La, dịch ý là Đại Luân. Tôn này dùng
thành Mạn Đồ La làm Bản Thệ cho nên xưng là Mạn Đồ La Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu đen, mặt là tướng phẫn nộ, 3 mắt 6 cánh tay, tóc lửa dựng
ngược lên. Hai tay thứ nhất tác quyền, kết Tiểu Kim Cương Luân Ấn để trên đỉnh đầu.
Bên phải: tay thứ hai dựng quyền để trước ngực cầm chày Tam Cổ, tay thứ ba hướng
về bên phải cầm cây kiếm. Bên trái: tay thứ hai dựng khuỷu tay hướng về bên trái cầm
bánh xe, tay thứ ba hướng về bên trái rũ xuống co ngón trỏ cầm phần đầu của chày
Độc Cổ. Ngồi trên hoa sen.
Mật Hiệu là:Đại Luân Kim Cương
Chữ chủng tử là: HŪṂ (㜪), hay MAṂ (ᜂ)
Tam Muộ Gia Hình là: Bánh xe.
Tướng Ấn là: Tiểu Kim Luân Ấn.
374
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᜨ᥄ᘔᣰ㖁ᘔᣰ㜪㖁ᘷ㜪ᜲ㫃㐷
OṂ_ VAJRA-CAKRA _ CAKRA –HŪṂ _ JAḤ HŪṂ VAṂ HOḤ
26_Kim Cương Tạng Bồ Tát (Aṣṭottara-śata-bhūja-vajra-dharaḥ)
Aṣṭottara-śata-bhūja-vajra-dharaḥ dịch âm là A Sắt Tra Đa La Xả Đa Bộ Nhạ
Phộc Nhật La Đà Lạc. Dịch ý là Nhất Bách linh Bát Tý Kim Cương Trì, tức là Kim
Cương Tạng Vương Bồ Tát. Lược xưng là Kim Cương Tạng.
Tôn này đại biểu cho Trí Đức của Hư Không Tạng Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu đen xanh có 22 mặt, trong đó có một mặt là Phật. Có 108
cánh tay biểu thị cho sự đối trị với 108 loại phiền não. Tay cầm 108 loại vũ khí phá trừ
phiền não như chày Độc Cổ, bánh xe, sợi dây, cây kiếm, móc câu, rương Kinh Phạn,
cây gậy, cây gậy hình hoa…. Ngồi trong hoa sen báu.
Mật Hiệu là: Bí Mật Kim Cương
Chữ chủng tử là: HUṂ (㰵), hay HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là:Hoa sen trên miệng bình. Hoặc chày Ngũ Cổ.
375
Tướng Ấn là: Kim Cương La Xà Nhất Thiết Kiến Pháp Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᜨ᥌⾥ᜨㆎ㖁㛿㐷
Oṃ_ Vajra-udbhāvaya svāhā
27_ Phi Thiên Sứ Giả (Devatā):
Tôn này là một trong hai vị Hoa Cúng Dường Nữ Sứ biểu thị cho nghĩa của
biển mây cúng dường
Tôn Hình: Hình Thiên Nữ bay trên hư không, một tay cầm hoa, một tay rải hoa
cúng dường
Chữ chủng tử là: A (ㅥ), hay RO ()
28_ Phi Thiên Sứ Giả (Devatā):
Tôn này là một trong hai vị Hoa Cúng Dường Nữ Sứ biểu thị cho nghĩa của
biển mây cúng dường
Tôn Hình: Hình Thiên Nữ bay trên hư không, một tay cầm hoa, một tay rải hoa
cúng dường
Chữ chủng tử là: A (ㅥ) hay RO ()
376
HÌNH TƯỢNG CỦA NĂM ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát lại gọi là Ngũ Đại Kim Cương Hư Không Tạng
dùng chỉ 5 vị Bồ Tát của nhóm Pháp Giới Hư Không Tạng, Kim Cương Hư Không
Tạng, Bảo Quang Hư Không Tạng, Liên Hoa Hư Không Tạng, Nghiệp Dụng Hư
Không Tạng.
Lại xưng là: Giải Thoát Hư Không Tạng, Phước Trí Hư Không Tạng, Năng Mãn
Hư Không Tạng, Thi Nguyện Hư Không Tạng, Vô Cấu Hư Không Tạng.
Hoặc xưng là: Trí Tuệ Hư Không Tạng, Ái Kính Hư Không Tạng, Quan Vị Hư
Không Tạng, Năng Mãn Hư Không Tạng, Phước Đức Hư Không Tạng… là nghĩa của
5 vị Phật Đại Nhật, A Súc, Bảo Sinh, Di Đà, Thích Ca trụ ở Như Ý Bảo Châu Tam
Muội. Năm vị Bồ Tát tức là nơi biến hiện của 5 vị Phật, thành tựu năm Trí Tam Muội
mà thành lập Bồ Tát của 5 Đại này
Năm Tôn này được phân biệt qua vật cỡi là: Sư Tử, voi, ngựa, khổng tước, Ca
Lâu La Điểu (Kim Xí Điểu).
1_ Pháp Giới Hư Không Tạng
377
2_ Kim Cương Hư Không Tạng
3_ Bảo Quang Hư Không Tạng
378
4_ Liên Hoa Hư Không Tạng
5_ Nghiệp Dụng Hư Không Tạng
Tướng Ấn của Tổng Ấn là Ngoại Ngũ Cổ Ấn, hai ngón giữa làm hình báu, bốn
đầu ngón còn lại đều quán tưởng hình báu
379
_ Hình tượng của Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát, y theo Kinh Du Gia Du Kỳ,
Phẩm Kim Cương Cát Tường Đại Thành Tựu đã ghi chép là:
Ở trong một vòng tròn lớn liền vẽ 5 vòng tròn
Chính giữa vẽ Pháp Giới Hư Không Tạng màu trắng, tay trái cầm móc câu, tay
phải cầm báu
Vòng tròn phía trước (phương Đông) vẽ Kim Cương Hư Không Tạng màu vàng,
tay trái cầm móc câu, tay phải cầm Kim Cương báu (Bảo Kim Cương)
Vòng tròn bên phải (phương Nam) vẽ Bảo Quang Hư Không Tạng màu xanh, tay
trái cầm móc câu, tay phải cầm Tam Biện Bảo (vật báu có ba cánh hoa) phóng ánh
sáng lớn
Vòng tròn phía sau (phương Tây) vẽ Liên Hoa Hư Không Tạng màu đỏ, tay trái
cầm móc câu, tay phải cầm hoa sen hồng to lớn
Vòng tròn bên trái (phương Bắc) vẽ Nghiệp Dụng Hư Không Tạng màu tím đen,
tay trái cầm móc câu, tay phải cầm Kim Cương báu (Bảo Kim Cương)
Ngoài ra, Hư Không Tạng Bồ Tát cũng thường làm Minh Tinh được hiện ra từ
hạt thứ nhất của Thiên Hắc Hậu, nhân đây cũng được cho là hóa hiện đồng thể với
Minh Tinh Thiên Tử. 380
THỦ ẤN CỦA HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
Chữ Chủng Tử là: 㜩 (TRĀḤ) hoặc 㫹 (TRĀṂ) hoặc 㛸 (OṂ) hoặc ゛ (Ā) hoặc
ㅨ(Ī)
Tam Muội Gia Hình là: Cây Kiếm Báu, hoặc viên ngọc báu có ba múi (Tam
Biện Bảo Châu)
1_Hư Không Tạng Thủ Ấn (1)_ Tam Muội Gia Ấn
Kết Kim Cương Phộc Ấn, hai ngón trỏ chạm nhau như hình báu, kèm dựng ngón
trỏ ngang trái tim. Kim Cương Phộc này là Ngoại Phộc. Trong Bạch Bảo Khẩu Sao
thuật rõ là nghĩa của Nội Phộc. Đây là Ấn căn bản của Hư Không Tạng.
Chân Ngôn là:
ᚼᜀ ゛ᗙ᜴ᗰ←ᜄ 㛸 ゚ᜒ ᗘᛸᜒ 㪧ᜒ ᵙ
NAMO ĀKĀŚA-GARBHĀYA _ OṂ ARI KAMARI MURI _ SVĀHĀ
2_Hư Không Tạng Thủ Ấn (2):
Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng), kèm co hai ngón cái vào trong
lòng bàn tay. Đây là Hư Không Tạng trong Thai Tạng Bộ.
Chân Ngôn đồng với lúc trước. 381
3_Hư Không Tạng Thủ Ấn (3):
Tay phải hướng năm ngón tay lên trên, ngửa ra rồi giương duỗi, ngón trỏ và ngón
cái cùng vịn nhau như cầm hương, co lóng thứ hai của ngón trỏ nhưng gắng duỗi thẳng
lóng thứ nhất.
Hoặc là tay phải nắm quyền, ngón trỏ và ngón cái cùng vịn nhau như hình báu.
Chân Ngôn đồng với lúc trước
4_ Hư Không Tạng Bồ Tát Thủ Ấn (4)_ Hư Không Tạng Ấn:
Đây là Thủ Ấn của Hư Không Tạng Bồ Tát trong Thích Ca Viện của Thai Tạng
Mạn Đồ La, gọi là Hư Không Tạng Ấn. Kết Pháp là chắp hai tay lại giữa rỗng, co hai
ngón trỏ ngay bên dưới hai ngón giữa, co ngón cái vào trong lòng bàn tay.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ゛ᗙ᜴ ᝌᛸⴽᛀᗰᚌ㖁 ᛢᘖ㫹 ᜨᜐ ᚰᜐ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀKĀŚA SAMANTA ANUGATA
VICITRĀṂ-VARA DHARA_ SVĀHĀ
5_ Hư Không Tạng Bồ Tát Thủ Ấn (5)
Đây là Thủ Ấn của Hư Không Tạng Bồ Tát trong Hư Không Tạng Viện của Thai
Tạng Mạn Đồ La. Kết Pháp là chắp hai tay lại giữa rỗng, co hai ngón cái vào trong
lòng bàn tay, co hai ngón trỏ phụ bên trên hai ngón cái.
Chân Ngôn đồng với lúc trước.
382
6_ Hư Không Tạng Bồ Tát Thủ Ấn (6)
Ấn này trích trong đoạn thứ năm của Lý Thú Kinh . Đồng với Hư Không Tạng
Tam Muội Gia Ấn lúc trước. Hai tay tác Ngoại Phộc, hai ngón trỏ thành hình báu, kèm
đứng hai ngón cái để trên đỉnh đầu
NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT ẤN
1_Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Thủ Ấn (1)_ Ngoại Ngũ Cổ Ấn:
Đồng với Ngoại Ngũ Cổ Ấn. Tức hai tay tác Ngoại Phộc, hai ngón cái, hai ngón
giữa, hai ngón út cùng hợp đầu ngón; co hai ngón trỏ như dạng móc câu, hai đầu ngón
giữa cùng hợp nhau như hình báu, tác Bảo Châu Quán Tưởng, Các ngón còn lại đều
tác Quán này.
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
2_ Ngũ Đại Hư Không Tạng Bồ Tát Thủ Ấn (2)_ Nội Ngũ Cổ Ấn
Đồng với Nội Ngũ Cổ Ấn. Hai tay tác Nội Phộc, 2 ngón cái, 2 ngón giữa, 2 ngón
út cùng hợp đầu ngón; co 2 ngón trỏ như dạng móc câu để ở bên cạnh lưng của ngón
giữa nhưng không dính nhau, đem 2 ngón giữa làm hình báu, xong quán tưởng 5 ngọn
đều có viên ngọc báu
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
383
3_ Pháp Giới Hư Không Tạng Thủ Ấn
Hai tay tác Ngoại Phộc, dựng đứng hai ngón giữa như hình báu
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
Hoặc dùng Chân Ngôn sau:
㫘 ᜨ᥄ ᜲ
OṂ _ VAJRA VAṂ
4_ Kim Cương Hư Không Tạng Thủ Ấn:
Hai tay tác Ngoại Phộc, dựng thẳng hai ngón giữa như hình báu, co 2 ngón trỏ
như Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
Hoặc dùng Chân Ngôn sau:
㫘 ᜨ᥄ 㭽
OṂ _ VAJRA HŪṂ
5_ Bảo Quang Hư Không Tạng Ấn:
Hai tay tác Ngoại Phộc, dựng đứng 2 ngón giữa, 2 ngón trỏ như hình báu
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
Hoặc dùng Chân Ngôn sau:
㫘 ᜨ᥄ 㜩
OṂ _ VAJRA TRĀḤ 384
6_ Liên Hoa Hư Không Tạng Thủ Ấn:
Như Pháp Giới Hư Không Tạng Thủ Ấn, chỉ co hai ngón trỏ như hình cánh sen,
dựng đứng hai ngón giữa như hình báu.
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
Hoặc dùng Chân Ngôn sau:
㫘 ᜨ᥄ 㜫
OṂ _ VAJRA HRĪḤ
7_ Nghiệp Dụng Hư Không Tạng Thủ Ấn:
Hai tay tác Ngoại Phộc, duỗi thẳng 2 ngón giữa cùng trụ nhau như hình báu, 2
ngón vô danh 2 ngón trỏ cùng giao nhau.
Chân Ngôn là:
ᜲ㭽㜩㜫㭻
VAṂ HŪṂ TRĀḤ HRĪḤ AḤ
Hoặc dùng Chân Ngôn sau:
㫘 ᜨ᥄ 㭻
OṂ _ VAJRA AḤ
385
PHÁP CẦU PHÚ QUÝ CỦA NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG BỒ TÁT
Trong “Biệt Tôn Tạp Ký” có Pháp cầu Phú Quý của năm Đại Hư Không Tạng,
được ghi chép là:"Hành Giả nên ở vòng tròn chính giữa vẽ Hư Không Tạng màu trắng,
tay trái cầm cái Móc Câu, tay phải cầm báu. Ở vòng tròn phía trước Vẽ Hư Không
Tạng màu vàng, tay trái cầm cái Móc Câu, tay phải cầm Kim Cang báu. Ở vòng tròn
bên phải vẽ Hư Không Tạng màu xanh, tay trái cầm cái Móc Câu, tay phải cầm Tam
Biện Bảo (Báu có ba cánh), phóng ánh sáng lớn. Ở vòng tròn phía sau vẽ Hư Không
Tạng màu đỏ, tay trái cầm cái Móc Câu, tay phải cầm hoa sen hồng lớn. Ở vòng tròn
bên trái Hư Không Tạng màu tím đen, tay trái cầm cái Móc Câu, tay phải cầm Yết Ma
báu. Đây gọi là Ngũ Đại Hư Không Tạng Cầu Phú Quý Pháp. Quần áo, mão trên
đầu, chuỗi Anh Lạc của Bồ Tát ấy đều y theo bản sắc và đều ngồi bán già.
Vẽ Tượng này xong, Ở Đàn, trước tiên không có gián đoạn chỉ tụng Ngũ Tự
Minh (thấy rõ ở sau) một ngàn vạn biến, liền được thành tựu Phú Quý.
_ Trong Phẩm Kim Cang Cát Tường Đại Thành Tựu ghi chép rằng:" Phân biệt
năm Tôn Hư Không Tạng Bồ Tát là cỡi Sư Tử, Voi, Ngựa, Chim Công, Chim Ca Lâu
La (Kim Xí Điểu). Ấn Tướng của Tổng Ấn đó là Ngoại Ngũ Cổ Ấn, hai ngón giữa
làm hình báu, ở đầu bốn ngón còn lại quán tưởng hình báu.
386
Dùng Bản Tôn của năm Đại Hư Không Tạng Bồ Tát làm Pháp tu, xưng là Ngũ
Đại Hư Không Tạng Pháp, thường dùng ở pháp tăng ích để cầu xin tiền của, giàu có,
Thọ Mạng, Trí Tuệ….
NGŨ ĐẠI HƯ KHÔNG TẠNG MAN ĐA LA
387
Trong các loại Kinh Sớ vừa nêu trên ghi chép, chẳng những có thể biết được nhân
duyên vì sao gọi là Hư Không Tạng và sự quan hệ mật thiết sâu xa với Tài Bảo của
Hư Không Tạng Bồ Tát, lại có thể biết được Bản Tôn Tài Bảo Hư Không Tạng Bồ
Tát này không những có thể ban cho chúng sinh vô lượng mọi loại Tài Bảo màu nhiệm
quý báu của Thế Gian, thỏa mãn đủ nhu cầu của chúng sinh ở Thế Gian, lại hay tăng
tiến ý nghĩ vui vẻ của chúng sinh, ban cho các loại Pháp Tài, khiến cho tất cả chúng
sinh viên mãn Bồ Đề, đồng thời viên mãn hai loại Tư Lương Phước Trí của chúng
sinh.
388
TRỪ CÁI CHƯỚNG BỒ TÁT
Trừ Cái Chướng Bồ Tát tên Phạn là Sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhin lại xưng là
Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, Giáng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại Bồ Tát, Khí
Chư Ấm Cái Bồ Tát.
Trừ Cái Chướng tức là nghĩa tiêu trừ tất cả phiền não (Kleśa). Trụ ở Trừ Cái
Chướng Tam Muội có thể trừ diệt 5 loại Cái Chướng là: Phiền Não Chướng, Nghiệp
Chướng, Sinh Chướng, Pháp Chướng...rồi khiến cho tất cả nghiệp khổ phiền não thảy
đều trừ diệt. Nếu người được Tam Muội này ắt cùng với chư Phật đồng trụ, cho nên
Kinh Thủ Hộ lại xưng là cảnh giới của chư Phật.
_Đại Nguyệt Kinh Sớ nói rằng: “Dùng Tâm Bồ Đề (Bodhi-citta) làm Nhân
(Hetu) chiếu sáng các Pháp, cho nên dùng chút Công Đức được Trừ Cái Chướng
Tam Muội, thấy Thật Tướng của tám vạn bốn ngàn phiền não, thành tựu Môn gom tụ
tám vạn bốn ngàn báu”
Kinh Phật ghi chép rằng: “Nếu chúng sinh lắng nghe danh hiệu của Trừ Cái
Chướng Bồ Tát thì hết thảy cái chướng đều có thể đắc được thanh tịnh”
Tôn này là một trong tám vị Đại Bồ Tát của Phật Giáo,
Mật Giáo ghi nhận Trừ Cái Chướng Bồ Tát là Tôn Chủ của Trừ Cái Chướng
Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La, một trong 16 vị Đại Bồ Tát thuộc đời Hiền
Kiếp trong Kim Cương Giới Man Đa La
Hình Tượng của Trừ Cái Chướng Bồ Tát là tay phải kết Vô Úy Ấn, tay trái cầm
hoa sen, trên hoa có viên ngọc Như Ý, biểu thị cho viên ngọc Như Ý trong Tâm Bồ Đề
thỏa mãn đầy đủ nguyện vọng của tất cả chúng sinh
389
_ Tạng Truyền Phật Giáo ghi nhận Trừ Cái Chướng Bồ Tát là một trong tám vị
Đại Bồ Tát, trong đó Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarva-nīrvaraṇa-viṣkaṃbhin) biểu thị
cho Tướng thanh tịnh màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Mạt Na Thức
(Manas-vijñānaṃ)
390
Tôn Tượng Trừ Cái Chướng Bồ Tát có tay trái ở trước ngực tác Quy Y Tam
Bảo Ấn, cầm hoa sen, trên hoa sen có vành mặt trăng trong mát diệt hết chướng ngại
nóng bức phiền não của chúng sinh. Úp tay phải đè cổ tay trên đầu gối phải
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Trừ Cái Chướng Bồ Tát có thân hình
màu trắng, co tay trái ở trước ngực tác Quy Y Tam Bảo Ấn, cầm hoa sen, trên hoa sen
có vành mặt trăng trong mát diệt hết chướng ngại nóng bức phiền não của chúng sinh.
Ngửa tay phải trên đầu gối phải cầm cái bình báu 391
_Tại Trừ Cái Chướng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) dùng Trừ Cái Chướng Bồ Tát làm Chủ Tôn. Viện này biểu thị cho Man Đa
La của Đức trừ hết tất cả cái chướng của nhóm Phiền Não Chướng và Sở Tri
Chướng.
Đức thù thắng màu nhiệm của Viện này là dùng viên ngọc báu Như Ý trong Tâm
Bồ Đề ban cho tất cả chúng sinh không còn sợ hãi và thành mãn ước nguyện.
Viện này biểu thị cho Trí Môn của Kim Cương, trừ chướng ngại cho chúng sinh.
Viện này gồm có 9 Tôn được trình bày từ trên xuống dưới như sau:
392
1_ Bi Mẫn Tuệ Bồ Tát (ᜎ)
2_ Phá Ác Thú (㮍)
3_ Thí Vô Úy ()
4_ Hiền Hộ (ᜪ)
5_ Trừ Cái Chướng Bồ Tát (㜧)
6_ Bi Mẫn Bồ Tát (ᜎ)
7_ Từ Phát Sinh Bồ Tát (ᙦ)
8_ Chiết Chư Nhiệt Não (㘳)
9_ Bất Tư Nghị Tuệ Bồ Tát (㒂)
1_ Bi Mẫn Tuệ Bồ Tát (Kāruṇāmreḍita):
Kāruṇāmreḍita lại xưng là Cứu Ý Tuệ Bồ Tát, Trung Mẫn Bồ Tát, Cứu Hộ Bồ
Tát. Vị Bồ Tát này có Bản Thệ trừ tất cả khổ, do trừ khổ cho nên có tên gọi là Cứu Hộ.
Tôn này biểu thị cho việc dùng Trí Tuệ của Như Lai cứu hộ chúng sinh khiến cho
chúng sinh trong 9 cõi cùng vào Phật Quả.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, ngửa lòng bàn tay phải để trước ngực, đem
ngón cái ngón vô danh cùng vịn nhau (với nghĩa trừ khổ). Tay trái chống eo (với
nghĩa che giúp)
Mật Hiệu là: Cứu Hộ Kim Cương
Chữ chủng tử là: YAṂ (ᜎ) hay VI (ᜪ) 393
Tam Muội Gia Hình là: Bi Thủ Ấn, hoặc hoa sen chưa hé nở.
Tướng Ấn là: Bi Niệm Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜎ㖁 ᗙ᜔ᚁ㜮ᙪᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ YAṂ_ KĀRUṆĀMṚḌITA_ SVĀHĀ
2_ Phá Ác Thú Bồ Tát (Apāya-jaha):
Apāya-jaha lại xưng là Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ Tát, Xả Ác Đạo Bồ Tát. Lược
xưng là Trừ Ác Thú Bồ Tát (Sarva-apāya-jahaḥ).
Tôn này biểu thị cho việc hay trừ tất cả nẻo ác.
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, co tay trái để trước ngực, ngửa lòng bàn tay
phải lên trên đem ngón cái ngón trỏ cùng vịn nhau và duỗi thẳng các ngón còn lại. Tay
phải hướng ra bên ngoài buông rũ xuống, hơi co 5 ngón tay. Ngồi trên hoa sen đỏ
Mật Hiệu là: Trừ Chướng Kim Cương
Chữ chủng tử là: DHVAṂ (㮍)
Tam Muội Gia Hình là: Tay Phát Khởi, hoặc cành cây.
394
Tướng Ấn là: Thí Vô Uý Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㮍ᝌᛆ㖁 ゚ᢈ㛱ᜐᚂ ᝌᲰᚱ㪲㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DHVAṂSANAṂ
ABHYUDDHĀRAṆI SATVA-DHĀTUṂ _ SVĀHĀ
3_ Thí Vô Úy Bồ Tát (Abhayaṃdadaḥ):
Abhayaṃdadaḥ xưng đầy đủ là Thí Nhất Thiết Vô Uý Bồ Tát.
Tôn này dùng sự bạt trừ mọi loại sợ hãi ưu hoạnh của tất cả chúng sinh làm Bản
Thệ.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải kết Thí Vô Uý Ấn, tay trái tác Kim Cương
Quyền để trên đầu gối, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Tự Tại Kim Cương
Chữ chủng tử là: RA (), hay RASANAṂ (ᝌᛆ)
Tam Muội Gia Hình là: Tay Thí Vô Úy.
395
Tướng Ấn là: Thí Vô Uý Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᝌᛆ㖁゚᛬ᜎᚤᚤ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ RASANAṂ ABHAYAṂDADA _
SVĀHĀ
4_ Hiền Hộ Bồ Tát (Bhadra-pāla):
Bhadra-pāla dịch âm là Bạt Nại La Ba La Bồ Tát, Bạt Đà Ba La Bồ Tát, Bạt Đà
Hoà Bồ Tát, Phát Nại La Bá La Bồ Tát. Lại xưng là Hiền Hộ Trưởng Giả, Hiền Hộ
Thắng Thượng Đồng Chân, Thiện Hộ Bồ Tát. Là một trong 8 vị Đại Bồ Tát hoặc một
trong 16 vị Đại Bồ Tát đời Hiền Kiếp.
Trong Viện này thì Hiền Hộ Bồ Tát được xưng là Trừ Nghi Quái Bồ Tát
(Kauṭūhalaḥ), hoặc Trừ Nghi Cái Bồ Tát. Do Tôn này dùng Trí Tuệ của Như Lai Kim
Cương (Tathāgata-vajra) khéo trừ khử sự Nghi Hối của chúng sinh cho nên được xưng
là Trừ Nghi Hối Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho việc đoạn trừ sự nghi hoặc của tất cả chúng sinh.
Tôn Hình:Thân màu thịt, hiện hình nữ, tay trái nâng cái bình báu, tay phải cầm
chày Độc Cổ, ngồi trên hoa sen đỏ.
Chày Độc Cổ là Trí Nhất Thực của Như Lai, biểu thị cho một Pháp Giới của chữ
A (ㅥ)
Cái bình báu biểu thị cho việc khéo hộ giúp 5 Trí trong Tâm Địa của chúng sinh,
cho nên được xưng là Hiền Hộ
Mật Hiệu là:Xảo Tế Kim Cương, biểu thị cho việc dùng ánh sáng Tuệ Nhất
Thực của Như Lai cứu tế chúng sinh ở nơi hắc ám 396
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ), hay ASANAṂ (ㅥᝌᛆ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương Độc Cổ, hoặc Hiền Bình Bán Độc Cổ
Chử.
Tướng Ấn là: Cứu Hộ Tuệ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᛸ Ộᜐ 㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE MAHĀ MAHĀ _ SMARA
PRATIJÑAṂ_ SVĀHĀ
5_ Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhin):
Sarva-nirvaraṇa-viṣkaṃbhin lại xưng là Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát,
Giáng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại Bồ Tát, Khí Chư Ấm Cái Bồ Tát. Là Chủ Tôn
của Trừ Cái Chướng Viện.
Tôn này biểu thị cho việc dùng Nhân của Tâm Tịnh Bồ Đề khiến cho tiêu trừ tất
cả phiền não, tất cả chướng ngại
Tôn Hình: Tay trái cầm hoa sen, trên hoa có viên ngọc Như Ý. Tay phải kết Thí
Vô Uý Ấn biểu thị cho ý dùng viên ngọc Như Ý trong Tâm Bồ Đề ban cho tất cả
chúng sinh viên mãn ước nguyện.
Mật Hiệu là: Ly Não Kim Cương
Chữ chủng tử là: ĀḤ (㜧) 397
Tam Muội Gia Hình là: Viên ngọc báu trên hoa sen, hoặc cây phướng báu.
Tướng Ấn là: Trừ Cái Chướng Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㜧 ᝌᲰ ᚍᢈ⺨ᚌ㖁㫹 㫹 㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ ĀḤ SATVA HĪTA
ABHYUDGATA_ TRĀṂ TRĀṂ_ RAṂ RAṂ_ SVĀHĀ
6_ Bi Mẫn Bồ Tát (Kāruṇāmṛḍitaḥ):
Kāruṇāmṛḍitaḥ lại xưng là Bi Tuyền Chuyển Bồ Tát.
Tôn này là tên gọi khác của Cứu Hộ Tuệ Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, tay trái dựng quyền đem ngón cái, ngón trỏ và
ngón giữa cầm hoa Mẫu Đơn. Tay phải ngửa lòng bàn tay để trước rốn hơi co ngón
giữa và ngón út, cầm lá cỏ, bên trên có hoa sen nở rộ.
Mật Hiệu là: Bi Niệm Kim Cương
Chữ chủng tử là: YAṂ (ᜎ) 398
Tam Muội Gia Hình là: Bi Thủ Ấn, hoặc hoa sen chưa hé nở
Tướng Ấn là: Bi Mẫn Giả Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗙ᜔ᚁ㜮ᙪᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ KĀRUṆĀMṚḌITA_ SVĀHĀ
7_ Từ Phát Sinh Bồ Tát (Mahā-maitrya-abhudgataḥ):
Mahā-maitrya-abhudgataḥ dịch âm là Ma Ha Mỗi Thương Lý Dã Tỳ Du Ổn
Nghiệt Đa. Dịch ý là Từ Phát Sinh. Lại xưng là Đại Từ Sinh Bồ Tát, Đại Từ Khởi Bồ
Tát, Từ Mẫn Tuệ Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho việc chúng sinh tự phát sinh Từ Bi
Tôn Hình:Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Từ Niệm Kim Cương
Chữ chủng tử là: ṬHAṂ (ᙦ) 399
Tam Muội Gia Hình là: Tay cầm hoa, hoặc rương Kinh Phạn.
Tướng Ấn là:Đại Từ Sinh Ấn (Tay phải làm dạng cầm hoa).
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᵘᘖが ゞ⺨ᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SVACITTA-UDGATA_ SVĀHĀ
8_ Chiết Chư Nhiệt Não Bồ Tát (Sarva-dāha-praśamita):
Sarva-dāha-praśamita lại xưng là Trừ Nhất Thiết Nhiệt Não Bồ Tát. Lược xưng
là Trừ Nhiệt Não Bồ Tát. Là vị Bồ Tát có Bản Thệ phá trừ tất cả nhiệt não của tất cả
chúng sinh.
Tôn này biểu thị cho việc dùng Pháp của Nhân xa lìa (Ly Nhân) mà hoàn thành
nguyện của tất cả chúng sinh đồng thời khiến cho họ trừ tất cả nhiệt não.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay phải để trên đầu gối, làm tay Dữ Nguyện. Co tay
trái để trước ngực cầm rương Kinh Phạn. Ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Ly Bố Uý Kim Cương
Chữ chủng tử là: I (㘳) 400
Tam Muội Gia Hình là: Tay Dữ Nguyện.
Tướng Ấn là: Thí Vô Uý Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᜨᜐᚤ ᜨᜐ ᧡〜㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE VARADA_ VARA PRĀPTA_
SVĀHĀ
9_ Bất Tư Nghị Tuệ Bồ Tát (Acintya-mati-datta):
Tôn này có Bản Thệ: dùng Trí Tuệ chẳng thể nghĩ bàn ban cho chúng sinh để
đoạn trừ sự ngu si của chúng sinh.
Tôn Hình: Thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên sen có viên ngọc báu, viên
ngọc có lửa sáng. Co dựng cánh tay phải hướng lòng bàn tay vào bên trong. Ngồi Kiết
Già trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Nan Trắc Kim Cương
Chữ chủng tử là: U (㒂) 401
Tam Muội Gia Hình là:Viên ngọc báu, hoặc tay báu.
Tướng Ấn là: Bất Tư Nghị Tuệ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᝌ⇁᜵ ᛈᜒ㪦ᜐᗘ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ SARVA AŚĀ-PARIPŪRAKA_
SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Trừ Cái
Chướng Bồ Tát là một trong 16 vị Đại Bồ Tát đời Hiền Kiếp, đồng Thể với Trừ Ác
Thú Bồ Tát
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Trừ Cái Chướng Bồ Tát có Tôn Hình: giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phổ Cứu Kim Cương
Chữ chủng tử là: BHĀ (᛭), hay DHVAṂ (㮍)
Tam Muội Gia Hình là: Phạn Khiếp (cái rương Kinh Phạn), biểu thị cho tám vạn
bốn ngàn Pháp Môn, khử trừ các sự chướng ngại ngăn che.
Tướng Ấn là: Tay phải duỗi 5 ngón tay nâng lên trên, tay trái nắm quyền để ở eo
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ ᛭
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ BHĀ
Hay 㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ 㮍 ᵙ
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA_ DHVAṂ SVĀHĀ 402
_Trừ Cái Chướng Bồ Tát nói Tự Tâm Ấn Đà La Ni là:
NAMO BHAGAVATE NĀVA-NAVATĪNĀṂ-SAMYAKSAṂBUDDHA-
KOṬĪN- AYUTA ŚATA-SAHASRA GAṄGA-NADĪ VĀLUKĀSAMĀNĀṂ
NAMAḤ SARVA NĪVARAṆA-VIṢKAṂBHIṆI BODHISATVĀYU
OṂ_ TURU TURU, SARVA ĀVARAṆA VIŚODHANI, SARVA
TATHĀGATA-ĀYUḤ-PĀLANI VIPULE NIRMALE, SARVA SIDDHA
NAMASKṚTE, BHARA BHARA, SARVA-SATVĀVALOKINI HŪṂ, SARVA
NĪVARAṆA-VIṢKAṂBHIṆI, SARVA PĀPA VIŚODHANI SVĀHĀ
403
BẤT KHÔNG KIẾN BỒ TÁT
Bất Không Kiến Bồ Tát, tên Phạn là Amogha-darśana dịch âm là A Mục Già
Nại La Xá, dịch nghĩa là Bất Không Kiến. Lại xưng là Bất Không Nhãn Bồ Tát, Chính
Lưu Bồ Tát… là một trong 9 Tôn tại Địa Tạng Viện cuả Thai Tạng Giới Man Đa La và
cũng là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp có vị trí tại phía Bắc trong 5 Tôn ở phương
Đông tại Ngoại Đàn của Kim Cương Giới Man Đa La
Do vị Bồ Tát dùng 5 loại mắt: mắt thịt, mắt Trời, mắt Tuệ, mắt Pháp, mắt Phật
nhìn khắp sự bình đẳng, sai biệt của chúng sinh trong Pháp Giới, hay trừ tất cả nẻo ác
khiến chuyển hướng về Chính Đạo Bồ Đề, Niết Bàn cứu cánh.... cho nên có tên gọi là
Bất Không Kiến.
_Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tang Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) thì Bất Không Kiến Bồ Tát có thân màu thịt, tay trái cầm hoa sen, trên hoa
có lửa rực sáng kèm với con mắt, mũi, miệng. Tay phải dựng lòng bàn tay, hướng tâm
lòng bàn ra bên ngoài, ngồi trên hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Phổ Quán Kim Cương
Chữ chủng tử là: AḤ (ォ) 404
Tam Muội Gia Hình là: Đầu Phật trên hoa sen, hay khuôn mặt ánh sáng trên hoa
sen.
Tướng Ấn là Phật Nhãn Ấn: Chắp hai tay lại giữa rỗng không (Hư Tâm Hợp
Chưởng) hơi cong hai ngón trỏ đều vịn bên cạnh lưng lóng thứ hai của hai ngón giữa.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ㅥᜀ㖦 セ㱣ᚽㆎ㖁 㛿㐷
OṂ_ AMOGHA-DARŚANĀYA AḤ _ SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Bất Không Kiến Bồ Tát có Tôn Hình giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phổ Quán Kim Cương
Chữ chủng tử là: GA (ᗰ), hay AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ, hai bên eo chày có con mắt
Tướng Ấn là Phật Nhãn Ấn
405
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ᗰ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ GA
hay 㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ォ ᵙ
OṂ_ AMOGHA-DARŚANĀYA AḤ _ SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Bất Không Kiến Bồ Tát có chữ chủng tử
là: AḤ (ォ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Độc Cổ, hai bên eo chày có con mắt. Biểu thị cho
việc dùng con mắt của Phật nhìn chúng sinh trong ba cõi, khiến họ vào ba Mật Môn
Tướng Ấn là: Phật Nhãn Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ㆧ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ AḤ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Bất Không Kiến Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái ngửa lòng bàn tay ở rốn, tay phải cầm đài
sen bên trên có chày Độc Cổ, hai bên eo chày có con mắt.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ A 406
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Bất Không Kiến Bồ Tát có chữ chủng tử là:
AḤ (ォ)
Tôn Hình: Hai tay cầm đài hoa sen, bên trên có chày Độc Cổ, hai bên eo chày có
con mắt.
Tướng Ấn là: Phật Nhãn Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ㆧ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ AḤ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Bất Không Kiến
Bồ Tát có chữ chủng tử là: AḤ (ォ)
Tôn Hình: Hai tay cầm đài sen, bên trên có chày Độc Cổ, hai bên eo chày có con
mắt.
407
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương chữ Thập tương tự chày Kim Cương
nằm ngang và con mắt Phật.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ォ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ AḤ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Bất
Không Kiến Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương chữ Thập tương tự chày Kim Cương
nằm ngang và con mắt Phật. Biểu thị cho việc dùng con mắt của Phật nhìn chúng sinh
trong ba cõi, khiến họ vào ba Mật Môn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᜀᗼ ᚤ㱣ᚽᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ AMOGHA DARŚANĀYA SVĀHĀ _ A
408
DIỆT ÁC THÚ BỒ TÁT
Diệt Ác Thú Bồ Tát, tên Phạn là Sarva-apāya-jaha, dịch âm là Phộc Phan Dã
Nhạ Hà. Lại gọi là Phá Ác Thú Bồ Tát, Xả Ác Đạo Bồ Tát, Trừ Nhất Thiết Ác Thú Bồ
Tát. Lược xưng là Trừ Ác Thú Bồ Tát (Sarva-apāya-jahaḥ).
Tôn này hay xả trừ tất cả nẻo ác cho nên có tên là Diệt Ác Thú. Là một trong 9
Tôn tại Trừ Cái Chướng Viện của Thai Tạng Giới Man Đa La và cũng là một trong 16
Tôn đời Hiền Kiến của Kim Cương Giới Mạn Đồ La (Trong trường hợp này Diệt Ác
Thú Bồ Tát được minh họa đồng với Trừ Cái Chướng Bồ Tát).
Chúng sinh trong Thế Gian nếu chẳng phụng Phật Pháp, hoặc tín phụng Phật
Giáo nhưng Công Đức chưa đủ thời chẳng thể được giải thoát, nên vẫn bị luân hồi sinh
tử. Do Nhân Nghiệp chẳng giống nhau cho nên Duyên Quả đều sai khác. Đời sau có
thể vào nẻo Trời. nẻo Người, nẻo Súc Sinh, nẻo Quỷ đói, hoặc rơi vào Địa Ngục. Do
Tôn này dùng sự phá diệt ba nẻo ác (Súc sinh, Quỷ đói, Địa Ngục) làm Bản Thệ, hay
cứu thoát kẻ bị chuyển sinh vào ba đường ác được lìa nạn khổ. Bởi vậy Tôn này được
biểu thị cho việc hay trừ tất cả nẻo ác.
_Tại Trừ Cái Chướng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) thì Diệt Ác Thú Bồ Tát có thân màu vàng trắng, co tay trái để trước ngực,
ngửa lòng bàn tay phải lên trên đem ngón cái ngón trỏ cùng vịn nhau và duỗi thẳng các
ngón còn lại. Tay phải hướng ra bên ngoài buông rũ xuống, hơi co 5 ngón tay. Ngồi
trên hoa sen đỏ 409
Mật Hiệu là: Trừ Chướng Kim Cương
Chữ chủng tử là: DHVAṂ (㮍)
Tam Muội Gia Hình là: Tay Phát Khởi, hoặc cành cây.
Tướng Ấn là: Thí Vô Uý Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁㮍ᝌᛆ㖁 ゚ᢈ㛱ᜐᚂ ᝌᲰᚱ㪲㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ DHVAṂSANAṂ
ABHYUDDHĀRAṆI SATVA-DHĀTUṂ _ SVĀHĀ
410
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Diệt Ác Thú
Bồ Tát là một trong 16 vị Đại Bồ Tát đời Hiền Kiếp.
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Diệt Ác Thú Bồ Tát có Tôn Hình giống như
1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phổ Cứu Kim Cương
Chữ chủng tử là: BHĀ (᛭), hay DHVAṂ (㮍)
Tam Muội Gia Hình là: Phạn Khiếp (cái rương Kinh Phạn)
Tướng Ấn là: Tay phải duỗi 5 ngón tay nâng lên trên, tay trái nắm quyền để ở eo
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ ᛭
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ BHĀ
Hay 㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ 㮍 ᵙ
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA_ DHVAṂ SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Diệt Ác Thú Bồ Tát có chữ chủng tử là:
SA (ᝌ)
Tam Muội Gia Hình là: Phạn Khiếp (cái rương Kinh Phạn). Biểu thị cho tám vạn
bốn ngàn Pháp Môn, khử trừ các sự chướng ngại ngăn che.
Tướng Ấn là: Tay phải duỗi 5 ngón tay nâng lên trên, tay trái nắm quyền để ở eo
411
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ ᝌ
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ SA
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Diệt Ác Thú Bồ Tát có chữ chủng tử là: SA (ᝌ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái ngửa lòng bàn tay ở rốn, tay phải cầm hoa
sen bên trên có rương Kinh Phạn (Phạn Khiếp)
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ ᝌ
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ SA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Diệt Ác Thú Bồ Tát có chữ chủng tử là: SA
(ᝌ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, bên trên có rương Kinh Phạn.
412
Tướng Ấn là: Tay phải duỗi 5 ngón tay nâng lên trên, tay trái nắm quyền để ở eo
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ ᝌ
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ SA
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Diệt Ác Thú Bồ
Tát có chữ chủng tử là DHVAṂ (㮍)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, bên trên có rương Kinh Phạn
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn.
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ 㮍
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ DHVAṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Diệt
Ác Thú Bồ Tát có chữ chủng tử là DHVAṂ (㮍) 413
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn,biểu thị cho tám vạn bốn ngàn Pháp
Môn, khử trừ các sự chướng ngại ngăn che.
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇁ᛉᜄ ᘬᜄ ᵙ 㮍
OṂ _ SARVA APĀYA JAHĀYA SVĀHĀ _ DHVAṂ
414
TRỪ ƯU ÁM BỒ TÁT
Trừ Ưu Ám Bồ Tát, tên Phạn là Sarva Śokatamo-nirghātana, dịch âm là Tát
Phộc Thú Già Đát Mẫu Nễ Già Đa. Lại xưng là Lạc Tồi Nhất Thiết Hắc Ám Ưu Não,
Trừ Nhất Thiết Ám, Trừ Ưu, Trừ Ưu Não, Thường Thanh Tịnh. Là một trong 9 Tôn
của Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala) hoặc
là một Tôn ở đầu phía Nam của mặt Đông trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp của Kim
Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
Tôn này dùng Trừ tất cả ưu não ám tối của chúng sinh làm Bản Thệ
_Tại Địa Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La thì Trừ Ưu Ám Bồ Tát
được xưng là Trừ Nhất Thiết Ưu Não Bồ Tát (Sarva-Śokatamoghāta-mati)
Tôn này biểu thị cho Bản Thệ trừ tất cả ưu não ám tối của chúng sinh
Tôn Hình: Thân màu vàng trắng, dựng đứng khuỷu tay phải, hơi ngửa lòng bàn
tay hướng về bên phải. Tay trái cầm cành cây, ngồi trên hoa sen đỏ.
415
Mật Hiệu là: Đại Xá Kim Cương
Chữ chủng tử là: DAṂ (ᚮ)
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây biểu thị cho sự phủi trừ tất cả phiền não
Tướng Ấn là: Trừ Nghi Quái Kim Cương Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁ᜪ㈦ᚎ 㜵セ㒕㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ VIMATI-CCHEDAKA _ SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Trừ Ưu Ám Bồ Tát có Tôn Hình giống như
1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Giải Thoát Kim Cương
Chữ chủng tử là: AṂ (エ) hay ĀṂ (㫷)
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây
Tướng Ấn là Phạn Khiếp Ấn: Hai tay duỗi lòng bàn tay, ngửa lòng bàn tay trái,
lậy úp bàn tay phải che bên trên, hơi co lòng bàn tay lại
416
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ 㫷
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ
Hay 㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ エ ᵙ
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE AṂ SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Trừ Ưu Ám Bồ Tát có chữ chủng tử là
AṂ (エ)
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây. Biểu thị cho việc phủi trừ tất cả phiền não
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ 㫷
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Trừ Ưu Ám Bồ Tát có chữ chủng tử là AṂ (エ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, quyền trái để ngang eo, tay phải cầm cành cây.
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ エ
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ 417
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Trừ Ưu Ám Bồ Tát có chữ chủng tử là AṂ
(エ)
Tôn Hình: Hai tay cầm đài hoa sen, bên trên có cành cây.
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ 㫷
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Trừ Ưu Ám Bồ
Tát có chữ chủng tử là AṂ (エ)
Tôn Hình: Hai tay cầm cành cây
418
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây.
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ エ
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Trừ
Ưu Ám Bồ Tát có chữ chủng tử là AṂ (エ)
Tam Muội Gia Hình là: Cành cây. Biểu thị cho việc phủi trừ tất cả phiền não
Chân Ngôn là:
㛸 ᝌ⇀ ᗘᚌᜀ ᚾ₡ᚌ ᛸᚌᜊ ᵙ 㫷
OṂ_ SARVA ŚOKATAMO NIRGHĀTANA MATAYE SVĀHĀ_ AṂ
419
HƯƠNG TƯỢNG BỒ TÁT
Hương Tượng Bồ Tát, tên Phạn là Gandha-hāsti, dịch âm là Càn Đà Ha Đề Bồ
Tát, Càn Đà Ha Thư Bồ Tát, Kiện Đà Ha Sa Để Bồ Tát. Lại xưng là Hương Tuệ Bồ
Tát, Xích Sắc Bồ Tát, Bất Khả Tức Bồ Tát.
Hương (Gandha) nghĩa là tràn đầy khắp không có ngại.
Tượng (Hāstini) biểu thị cho nghĩa hành đầy đủ sức mạnh lớn (Hành túc đại lực).
Hương Tượng tức biểu thị cho mãn các Hạnh Quả
_Kinh còn dùng “ba con thú vượt qua sông” để ví dụ cho trình độ chứng Đạo sâu
cạn của ba Thừa: Tiểu Thừa, Trung Thừa, Đại Thừa.
Kinh Ưu Bà Tắc Giới, phẩm ba loại Bồ Đề nói rằng: “Như nước sông Hằng có
ba con thú là Thỏ, ngựa, Hương Tượng đều vượt qua. Thỏ chẳng chạm được đáy chỉ
nổi trên nước mà vượt qua, Ngựa hoặc chạm đến đáy hoặc chẳng chạm đến đáy, Voi ắt
chạm đến tận đáy. Nước sông Hằng tức là con sông mười hai Nhân Duyên. Thanh
Văn (Śrāvaka) vượt qua thời giống như con thỏ, Duyên Giác (Pratyeka-buddha) vượt
qua thời giống như con ngựa, Như Lai (Tathāgata) vượt qua thời giống như Hương
Tượng. Chính vì thế cho nên Như Lai được tên gọi là Phật (Buddha)”
Hương Tượng vượt qua sông tức nói là Hương Tượng tiếp chạm đến chỗ rất sâu
của nước, thẳng đến đáy sông cho nên dùng ví dụ cho sự chứng Đạo rất sâu của Phật
Bồ Tát.
_Hương Tượng Tôn Giả tức là Bạch Hương Tượng Bồ Tát. Do thân phát ra
mùi thơm kỳ lạ mà được tên gọi là Hương Tượng
Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ, quyển 01 ghi nhận: “Bạch Hương Tượng có mùi thơm
tối thắng, Thân của Đại Sĩ (Bồ Tát) cũng có mùi thơm như vậy”
Bạch Tượng chỉ con voi có toàn thân trắng tinh. Do con voi có Đại Uy Lực mà
tính tình nhu thuận cho nên khi Bồ Tát nhập vào thai mẹ thời hoặc cỡi con voi trắng
sáu ngà, hoặc hiện hình con voi trắng để biểu thị cho Tính hiền thiện như hòa của Bồ
Tát nhưng có thế to lớn. Lại nữa, sáu ngà của con voi biểu thị cho sáu Độ (Ṣaḍ-
pāramitā: sáu Ba La Mật), bốn chân biểu thị cho bốn Như Ý
Đời trước, Hương Tượng Tôn Giả là con voi trắng. Do tại hai nước xảy ra chiến
tranh, khuyên nói nhà vua dừng binh ngưng chiến đấu, miễn trừ cho trăm họ thoát khỏi
sự thống khổ, cho nên được chuyển thế làm người thường luôn tham gia vào Pháp Hội 420
của Đức Phật Đà. Là vị Đại Bồ Tát mà Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận, quyển 5 đã đề cử,
khuyên người đời đều nên nghĩ nhớ đến. Thân của Bồ Tát phát ra mùi thơm kỳ lạ, hộ
trì chúng sinh, tuyên giảng Phật Pháp, tiếng như sấm nổ vào thẳng Tâm của chúng
sinh, âm thanh trừ các sự che chướng bên trong, như âm nhạc, tựa Cam Lộ thấm đẫm
chúng sinh, kéo dẫn mầm Pháp trong Tâm của chúng sinh”
_Theo Thuyết khác thì Hương Tượng là con voi màu xanh chuyên chở mùi thơm
Kinh Duy Ma của La Thập chú thích tên gọi của Hương Tượng Bồ Tát là:
“Thanh Hương Tượng có thân tỏa ra làn gió thơm. Thân của Bồ Tát cũng có làn gió
thơm như điều này vậy”
Vị Bồ Tát này ngự tại núi Hương Tụ nói Pháp
Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Bồ Tát Trú Xứ nói rằng: “Phương Bắc có trú xứ của
Bồ Tát, tên là Hương Tụ Sơn. Các Bồ Tát đời quá khứ thường trụ ở trong đó. Chỗ ấy
hiện có vị Bồ Tát tên là Hương Tượng (Gandha-hāsti) có ba ngàn Bồ Tát quyến thuộc,
thường vì họ nói Pháp”
_Căn cứ vào sự ghi chép của Chư Tôn Tiện Lãm thì Hương Tượng Bồ Tát có
thân màu xanh lục trắng, tay phải nâng con Hương Tượng (con voi lớn)
Trong Kim Cương Giới Thất Tập thì nói hai tay cầm cái bát. Còn Kinh Tịnh
Chư Ác Thú lại nói là: Thân màu xanh lục trắng, hào quang rực lửa mạnh, tay phải
nâng con Hương Tượng, tay trái để bên cạnh eo lưng.
_Hương Tượng Tôn Giả tức Hương Tượng Bồ Tát cùng với Đức Phật Đà thuộc
một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, có vị trí thứ nhất trong bốn Tôn ở phương Nam tại
Ngoại Viện của Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) 421
.) Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Hương Tượng Bồ Tát có Tôn Hình giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Đại Lực Kim Cương, Hộ Giới Kim Cương
Chữ chủng tử là: GAḤ (ᗻ)
Tam Muội Gia Hình là: Bát Khí (cái bình bát)
Tướng Ấn là: Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng), giương mở
ngón cái như dạng bụm nước.
Chân Ngôn là:
㫘 ᗰ᳠⽆ᚾ ᗻ 㛿
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI GAḤ SVĀHĀ
Hay 㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ ᗻ
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ GAḤ
.) Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Hương Tượng Bồ Tát có chữ chủng tử là:
GA (ᗰ)
Tam Muội Gia Hình là: Bát Khí (cái bình bát). Biểu thị cho sức mạnh to lớn của
Giới Hương
Tướng Ấn là: Bát Ấn
Chaân Ngoân laø:
㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ ᗰ
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ GA
422
.) Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Hương Tượng Bồ Tát có chữ chủng tử là: HŪṂ
(㜪)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm hoa sen, bên trên sen có một cái bát.
Tay phải để cạnh eo tác quyền.
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ 㜪
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ HŪṂ
.) Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Hương Tượng Bồ Tát có chữ chủng tử là:
HŪṂ (㜪)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có cái bát.
423
Tướng Ấn là: Bát Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ 㜪
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ HŪṂ
.) Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Hương Tượng
Bồ Tát có chữ chủng tử là: GĪ (ᗳ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, bên trên có cái bát
Tam Muội Gia Hình là: Cái bát.
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ ᗳ
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ GĪ
424
.) Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-Samaya) thì
Hương Tượng Bồ Tát có chữ chủng tử là: GAḤ (ᗻ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái bát. Biểu thị cho sức mạnh to lớn của Giới Hương
Chân Ngôn là:
㛸 ᗰ᳠ ⽆ᚾ ᵙ ᗻ
OṂ_ GANDHA-HĀSTINI SVĀHĀ_ GAḤ
425
ĐẠI TINH TIẾN BỒ TÁT
Đại Tinh Tiến Bồ Tát (tên Phạn là Śūra, hay Śūraṃgama). Lại xưng là Dũng
Mãnh Bồ Tát, là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp. Là vị Bồ Tát thứ hai trong bốn Tôn
ở phương Nam của cái Đàn vuông thuộc Ngoại Viện trong các Hội của Kim Cương
Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
_Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Đại Tinh Tiến Bồ Tát biểu thị cho sự dũng
mãnh tinh tiến
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Bất Thoái Kim Cương
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: cây kích Độc Cổ
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, dựng đứng ngón cái nâng lên ngang đầu
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
Hay 㛸 ᜑㆎ ᜪ ᵙ
OṂ _ ŚŪRĀYA VI SVĀHĀ
_Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Đại Tinh Tiến Bồ Tát có chữ chủng tử là
VI (ᜪ) biểu thị cho nghĩa ngôn thuyết tinh tiến kiên cố của Như Lai
Hay chữ chủng tử ŚŪ () biểu thị cho nghĩa Bản Tính vắng lặng, tức đáng mạo
vắng lặng của Niết Bàn
Tam Muội Gia Hình là: cây kích Độc Cổ. Biểu thị cho việc dũng mãnh tinh tiến
giống như sự hay quán triệt của cây kích Độc Cổ
426
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, dựng đứng ngón cái nâng lên ngang đầu
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
_Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Đại Tinh Tiến Bồ Tát có chữ chủng tử là VI (ᜪ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay trái nắm quyền để ở eo, tay phải cầm cây kích
Tam Cổ.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
_Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Đại Tinh Tiến Bồ Tát có chữ chủng tử là VI
(ᜪ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có cây kích Độc Cổ.
427
Tướng Ấn là: Tay phải nắm quyền, dựng đứng ngón cái nâng lên ngang đầu
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
_Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Đại Tinh Tiến
Bồ Tát có chữ chủng tử là VI (ᜪ)
Tôn Hình:Hai tay cầm hoa sen, bên trên có cây Kích Độc Cổ.
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Độc Cổ.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
428
_Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Đại
Tinh Tiến Bồ Tát có chữ chủng tử là VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: Cây kích Độc Cổ. Biểu thị cho việc y theo ngôn thuyết
của Như Lai mà tinh tiến bền chắc.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜑㆎ ᵙ ᜪ
OṂ _ ŚŪRĀYA SVĀHĀ _ VI
429
TRÍ TRÀNG BỒ TÁT
Trí Tràng Bồ Tát, tên Phạn là Jñāna-ketu, dịch âm là Chỉ Nương Tương Kế Đô.
Lại xưng là Thường Hằng Bồ Tát, Thường Lợi Ích Bồ Tát, Trí Tích Bồ Tát. Tôn này là
một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp Tôn có vị trí ở đầu ở phương Tây thuộc mặt Nam của
Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
Ánh sáng Trí Bản Tế của vị Bồ Tát này thường trụ chẳng diệt, Bản Tính trong
sạch mà hay đập phá Hý Luận chiếu khắp mười phương cho nên có danh xưng là Trí
Tràng
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Trí Tràng Bồ Tát có Tôn Hình giống như
1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là:Trí Mãn Kim Cương, Pháp Mãn Kim Cương
Chữ chủng tử là: TRĀṂ (㫹)Ï
Tam Muội Gia Hình là: Như Ý Tràng Phan (phan phướng Như Ý)
Tướng Ấn là Kim Cương Tràng Yết Ma Ấn: Hai tay nắm Kim Cương Quyền,
hướng tâm của quyền trái lên trên, co dựng cánh tay phải ở trên quyền trái như dạng
cây phướng.
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ 㫹
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRĀṂ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Trí Tràng Bồ Tát có chữ chủng tử là
TRAṂ () hay TRĀṂ (㫹)
Tam Muội Gia Hình là: Như Ý Tràng Phan. Biểu thị cho việc dựng cây phướng
Trí Tuệ, câu triệu mọi uy nghi tự tại
430
Tướng Ấn là: Kim Cương Tràng Yết Ma Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ 㫹
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRĀṂ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Trí Tràng Bồ Tát có chữ chủng tử là TRAṂ ()
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm phan phướng Như Ý, tay trái để
ngang eo nắm quyền.
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRAṂ
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Trí Tràng Bồ Tát có chữ chủng tử là TRAṂ
()
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có phan phướng Như Ý.
431
Tướng Ấn là: Kim Cương Tràng Yết Ma Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRAṂ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Trí Tràng Bồ
Tát có chữ chủng tử là TRO ()
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có phan phướng Như Ý.
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng Như Ý.
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRO 432
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Trí
Tràng Bồ Tát có chữ chủng tử là TRAṂ ()
Tam Muội Gia Hình là: Phan phướng Như Ý. Biểu thị cho việc dựng cây phướng
Trí Tuệ, câu triệu mọi uy nghi tự tại
Chân Ngôn là:
㛸 㫦ᚼᗞᚐᜮ ᵙ
OṂ_ JÑĀNA KETUVE SVĀHĀ _ TRAṂ
433
VÔ LƯỢNG QUANG BỒ TÁT
Vô Lượng Quang Bồ Tát, tên Phạn là Amita-prabha hay Amṛta-prabha, dịch âm
là A Nhĩ Đa Bát La Bà. Lại xưng là Cam Lộ Quang Bồ Tát (Amṛta-prabha) là một
trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, có vị trí ở đầu Nam trong 5 Tôn ở phương Tây tại Ngoại
Đàn của Kim Cương Giới Man Đa La
Vô Lượng Quang Bồ Tát là danh xưng riêng của Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-
sthāma-prāpta). Nhân vì thân lượng của Ngài, lớn nhỏ đều ngang bằng với Quán Thế
Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara), hào quang tròn bốn phương lớn nhỏ đều là 125 Do Tuần,
chiếu đến 250 Do Tuần. Toàn thân tỏa ánh sáng màu vàng tía chiếu khắp mười phương
quốc thổ, hay khiến cho chúng sinh có duyên tự mình nhìn thấy. Chỉ cần nhìn thấy ánh
sáng phóng ra từ một lỗ chân lông của Ngài thì kẻ ấy sẽ thấy ánh sáng tịnh diệu của vô
lượng chư Phật ở mười phương
Tôn này dùng ánh sáng Trí của vô lượng, giáng phục ba Hoặc (Kiến Tư Hoặc,
Trần Sa Hoặc, Vô Minh Hoặc), chiếu khắp mười phương cho nên xưng là Vô Lượng
Quang
_Trong Kinh Tịnh Chư Ác Thú thì vị Bồ Tát này lại có tên là Cam Lộ Quang
(Amṛta-prabha) hiển thân màu thịt, tay phải cầm bình Cam Lộ, tay trái nắm quyền để
bên cạnh eo lưng.
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Vô Lượng Quang Bồ Tát có Tôn Hình giống
như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Đại Minh Kim Cương, Ly Nhiễm Kim Cương
Chữ chủng tử là: A (゚) hay DHVAṂ (㮍) 434
Tam Muội Gia Hình là: Quang Minh Liên Hoa
Tướng Ấn là Bát Ấn: Chắp hai tay lại giữa rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng), mở chia
ngón cái như dạng bụm nước.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ 㮍
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ DHVAṂ
Hay 㛸 ゚ᚌ᧠᛬ᜄ ゚ ᵙ
OṂ _ AMITA-PRABHA A SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Vô Lượng Quang Bồ Tát có chữ chủng tử
là: A (゚)
Tam Muội Gia Hình là: Quang Minh Liên Hoa. Biểu thị cho ánh sáng rực lửa của
Pháp Trí, xa lìa tất cả sự ô uế.
Tướng Ấn là: Bát Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ A 435
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Vô Lượng Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: HŪṂ
(㜪)
Tôn Hình: Thân màu thịt đỏ, tay phải cầm hoa sen, trên sen có ánh sáng. Tay trái
úp lòng bàn tay để cạnh eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ 㜪
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ HŪṂ
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Vô Lượng Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là:
HŪṂ (㜪)
Tôn Hình: Hai tay cầm Hoa sen tỏa sáng (Quang Minh Liên Hoa).
Tướng Ấn là: Bát Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ 㜪
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ HŪṂ
436
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Vô Lượng
Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có ánh sáng.
Tam Muội Gia Hình là:Quang Minh Liên Hoa
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ ゚
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ A
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Vô
Lượng Quang Bồ Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tam Muội Gia Hình là: Quang Minh Liên Hoa. Biểu thị cho ánh sáng rực lửa của
Pháp Trí, xa lìa tất cả sự ô uế.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᚌ ᧠᛬ᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ AMITA PRABHA SVĀHĀ _ A
437
HIỀN HỘ BỒ TÁT
Hiền Hộ Bồ Tát, tên Phạn là Bhadra-pāla, dịch âm là Bạt Lại La Ba La Bồ Tát,
Phạt Đà Bà La Bồ Tát, Bạt Đà Ba La Bồ Tát, Bạt Pha Bồ Tát, Bạt Đà Hòa Bồ Tát, Phát
Nại Bá La Bồ Tát. Lại xưng là Hiền Hộ Trưởng Giả, Hiền Hộ Thắng Thượng Đồng
Chân, Thiện Thủ (khéo nắm giữ) Bồ Tát, Hiền Thủ Bồ Tát.
_ Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật và Kinh Vô Lượng Thọ ghi nhận: Trong
chúng Thanh Văn đều để Hiền Hộ Bồ Tát ở vị trí đầu tiên
_Kinh Bảo Tích, quyển 109 ghi chép: “Hiền Hộ Trưởng Giả là con của một vị
thương gia giàu có. Các niềm vui, quả báo mà vị ấy đã nhận được là nơi mà Đao Lợi
Đế Thích Thiên Vương chẳng theo kịp”
_Kinh Bát Cát Tường Thần Chú ghi chép: “Nếu có việc gấp rút, hô gọi danh tự
tám người thuộc nhóm Hiền Hộ, liền được giải thoát. Khi mệnh chung thời tám người
này bay đến nghênh đón”
_Kinh Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm, quyển 5 ghi chép: “Bạt Đà Bà La vào
nhà tắm thì tỏ ngộ được Nhân (Hetu) của nước, chứng đắc Vô Sở Hữu (không có chỗ
có được)”. Căn cứ vào Thuyết này, Thiền Tông an trí Hiền Hộ Tôn Giả ở nhà tắm
_Kinh Kim Cương Đỉnh Đại Giáo Vương, quyển 2 của Nhật Bản Viên Nhân
có nói: “Là Chủ hóa Đạo các quần sinh, hay thủ hộ, chẳng vượt qua Thời Xứ nói Pháp
tương ứng, lìa phiền não dơ bẩn khiến được nhìn thấy Bản Tế Thanh Tịnh Pháp Giới
Mạn Đà La Thân nên làm Chủ Tể, xưng là Công Hộ, cũng vì lợi cho kẻ bị dơ bẩn tức
là Hiền Hộ”
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala) thì Hiền Hộ Bồ
Tát là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, trụ tại vị trí thứ hai ở phương Tây của Ngoại
Đàn
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Hiền Hộ Bồ Tát do khéo hộ giúp Phật Tri
Kiến của chúng sinh cho nên có tên là Xảo Hộ Kim Cương
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Xảo Hộ Kim Cương, Ly Cấu Kim Cương
Chữ chủng tử là: PṚ (⹘)
Tam Muội Gia Hình là: Hiền Bình, biểu thị cho sự hộ giữ nước Trí trong sạch
của chúng sinh
438
Tướng Ấn là: Tay phải nắm Kim Cương Quyền, ngón cái như Hiền Bình, quyền
trái để ở eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ ⹘
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PṚ
Hay 㛸 ᛬ᦼᛉ ⹘ ᵙ
OṂ _ BHADRA-PĀLA PṚ SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Hiền Hộ Bồ Tát có chữ chủng tử là:
PRA (㛺)
Tam Muội Gia Hình là: Hiền Bình. Biểu thị cho việc dùng nước Trí rưới vảy
chúng sinh khiến cho thanh tịnh.
Tướng Ấn là:Tay phải nắm Kim Cương Quyền, ngón cái như Hiền Bình, quyền
trái để ở eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ 㛺
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PRA
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Hiền Hộ Bồ Tát có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải ngửa lòng bàn tay nằm ngang, bên trên
để cái Hiền Bình. Tay trái nắm quyền để ngang eo.
439
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ 㛺
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PRA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Hiền Hộ Bồ Tát có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có cái Hiền Bình.
Tướng Ấn là: Tay phải nắm Kim Cương Quyền, ngón cái như Hiền Bình, quyền
trái để ở eo.
440
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ 㛺
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PRA
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Hiền Hộ Bồ Tát
có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên hoa có Hiền Bình
Tam Muội Gia Hình là: Cái Hiền Bình.
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PRA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Hiền
Hộ Bồ Tát có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tam Muội Gia Hình là: Cái Hiền Bình. Biểu thị cho việc dùng nước Trí rưới vảy
chúng sinh khiến cho thanh tịnh.
Chân Ngôn là:
㛸 ᛬ᦼᛉᜄ ᵙ 㛺
OṂ _ BHADRA-PĀLAYA SVĀHĀ _ PRA
441
_ Trong Trừ Cái Chướng Viện của Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-
dhātu-maṇḍala) thì Hiền Hộ Bồ Tát được xưng là Trừ Nghi Quái Bồ Tát
(Kauṭūhalaḥ), hoặc Trừ Nghi Cái Bồ Tát. Do Tôn này dùng Trí Tuệ của Như Lai Kim
Cương (Tathāgata-vajra) khéo trừ khử sự Nghi Hối của chúng sinh cho nên được xưng
là Trừ Nghi Hối Bồ Tát.
Tôn này biểu thị cho việc đoạn trừ sự nghi hoặc của tất cả chúng sinh.
Tôn Hình:Thân màu thịt, hiện hình nữ, tay trái nâng cái bình báu, tay phải cầm
chày Độc Cổ, ngồi trên hoa sen đỏ.
.)Hình nữ biểu thị cho Định Đức.
Màu hồng biểu thị cho Từ Bi.
Hiền Bình biểu thị cho sự hộ trì nước Trí trong sạch của chúng sinh.
Cho nên ở Tôn Hình này tự hiển rõ ràng ba Đức của Đại Định, Bi, Trí.
.)Chày Độc Cổ là Trí Nhất Thực của Như Lai, biểu thị cho một Pháp Giới của
chữ A (ㅥ)
.)Cái bình báu biểu thị cho việc khéo hộ giúp 5 Trí trong Tâm Địa của chúng
sinh, cho nên được xưng là Hiền Hộ
Mật Hiệu là: Xảo Tế Kim Cương, biểu thị cho việc dùng ánh sáng Tuệ Nhất
Thực của Như Lai cứu tế chúng sinh ở nơi hắc ám
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ), hay ASANAṂ (ㅥᝌᛆ) 442
Tam Muội Gia Hình là: Chày Kim Cương Độc Cổ, hoặc Hiền Bình Bán Độc Cổ
Chử.
Tướng Ấn là: Cứu Hộ Tuệ Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᛸᛸ Ộᜐ 㛺ᚎ㮬㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA BUDDHĀNĀṂ_ HE MAHĀ MAHĀ _ SMARA
PRATIJÑAṂ_ SVĀHĀ
443
QUANG VÕNG BỒ TÁT
Quang Võng Bồ Tát tên Phạn là Jālīni-prabha, dịch âm là Chế Lợi Nê Ba La Bà
(hoặc Prabha-jāla: dịch âm là Ba La Bà Xà La). Dịch nghĩa là Minh Võng, Quang
Võng, Võng Quang. Hoặc xưng là Quang Võng Đồng Tử (Jālīni-prabha-kumāra),
Võng Minh Đồng Tử (Prabha-jāla-kumāra). Là một trong 8 Đại Đồng Tử của Văn
Thù, một trong 25 Tôn ở Văn Thù Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La, đồng Thể
với Võng Minh Bồ Tát trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp ở Kim Cương Giới Man Đa La
Võng Minh Bồ Tát hiện bày tướng của Ngoại Dụng, Quang Võng Đồng Tử tức
biểu thị cho Đức của Nội Chứng
Kinh Đại Nhật, quyển 1 nói rằng: “Quang Võng Đồng Tử, thân cầm giữ cái lưới
mọi báu, mọi loại Anh Lạc màu nhiệm, ngồi trên hoa sen báu, quán nhìn con trưởng
của Phật”
Đồng Sớ 5 ghi rằng: “Bên phía Bắc của Văn Thù, nên vẽ Quang Võng Đồng Tử,
thân màu vàng ròng, cầm giữ cái lưới báu, dùng mọi loại Anh Lạc trang nghiêm, ngồi
trong hoa sen báu. Văn Thù trì giữ Diệu Tuệ của Vô Tướng, Quang Võng trì giữ vạn
Đức trang nghiêm. Như Trí Độ Luận đã nói: Dùng muối điều hòa các thức ăn, tăng
thêm gấp đôi mùi vị của nó nhưng chẳng thể ăn thiếu. Cho nên Hành Giả đánh mất
phương tiện của Bát Nhã, chỉ tu riêng Không Tuệ ắt bị rơi vào trong sự đoạn diệt, nếu
thuần tu Phước Đức ắt bị rơi vào trong chỗ có sở đắc. Bởi thế quán nhìn con trưởng
của Phật là Ý này vậy”
_Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh, quyển 2, phẩm Nan Vấn ghi chép rằng:
“Bồ Tát này nhận Thánh Chỉ của Đức Phật, hiện Phước Báo trang nghiêm, giữa các
ngón tay phải phóng ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng cõi nước Phật ở mười phương.
Trong các cõi nước ấy: Địa Ngục, Quỷ đói, súc sinh cùng với kẻ đui mù câm điếc đều
gặp ánh sáng ấy mà được khoái lạc, cho nên hiệu là Võng Minh” 444
Lại đồng quyển, phẩm Vấn Đàm ghi chép rằng: “Vị Bồ Tát này trải qua 760 vạn
a tăng kỳ kiếp sẽ thành Phật, hiệu là Phổ Quang Tự Tại Vương Như Lai, Thế Giới
ấy tên là Tập Diệu Công Đức”
_Tại Văn Thù Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-maṇḍala)
thì Quang Võng Bồ Tát tượng trưng cho nghĩa “Ánh sáng Trí Tuệ của Văn Thù Bồ Tát
như cái lưới vòng khắp Pháp Giới, dùng mọi loại Anh Lạc trang nghiêm cái lưới của
Giáo (Giáo Võng) tung rộng khắp mười phương làm lợi ích cho chúng sinh”.
Tôn này biểu thị cho Đức của Nội Chứng
Tôn Hình: Hình Đồng Tử màu vàng, tay trái cầm hoa sen xanh, tay phải cầm sợi
dây, ngồi trên toà hoa sen đỏ.
Mật Hiệu là: Sắc Tướng Kim Cương, tức nghĩa tướng trang nghiêm của Diệu
Tuệ
Chữ chủng tử là: JAṂ (ᘶ), tức nghĩa Sinh chẳng thể được.
Quang Võng Bồ Tát dùng Sinh chẳng thể được cho nên có tên là Thường Tịch
Quang, ánh sáng này chẳng phải là Sắc (Rūpa), chẳng phải là Tâm (Citta) nhưng lại
đầy đủ mọi loại hình sắc chẳng thể nghĩ bàn, mỗi mỗi đều tràn ngập Pháp Giới mà
đồng với Đại Không
Tam Muội Gia Hình là: Móc câu, hoặc sợi dây.
445
Tướng Ấn là: Quang Võng Câu Ấn.
Chân Ngôn là:
ᚼᜃ ᝌᛸⴼ ᜬ㪤㖁 ᗜᜐ㖁 ᜅᗰᚌ ᵘ᛭ᜨ ⽒ᚌ㖁 㛿㐷
NAMAḤ SAMANTA-BUDDHĀNĀṂ_ HE HE KUMĀRA MĀYĀGATA
SVABHĀVA STHITA SVĀHĀ
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Quang Võng Bồ Tát lại xưng là Minh Võng,
Võng Minh, Võng Quang, Võng Minh Đồng Tử Bồ Tát.
Tôn này thọ nhận Thánh Chỉ của Đức Phật hiện ánh sáng Phước Báo. Do các
khoảng giữa ngón tay phải phóng ra ánh sáng lớn chiếu khắp vô lượng cõi Phật ở mười
phương. Trong các cõi đó: Địa Ngục, Quỷ ác, súc sinh, kẻ đui điếc câm ngọng ... được
ánh sáng này đều được khoái lạc, cho nên hiệu là Võng Minh.
Tôn này biểu thị cho tướng của Ngoại Dụng
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Phương Tiện Kim Cương, Phổ Nguyện Kim Cương
Chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: La võng (cái lưới)
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
hay 㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ
446
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Quang Võng Bồ Tát có chữ chủng tử là:
JAḤ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: La võng (cái lưới). Biểu thị cho việc giăng cái lưới của
tám vạn Giáo Pháp để cứu độ chúng sinh
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Quang Võng Bồ Tát có chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm lưới võng, tay trái nắm quyền để
ngang eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
447
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Quang Võng Bồ Tát có chữ chủng tử là: JAḤ
(ᘷ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có lưới võng.
Tướng Ấn là: Bạch Tản Cái Phật Đỉnh Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Quang Võng Bồ
Tát có chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có lưới võng.
448
Tam Muội Gia Hình là: Cái lưới võng.
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Quang
Võng Bồ Tát có chữ chủng tử là: JAḤ (ᘷ)
Tam Muội Gia Hình là: Cái lưới võng. Biểu thị cho việc giăng cái lưới của tám
vạn Giáo Pháp để cứu độ chúng sinh.
Chân Ngôn là:
㛸 ᘭ㳉ᚿ ᧠᛭ᜄ ᵙ ᘷ
OṂ _ JĀLINĪ PRABHĀYA SVĀHĀ _ JAḤ
449
VÔ TẬN Ý BỒ TÁT
Vô Tận Ý Bồ Tát (tên Phạn là Akṣaya-mati), lại dịch là Vô Tận Tuệ Bồ Tát, Vô
Lượng Ý Bồ Tát.
Căn cứ vào danh xưng Vô Tận Ý thì Kinh Đại Phương Đẳng Đại Tập nói là:
“Quả báo nhân duyên của tất cả các Pháp là Ý không có tận (vô tận ý). Tất cả các Pháp
chẳng thể tận, ý liền phát Tâm Bồ Đề chẳng thể tận cho đến phương tiện cũng không
có tận”
450
Quán Âm Nghĩa Sớ, quyển Thượng nói là: “Phàm tám mươi Vô Tận. Tám
mươi Vô Tận đều hay chứa nhận tất cả Phật Pháp, do đó được tên gọi là Vô Tận Ý”
Ngoài ra trong quyển mười của Pháp Hoa Huyền Tán, Phẩm Quán Thế Âm
Phổ Môn có nói: “Vô Tận Ý Bồ Tát hành sáu Độ , bốn Nhiếp….mọi loại Diệu Hạnh
và thề độ chúng sinh…Khi chúng sinh giới tận thì ý của Bồ Tát mới tận, chúng sinh
chưa tận thì ý của Bồ Tát không có tận. Do đó gọi là Vô Tận Ý”.
Trong quyển 17 của Kinh trên (Pháp Hoa Huyền Tán), Phẩm Vô Tận Ý Bồ
Tát thuật lại chuyện vị Bồ Tát này vì muốn cho Xá Lợi Phất (Śāriputra) nhìn thấy
Đức Phổ Hiền Như Lai của Thế Giới Bất Tuần mà nhập vào Tam Muội Phật Thổ,
chắp tay lể Đức Phật ấy, rải hương hoa vi diệu cúng dường. Ngay khi hoa rải đến Thế
Giới của Đức Phổ Hiền Như Lai thời các vị Bồ Tát của nước đó nhìn thấy đều vui
mừng, muốn nhìn thấy Đức Phật Thích Ca với Đại Chúng của Thế Giới Sa Bà (Saha-
loka-dhàtu). Ngài Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra) liền phóng ánh sáng Đại Giác
chiếu diệu Thế Giới Sa Bà khiến cho các Bồ Tát của nước ấy đều nhìn thấy cõi này.
Kinh Dược Sư Bản Nguyện xếp vị Bồ Tát vào một trong tám vị Đại Bồ Tát.
Trong Mật Giáo, vị Bồ Tát này là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp, được an bày
ở đầu phía Tây trong bốn Tôn ở phương Bắc tại Ngoại Đàn thuộc Kim Cương Giới
(Vajra-dhātu-maṇḍala). Tôn này được xem là đồng Thể với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
.) Tại Thành Thân Hội (karma)
Tôn này do quán Nhân Duyên Quả Báo của tất cả sự tướng đều là không có cùng
tận mà phát tâm: bên trên cầu Công Đức của chư Phật không có cùng tận, bên dưới độ
hóa chúng sinh không có cùng tận, cho nên có tên là Vô Tận Ý (Akṣaya-mati)
Lại nữa, do Tôn này phát Thệ Nguyện ở Thế Giới Sa Bà, hóa độ chúng sinh
không tận không dư nên có tên này.
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp 451
Mật Hiệu là: Bảo Ý Kim Cương, Vô Tận Kim Cương
Chữ chủng tử là: JÑA (㫦)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA
Hạy: 㫘 ㅥᝤㆎ㈦ᚎ 㫦 㛿
OṂ_ AKṢAYA-MATI _ JÑA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Vô Tận Ý Bồ Tát có chữ chủng tử là:
JÑA (㫦)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn. Biểu thị cho Trí Tuệ của Như Lai
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA 452
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Vô Tận Ý Bồ Tát có chữ chủng tử là: JÑA (㫦)
Tôn Hình: Thân màu thị trắng, tay phải cầm hoa sen, trên sen có rương Kinh
Phạn. Tay trái nắm quyền để ngang eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Vô Tận Ý Bồ Tát có chữ chủng tử là: JÑA (㫦)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có rương Kinh Phạn.
Tướng Ấn là: Phạn Khiếp Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA
453
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Vô Tận Ý Bồ
Tát có chữ chủng tử là: JÑA (㫦)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có rương Kinh Phạn.
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn.
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㫦
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ JÑA
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Vô
Tận Ý Bồ Tát có chữ chủng tử là: PRA (㛺)
Tam Muội Gia Hình là: Rương Kinh Phạn. Biểu thị cho Trí Tuệ của Như Lai
Chân Ngôn là:
㛸 ゚ᝤᜄ ᛸ㏯ᜊ ᵙ 㛺
OṂ _ AKṢAYA-MATĀYE SVĀHĀ _ PRA
454
BIỆN TÍCH BỒ TÁT
Biện Tích Bồ Tát tên Phạn là: Pratibhāna-kuṭa, dịch âm là Bát La Để Bà Gia
Câu Tra. Lại xưng là Biện Tích, Trí Tích, Thắng.. là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp
Tôn này chủ về chứa góp Trí Độ Hóa của Như Lai. Dùng Thể của Trí ấy cùng
đồng với nhóm bốn Trí, hợp nhiếp vạn Trí cho nên xưng là Trí Tích.
Có Thuyết cho rằng vị Bồ Tát này cùng với Văn Thù Bồ Tát hoặc Vô Tận Ý Bồ
Tát là đồng Tôn
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Biện Tích Bồ Tát có Tôn Hình giống như
1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Xảo Biện Kim Cương
Chữ chủng tử là: VI (ᜪ) hay RAṂ ()
Tam Muội Gia Hình là: đám mây
Tướng Ấn là: Bát Ấn, tưởng ở ngón giữa có đám mây ngũ sắc
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ RAṂ
455
Hay 㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᜪ ᵙ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA VI SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Biện Tích Bồ Tát có chữ chủng tử là: VA
(ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Đám mây. Biểu thị cho mây Trí Tuệ thấm nhuận khắp cả
Tướng Ấn là: Bát Ấn, tưởng ở ngón giữa có đám mây ngũ sắc
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ ᜨ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ VA
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Biện Tích Bồ Tát có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Thân màu xanh lợt, tay phải cầm hoa sen, trên sen có đám mây. Tay
trái nắm quyền để ngang eo.
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ ᜨ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ VA
456
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Biện Tích Bồ Tát có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có đám mây.
Tướng Ấn là: Bát Ấn, tưởng ở ngón giữa có đám mây ngũ sắc
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ ᜨ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ VA
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Biện Tích Bồ
Tát có chữ chủng tử là: A (ㅥ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có đám mây.
457
Tam Muội Gia Hình là: Đám mây ngũ sắc.
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ ㅥ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ A
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Biện
Tích Bồ Tát có chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: Đám mây ngũ sắc. Biểu thị cho mây Trí Tuệ thấm nhuận
khắp cả
Chân Ngôn là:
㛸 ᧠ᚎ᛭㗍ᗜᙑᜄ ᵙ ᜨ
OṂ _ PRATIBHĀNA-KUṬĀYA SVĀHĀ _ VA
458
KIM CƯƠNG TẠNG BỒ TÁT
Kim Cương Tạng Bồ Tát, tên Phạn là Vajra-garbha, dịch âm là Phộc Nhật La
Nghiệt Bà, dịch ý là Kim Cương Thai. Là một trong 16 Tôn đời Hiền Kiếp
_Tên gọi Kim Cương Tạng thường xuất hiện ở trong các Kinh Điển Đại Thừa
.)Kinh Hoa Nghiêm, quyển 6, phẩm Thập Địa đặc biệt nêu Tôn này là bậc
Thượng Thủ (Pramukha)
.)Thập Địa Kinh Luận, quyển 1 ghi rằng: “Thế nào gọi là Kim Cương Tạng?
Tạng tức tên là bền chắc giống như che chắn cất dấu, lại như mang thai tại Tạng
(garbha), thế nên bền chắc như Kim Cương (Vajra), gọi là Kim Cương Tạng (Vajra-
garbha). Các căn lành đó trong tất cả căn lành khác thì sức ấy là tối thượng, giống như
Kim Cương cũng hay sinh thành Đạo Hạnh của Người, Trời. Nơi mà các căn lành khác
chẳng thể hoại, cho nên gọi là Kim Cương Tạng”
.)Trong các Kinh Đại Nhật, quyển 1, phẩm Cụ Duyên_ Kinh Chư Phật Cảnh
Giới Nhiếp Chân Thật, quyển thượng với Vô Lượng Thọ Cúng Dường Nghi Quỹ
thì vị Bồ Tát này đều có tên gọi là Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva)
.) Trong Kinh Văn Thù Sư Lợi Bảo Tàng Đà La Ni thì chỉ Tôn này là Văn
Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī)
.)Lý Thú Thích, quyển Hạ ghi nhận Tôn này là Hư Không Tạng (Ākāśa-
garbha)
.) Kinh Lược Xuất Niệm Tụng, quyển 3 thì xưng Tôn này là Kim Cương Bảo
(Vajra-ratna), là tên gọi khác của Kim Cương Lợi (Vajra-tīkṣṇa)
.)Ở Tam Quyển Bản Giáo Vương Kinh, quyển 2 thì xưng Tôn này là Kim
Cương Bảo
.)Lại căn cứ vào Đà La Ni Tập Kinh, quyển 7 thì Kim Cương Tạng là Hóa
Thân (Nirmāṇ-kāya) của Kim Cương Tát Đỏa
_Tại Hư Không Tạng Viện trong Thai Tạng Giới Man Đa La (Garbha-dhātu-
maṇḍala) thì Kim Cương Tạng Bồ Tát có tên Phạn là Aṣṭottara-śata-bhūja-vajra- 459
dharaḥ, dịch âm là A Sắt Tra Đa La Xả Đa Bộ Nhạ Phộc Nhật La Đà Lạc. Dịch ý là
Nhất Bách linh Bát Tý Kim Cương Trì, tức là Kim Cương Tạng Vương Bồ Tát. Lược
xưng là Kim Cương Tạng.
Tôn này đại biểu cho Trí Đức của Hư Không Tạng Bồ Tát
Tôn Hình: Thân màu đen xanh có 22 mặt, trong đó có một mặt là Phật. Có 108
cánh tay biểu thị cho sự đối trị với 108 loại phiền não. Tay cầm 108 loại vũ khí phá trừ
phiền não như chày Độc Cổ, bánh xe, sợi dây, cây kiếm, móc câu, rương Kinh Phạn,
cây gậy, cây gậy hình hoa…. Ngồi trong hoa sen báu.
Mật Hiệu là: Bí Mật Kim Cương
Chữ chủng tử là: HUṂ (㰵), hay HŪṂ (㜪)
Tam Muội Gia Hình là:Hoa sen trên miệng bình. Hoặc chày Ngũ Cổ.
460
Tướng Ấn là: Kim Cương La Xà Nhất Thiết Kiến Pháp Ấn.
Chân Ngôn là:
㫘㖁ᜨ᥌⾥ᜨㆎ㖁㛿㐷
Oṃ_ Vajra-udbhāvaya svāhā
_Trong Kim Cương Giới Man Đa La (Vajra-dhātu-maṇḍala)
.)Tại Thành Thân Hội (Karma) thì Kim Cương Tạng Bồ Tát biểu thị cho vạn
Trí nhiếp ở trong 4 Trí.
Tôn Hình: giống như 1000 vị Phật đời Hiền Kiếp
Mật Hiệu là: Trì Giáo Kim Cương, Lập Nghiệm Kim Cương
Chữ chủng tử là: VA (ᜨ)
Tam Muội Gia Hình là: bốn cái Chày Độc Cổ xếp thành hình vuông, biểu thị cho
vạn Trí nhiếp vào trong 4 Trí này
Tướng Ấn là: Ngoại Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜨ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VA
Hay 㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᜨ ᵙ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA VA SVĀHĀ
.)Tại Tam Muội Gia Hội (Samaya) thì Kim Cương Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử
là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: bốn cái Chày Độc Cổ xếp thành hình vuông. Biểu thị cho
vạn Trí nhiếp vào trong 4 Trí 461
Tướng Ấn là: Ngoại Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜪ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VI
.)Tại Vi Tế Hội (Sūkṣma) thì Kim Cương Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: VI
(ᜪ)
Tôn Hình: Thân màu thịt trắng, tay phải cầm hoa sen, trên sen có viên ngọc báu.
tay trái úp lòng bàn tay xuống.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜪ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VI 462
.)Tại Cúng Dường Hội (Pūja) thì Kim Cương Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là:
VI (ᜪ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có 4 cái chày Độc Cổ xếp thành hình
vuông.
Tướng Ấn là: Ngoại Ngũ Cổ Ấn
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜪ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VI
.)Tại Giáng Tam Thế Yết Ma Hội (Trailokya-vijaya-karma) thì Kim Cương
Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tôn Hình: Hai tay cầm hoa sen, trên sen có 4 cái chày Độc Cổ xếp thành hình
vuông.
463
Tam Muội Gia Hình là: Bốn cái chày Độc Cổ xếp thành hình vuông.
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜪ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VI
.)Tại Giáng Tam Thế Tam Muội Gia Hội (Trailokya-vijaya-samaya) thì Kim
Cương Tạng Bồ Tát có chữ chủng tử là: VI (ᜪ)
Tam Muội Gia Hình là: bốn cái Chày Độc Cổ xếp thành hình vuông. Biểu thị cho
vạn Trí nhiếp vào trong 4 Trí
Chân Ngôn là:
㛸 ᜨ᥄ ᗰ↑ᜄ ᵙ ᜪ
OṂ _ VAJRA-GARBHĀYA SVĀHĀ _ VI
464
TÁM VỊ ĐẠI BỒ TÁT TRONG PHẬT GIÁO ĐÔNG ĐỘ
Theo Phật Giáo Đông Độ thì 8 vị Đại Bồ Tát được xác định tùy theo Kinh Bản
_Kinh Bảy Phật tám Bồ Tát ghi nhận là: Văn Thù, Hư Không Tạng, Quán Thế
Âm, Cứu Thoát, Bạt Đà Hòa, Đại Thế Chí, Đắc Đại Thế, Kiên Dũng
_Kinh Xá Lợi Phất Đà La Ni ghi nhận là: Quang Nguyệt, Tuệ Quang Minh,
Nhật Quang Minh, Giáo Hóa, Kinh Nhất Thiết Ý Mãn, Đại Tự Tại, Tú Vương, Hành Ý
_Kinh Bát Nhã Lý Thú ghi nhận là: Kim Cương Thủ, Quán Thế Âm, Hư Không
Tạng, Kim Cương Quyền, Văn Thù, Tài Phát Ý Chuyển Pháp Luân, Hư Không Khố,
Tồi Nhất Thiết Ma
_Kinh Kim Cương Đỉnh Du Già Lý Thú Bát Nhã ghi nhận là: Kim Cương Thủ,
Quán Tự Tại, Hư Không Khố, Kim Cương Quyền, Văn Thù Sư Lợi, Phát Tâm Tức
Chuyển Pháp Luân, Hư Không Tạng, Giáng Phục Nhất Thiết Ma Oán
_Kinh Dược Sư ghi nhận 8 vị Đại Bồ Tát là: Văn Thù, Quán Thế Âm, Đắc Đại
Thế (Đại Thế Chí), Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dược Thượng, Di Lặc
_Kinh Bát Đại Bồ Tát Mạn Trà La ghi nhận là: Diệu Cát Tường (Văn Thù), Phổ
Hiền, Quán Tự Tại (Quán Thế Âm), Từ Thị (Di Lặc), Hư Không Tạng, Kim Cương
Thủ, Trừ Cái Chướng, Địa Tạng Vương…
Thông thường Phật Giáo tạo tượng phần lớn đều y theo Kinh này.
_ Tạng Truyền Phật Giáo ghi nhận là: Quán Thế Âm, Di Lặc, Hư Không Tạng,
Kim Cương Thủ, Phổ Hiền, Văn Thù, Trừ Cái Chướng, Địa Tạng.
Theo Tạng Truyền thì Kim Cương Thủ Bồ Tát chính là thân phẫn nộ của Đại Thế
Chí Bồ Tát. Do vậy hai Tôn này đều đồng là một Bản Tôn
_Đặc biệt trong Mật Giáo Đông Độ thì tám vị Đại Bồ Tát: Hư Không Tạng, Phổ
Hiền, Kim Cương Thủ, Văn Thù Sư Lợi, Trừ Cái Chướng, Địa Tạng Vương, Quán Thế
Âm, Di Lặc được phối trí với 8 chữ trong Chân Ngôn A Di Đà Phật Tam Muội Gia
Thật Tướng nhằm biểu thị cho các hành hạnh của đấng Giải Thoát
I_ Tám vị Đại Bồ Tát trong Kinh Dược Sư:
465
1_ Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát (Maṃjuśrī-bodhisatva) dịch âm là: Văn Thù Thi
Lợi, Mạn Thù Thất Lợi; dịch ý là Diệu Cát Tường. Lại có tên là Văn Thù Sư Lợi
Đồng Chân, Nhu Đồng Văn Thù Bồ Tát.
Tôn này đại biểu cho Trí Đức, Tuệ Đức, Chứng Đức của tất cả chư Phật
Chữ chủng tử là: MAṂ (ᜂ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᜂᘰᩃ㗚
Oṃ namo maṃjuśrīya 466
2_ Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva): là vị Bồ Tát có hạnh
nguyện Đại Bi (Mahā-kāruṇa) luôn quán sát lắng nghe âm thanh cầu cứu của chúng
sinh liền hóa hiện vô số Hóa Thân đến cứu khổ.
Chữ chủng tử là SA (ᝌ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ㅥテᜤᗚᚒ㜅ᜑ㗚
Oṃ namo avalokiteśvarāya 467
3_ Đắc Đại Thế Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta-bodhisatva): còn gọi là Đại Thế
Chí Bồ Tát. Tôn này dùng ánh sáng Trí Tuệ chiếu khắp tất cả khiến cho tất cả chúng
sinh được sức vô thượng. Lại nữa khi Ngài bước đi thì tất cả Đại Địa ở mười phương
Thế Giới đều chấn động, cho nên có tên gọi là Đại Thế Chí
Chữ chủng tử là SAḤ ()
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᛸ⽐᧡〝㗚
Oṃ namo mahā-sthāma-prāptāya 468
4_ Vô Tận Ý Bồ Tát (Akaṣaya-matir-bodhisatva)
Vị Bồ Tát này do quán Nhân Duyên, Quả Báo của tất cả hiện tượng sự vật đều là
vô tận, nên phát Tâm “Bên trên cầu Công Đức của chư Phật không có cùng tận,
bên dưới cứu độ chúng sinh không có cùng tận”. Do vậy có tên gọi là Vô Tận Ý
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ㅥᝤ㗚ᛸᚒ㗚
Oṃ namo akṣaya-mateya 469
5_ Bảo Đàn Hoa Bồ Tát (Ratna-maṇḍala-puṣpa-bodhisatva): còn có tên Phạn là
Ratna-dāna-puṣpa- bodhisatva tức Bảo Thí Hoa Bồ Tát. Tôn này dùng hoa vạn hạnh
gom tập Phước Báu ban bố cho khắp tất cả chúng sinh khiến cho họ tự mình tìm ra
phương cách dùng Phước Báu trang nghiêm
Chữ chủng tử là RA (㇂)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ㇂ᾰᛸⴤ㗟㪦㮔㗚
Oṃ namo ratna-maṇḍala-puṣpaya 470
6_ Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣaijya-rāja-bodhisatva): Tôn này có Tâm Nguyện
hay đem thuốc men tốt ban bố cho chúng sinh để chữa trị hai loại bệnh khổ về thân và
Tâm của chúng sinh
Chữ chủng tử là BHAI (ᛳ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᛳᝇោᜑᘭ㗚
Oṃ namo bhaiṣaijya-rājāya 471
7_ Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata-bodhisatva): Tôn này cũng có
Tâm Nguyện dùng thuốc tốt để chữa trị hai loại bệnh khổ về thân và Tâm cho tất cả
chúng sinh
Chữ chủng tử là BHAI (ᛳ)
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᛳᝇោᝌ㪧⺨ᚍ㗚
Oṃ namo bhaiṣaijya-samudgatāya 472
8 _ Di Lặc Bồ Tát (Maitreya-bodhisatva) dịch âm Hán Việt là Di Đế Lệ, Mai Đê
Lê, Mê Đế Lệ, Mai Đát Lệ, Mỗi Đát Lý, Mai Đát Lệ Dược, Muội Đát Lý Duệ…là họ
của Bồ Tát, nghĩa là Từ Thị, còn tên của Ngài là A Dật Đa (Ajita) nghĩa là Vô Năng
Thắng.
Bồ Tát Di Lặc có hiệu là Từ Thị, tên hiệu đó xác lập căn bản tối hậu là Bản
Nguyện Sở Hạnh của Ngài. Ngay trên Duyên Khởi, đời đời kiếp kiếp Ngài đều tu tập
Tam Muội Từ Tâm (Maitra-citta-samādhi), thực hiện Từ Hạnh (Maitra-caryā) để cứu
độ chúng sinh. Đức đặc biệt của Di Lặc là sau khi bứt trừ sự thống khổ của các chúng
sinh, liền tiến thêm một bước là ban cho chúng sinh niềm vui của Pháp (Pháp Lạc)
Chữ chủng tử là MAI ()
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᦪᜅ㗚
Oṃ namo maitreyāya
473
II_ Tám vị Đại Bồ Tát trong Kinh Bát Đại Bồ Tát Mạn Trà La:
Kinh Bát Đại Bồ Tát Mạn Trà La ghi rằng: “Này Thiện Nam Tử ! Có Bát Đại
Mạn Trà La là Pháp Yếu thâm sâu của tám vị Đại Bồ Tát. Nếu có hữu tình y theo
Pháp xây dựng Bát Đại Mạn Trà La này một lần thì hết thảy tội: mười Ác, năm
Nghịch, phỉ báng Kinh Phương Đẳng…thảy đều tiêu diệt, tất cả Nghĩa Lợi, Thắng
Nguyện đã mong cầu đều được thành tựu .
Liền ở trong Mạn Trà La (Maṇḍala) tưởng Đức Như Lai với thân sắc màu vàng
ròng có đủ 32 Tướng, ngồi trên đài hoa sen.
Như Lai Mật Ngôn là:
Oṃ_ mahā-vīra svāhā
Liền tưởng Thánh Quán Tự Tại (Ārya-Avalokiteśvara) trong Mạn Trà La với
thân màu đỏ, tay trái cầm hoa sen, tay phải tác Thí Nguyện, trong mão báu trên đầu có
Đức Vô Lượng Thọ Như Lai (Amitāyus)
Quán Tự Tại Bồ Tát Mật Ngôn là:
Hūṃ Hrīḥ Haḥ padma-śrīye svāhā 474
Ở phía sau Quán Tự Tại Bồ Tát, tưởng Từ Thị Bồ Tát (Maitreya) với thân màu
vàng, tay trái cầm bình Quân Trì, tay phải tác Thí Vô Úy, trong mão có cái tháp Tốt
Đổ Ba (Stūpa), ngồi Bán Già
Di Lặc Bồ Tát Mật Ngôn là:
Mehaḥ raṇa svāhā
Ở sau lưng Đức Phật, tưởng Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha), tay trái
cầm báu để ở trên trái tim, tay phải ban bố, tuôn ra vô lượng báu.
Hư Không Tạng Bồ Tát Mật Ngôn là:
Āḥ garbhāya svāhā
475
Bên trái Hư Không Tạng Bồ Tát, tưởng Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra) đội
mão Ngũ Phật, thân màu vàng, tay phải cầm cây kiếm, tay trái Thí Nguyện, ngồi Bán
Già.
Phổ Hiền Bồ Tát Mật Ngôn là:
Hrīḥ jaya svāhā
Ở bên trái Đức Như Lai, tưởng Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāṇi) tay phải
cầm chày Kim Cương, tay trái an ở háng, đội mão Ngũ Phật, thân màu xanh, ngồi Bán
Già.
Kim Cương Thủ Bồ Tát Mật Ngôn là:
Oṃ_ Vaṃ rava svāhā
476
Ở phía trước Kim Cương Thủ Bồ Tát, tưởng Mạn Thù Thất Lợi Đồng Chân Bồ
Tát (Maṃjuśrī-kumāra-bhūta) có năm búi tóc, hình Đồng Tử, tay trái cầm hoa sen
xanh, trong hoa có chày Ngũ Cổ Kim Cương, tay phải tác Thí Nguyện, thân màu vàng,
ngồi Bán Già.
Văn Thù Bồ Tát Mật Ngôn là:
Śrī aragha svāhā
Ở bên phải Mạn Thù Thất Lợi Bồ Tát, tưởng Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Nirvaṇa-
viṣkaṃbhin) thân màu vàng, tay trái cầm cây phướng Như Ý, tay phải Thí Nguyện,
ngồi Bán Già.
Trừ Cái Chướng Bồ Tát Mật Ngôn là:
Nirvaraṇa svāhā 477
Ở phía trước Như Lai, tưởng Địa Tạng Bồ Tát (Kṣiti-garbha) với mão trên đầu,
Anh Lạc, diện mạo vui vẻ tịch tĩnh, thương nhớ tất cả hữu tình, tay trái để dưới rốn,
nâng cái bát, úp lòng bàn tay phải hướng xuống dưới với ngón cái vịn ngón trỏ, tưởng
tác an ủi tất cả hữu tình .
Địa Tạng Bồ Tát Mật Ngôn là:
Kṣaḥ hāra jaḥ svāhā
*) Bát Đại Bồ Tát Tán:
_Môn Cung Thành Viên Tịch
Hay diệt phá cửa nẻo
Thọ dụng Pháp chư Phật
Con đỉnh lễ Cứu Thế
_Từ tay tuôn nước trong
Trừ Quỷ đói khát nước
Cây Như Ý ba cõi
Đỉnh lễ Liên Hoa Thủ (Padma-pāṇi)
_Nước Đại Từ làm Tâm
Hay ngưng lửa giận dữ
Đỉnh lễ Từ Thị Tôn
Chặt đứt dây cung Dục
_ Hư Không Tạng, Diệu Tuệ
Hư Không Tịch Tĩnh Tôn
Giải thoát giòng sinh tử
Đỉnh lễ Phật Tâm Tử (con của Tâm Phật)
_Vô biên Hữu Tình Hoặc (sự mê lầm của hữu tình)
Hay ngưng tâm vô ích (tâm không có lợi ích)
Con đỉnh lễ Phổ Hiền,
Thiện Thệ Thượng Thủ Tử (Bậc Thượng Thủ là con của Đấng Thiện Thệ) 478
_Tôi tớ dứt trần lao
Vượt thắng quân Ma La (Māra: loài Ma )
Đỉnh lễ Kim Cương Thủ
Hay nói tất cả Minh (Vidya)
_Đỉnh lễ Diệu Cát Tường
Giữ hình diệu đồng tử
Duỗi khắp đèn Trí Tuệ
Cướp đoạt Tam Giới Minh (sự sáng sủa của ba cõi)
_Nhất Thiết Trừ Cái Chướng
Vì thế con đỉnh lễ
Vô Tận Trí Tuệ Tôn
Hay sinh biện (thực hiện việc làm) không cạn
_Như đất, các hữu tình
Chẳng đoạn nơi nương tựa
Tạng Kiên Tuệ Bi Mẫn
Con đỉnh lễ Địa Tạng
_Chân Thiện Thệ Tử này
Tán dương nơi được Phước
Dùng các Hữu Tình này
Như đấy thành Tán Khí (vật khí khen ngợi)
III_ A Di Đà Phật Đại Tam Muội Gia Thật Tướng Chân Ngôn Man Đa La
㛸 ゚㜮ᚌ ᚒᘲ ᜐ ゖ
Oṃ_ Amṛte teja hara hūṃ
479
1_ A DI ĐÀ Phật:
A Di Đà Phật, dịch ý là Vô Lượng Thọ Phật (Amitāyus-buddha) hoặc Vô
Lượng Quang Phật (Amitābha-buddha), là vị giáo chủ của Thế Giới Cực Lạc
(Sukhavatī) ở phương Tây.
A Di Đà Phật được phối trí với chữ OṂ (㛸) ở phương trung ương biểu thị cho
Trí Phương Tiện Phổ Môn của Như Lai, là sự tu hành viên mãn đắc được Quả Đức tự
chứng nên còn gọi là Chứng Bồ Đề, đại biểu cho Diệu Quán Sát Trí (Pratyave-kṣana-
jñāna) là Trí khéo biết tướng chung tướng riêng của các Pháp mà không hề bị ngăn
chuyển, lại y theo từng loại căn cơ của chúng Hữu Tình mà tự tại thuyết Pháp giáo hóa
chúng sinh. Do đó Diệu Quán Sát Trí được xem là Ứng Hóa Pháp Thân (Nirmāṇa-
dharma-kāya) của Đại Nhật Như Lai là Thân giáo hóa nhiếp thọ Bồ Tát Sơ Địa, Nhị
Thừa, Phàm Phu.
Chân Ngôn là:
ᚼᜀ ᛬ᗰᜨᚒ ゚ᚍ᛭ᜄ ᚌᚙᗰᚍᜄ 㛸
Namo bhagavate amitābhāya tathāgatāya_ Oṃ
2_HƯ KHÔNG TẠNG Bồ Tát
Ākāśa-garbha dịch âm là A Ca Xả Nghiệt Bà hay Gagana-gañja dịch âm là
Nga Nga Nẵng Ngạn Bà. Tức đầy đủ hai kho tàng Phước Trí không có hạn lượng
ngang bằng với hư không; ý là rộng lớn vô biên. Lại xưng là Hư Không Dựng Bồ Tát.
Tôn này hay tuôn ra Pháp Bảo vô lượng ban cho khắp điều ước muốn, làm lợi lạc
cho chúng sinh.
Hư Không Tạng Bồ Tát được phối trí với chữ A (゚) ở phương Đông biểu thị cho
Phước Trí Trang Nghiêm hay sinh ra Trí Nội Chứng và Phước Đức Nội Chứng của
10 Ba La Mật 480
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ゛ᗙ㗣ᗰ↑㗚 ゚
Oṃ namo ākāśa-garbhāya_ A
3_ PHỔ HIỀN Bồ Tát
Phổ Hiền (Samanta-bhadra) đại biểu cho Hạnh Bồ Tát rộng lớn. Khi một cá
nhân thực hiện viên mãn Hạnh Bồ Tát thì gọi là Phổ Hiền Bồ Tát. Còn viên mãn quả
vị của Phổ Hiền Bồ Tát tức là Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Chúng sinh đang đợi đầy đủ
Nhân của Phổ Hiền, đấy tức là Tính của Tỳ Lô Giá Na Phật
Phổ Hiền Bồ Tát được phối trí với chữ MṚ (㜮) ở góc Đông Nam biểu thị cho
Hạnh Thâm Nhập Tâm Bồ Đề, tức là giai đoạn Tịnh Tâm Bồ Đề
481
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᝌᛸⴼ㗕ᦽ㗚 㜮
Oṃ namo samanta-bhadrāya_ MṚ
4_KIM CƯƠNG THỦ Bồ Tát
Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát, tên Phạn là Vajra-satva. Lại xưng là Kim Cương
Thủ Bí Mật Chủ, Chấp Kim Cương Bí Mật Chủ, Trì Kim Cương Cụ Tuệ Giả, Kim
Cương Thượng Thủ, Đại Lạc Kim Cương, Tô La Đa Kim Cương, Nhất Thiết Như Lai
Phổ Hiền, Phổ Hiền Bồ Tát, Phổ Hiền Kim Cương Bồ Tát, Kim Cương Thắng Bồ Tát.
Kim Cương Tạng, Chấp Kim Cương, Bí Mật Chủ,
Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) tượng trưng cho tâm Bồ Đề bền chắc chẳng
hoại và ý nghĩa phiền não tức Bồ Đề. Tôn này là Bộ Chủ của Đại Trí Kim Cương Bộ,
chủ về Đức chiết phục, có Bản Thệ là tồi phá tất cả Ma ác
Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi) được phối trí với chữ TA (ᚌ) ở phương Nam,
biểu thị cho Diệu Đức Nội Chứng của Kim Cương Tát Đỏa (Vajra-satva) là chiết phục
và tồi phá tất cả Ma ác
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ テ᥄ᛉᚂ㗚ᚌ
Oṃ namo vajra-pāṇiya_ TA
482
5_ VĂN THÙ SƯ LỢI Bồ Tát
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, tên Phạn là Maṃjuśrī. Lại xưng là Văn Thù Thi Lợi,
Mạn Thù Sư Lợi, Mạn Thù Thất Lợi . Lược xưng là Văn Thù. Trong các Kinh Điển
Khác lại có các danh hiệu là: Diệu Đức, Diệu Thủ, Nhu Thủ, Kính Thủ, Diệu Cát
Tường...
Văn Thù Sư Lợi còn gọi là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử, Văn Thù Sư Lợi
Đồng Chân, Văn Thù Sư Tử Đồng Bồ Tát, Nhu Đồng Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī-
kumāra-bhūta)
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát với Phổ Hiền Bồ Tát cùng theo hầu cận Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni và được xưng chung là Thích Ca Tam Thánh. Do Văn Thù Sư Lợi là bậc
Thượng Thủ trong hết thảy Bồ Tát Đệ Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nên được
gọi là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử. Ngài có hình tượng là Cầm cây kiếm ngồi trên
lưng sư tử biểu thị cho sự sắc bén của Pháp Môn. Tay phải cầm cây kiếm báu Kim
Cương chặt đứt tất cả phiền não của chúng sinh, dùng tiếng rống của sư tử không sợ
hãi, trấn tỉnh chúng sinh đang bị mê đắm.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát được phối trí với chữ TE (ᚒ) ở góc Tây Nam biểu thị
cho Hạnh Trưởng Dưỡng Tâm Bồ Đề, tức là giai đoạn nuôi lớn Bát Nhã
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᜂᘰᩃ㗚 ᚒ
Oṃ namo maṃjuśrīya_ TE
6_TRỪ CÁI CHƯỚNG Bồ Tát
Trừ Cái Chướng Bồ Tát, tên Phạn là Sarva-nirvaraṇa-viṣkaṃbhin. Lại xưng là
Trừ Nhất Thiết Cái Chướng Bồ Tát, Giáng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại Bồ Tát, Khí
Chư Ấm Cái Bồ Tát.
Tôn này được phối trí với chữ JE (ᘲ) ở phương Tây biểu thị cho việc dùng
Nhân của Tâm Tịnh Bồ Đề khiến cho tiêu trừ tất cả phiền não, tất cả chướng ngại
483
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᝌ㈴ᚿテ㇂ ᜪ㛚ᗢᛮソ㗚 ᘲ
Oṃ namo sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhinaya_ JE
7_ĐỊA TẠNG Bồ Tát
Địa Tạng Bồ Tát, tên Phạn là Kṣiti-garbha dịch âm là Khất Xoa Để Nghiệt Bà,
nghĩa là đất hoặc Trú Xứ, hoặc hàm tàng (che dấu bên trong).
Địa Tạng Bồ Tát giống như Đại Địa hay nâng chịu tất cả Nghiệp Tội của chúng
sinh mà an nhẫn chẳng động, đầy đủ Định Tuệ, hay biết rõ tất cả Bí Tạng.
Địa Tạng là vị Bồ Tát tự thề cứu độ hết chúng sinh trong sáu nẻo thì mới nguyện
thành Phật.
Tôn này được phối trí với chữ HA () ở phương Tây Bắc biểu thị cho Đại
Nguyện Nhẫn Nhục, Tinh Tiến cứu độ tất cả chúng sinh
484
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᝦᚎᗰ↑㗚
Oṃ namo kṣiti-garbhāya_ HA
8_QUÁN THẾ ÂM Bồ Tát
Quán Thế Âm Bồ Tát, tên Phạn Ārya-avalokiteśvara có nghĩa là Thánh Quán
Thế Âm với Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta) cùng theo hầu cận Đức Phật
A Di Đà tại Thế Giới Cực Lạc ở phương Tây và được xưng tên chung là Tây Phương
Tam Thánh
Quán Tự Tại Bồ Tát đại biểu cho Tâm Đại Bi của tất cả chư Phật, hay lắng nghe
âm thanh khổ nạn của tất cả chúng sinh mà cứu độ như con ruột. Ngoài ra Quán Tự Tại
Bồ Tát còn đại biểu cho sự giác ngộ Phật Tính viên mãn của mỗi một cá nhân.
Quán Tự Tại Bồ Tát được phối trí với chữ RA (ᜐ) ở phương Bắc biểu thị cho
Hạnh Toàn Thiện Tâm Bồ Đề, tức là giai đoạn chứng ngộ Bồ Đề
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ㅥテᜤᗚᚒ㜅ᜑ㗚 ᜐ
Oṃ namo avalokiteśvarāya_ RA
9_DI LẶC Bồ Tát
Di Lặc Bồ Tát có tên gọi là Vô Năng Thắng (Ajita), hiệu là Từ Thị (Maitreya).
Ngài là vị Phật thứ năm kế tiếp Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, xuất hiện trên trái đất này.
Hiện Ngài đang ở cung Trời Đâu Suất (Tuṣita) giáo hóa chúng sinh. Do đó Ngài còn
được xưng là Nhất Bổ Xứ Bồ Tát, Bổ Xứ Bồ Tát hoặc Di Lặc Như Lai.
Trong đời đời kiếp kiếp Ngài thường tu tập Từ Tâm Tam Muội, hành Từ
Hạnh để cứu độ chúng sinh. Do Đức đặc biệt này mà Ngài có hiệu là Từ Thị
Di Lặc Bồ Tát được phối trí với chữ HŪṂ (ゖ) ở góc Đông Bắc biểu thị cho
Hạnh Kết Kim Cương Thân, tức là giai đoạn Nhập Niết Bàn
485
Chân Ngôn là:
㫘 ᚼᜀ ᦪᜅ㗚 ゖ
Oṃ namo maitreyāya_ HŪṂ
486
TÁM VỊ ĐẠI BỒ TÁT TRONG TẠNG TRUYỀN PHẬT GIÁO
Theo Tạng Truyền Phật Giáo thì tám vị Đại Bồ Tát: Di Lặc, Quán Âm, Địa Tạng,
Văn Thù, Phổ Hiền, Hư Không Tạng, Trừ Cái Chướng, Kim Cương Thủ … biểu thị
cho việc chuyển hóa tám Thức (Aṣṭau-vijñānāni) của chúng sinh thành Tướng thanh
tịnh màu nhiệm. Trong đó
Di Lặc Bồ Tát (Maitreya-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh màu nhiệm
được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Nhãn Thức (Cakṣur-vijñānaṃ)
Quán Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh
màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Nhĩ Thức (Śrotra-vijñānaṃ)
Địa Tạng Bồ Tát (Kṣiti-garbha-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh màu
nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Tỵ Thức (Ghrāṇa-vijñānaṃ)
Văn Thù Bồ Tát (Mañjuśrī-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh màu
nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Thiệt Thức (Jihvā-vijñānaṃ)
Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh
màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Thân Thức (Kāya-vijñānaṃ)
Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh
tịnh màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Ý Thức (Mano-vijñānaṃ)
Trừ Cái Chướng Bồ Tát (Sarva-nīvaraṇa-viṣkaṃbhin) biểu thị cho Tướng thanh
tịnh màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa Mạt Na Thức (Manas-
vijñānaṃ)
Kim Cương Thủ Bồ Tát (Vajra-pāni-bodhisatva) biểu thị cho Tướng thanh tịnh
màu nhiệm được hiển hiện sau khi đã chuyển hóa A Lại Gia Thức (Ālaya-vijñānaṃ)
Theo Tạng Truyền Phật Giáo thì Kim Cương Thủ Bồ Tát chính là thân phẫn nộ
(Krodha-kāya) của Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta-bodhisatva)
1_ Di Lặc Bồ Tát: Hai tay cầm hoa sen tác Thuyết Pháp Ấn. Trên hoa sen bên
trái có Pháp Luân, trên hoa sen bên phải có cái bình báu làm dấu hiệu
487
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Di Lặc Bồ Tát có thân hình màu vàng,
hai tay tác Ấn Chuyển Pháp Luân đều cầm hoa sen, đỉnh đầu đội cái bình làm biểu
tượng
2_ Quán Âm Bồ Tát: Tay trái cầm hoa sen, vai trái khoác da hươu. Úp bàn tay
phải đè trên đầu gối phải
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Quán Âm Bồ Tát có thân hình màu
trắng, vai trái khoác da hươu, tay trái cầm hoa sen, ngửa tay phải trên đầu gối phải tác
Dữ Nguyện Ấn
488
3_Địa Tạng Bồ Tát: Tay trái kết Quy Ấn, tay phải cầm hoa sen, trên hoa có báu
Ma Ni
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Địa Tạng Bồ Tát có thân hình màu vàng,
tay trái co trước ngực tác Cát Tường Ấn cầm hoa sen, ngửa tay phải ở đầu gối phải
cầm quả trái
489
4_Văn Thù Bồ Tát: Hai tay cầm hoa sen tác Thuyết Pháp Ấn. Trên hoa sen của
tay phải có cây kiếm Trí Tuệ, trên hoa sen của tay trái có Kinh Thư
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Văn Thù Bồ Tát có thân màu vàng, hai
tay cầm hoa sen tác Thuyết Pháp Ấn. Trên hoa sen của tay phải có cây kiếm Trí Tuệ,
trên hoa sen của tay trái có Kinh Thư. Ngồi Kiết Già trên tòa sen
490
5_Phổ Hiền Bồ Tát: Tay trái ở trước ngực tác Thí Dữ Ấn, cầm hoa sen, trên hoa
sen có vành mặt trời chiếu khắp chúng sinh trong đời Hiền Kiếp
491
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Phổ Hiền Bồ Tát có thân hình màu đỏ
hồng, co tay phải trước ngực, duỗi tay trái đè trên tòa sen và cầm hoa sen, trên hoa sen
có vành mặt trời
6_Hư Không Tạng Bồ Tát: Tay trái tác Quy Y Ấn, tay phải cầm hoa sen, trên
hoa có cây kiếm báu chỉ hướng lên trên hư không
492
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Hư Không Tạng Bồ Tát có thân hình
màu xanh lam nhạt, hai tay tác Thuyết Pháp Ấn, tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có
cây kiếm báu tỏa lửa rực, chỉ hướng lên trên hư không
7_Trừ Cái Chướng Bồ Tát: Tay trái ở trước ngực tác Quy Y Tam Bảo Ấn, cầm
hoa sen, trên hoa sen có vành mặt trăng trong mát diệt hết chướng ngại nóng bức phiền
não của chúng sinh. Úp tay phải đè cổ tay trên đầu gối phải
493
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Trừ Cái Chướng Bồ Tát có thân hình
màu trắng, co tay trái ở trước ngực tác Quy Y Tam Bảo Ấn, cầm hoa sen, trên hoa sen
có vành mặt trăng trong mát diệt hết chướng ngại nóng bức phiền não của chúng sinh.
Ngửa tay phải trên đầu gối phải cầm cái bình báu
8_Kim Cương Thủ Bồ Tát: Tay phải ở trên đầu gối phải tác Bố Thí Ấn, cầm
hoa sen, trên hoa sen có chày Kim Cương làm trang nghiêm. Úp tay trái che trên đầu
gối trái
494
Truyền thống khác ghi nhận Tôn Tượng Kim Cương Thủ Bồ Tát có thân hình
màu xanh lam đậm, tay trái co trước ngực cầm chày Kim Cương, duỗi bàn tay trái đè
trên tòa sen
Khi tám vị Đại Bồ Tát này được an bày chung quanh Đức Phật thì được xưng là
Bát Đại Bồ Tát Man Đa La
Nếu có hữu tình y theo Pháp xây dựng Bát Đại Bồ Tát Man Đa La này một lần
thì hết thảy tội: mười Ác, năm Nghịch, phỉ báng Kinh Phương Đẳng…thảy đều tiêu
diệt, tất cả Nghĩa Lợi, Thắng Nguyện đã mong cầu đều được thành tựu . 495
25 VỊ BỒ TÁT Ở PHƯƠNG TÂY
_Phật nói Kinh Thập Vãng Sinh A Di Đà Phật Quốc ghi chép là:
Đức Phật bảo Đại Chúng: “Sau khi Ta diệt độ, hãy thọ trì Kinh này, trong tám vạn
kiếp, rộng tuyên lưu bố cho đến một ngàn Đức Phật đời Hiền Kiếp (Bhadra-kalpa),
khiến khắp các chúng sinh được nghe biết, tin tưởng, ưa thích tu hành. Người nói,
người nghe đều được sinh về nước của Đức Phật A Di Đà. Nếu có người thuộc nhóm
như vậy thời Ta từ ngày hôm nay thường sai khiến 25 vị Bồ Tát hộ trì người đó,
thường khiến cho người đó không có bệnh, không có bực bội. Hoặc Người (Manuṣya),
hoặc Phi Nhân (Amanuṣya) chẳng được dịp thuận tiện gây hại. Đi, đứng, ngồi, nằm
không có kể ngày hay đêm thường được an ổn.
Nếu có chúng sinh tin sâu Kinh đó, niệm A Di Đà Phật, nguyện được vãng sinh
thời Đức Phật A Di Đà của Thế Giới Cực Lạc ấy sai khiến Quán Thế Âm Bồ Tát
(Avalokiteśvara), Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta), Dược Vương Bồ Tát
(Bhaiṣaijya-rāja), Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata), Phổ Hiền Bồ Tát
(Samanta-bhadra), Pháp Tự Tại Bồ Tát (Dharmeśvara), Sư Tử Hống Bồ Tát (Siṃha-
nāda), Đà La Ni Bồ Tát (Dhāranī), Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha), Đức
Tạng Bồ Tát (Guṇa-garbha), Bảo Tạng Bồ Tát (Ratna-garbha), Kim Tạng Bồ Tát
(Suvarṇa-garbha), Kim Cương Bồ Tát (Vajra), Sơn Hải Tuệ Bồ Tát (Giri-sāgara-
mati), Quang Minh Vương Bồ Tát (Raśmi-prabha-rāja), Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát
(Avataṃsaka-rāja), Chúng Bảo Vương Bồ Tát, Nguyệt Quang Vương Bồ Tát
(Candra-prabha-rāja), Nhật Chiếu Vương Bồ Tát (Divā-kara-rāja), Tam Muội Vương
Bồ Tát (Samādhi-rāja), Tự Tại Vương Bồ Tát (Īśvara-rāja), Đại Tự Tại Vương Bồ
Tát (Maheśvara-rāja), Bạch Tượng Vương Bồ Tát (Śukla-hasta-rāja), Đại Uy Đức
Vương Bồ Tát (Mahā-teja-rāja), Vô Biên Thân Bồ Tát (Ananta-kāya). Hai mươi lăm
vị Bồ Tát như vậy ủng hộ Hành Giả, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc
ban ngày, hoặc ban đêm, tất cả Thời, tất cả nơi chốn…chẳng để cho Quỷ ác, Thần ác
được dịp thuận tiện gây hại”.
496
1_ Quán Thế Âm Bồ Tát (Avalokiteśvara): hầu cận bên trái Đức Phật A Di Đà
(Amitāyus-buddha), hai tay bưng đài sen, hơi nghiêng thân, khuôn mặt mỉm cười, tỏ vẻ
nghênh tiếp Hành Giả niệm Phật
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
NAMO AVALOKITEŚVARA SVĀHĀ_ A
497
2_ Đại Thế Chí Bồ Tát (Mahā-sthāma-prāpta): Hầu bên phải Đức Phật A Di Đà,
chắp hai tay lại để giữa ngực, khen ngợi Hành Giả được vãng sinh về Thế Giới Cực
Lạc (Sukhā-vatī)
Chữ chủng tử là Saṃ ()
Chân Ngôn là:
NAMO MAHĀ-STHĀMA-PRĀPTA SVĀHĀ_ SAṂ
498
3_ Dược Vương Bồ Tát (Bhaiṣaijya-rāja): Ngửa lòng bàn tay trái để ngang ngực
cầm bình thuốc, tay phải cầm cây phướng, tỏ vẻ hoan nghênh Hành Giả được sinh về
Thế Giới Cực Lạc
Chữ chủng tử là Hūṃ (㜪)
Chân Ngôn là;
NAMO BHAIṢAIJYA-RĀJA SVĀHĀ_ HŪṂ
499
4_ Dược Thượng Bồ Tát (Bhaiṣaijya-samudgata): hai tay cầm cây phướng,
khuôn mặt tươi cười, đứng thẳng chân phải, co chéo chân trái hướng đầu gối về bên
trái
Chữ chủng tử là Aṃ (エ)
Chân Ngôn là:
NAMO BHAIṢAIJYA-SAMUDGATA SVĀHĀ_ AṂ
500
5_ Phổ Hiền Bồ Tát (Samanta-bhadra): hai tay cầm cây lọng, khuôn mặt tươi
cười
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
NAMO SAMANTA-BHADRA SVĀHĀ_ A
501
6_ Pháp Tự Tại Bồ Tát (Dharmeśvara): Tay trái cầm hoa sen, dựng đứng cánh
tay phải, ngửa lòng bàn tay, co ngón cái vịn ngón giữa, hơi cong ba ngón còn lại, biểu
hiện sự vui vẻ, nghênh tiếp Hành Giả với lời ca điệu múa.
Tôn này được xem là đồng Thể với Bồ Tát Văn Thù
Chữ chủng tử là Dha (ᚰ)
Chân Ngôn là:
NAMO DHARMEŚVARA SVĀHĀ_ DHA
502
7_ Sư Tử Hống Bồ Tát (Siṃha-nāda): Đứng thẳng duỗi chân phải, co chân trái,
hai tay vỗ cái trống đeo trước bụng, bày tỏ uy đức dũng mãnh giống như vua sư tử
khuất phục muông thú giáng phục Ma Oán, chế ngự Ngoại Đạo, xa lìa hẳn các sự trói
buộc ngăn che, tâm thường an trụ giải thoát vô ngại
Chữ chủng tử là Vaṃ (ᜲ)
Chân Ngôn là:
NAMO SIṂHA-NĀDA SVĀHĀ_ VAṂ
503
8_ Đà La Ni Bồ Tát (Dhāraṇī): co chân phải, ngón chân trái, hai tay biểu thị theo
thế nhảy múa. Tôn này có khả năng ôm giữ thống nhiếp mọi tư tưởng, giúp cho Hành
Giả chế ngự Pháp ác tăng trưởng Pháp Thiện, nảy sinh Công Đức diệu thiện
Chữ chủng tử là Dha (ᚰ)
Chân NGôn là:
NAMO DHĀRAṆĪ SVĀHĀ_ DHA
504
9_ Hư Không Tạng Bồ Tát (Ākāśa-garbha): co chân tái, duỗi chân phải, hai tay
cùng biểu thị thế nhảy múa. Tôn này biểu thị cho sự tự tại vô ngại, không có nhiễm
dính giống như hư không
Chữ chủng tử là I (㘳)
Chân Ngôn là:
NAMO ĀKĀŚA-GARBHA SVĀHĀ_ I
505
10_ Đức Tạng Bồ Tát (Guṇa-garbha): Nhón gót chân phải, co chéo chân trái làm
thế nhảy múa, hai tay cầm cái Sênh để thổi. Tôn này có Tâm Bi vô lượng, ứng với căn
cơ của chúng sinh, mở kho báu của Đức Đại Bi (Kāruṇa-guṇa) để làm lợi ích giáo hóa
chúng sinh
Chữ chủng tử là Aṃ (エ)
Chân Ngôn là:
NAMO GUṆA-GARBHA SVĀHĀ_ AṂ
506
11_ Bảo Tạng Bồ Tát (Ratna-garbha): Co chân trái, duỗi chân phải làm thế nhảy
múa, hai tay cầm ống sáo để thổi. Tôn này có bảy loại báu chân thật, ứng với tất cả ước
nguyện của chúng sinh, tùy theo thời mà Ngài mở kho báu chu cấp cho tất cả chúng
sinh khiến cho họ có thể đạt được các loại ân huệ.
Chữ chủng tử là Trāḥ (㜩)
Chân Ngôn là:
NAMO RATNA-GARBHA SVĀHĀ_ TRĀḤ
507
12_ Kim Tạng Bồ Tát (Suvarṇa-garbha): Duỗi thẳng chân trái, co chân phải, hai
tay cầm ống tiêu để thổi. Tôn này có đầy đủ Công Đức giống như vàng ròng chẳng bị
nước lửa xâm phạm. Do vậy Tôn này biểu thị cho Công Đức trong sạch vững bền
không có gì làm vấy bẩn được.
Chữ chủng tử là Va (テ)
Chân Ngôn là:
NAMO SUVARṆA-GARBHA SVĀHĀ_ VA
508
13_ Kim Cương Tạng Bồ Tát (Vajra-garbha): Duỗi chân trái, co chéo chân phải,
hai tay cầm cây đàn Cầm.Tôn này có đầy đủ Trí Tuệ Kim Cương chẳng hoại, giúp cho
tất cả chúng sinh dứt trừ hết các sự nghi hoặc và phiền não chướng. Do Ngài dùng Đại
Công Đức không có cùng tận giúp ích cho chúng sinh, cho nên được tên gọi là Kim
Cương Tạng.
Chữ chủng tử là Hūṃ (㜪)
Chân Ngôn là:
NAMO VAJRA-GARBHA SVĀHĀ_ HŪṂ
509
14_ Sơn Hải Tuệ Bồ Tát (Giri-sāgara-mati): Nhón gót chân trái, co chéo chân
phải, hai tay ôm gẩy cây đàn Không Hầu. Tôn này có Trí Đức cao khiết, giáo hóa và
làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Do Trí Đức của Ngài giống như núi cao, biển sâu nên
có tên gọi là Sơn Hải Tuệ.
Chữ chủng tử là Hrīḥ (㜫)
Chân Ngôn là:
NAMO GIRI-SĀGARA-MATI SVĀHĀ_ HRĪḤ
510
15_ Quang Minh Vương Bồ Tát (Raśmi-prabha-rāja): Đứng ôm gảy Đàn Tỳ Bà.
Tôn này có Trí Tuệ sáng suốt như chư Phật không có gì vượt qua nổi, do vậy có tên gọi
là Quang Minh Vương
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
NAMO RAŚMI-PRABHA-RĀJA SVĀHĀ_ A
511
16_ Hoa Nghiêm Vương Bồ Tát (Avataṃsaka-rāja): Nhón gót chân phải, co
chéo chân trái, hai tay cầm cái dùi gõ đánh nhạc cụ. Tôn này dùng vạn hạnh như hoa
trang nghiêm quả Địa, hoặc lấy Pháp Thân để trang nghiêm quả Địa ấy cho nên được
gọi là Hoa Nghiêm
Chữ chủng tử là Aḥ (ォ)
Chân Ngôn là:
NAMO AVATAṂSAKA-RĀJA SVĀHĀ_ AḤ
512
17_ Chúng Bảo Vương Bồ Tát (Gaṇa-ratna-rāja): nhón hai gót chân, hai tay cầm
cái Nạo Bạt (xập xõa) để đánh. Tôn này có bảy loại báu chân thật, gom tập tất cả các
châu báu vào một thân, ứng hợp với căn cơ của chúng sinh để cấp phát bình đẳng cho
tất cả
Chữ chủng tử là Trāḥ (㜩)
Chân Ngôn là:
NAMO GAṆA-RATNA-RĀJA SVĀHĀ_ TRĀḤ
513
18_ Nguyệt Quang Vương Bồ Tát (Candra-prabha-rāja):nhón gót chân trái, đá
chân phải làm thế nhảy múa, tay trái giương chưởng để dưới ức ngực, tay phải gio cao
cầm cái trống rung. Tôn này dùng Tính Đức không khuyết thiếu như mặt trăng tròn
sáng để hóa độ và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Chữ chủng tử là Va (テ)
Chân Ngôn là:
NAMO CANDRA-PRABHA-RĀJA SVĀHĀ_ VA
514
19_ Nhật Chiếu Vương Bồ Tát (Divākara-rāja): nhón gót chân trái, đá chân phải
làm thế nhảy múa, hai tay cầm cây dùng đánh cái trống treo trước bụng. Tôn này dùng
Trí Tuệ sáng suốt như mặt trời phá tan hết thảy mọi ám tối của chúng sinh. Ngài dùng
Trí Đức để hóa độ và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Chữ chủng tử là Ka (オ)
Chân Ngôn là:
NAMO DIVĀKARA-RĀJA SVĀHĀ_ KA
515
20_ Tam Muội Vương Bồ Tát (Samādhi-rāja): Nhón gót chân phải, đá chéo chân
trái làm thế nhảy múa, hai tay cầm cái bảng, lộ vẻ vui thích ca ngâm. Tôn này có được
phần Đức tự tại trong Tam Muội nên có tên gọi là Tam Muội Vương
Chữ chủng tử là Aḥ (ㆧ)
Chân Ngôn là:
NAMO SAMĀDHI-RĀJA SVĀHĀ_ AḤ
516
21_ Định Tự Tại Vương Bồ Tát (Samādhīśvara-rāja): Nhón gót chân trái, đá
chéo chân phải làm thế nhảy múa, hai tay đều cầm cây dùi đánh cái trống lớn ở trước
bụng. Tôn này ở trong Thiền Định có thể biến hóa tự tại, có đủ phần Đức tự tại vô
ngại, cho nên có tên gọi là Định Tự Tại Vương
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
NAMO SAMĀDHĪŚVARA-RĀJA SVĀHĀ_ A
517
22_ Đại Tự Tại Vương Bồ Tát (Maheśvara-rāja): duỗi thẳng chân trái, đá chéo
chân phải, hai tay cầm cái lọng có treo các chuỗi ngọc báu. Tôn này dùng phần Đức
biến hóa tự tại vô ngại để cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên có tên gọi là Đại Tự Tại
Vương
Chữ chủng tử là Ma (ᛸ)
Chân Ngôn là:
NAMO MAHEŚVARA-RĀJA SVĀHĀ_ MA
518
23_ Bạch Tượng Vương Bồ Tát (Śukla-hasta-rāja): duỗi thẳng chân trái, đá chéo
chân phải, hai tay cầm cái lọng báu. Tôn này có uy đức to lớn giống như con voi trắng
có đầy đủ muôn Đức hay phát lực Đại Từ. Ngài dùng uy lực đó để cứu giúp tất cả
chúng sinh, cho nên có tên gọi là Bạch Tượng Vương
Chữ chủng tử là Ga (ᗰ)
Chân Ngôn là:
NAMO ŚUKLA-HASTA-RĀJA SVĀHĀ_ GA
519
24_ Đại Uy Đức Vương Bồ Tát (Mahā-teja-rāja): Đứng thẳng, hai tay cầm hoa
sen, khuôn mặt tươi cười nhìn nhó xuống bên dưới. Tôn này hay dùng uy đức rộng lớn
vô biên để cứu độ tất cả chúng sinh, cho nên có tên gọi là Đại Uy Đức Vương
Chữ chủng tử là Hūṃ (㜪)
Chân Ngôn là:
NAMO MAHĀ-TEJA-RĀJA SVĀHĀ_ HŪṂ
520
25_ Vô Biên Thân Bồ Tát (Ananta-kāya): Đứng thẳng, hai tay bưng lò hương.
Tôn này được xem là đồng Thể khác tên gọi với Bồ Tát Địa Tạng
Chữ chủng tử là A (ㅥ)
Chân Ngôn là:
NAMO ANANTA-KĀYA SVĀHĀ_ A
521
DIỆU KIẾN BỒ TÁT
Diệu Kiến Bồ Tát, tên Phạn là Su-daśana hay Su-dṛṣṭa là vị Thiên Tôn được
Thần Cách Hóa của Bắc Đẩu Tinh Thần, bậc tối thắng trong các vì sao (chư tinh). Lại
xưng là Tôn Tinh Vương, Bắc Thần Bồ Tát, Diệu Kiến Tôn Tinh Vương, Diệu
Kiến Đại Sĩ
Trong Kinh chẳng nói rõ Bản Địa của Bồ Tát này, hoặc dùng Thích Ca (Śākya-
muṇi) làm Bản Địa, hoặc dùng Quán Âm (Avalokiteśvara) làm Bản Địa, hoặc dùng
Dược Sư (Bhaiṣajya-guru) làm Bản Địa
Diệu Kiến Bồ Tát có đủ nhóm Công Đức; thủ hộ quốc thổ, tiêu trừ tai nạn, đẩy lùi
quân địch, tăng ích Phước Thọ...như Thất Phật Bát Bồ Tát sở thuyết Đại Đà La Ni
Thần Chú Kinh, quyển 2 nói rằng: “Ta, Bắc Thần Bồ Tát tên là Diệu Kiến. Nay
muốn nói Thần Chú ủng hộ các quốc thổ, chỗ làm rất kỳ đặc, cho nên tên là Diệu
Kiến, ở nơi Diêm Phù Đề (Jambu-dvīpa) là tối thắng trong mọi vì sao (chúng tinh),
Tiên trong Thần Tiên, Đại Tướng của Bồ Tát, con mắt sáng của các Bồ Tát, độ khắp
các quần sinh. Có Đại Thần Chú tên là Hồ Nại Ba (ngôn ngữ đời Tấn) ủng hộ quốc
thổ, trợ giúp các quốc vương, tiêu trừ tai nạn, đẩy lui quân dịch. Không có gì chẳng do
Chú này
“Cụ đê đế đồ tô tra, a nhược mật tra, ô đô tra, cụ đồ tra, ba lại đế tra gia, di
nhược tra, ô đô tra, câu la đế tra, đồ ma tra, toa ha”
ᛸᚎᚒᚐᝐ㪪 ㅥᡔ㪪 ㅩᚐ㪪 ᗜᗚ㪪᛬㗟ᚒ㪪 㗚 ᜪᠼ㪪 ㅩᚐ㪪 ᗜ㇂ᚒ㪪
ᗚᛸᚌ 㛿
MATITETUSUṬ ANYAMIṬ UTUṬ KUKIṬ BHALATEṬ YA VIDYAṬ
UTUṬ KURATEṬ KIMATA SVĀHĀ
_Căn cứ theo Diệu Kiến Đà La Ni Kinh, quyển Hạ ghi chép thì vị Bồ Tát này ở
phương Bắc của Thế Giới Sa Bà (Sāha-loka-dhātu) cho nên xưng là Bắc Thần Bồ Tát
hay cứu các chúng sinh, khiến được Phước cát tường. Do đó Mật Giáo dùng Bắc Thần
để chỉ Bắc Cực Tinh, dùng Bắc Cực Tinh làm Bắc Đẩu Thất Tinh và xem như là sự
hóa hiện của Diệu Kiến Bồ Tát
Song, xưa nay liên quan đến sự đồng dị giữa Bắc Thần và Bắc Đẩu Thất Tinh
thì có các Thuyết nói rằng: có người dùng Bắc Đẩu Thất Tinh tức là Bắc Thần, có
người dùng Văn Khúc Tinh trong Bắc Đẩu làm Bắc Thần, có người dùng Thủy Diệu
làm Bắc Thần, có người lại dùng Thiến Đế Tinh làm Bắc Thần. Nhưng, đa số Kinh
Điển vẫn cứ nói Bắc Thần, Diệu Kiến, Tôn Tinh Vương là đồng Thể khác tên, là vua
của các vì sao (chư tinh)
_Tín ngưỡng Diệu Kiến bắt nguồn từ Ba Tỳ Luân Kinh của Ấn Độ cổ đại,
nguyên từ tư tưởng của Tinh Tú, là dạng Thần Cách Hóa của Bắc Cực Tinh. Sau khi
đến Trung Quốc thì hòa với Phật Giáo, Đạo Giáo… đồng thời truyền đến Nhật Bản.
Do tín ngưỡng Diệu Kiến Bồ Tát được hỗn hợp giữa các yếu tố của Đạo Giáo, Mật
Giáo, Âm Dương Đạo… nên hình tượng chẳng nhất định. Phần lớn là hình Võ Tướng
có thân mặc giáp trụ, tay cầm cây kiếm, cỡi ngồi trên rùa rắn, hoặc hình tượng đứng
trên con rùa được nhìn thấy ở Tự Viện theo hệ Mật Giáo của Nhật Liên Tông, Chân
Ngôn Tông, Thiên Đài Tông và được xưng là Diệu Kiến Tôn Tinh Vương Bồ Tát,
Bắc Thần Diệu Kiến Bồ Tát, Diệu Kiến Thiên là vị Thần võ, Thần Hộ Pháp…
chưởng quản thủ hộ quốc thổ, trừ khử tai ách, âm thầm giúp cho trường thọ, trị liệu
bệnh tật của con mắt…và rộng truyền thành tín ngưỡng của dân gian 522
Do là vị Bắc Thần có hình tượng cầm Kiếm, chân đạp lên rùa, rắn nên Diệu Tý
Bồ Tát được xem là một Thể với Huyền Thiên Thượng Đế
_Trong Sơn Âm Tạp Lục ghi rằng: “Tô vẽ tượng Diệu Kiến theo khuôn mẫu
hình Đồng Tử, thân mặc áo giáp vàng ròng, tay phải duỗi cánh tay nắm cây kiếm Thần,
tay trái co khủy tay để ở eo, bàn chân đạp lên rùa, rắn. Vị Đại Sĩ này hiện dấu vết tại
bảy Tú ở phương Bắc, ấy là Bắc Cung Huyền Vũ vậy”
523
_Một số hình Tượng Diệu Kiến Bồ Tát ở Nhật Bản
524
525
_Mật Giáo Đồ Tượng, quyển 3 ghi nhận vài hình tượng của Diệu Kiến Bồ
Tát:hoặc làm hình Bồ Tát, hoặc làm hình Thiên Nữ cỡi Rồng ở trong Mây, có hai cánh
tay hoặc bốn cánh tay. Trong đó tượng hai tay thì tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có
bảy vì sao Bắc Đẩu (Bắc Đẩu Thất Tinh), tay phải: ngón cái và ngón trỏ cùng vịn nhau,
hơi co ngón giữa, hướng lòng bàn tay ra bên ngoài làm Ấn Thuyết Pháp, đầu đội mão
báu, ngồi Kiết Già ở trong mây ngũ sắc
526
527
528
_Diệu Kiến Bồ Tát Man Đa La:
Tức Mật Giáo dùng hiển bày Man Đa La Nội Chứng của Diệu Kiến Bồ Tát. Đồ
Thức ấy là: Tại trong vành trăng lớn ở trung ương, vẽ Diệu Kiến Bồ Tát làm Trung
Tôn (Tôn ở chính giữa), chu vi ấy vẽ 7 vành trăng nhỏ, trong vành trăng có bảy vì sao
Bắc Đẩu, đây là Chúng của Nội Viện. Bắc Đẩu Thất Tinh y theo phương vị của vành
trăng thuận theo thứ tự là: Tây Nam vẽ Tham Lang Tinh, mặt Tây vẽ Cự Môn Tinh,
Tây Bắc vẽ Lộc Tồn Tinh, mặt Bắc vẽ Văn Khúc Tinh, Đông Bắc vẽ Liêm Trinh
Tinh, mặt Đông vẽ Vũ Khúc Tinh, Đông Nam vẽ Phá Quân Tinh. Trước mặt Diệu
Kiến Bồ Tát để một Luân Bảo
Ngoại Viện y theo phương vị, thuận theo thứ tự vẽ:
Phương Đông, vị trí Dần là Giáp Dần Tướng Quân, vị trí Mão là Đinh Mão
Tòng Thần, vị trí Thìn là Giáp Thìn Tướng Quân.
Phương Nam: vị trí Tỵ vẽ Đinh Tỵ Tướng Quân, vị trí Ngọ vẽ Giáp Ngọ Tướng
Quân, vị trí Mùi vẽ Đinh Mùi Tòng Thần
Phương Tây: vị trí Thân vẽ Giáp Thân Tướng Quân, vị trí Dậu vẽ Đinh Dậu
Tướng Quân, vị trí Tuất vẽ Giáp Tuất Tướng Quân
Phương Bắc: vị trí Hợi vẽ Đinh Hợi Tòng Thần, vị trí Tý vẽ Giáp Tý Tướng
Quân, vị trí Sửu vẽ Đinh Sửu Tòng Thần
Lại ở bốn góc, bốn cửa dùng ngôi sao (tinh) làm Giới. Ở khoảng trống của bốn
góc vẽ cái bình hoa. 529
530
_Mật Giáo Đồ Tượng, quyển 3, trang 52 ghi nhận là:
Trong Điện có mây ngũ sắc, trong mây có chữ A (ㅥ) biến thành báu Như Ý, báu
biến thành Diệu Kiến Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa sen có bảy vì sao Bắc
Đẩu, tay phải tác Ấn Thuyết Pháp, ngồi Kiết Già trong mây ngũ sắc, nhóm Bắc Đẩu
Thất Tinh vây quanh
,)Căn Bản Ấn: Tay phải tác Thí Vô Úy co ngón cái hướng vào thân triệu vời 3
lần, tay trái tác Kim Cương Quyền an ở eo lưng
Chân Ngôn là:
ᛸᚎᚒᚐᝐ㪪 ㅥᡔ㪪 ㅩᚐ㪪 ᗜᗚ㪪 ᛬㗟ᚒ㪪 㗚㍫ᡔ㪪 ㅩᚐ㪪 ᗜ㇂
㇂ᚒ㪪 ᗚ㪪 ᛸᚌ 㛿
MATITE TUSUṬ ANYAMIṬ UTUṬ KUKIṬ BHALATEṬ YA CINYAṬ
UTUṬ KURA RATEṬ KIṬ MATA SVĀHĀ
.)Hoặc dùng Đại Tam Cổ Ấn.
Kỳ Diệu Tâm Chú:
㫘 ᝐ⹌㌌ 㛿
OṂ SU-DṚṢṬA SVĀHĀ 531
_Hoặc:
ᛸ⹄ ᝎ㛰 㛿
MATṚ SIDDHA SVĀHĀ
_Tâm Trung Tâm Chú:
㫘 ᛸᩃᜊ ⹔㊞ 㛿
OṂ MAHĀ-ŚRĪYE NṚVE (?DEVĪ) SVĀHĀ
_Thành Tựu Viện:
Trong lầu gác có tòa hoa sen, trên tòa có chữ SU (ᝐ), chữ SU biến thành hình
ngôi sao, hình ngôi sao biến thành Diệu Kiến Bồ Tát, tay trái cầm hoa sen, trên hoa
sen làm hình bảy ngôi sao Bắc Đẩu, tay phải tác Ấn Thuyết Pháp, năm ngón tay kèm
duỗi hướng lên trên, đem ngón cái vịn bên cạnh ngón trỏ, lòng bàn tay hướng ra bên
ngoài. Áo Trời, Anh Lạc, vòng đeo tai, xuyến trang nghiêm thân ấy, ngồi Kiết Già
trong mây ngũ sắc, bảy vì sao Bắc Đẩu với 12 Đại Tướng trước sau trái phải cung kính
vây quanh.
Ấn: tay phải tác Thí Vô Úy co ngón cái hướng về thân triệu vời 3 lần, tay trái tác
Kim Cương quyền an ở eo lưng
Căn Bản Chân Ngôn:
㫘 ᛸᚒ ᚐ㫳㪪 ㅥᡔ㪪 ㅩᚐ㪪 ᗜᗚ㪪 ᛬㗟ᚒ㪪 㗚 ᜪᠼ㪪 ㅩᚐ㪪
ᗜ᜔ᚒ㪪 ᗚᛸᚌ 㛿
OṂ_ MATE TUSUṂṬ ANYAMIṬ UTUṬ KUKIṬ BHALATEṬ YA
VIDYAṬ UTUṬ KURUTEṬ KIMATA SVĀHĀ
_ Mật Giáo dùng Bồ Tát này làm Bản Tôn của Pháp tu thì xưng là Diệu Kiến
Pháp, Bắc Thần Pháp, Tôn Tinh Pháp có thể trừ khử tai ách, thủ hộ quốc thổ, trị
khỏi bệnh tật về con mắt….
Tự Viện của Đông Mật, hàng năm thường thực hành Nhương Tinh Pháp Hội,
trong đó Diệu Kiến Bồ Tát là một Chủ Tôn của Mạn Đà La
Biên soạn xong Chư Bồ Tát Bộ vào ngày 03/04/2014
532
TƯ LIỆU THAM CỨU
*) Hán Văn:
_Đại Chính Nguyên Bản Đại Tạng Kinh: Tập 18, Tập19, Tập 20, Tập 21
_ Mật Giáo Đồ Tượng: Tập 3, Tập 4, Tập 5, Tập 6, Tập 7, Tập 8, Tập 9, Tập 10
_ Phật Giáo Tiểu Bách Khoa: Từ quyển 1 đến quyển 18
_Phật Quang Đại Từ Điển
_Bách Khoa Toàn Thư
_Phật Giáo Thủ Ấn Đồ Thuyết_ Thi Vân Thủy biên soạn
_Mật Giáo Đại Tự Điển_ Tập 6
_Phật Tượng Đồ Vựng
*) Việt Văn:
_Thai Tạng Giới Man Đa La _ Huyền Thanh biên soạn
_Kim Cương Giới Man Đa La_ Huyền Thanh biên soạn
_Đại Bi Quán Âm Căn Bản Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Thần Chú Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Thập Nhị Thiên Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Tinh Tú Pháp_ Huyền Thanh biên dịch
_Tranh Tượng và Thần Phổ Phật Giáo_Louis Frédéric_ Việt dịch Phan Quang
Định (NXB Mỹ Thuật_năm 2005)
_Một số bài dịch của Tống Phước Khải
*) Trang Web:
_buddha-dharma.org
_tangthuphathoc.net
_chuaminhthanh.com
_electricwombworld.blog.fc2.com
_zenheart.hk
_en.wikipedia.org
_zh.wikipedia.org
_haaram.com
_sriharivayuguru.blogsport.com
_fanbop.com
_fodian.net
_haripurush-jagadbandhu.org
_hindudevotionalpower.com
_speakingtree.in
_qcny.net
_baike.baidu.com
_Một số Tôn Tượng trên images của google.com và Tư Liệu của Tống Phước
Khải
533
MỤC LỤC
1_ Thay lời tựa ...............................................................................................Tr.01
2_Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát...............................................................................Tr.02
3_Phổ Hiền Bồ Tát ..........................................................................................Tr.66
4_Quán Thế Âm Bồ Tát ..................................................................................Tr.97
5_Địa Tạng Bồ Tát ........................................................................................Tr.143
6_Di Lặc Bồ Tát ............................................................................................Tr.210
7_Kim Cương Tát Đỏa Bồ Tát ......................................................................Tr.239
8_Đại Thế Chí Bồ Tát ...................................................................................Tr.298
9_Nhật Quang Bồ Tát ...................................................................................Tr.302
10_Nguyệt Quang Bồ Tát .............................................................................Tr.308
11_Dược Vương Bồ Tát và Dược Thượng Bồ Tát .......................................Tr.319
12_Hư Không Tạng Bồ Tát...........................................................................Tr.334
13_Trừ Cái Chướng Bồ Tát ..........................................................................Tr.388
14_Bất Không Kiến Bồ Tát...........................................................................Tr.404
15_Diệt Ác Thú Bồ Tát .................................................................................Tr.408
16_Trừ Ưu Ám Bồ Tát ..................................................................................Tr.414
17_ Hương Tượng Bồ Tát .............................................................................Tr.419
18_Đại Tinh Tiến Bồ Tát ..............................................................................Tr.425
19_ Trí Tràng Bồ Tát ....................................................................................Tr.429
20_ Vô Lượng Quang Bồ Tát........................................................................Tr.433
21_Hiền Hộ Bồ Tát .......................................................................................Tr.437
22_ Quang Võng Bồ Tát ...............................................................................Tr.443
23_ Vô Tận Ý Bồ Tát ....................................................................................Tr.449
24_Biện Tích Bồ Tát .....................................................................................Tr.454
25_Kim Cương Tạng Bồ Tát.........................................................................Tr.458
26_Tám vị Đại Bồ Tát trong Phật Giáo Đông Độ ........................................Tr.463
27_ Tám vị Đại Bồ Tát trong Tạng Truyền Phật Giáo .................................Tr.486
28_Hai mươi lăm vị Bồ Tát ở phương Tây...................................................Tr.495
29_ Diệu Kiến Bồ Tát ...................................................................................Tr.521
30_ Thư mục tham cứu .................................................................................Tr.532
31_ Mục lục...................................................................................................Tr.533
534
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét