Ngộ Đạt Quốc Sư soạn
Thích Huyền Dung dịch Việt văn
TỪ BI TAM MUỘI
THỦY SÁM
PL 2535
1
TỪ BI TAM MUỘI
THỦY SÁM
2
“Tội từ tâm khởi
Cũng từ tâm diệt
Tội diệt tâm không
Cả hai đều hết”
“Nguyện nghiệp chướng, Báo chướng,
Phiền não chướng ba chướng tiêu trừ.
Nguyện Tân duyên, Cựu duyên,
Oan trái duyên, mọi duyên giải thoát.”
3
TỰA
Con người là trung tâm điểm. Hoạt động của con
người chi phối hết thảy. Cho nên muốn xây dựng một xã
hội mới, trước hết phải đổi mới chính con người.
Đó là điều mà khi nào nói đến Đạo Phật ta cũng phải
nhớ, bởi vì Đạo Phật là đạo căn bản, chú trọng đến cái căn
bản là Con Người. Cho nên hầu hết phương pháp Đạo Phật
đều thiết lập trên sự xác nhận ấy. Thí dụ phương pháp
SÁM HỐI là một…
Sám hối nghĩa là tự giác đổi mới để đi đến địa vị
“hoàn nhân”: một nhân cách hoàn toàn viên mãn, mới mẻ.
Mà con người đã là trung tâm điểm thì con người phải mới
đã, xã hội, gia đình của con người mới mới. Còn con người
bị bỏ rơi, thì cái gì vào tay con người ấy cũng nguy hiểm;
và kết quả, con người đã cũ, thì gia đình xã hội con người
ấy dù được gọi là hạnh phước, cũng chỉ là đau khổ trá
hình.
Cho nên Sám hối là phương pháp, cần thiết giúp cho
những người thành thật muốn tự đổi mới, muốn xây dựng
một xã hội an lạc.
Nhưng muốn Sám hối phải làm sao? Phải có sự tự
giác ở trong và phải có sự quy hướng ở ngoài giúp thêm.
4
Sự tự giác ở trong hệ trọng là 4 điều này:
1. Tâm quí: thấy nhân cách thấp kém là tự sỉ nhục.
2. Yếm ly: thấy thân mệnh là vật đáng hy sinh.
3. Bồ đề tâm: lập chí cứu người cứu vật.
4. Quán thân Phật: đó là một “hoàn nhân” mà ta phải
thực hiện cho kỳ được
Sự qui hướng ở ngoài thì không ngoài Tam Bảo:
1. Phật Đà: đấng giác ngộ sự thật.
2. Đạt Ma: sự thật của vạn vật.
3. Tăng già: người thật hành sự thật.
Đức Phật từng dạy: ngã ở đâu chống ở đó mà dạy: tội
từ tâm sinh phải do tâm diệt.
Cho nên Sám hối thì trong phải có các tâm thù thắng,
ngoài phải cầu các Đấng Đại Giác. Cầu nguyện các Đấng
Đại Giác là cầu sự chứng minh của các vị hoàn nhân để
giúp cho ta bền chí hoàn thành cái địa vị ấy. Còn sự cầu
đảo chỉ là cầu đảo…
Do những điều trình bày trên, bây giờ ta đã có thể
thấy Sám hối là phương pháp cần thiết cho tất cả mọi
người ở trong mọi trường hợp. Một xã hội an lạc có thể
thật hiện dễ dàng, nếu tất mọi người đều có chút tự giác
trong mỗi một hành động, rằng “ có hợp lý không? ”
5Và, trong ba tạng Thánh giáo, bộ Thủy sám phổ
thông nhất là vì thế.
Nhận thấy sự quan hệ ấy nên trong kỳ an cư năm
2512, pháp hữu tôi, thầy Giảng sư Thích Huyền Dung, vừa
hành sám vừa phiên dịch bộ Thủy Sám này ra quốc ngữ.
Khi hoàn thành rồi có hai pháp hữu Trí Đức và Trí Nghiễm
khảo duyệt. Thật là một công đức viên mãn. Tôi nhất tâm
tùy hỷ nên viết mấy hàng để giới thiệu tính cách hệ trọng
của phương pháp Sám hối và bộ Thủy Sám này.
Ngày kỷ niệm xuất gia của Bổn Sư năm 2513
THÍCH TRÍ QUANG
6
DUYÊN KHỞI
Thiết nghĩ ngoài những kinh, luật, luận của thánh
giáo đã phiên dịch, nhiều sách vở của hiền nhân chế tác về
sau đều do nơi sự cảm ứng mà làm ra cả. Nếu riêng từng
phẩm loại mà nói thì không dễ gì kể ra cho hết được. Ngay
như bản linh văn này mà gọi là Thủy Sám, tôi xin nói rõ
căn do.
Thuở xưa về triều vua Đường Ý Tôn có một vị quốc
sư hiệu là Ngộ Đạt, tên là Tri Huyền. Lúc chưa hiển đạt,
ngài thường gặp gỡ nhà sư ở đất Kinh Sư trong một ngôi
chùa nọ. Nhà sư ấy mắc bệnh ca ma la (bệnh cùi) ai cũng
gớm, chỉ có ngài Tri Huyền là thường gần gũi hỏi han,
không hề nhàm chán. Nhân khi chia tay, nhà sư vì quá cảm
kích phong thái của ngài Tri Huyền mới dặn rằng:
- Sau này ông có nạn chi nên qua núi Cửu Lũng tại
Bành Châu đất Tây Thục tìm tôi và nhớ trên núi ấy có hai
cây tùng làm dấu chỗ tôi trú ngụ.
Sau đó ngài Ngộ Đạt quốc sư đến ở chùa An quốc
thì đạo đức của ngài càng vang khắp. Vua Ý Tôn thân hành
đến pháp tịch nghe ngài giảng đạo. Nhân đó vua mới ân tứ
rất hậu cho ngài cái pháp tọa bằng gỗ trầm hương và từ đó
trên đầu gối của ngài bỗng nhiên mọc mụn ghẻ tựa như
7mặt người, đau nhức khôn xiết! Ngài cho mời tất cả các
bậc danh y, nhưng không ai chữa được. Nhân ngài nhớ lại
lời dặn trước bèn đi vào núi mà tìm.
Trên đường đi, trời đã mờ tối, trong khoảng âm u
mây bay khói tỏa mịt mù, ngài nhìn xem bốn phía, bỗng
thấy dạng hai cây tùng ngài mới tin rằng lời ước hẹn xưa
kia không sai. Ngài liền đi ngay đến chỗ đó, quả nhiên thấy
lầu vàng, điện ngọc lộng lẫy nguy nga, ánh quang minh
chói rọi khắp nơi. Trước cửa nhà sư đang đứng chờ đón
ngài một cách thân mật.
Nhân ở lại đêm, ngài Ngộ Đạt mới tỏ hết tâm sự đau
khổ của mình. Nhà sư ấy nói:
Không hề gì đâu, dưới núi này có một cái suối, sáng
ngày rửa mụn ghẻ ấy khỏi ngay.
Mờ sáng hôm sau một chú tiểu đồng dẫn ngài ra
ngoài suối. Ngài vừa bụm nước lên rửa thì mụn ghẻ kêu
lên:
- Đừng rửa vội. Ông học nhiều biết rộng đã khảo
cứu các sách cổ kim mà có từng đọc đến chuyện Viên Án,
Tiêu Thố chép trong bộ Tây Hán chưa?
- Tôi có đọc.
- Ông đã đọc rồi có lẽ nào lại không biết chuyện
Viên Án giết Tiêu Thố vậy. Thố bị chém ở chợ phía đông
8oan ức biết dường nào. Đời đời tôi tìm cách báo thù ông,
song đã mười kiếp ông làm bực cao tăng, giới luật tinh
nghiêm, nên tôi chưa tiện bề báo oán được. Nay vì ông
được nhà vua quá yêu chuộng nên khởi tâm danh lợi làm
tổn giới đức, tôi mới báo thù được ông. Nay nhờ ngài Ca
Nhã Ca tôn giả lấy nước pháp tam muội rửa oán cho tôi
rồi, từ đây trở đi tôi không còn báo oán ông nữa.
Ngài Ngộ Đạt nghe qua hoảng sợ liền vội vàng bụm
nước dội rửa mụn ghẻ làm nhức nhối tận xương tủy, chết
giấc hồi lâu mới tỉnh. Khi tỉnh lại thì không thấy mụn ghẻ
ấy nữa. Nhân đó ngài mới biết thánh hiền ẩn tích kẻ phàm
tình không thể lường được. Ngài muốn trở lên lạy tạ vị sư,
nhưng ngó ngoảnh lại thì ngôi bửu điện kia đã biến mất tự
bao giờ. Vì thế ngài bèn lập một cái thảo am ngay chỗ ấy
và sau trở thành một ngôi chùa. Đến năm Chí Đạo triều
nhà Tống mới sắc hiệu là “Chí Đức Thiền Tự”. Có một vị
cao tăng làm bài ký sự ghi chép việc này rõ ràng.
Khi đó ngài Ngộ Đạt nghĩ đến nỗi oan trái đã bao
đời nếu gặp thánh nhân thì do đâu giải khỏi được. Vì cảm
niệm cái ơn tế độ lạ lùng ấy, ngài mới thuật ra pháp sám
nầy để mai chiều lễ tụng, sau truyền bá khắp thiên hạ.
Ba quyển sám đây tức là bài văn của ngài làm ra lúc
đó vậy.
Nghĩa chính của bài văn này là lấy nước Tam muội
rửa sạch nghiệp oan nên mới đặt tên là Thủy Sám. Lại ngài
Ngộ Đạt cũng vì cảm điềm dị ứng của đức Ca Nhã Ca nên
9dùng tên ấy mà đặt tên cho bộ Sám văn này để đáp cái
thâm ân kia.
Nay tôi kể rõ sự thật và nêu công của tiên đức để
cho những người đọc bộ sám văn nầy, hoặc lễ, hoặc tụng,
đều biết sự tích của tiền hiền vì lẽ nhân quả tuy nhiều kiếp
cũng không sai chạy.
(Bài này tôi cố tìm tên tác giả mà không thấy)
10
PHẦN NGHI LỄ
(Mọi người đều đứng chỉnh tề trước TAM BẢO mật niệm)
Tịnh pháp giới chân ngôn
Án Lam Sa Ha (3 lần)
(Chủ sám đọc)
Hết thảy cung kính. Dốc lòng kính lễ mười
phương pháp giới thường trụ TAM BẢO. (3
lễ)
(Mọi người quỳ nguyện hương)
Nguyện đem lòng thành kính.
Gửi theo đám mây hương.
Phảng phất khắp mười phương.
Cúng dàng ngôi TAM BẢO.
Thề trọn đời giữ đạo,
Theo tự tính làm lành.
Cùng pháp giới chúng sinh.
11Cầu Phật từ gia hộ;
Tâm Bồ đề kiên cố.
Xa bể khổ sông mê.
Chóng quay về bờ giác.
Cúng dàng đoạn… Dốc lòng kính lễ mười
phương pháp giới thường trụ TAM BẢO. (1
lễ)
(Mọi người đều đứng dậy chắp tay tán phật)
Đấng Pháp vương vô thượng,
Ba cõi chẳng ai bằng,
Thầy dậy khắp trời người.
Cha lành chung bốn loài.
Quy y trọn một niệm.
Dứt sạch nghiệp ba kỳ,
Xưng dương cùng tán thán.
Ức kiếp không cùng tận.
Án phạ nhật la vật. (3 lần)
Nhất tâm đỉnh lễ, tận hư không, biến pháp
giới, Quá Hiện, Vị lai, chư Phật, tôn pháp,
hiền thánh tăng thường trụ TAM BẢO. (1 lễ)
12Nhất tâm đỉnh lễ, Sa bà giáo chủ Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Tây phương Cực Lạc giáo
chủ A Di Đà Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đương lai Giáo chủ Di Lặc
Tôn Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Hạnh Phổ Hiền Vương
Bồ Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ
Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Bồ Tát. (1 lễ)
13
Nhất tâm đỉnh lễ, Ca Nhã Ca Bồ Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Ngộ Đạt Quốc Sư Bồ Tát.
(1 lễ)
Con nay xin vì bốn ân ba cõi, pháp giới chúng
sinh, nguyện dứt bỏ mọi nghiệp chướng lỗi
lầm, chí thành Sám hối. (1 lễ)
(Cùng quỳ để sám hối).
Chúng con xin chí thành sám hối. Xưa
kia gây nên bao ác nghiệp.
Đều vì ba nghiệp Tham, sân, si.
Bởi thân, miệng, ý phát sinh ra.
Hết thảy con nay xin sám hối.
Sám hối đoạn… Dốc lòng kính lễ Tam Bảo
thường ở khắp mười phương. (1 lễ)
(đồng quỳ, chủ sám thỉnh)
Kính nghe: Lòng Từ Mẫn hằng vì muôn
vật, tâm Bi Nguyện khéo độ quần sinh.
14
Hai chữ TỪ BI làm tiêu hết muôn nghìn
tội lỗi. Một lời niệm Phật cũng diệt trừ trăm
vạn oan khiên.
Nguyên nhân làm ra văn THỦY SÁM
này, là do VIÊN ÁN, TIỀU THỐ hai người,
vì kết thành mối oán hờn, nên nghiệp quả kia
khó tránh.
Dưới bóng Song Tùng ngài CA NHÃ
hiện Phạm thể đoan nghiêm, trong ao TAM
MUỘI ngài NGỘ ĐẠT thoát oan sang1
khổ
nạn. Nhân Từ tâm hướng về thiện niệm, vì
thế nên đất hiện suối thơm, Văn THỦY SÁM
này mở đầu, là nguyên do từ đó.
Sở dĩ, một giọt nước thấm nhuần lại là
phương thuốc hay thoát khổ, một lời kêu Sám
hối thực là đạo tối yếu trừ khiên; khả dĩ đền
đáp được bốn ơn sâu; khả dĩ tiêu tan nhiều
đời tội nặng; khả dĩ cứu vớt cực khổ nơi ba
1
mụn hình mặt người mọc nơi đầu gối.
15đường; khả dĩ gỡ mối oan khiên trong nhiều
kiếp. Công đức sám ma ấy, khen ngợi mãi
không cùng.
Hôm nay đàn tràng nghiêm tịnh, tiệc
pháp kính bày. Quy mệnh mười phương
ĐIỀU NGỰ, kính lễ PHỔ HIỀN nguyện
vương, vận tưởng hương hoa, một lòng dâng
cúng.
Muốn cho căn lành trong sạch, trước nên
nghiệp chướng tiêu tan. Cúi mong đức Đại
TỪ BI, trông xuống rủ lòng soi xét.
Nam mô cầu SÁM HỐI Bồ Tát Ma Ha
Tát. (3 lần)
(Chủ sám và mọi người ngồi, cùng tụng theo nhịp mõ)
THIÊN THỦ, THIÊN NHỠN VÔ NGẠI
ĐẠ BI TÂM ĐÀ LA NI
Nam mô hát ra đát na đá ra giạ gia. Nam
mô a rị gia, bà lô yết đế, thước bát ra gia, bồ
16đề tát đá bà gia, ma ha tát đá bà gia, ma ha ca
lô ni ca gia. Án, tát bà ra phạt duệ, số đát na
đát tả. Nam mô tất cát rị đóa y mông a rị gia,
bà lô cát đế thất phật la lăng đà bà. Nam mô
na ra cẩn trì hê rị ma ha bàn đá sa mế, tát bà a
tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà, tát đá,
na ma bà già, ma phạt đặt đậu, đát điệt tha.
Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, gi hê rị, ha
ha bồ đề tát đóa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ha
hê mê hê, rị đà dựng, câu lô câu lô yết mông,
độ lô độ lô, phạt sà gia đế, ma hạ phạt sà gia
đế, đà ra đà ra đị rị ni, thất phật ra gia, giá ra
giá ra, ma ma phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di
hê, thất na thất na, a ra sấm phật ra sá lị phạt
sa phạt sấm, phật ra sá ra, hô lô hô lô ma ra,
hô lô hô lô hê rị, sa ra sa ra, tất rị tất rị, tô lô
tô lô, bồ đề giạ bồ đề giạ, bồ đà giạ bồ đà giạ,
di đế rị giạ na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba giạ
ma na, sa bà ha, sa bà ha, tất đà giạ, sa bà ha,
ma ha tất đà giạ, sa bà ha, tất đà dụ nghệ, thất
bà ra giạ, sa bà ha, na ra cẩn trì, sa bà ha, ma
ra na ra, sa bà ha, tất ra tăng a mục già gia, sa
bà ha, sa bà ma ha, a tất đà giạ, sa bà ha, giả
17cát ra a tất đà giạ, sa bà ha, ba đà ma yết tất
đá giạ, sa bà ha, na ra cẩn trì bà già ra gia, sa
bà ha, ma bà rị thắng yết ra giạ sa bà ha.
Nam mô hát ra đát na đá ra giạ ra, Nam mô a
rị gia, bà lô cát đế thước bàn ra giạ, sa bà ha.
Án, tất điện đô, mạn đá ra, bạt đà gia, sa bà
ha.
Nam mô Ly cấu địa bồ tát ma ha tát. (3
lần)
(Quỳ đọc bài thỉnh Phật cầu gia hộ)
Kính nghe: Mỗi đức Phật ra đời mở tám
vạn bốn nghìn cửa Pháp. Một mặt trăng cõi
thiên phá tối tăm quần sinh nơi đại địa. Mở
rộng đạo mầu Nhất thừa, sám diệt tội khiên
hết thảy. Kính xin bảy Phật THẾ TÔN Mười
phương TỪ PHỤ, hiện tướng hào quang sáng
suốt, giám soi ý khẩn chân thành.
Phụng vì cầu sám cho con tên là… Vận
sức TỪ BI ĐẠO TRÀNG THỦY SÁM. Đây
là quyển thượng duyên khởi vào đàn, hành
18nhân chúng con, quỳ gối chắp tay, kính lễ
mười phương TAM BẢO, quy y hết thảy
Thánh Tăng, dãi tỏ cầu thương, mở bày sám
hối.
Trộm nghĩ: Chúng con tên là… Nhất
Tính trái ngang chìm đắm hướng về trong bốn
thú, Nhất Chân mờ mịt loanh quoanh ở mãi
trong sáu đường. Nghiệp Thân, Miệng, Ý
buông lung, vì Tham, Sân, Si phóng túng, làm
càn làm bậy tạo ra nghiệp chướng vô biên,
theo ác theo tà gây lấy lỗi lầm nhiều thứ.
Nay nhờ đức NHƯ LAI mở bày của
pháp phương tiện, khiến cho lũ chúng con
phát khởi tâm thành sám hối. Mong nhờ
Thanh chúng, mở đọc sám văn, rửa sạch tội
cấu nghìn đời, trừ hết oan khiên nhiều kiếp.
Con nguyện được như vậy, xin Phật rủ lòng
thương, Ngưỡng mong đức Đại Từ Bi, vì con
mà ngầm giúp.
(đại chúng ngồi tụng)
19
Lư hương vừa đốt,
Cõi pháp thơm lây
Chư Phật bốn biển đều xa hay
Thấu tâm thành này
Chư Phật hiện thân ngay
Nam mô Hương vân cái Bồ tát Ma ha
tát. (3 lần)
Chân ngôn tịnh tam nghiệp:
Án sa phạ bà phạ chuật đà sa phạt đạt ma
sa phạ bà phạ chuật đô hám . (3 lần)
Chân ngôn phổ cúng dàng:
Án nga nga nẵng tam bà phạ phiệt nhiệt
la hộc. (3 lần)
Lời Phát nguyện
Kính lễ Đức Thế Tôn
Quy mệnh mười phương Phật
Con nay phát nguyện lớn
Trì tụng hành sám văn
20Trên đền bốn trọng ân
2
Dưới cứu khổ muôn loài
Nếu có ai thấy nghe
Đều phát tâm Bồ Đề
Tu tập các công đức
Thực hành hạnh lợi tha
Khi hết báo thân này
Đều vãng sinh Cực lạc.
KỆ KHAI KINH
Chính pháp sâu xa rất nhiệm mầu!
Trăm nghìn ức kiếp cũng khó gặp.
Con nay thấy nghe xin thụ trì,
Nguyện hiểu nghĩa Chân của Như Lai.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần)
Khải vận đạo tràng Sám pháp, một
lòngquy mệnh chư Phật trong ba đời.
2
1. Ơn sư hữu, 2. Ơn cha mẹ, 3. Ơn chúng sinh, 4. Ơn thí chủ.
21Nam mô Quá khứ Tỳ Bà Thi Phật.
3
(1
lạy)
Nam mô Thi Khí Phật.
4
(1 lạy)
Nam mô Tỳ Xá Phù Phật.
5
(1 lạy)
Nam mô Câu Lưu Tôn Phật.
6
(1 lạy)
Nam mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
7
(1
lạy)
Nam mô Ca Diếp Phật.
8
(1 lạy)
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
9
(1 lạy)
3
Tỳ bà Thi Phật là tiếng Phạn, Tàu dịch có bốn nghĩa: 1. Biến kiến
là trí viên mãn như mặt trăng đầy; 2. Tịnh quang: phiền não hoặc tập
không còn; 3. Đã viên tịch; 4. Quán kiến thù thắng. Do thế nên Tỳ bà
Thi Phật đứng đầu trong bảy đức Phật.
4
Thi khí Phật là tiếng Phạn, Tàu dịch là Hỏa Đức. Đức Phật này y
nơi hỏa quang tam muội mà thành đạo.
5
Tỳ Xá Phù Phật là tiếng Phạn. Tàu dịch là Tự Tại. Đức Phật này
dứt hết vô minh hoặc tập, đối với chỗ nào cũng được tự tại.
6
Câu Lưu Tôn Phật là tiếng Phạn, Tàu dịch là Ưng đoạn. Đức Phật
này đoạn được tất cả phiền não.
7
Câu Na Hàm Mâu Ni Phật là tiếng Phạn, Tàu dịch là Kim tiên. Đức
Phật này thân như sắc vàng ánh.
8
Ca Diếp Phật là tiếng Phạn, Tàu dịch là Ẩm Quang. Thân đức Phật
chói sáng nuốt hết các ánh sáng khác.
9
Thích Ca Mâu Ni là tiếng Phạn, Tàu dịch là Năng Nhân Tịch Mặc.
Năng Nhân là họ, Tịch Mặc là tên chữ. Đức Phật này không trụ nơi
đường sanh tử, không trụ Niết bàn, hay vận cả bi và trí lợi vật không
cùng.
22Nam mô Đương lai Di Lặc Tôn Phật.
10
(1
lạy)
Trong bảy đức Phật này, ba đức Phật trước thuộc về quá khứ Trang
nghiêm kiếp, còn bốn đức Phật sau thuộc về hiện tại Hiền kiếp. Kiếp,
nói cho đủ theo tiếng Phạn là kiếp ba, Tàu dịch là phân biệt thời
tiết…
10
Di Lặc là họ, chính tên là A Dật Đa, do nơi từ tâm tam muội mà
tiến lên quả vị cùng tột.
23
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
(QUYỂN THƯỢNG)
Tất cả chư Phật, thương xót chúng
sinh, nói pháp lập đàn Thủy Sám. Chúng
sinh vì nghiệp cấu nặng nề nên không
một ai tránh khỏi tội lỗi. Những kẻ phàm
phu bị màn vô minh che lấp, gần gũi bạn
ác, phiền não loạn tâm, tính không hiểu
biết, nên cứ buông lòng tự thị, không tin
tưởng mười phương chư Phật, không tin
tôn pháp cùng các bậc thánh tăng, bất
hiếu cha mẹ, không kính nhường bà con.
Tuổi trẻ phóng túng, kiêu căng ngạo
mạn, đối với các vật quí báu, các thứ ca
nhạc, các sắc đẹp, trai gái thường sinh
tâm tham luyến, ý khởi phiền não, lân la
với người hư, tập tành theo bạn ác,
không biết chừa đổi. Hoặc giết hại các
giống sinh linh, hoặc uống rượu mê man
24mất hết trí tuệ, rồi thường cùng với
chúng sinh tạo nghiệp phá giới. Những
tội lỗi ở quá khứ, cùng tội ác ở hiện tại,
ngày nay chí thành xin sám hối hết thảy,
còn các tội lỗi về sau không dám làm
nữa.
Bởi thế hôm nay chúng con dốc lòng
thành kính qui y hết thảy các đức Phật,
các vị Đại Bồ Tát, Bích Chi, La Hán,
Phạm Vương Đế Thích, Thiên long bát
bộ và tất cả thánh chúng trong mười
phương hư không thế giới cầu xin dủ
lòng chứng giám.
LỄ PHẬT VÀ BỒ TÁT
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
25Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đỉnh lễ các đức Phật rồi, lại đến sám
hối. Nhưng, muốn lễ sám trước phải kính
lễ Tam Bảo, vì Tam Bảo là bạn lành, là
ruộng phước của tất cả chúng sinh. Nếu
qui hướng Tam bảo thì diệt được vô
lượng tội, thêm được vô lượng phước,
26khiến người làm đạo thoát khổ sinh tử,
được vui giải thoát. Vì vậy cho nên
chúng con tên là…
Qui y hết thảy chư Phật trong mười
phương hư không thế giới. (1 lạy)
Qui y hết thảy tôn Pháp trong mười
phương hư không thế giới. (1 lạy)
Qui y hết thảy thánh Tăng trong
mười phương hư không thế giới. (1 lạy)
Sở dĩ ngày nay chúng con sám hối,
chính vì từ vô thỉ nhẫn lại,còn ở địa vị
phàm phu bất cứ sang hèn, tội lỗi không
lường: hoặc do ba nghiệp gây nên tội lỗi,
hoặc bởi sáu căn gây nên tội lỗi, hoặc vì
nội tâm vọng tưởng, hoặc vì ngoại cảnh
mê hoặc sinh lòng nhiễm trước.
27Như thế cho đến mười điều ác
nghiệp, tám vạn bốn ngàn trần lao.
Những tội lỗi ấy tuy nhiều vô lượng,
nhưng không ngoài ba điều: phiền não,
nghiệp chướng, quả báo. Ba ác pháp nầy,
là pháp chướng ngại thánh đạo, ngăn trở
quả báo tốt đẹp nhân thiên. Thế nên Kinh
gọi là ba chướng, vì vậy chư Phật, Bồ tát
dạy làm những pháp phương tiện sám
hối trừ diệt. Ba chướng ấy diệt thì sáu
căn,
11
mười ác
12
cho đến tám vạn bốn
ngàn trần lao13
thảy đều thanh tịnh.
11
Sáu căn: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý.
12
Mười ác: 1/ sát sanh, 2/ trộm cắp, 3/ tà dâm, 4/ nói dối, 5/ nói thêu
dệt, 6/ rủa nguyền (nói lời ác), 7/ nói hai lưỡi, 8/ tham, 9/ sân, 10/ si.
13
Tám vạn bốn ngàn trần lao: trần là nhiễm ô, nghĩa là các thứ tà
kiến, phiền não hay làm nhiễm ô chơn tánh; lao là nhọc nhằn, nghĩa
là các tà kiến phiền não làm cho chúng sanh trôi lăn trong đường
sanh tử.
Luận về căn bản phiền não không ra ngoài mười sử: 1/ tham, 2/
sân, 3/ si, 4/ mạn, 5/ nghi, 6/ thân kiến, 7/ biên kiến, 8/ tà kiến, 9/
kiến thủ, 10/ giới thủ. Trong mười sử này, tùy lấy một sử làm đầu,
chín sử làm phụ, nhân thành một trăm, nhân lại cho ba đời quá khứ,
hiện tại, vị lai thành ra ba trăm. Số một trăm về đời hiện tại, vì thời
gian quá ngắn, không kể đến chỗ tương trợ, chỉ kể quá khứ và vị lai
có hai trăm sử, lại cứ lấy mỗi sử làm đầu, chín sử làm phụ, nhân
28
Hôm nay chúng con là… đem hết
lòng thành, vận tâm thù thắng sám hối ba
chướng. Muốn diệt ba chướng phải dùng
những tâm niệm nầy: Trước phải phát
bảy tâm thù thắng làm phương tiện, sau
mới trừ diệt:
Một là tâm tủi hổ; hai là tâm e sợ; ba
là tâm chán xa; bốn là tâm bồ đề; năm là
tâm oán thân bình đẳng; sáu là tâm nghĩ
báo ân Phật; bảy là tâm quán xét tội tính
vốn không.
Thứ nhứt tâm tủi hổ, là tự nghĩ ta
với đức Thích Ca đồng là phàm phu, mà
đức Thế Tôn đã thành đạo đến nay trải
thành hai ngàn một trăm. Lại trải qua bốn phần: đa tham, đa sân, đa
si và đẳng phần, tổng số là tám ngàn bốn trăm (2100x4=8400). Lại
tính cả tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong) và lục suy (sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp) là mười thứ, mỗi thứ có 8400, nhân thành tám muôn
bốn ngàn trần lao (8400x10=84000).
29qua số kiếp nhiều như cát bụi, chúng ta
thì lại còn cùng nhau say đắm lục trần14
trôi lăn trong vòng sinh tử, chưa biết bao
giờ ra khỏi. Như thế thật là đáng thẹn
đáng hổ nhất trong thiên hạ.
Thứ hai tâm e sợ, đã là phàm phu thì
thân, khẩu, ý nghiệp thường thuận ưng
với tội lỗi. Bởi nhân duyên ấy sau khi
chết phải đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, súc
sinh chịu khổ vô cùng. Như thế thật là
đáng kinh đáng sợ.
Thứ ba tâm chán xa, là chúng ta
thường cùng nhau quán sát trong đường
sinh tử, chỉ là vô thường, khổ, không, vô
ngã, bất tịnh, hư giả như bọt nước nổi,
tan, xoay vần qua lại như bánh xe lăn;
còn thêm sinh, già, bịnh, chết, tám khổ,
14
Lục trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
30nung nấu không dừng. Chúng ta xem xét
ngay trong thân thể, từ đầu đến chân có
36 thứ: tóc lông, răng, móng, ghèn, nước
mắt, mũi, nước miếng, gàu, mồ hôi, đại
tiện, tiểu tiện, da dày, da mỏng, máu, thịt,
gân, mạch, xương, tủy, mỡ chài, mỡ
nước, óc, màng, lá lách, thận, tim, phổi,
gan, mật, ruột, dạ dày, đàm đỏ, đàm
trắng, sinh tạng, thục tạng, thường bài
tiết ra chín lỗ. Nên trong kinh nói: thân
này là chỗ chứa các khổ não, đầy dẫy bất
tịnh, nên kẻ trí giả chẳng hề yêu dấu.
Trong vòng sinh tử đã có những cái xấu
xa như thế, thực là đáng lo, đáng chán!
Thứ tư phát tâm bồ đề. Kinh nói:
“Nên ham muốn thân Phật vì thân Phật
tức là pháp thân. Pháp thân ấy do vô
lượng công đức trí tuệ sinh ra, do tu sáu
31pháp ba la mật
15
sinh ra, do từ, bi, hỉ, xả
sinh ra, do tu 37 pháp trợ bồ đề
16
sinh ra.
15
Sáu pháp ba la mật: 1/ bố thí, 2/ trì giới, 3/ nhẫn nhục, 4/ tinh tấn,
5/ thiền định, 6/ trí tuệ. Ba la mật là tiếng Phạn, Tàu dịch là “đáo bỉ
ngạn”. Do tu sáu pháp này mà qua khỏi biển sanh tử đến bờ giác
ngộ.
16
37 pháp trợ bồ đề là: 4 pháp niệm xứ, 4 pháp chánh cần, 4 pháp
như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 pháp giác chi, 8 pháp đạo phần. 37 pháp
này giúp cho người tu hành thành tựu được đạo quả nên gọi là trợ bồ
đề.
Bốn pháp niệm xứ: niệm là tâm năng quán (tâm hay quán sát), xứ
là cảnh sở quán (cảnh bị quán sát). Vì chúng sinh vọng chấp thân
ngũ ấm này nên Phật nói 4 pháp quán để đối trị: a/ quán thân bất tịnh
(quán sát thân này là vật nhơ bẩn); b/ quán thọ là khổ (quán sát sự
thọ lãnh của thân tâm là khổ); c/ quán tâm vô thường; 4/ quán pháp
vô ngã (quán sát các pháp không có chủ tể).
Bốn pháp chánh cần: 1/ đoạn những pháp ác đã sanh; 2/ đoạn
những pháp ác chưa sanh; 3/ làm cho các pháp lành tăng trưởng; 4/
làm cho các pháp lành chưa sanh được sanh.
Bốn pháp như ý túc: 1/ dục như ý túc (có tâm ham muốn tu tập các
pháp lành thì được như ý); 2/ niệm như ý túc (quán cảnh gì mà nhất
tâm chuyên chú vào đó thì được như ý); 3/ tinh tấn như ý túc (do sự
tinh tấn mà tu tập các pháp lành được như ý); 4/ tư duy như ý túc (do
suy nghĩ mà tu tập được kết quả).
Năm căn: 1/ tín căn: tin theo chánh đạo và trợ đạo; 2/ tinh tấn căn:
là sự dõng mãnh tu theo thiện pháp; 3/ niệm căn: ghi nhớ các pháp
chánh đạo và trợ đạo; 4/ định căn: nhiếp tâm theo chánh đạo và trợ
đạo; 5/ tuệ căn: nhờ có định mà chân tánh tự sáng suốt không phải ở
ngoài vào.
Năm lực: cũng như ngũ căn, nhưng vì thật hành theo ngũ căn thì
căn lành tuy có sanh, nhưng gốc ác chưa phá hết, nên phải gia công
32Do những công đức trí tuệ ấy sinh ra thân
Như lai. Muốn được thân đó thì phải phát
tâm bồ đề, cầu được nhất thiết chủng trí,
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh, chứng quả tát
bà nhã
17
thanh tịnh Phật độ, thành tựu
chúng sinh, chẳng tiếc thân mạng tài sản.
Thứ năm tâm oán thân bình đẳng,
là đối với tất cả chúng sinh, mở lòng từ
bi không phân “nhân ngã”. Vì nếu còn
tu tập thêm khiến cho thiện căn tăng trưởng. Khi thiện căn thành
thục, các pháp ác không còn thì gọi là ngũ lực.
Bảy pháp giác chi: Giác là tỏ, nghĩa là tỏ biết pháp tu chơn hay
ngụy; chi là ngành, nghĩa là bảy pháp này có chi phái khác nhau,
không xen lẫn nhau nên gọi là bảy pháp giác chi hay bảy pháp giác
phần: 1/ trạch pháp giác chi, 2/ tinh tấn giác chi, 3/ hỉ giác chi, 4/ trừ
giác chi, 5/ xả giác chi, 6/ định giác chi, 7/ niệm giác chi.
Tám pháp đạo phần: 1/ chánh kiến: sự hiểu biết chơn chánh, 2/
chánh tư duy: sự suy nghĩ chơn chánh, 3/ chánh ngữ: nói những lời
chơn chánh không hư vọng, 4/ chánh nghiệp: hành động chơn chánh,
5/ chánh mạng: lấy sự khất thực để nuôi sống thân mạng, 6/ chánh
tinh tấn: tu theo giới, định, tuệ một lòng tinh chuyên, không gián
đoạn, 7/ chánh niệm: ghi nhớ những pháp chơn chánh, 8/ chánh định:
thu nhiếp thân tâm thường được tịch tịnh.
17
Tát bà nhã là tiếng Phạn, Tàu dịch là nhất thiết chủng trí, tức là chỉ
cái trí ở quả vị rốt ráo viên mãn của chư Phật.
33thấy kẻ “oán” khác với người “thân”, tức
còn có sự phân biệt. Bởi có phân biệt
mới có chấp trước, bởi có chấp trước mới
sinh phiền não, bởi sinh phiền não mới
tạo nghiệp dữ, bởi tạo nghiệp dữ mới
chịu quả báo.
Thứ sáu tâm nghĩ báo ân Phật. Đức
Như Lai từ vô lượng kiếp đã vì chúng ta
mà bỏ cả đầu, mắt, tủy não, tay chân,
xương thịt, quốc thành, vợ con, voi ngựa,
thất bảo, tu hành khổ hạnh. Ơn ấy đức ấy
thật khó báo đền. Vì vậy kinh nói: “Giả
sử đầu đội vai mang, trải qua số kiếp như
hằng hà sa,cũng khó đền đáp ơn Phật.
Chúng ta muốn đền đáp công ơn của đức
Như Lai, trong đời này phải dũng mãnh,
tinh tiến, gắng chịu khổ nhọc, không tiếc
thân mệnh, gây dựng Tam Bảo, hoằng
dương giáo pháp đại thừa, hóa độ chúng
sinh, đồng vào ngôi Chính giác.
34
Thứ bảy tâm quán sét tội tính
không thật, là tội không tự tính, do nhân
duyên sinh, do điên đảo thành, đã do
nhân duyên sinh thì cũng do nhân duyên
diệt. Nhân duyên sinh tội tức là gần gũi
bạn ác, gây nghiệp vô cùng. Nhân duyên
diệt tội tức là ngày nay tịnh tâm sám hối.
Thế nên kinh dạy: “Tội tính không phải ở
trong, không phải ở ngoài, không ở
chặng giữa. Nên biết tội tính vốn không.”
Khởi bảy thứ tâm như trên ấy rồi,
lại duyên tưởng đến mười phương chư
Phật cùng các hiền thánh, cung kính chấp
tay phơi bày tâm can tỏ lòng cầu khẩn hổ
thẹn sám hối. Sám hối như thế, tội nào
không diệt, phước nào không sinh. Nếu
không hết lòng sám hối, cứ lần lữa biếng
nhác, tình tự buông lung thì chỉ khổ nhọc
cho mình, chứ không ích lợi gì cả. Vả lại
35mạng người vô thường như quay bó
đuốc. Khi hơi thở không trở lại thì thân
nầy đồng như tro đất, khổ báo trong ba
đường chính mình phải chịu, không thể
nhờ tiền tài, của báu lo để cầu thoát khỏi,
ở mãi trong cảnh mịt mù không có kỳ
hạn ân xá, riêng mình chịu khổ, không ai
thay thế.
Đừng cho rằng trong đời nầy ta
không gây tội, mà không ân cần cầu sám
hối, vì trong kinh nói: “kẻ phàm phu mỗi
khi động chân cất bước là đã có tội”. Lại
trong những đời quá khứ đã gây nên
nhiều điều ác nghiệp, không thể kể xiết,
nó thường theo dõi như bóng theo hình.
Nếu không sám hối thì tội ác càng ngày
càng sâu. Nên biết rằng hễ che dấu tội lỗi
mình, thì Phật còn không dung cho, tỏ
bày để sám hối thì ngài Tịnh Danh kính
chuộng. Bởi thế nên biết chúng sinh bị
36chìm đắm mãi trong bể khổ cũng do thói
hay che dấu tội lỗi. Vì vậy ngày nay
chúng con xin phát lộ sám hối, không
dám che dấu.
Ba chướng: một là phiền não, hai là
nghiệp chướng, ba là quả báo. Ba thứ
chướng nầy làm nhân cho nhau, như do
phiền não mới sinh ác nghiệp, do ác
nghiệp mà phải chịu khổ báo. Vì thế
ngày nay chúng con xin hết lòng sám
hôi.
Thứ nhất sám hối các nghiệp
chướng phiền não, vì những phiền não ấy
đều do ý gây ra. Vì khi ý nghiệp phát
khởi, thì thân nghiệp, khẩu nghiệp theo
đó phát động. Ý nghiệp có tham lam, có
giận dữ, có ngu muội. Bởi ngu muội mới
sinh tà kiến mà gây lắm việc ác. Vì vậy
kinh nói: “Ba nghiệp tham, sân, si làm
37cho chúng sinh đọa lạc trong ba đường:
địa ngục, ngạ quỉ súc sinh, chịu khổ vô
cùng. Nếu được làm người cũng phải
chịu những ác báo phiền não: nghèo nàn,
túng thiếu côi cút lại thêm tính nết hung
hăng, càn bướng, ngu độn, không biết
phải quấy.
Ý nghiệp đã gây nhiều ác quả như
thế, nên ngày nay chúng con dốc lòng
đem hết thân mệnh nương về chư Phật,
cầu xin sám hối.
Những phiền não ấy, chư Phật, Bồ
tát, các bậc thánh nhân, đã thấu tỏ chân
lý, đủ mọi điều quở trách. Gọi phiền não
này là oán gia, vì phiền não làm dứt mất
tuệ căn, tuệ mạng của chúng sinh; cũng
gọi phiền não này là giặc cướp, vì cướp
mất các pháp lành của chúng sinh; cũng
gọi phiền não này là cái thác chảy mạnh,
38vì lôi cuốn chúng sinh vào bể khổ sinh
tử; cũng gọi phiền não nầy là xiềng xích,
vì ràng buộc chúng sinh trong ngục sinh
tử không khi nào ra khỏi, cứ phải quanh
quẩn mãi trong sáu nẻo bốn loài, gây
nghiệp ác vô cùng, chịu quả khổ không
ngớt. Thế mới biết những hoạn họa ấy
đều do phiền não mà ra. Cho nên ngày
nay vận tâm tăng thượng cầu xin sám
hối.
Từ vô thỉ đến nay, chúng con hoặc
chịu quả báo trong sáu đường, hễ có
tâm thức, thường ôm mối ngu hoặc đầy
dẫy tâm can, hoặc nhân mầm tam độc
18
tạo nên tất cả tội, hoặc nhân tam lậu19
tạo
18
Tam độc: 1/ tham: đối với cảnh thuận ham muốn không nhàm; 2/
sân: đối với cảnh nghịch sinh lòng giận dữ; 3/ si: si mê, không biện
biệt được chân ngụy. Ba này hay phá hoại thiện tâm xuất thế nên gọi
là tam độc.
19
Tam lậu: 1/ dục lậu: chúng sinh nhân kiến hoặc, tư hoặc mà tạo
nghiệp nên bị ở mãi trong cõi Dục không khi nào ra khỏi; 2/ hữu lậu:
chúng sinh nhân kiến hoặc, tư hoặc khởi ra phiền não nên không
39nên tất cả tội, hoặc nhân tam khổ20
tạo
nên tất cả tội, hoặc duyên tam đảo21
tạo
nên tất cả tội, hoặc tham tam hữu22
tạo
nên tất cả tội. Những tội như thế vô
lượng vô biên não loạn tất cả bốn loài
chúng sinh trong sáu đường. Ngày nay
hổ thẹn đều xin sám hối.
thoát ly được cõi sắc và vô sắc; 3/ vô minh lậu: chúng sinh bị vô
minh làm si hoặc, phải bị đọa lạc trong ba cõi.
20
Tam khổ: 1/ khổ khổ: chúng sinh mang thân ngũ ấm này là một
điều khổ lại thêm cái khổ lãnh thọ những nỗi khổ bên ngoài; 2/ hoại
khổ: khổ về sự nhớ tiếc cảnh đang vui mà bị tan mất; 3/ hành khổ:
nỗi khổ sanh ra bởi sự thiên lưu của pháp hữu vi thường không được
an ổn.
21
Tam đảo: 1/ thường đảo: đối với pháp vô thường trong thế gian mà
khởi chấp cho là thường; 2/ lạc đảo: đối với khổ trong thế gian mà
khởi chấp cho là vui; 3/ tịnh đảo: đối với pháp bất tịnh trong thế gian
mà chấp cho là tịnh.
22
Tam hữu: 1/ cõi dục: người, trời, a tu la, ngạ quỉ, súc sanh, địa
ngục đều tùy theo nghiệp nhân dục vọng mà thọ quả báo trong cõi
này; 2/ cõi sắc: tứ thiền thiên, do đời trước tu tập thiền định thuộc về
hữu lậu nên thọ báo sanh ở cõi này; 3/ cõi vô sắc: tứ không thiên, do
kiếp trước tu tập hữu lậu thiện nên thọ báo sanh ở cõi này, dù không
có thân sắc thật làm ngại, nhưng cũng còn tùy theo các nhân đã tạo
mà thọ quả báo (tứ không thiên: không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ,
phi phi tưởng xứ).
40 Lại nữa chúng con từ vô thỉ nhẫn
lại, hoặc nhân bốn trụ23
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn lưu24
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn thủ25
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn chấp26
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn duyên27
tạo nên tất cả tội,
23
Bốn trụ là chỉ cho kiến hoặc và tư hoặc: 1/ kiến nhất thiết trụ địa,
chỉ cho những kiến hoặc trong tam giới; 2/ dục ái trụ địa, chỉ cho tất
cả tư hoặc trong cõi Dục; 3/ sắc ái trụ địa, chỉ cho tất cả tư hoặc
trong cõi Sắc; 4/ hữu ái trụ địa, chỉ cho tất cả tư hoặc trong cõi Vô
sắc.
24
Bốn lưu: 1/ kiến lưu, chỉ cho kiến hoặc trong ba cõi, nghĩa là ý căn
đối với pháp trần khởi phân biệt kiến, bởi kiến hoặc này nên bị lưu
chuyển mãi trong ba cõi; 2/ dục lưu: tức là tư hoặc trong trong cõi
dục, nghĩa là ngũ căn tham ái ngũ trần nên gọi là tư hoặc (tham, sân,
mạn), bởi tư hoặc này nên bị lưu chuyển mãi trong cõi Dục; 3/ hữu
lưu: hữu là nhân quả không mất, là tư hoặc ở cõi Sắc và Vô sắc
(tham, mạn), bởi tư hoặc này nên bị lưu chuyển mãi trong cõi Sắc và
Vô sắc; 4/ vô minh lưu: không hiểu rõ chơn vọng gọi là vô minh, tức
là si hoặc, tư hoặc của ba cõi, bởi vô minh này nên bị lưu chuyển mãi
trong vòng sinh tử.
25
Bốn thủ: 1/ dục thủ: sự tham muốn chấp trước cảnh ngũ trần ở cõi
Dục; 2/ kiến thủ: đối với thân ngũ ấm này vọng chấp cho là thật
(thân kiến), hoặc chấp đoạn, chấp thường (biên kiến); 3/ giới thủ: giữ
những giới pháp sai lầm; 4/ ngã ngữ thủ: tùy theo ngôn ngữ giả
thuyết khởi ra chấp ngã, theo chỗ chấp đó mà cố giữ lấy.
26
Bốn chấp: chấp có, chấp không, chấp cũng có cũng không, chấp
không phải có không phải không.
27
Bốn duyên: 1/ nhân duyên: sáu căn là nhơn, sáu trần làm duyên
sanh ra thức; 2/ thứ đệ duyên: tâm tâm sở pháp thứ lớp tương tục
41hoặc nhân bốn đại
28
tạo nên tất cả tội
hoặc nhân bốn phược
29
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn tham30
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bốn sinh31
tạo nên tất cả tội.
Những tội như thế vô lượng vô
biên, não loạn tất cả chúng sinh trong sáu
khởi ra; 3/ duyên duyên: tâm tâm sở pháp ỷ thác nơi cảnh duyên mà
sanh; 4/ tăng thượng duyên: sáu căn đối với sáu trần hiển phát ra
thức, có sức tăng thượng làm cho các pháp được sinh không bị
chướng ngại.
28
Bốn đại: địa đại (đất), thủy đại (nước), hỏa đại (lửa), phong đại
(gió).
29
Bốn phược: 1/ dục ái thân phược: chúng sanh vì tham ái cảnh ngũ
dục lạc nên khởi hoặc nghiệp ràng buộc thân tâm không được giải
thoát; 2/ sân khuể thân phược: chánh sanh đối với nghịch cảnh hay
sanh tâm giận dữ khởi ra hoặc nghiệp ràng buộc thân tâm không
được giải thoát; 3/ giới đạo thân phược: thực hành các giới pháp
không chân chánh nên gọi là giới đạo, do giữ giới sai lầm nên khởi
các hoặc nghiệp ràng buộc thân tâm không được giải thoát; 4/ ngã
kiến thân phược: ngã kiến tức kiến thủ, đối với pháp không phải Niết
bàn (tứ thiền, tứ không) vọng cho là Niết bàn, sanh tâm chấp trước
nên gọi là kiến thủ, do ngã kiến này mà hoặc nghiệp tăng trưởng,
ràng buộc thân tâm không được giải thoát.
30
Bốn tham: 1/ ham muốn sắc đẹp người; 2/ ham muốn hình tướng
cao, thấp, yểu điệu của người; 3/ ham muốn sự chạm xúc mềm mại
êm ái; 4/ ham muốn sự nâng đỡ, phục tùng của người.
31
Bốn sinh: noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh.
42đường. Ngày nay hổ thẹn, đều xin sám
hối.
Lại nữa, chúng con từ vô thỉ nhẫn
lại, hoặc nhân năm trụ32
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân năm cái
33
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân năm san34
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân năm kiến35
tạo nên tất cả
32
Năm trụ: bốn trụ đã giải phía trước, thêm vô minh trụ nữa thành
năm.
33
Năm cái: 1/ tham dục cái; 2/ sân khuể cái; 3/ thụy miên cái: tâm
hôn trầm không làm chi được; 4/ trạo hối cái: trong tâm có sự ăn năn
xao động; 5/ nghi cái: đối với việc gì cũng mờ ám, không biện biệt
được chơn ngụy, tâm do dự không quyết đoán.
34
Năm san: 1/ trụ xứ san: chỗ ở chỉ muốn ở một mình, không cho
người khác ở; 2/ gia san: đối với nhà cửa, có ý niệm là của riêng của
mình, nếu người khác ở chung, cũng cho mình là hơn; 3/ thí san: có
tâm niệm cho rằng chỉ có mình mới được bố thí, ngoài ra không có
ai, nếu có cũng cho mình là hơn; 4/ xưng tán san: chỉ muốn người
khen mình, không muốn ai khen người khác; 5/ pháp san: chỉ muốn
một mình mình biết kinh luật sâu xa, không thích cho người khác
biết.
35
Năm kiến: 1/ thân kiến: vọng chấp thân này có thật; 2/ biên kiến:
chấp cái thân này hoặc đoạn (chết là hết) hoặc thường (sống mãi); 3/
tà kiến: không tin lý nhân quả, hủy báng Tam bảo; 4/ giới thủ: đối
với giới pháp sai lầm mà cứ cho là đúng; 5/ kiến thủ: đối với pháp
không phải yên vui mà cho là yên vui.
43tội, hoặc nhân năm tâm36
tạo nên tất cả
tội. Những phiền não như thế vô lượng
vô biên, não loạn tất cả chúng sinh trong
sáu đường, ngày nay tỏ bày cầu xin sám
hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ nhẫn
lại, hoặc nhân sáu căn37
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân sáu thức
38
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân sáu tưởng39
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân sáu thọ40
tạo nên tất cả tội,
36
Năm tâm: 1/ suất nhĩ tâm: tâm mới xúc cảnh, chưa phân biệt được
thiện ác; 2/ tầm cầu tâm: tâm phân biệt được thiện ác, liền theo dõi
tìm kiếm; 3/ quyết định tâm: tâm đã rõ biết thiện ác rồi, quyết định
không sai; 4/ nhiễm tịnh tâm: tâm đã rõ biết nhiễm tịnh; 5/ đẳng lưu
tâm: tâm đối với pháp lành thì những mối tịnh tưởng nối nhau luôn,
còn đối với pháp ác thì đoạn cái nhiễm tưởng mãi.
37
Sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
38
Sáu thức: 1/ nhãn thức: mắt thấy; 2/ nhĩ thức: tai nghe; 3/ tỵ thức:
mũi ngửi; 4/ thiệt thức: lưỡi nếm; 5/ thân thức: chạm xúc; 6/ ý thức:
phân biệt hiểu biết.
39
1/ do ý thức tưởng sắc; 2/ chấp trước sắc tưởng đến thanh; 3/ chấp
trước thanh tưởng đến hương; 4/ chấp trước hương tưởng đến vị; 5/
chấp trước vị tưởng đến xúc; 6/ chấp trước xúc tưởng đến pháp trần.
40
Sáu thọ: chỉ cho sự thọ lãnh của sáu căn đối với sáu trần.
44hoặc nhân sáu hành41
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân sáu ái
42
tạo nên tất cả tội, hoặc
nhân sáu nghi
43
tạo nên tất cả tội. Những
phiền não như thế vô lượng vô biên, não
loạn tất cả chúng sinh trong sáu đường,
ngày nay hổ thẹn tỏ bày, cầu xin sám hối.
Lại nữa chúng con từ vô thỉ lại đây,
hoặc nhân bảy lậu44
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân bảy sử45
tạo nên tất cả tội,
41
Sáu hành: chỉ cho sáu lối hành đạo của ngoại đạo: 1/ nhịn đói; 2/
nhảy xuống vực sâu; 3/ nhảy vào lửa; 4/ chuyên ngồi mãi; 5/ yên
lặng mãi; 6/ thờ trâu, chó, v.v…
42
Sáu ái: cũng gọi là sáu xúc, vì sáu căn cảm xúc sáu trần hay sanh
lòng tham ái.
43
Sáu nghi: nghi là tính do dự bởi nghiệp không tin gây nên, nghĩa là
sáu căn đối với sáu trần không phân biệt được thiện ác.
44
Bảy lậu: 1/ kiến lậu: mắt trông thấy sắc không rõ sắc với tánh là
bình đẳng, đắm vào phần sắc tướng mà sanh tâm phân biệt, nhân
cảnh tốt xấu mà sanh tâm yêu ghét; 2/ chư căn lậu: không những
nhãn căn mà tất cả các căn khác cũng thế; 3/ vong lậu: quên điều
lành, dong ruổi theo điều ác; 4/ ác lậu: đối với nghịch cảnh sanh tâm
ghét bỏ; 5/ thân cận lậu: không tuân lời thầy dạy, gần gũi bạn ác; 6/
ái lậu: gặp cảnh thuận thì ham mê mãi miết; 7/ niệm lậu: không hiểu
chân tâm vô niệm, cứ dong ruổi theo vọng niệm.
45
Bảy sử: 1/ dục sử: sự ham muốn sai khiến; 2/ khuể sử: tánh nóng
giận sai khiến; 3/ ái sử: sự thương mến sai khiến; 4/ mạn sử: tánh
45hoặc nhân tám đảo46
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân tám cấu47
tạo nên tất cả tội,
hoặc nhân tám khổ48
tạo nên tất cả tội.
Những phiền não như thế vô lượng vô
biên, não loạn tất cả chúng sinh trong
sáu đường, ngày nay tỏ bày, cầu xin sám
hối.
kiêu mạn sai khiến; 5/ vô minh sử: sự mê muội sai khiến; 6/ kiến sử:
sự tà kiến sai khiến; 7/ nghi sử: sự ngờ vực sai khiến.
46
Tám đảo: 1/ sự vật trong thế gian là vô thường mà chấp cho là
thường; 2/ ngũ dục lạc không phải vui mà chấp cho là vui; 3/ thân
này không phải ta mà chấp cho là ta; 4/ thân này dơ nhớp mà chấp
cho là sạch; 5/ pháp thân Phật là thường trụ mà chấp cho là vô
thường; 6/ cảnh Niết bàn của Phật là vui mà chấp cho là không vui;
7/ đối với cái ngã chơn thật Phật tánh mà chấp cho là vô ngã; 8/ đối
với pháp thân của Phật là thanh tịnh mà chấp cho là bất tịnh. Trong
tám điên đảo này, bốn trước thuộc của phàm phu, bốn sau thuộc của
nhị thừa.
47
Tám cấu: cấu là nhơ bẩn, đối với Tam bảo chẳng những không tín
ngưỡng tán thán lại còn phỉ báng. Ấy là ba cấu ở ba nghiệp (1/ thân,
2/ khẩu, 3/ý); 4/ bất hiếu với cha mẹ, 5/ không kính thờ sư trưởng, 6/
không cứu giúp kẻ bần cùng; 7/ không săn sóc người đau ốm; 8/
không thương xót chúng sinh. Ba điều trước là kính điền, hai điều kế
là ân điền, ba điều sau là bi điền. Đã không chăm nom ruộng phước
ấy mà lại còn không cung kính, không biết ơn, không xót thương cho
nên nói rằng vì tám cấu mà tạo ra tất cả tội.
48
Tám khổ: 1/ sanh khổ, 2/ già khổ, 3/ bịnh khổ, 4/ chết khổ, 5/ khổ
vì ân ái biệt ly, 6/ khổ vì oán thù gặp gỡ, 7/ khổ vì mong cầu không
được, 8/ khổ vì ngũ uẩn nung nấu.
46
Lại nữa chúng con từ vô thỉ nhẫn
lại, hoặc nhân chín não49
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân chín kết
50
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân chín duyên51
tạo nên tất cả
tội, hoặc nhân mười phiền não52
tạo nên
49
Chín não: về quá khứ, 1/ ai quấy nhiễu mình, 2/ quấy nhiễu người
thân thích của mình thì mình sanh não, 3/ ai khen ngợi kẻ oán của
mình mình cũng sanh não; quá khứ như thế thì hiện tại, vị lai cũng
thế, nên gọi là chín não.
50
Chín kết: 1/ ái kết: say đắm cảnh ngũ dục không rời; 2/ khuể kết:
giận dữ bất bình đối vơi nghịch cảnh; 3/ mạn kết: kiêu căng ngạo
nghễ; 4/ vô minh kết: ngu si mờ ám đối với kẻ chân chánh; 6/ thủ
kết: vọng chấp sự hiểu biết không chơn chánh và giới pháp sai lầm,
làm lắm điều ác; 7/ nghi kết: dụ dự không tin chơn lý, không tu hành
theo hạnh chơn chánh, làm nhiều điều không chơn chánh; 8/ tật kết:
ghen ghét những bậc hiền đức; 9/ Xan kết: keo bẩn không chịu bố thí
lại làm nhiều điều ác. Chín điều này ràng buộc chúng sinh trong
đường sanh tử vì nó khiến chúng sinh gây nhiều tội lỗi.
51
Chín duyên: 1/ minh duyên: nhơn ánh sáng mà tỏ rõ các sắc; 2/
không duyên: nhơn trống không, không có gì ngăn ngại mới tỏ rõ
được các sự tướng; 3/ căn duyên: duyên theo ngũ căn mới thành
công dụng; 4/ cảnh duyên: có năm trần cảnh mới phát ra năm căn; 5/
tác ý duyên: cảnh cáo cho biết, như khi mắt thấy liền cảnh cáo cho
thức thứ sáu (ý thức) biết mà phân biệt; 6/ căn bản y duyên: tức là
thức thứ tám; 7/ nhiễm tịnh y duyên: tức là mạt na thức; 8/ phân biệt
y duyên: tức là thức thứ sáu; 9/ chủng tử duyên: những hạt giống của
cả tám thức.
52
Mười phiền não: tức là ngũ độn sử và ngũ lợi sử. Ngũ độn sử: 1/
tham dục sử; 2/ sân khuể sử; 3/ vô minh sử; 4/ mạn sử; 5/ nghi sử.
47tất cả tội, hoặc nhân mười triền53
tạo nên
tất cả tội, hoặc nhân mười một biến sử54
tạo nên tất cả tội, hoặc nhân mười hai
nhập55
tạo nên tất cả tội, hoặc nhân mười
sáu tri kiến56
tạo nên tất cả tội, hoặc nhân
Ngũ lợi sử: 1/ thân kiến sử; 2/ biên kiến sử; 3/ tà kiến sử; 4/ kiến thủ
sử; 5/ giới thủ sử. Ngũ độn sử do ái trước mà có, ngũ lợi sử do sự
nhận thức sai lầm mà có. Cả hai đều gây nên phiền não.
53
Mười triền: 1/ vô tàm: có tội lỗi mà không biết hổ; 2/ vô quý: có
tội lỗi người khác biết được mà không biết thẹn; 3/ tật: thấy người
hiền đức, giàu sang, sinh lòng ghen ghét; 4/ xan: keo bẩn không bố
thí; 5/ hối: ăn năn những tội lỗi đã làm; 6/ thụy miên: hôn mê không
tĩnh sát được thân tâm; 7/ trạo cử: tâm niệm xao động; 8/ hôn trầm:
thần thức hôn mê không rõ biết chi cả; 9/ sân hận: đối trước nghịch
cảnh hay sanh tâm sân hận; 10/ phú: che dấu tội ác.
54
Mười một biến sử: 1/ bất tín: không tin các pháp lành; 2/ giải đãi:
lười biếng không làm những việc lành; 3/ bất tàm: làm điều ác không
biết hổ; 4/ bất quý: làm việc ác mà không biết thẹn; 5/ đa tham: tham
lam của cải không biết nhàm chán; 6/ đa sân: những việc không vừa
ý thì nổi giận; 7/ đa si: đối với sự lý thế gian và xuất thế gian mê
muội không rõ biết; 8/ hôn trầm: tối tăm trầm trệ; 9/ phóng dật: tâm
không muốn làm việc thiện, cứ tự ý buông lung; 10/ san lận: tánh
keo kiết chật hẹp, từ của cải cho đến lời nói đều bo bo không muốn
cho ai; 11/ độc hại: độc ác hơn hùm beo, thường hay kiếm chuyện
hại người hại vật.
55
Mười hai nhập: tức là sáu căn xung động với sáu trần mà phát sanh
sáu thức, nhơn đó có sự yêu ghét và tạo nên tội lỗi.
56
Mười sáu tri kiến: 1/ ngã: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp cho thật
ngã thật pháp; 2/ chúng sinh: đối với pháp ngũ uẩn hòa hợp, vọng
chấp có chúng sinh thật sanh ra; 3/ thọ giả: đối với pháp ngũ uẩn
48mười tám giới
57
tạo nên tất cả tội, hoặc
nhân hai mươi lăm ngã
58
tạo nên tất cả
vọng chấp có cái ta thọ báo trong một kỳ hạn; 4/ mạng giả: đối với
pháp ngũ uẩn vọng chấp có mạng của ta là thật; 5/ sanh giả: đối với
pháp ngũ uẩn vọng chấp có cái ta hay sanh mọi sự mọi vật; 6/ dưỡng
dục: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp có cái ta nuôi nấng mọi người
và cha mẹ ta nuôi nấng ta; 7/ chúng số: đối với pháp ngũ uẩn vọng
chấp cho rằng chỉ có ta mới có những pháp số như năm ấm, mười hai
nhập, mười tám giới; 8/ nhân: vọng chấp cho rằng chỉ có ta mới có
thể tu hành được, còn người khác không thể tu được; 9/ tác giả: đối
với pháp ngũ uẩn vọng chấp cho rằng tay chân sức lực của ta có thể
làm công việc được; 10/ sử tác giả: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp
có cái ta hay sai khiến người làm việc; 11/ khởi giả: đối với pháp ngũ
uẩn vọng chấp cho rằng ta hay khởi những nghiệp tội phước ở đời
sau; 12/ sử giả: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp có cái ta hay sai
khiến người khác khởi nghiệp tội phước ở đời sau; 13/ thọ giả: đối
với pháp ngũ uẩn vọng chấp rằng thân ta sẽ thọ quả báo tội phước ở
đời sau; 14/ sử thọ giả: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp cho rằng ta
hay khiến người khác thọ quả báo tội phước ở đời sau; 15/ tri giả: đối
với pháp ngũ uẩn vọng chấp ta có ngũ căn hay biết được ngũ trần;
16/ kiến giả: đối với pháp ngũ uẩn vọng chấp ta có nhãn căn hay thấy
được tất cả sắc tướng. Mười sáu pháp này sở dĩ gọi là kiến vì vọng
chấp ngã nên khởi ra những sự hiểu biết sai lầm (tà kiến).
57
Mười tám giới: tức là sáu căn, sáu trần, sáu thức làm nhơn duyên
với nhau mà tạo ra tất cả tội lỗi.
58
Hai mươi lăm ngã: cũng gọi là hai mươi lăm chủng ngoại đạo
minh đế. Lối chấp đây là của phái ngoại đạo Ca tì la. Phái này cũng
có tu thiền định, cũng có sức thần thông biết được việc trong 8 vạn
kiếp, còn việc trước 8 vạn kiếp thì mờ mịt không biết được nên cho
đó là minh đế. Từ minh sơ tự tánh sanh ra trí đại cho đến thần đại
khai ra thành 25 đế, hợp lại thành 9 vị: 1/ minh sơ tự tánh: phái này
đối với tâm vạn kiếp về trước mờ mịt nên nhận cho chỗ mờ mịt ấy là
49tội, hoặc nhân sáu mươi hai kiến59
tạo
nên tất cả tội, hoặc nhân chín mươi tám
tự tánh; 2/ trí-đại: cũng gọi là giác đại: lúc minh sơ giác tri tăng
trưởng lần lần nên nói rằng từ minh sơ sanh trí đại; 3/ ngã tâm: cũng
gọi là ngã mạn, tức là ngã chấp là do giác tri sanh ngã nên nói do trí
đại sanh ngã tâm; 4/ ngũ duy: cũng gọi là ngũ vị tức là sắc, thinh,
hương, vị, xúc. Năm thứ ấy do tâm ngã chấp sanh ra nên nói là ngã
tâm sanh ngã duy; 5/ ngũ đại: địa, thủy, hỏa, phong, không, năm thứ
này đầy khắp các chỗ nên nói là đại . Bởi cực vi sanh ra nên nói bởi
ngũ duy sanh ngũ đại; 6/ ngũ tri căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân gọi là
tri, vì năm thứ ấy đều có trí giác: nhơn ngũ đại mà thành nên nói là
ngũ đại sanh ngũ tri căn; 7/ ngũ tác nghiệp căn: ngũ căn đây là
miệng, tay chưn, tiểu tiện, đại tiện. Sở dĩ gọi là nghiệp vì năm thứ
ấy sanh ra các tác nghiệp; 8/ tâm bình đẳng căn: tâm đây là nhục
đoàn tâm tức là ý căn. Bởi căn này hay biết tất cả những căn cảnh
mà sinh ra sự phân biệt nên gọi là bình đẳng. Nó cũng bởi ngũ đại
sanh ra hợp với ngũ tri, ngũ tác nghiệp thành 11 căn; 9/ thần ngã:
thức thứ tám ngoại đạo không biết chấp, cho rằng thần ngã hay sinh
ra tất cả các pháp thường trú, không hư hoại cho đó là Niết bàn là
chúa tể của 25 đế, không biết rằng vạn pháp duy tâm, cứ mê theo
minh tánh, sinh tâm bất tín va khinh khi Tam Bảo, hủy báng chánh
pháp.
59
Sáu mươi hai kiến: đối với các pháp ngũ ấm (sắc, thọ, tưởng, hành,
thức), mỗi ấm phái ngoại đạo khởi bốn kiến: 1/ chấp sắc lớn, ngã
nhỏ, ngã ở trong sắc; 2/ chấp ngã lớn, sắc nhỏ, sắc ở trong ngã; 3/
ngoài sắc chấp ngã riêng; 4/ ngã tức là sắc. Sắc ấm như thế thì các
ấm kia cũng thế cộng thành hai mươi kiến trải ba đời nhơn thành sáu
mươi hai kiến, thêm hai phần căn bổn là đoạn kiến và thường kiến
thành sáu mươi hai kiến. Vì rừng kiến chấp sai lầm ấy nên người đời
không chừa một tội lỗi nào mà không làm.
50sử60
, một trăm tám phiền não61
của kiến
hoặc tư hoặc, đêm ngày bập bùng mở
cửa hữu lậu62
gây nên tất cả tội, não loạn
thánh hiền và bốn loài chúng sinh, đầy
dẫy ba cõi
63
, tràn khắp sáu đường64
,
không còn chỗ trốn lánh. Ngày nay hết
lòng cầu khẩn, hướng về mười phương
60
Chín mươi tám sử: khổ đế trong cõi dục đủ cả mười sử: 1/ tham
sử; 2/ sân sử; 3/ si sử; 4/ mạn sử; 5/ nghi sử; 6/ thân kiến sử, 7/ biên
kiến sử; 8/ tà kiến sử; 9/ kiến sứ 10/ giới thủ sử; tập đế, diệt đế chỉ có
7 sử, trừ thân kiến , biên kiến và giới thủ. Đạo đế có tám sử trừ thân
kiến và biên kiến. Tứ đế trong cõi dục có 32 sử, ở cõi sắc và vô sắc
cũng thế chỉ trừ của mỗi đế một sân sử, còn lại trong mỗi cõi là 28
sử. Cộng 56 sử ở cõi Sắc và cõi Vô sắc với 32 sử ở cõi Dục thành ra
88 sử.
Ở cõi dục có bốn thứ tư hoặc (tham, sân, si, mạn); cõi Sắc và Vô
Sắc, mỗi cõi có ba thứ tư hoặc (tham, si, mạn). Thế là 10 tư hoặc
trong ba cõi với 88 sử (kiến hoặc) thành 98 sử.
61
Một trăm tám phiền não: sáu căn đối với sáu trần có ba quan niệm
không đồng: 1/ Ưa; 2/ Ghét; 3/ Không ưa không ghét, nhơn thành 18
phiền não. Sáu căn đối với sáu trần sanh ra 18 phiền não ấy, lại còn
khởi ra 18 phiền não nữa là: khổ, vui, không vui, cộng thành 36.
Trong ba đời: qúa khứ, hiện tại và vị lai mỗi đời có 36 phiền não
tổng cộng là 108 phiền não.
62
Các cửa hữu lậu: chỉ cho tất cả phiền não lậu lạc trong ba cõi: 1/
Dục lậu; 2/ Hữu lậu 3/ Vô minh lậu.
63
Ba cõi: 1/ Cõi Dục 2/ Cõi Sắc 3/ Cõi Vô Sắc.
64
Sáu đường: Trời, Người, Tu la, Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sinh.
51chư Phật, tôn Pháp, Thánh chúng, hổ
thẹn giải bày đều xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối tất
cả phiền não ba độc chúng con nguyện
đời đời kiếp kiếp được ba thứ trí tuệ
65
, ba
sáng tỏ, diệt được ba khổ66
đầy đủ ba
nguyện67
. Lại nguyện nhờ công đức đã
sám hối tất cả phiền não vì bốn thức...
chúng con… đời đời kiếp kiếp được mở
rộng bốn tâm bình đẳng68
, lập bốn tín
nghiệp69
diệt bốn đường ác
70
, được bốn
vô úy71
. Nguyện nhờ công đức đã sám
65
Ba trí tuệ: 1/ văn: do nghe lời Phật dạy trong kinh luận hay nghe
thiện hữu trí thức mà sinh được trí tuệ vô lậu; 2/ tư: sau khi nghe rồi,
do sự nghiệm xét những ý nghĩa ấy mà sinh được trí tuệ vô lậu; 3/ tu:
do nghe và nghiệm xét rồi gia công tu tập sinh được trí tuệ vô lậu .
66
Ba khổ: 1/ khổ khổ; 2/ hành khổ 3/ hoại khổ.
67
Ba nguyện lớn: 1/ nguyện độ tất cả chúng sinh; 2/ nguyện thành
Phật đạo; nguyện được niết bàn rốt ráo.
68
Bốn tâm bình đẳng: Từ, Bi, Hỉ, Xả.
69
Bốn tín nghiệp: tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin Giới.
70
Bốn đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A tu la
71
Bốn vo úy: 1/ nhứt thiết trí: hiểu biết tất cả pháp thế và xuất thế; 2/
lậu tận: hoặc nghiệp sinh tử đều hết; 3/ thuyết chướng đạo: nói pháp
52hối tất cả phiền não vì năm cái… chúng
con… đời đời kiếp kiếp, qua khỏi được
năm đường72
, dựng được năm căn73
, năm
thứ tịnh nhãn74
, thành tựu năm phần pháp
thân75
. Lại nguyện nhờ công đức đã sám
hối tất cả phiền não của sáu thụ… chúng
con… đời đời kiếp kiếp được đầy đủ sáu
ma ngoại là chướng thánh đạo; 4/ thuyết tận khổ đạo: nói những đạo
pháp có thể diệt hết các khổ. Bốn điều này Phật đối giữa đại chúng
các hàng thiên ma, phạm thiên, sa môn, bà la môn, nói một cách tự
tại không sợ ai, không ai nói được nên gọi là vô úy.
72
Năm đường: người trời, người, ngạ quỉ, súc sinh, địa ngục.
73
Năm căn: 1/ tín căn; 2/ tấn căn; 3/niệm căn; 4/ định căn; 5/ tuệ căn.
74
Năm thứ nhãn: 1/ Nhục nhãn: mắt thịt, thấy gần không thấy xa,
thấy ngoài không thấy trong vì bi sắc chất chướng ngại; 2/ thiên
nhãn: mắt của chư thiên, nhơn tu thiền định mà thành. Mắt này có
thể thấy tất cả, xa gần, trước sau, trên dưới ngày đêm vì không có sắc
chất làm ngăn ngại; 3/ tuệ nhãn: mắt của hàng nhị thừa (Thinh văn
Duyên giác) quán thấy tất cả pháp đều không; 4/ pháp nhãn: mắt của
Bồ tát. Bồ tát vì độ sanh dùng pháp nhãn thanh tịnh quán khắp tất cả
các pháp và tất cả chúng sinh, đem những phương tiện dạy dỗ họ
khiến tu chứng; 5/ Phật nhãn: mắt của Phật có đủ bốn con mắt trước,
nhưng có phần đặc biệt hơn như người thấy rất xa. Phật lại thấy rất
gần, người thấy tối tăm Phật lại thấy sáng, cho đến không việc gì mà
Ngài không thấy, không biết không nghe, không cần để ý mà đều
thấy nghe tất cả.
75
Năm phần pháp thân: 1/ giới; 2/ định; 3/ tuệ; 4/ giải thoát; 5/ giải
thoát tri kiến.
53thần thông76
, sáu pháp lục độ77
, không bị
sáu trần mê hoặc, thường làm được sáu
diệu hạnh78
. Lại nguyện, nhờ công đức
sám hối tất cả phiền não vì bảy lậu, tám
cấu, chin kiết, mười triền… chúng con…
đời đời kiếp kiếp được ngồi trên hoa thất
tịnh79
, được tắm nước bát giải
80
, đủ trí
cửu đoạn81
, thành tựu hạnh thập địa
82
.
76
Sáu thần thông: 1/ thiên nhãn thông; mắt thấy sáng suốt tất cả
không bị vật chi ngăn ngại; 2/ thiên nhĩ thông: tai nghe thấu tất cả
tiếng của chúng sinh không bị vật chi ngăn ngại; 3/ túc mạng thông:
rõ biết kiếp trước của mình và chúng sinh không bị điều gì ngăn
ngại; 4/ thần túc thông: có thể dạo khắp vô lượng thế giới tự tại vô
ngại; 5/ tha tâm thông: rõ biết được tâm của tất cả chúng sinh; 6/ lậu
tận thông: tất cả phiền não đều đoạn trừ hết.
77
Sáu pháp lục độ: 1/ bố thí: đem các tài vật pháp ban bố cho tất cả
chúng sinh; 2/ trì giới: giữ gìn những giới hạnh; 3/ nhẫn nhục: nhẫn
chị những nghịch cảnh; 4/ tinh tấn: siêng năng tu tập năm pháp (bố
thí …); 5/ thiền định: tâm thường chăm chú cảnh thiện; 6/ trí tuệ:
được trí sáng suốt thông đạt, được các pháp và các tuệ đoạn hoặc
chứng chơn.
78
Sáu diệu hạnh: 1/ sổ diệu: đếm hơi thở để thu nhiếp vọng tâm; 2/
tùy diệu: nhiếp tâm theo hơi thở biết hơi ra hay hơi vào; 3/ chỉ diệu:
yên lặng suy nghĩ; 4/ quán diệu: phân biệt rõ ràng; 5/ hoàn diệu:
chuyển tâm chiếu lại; 6/ tịnh diệu: tâm không nương tựa vào đâu,
không sanh mối nghĩ xằng.
79
Hoa thất tịnh: 1/ giới tịnh: động tác của tâm, khẩu thanh tịnh; 2/
tâm tịnh: tâm thanh tịnh không còn nhiễm trước; 3/ kiến tịnh: thấy
54
được chơn tánh các pháp, không còn khởi vọng chấp; 4/ độ nghi
tịnh: hiểu biết thấu đáo không còn ngờ vực; 5/ phân biệt đạo tịnh:
phân biệt rõ ràng chánh đạo tà đạo; 6/ hành đạo tri kiến tịnh: tri kiến
thật hành thiện pháp, các ác pháp bị đoạn trừ, được thanh tịnh sáng
suốt; 7/ niết bàn tịnh: chứng được Niết bàn, xa lìa các cấu nhiễm.
80
Nước bát giải: tu theo pháp quán bát bội xả: 1/ nội hữu sắc tướng
ngoại quán sắc: vì muốn diệt trừ lòng tham đắm, người tu hành trước
phải quán thân mình là vật nhơ nhớp, nhưng vì còn lòng tham đối
với thân người nên cũng phải quán cái thân người khác cũng như
thế; 2/ nội vô sắc tướng ngoại quán sắc: mới diệt được sắc tướng
trong thân, nhưng lòng tham dục đối với người ở cõi Dục khó đoạn
hết; 3/ tinh bội xả thân tác chứng: đến đây không còn tham trước
tướng bất tịnh ở ngoài, chỉ ở trong cảnh định luyện tâm sắc quang
minh trong suốt (tịnh bội xả), tâm đã sáng suốt thì vui càng tăng
trưởng đầy khắp trong thân (thân bội xả); 4/ hư không xứ bội xả:
người tu hành diệt được lòng ham muốn sắc thân bất tịnh của mình
và của người, được nhất tâm duyên “không”, cùng với “không”
tương ưng, tức nhập được định “vô biên hư không xứ”; 5/ thức xứ
bội xả: do xả nên nói hư không xứ định, nhất tâm duyên thức, lúc
nhập định này tức quán định, nhàm chán không ưa đắm nữa; 6/ vô sở
hữu xứ bội xả: do xả thức, nhất tâm duyên vô sở hữu xứ, lúc nhập
định này tức quán định y nơi năm uẩn đều không thật nên không còn
ái trước nữa; 7/ phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ bội xả: do xả vô sở
hữu xứ định, nhất tâm duyên phi hữu tưởng phi vô tưởng, lúc nhập
định này y nơi năm uẩn đều không thật nên sanh tâm nhàm chán; 8/
diệt thọ tưởng bội xả: vì nhàm chán cái tâm tán loạn nên nhập định
cho diệt hẳn cái tâm ấy đi, khi đắc định cả rồi thì thành ra tám đạo
giải thoát nên gọi là bát giải.
81
Trí cửu đoạn: cái trí đoạn được các hoặc trong tam giới cửu địa: 1/
ngũ thú tạp cư địa, 2/ ly sinh hỷ lạc địa, 3/ định sinh hỷ lạc địa, 4/ ly
hỷ diệu lạc địa, 5/ xả niệm thanh tịnh địa, 6/ không vô biên xứ địa, 7/
thức vô biên xứ địa, 8/ vô sở hữu xứ địa, 9/ phi phi tưởng xứ địa.
55
Lại nguyện, nhờ công đức sám hối
tất cả phiền não vì mười một biến sử,
mười hai nhập, mười tám giới… chúng
con… đời đời kiếp kiếp được hiểu mười
một không83
, tâm thường nương những
không ấy, tự tại chuyển nói mười hai
hành pháp luân84
, đầy đủ mười tám bất
82
Thập địa: 1/ hoan hỷ địa, 2/ ly cấu địa, 3/ phát quang địa, 4/ diệm
tuệ địa, 5/ nan thắng địa, 6/ hiện hành địa, 7/ viễn hành địa, 8/ bất
động địa, 9/ thiện tuệ địa, 10/ pháp vân địa.
83
Mười một không: 1/ nội không: không có tình; 2/ ngoại không:
không có cảnh; 3/ nội ngoại không: tình, cảnh đều không; 4/ hữu vi
không: cả sáu cõi phàm cũng không; 5/ vô vi không: cả pháp xuất thế
nhị thừa cũng không; 6/ vô thỉ không: không cả quá khứ; 7/ tính
không: hiện tại không trụ ở chỗ không; 8/ vô sở hữu không: vị lai vô
tận cũng không; 9/ đệ nhất nghĩa không: các pháp xuất thế đều
không; 10/ không không: không cũng không có nữa; 11/ đại không:
tuyệt đối vô ngại không. Đối với cái không ấy đều hiểu chơn thật,
thường ở trên tòa pháp không nên mới được thể tâm tự tại mà có thể
chuyển mười hai pháp luân được.
84
Mười hai hành pháp luân: khi Phật mới thành đạo, ba lần nói pháp
luân tứ đế cho các vị tỳ kheo nghe: 1/ thị chuyển: nói khổ, tập, diệt,
đạo; 2/ khuyến chuyển: khuyên nên nhận biết khổ, tập, diệt, đạo; 3/
chứng chuyển: Phật cho biết đó là khổ mà chính Phật đã biết rồi
không cần biết nữa, chỉ bảo các tỳ kheo phải biết, đó là tập, Phật đã
đoạn rồi không cần đoạn nữa, chỉ bảo các tỳ kheo phải đoạn, đó là
diệt, Phật đã chứng rồi không cần phải chứng nữa, chỉ bảo các tỳ
56cộng pháp85
, vô lượng công đức đều viên
mãn.
Phát nguyện xong, chí tâm kính lễ
chư Phật:
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
kheo phải chứng, đó là đạo, Phật đã tu rồi không cần tu nữa, chỉ bảo
các tỳ kheo phải tu. Đó là ba lần chuyển thành mười hai hành pháp
luân.
85
Mười tám bất cộng pháp: 1/ thân không lỗi, 2/ miệng không lỗi, 3/
niệm không lỗi, 4/ không có tâm tưởng khác, 5/ không có tâm bất
định, 6/ không có tâm không biết mà đã xả, 7/ sự muốn không giảm,
8/ tinh tấn không giảm, 9/ niệm không giảm, 10/ tuệ không giảm, 11/
giải thoát không giảm, 12/ giải thoát tri kiến không giảm, 13/ tất cả
thân nghiệp theo trí tuệ mà hành động, 14/ tất cả khẩu nghiệp theo trí
tuệ mà hành động, 15/ tất cả ý nghiệp theo trí tuệ mà hành động, 16/
trí tuệ biết đời vị lai không ngại, 17/ trí tuệ biết đời quá khứ không
ngại, 18/ trí tuệ biết đời hiện tại không ngại. Mười tám này gọi là bất
cộng pháp vì chỉ riêng Phật chứng được mà thôi.
57Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại Vương
Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi kế lại sám hối.
Pháp Sám hối chính là sửa đổi sự
lỗi lầm đã qua, diệt ác làm lành. Người
đời ai không lỗi, như bậc hữu học lỡ mất
chính niệm còn bị phiền não nổi lên, bực
La Hán có lúc kết tập phát khởi cũng còn
phạm phải những nghiệp thân, khẩu, ý
58huống kẻ phàm phu sao khỏi tội lỗi.
Những người có trí biết trước, liền ăn
năn đổi lỗi, còn kẻ ngu si dấu diếm, nên
tội thêm tràn đầy, chất chứa lâu ngày
không biết khi nào tỏ ngộ. Nếu biết hổ
thẹn dãi bày sám hối, không những diệt
được tội lỗi, còn thêm vô lượng công
đức, gây dựng quả vị Niết Bàn vi diệu
của Như Lai. Muốn thực hành pháp sám
hối, trước hết, thân phải nghiêm trang tề
chỉnh, chiêm ngưỡng tôn tượng, tâm phải
khởi ý cung kính, theo pháp quán tưởng,
hết lòng cầu khẩn, để tâm suy nghĩ hai
điều: thứ nhất phải suy nghĩ thân mệnh
khó giữ thường còn, một khi tan nát
không biết đến bao giờ được lại. Nếu
không gặp chư Phật cùng các bậc hiền
thánh, lại gặp phải bạn ác, tạo thêm nhiều
tội nghiệp, sẽ bị đọa lạc chốn hiểm hang
sâu. Thứ hai phải tự nghĩ ngày nay, ta tuy
gặp chánh pháp Như lai, lại không biết vì
59Phật pháp nối dõi giống Thánh, tẩy sạch
ba nghiệp thân, khẩu, ý, để cư xử theo
thiện pháp, lại riêng làm việc ác, cố ý che
đậy, nói người khác không biết, kẻ kia
không thấy, dấu kín trong lòng ngang
nhiên không hổ thẹn. Như thế thật là một
điều hết sức ngu hoặc trong thiên hạ.
Mười phương chư Phật, chư Đại
Bồ Tát cùng các vị thiên thần, lúc nào lại
không dùng thiên nhãn thanh tịnh mà soi
thấy hết những tội ác của chúng ta gây
tạo.
Vả lại các thần linh ở chốn u minh
ghi chép tội phước không sai một mảy
may nào. Nói đến những người đã làm
nên tội lỗi, sau khi chết rồi bị ngục tốt
đầu trâu thâu bắt thần hồn đem nạp trước
mặt Diêm Vương để tra xét đều phải trái.
Bấy giờ tất cả kẻ oán cừu đang làm
60chứng nói: ngươi trước kia mổ ta, giết ta,
nấu, hầm rang nướng ta…”, hoặc nói:
“trước kia ngươi cướp bóc lấy hết tiền
bạc ta, ly gián quyến thuộc ta, ngày nay
ta mới có dịp ở trước ngươi làm chứng
cớ rõ ràng, đâu còn dấu diếm, chỉ đành
cam chịu những tội lỗi trước.
Trong kinh nói rõ: ở địa ngục
không bao giờ xử oan. Người nào ngày
thường gây những tội gì, tuy đã quên
mất, nhưng đến khi chết rồi, tất cả hình
tướng ấy do các nghiệp ác độc tạo nên từ
trước đều hiện ra, nói: “ Xưa kia ngươi ở
bên ta tạo những tội ác như thế, nay làm
sao dấu diếm được?” Lúc đó tội nhân
không còn chỗ nào che đậy. Ngay lúc ấy
Diêm Vương nghiến răng quở trách rồi
cho vào địa ngục, trải vô lượng kiếp
chẳng hòng thoát khỏi. Việc đó chẳng
phải xa lạ mà cũng không quan hệ gì với
61người, chính tự mình tạo tự mình phải
chịu, dù chí thân như cha con, một khi
quả báo đối đầu, cũng không thay thế
cho nhau được.
Vậy nay chúng ta cùng được làm
thân người khỏe mạnh không bệnh tật,
nên gắng sức tu hành tranh đua cùng thọ
mệnh, khi đại nạn xảy đến, hối hận
không kịp. Bởi thế, chúng con dốc lòng,
cầu xin sám hối.
Từ vô thỉ đến nay, chúng con bị vô
minh che khuất tâm trí, do phiền não tạo
các nghiệp ác trong ba đời. Hoặc say
đắm dục lạc sinh ra “phiền não ham
muốn” hoặc giận dữ bực tức sinh ra
“phiền não hãm hại”, hoặc tâm trí tối tăm
sinh ra “phiền não không hiểu rõ”, hoặc
ngã mạn tự cao sinh ra “phiền não ngạo
nghễ” hoặc nghi ngờ chánh đạo sinh ra
62“phiền não do dự”, hoặc bác không nhân
không quả sinh ra “phiền não tà kiến”,
hoặc không biết thân cảnh do nhân duyên
giả hợp, sinh ra “phiền não chấp ngã”
hoặc mê lầm trong ba đời sinh ra “phiền
não chấp thường chấp đoạn”, hoặc gần
gũi tà pháp sinh ra “phiền não kiến thủ”,
hoặc theo lầm tà sư sinh ra “phiền não
giới thủ” cho đến do tất cả bốn chấp
thành ra “phiền não chấp trước sai
lầm…” Ngày nay chí thành, đều xin sám
hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, bởi có tính bo
bo lẫn tiếc, sinh ra “phiền não keo bẩn”
bởi không thấu nhiếp sáu căn, sinh ra
“phiền não buông lung”, bởi để tâm làm
những việc xấu xa ác độc sinh ra “phiền
não bất nhẫn”, bởi biếng nhác trễ nải sinh
ra “phiền não không siêng năng” bởi hay
ngờ vực lo nghĩ bông lông, sinh ra
63“phiền não giác quán”, bởi xúc cảnh mê
hoặc, sinh ra “phiền não không hiểu
biết”, bởi theo tám thói xấu86
ở đời, sinh
ra “phiền não nhơn ngã”, bởi dối trá,
khen trước mặt, chê sau lưng, sinh ra
“phiền não tâm không ngay thẳng”, bởi
thô cứng khó dạy sinh ra “phiền não
không điều hòa”, bởi dễ giận khó vui
sinh ra “phiền não uất hận”, bởi hay ghen
ghét đâm thọc sinh ra “phiền não thâm
độc”, bởi trái với thánh đạo sinh ra
“phiền não chấp tướng”, bởi không biết
pháp tứ đế; khổ, tập, diệt, đạo, sinh ra
“phiền não điên đảo”, bởi cứ theo chiều
sinh tử không diệt được mười hai nhân
duyên87
sinh ra “phiền não luân chuyển”,
86
Tám thói xấu: 1/ lợi: những lợi lộc chỉ muốn có ích riêng cho
mình; 2/ suy: giảm bớt; 3/ hủy: chê bai chỉ trích; 4/ dự: gián tiếp
khen ngợi; 5/ xưng: trực tiếp ca tụng; 6/ cơ: dựng việc nói xấu; 7/
khổ: bức bách khổ não; 8/ lạc: ý khoan khoái.
87
Mười hai nhân duyên: 1/ vô minh: không rõ được bổn tánh; 2/
hành: làm những nghiệp lành và dữ; 3/ thức: chỉ cho a lại da thức; 4/
danh sắc; 5/ lục nhập: sáu căn; 6/ xúc: sáu căn tiếp xúc với sáu trần;
64cho đến do vô minh trụ địa, từ vô thỉ
khởi ra hằng sa phiền não, khởi tứ trụ
địa, gây thành khổ quả trong ba cõi. Khổ
quả phiền não vô lượng vô biên, não loạn
hiền thánh, bốn loài chúng sinh trong sáu
nẻo. Ngày nay dãi bày trước mười
phương chư Phật, tôn Pháp, Thánh
chúng, đều xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức đã sám hối
những phiền não tham, sân, si do ý
nghiệp khởi ra, đời đời kiếp kiếp bẻ tràng
kiêu mạn, khô nước ái dục, tắt lưởi sân
hận, phá tối ngu si, nhổ gốc nghi hoặc, xé
lưới tà kiến, biết rõ ba cõi như ngục tù, tứ
đại như rắn độc, ngũ ấm như kẻ thù, lục
7/ thọ: lãnh nạp những cảnh tốt xấu, khổ vui; 8/ ái: tham mến những
vật tốt đẹp; 9/ thủ: do sự ham muốn quá nhiều đối với cảnh ngũ trần;
10/ hữu: vì sự ham muốn tìm cầu nên khởi những nghiệp nhơn thiện
ác phải chịu quả báo trong ba cõi; 11/ sanh: do nghiệp nhơn thiện ác
nên phải thọ sanh trong sáu đường; 12/ lão tử: sau khi thọ sanh thì
thân ngũ ấm dần dần biến hoại.
65nhập rỗng không, dối trá thân thiện,
siêng tu tám thánh đạo, dứt nguồn vô
minh nhắm thẳng Niết bàn không hề
dừng nghỉ, luôn luôn để tâm làm theo ba
mươi bảy phẩm trợ đạo, cùng mười pháp
ba la mật
88
thường được hiện tiền.
Sám hối phát nguyện rồi, hết lòng
tin tưởng kính lễ Thường Trụ Tam Bảo.
HẾT QUYỂN THƯỢNG
88
Mười pháp ba la mật: 1/ bố thí, 2/ trì giới, 3/ nhẫn nhục, 4/ tinh
tấn, 5/ thiền định, 6/ trí tuệ, 7/ thiện xảo phương tiện, 8/ nguyện trên
cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh, 9/ lực dụng: hạnh mãn, công
thành; 10/ trí tuệ: quyết đoán không lầm.
66
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
(QUYỂN TRUNG)
Tất cả chư Phật vì thương xót
chúng sinh mới nói pháp đạo tràng Thủy
sám. Ngày nay chúng con xin kính lễ chư
Phật.
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
67Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đỉnh lễ chư Phật rồi thứ lại sám hối.
Đến nay thân tâm chúng con được yên
tịnh, trong không bị phiền não dối gạt,
ngoài không bị chướng nạn ngăn trở,
chính là lúc sinh thiện diệt ác, lại phải
thực hành bốn quán hạnh, để làm phương
tiện dứt tội.
Bốn quán hạnh là:
1/ Quán sát nhân duyên;
2/ Quán sát quả báo;
3/ Quán sát thân mình;
684/ Quán sát thân Như Lai.
Thứ nhất quán sát nhân duyên: biết
mình có tội, do vô minh suy nghĩ xằng
bậy, không sức chính quán, không biết
tội lỗi, xa lìa bạn tốt, xa lìa chư Phật, Bồ
tát, theo dõi đường ma lối hiểm, như cá
nuốt câu không biết tai họa, như tầm làm
kén tự ràng buộc mình, như con thiêu
thân đâm đầu vào lửa tự thiêu đốt mình,
do nhân duyên ấy không thể giải thoát.
Thứ hai quán sát quả báo: vì những
ác nghiệp nên phải luân chuyển mãi
trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai)
chịu quả khổ vô cùng, chìm đắm trong
đêm dài, biển lớn, bị lũ quỷ la sát phiền
não ăn thịt, sự sinh tử sau này mênh
mang không bờ bến. Dầu cho phước báo
được làm đến bực Chuyển luân thánh
vương, thống trị bốn châu thiên hạ, bay
69đi tự tại, đủ các thất bảo, sau khi chết
cũng không khỏi đường ác, dầu được
hưởng quả báo tứ không thiên89
, cao
nhất trong ba cõi, khi phước báo hết rồi,
còn phải trở lại làm trùng trong yếm trâu,
huống những kẻ không phước đức gì lại
giải đãi không siêng năng sám hối, thế
chẳng khác chi ôm đá gieo mình xuống
vực sâu, khó mong ra khỏi.
Thứ ba quán sát thân ta: tuy có chính
nhân giác tính, nhưng bị phiền não hắc
ám che lấp, không có sức liễu nhân,
thành ra bản tính vốn sáng suốt kia,
không tỏ rõ được. Ngày nay cần phải
phát tâm thù thắng phá tan màn vô minh,
dẹp hết chướng ngại điên đảo, diệt trừ
nguyên nhân hư ngụy của sinh tử, làm
89
Tứ không thiên: 1/ không xứ, 2/ thức xứ, 3/ vô sở hữu xứ, 4/ phi
tưởng phi phi tưởng xứ. Tứ không này ở cõi trời Vô sắc.
70sáng tỏ trí tuệ sáng suốt của Như Lai
đặng gây dựng quả Niết Bàn vô thượng.
Thứ tư quán sát thân Như lai: vô vi
tịch chiếu, xa bốn câu90
, bặt trăm lỗi
91
,
đầy đủ các đức trạm nhiên thường trú,
dầu phương tiện vào diệt độ, nhưng lòng
từ bi cứu vớt chúng sinh không hề tạm
nghỉ.
Khởi tâm quán sát như thế, tức là
bến lành để diệt tội, là hạnh cốt yếu để
trừ nghiệp chướng. Vì vậy ngày nay chí
thành cầu xin sám hối.
90
Bốn câu: 1/ có, 2/ không, 3/ cũng có cũng không, 4/ không phải có
không phải không. Lối chấp này của ngoại đạo.
91
Trăm lỗi: trong bốn câu, mỗi câu đủ bốn câu, nhơn thành mười sáu
câu, tinh cả ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thành bốn mươi tám câu,
lại chia làm một phần đã khởi, một phần chưa khởi, thành chín mươi
sáu câu, họp với bốn câu chánh thành một trăm câu (trăm lỗi).
71Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con
nuôi thêm phiền não ngày càng sâu dày,
càng nảy nở, che đậy tuệ nhỡn không
thấy được lẽ chân ngụy, dứt trừ mọi việc
lành không cho nối tiếp nhau, khởi phiền
não làm trở ngại không được thấy Phật,
không nghe chính pháp, không gặp thánh
tăng; khởi phiền não làm trở ngại không
thấy được nghiệp lành nghiệp dữ trong
đời quá khứ, hiện tại, vị lai và pháp xuất
ly; khởi phiền não làm trở ngại không
được địa vị tôn quí ở cõi trời, người;
khởi phiền não làm trở ngại không được
sinh vào cõi sắc, cõi vô sắc để hưởng
phước báo yên vui thiền định; khởi phiền
não làm trở ngại không được pháp thần
thông tự tại, bay, đi, ẩn, hiện đến khắp
các cõi Phật trong mười phương để nghe
Pháp; khởi phiền não làm trở ngại không
học được pháp quán đếm hơi thở để tâm
khỏi tán loạn, pháp quán về bất tịnh để
72ngăn ngừa tâm ham muốn pháp quán về
nhân duyên để dứt bỏ tâm si mê; khởi
phiền não làm trở ngại không học được
pháp noãn, đảnh, nhẫn, đệ nhứt, bảy
pháp phương tiện92
; khởi phiền não làm
trở ngại không học được những pháp từ,
bi, hỉ, xả, văn, tư, tu; khởi phiền não làm
trở ngại sự hiểu biết và quán hạnh của ba
92
Bảy pháp phương tiện: 1/ ngũ đình tâm quán: a) quán bất tịnh để
đối trị lòng tham dục, b) quán từ bi để đối trị lòng sân giận, c) quán
sổ tức (đếm hơi thở) để đối trị tâm tán loạn, d) quán nhơn duyên để
đối trị tâm si mê, e) quán niệm Phật để đối trị nghiệp chướng; 2/ biệt
tướng niệm: quán riêng từng tướng như tứ niệm xứ: quán thân bất
tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã; 3/ tổng
tướng niệm: trong một niệm quán đủ cả thân, thọ, tâm, pháp, như
quán thân bất tịnh thì biết cả thọ, tâm, pháp cũng thế; 4/ noãn vị: lấy
chỗ biệt tướng cùng tổng tướng, quán cảnh tứ đế phát ra phần hiểu
biết tương tợ, phục phiền não hoặc, được chút ít khí phần của Phật,
cũng như cọ cây lấy lửa, lửa tuy chưa thấy, nhưng trước đã được hơi
ấm; 5/ đảnh vị: tu theo noãn vị càng ngày càng tăng thắng, định quán
phân minh (ở trên noãn vị như lên đỉnh núi thấy cả bốn phương); 6/
nhẫn vị: bởi công tu trước, thiện căn càng ngày càng tăng thắng, đối
với cảnh tứ đế kham nhẫn làm vui; 7/ thế đệ nhất vị: tu pháp tứ đế
đến đây lần thấy pháp tánh sắp vào bậc sơ quả, tuy chưa vào bậc
chánh đạo nhưng đối với thế gian là đệ nhất.
73không, bình đẳng, trung đạo93
; khởi
phiền não làm trở ngại không học những
phẩm trợ đạo, niệm xứ, chính cần, căn,
lực và như ý túc: khởi phiền não làm trở
ngại không học đạo bát chính chỉ rõ về
phần tướng; khởi phiền não làm trở ngại
sự học đạo thất giác chi không chỉ về
hình tướng, khởi phiền não làm trở ngại
không học đạo bát giải thoát cửu không
định94
; khởi phiền não làm trở ngại sự
học các pháp thập trí
95
, tam tam muội
96
;
khởi phiền não làm trở ngại sự học
những pháp tam minh, lục thông, tứ vô
93
Không: không quán: quán rõ tâm pháp đều không. Bình đẳng: giả
quán: quán tất cả pháp đều giả có. Trung đạo: trung quán: quán
không phải trung, không phải giả, tức không tức giả.
94
Cửu không định: cửu thứ đệ định: 1/ sơ thiền, 2/ nhị thiền, 3/ tam
thiền, 4/ tứ thiền, 5/ không xứ, 6/ thức xứ, 7/ vô sở hữu xứ, 8/ phi phi
tưởng xứ, 9/ diệt thọ tưởng xứ.
95
Thập trí: tức là tứ đế trí (đã giải ở trước) , thêm 5/thế tục trí, 6/
pháp trí, 7/ loại trí, 8/ tha tâm trí, 9/ tận trí, 10/ vô sanh trí.
96
Tam tam muội: 1/ không tam muội: quán các pháp từ nhơn duyên
sanh không có ngã và ngã sở; 2/ vô tướng tam muội: xa lìa những
tướng: sắc, thanh, hương, vị, xúc và tướng nam, tướng nữ.
74ngại
97
; khởi phiền não làm trở ngại sự
học những pháp lục độ, tứ đẳng98
; khởi
phiền não làm trở ngại sự học pháp tứ
nhiếp99
để giáo hóa khắp chúng sinh;
khởi phiền não làm trở ngại sự học bốn
hoằng thệ
100
của Đại thừa tâm; khởi
97
Tứ vô ngại: 1/ nghĩa vô ngại: biết rõ tất cả các pháp, nghĩa lý
thông đạt không trệ; 2/ pháp vô ngại: Bồ tát biết rõ các pháp, danh tự
phân biệt không trệ; 3/ từ vô ngại: Bồ tát đối với tất cả các pháp danh
tự, nghĩa lý tùy thuận tất cả chúng sanh, dùng phương tiện ngôn ngữ
khôn khéo diễn nói, khiến cho ai nấy đều hiểu rõ; 4/ nhạo thuyết vô
ngại: Bồ tát hay tùy thuận căn tánh của tất cả chúng sanh ưa nghe
pháp chi thì sẽ vì họ nói pháp ấy một cách viên dung vô ngại.
98
Tứ đẳng: tức là bốn vô lượng tâm: từ, bi, hỷ, xả. Từ nơi cảnh sở
duyên (chúng sanh) gọi là vô lượng, từ nơi tâm năng duyên (Bồ tát)
khởi bình đẳng nên gọi là đẳng.
99
Tứ nhiếp: 1/ bố thí nhiếp: Bồ tát dùng tài pháp bố thi nhiếp dẫn
chúng sinh trụ nơi chân lý; 2/ ái ngữ nhiếp: Bồ tát hay tùy thuận căn
tánh của chúng sinh và dùng lời nói hay ho ủy dụ họ trụ nơi chơn lý;
3/ lợi hành nhiếp: Bồ tát khởi hạnh từ thiện nơi thân khẩu ý làm lợi
ích cho tất cả chúng sinh, nhơn đó họ được trụ nơi chơn lý; 4. đồng
sự nhiếp: Bồ tát dùng pháp nhãn thấy rõ căn tánh của chúng sinh, tùy
theo chỗ ưa muốn của họ mà phân hình thị hiện, khiến họ được thấm
nhuần lợi ích, nhân đó họ được an trụ nơi chơn lý.
100
Bốn hoằng thệ: 1/ chúng sinh vô biên thệ nguyện độ: y nơi cảnh
khổ đế, Bồ tát quán thấy chúng sinh vô biên bị thọ khổ sanh tử áp
bức nên phát nguyện độ thoát họ ra khỏi ba cõi; 2/ phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn: y nơi cảnh tập đế, Bồ tát thẩm sát phiền não hoặc
nghiệp vô lượng hay chiêu tập quả khổ sanh tử nên phát nguyện
đoạn trừ và khiến cho chúng sinh cũng đoạn trừ; 3/ pháp môn vô
75phiền não làm trở ngại sự học những
pháp thập minh101
, thập hạnh102
; khởi
phiền não làm trở ngại sự học pháp thập
hồi hướng103
, thập nguyện104
; khởi phiền
lượng thệ nguyện học: y nơi cảnh đạo đế, Bồ tát thẩm sát đạo pháp
vô lượng có thể đưa tới Niết bàn, tự mình biết rồi lại nguyện cho tất
cả chúng sinh đều chứng biết; 4/ Phật đạo vô thượng thệ nguyện
thành: y nơi cảnh diệt đế, Bồ tát thẩm sát quả Bồ đề tối thắng không
chi hơn, tự mình thành tựu lại nguyện cho tất cả chúng sinh cũng đều
được thành tựu.
101
Thập minh: chỉ cho thập tín: 1/ tín tâm, 2/ niệm tâm, 3/ tinh tấn
tâm, 4/ tuệ tâm, 5/ định tâm, 6/ bất thối tâm, 7/ hộ pháp tâm, 8/ hồi
hướng tâm, 9/ giới tâm, 10/ nguyện tâm.
102
Thập hạnh: 1/ hoan hỷ hạnh, 2/ nhiêu ích hạnh, 3/ vô sân hận
hạnh, 4/ vô tận hạnh, 5/ ly si loạn hạnh, 6/ thiện hiện hạnh, 7/ vô
trước hạnh, 8/ tôn trọng hạnh, 9/ thiện pháp hạnh, 10/ chơn thật
hạnh.
103
Thập hồi hướng: hồi là hồi chuyển, hướng là thu hướng, hồi
hướng là khởi lòng đại bi cứu độ chúng sinh, xoay chuyển căn lành
của mười hạnh hướng về ba chỗ: a) chỗ sở chứng chơn như thật tế,
2) chỗ sở cầu Vô thượng Bồ đê, 3) chỗ sở độ tất cả chúng sanh. 1/
cứu tất cả chúng sinh mà lìa tướng chúng sinh bị độ; 2/ bất hoại:
trước lìa chúng sinh tướng là hoại, hoặi tức không, bất hoại tức giả,
không và giả chẳng phải hai, chính rõ trung đạo mà quy thú nơi bổn
giác; 3/ đẳng nhất thiết Phật: tánh bổn giác trạm nhiên thường trụ mà
cái trí năng giác ngang bằng với Phật giác; 4/ chí nhất thiết xứ hồi
hướng: được trí năng giác trước kia cùng khắp tất cả chỗ; 5/ vô tận
công đức tạng hồi hướng: công đức nhiều không cùng nên tất cả thế
giới của các đức Như lai có thể xen lẫn cùng nhau không ngăn ngại;
6/ tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: đối với lý của chư Phật
khởi nhơn chơn chánh của muôn hạnh và hiển chứng được đạo nhứt
76não làm trở ngại sự học minh giải của
các ngôi sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ
địa
105
; khởi phiền não làm trở ngại sự
thừa tịch diệt; 7/ tùy thuận đẳng quán nhứt thiết chúng sinh hồi
hướng: đã tu những nhơn chơn chánh thì thiện căn thành tựu có thể
quán biết mười phương chúng sinh đồng một bổn tánh, tánh đã bình
đẳng thì mới làm cho thiện căn của chúng sinh thành tựu không sơ
sót không cao thấp; 8/ chơn như tướng hồi hướng: lìa vọng là chơn,
không khác là như, nghĩa là tất cả pháp tánh vốn chơn như; 9/ vô
phược giải thoát hồi hướng: tướng chơn như đã hiện thì trí tuệ rõ
ràng, trí tuệ rõ ràng thì y chánh báo trong mười phương thâu nhiếp
một cách viên dung tự tại vô ngại; 10/ pháp giới vô lượng hồi hướng:
khi đã chứng được tánh đức chơn như thành tựu viên mãn trùm
nhiếp cùng khắp thì không còn phân biệt sự sai khác cái tướng của
mười cõi.
104
Thập nguyện: 1/ lễ kính chư Phật, 2/ xưng tán Như lai, 3/ quảng
tu cúng dường, 4/ sám hối nghiệp chướng, 5/ tùy hỷ công đức, 6/
thỉnh chuyển pháp luân, 7/ thỉnh Phật trụ thế, 8/ thường tùy Phật học,
9/ hằng thuận chúng sinh, 10/ phổ giai hồi hướng.
105
Sơ địa: Hoan hỷ. Bồ tát thấy chúng sanh tâm bị tà kiến chướng
ngại nên khởi từ tâm tu theo hạnh xả, trong thân tâm ngoài của cải
không lận tiếc, do đó cảm quả tâm được hoan hỷ.
Nhị địa: Ly cấu. Bồ tát thấy chúng sanh tạo mười nghiệp ác, tâm
đọa vào hạnh tà cho nên phát từ tâm tu mười nghiệp lành xa lìa được
dục cấu.
Tam địa: Phát quang. Bồ tát thấy chúng sanh mê hoặc tối tăm che
mất pháp lành nên phát tâm quảng đại đúng như pháp mà tu hành,
nhơn đó trí tuệ phát ra sáng suốt.
Tứ địa: Diệm tuệ. Bồ tát thấy chúng sanh phiền não nên phát tâm
đại từ tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo, nhơn đó phát ra diệm tuệ.
Bốn địa này thiên về không, nên gọi là minh giải vì có nhiều công
soi xét được bên trong.
77học những điều tri kiến của các ngôi ngũ
địa, lục địa, thất địa
106
; khởi phiền não
làm trở ngại sự học pháp song chiếu của
các ngôi bát địa, cửu địa, thập địa
107
,
khởi phiền não làm trở ngại sự học
106
Ngũ địa: Nan thắng. Bồ tát thấy các bực hạ thừa đắm trệ vào cảnh
hữu dư niết bàn, ưa sự vắng lặng độc thiện nên phát từ tâm tu tập
bình đẳng gia hạnh ngộ được chơn đế và tục đế, được trí không sai
biệt.
Lục địa: Thiện hiện. Bồ tát thấy chúng sanh bị đọa vào sanh tử
nên phát tâm tu hạnh bình đẳng lợi sanh, nhơn đó trí tuệ được hiện
tiền.
Thất địa: Viễn hành. Bồ tát vì thệ nguyện độ sanh nên phát tâm tư
bi gia công tu tập tất cả những pháp bồ đề phần, ngộ được không vô
tướng vô nguyện tam muội.
Ba địa này thiên về giả nên gọi là tri kiến, vì dùng bên ngoài
nhiều.
107
Bát địa: Bất động. Bồ tát không bỏ nhiệm vụ độ sanh, gia công tu
tập đạo hạnh thanh tịnh, lìa sự phân biệt chấp trước về tâm, ý, thức,
chứng được vô sinh pháp nhẫn, tất cả phiền não không còn lay động
được.
Cửu địa: Thiện huệ. Bồ tát dùng vô lượng trí quán sát cảnh giới
chúng sanh đều biết như thật, được trí tuệ vô ngại; khéo nói tất cả
pháp, khiến cho chúng sanh đều được lợi ích.
Thập địa: Pháp vân. Bồ tát dùng vô lượng trí tuệ quán sát và hiểu
biết rõ ràng pháp tam muội hiện tiền chứng được đại pháp, dùng thân
này làm mây trùm khắp tất cả chúng sanh đầy đủ tự tại.
Từ địa thứ tám trở đi, chuyển được tạng thức rồi mới được bình
đẳng cho nên địa sau cũng gọi là song chiếu (chiếu không, chiếu
giả).
78những hạnh tu trong trăm vạn a tăng kỳ
kiếp.
Những chướng ngại sự tu hành ấy vô
lượng vô biên, ngày nay chúng con hết
lòng thành khẩn hướng lên mười phương
chư Phật, tôn Pháp, Thánh chúng, hết sức
hổ thẹn cầu xin sám hối, nguyện đều dứt
sạch.
Nguyện nhờ công đức sám hối tất cả
các phiền não làm trở ngại sự tu hành,
chúng con được thụ sinh tự tại, khắp nơi
khắp chốn muốn ở được ở không bị
nghiệp cảm chất chứa xoay chuyển, lại
còn dùng pháp thần thông như ý, trong
khoảnh khắc đã dạo khắp mười phương,
vừa trang nghiêm thanh tịnh các cõi Phật,
vừa nhiếp hóa tất cả chúng sinh. Những
cảnh giới thiền định rất cao thâm, cùng
những sự thấy biết của chư Phật, chúng
79con nguyện hiểu thấu một cách vô ngại,
tâm thường bao quát tất cả các pháp, tự
tại diễn nói không bị nhiễm trước, được
tâm tự tại, khiến những phiền não ngu
dốt, kết tập lâu đời, đều được dứt hẳn,
không còn tiếp nối, để chứng được đạo
thánh vô lậu sáng chói như mặt trời.
Phát nguyện rồi xin đem cả thân
mệnh kính lễ chư Phật.
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
80Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đỉnh lễ chư Phật rồi, kế đến
sám hối.
Chúng con… đã lược sám
những phiền não chướng, giờ xin theo
thứ lời sám hối những nghiệp chướng108
.
Nghiệp lực tô bồi các nẻo, bất cứ chỗ nào
cũng bị đắm nhiễm, không chịu suy nghĩ
108
Nghiệp chướng: nghiệp là hành nghiệp, chướng là ngăn che.
Nghiệp chướng là những phiền não tham, sân, si, v.v… làm cho thân
khẩu ý tạo ra vô số tội nghiệp ngăn che thánh đạo.
81để mong cầu giải thoát. Bởi vậy nên quả
báo trong sáu đường không đồng nhau,
hình thể mỗi loài mỗi khác. Thế mới biết
đó do nghiệp lực gây ra. Trong mười
lực
109
của Phật, nghiệp lực sâu thẳm hơn
hết.
109
Mười lực: 1/ tri thị xứ phi xứ trí lực: đức Như lai đối với tất cả
nhân duyên quả báo, xét ra là thật và biết rõ ràng nên gọi là tri thị xứ,
nếu làm việc ác mà thọ quả vui thì không có lẽ ấy nên gọi là trí phi
xứ; 2/ tri quá hiện vị lai nghiệp báo trí lực: đức Như lai đối với
nghiệp duyên quả báo và chỗ sinh của tất cả chúng sinh trong ba đời
đều biết rõ khắp cả; 3/ tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực: tam
muội là tiếng Phạn, Tàu dịch là chánh định, đức Như lai đối với các
thiền định tự tại vô ngại, những thiền định ấy cạn sâu thứ lớp, ngài
đều biết khắp như thật; 4/ tri chư căn liệt trí lực: đức Như lai đối với
những căn tánh thắng liệt của chúng sinh đều biết khắp như thật; 5/
tri chủng chủng giải trí lực: đức Như lai đối với những ưa muốn
thiện ác của chúng sinh đều biết khắp như thật; 6/ tri chủng chủng
giới trí lực: đối với những giới phần của chúng sinh, đức Như lai đều
biết khắp như thật; 7/ tri nhất thiết chí xứ đạo trí lực: đối với chỗ đi
đến của lục đạo hữu lậu hạnh và chỗ đi đến của Niết bàn vô lậu
hạnh, đức Như lai đều biết khắp như thật; 8/ tri thiên nhãn vô ngại trí
lực: đức Như lai chứng thiên nhãn thanh tịnh thấy được chúng sinh
lúc chết lúc sống, những nghiệp duyên đoan chánh, xấu xa hay thiện
ác, ngài đều thấy rõ một cách vô ngại; 9/ tri túc mạng vô lậu trí lực:
đối với túc mạng của chúng sinh trong một đời cho đến trăm ngàn
muôn đời, một kiếp cho đến trăm ngàn muôn kiếp, chết chỗ này sinh
chỗ khác, chết chỗ kia sinh chỗ này, cả đến tên họ và sự ăn uống,
khổ vui, đức Như lai đều biết khắp như thật; 10/ tri vĩnh đoạn tập khí
82
Kẻ phàm phu phần nhiều hay sinh
lòng nghi hoặc. Vì thấy ở đời người làm
lành lại gặp nhiều trắc trở kẻ làm ác mà
được mọi sự an hòa mới cho rằng việc
lành dữ không có phân minh, người chấp
như thế bởi không đạt thấu lý sâu xa
nghiệp báo. Kinh nói có ba thứ nghiệp
báo:
Một là hiện báo, hai là sinh báo, ba
là hậu báo. Hiện báo tức là trong đời này
làm việc thiện ác thì ngay thân nầy chịu
quả báo. Sinh báo tức là trong đời nầy
làm việc thiện ác qua đời sau mới chịu
quả báo. Hậu báo tức là trong vô lượng
kiếp về quá khứ đã làm việc thiện ác, đến
đời nầy hoặc vô lượng kiếp về sau mới
chịu quả báo.
trí lực: đức Như lai đối với tất cả tập khí dư hoặc phần vĩnh đoạn
không sinh đều biết khắp như thật.
83
Còn người bây giờ làm ác mà gặp
may mắn bởi do những nghiệp lành sinh
báo, hậu báo thuần thục trong kiếp quá
khứ, nên mới hưởng quả tốt đẹp. Như thế
không phải trong đời nầy làm ác mà
được quả báo tốt. Những người bây giờ
làm lành lại bị khổ sở, bởi do những
nghiệp ác sinh báo, hậu báo đã thuần
thục trong kiếp quá khứ, nên những mầm
thiện ngày nay sức yếu không thể ngăn
dẹp những nghiệp ác ấy, nên phải chịu
quả khổ. Đâu phải trong đời này làm lành
mà chịu ác báo. Lại thấy trong đời những
kẻ làm lành, được người khen ngợi kính
trọng, nên biết ngày sau ắt được quả vui
sướng. Chúng ta về quá khứ đã có những
nghiệp ác như thế, nên chư Phật Bồ tát
dạy phải gần gũi bạn lành, cùng làm
pháp sám hối. Gặp được bậc thiện tri
thức là điều lợi lớn cho sự tu hành đắc
84đạo. Vì thế ngày nay chúng con xin chí
thành qui y Phật.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con
chất chứa nghiệp ác nhiều như cát sông
Hằng, gây tội lỗi đầy cả đại địa, hết bỏ
thân này lại thụ thân khác, không hay,
không biết, hoặc phạm tội ngũ nghịch110
sâu dầy, trói buộc nặng nề gây nên tội vô
gián111
, hoặc gây nên tội xiển đề
112
thành
nghiệp bỏ mất căn lành, khinh chê lời
Phật dạy thành nghiệp báng bổ kinh điển
đại thừa, phá diệt Tam Bảo thành nghiệp
hủy hoại chính pháp, không tin tội phước
thành nghiệp thập ác
113
, hiểu lầm chân lý
110
Ngũ nghịch: giết cha, giết mẹ, giết a la hán, phá hòa hiệp của
chúng tăng; làm cho thân Phật chảy máu.
111
Vô gián: chỉ cho ngục a tỳ, trong ngục này từ sự chịu khổ cho đến
tâm hạnh đều không gián đoạn một lúc nào nên gọi là vô gián.
112
Xiển đề: tiếng Phạn, Tàu dịch là tín bất cụ, nghĩa là kẻ ác không
đủ lòng tin đối với Tam bảo.
113
Thập ác: 1/ sát sanh, 2/ trộm cướp, 3/ tà dâm, 4/ nói dối, 5/ nói
thêu dệt, 6/ nói lời độc ác, 7/ nói hai lưỡi, 8/ tham, 9/ sân, 10/ si.
85làm trái chính pháp thành nghiệp si mê,
bất hiếu cha mẹ thành nghiệp ngang trái,
khinh mạn sư trưởng thành nghiệp không
kính lễ, thất tín bạn bè thành nghiệp bất
nghĩa, phạm tội tứ trọng114
bát trọng115
thành nghiệp làm trở ngại thánh đạo, hủy
phạm năm điều răn cấm thành nghiệp
phá giới bát quan trai
116
, phạm ngũ thiên
thất tụ117
thành nghiệp nhiều phạm giới,
phạm giới ưu bà tắc
118
thành nghiệp
khinh trọng cấu119
, hoặc gây ra nghiệp
thọ giới Bồ tát mà không được thanh
114
Tứ trọng: 1/ sát sanh, 2/ trộm cướp, 3/ dâm dục, 4/ nói dối. Trong
luật cho bốn điều này là căn bản giới, nếu giữ được là giải thoát,
không giữ được là gốc của sự đọa lạc.
115
Bát trọng: tám giới của tỳ kheo ni, tức là bốn giới trên cộng thêm
bốn giới: 1/ chạm xúc, 2/ tùy thuận, 3/ phú tàng (che dấu), 4/ kỳ hẹn.
116
Giới bát quan trai: 1/ không sát sanh, 2/ không trộm cắp, 3/ không
dâm dục, 4/ không nói dối, 5/ không uống rượu, 6/ không trang điểm,
không được ngồi giường cao nệm tốt, 7/ không được hát múa đờn
địch và cố đi xem nghe, 8/ không được ăn quá giờ ngọ.
117
Ngũ thiên thất tụ tức là 250 giới của tỳ kheo.
118
Giới ưu bà tắc tức là năm giới cấm của hàng tại gia cư sĩ.
119
Khinh trọng cấu: năm giới cấm của ưu bà tắc, bốn giới trước là
trọng, giới sau là khinh. Phạm hết năm giới thì bị nhiễm ô đọa lạc.
86tịnh, như thuyết tu hành, hoặc gây ra
nghiệp trước khi thọ giới sau khi thọ giới
làm nhiễm ô phạm hạnh120
, mỗi tháng
không ăn chay sáu ngày thành nghiệp
giải đãi, mỗi năm không ăn chay luôn ba
tháng thành nghiệp tu không thường,
không giữ gìn ba nghìn uy nghi thành
nghiệp không đúng giới pháp, không giữ
gìn tám vạn luật nghi thành nghiệp vi tế
tội, hoặc gây ra nghiệp không tu thân
giới, tâm tuệ, hoặc gây nên nghiệp tám
ngày vượng xuân thu121
tạo các tội lỗi,
hoặc gây nên nghiệp làm mười sáu ác
luật nghi
122
, hoặc gây nên nghiệp đối với
chúng sinh không lòng thương xót, gây
120
Phạm hạnh: giới hạnh thanh tịnh.
121
Tám ngày vượng: 1/ lập xuân, 2/ xuân phân, 3/ lập hạ, 4/ hạ chí,
5/ lập thu, 6/ thu phân, 7/ lập đông, 8/ đông chí.
122
Mười sáu nghề ác: 1/ làm hàng thịt, 2/ làm đồ tể, 3/ nuôi heo dê,
4/ đánh cá, 5/ đi săn, 6/ đánh rập chim, 7/ bắt rắn, 8/ nuôi gà chó, 9/
thờ rồng luyện chú, 10/ làm giặc, 11/ bắt ăn trộm, 12/ làm cai ngục,
13/ làm nghề chứa điếm, 14/ bán rượu, 15/ thợ nhuộm, thợ giặt, 16/
ép dầu.
87nên nghiệp không lân mẫn, không cứu
giúp, ôm lòng đố kỵ thành ra nghiệp
không cứu độ mọi loài, còn có chỗ oán
thân thành ra nghiệp không bình đẳng,
say đắm ngũ dục thành ra nghiệp không
nhàm lìa, hoặc vì cơm áo, vườn, rừng ao
hồ, thành ra nghiệp phóng đãng dâm dật,
hoặc vì tuổi trẻ phóng túng dục tình tạo
các tội lỗi, hoặc tạo nghiệp lành hữu lậu
để hồi hướng cầu sinh trong ba cõi thành
nghiệp ngăn ngại pháp xuất thế
123
.
Những tội lỗi ấy vô lượng vô biên,
ngày nay chúng con hướng về mười
phương chư Phật, tôn Pháp, Thánh chúng
xin giải bày sám hối.
Nhờ phước lành sám hối các tội lỗi
vô minh, ác nghiệp dứt sạch, được sinh
123
Xuất thế: ra khỏi cõi Dục, Sắc, Vô sắc.
88phước lành, nguyện chúng con đời đời
kiếp kiếp diệt được tội ngũ nghịch, trừ
hoặc nghiệp xiển đề. Tất cả nghiệp ác
vừa nặng vừa nhẹ, từ nay trở đi đến khi
thành Phật thề không dám phạm. Chúng
con nguyện thường chăm lo tu tập những
thiện pháp xuất thế
124
thanh tịnh, chuyên
trì giới luật tinh nghiêm, giữ gìn uy nghi,
như người qua biển mến tiếc phao nổi.
Những pháp lục độ, tứ đẳng tâm (từ, bi,
hỉ, xả), thường nêu trước cả muôn hạnh,
những phẩm Giới, Định, Tuệ càng thêm
sáng tỏ, mau thành tựu ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mười lực,
bốn vô úy, ba niệm đại bi
125
, diệu trí
124
Thiện pháp xuất thế: chỉ cho những pháp tam học (giới định tuệ)
và lục độ. Nếu thực hành đúng những pháp này thì được thoát ly
khỏi ba cõi.
125
Ba niệm đại bi: 1/ chúng sinh tin Phật thì Phật cũng không vui
mừng; 2/ chúng sinh không tin Phật thì Phật cũng không ưu não; 3/
chúng sinh có kẻ tin có kẻ không tin, thì Phật cũng không vui không
buồn.
89thường lạc, tám tự tại
126
của đức Như lai.
Chúng con… nguyện qui y chư Phật, xin
dủ lòng từ bi hộ niệm.
Trước chúng con đã sám hối chung
cả các nghiệp, nay lại xin theo thứ lớp
sám hối riêng từng tội một. Những tội ấy
hoặc chung (tội do ba nghiệp gây ra),
hoặc riêng (tội do một trong sáu căn gây
ra), hoặc to (tội do thân gây ra), hoặc nhỏ
(tội do ý gây), hoặc nhẹ (tội do vô tâm
gây ra), hoặc nặng (tội do sự cố ý gây
ra), hoặc nói (thứ tội ai cũng biết), hoặc
không (tội do một mình mình làm, một
mình mình biết), có từng phẩm loại
chúng con nguyện đều dứt hết. Sám hối
126
Tám tự tại: 1/ hay hiện ra nhiều thân; 2/ hay hiện thân nhỏ như
hạt bụi đầy cả cõi đại thiên; 3/ thân to lớn mà nhẹ nhàng muốn đến
đâu hay đến đó; 4/ hay hiện ra vô số loài mà vẫn thường ở một chỗ;
5/ các căn hổ dụng; 6/ được tất cả pháp mà vẫn tưởng như không có;
7/ nói nghĩa một bài kệ trải hàng vô lượng kiếp; 8/ thân ở khắp các
chỗ cũng như hư không.
90riêng từng tội, trước sám hối ba nghiệp
của thân, sau sám hối bốn nghiệp của
miệng, còn lại những nghiệp chướng
khác, lần lần xin cúi đầu sám hối tất cả.
Ba nghiệp của thân thứ nhất là
nghiệp giết hại, như kinh đã nói: “Dung
thứ kẻ khác như dung thứ mình, chớ giết
chớ đánh”. Tuy loài cầm thú cũng biết
bảo tồn thân mệnh sợ chết như mình.
Nếu tìm xét kỹ thì các chúng sinh từ vô
thỉ lại, hoặc đã là cha mẹ, anh em, hoặc
đã là bà con quyến thuộc, nhưng bởi
nhân duyên nghiệp báo, nên phải luân
hồi sáu nẻo, ra vào đường sinh tử, thay
hình đổi dạng không còn nhận biết lẫn
nhau. Nay chúng ta đang tâm giết hại ăn
thịt, như thế rất tổn hại lòng Từ Bi. Vì
thế Phật dạy: “giả sử được ăn các rau quả
còn tưởng như trong đời đói khát phải ăn
thịt con, huống là ăn cá thịt”. Phật lại
91dạy: “Vì lợi giết chúng sinh, lấy tiền mua
thịt cá, cả hai đều là ác nghiệp, sau chết
đọa vào địa ngục “rên siết”. Vì thế nên
biết giết hại loài vật và lấy thịt ăn, tội sâu
như sông biển, nặng như gò núi. Song từ
vô thỉ đến nay, chúng con vì không gặp
được bạn lành nên mới tạo những nghiệp
ấy. Kinh dạy: “ Tội giết hại thường làm
chúng sinh đọa vào địa ngục, ngạ quỉ để
chịu khổ báo. Nếu đầu thai trong loài súc
sinh phải chịu làm thân hùm, beo, chó
sói, bồ cắt, hoặc làm thân rắn độc, rết
độc, ôm lòng hiểm ác, hoặc làm thân
hươu, nai, thỏ, beo luôn luôn sợ hãi. Nếu
được làm người, mắc phải hai thứ quả
báo: một là nhiều bịnh, hai là chết yểu.
Sự giết hại loài vật ăn thịt, đã gây
biết bao nhiêu ác báo như thế, ngày nay
chúng con chí thành cầu xin sám hối.
92Lại từ vô thỉ đến nay, khi có tâm
thức này, thường ôm lòng thảm độc,
không dạ xót thương, hoặc vì tham lam
mà giết, hoặc vì giận dữ si mê khinh mạn
mà giết, hoặc dùng phương tiện độc ác
mà giết, hoặc thề giết, nguyền giết, dùng
phù chú giết v.v… hoặc phá hồ tháo
nước, thiêu đốt núi rừng, săn bắn chài
lưới, hoặc nhân khi gió phóng lửa, hoặc
thả chim săn, chó săn làm não hại tất cả
mọi loài. Những tội như thế nay chúng
con đều xin sám hối. Hoặc dùng cạm bẫy
hầm hố, câu liêm, kích, cung, nỏ, bắn
giết những loài chim bay, thú chạy, hoặc
dùng lưới rập, thả câu để đơm bắt những
loài dưới nước làm cho tất cả những
giống ở nước: cá, ba ba, trạnh, dọp, ốc,
tôm, hến… ở mặt đất, ở trên không,
chẳng còn chỗ nào trốn núp. Hoặc nuôi
gà, heo, trâu, dê, chó, ngỗng, vịt để tự
mình giết ăn, hoặc mượn người làm thịt,
93khiến tiếng kêu thương của chúng chưa
dứt mà lông cánh đã rơi rụng, mai vảy đã
tan nát, đầu một nơi thân một ngả, xương
thịt tiêu tan, lột, xé, mổ, cắt, đốt, thui,
nấu, nướng đau đớn biết giường nào.
Thôi ôi! ỷ sức mạnh giết hại loài vô
tội ăn thịt, chỉ sướng miệng một lúc,
được chút vị ngon, bất quá vì ba tấc lưỡi
mà phải mang lấy tội báo kiếp kiếp đời
đời. Những tội ác như thế, ngày nay
chúng con xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay hoặc khởi binh
đánh nhau, giao tranh nơi biên trường,
hai bên giáp mặt, giết hại lẫn nhau, hoặc
tự mình giết, hoặc sai người giết, hoặc
nghe ai giết sinh tâm vui mừng, hoặc tập
làm nghề mổ heo, bò, đi làm thịt mướn,
xẻ nấu thân mệnh loài vật, gây nhiều việc
bất nhẫn, hoặc giận dữ khoa mác múa
94dao, hoặc chém, hoặc đâm, hoặc xô
xuống hầm hố, hoặc nhận chìm dưới
nước, hoặc lấp hang phá ổ, hoặc lấy đất
đá ngăn lấp, hoặc dùng xe, ngựa lăn cán
dày đạp tất cả chúng sinh. Những tội như
thế vô lượng vô biên, ngày nay chúng
con đều xin giải bày sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay: hoặc phá thai,
đập trứng, dùng trùng độc, thuốc độc giết
hại chúng sinh, hoặc khai khẩn đất cát,
trồng cấy vườn ruộng, nuôi tằm, ươm
kén, giết hại càng nhiều; hoặc đập đuổi
ruồi muỗi, nhằn cắn chí rận, hoặc đốt rác
dơ bẩn, khai tháo ngòi rãnh giết hại loài
vật, hoặc ăn trái cây dùng thóc gạo, rau
dưa, phải giết càn chúng sinh; hoặc đốt
củi thắp đèn đuốc, thiêu chết các loài côn
trùng; hoặc lấy tương dấm không khuấy
động trên mặt; hoặc đổ nước sôi làm chết
sâu kiến, cho đến những khi đi, đứng,
95nằm, ngồi cũng thường giết hại chúng
sinh nhỏ nhít bay trên không bám dưới
đất. Bởi phàm phu tâm thức tối tăm
không hay biết mới phạm phải các tội,
ngày nay đều xin giải bày sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với chúng
sinh, hoặc dùng roi, gậy gông, xiềng,
hoặc dùng kềm kẹp tra khảo, đánh vật,
thoi, đạp, lấy dây trói buộc giam cùm,
tuyệt hẳn cơm nước, dùng những cách
độc ác làm khổ não chúng sinh, ngày nay
chí thành hướng về mười phương chư
Phật, Tôn Pháp, Thánh chúng, cầu xin
sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội giết hại ấy, chúng con đời đời
kiếp kiếp được thân hình bền chắc như
kim cương, sống lâu vô cùng, xa lìa oán
ghét, không còn nghĩ đến những việc giết
96hại. Đối với chúng sinh coi như con một.
Nếu thấy bị tai nạn nguy cấp thì trước
tùy phương tiện giải cứu, không lẫn tiếc
thân mệnh, rồi sau mới đem chính pháp
nhiệm mầu nói cho, khiến chúng sinh
thấy hình thấy bóng đều được an vui,
nghe tên nghe tiếng liền hết sợ hãi. Vì
thế ngày nay, chúng con xin cúi đầu qui
y theo Phật.
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
97Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đảnh lễ chư Phật rồi, kế đến sám hối
nghiệp trộm cướp. Trong kinh nói: “Vật
của người khác thì người đó giữ. Dầu
một lá rau, cọng cỏ mà không cho cũng
không được lấy, huống chi trộm cướp”.
Nhưng vì chúng sinh chỉ thấy lợi trước
mắt nên lấy một cách trái đạo, đến nỗi
sau này phải chịu tai ương. Bởi vậy kinh
nói: “Tội trộm cướp làm chúng sinh bị
đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, chịu khổ vô
cùng”. Nếu đầu thai trong đường súc
sinh, phải chịu làm thân trâu, ngựa, la,
98lừa, lạc đà v.v… đem thân máu thịt của
mình trả nợ kiếp trước cho người. Nếu
được làm người, phải chịu làm thân tôi
mọi kẻ khác, áo không đủ che thân, cơm
ăn không đủ bữa, bần cùng khốn khổ, lẽ
sống của con người hầu như không còn
gì nữa.
Sự trộm cướp đã có khổ báo như thế,
ngày nay chúng con chí thành cầu xin
sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con
hoặc trộm tiền tài, bảo vật kẻ khác, hoặc
cầm dao cưỡng đoạt, hoặc tự mình xông
đến bức người lấy của, hoặc cậy quyền
nương vào thế lực, dùng kìm to kẹp lớn
ép chế oan người lương thiện, hoặc thâu
tiền đút lót của bọn gian, đánh khảo
người ngay buộc cho là tà vậy, vì những
nguyên nhân ấy khiến họ sa vào luới
99pháp luật hoặc ăn tiền của kẻ dưới để
dung túng họ làm bậy, hoặc lấy của công
làm lợi riêng, lấy của riêng vào việc
công, làm tổn hại người kia để đem lợi
cho người này, làm tổn hại người này để
đem lợi cho người kia, lấy bớt của kẻ
khác để làm lợi cho mình, miệng hay nói
bố thí mà tâm thì bỏn sẻn, ăn cắp thuế
ruộng thuế chợ, trốn thuế đò ải, bớt của
công để dùng vào việc riêng, dấu sưu
dịch để sai làm việc mình. Những tội như
thế ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc những
vật của Phật, Pháp, Tăng không cho mà
lấy, hoặc vật thuộc về kinh tượng, hoặc
vật dùng để cất chùa xây tháp, hoặc vật
dùng để cúng dàng Thường Trụ Tăng
hay chư Tăng tại chùa, hoặc trộm cắp lấy
lầm, cậy thế không trả lại, hoặc tự mình
vay mượn, hoặc cho người khác vay
100mượn mà quên sót, hoặc đem của Tam
Bảo dùng không phải chỗ, tiêu pha lãng
phí, hoặc lấy những vật như thóc, gạo,
củi, rác, muối, đậu, tương, dấm, rau, dưa,
hoa, quả, tiền, vải, tre, gỗ, lụa là, phan
lọng, hương hoa, dầu đèn tùy tình mặc ý
tự mình lấy dùng, hay cho người khác
dùng; hoặc trích hoa quả cúng Phật, hay
dùng đồ vật chúng tăng, hoặc lấy của
Tam Bảo làm của riêng mình. Những tội
như thế vô lượng vô biên, ngày nay
chúng con hổ thẹn, đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc chỗ bạn
bè qua lại, sư tăng đồng học, hay cha mẹ
anh em, bà con quyến thuộc cùng chung
ở nhau, mà trăm cần dùng lừa dối gạt
gẫm nhau, hoặc đối xóm diềng gần gũi
dời rào, xê tường, xâm lấn đất nhà người
khác, đổi mốc, thay nêu, cướp dựt tiền
của, bao chiếm ruộng vườn, mượn tiếng
101việc công để làm lợi riêng, sang đoạt
hàng quán rẫy bái của người. Những tội
như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc đánh phá
thành ấp, đốt làng phá dậu (hàng rào)
buôn bán lương dân dụ dỗ tôi tớ của
người, hoặc áp chế oan những kẻ vô tội,
hoặc bị đâm chém máu rơi thịt nát, thân
bị đày ải, gia sản tan nát, cốt nhục chia
lìa, mỗi người một cõi, sống chết cách
tuyệt. Những tội như thế vô lượng vô
biên, ngày nay đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, buôn bán hàng
hóa, tạp quán đổi chác đồ vật, dùng cân
non, đấu nhỏ, giảm bớt thước tấc, xén lấn
phân thù127
, lường gạt từng ly, đem của
xấu đổi của tốt, đem thứ ngắn đổi thứ
127
Thù: tên số cân đời xưa. Nửa lượng là một thù.
102dài, giả dối trăm chiều để mong cầu chút
lợi. Những tội như thế, ngày nay chúng
con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc khoét
vách đào tường, chận đường cướp đoạt,
hoặc trốn nợ, xén bớt tài lợi, hoặc phụ
tình trái hẹn, ngoài mặt lừa dối, trong
lòng mưu toan, hoặc cướp giựt trái đạo,
đồ vật của quỉ thần, cầm thú chúng sinh,
hoặc mượn cớ coi thẻ coi tướng để gạt
lấy tài sản của người, như thế cho đến
đem lợi cầu lợi, cầu cách vô đạo, cầu
cách tham lam, không biết chán, không
biết đủ. Những tội như thế vô lượng vô
biên, không thể nói hết, ngày nay chúng
con chí thành, hướng về mười phương
chư Phật, Tôn Pháp, Thánh chúng, đều
xin sám hối.
103Nguyện do công đức sám hối những
tội trộm cướp ấy, chúng con đời đời kiếp
kiếp được ngọc như ý, thường xuất sinh
bảy trân bảo, y phục cực đẹp, đồ ăn đủ
vị, đủ các thứ thuốc men, tùy ý muốn vật
chi tức có liền vật ấy, lại nguyện cho tất
cả chúng sinh không ai còn tưởng đến sự
trộm cướp, ít ham muốn, biết vừa đủ,
không đắm nhiễm, thường vui lòng bố
thí, thực hành đạo cứu tế, bỏ đầu, mắt,
tủy, não như đã bỏ đờm dãi, để mong
thành tựu bố thí ba la mật.
Kế đến chúng con… xin sám hối tội
tham ái. Trong kinh nói: “ Chỉ vì tham
dục nên bị giam hãm trong ngục si mê,
chìm đắm trong vòng sinh tử, không biết
ngõ ra”. Chúng sinh vì say đắm ngũ dục;
nên từ xưa nay bị lưu chuyển mãi trong
đường sinh tử. Giá cứ lấy xương tất cả
chúng sinh trong muôn vàn kiếp chất
104đống lại thì bằng núi Tỳ phú la ở thành
Vương xá, sữa mẹ cho bú nhiều như
nước bốn biển, máu huyết trong mình
chảy ra còn hơn thế nữa, nước mắt cha
mẹ anh em bà con quyến thuộc thương
khóc khi lâm chung cũng nhiều như nước
bốn biển. Vì thế nên nói: còn tham ái thì
còn sinh tử, hết tham ái thì sinh tử diệt.
Thế mới biết tham ái là gốc sinh tử.
Trong kinh nói: “tội dâm dục hay khiến
chúng sinh bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ
chịu khổ vô cùng”. Nếu ở trong loài súc
sinh phải làm chim bồ câu, chim sẻ, chim
uyên ương. Nếu sinh trong loài người thì
gặp phải vợ (hay chồng) phụ bạc, bà con
toàn với những người trái ý. Sự dâm dục
có quả báo xấu xa như thế, nên ngày nay
chúng con chí thành cầu ai sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con
hoặc quyến rũ thê thiếp, chiếm đoạt vợ
105con của người, hoặc làm ô nhục ni cô,
phá phạm hạnh người khác, hiếp bức một
cách vô đạo, đem tâm bất chính xem ngó
lẳng lơ, nói cười bỡn cợt, hoặc làm nhơ
tiếng tốt của người, hoặc làm hạnh bất
tịnh với năm hạng người bán nam bán
nữ. Những tội như thế thật vô lượng vô
biên, ngày nay chúng con, đều xin chí
thành sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội dâm dục ấy, đời đời kiếp kiếp
được tự nhiên hóa sinh, không do bào
thai, được thanh khiết sáng sủa, tướng
mạo quang minh, sáu căn tỏ rõ, thông
minh lanh lợi, hiểu rõ ái ân là cùm xích
bó buộc, xét kỹ sáu trần là trò huyễn hóa,
mà quyết định xa lìa cảnh ngũ dục, cả
đến trong giấc mộng cũng không nghĩ
điều bất chính, những điều mê hoặc ở
trong ở ngoài, không thể động tâm.
106
Sám hối phát nguyện rồi, chúng con
xin đem hết thân mệnh kính lễ Tam Bảo.
Chúng con trước đã sám hối ba
nghiệp ác của thân, nay xin theo thứ lớp
sám hối bốn nghiệp của miệng.
Trong kinh nói: “Những tội nghiệp
do miệng gây ra thường làm chúng sinh
bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ chịu khổ vô
cùng. Nếu đầu thai vào loài súc sinh phải
làm thân chim cú, chim mèo, tiếng kêu
đáng ghét. Nếu được sinh vào loài người
thì hơi miệng hôi thối, nói không ai tin,
còn trong bà con quyến thuộc thường xảy
ra bất hòa, đánh lộn cãi lẫn. Nghiệp của
miệng đã có những ác quả như thế, nên
ngày nay chúng con chí thành qui y Tam
Bảo, cầu xin sám hối.
107Chúng con…từ vô thỉ đến nay, vì
nghiệp ác khẩu nên phải ở trong bốn nẻo
sáu loài, tạo nhiều tội lỗi, nói năng thô
tháo, lời lẽ hung bạo ngang tàng, không
biết tôn ti, đối với kẻ thân người sơ, kẻ
sang người hèn, hơi trái ý mình, đã nổi
giận hờn la mắng. Mắng nhiếc hủy nhục,
nhiều điều hèn hạ xấu xa, ác độc, không
chừa điều chi, khiến cho người khác ôm
hận suốt đời không quên, gây họa kết thù
chẳng bao giờ dứt, lại còn oán thán trời
đất, trách móc quỉ thần, chê bai các bậc
hiền thánh, vu oan điếm nhục người
lương thiện. Những tội nghiệp do ác
khẩu gây ra như thế thật vô lượng vô
biên, ngày nay chúng con đều xin chí
thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói
dối, tạo ra bao nhiêu tội lỗi: trong ý
mong cầu danh dự lợi dưỡng dấu diếm
108tình thực, dối trá đủ điều, trong tâm mê
muội, ngoài mặt dạn dày, chuyện có nói
không, chuyện không nói có, thấy nói
không thấy, không thấy nói thấy, nghe
nói không nghe, không nghe nói nghe,
biết nói không biết, không biết nói biết,
làm nói không làm, không làm nói làm,
khi miệt thánh hiền, lường đảo dối hoặc
người đời, đến như cha con, vua tôi, họ
hàng, bè bạn mà nói năng gì cũng không
khi nào thành thực, khiến người khác lầm
nghe mình đến nỗi phải tan nhà mất
nước. Lại còn giả trò yêu thuật, thường
tự khen mình, khoe mình đã chứng tới
bực tứ thiền128
, tứ vô sắc định129
, an na
bát na
130
, mười sáu quán hạnh, chứng bậc
128
Tứ thiền: 1/ sơ thiền, 2/ nhị thiền, 3/ tam thiền, 4/ tứ thiền; đó là
bốn bực tu thiền ở cõi Sắc.
129
Tứ vô sắc định: bốn bực tu định ở cõi Vô sắc: 1/ không xứ định;
2/ thức xứ định; 3/ vô sở hữu xứ định; 4/ phi tưởng phi phi tưởng xứ
định.
130
An na bát na: pháp đếm hơi thở để nhiếp tâm trừ vọng.
109Tu đà hoàn, đến bậc A la hán, Bích Chi
Phật, bậc Bất thoái Bồ tát và thiên long
quỉ thần, thần gió, thần đất đều đến bên
mình, lại bày trò lạ mê hoặc lòng người
để mong cung kính cúng dâng bốn cần
dùng. Những tội nghiệp do vọng ngữ gây
ra như thế, vô lượng vô biên, ngày nay
chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói
thêu dệt (ỷ ngữ) tạo ra bao nhiêu tội lỗi:
dùng âm từ hoa mỹ, văn chương bóng
bẩy, xuyên tạc sự sai lầm, trang sức điều
trái quấy, khéo đặt những bản ca hát hình
dung vẻ yêu kiều, mô tả thói dâm ô,
khiến cho hạng trung lưu, hạ lưu động
tâm đãng tính, say đắm tửu sắc không thể
tự giác. Hoặc phóng túng tư thù, không
kể lời nghị bàn công chính, dẫu người
kia là bậc trung thần, hiếu tử hay là chí
sĩ, hiền nhân, vẫn cứ làm văn thêu dệt
110nên tội, để người đời sau tin cho là thật,
khiến người kia phải ôm hận dưới cửu
tuyền không biết đâu biện bạch.
Những tội nghiệp do ỷ ngữ gây ra
như thế, vô lượng vô biên, ngày nay
chúng con đều xin chí thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì nghiệp nói
hai lưỡi gây ra bao nhiêu tội lỗi: khen
trước mặt chê sau lưng, xảo trá trăm
chiều, tới người kia nói chuyện người
này, tới người này nói chuyện người kia,
chỉ biết lợi mình, không nhìn hại đến kẻ
khác, dèm siểm để ly gián vua tôi, vu oan
hủy nhục người lương thiện, để cho vua
tôi nghi kỵ nhau, cha con bất hòa nhau,
họ hàng thân thích xa nhau, làm mất ơn
thầy trò, dứt đường lui tới bạn bè, cả đến
làm cho hai nước đang giao hảo nhau
phải hủy bỏ minh ước, mất hòa khí, gây
111sự oán thù đem binh đánh nhau giết hại
trăm họ. Nghiệp nói hai lưỡi, gây ra tội
lỗi vô lượng vô biên như thế, ngày nay
chúng con chí thành hướng về mười
phương chư Phật, Tôn Pháp, Thánh
chúng đều xin giải bày cầu ai sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối bốn
nghiệp ác khẩu, đời đời kiếp kiếp được
đầy đủ tám thứ âm thanh, bốn món biện
tài, thường nới những lời hòa hợp lợi ích,
giọng nói thanh nhã ai cũng muốn nghe,
lại được hiểu rõ ngôn ngữ chúng sinh.
Nếu có nói chi đều được thích hợp căn
cơ, khiến cho ai nghe cũng được tỏ ngộ,
nhập thánh siêu phàm, mở phát tuệ nhỡn.
Sám hối và phát nguyện rồi, xin đem
hết thân mệnh kính lễ Tam Bảo.
112Trước đã sám hối ba nghiệp ác của
thân, bốn nghiệp ác của miệng, nay xin
theo thứ lớp sám hối những tội chướng
do sáu căn gây ra.
Chúng con … từ vô thỉ đến nay, mắt
vì hình sắc ở ngoài làm mê hoặc, ham
thích những màu đen, vàng, đỏ, trắng,
tía, xanh, cùng những đồ chơi đồ trang
sức quí giá; hoặc thấy tướng mạo đàn
ông, đàn bà, cao, thấp, trắng, đen, cử chỉ
yêu kiều diễm lệ, mà khởi ra những tư
tưởng phi pháp; Hoặc tai ham nghe tiếng
hay như cung, thương, đàn sáo, ca hát,
trò vè, hoặc nghe những giọng thanh tao,
lời ăn nói, tiếng khóc cười của đàn ông,
đàn bà mà khởi ra những tư tưởng phi
pháp; hoặc mũi thích ngửi mùi thơm của
gỗ trầm, gỗ chiên đàn, long não, xạ
hương, hay mùi thơm của cây uất kim
113131
, cây tô hợp132
mà khởi ra những tư
tưởng phi pháp; hoặc lưỡi ham nếm
những vị ngon lành, tươi tốt ngọt béo,
nên phải lấy máu thịt chúng sinh, để nuôi
thân tứ đại, vun quén thêm cội khổ, mà
khởi ra những tư tưởng phi pháp; hoặc
thân mình ham muốn sự lòe loẹt, gấm,
vóc, lụa là, tất cả những thứ mượt dịu, y
phục đẹp đẽ bằng thất trân, mà khởi ra
những tư tưởng phi pháp; hoặc ý hay
loạn tưởng nên gặp đâu cũng trái pháp.
Bởi sáu căn tạo ra tội nghiệp vô lượng vô
biên như thế, ngày nay chúng con chí
thành hướng về mười phương chư Phật,
Tôn Pháp, Thánh chúng, đều xin sám
hối.
131
Cây uất kim: uất kim hương, một giống cỏ có bông rất thơm.
132
Tô hợp: tô hợp hương, một thứ cây to lá như bàn tay, hoa nhỏ có
nhựa rất thơm dùng làm thuốc.
114Nhờ công đức sám hối tội lỗi do
nhỡn căn gây ra, chúng con nguyện mắt
nầy thấy suốt pháp thân thanh tịnh của
mười phương chư Phật Bồ tát, không
bằng sự sai biệt.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do nhĩ
căn gây ra, chúng con nguyện tai này
thường được nghe chính pháp của mười
phương chư Phật, hiền thánh đã nói, và
thực hành đúng theo giáo pháp ấy.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do tỵ
căn gây ra, chúng con nguyện mũi này
thường ngửi hương thơm nhập pháp tính
ở cõi Hương Tích, xa lìa mùi hôi thốt bất
tịnh của sinh tử.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do
thiệt căn gây ra chúng con nguyện lưỡi
115này thường ăn ăn thiền duyệt pháp thực,
không tham mùi máu thịt của chúng sinh.
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do
thân căn gây ra, chúng con nguyện thân
này mặc được “áo Như lai”, khoác “giáp
nhẫn nhục”, nằm “giường vô úy”, ngồi
“tòa pháp không”.
133
Nhờ công đức sám hối tội lỗi do ý
căn gây ra, chúng con nguyện ý này
thành tựu được mười lực, thông suốt
được năm minh134
, xét rõ lý chân không
bình đẳng của hai đế
135
, theo trí tuệ
phương tiện vào được dòng nước phát
133
Tòa pháp không: an trụ nơi cảnh giới hiểu rõ các pháp đều không.
134
Năm minh: 1/ nội minh: thông đạt giáo pháp của Phật; 2/ nhân
minh: lý luận giỏi; 3/ thanh minh: văn chương sinh ngữ đều thông
đạt; 4/ y phương minh: biết tất cả những phương pháp trị bệnh; 5/
công xảo minh: biết tất cả nghề nghiệp trong đời.
135
Hai đế: 1/ chơn đế tức chỉ cho thiện pháp vô lậu; 2/ tục đế tức chỉ
cho thiện pháp hữu lậu.
116tính, niệm niệm sáng suốt, phát hiển
pháp vô sinh nhẫn136
của Như Lai.
Phát nguyện rồi, đem cả thân mệnh
kính lễ thường Trụ Tam Bảo.
HẾT QUYỂN TRUNG
136
Vô sanh nhẫn: ngộ nhập tất cả các pháp tánh vô sanh.
117
PHÁP TỪ BI THỦY SÁM
(QUYỂN HẠ)
Tất cả chư Phật vì thương xót chúng
sinh, mới nói pháp đạo tràng Thủy sám.
Ngày nay chúng con xin đem cả thân
mệnh, hướng về hết thảy chư Phật.
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
118Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Đỉnh lễ chư Phật rồi thứ lại sám hối.
Trên kia đã sám hối ba nghiệp của thân,
bốn nghiệp của miệng. Bây giờ chúng
con xin sám hối tất cả nghiệp chướng đối
với Phật, Pháp, Tăng.
Trong kinh Phật dạy: “Thân người
khó được, Phật pháp khó nghe, chúng
Tăng khó gặp, tín tâm khó sinh, sáu căn
khó đủ, bạn tốt khó gặp”. Ngày nay
chúng ta nhờ kiếp trước đã gây nhiều căn
lành, nên mới được làm thân người, sáu
căn đầy đủ, lại gặp bạn lành, được nghe
119chính pháp. Nếu trong lúc này, không hết
lòng tinh tiến tu hành, ắt sau này sẽ bị
chìm đắm trong muôn ngàn khổ đau,
không biết ngày nào ra khỏi. Bởi thế hôm
nay, chí thành cầu xin sám hối.
Chúng con… từ vô thỉ đến nay,
thường bị vô minh che tâm tính, phiền
não chướng ý thức, thấy hình tượng Phật
không hết lòng cung kính, khinh miệt
chúng tăng, tàn hại bạn tốt, phá tháp hủy
chùa, thiêu đốt kinh tượng, làm hại thân
Phật; hoặc mình ở nhà đẹp để tượng
Phật, Bồ tát ở chỗ thấp hèn bẩn thỉu, khói
hun nắng táp, gió thổi mưa chang, bụi đất
dính đầy, chim chuột đục khoét, hoặc thờ
chung trong phòng ngủ không từng kính
lễ, hoặc ở trần trước tượng Phật, không
sửa y phục trang nghiêm tề chỉnh, hoặc
che đậy đèn đuốc, đóng kính cửa chùa,
che lấp ánh quang minh chỗ Phật. Những
120tội như thế nay chúng con đều xin chí
thành sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với Pháp
Phật, lấy tay bẩn thỉu cầm các quyển
kinh, hoặc đang khi đọc tụng, xen nói lời
tục tĩu phi pháp; hoặc để kinh trên đầu
giường, ngồi đứng không cung kính;
hoặc để trong rương tráp sâu mọt ăn nát,
hoặc cuốn tròn làm cho sổ rớt, mất mát
thứ tự lộn lẫn bộ loại; hoặc lôi kéo vướng
đứt, làm rách giấy mất chữ, tự mình
không tu tập, không chịu lưu truyền.
Những tội như thế, ngày nay chúng con
đều xin chí thành sám hối.
Lại nằm dài nghe kinh, nằm ngửa
đọc tụng, hoặc nói cười lớn tiếng, làm
rộn người khác nghe pháp; hoặc giải sai
lời Phật dạy, nói khác thánh ý; không
phải chính pháp nói là chính pháp, chính
121là chính pháp nói không phải chính pháp;
chẳng phạm nói phạm, phạm nói chẳng
phạm, tội nhẹ nói nặng, tội nặng nói nhẹ,
hoặc sao chép kinh sách đoạn trước để
đoạn sau, đoạn sau đem để đoạn trước,
hoặc đoạn trước đoạn sau đem để vào
giữa, hoặc đoạn giữa đem để ra trước
sau; hoặc thêu dệt lời văn trong kinh Phật
để làm sách riêng của mình; hoặc vì danh
dự lợi dưỡng, cung kính mà nói pháp;
không lòng vị pháp, chỉ vì muốn tìm lỗi
của pháp sư mà bàn luận nghĩa lý; không
vì tăng tiến sự hiểu biết để cầu pháp xuất
thế, mà chỉ đàn hạch một cách vô lý,
hoặc khinh mạn lời Phật, tôn trọng tà
giáo, chê bai đại thừa, khen ngợi Thanh
văn. Những tội như thế vô lượng vô biên,
ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, đối với chúng
tăng gây ra các nghiệp chướng, như giết
122bậc A la hán, phá sự hòa hợp của chúng
tăng, hại những người phát tâm vô
thượng Bồ đề, dứt tuyệt giống Phật, làm
cho thánh đạo không lưu hành được;
hoặc lột xẻ người tu hành, tra khảo bậc
sa môn, đánh đập đầy đọa, dùng lời thô
bỉ mắng nhiếc; hoặc phá giới hạnh thanh
tịnh làm mất hết uy nghi; hoặc khuyên
người khác bỏ đạo bát chính; hoặc giữ và
thực hành theo năm pháp tà
137
, hoặc giả
dạng nhà sư trộm của thường trụ tiêu xài
việc riêng. Những tội như thế, ngày nay
chúng con đều xin sám hối.
Hoặc để mình trần hay mặc y phục
mỏng manh đường đột đến trước kinh
tượng; hoặc mang giày bẩn thỉu đi vào
điện Phật, dẫm lên tháp Phật, hoặc mang
guốc vào chùa, khạc đàm nhổ nước
137
Năm pháp tà: tức là năm điều luật ác nghiệp của Đề Bà Đạt Đa.
123miếng trong nhà thiền, làm nhơ nhớp chỗ
Phật và chúng tăng ở; hoặc đánh xe cỡi
ngựa xông pha vào trong chùa chiền, tịnh
xá. Phàm đối với Tam Bảo mà khởi ra
những tội lỗi như thế, thật vô lượng vô
biên, ngày nay chúng con chí thành
hướng về mười phương chư Phật, Tôn
Pháp, Thánh chúng, cầu xin sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối ấy,
chúng con đời đời kiếp kiếp thường gặp
được Tam Bảo để tôn ngưỡng cung kính,
không bao giờ chán nản, lại có gấm lụa
tốt đẹp, anh lạc quí giá, trăm nghìn âm
nhạc, các danh hương, các thứ hoa quả
tốt tươi có đủ những vật sở hữu trên đời
để cúng dàng. Nếu có vị nào thành Phật
chúng con nguyện đến trước khuyến
thỉnh mở cửa cam lồ cứu độ chúng sinh.
Nếu có vị Phật nào nhập Niết bàn, chúng
con nguyện được cúng dàng một lần sau
124chót. Còn như trong hàng chúng tăng,
chúng con nguyện tu sáu pháp hòa kính,
được sức tự tại, trùng hưng Tam Bảo,
trên hoằng dương đạo Phật, dưới hóa độ
chúng sinh.
Những tội hoặc nặng hoặc nhẹ đối
với Tam Bảo đã sám hối rồi, còn lại
những tội ác khác chúng con xin theo thứ
lớp sám hối hết thảy. Như trong kinh nói:
“Có hai hạng người được mạnh mẽ: một
là tự mình không gây tội, hai là đã gây
tội mà biết ăn năn sám hối”. Lại có hai
phương pháp trong sạch, có thể làm cho
chúng sinh diệt trừ được các chướng
ngại: một là biết hổ nên tự mình không
làm ác, hai là biết thẹn, nên không xúi
người khác làm ác. Có hổ thẹn như thế
mới gọi là người. Nếu không biết hổ thẹn
thì cũng không khác cầm thú. Bởi vậy
125ngày nay chúng con chí thành qui y Phật,
xin theo đúng pháp mà sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, vì mê tín tà
kiến nên giết hại chúng sinh để cúng tấu
quỉ thần, lỵ mỵ vọng lượng, cầu được
sống lâu, nhưng không bao giờ được;
hoặc nói dối thấy ma quỉ, rồi giả xưng là
thần nói để gạt người. Những tội như thế,
ngày nay chúng con đều xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, hoặc hành
động láo xược, tự cao tự đại, hoặc ỷ dòng
quí tộc khi rẻ mọi người, cậy mình sang
trọng khinh kẻ hèn hạ, hoặc ỷ sức mạnh
ăn hiếp kẻ yếu, hoặc uống rượu rồi gây
sự loạn đả không kể người thân sơ; say
sưa suốt ngày không biết tôn ti. Những
tội như thế, ngày nay chúng con đều xin
sám hối.
126Lại như tham ăn uống không tiết độ,
ăn gỏi thịt gỏi cá, hoặc ăn năm thứ cay
nồng138
, mùi hôi bay lên xông uế các
kinh tượng, xua đuổi những kẻ tu hành
giữ giới thanh tịnh; buông lung tâm ý, xa
lìa người lành, gần gũi bạn ác. Những tội
như thế, ngày nay đều xin sám hối. Lại
có tính cống cao, bày điều giả dối, bắt
người khác theo mình, càn bướng cố
chấp cho mình là hay, ương ngạnh chống
báng không biết nhân tình, cho mình là
phải, người khác là quấy, và hay hy vọng
ở sự may rủi. Những tội như thế đều xin
sám hối.
Còn lâm đến chỗ tiền tài thì lại
không nhường nhịn, không liêm sỉ; mua
bán rượu thịt lừa dối để sống; hoặc cho
vay nặng lời, tính từng ngày từng giờ
138
Năm thứ cay nồng: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ.
127góp chứa một cách cay nghiệt, tham cầu
không biết chán; hưởng thụ của dâng
cúng không biết hổ thẹn; hoặc không giới
đức mà lạm dụng của tín thí. Những tội
như thế, ngày nay đều xin sám hối.
Và đánh đập tôi tớ, sai khiến trẻ con
làm việc nặng không kể đến sự đói khát
lạnh nóng của chúng; phá dỡ cầu cống
làm ngăn trở sự đi lại. Những tội như thế,
ngày nay đều xin sám hối.
Lại để mặc ý mình phóng túng, lung
lăng tán loạn, chỉ để thì giờ đánh xu bồ,
đánh cờ tướng; hoặc vầy đoàn hợp lũ
uống ăn rượu thịt, chén tạc chén thù làm
rối cho nhau; nói chuyện vu vơ, hay bàn
luận chuyện thiên hạ, hết năm này qua
năm khác để ngày giờ trôi qua không lợi
ích gì; mỗi đêm ba thời không tụng kinh
ngồi thiền, lười biếng, giải đãi cứ nằm
128dài suốt ngày không để tâm qua sáu niệm
xứ139
, thấy người khác có việc hơn mình,
lại sinh ghen ghét, ôm lòng hiểm độc,
khởi đủ phiền não, để cho gió lốc vật dục
thổi vào củi lửa tội lỗi, cháy luôn không
ngớt, thiêu mất những điều lành nhỏ của
ba nghiệp. Khi những pháp lành đã hết
thì hoá ra nhất xiển đề, đọa vào địa ngục
lớn, không có kỳ hạn ra được. Bởi thế
nên ngày nay, chúng con cúi đầu hướng
về mười phương Tam bảo xin sám hối
hết thảy.
Tất cả tội lỗi từ trước đến nay hoặc
nhẹ hoặc nặng hoặc thô140
, hoặc tế
141
,
hoặc tự mình làm, hoặc bảo người khác
làm, hoặc thấy người khác làm vui
mừng, hoặc dùng thế lực bắt buộc người
139
Sáu niệm xứ: 1/ niệm Phật, 2/ niệm pháp, 3/ niệm tăng, 4/ niệm
giới, 5/ niệm thí, 6/ niệm thiên.
140
Thô: có thể thấy được.
141
Tế: không thể thấy được.
129khác làm, đến những tội khen người làm
ác ngày nay chúng con chí thành đều xin
sám hối.
Nguyện nhờ công đức sám hối các
tội ác ấy, chúng con đời đời kiếp kiếp
được từ hòa trung hiếu, khiêm nhường,
nhẫn nhục, biết liêm sỉ, biết chào đón
trước, sửa mình chính đáng, trong sạch
nhân nghĩa, nhường nhịn xa lìa bạn ác,
thường gặp duyên lành, thâu nhiếp được
sáu căn, giữ gìn được ba nghiệp, nhẫn nại
được khổ nhọc, tâm không thoái lui, cứ
lập chí tu hành đắc đạo, không phụ bạc
chúng sinh.
Phát nguyện rồi đem hết thân mệnh
kính lễ chư Phật.
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
130Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
Trước đã sám hối những phiền não
chướng, nghiệp chướng, nay theo thứ lớp
131giải bày những quả báo chướng còn lại,
xin sám hối hết thảy.
Trong kinh nói: “khi nghiệp báo đã
đến, chẳng phải trong không trung, trong
biển, trong hang núi, không có chỗ nào
thoát khỏi được quả báo, chỉ có sức sám
hối mới có thể diệt trừ”. Vì sao biết
được? Vì như ông Thích Đề Hoàn
Nhân142
khi thấy năm tướng suy143
hiện
ra, trong lòng khiếp sợ bèn chí thành qui
y Tam Bảo, thì năm tướng xấu ấy liền
tiêu diệt, lại còn thêm tuổi thọ. Những
chuyện như thế trong kinh rất nhiều
không phải là một. Thế mới biết sự sám
hối hay diệt trừ được tai họa.
142
Thích Đề Hoàn Nhân: tên vị trời ở trên chót núi Tu di (tức là vua
trời Đế Thích).
143
Năm tướng suy: 1/ hoa trên đầu héo; 2/ y phục nhơ nhớp; 3/ đổ
mồ hôi nách; 4/ thân hình hôi thối; 5/ không ưa ngồi trên tòa của
mình. Mỗi khi năm tướng ấy hiện là điềm báo trước vị trời ấy khi
mạng chung sẽ bị đọa lạc.
132
Song kẻ phàm phu nếu không gặp
bạn tốt dẫn đường, thời không có việc ác
nào mà không làm, đến mỗi khi sắp chết,
cảnh địa ngục gớm ghê hiện ra trước
mắt, chính lúc ấy lại hối hận sợ hãi. Ôi!
Ngày trước không tu điều lành để đến
cùng ăn năn, thì ăn năn sao kịp. Phước
báo hay tai ương tự mình gieo trồng từ
trước, nay cứ thẳng lối mà đi vào địa
ngục, một mình mình đi đến, để lăn vào
vạc dầu sôi, thân tâm tan nát, tinh thần
thống khổ. Tới lúc đó dầu muốn lạy hay
sám hối một câu, cũng không dễ gì được
nữa.
Vì thế, tất cả mọi người chớ ỷ mình
tuổi trẻ sức mạnh có tiền tài thế lực mà
lười biếng giải đãi, tự ý buông lung. Một
khi khổ chết đã đến thì không luận già,
trẻ, nghèo, giàu, sang, hèn đều tan ma
133hết. Quỉ vô thường đến thình lình không
cho ai biết trước. Mệnh người vô thường
như giọt sương mai, một hơi thở ra tuy
có đó, nhưng hơi hít vào không chắc gì
còn được. Thế vì cớ chi mà không sám
hối? Nếu sứ giả ngũ thiên144
hay quỉ la
sát thoạt nhiên đi đến, dầu tuổi trẻ sức
mạnh đến đâu cũng không thể tránh. Lúc
ấy dầu có nhà đẹp lầu cao cũng không
ích gì đến người, xe tốt ngựa hay không
đem theo được, vợ con quyến thuộc cũng
không còn là người thân, những đồ thất
trân quí giá cũng chỉ để cho người khác
hưởng. Lấy đó mà nói thì quả báo ở đời
đều giả dối không chắc thật. Còn như ở
cõi Trời tuy vui thật, nhưng rốt cuộc
cũng sẽ tan nát. Khi sự sống hết thì vẫn
phải đọa lạc trong tam đồ. Vì thế Phật
bảo ông Tu Đạt Đa: “Thầy ngươi là Uất
144
Ngũ thiên sứ giả: 1/ sanh, 2/ lão, 3/ bệnh, 4/ tử, 5/ lao ngục.
134Đầu Lam Phất lợi căn sáng suốt, đã hàng
phục được phiền não, đến cõi trời phi phi
tưởng rồi, mà khi mệnh chung còn phải
đọa vào đường súc sinh làm con phi
ly145
, huống chi người khác”. Thế mới
biết hễ chưa lên tới quả thánh, thì còn bị
luân chuyển qua các đường ác. Nếu
không cẩn thận, một mai thình lình thân
chịu chỗ đó, thiệt đáng hối hận? Xem
như ngày nay bị tội phải đến cửa công,
đó là khổ nhỏ mà tâm tình đã sợ hãi,
quyến thuộc đã khủng khiếp cầu cứu
trăm bề. Đối với nỗi khổ trong địa ngục
còn gấp trăm ngàn vạn lần hơn, không
thể so sánh được.
Chúng con cùng nhau trải vô số
kiếp, tội lỗi chồng chất như núi Tu Di,
nghe như vậy làm sao cứ an nhiên không
145
Phi ly: một loài chồn có cánh.
135sợ hãi, không kinh khủng, để về sau mắc
phải những nỗi khổ ấy, đáng đau đớn biết
bao! Vì thế ngày nay, chúng con chí
thành cầu xin sám hối.
Lại từ vô thỉ đến nay, chúng con…
có nhiều báo chướng nhưng nặng nhứt
chỉ có địa ngục A Tỳ. Như trong kinh đã
nói rõ, nay xin nói sơ về hình tướng của
địa ngục A Tỳ.
Chung quanh ngục có bảy lớp thành
sắt, có bảy lần lưới sắt giăng kín ở trên,
phía dưới có bảy từng dao sắt rậm như
rừng và vô số ngọn lửa dữ luôn luôn
thiêu đốt. Bề dài bề rộng của ngục nầy
tính có tám mươi bốn ngàn do tuần146
.
Tội nhân đầy trong ấy nhưng vì nhân
duyên của tội nghiệp nên không làm trở
146
Do tuần: theo cựu truyền, một do tuần dài độ 40 dặm tàu (khoảng
12 km).
136ngại. Lửa phía trên hắt xuống, lửa ở dưới
bốc lên, lan khắp bốn phương Đông,
Tây, Nam, Bắc. Tội khổ trong ngục ấy
như cá bị chiên trong chảo, dầu mỡ đều
chảy ra. Ở bốn cửa thành có bốn con chó
đồng, thân hình dài rộng đến bốn ngàn
do tuần, nanh dài móng nhọn, mắt sáng
như điện chớp. Lại có vô số giống chim
mỏ sắt, vỗ cánh bay lên mổ khoét thịt
người có tội. Quỉ sứ đầu trâu hình như La
sát, có chín đuôi như đinh ba bằng sắt, lại
có chín đầu, trên đầu có mười tám sừng,
mỗi sừng có sáu mươi bốn mắt, từ mỗi
con mắt tiết ra sức nóng như thiêu đốt tội
nhân. Mỗi khi nóng giận chúng gào thét
vang như sấm. Lại có vô số bánh xe dao,
từ trên không trung quay xuống, xoáy
vào đỉnh đầu tội nhân, rồi xoáy suốt
xuống chân mà ra ngoài. Tội nhân đau
đớn thấu xương tủy, nhức nhối tận tim
gan, cứ như thế trải qua không biết bao
137nhiêu năm, cầu sống không được cầu
chết không được. Những tội báo như thế,
ngày nay chúng con hổ thẹn, cúi đầu cầu
xin sám hối.
Kế đến chúng con xin sám hối
những tội báo: đầu thân rơi rã trong địa
ngục đạo sơn kiếm thụ, bị thiêu nướng
trong địa ngục vạc dầu, lò than; sám hối
những tội báo bị thiêu đốt trong địa ngục
giường sắt, cột đồng; sám hối những tội
báo bị đè nghiến mổ xẻ trong địa ngục xe
dao, xe lửa; sám hối những tội báo trong
địa ngục kéo lưỡi để trâu cày; sám hối
những tội báo làm cho ngũ tạng cháy tiêu
trong địa ngục nuốt hòn sắt nóng, uống
nước đồng sôi; sám hối những tội báo
xương thịt nát tan trong địa ngục cột sắt;
sám hối những tội báo da, thịt, xương,
tủy rơi lìa từng mảnh trong địa ngục
quấn dây sắt nóng; sám hối những tội
138báo bị bứt rứt ngạt thở trong địa ngục
xông tro phẩn; sám hối những tội báo da
dẻ lạnh cóng nứt ra trong địa ngục nước
mặn đóng giá băng; sám hối những tội
báo tàn hại lẫn nhau trong địa ngục chó
sói, chim sắt, chó săn; sám hối những tội
báo đâm chém cấu xé nhau trong địa
ngục đao binh móng vuốt; sám hối
những tội báo bị rang nướng trong địa
ngục hầm lửa; sám hối những tội báo bị
hình hài tan nát trong địa ngục hai tảng
đá ép lại; sám hối những tội báo bị róc
lột trong địa ngục bốn bề núi đá xô ép
lại; sám hối những tội báo bị chém xẻ
trong địa ngục núi thịt u ám; sám hối
những tội báo bị chặt đứt trong địa ngục
cưa xẻ đóng đinh; sám hối những tội báo
bị mổ cắt trong địa ngục gậy sắt, treo
ngược; sám hối những tội báo phiền oan
trong địa ngục đốt nóng kêu gào; sám hối
những tội báo chịu cảnh đêm dài mù mịt
139không bóng mặt trời mặt trăng và sao
trong khoảng lớn nhỏ núi Thiết Vi; sám
hối những tội báo trong địa ngục A ba
ba, địa ngục A bà bà, địa ngục A tra tra,
địa ngục A la la. Trong tất cả các địa
ngục lạnh nóng như thế có phụ thêm tám
muôn bốn ngàn địa ngục cách tử.
Những tội khổ trong đó bị chiên nấu
đau đớn, bị lột da róc thịt, chẻ xương đập
tủy, rút ruột, bức phổi, nhiều nỗi khổ
khác không thể nghe không thể nói. Nam
mô Phật! Những người bây giờ đang bị
đọa vào các chốn ấy là cha mẹ họ hàng
của chúng con trong vô thỉ kiếp, chúng
con cùng họ, sau khi chết sẽ bị đọa trong
các địa ngục như thế.
Ngày nay chúng con rửa sạch lòng
trần, cúi đầu hướng về mười phương chư
140Phật, các bậc Đại Bồ tát cầu xin sám hối,
khiến cho tất cả tội báo kia đều tiêu diệt.
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội báo trong địa ngục, chúng con
phá được bức thành sắt chốn A tỳ làm
thành cõi Tịnh Độ, không còn cái tên “ác
đạo”, bao nhiêu thống khổ sợ sệt trong
các địa ngục đều chuyển thành những
duyên vui sướng; núi dao rừng kiếm biến
ra rừng báu; lò lửa vạc dầu hóa thành hoa
sen; lính ngục đầu trâu chừa bỏ sự bạo
ngược, khởi lòng Từ Bi không còn niệm
ác. Và chúng sinh trong đường địa ngục
thoát khỏi quả khổ, không gây thêm nhân
ác khác, thụ hưởng sự yên vui như ở cõi
Tam thiên, đồng thời phát tâm cầu đạo
vô thượng.
Sám hối và phát nguyện xong, xin
hết lòng kính lễ thường trụ Tam Bảo.
141
Nam mô Tỳ Lô Giá Na Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Di Lặc Phật.
Nam mô Long Chủng Thượng Tôn
Vương Phật.
Nam mô Long Tự Tại Vương Phật.
Nam mô Bảo Thắng Phật.
Nam mô Giác Hoa Định Tự Tại
Vương Phật.
Nam mô Ca Sa Tràng Phật.
Nam mô Sư Tử Hống Phật.
Nam mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam mô Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam mô Đại Trang Nghiêm Bồ Tát.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ Tát.
142Đỉnh lễ chư Phật rồi, thứ lại sám hối.
Trước đã sám hối những tội báo trong địa
ngục, nay xin sám hối những tội báo
trong ba đường ác. Trong kinh Phật nói:
“Con người vì nhiều ham muốn, nhiều
tham cầu lợi dưỡng nên khổ não cũng
nhiều”. Người biết đủ tuy nằm dưới đất
mà vẫn lấy làm yên vui, người không
biết dủ, dù ở thiên đường cũng không
vừa ý. Song người đời nếu thình lình có
tai nạn nguy cấp thì thường bỏ hết tài sản
không kể gì nhiều ít. Thế mà không biết
thân này khi lâm vào hố thẳm tam đồ, hễ
một hơi thở không trở lại thì phải bị đọa
lạc. Thoảng như có người trí thức khuyên
làm việc công đức để dự trữ pháp lành
cho đời sau, thì lại cứ cố chấp keo bẩn
không chịu làm theo lẽ phải. Những
người như thế thật ngu hoặc biết bao! Vì
sao? Trong kinh Phật nói: “Lúc sinh
không đem lại một đồng nào, lúc chết
143cũng không cầm được một đồng nào đem
đi”. Người đời phải khổ thân để góp chứa
tiền của, chỉ đèo thêm sự lo âu phiền
muộn không ích gì cho mình, mà người
khác hưởng hết, không chút duyên lành,
không một mẩy may công đức để nhờ
cậy, đến nỗi khi chết phải bị đọa vào
đường ác. Vì vậy ngày nay chúng con chí
thành đem thân mệnh nương về ngôi
Tam Bảo, cầu xin sám hối.
Kế đến chúng con xin sám hối
những tội báo ngu tối trong loài súc sinh;
sám hối những tội báo mang nặng kéo
cày đền nợ cũ trong đường súc sinh; sám
hối những tội báo bị người đâm, xẻ, mổ,
cắt không được tự do trong đường súc
sinh: sám hối những tội báo không chân,
hai chân, bốn chân hay nhiều chân trong
loài súc sinh; sám hối những tội báo
trong lông, cánh, mai, vẩy, trong thân bị
144các giống trùng nhỏ cắn rỉa, ở loài súc
sinh. Trong loài súc sinh có vô số tội báo
như thế, ngày nay đều xin chí thành sám
hối.
Chúng con lại xin sám hối những tội
báo luôn luôn chịu sự đói khát trải qua
trăm ngàn vạn năm không nghe đến tên
cơm nước, trong loài ngạ quỉ; sám hối
những tội báo ăn uống máu mủ phẩn dơ
trong loài ngạ quỉ; sám hối những tội báo
khi động thân thì tất cả chi tiết đều cháy
trong ngạ quỉ; sám hối những tội báo
bụng lớn cổ nhỏ trong loài ngạ quỉ.
Trong loài ngạ quỉ có vô số tội báo như
thế, ngày nay cúi đầu cầu xin sám hối.
Chúng con lại xin sám hối những tội
báo hay nịnh hót kêu mạn trong loài tu
la, quỉ thần; sám hối những tội báo gánh
cát mang đá lấp sông trấn biển trong loài
145quỉ thần; sám hối những tội báo ăn uống
máu thịt, chịu đủ mọi sự xấu xa trong
loài quỉ thần, la sát, cưu bàn trà. Trong
loài quỉ thần có vô lượng vô biên tội báo
như thế, ngày nay chúng con hướng về
mười phương chư Phật, Đại Địa Bồ tát,
cầu xin sám hối, khiến cho những tội báo
ấy đều tiêu diệt.
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội báo trong đường súc sinh,
chúng con đời đời kiếp kiếp diệt hết tất
cả ngu si, biết được nghiệp duyên của
mình, trí tuệ sáng suốt, không làm thân
trong các đường ác.
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội báo trong đường ngạ quỉ,
chúng con đời đời kiếp kiếp lìa khổ xan
lận, đói khát, thường được ăn những
pháp vị cam lồ giải thoát.
146
Nguyện nhờ công đức sám hối
những tội báo trong đường tu la quỉ thần,
chúng con đời đời kiếp kiếp tính tình
chất trực xa hẳn nhân tà mệnh, trừ các
quả báo xấu xa, và làm được nhiều
phước lợi cho cả nhân thiên.
Chúng con… nguyện từ nay trở đi
cho đến đạo tràng, không còn chịu những
tội báo trong bốn đường ác, chỉ trừ lòng
đại bi cứu độ chúng sinh lấy sức thệ
nguyện ở chung trong ấy, không khi nào
chán nản.
Chúng con đã sám hối những tội báo
trong ba đường ác, nay theo thứ lớp cầu
xin sám hối những tội báo chốn nhân
thiên.
147Chúng con cùng nhau thọ bẩm thân
mệnh ở cõi Diêm Phù này, tuy nói một
trăm năm chớ có mấy ai sống trọn. Trong
thời gian đó, số người trẻ tuổi chết non
không thể nào lường, những khổ não còn
nung nấu bức bách thân hình, lo rầu sợ
hãi không ngớt phút nào. Sở dĩ như thế,
bởi căn lành rất ít, nghiệp ác quá nhiều,
đến nỗi trong đời hiện tại làm việc gì
cũng không được vừa ý. Nên biết đó là
dư báo của những nghiệp ác ở đời quá
khứ còn lại. Bởi thế nên ngày nay, chúng
con xin sám hối vô lượng dư báo ấy
trong cõi nhân thiên từ vô thỉ cho đến đời
hiện tại và vị lai: sám hối những tội báo
tai ương túc trái, tàn tật trăm bịnh, sáu
căn không đủ ở cõi người; sám hối
những tội báo sinh vào nơi hoang dã xa
cách mọi người, luôn luôn bị tà kiến, tám
148nạn147
, ba ác
148
; sám hối những tội báo bị
nhiều bịnh hoạn, gầy còm, chết yểu, chết
oan ở cõi người; sám hối những tội báo
bà con quyến thuộc không đoàn tụ, ở cõi
người; sám hối những tội báo bị khổ vì
bạn bè tan nát ân ái chia lìa ở cõi người;
sám hối những tội báo oán cừu gặp gỡ,
ưu sầu, khiếp sợ, ở cõi người; sám hối
những tội báo bị nạn nước lửa, trộm
cướp đao binh nguy hiểm, khinh khủng
khiếp nhược ở cõi người; sám hối những
tội báo bị cô độc khốn khổ, lưu lạc, bôn
ba quên mất xứ sở, ở cõi người; sám hối
những tội báo bị tù ngục giam cầm, bị
nhốt đứng trong ngục tối, bị đánh đập tra
khảo, ở cõi người; sám hối những tội báo
147
Tám nạn: 1/ địa ngục, 2/ ngạ quỷ, 3/ súc sanh, 4/ trường thọ thiên,
5/ Bắc cu lô châu, 6/ đui, điếc, câm, ngọng, 7/ thế trí biện thông, 8/
sanh trước Phật hay sau Phật. Sở dĩ gọi là tám nạn là vì ở tám chỗ
này dù cảm thọ quả báo khổ vui có khác, nhưng đều không được
thấy Phật, không được nghe chánh pháp.
148
Ba ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
149bị miệng lưỡi công tư thêu dệt, vu họa, ở
cõi người; sám hối những tội báo bị bệnh
tật liên miên liệt giường liệt chiếu không
đứng dậy được ở cõi người; sám hối
những tội báo bị các chứng ôn dịch về
mùa Đông mùa Hạ, hay bị độc lệ thương
hàn ở cõi người; sám hối những tội báo
bị trúng gió độc, bị thũng, trướng, bí kết,
ở cõi người; sám hối những tội báo bị các
ác thần tìm dịp tiện tác họa, ở cõi người;
sám hối những tội báo bị các thứ ác điểu
bay đến kêu lên trăm điều quái gở, gặp tà
quỉ phi thi làm các yêu dị, ở cõi người;
sám hối những tội báo bị các loài cầm
thú dữ, sài lang, hổ báo, làm hại, ở cõi
người; sám hối những tội báo tự đâm tự
giết ở cõi người; sám hối những tội báo
tự lao mình trong hố sâu hầm lửa, nhảy
xuống sông hay gieo mình từ trên cao
xuống, ở cõi người; sám hối những tội
báo không có uy đức tiếng tăm ở cõi
150người; sám hối những tội báo thiếu thốn,
tiêu dùng ăn mặc không được vừa lòng, ở
cõi người; sám hối những tội báo ra vào,
đi, lại hay làm việc gì cũng khó khăn
hoặc bị người khác ngăn trở, ở cõi người.
Những tai họa bất trắc, những bịnh
truyền nhiễm, những ách nạn suy não
trong đời hiện tại vị lai, trong cõi nhân
thiên, nhiều không thể kể xiết như thế,
ngày nay chúng con chí thành hướng về
mười phương chư Phật, Tôn Pháp, Thánh
chúng cầu xin sám hối, nguyện đều tiêu
diệt.
Trước đã sám hối tất cả phiền não
chướng và nghiệp chướng của sáu căn,
ba nghiệp, tất cả quả báo chướng trong
sáu nẻo bốn loài, nay chúng con xin theo
thứ lớp phát nguyện hồi hướng.
151Chúng con… nguyện đem công đức
sám hối ba chướng kia, hồi hướng cho tất
cả chúng sinh cũng đều cùng nhau sám
hối; nguyện cùng tất cả chúng sinh trong
đời hiện tại thân tâm được yên vui, ba tai
tám nạn các việc chẳng lành đều tiêu trừ
hết thảy, sự ăn mặc được dư dật đầy đủ,
chính tín Tam Bảo; xả báo thân này,
vãng sinh về cõi Cực Lạc, gần gũi đức
Phật Di Đà, được thụ ký để qua đời sau
gặp Phật Di Lặc, nghe hiểu chính pháp,
theo đó tu hành. Nguyện đời đời kiếp
kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào, thường gặp
các vị quốc vương trùng hưng Tam Bảo,
không bị sinh vào nhà ngoại đạo tà kiến.
Chúng con lại nguyện đời đời kiếp kiếp
bất cứ ở nơi nào, cũng do hoa sen hóa
sinh, thuộc dòng giống cao quí, được yên
ổn, vui sướng, ăn thức mặc tự nhiên có
sẵn. Chúng con lại nguyện đời đời kiếp
kiếp bất cứ là ở chỗ nào, cũng có sẵn
152lòng nhân từ trung hiếu, đem tâm bình
đẳng cứu giúp chúng sinh, không khởi
niệm nghịch hại. Lại nguyện đời đời kiếp
kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào, cũng thường
được chư Phật hộ niệm, thường hàng
phục được ma oán và các thứ ngoại đạo,
được ở chung một chỗ với các bậc Bồ
tát, một lòng theo đạo Bồ đề không khi
nào đứt đoạn. Lại nguyện đời đời kiếp
kiếp bất cứ sinh ở chỗ nào cũng nêu tỏ
Phật, pháp, tu theo giáo lý đại thừa, phân
thân vô số để cứu độ chúng sinh, thẳng
tiến đến đạo tràng (thành Phật) không khi
nào thoái chuyển.
Chư Phật Bồ tát đã phát lời thệ
nguyện tu hành phước trí và hồi hướng,
chúng con cũng xin phát nguyện tu tập
phước trí và hồi hướng như vậy.
153Cõi hư không có thể cùng tận, cõi
chúng sinh có thể cùng tận, nghiệp báo
của chúng sinh có thể hết, phiền não của
chúng sinh có thể diệt, nhưng sự tu hành
hồi hướng của chúng con không bao giờ
cùng tận.
Phát nguyện và hồi hướng xong, xin
hết lòng kính lễ thường trụ Tam Bảo.
HẾT QUYỂN HẠ
Tội do tâm sinh do tâm diệt
Tâm đã diệt tội cũng không còn
Tội hết tâm không hai vẳng lặng
Như thế mới là chân sám hối
Nam mô cầu sám hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần)
154
PHẦN HỒI HƯỚNG
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
TÂM KINH
Khi ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thực hành
sâu sa pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ngài soi
thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ
ách.
Này ông Xà Lỵ Tử! Sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức không,
không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức
cũng đều như thế.
Này ông Xá Lỵ Tử! Tướng không của
mọi pháp, không sinh, không diệt, không nhơ,
không sạch, không thêm, không bớt, cho nên
trong Chân Không, không có sắc, không có
Thụ, Tưởng, Hành, Thức; Không có Mắt, Tai,
Mũi, Lưỡi, Thân, Ý, không có Sắc, Thanh,
155Hương, Vị, Xúc, Pháp; Không có Nhỡn giới,
cho đến không có ý thức giới; Không có Vô
minh, cũng không có cái hết Vô minh; cho
đến già, chết, cũng không có cái hết già, chết;
không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo; Không có trí
tuệ, cũng không có chứng đắc; Vì không có
chỗ chứng đắc.
Bồ Tát Y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa,
nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại
nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên
đảo, đạt tới cứu kính Niết Bàn. Chư Phật
trong ba đời cũng y vào Bát Nhã Ba La Mật
Đa, được đạo quả Vô Thượng Chính Đẳng
Chính Giác.
Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là
đại thần chú, là đại minh chú, là Vô thượng
chú, là Vô Đẳng Đẳng chú, trừ được hết thảy
khổ, chân thực không hư.
Vì vậy nói ra là bài chú Bát Nhã Ba La
Mật Đa. Liền nói bài chú rằng: “Yết Đế, Yết
156Đế, Ba La Yết Đế, Ba La Tăng Yết Đế Bồ Đề
Tát Bà Ha”. (3 lần)
VĂN TỤNG KINH SÁM HỐI
HỒI HƯỚNG
Đệ tử chúng con… Vì sức nghiệp ma,
tâm thần rối loạn, căn tính mê mờ, bỗng nhiên
lại nghĩ, thay đổi lung tung, dáo dở chất
chồng, xem văn mờ ý, nhầm chữ sai câu. Trái
với chính âm trong đục, nệ vào tà kiến giải
bày. Hoặc vì việc đoạt mất chí tâm chẳng để
vào kinh, đươngkhi tụng niệm dậy ngồi bỏ
giở câu cách quãng. Ngồi lâu trễ nải, nhân
việc giận hờn; chốn nghiêm tịnh để vướng bụi
nhơ, nơi kính cẩn hoặc làm cẩu thả. Thân,
khẩu mặc dùng nhếch nhác, xiêm y, lễ mạo
lôi thôi; cung chẳng như nghi, để không đúng
chỗ. Mở cuốn rối ren, rớt rơi dơ nát, hết thảy
chẳng chuyên chẳng thành, thật là đáng thẹn
đáng sợ.
157Kính xin chư Phật Bồ Tát, trong cõi
pháp giới hư không, hết thảy hiền thánh thiện
thần, thiên, long, hộ pháp, từ bi thương xót,
sám rửa lỗi lầm, khiến cho công đức tụng
kinh, đều được chu viên thành tựu.
Đệ tử chúng con nguyện tâm hồi hướng,
còn e hoặc khi dịch nhuận lỗi nhầm, hoặc
dịch nhuận lỗi lầm, hoặc lúc giải chua thiếu
sót; truyền thụ sai thù, âm thích lẫn lộn.
Những lỗi so sánh đổi thay, những nhầm cắt,
in, viết chép, dù thầy dù thợ, đều xin sám hối.
Nhờ sức thần của chư Phật, khiến cho tội lỗi
tiêu tan. Thường quay xe pháp, cứu vớt hàm
linh. Nguyện đem công đức trì chú tụng kinh,
hồi hướng về hộ pháp, long thiên thánh
chúng; thần núi, sông linh thiêng trong tam
giới, vị chủ tể chủ hộ chốn già lam, cầu mong
được hưởng phước thiện bình an, trang
nghiêm đạo quả vô thượng Bồ Đề, nguyện
cho khắp cả pháp giới chúng sinh, cùng được
vào bể Như Lai pháp tính …
158(Đảo mõ rồi tụng tiếp)
KINH LĂNG NGHIÊM
Chương niệm Phật của
Bồ Tát Đại Thế Chí
Đức đại Thế Chí Pháp Vương tử, có năm
mươi hai vị Bồ tát đồng hàng với Ngài, liền
từ tòa ngồi đứng dậy, lễ dưới chân Phật, mà
bạch Phật rằng: Con nhớ về hà sa kiếp xưa
kia, có đức Phật ra đời, hiệu là Vô Lượng
Quang, trong một kiếp mười hai đức Như Lai
nối tiếp nhau ra đời. Đức Phật sau cùng hiệu
là Siêu Nhật Nguyệt Quang, đức Phật kia dậy
con pháp niệm Phật Tam Muội.
Ví như có người: một người chuyên nhớ,
một người chuyên quên. Hai người như thế,
dù có gặp nhau, cũng như không gặp, hoặc có
thấy nhau, cũng như không thấy. Hai người
nhớ nhau, thời hai nhớ in sâu, cứ như thế mãi,
159từ kiếp này qua kiếp khác, như bóng in hình,
chẳng xa trái nhau.
Mười phương Như Lai thương nhớ
chúng sinh, như mẹ nhớ con, nếu con trốn
tránh, mẹ nhớ ích gì? Con dù nhớ mẹ, như khi
mẹ nhớ con, mẹ con trải qua nhiều kiếp,
chẳng xa trái nhau.
Nếu tâm chúng sinh, nhớ Phật niệm
phật, đời này đời sau, quyết định thấy Phật,
cách Phật chẳng xa, chẳng phải nhờ pháp
phương tiện, mà tự mở ngộ tâm mình. Ví như
người nhiễm mùi hương, mình có hơi hương,
như thế gọi là Hương Quang Trang Nghiêm.
Nhân địa con xưa, nhờ tâm niệm phật, được
vào pháp Nhẫn Vô Sinh. Nay ở cõi này, tiếp
người niệm Phật, về nơi cõi tịnh.
Đức Phật hỏi pháp Viên thông, con
không hề lựa chọn, mà chỉ thu nhiếp sáu căn,
nối liền tịnh niệm, được vào nơi chính định,
đó là bậc nhất.
160
Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ!
Tướng đẹp sáng ngời khôn sánh ví
Hào quang tỏa khắp năm Tu di
Mắt biếc trong hơn bốn biển lớn
Quang trung hóa Phật nhiều vô số
Hóa chúng Bồ Tát cũng vô biên
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sinh.
Chín phẩm đều lên ngôi Chính Giác
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại
Từ Đại Bi A Di Đà Phật (3 lần)
Nam mô A Di Đà Phật. (1 tràng hay 3 tràng tùy ý)
Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát (10 lần)
Nam mô Đại Thế Chí Bồ tát. (10 lần)
Nam mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ tát.
(10 lần)
(Toàn thể đều đứng dậy lễ, chủ sám đọc)
Nam mô Tận hư không, biến Pháp giới, thập
phương tam thế, nhất thiết thường trụ Tam
Bảo. (3 lễ)
161Nam mô Sa Bà Giáo chủ Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật. (1 lễ)
Nam mô Phạm Võng Giáo Chủ Lư Xá Na
Phật. (1 lễ)
Nam mô Tây Phương Cực Lạc Giáo Chủ A
Di Đà Phật. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Quán Thế Âm Bồ Tát, biến
pháp giới chư đại Bồ Tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Thế Chí Bồ Tát, biến
pháp giới chư đại Bồ tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ
tát, biến pháp giới chư đại Bồ tát. (1 lễ)
Nhất tâm đảnh lễ, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát,
biến pháp giới chư đại Bồ tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Bồ tát, biến pháp giới chư hiền thánh tăng. (1
lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Lịch đại Tổ Sư Bồ tát. (1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Hộ Pháp chư Thiên Bồ tát.
(1 lễ)
Nhất tâm đỉnh lễ, Tam châu cảm ứng, Hộ
Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ tát. (1 lễ)
162Con nay khắp vì bốn ân, ba cõi pháp giới
chúng sinh, nguyện xin ba chướng tiêu trừ,
chí thành phát nguyện (1 lễ)
(Toàn thể đều quỳ chắp tay, chủ sám đọc:)
Nguyện đem công đức trí chú, sám hối,
tụng kinh, hồi hướng chân linh…
Nguyện chư hương linh
Nhất chân hằng tỏ ngộ
Lục dục vụt tan không
Cõi nhân gian sinh tử xa lìa
Nơi Cực Lạc hóa sinh tự tại
Ao thất bảo thảnh thơi tắm mát
Đài Cửu liên nhẹ gót tiêu diêu
Quán Âm, Thế Chí kết đồng hàng
Bồ tát thánh tăng làm bạn lữ
Thần thức hằng vui nơi cõi Tịnh
Nghiệp duyên trần không vướng mẩy
may
Trên đài sen chín phẩm nở hoa
Chư Phật phóng hào quang thụ ký.
163Nam mô tây phương Cực Lạc thế giới,
đại Từ đại Bi, tiếp dẫn đạo sư A Di Đà Phật.
(3 lần)
Nam mô Liên Trì Hải Hội, Quán Thế
Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng
Bồ tát. (1 lần)
(Mọi người đều đọc phát nguyện)
VĂN PHÁT NGUYỆN
Cúi đầu hướng về nước An Lạc
Thầy dẫn đường tiếp dắt chúng sinh
Con nay phát nguyện, nguyện sinh sang
Xin đấng Từ Bi thương tiếp nhận.
Đệ tử chúng con… khắp vì bốn ân ba cõi
pháp giới chúng sinh, cầu xin Phật, vì đạo Bồ
đề nhất thừa Vô thượng, chuyên tâm trì niệm,
muôn đức hồng danh, Phật A Di Đà, mong về
cõi tịnh.
164 Lại vì, phước mỏng nghiệp dầy, chướng
nhiều tuệ ít, tâm nhơ dễ bén, Đức sạch khó
thành. Nay đối trước Phật, năm vóc siêng
năng, một lòng giải tỏ, đầu thành sám hối.
Con và chúng sinh, nhiều kiếp tới nay,
tâm sạch bị mê, tham, sân, si mãi. Ba nghiệp
nhuốm nhơ, làm nên vô lượng vô biên tội ác,
kết thành nghiệp oán, vô lượng vô biên,
nguyện tiêu tan hết. Từ nay trở đi, lập thệ
nguyện sâu, xa lìa pháp ác, thề chẳng lại làm
siêng tu đạo thánh, thề chẳng biếng lui; thề
thành Chính giác; thề độ chúng sinh.
Đức Phật A Di Đà, dùng sức nguyện Từ
Bi, nên chứng cho con; nên thương sót con;
nên giúp đỡ con. Nguyện con trong khi
thuyền quán, những lúc ngủ mơ, được thấy
đức Phật A Di Đà, mình vàng đẹp đẽ, được
qua cõi báu trang nghiêm của đức Phật A Di
Đà, đầu được Phật A Di Đà gội nước cam lộ,
mình chiếu hào quang, tay soa đầu con, áo
choàng thân con, khiến con chướng xưa tự
165hết, căn lành lớn thêm, phiền não tan không,
vô minh vụt tắt, Viên giác diệu tâm, bỗng
nhiên mở ngộ, chân cảnh tịch quang, thường
được hiện tiền. Đến khi sắp chết, thời dự biết
trước, thân không hết thảy, bệnh khổ ách nạn,
tâm không hết thảy, tham luyến mê nhầm,
mọi căn thoải mái, chính niệm rõ ràng, thong
thả bỏ báo thân, như lúc vào thiền định. Đức
Phật A Di Đà, cùng Bồ tát Quán Âm, Thế
Chí, các bậc thánh hiền, phóng hào quang tiếp
dẫn, giơ tay dìu dắt, lầu gác tràng phan,
hương lạ nhạc trời, cảnh thánh tây phương, rõ
ràng trước mắt. Khiến các chúng sinh, được
thấy được nghe, vui mừng cảm thán phát tâm
Bồ đề.
Con ngay khi đó, nương đài kim cương,
tùy theo sau Phật, như khoảng phút giây, sinh
sang Cực Lạc, trong đóa hoa sen, nơi ao thất
bảo, hoa nở thấy Phật, thấy các Bồ tát, nghe
giọng pháp mầu, trong khoảng phút giây,
được vô sinh nhẫn, thừa sự chư Phật, thân
nhờ thụ ký. Được thụ ký rồi, ba thân bốn trí,
166ngũ nhỡn lục thông, vô lượng trăm nghìn,
môn Đà La Ni. Hết thảy công đức, đều được
thành tựu. Nhưng chẳng trái nơi An dưỡng,
mà trở lại cõi Sa Bà, chia thân vô số, khắp cả
mười phương, dùng sức thần tự tại, bất khả tư
nghì, hết thảy phương tiện, độ thoát chúng
sinh, đều lìa nhơ nhuốm, được lại tịnh tâm,
đồng về phương tây, vào ngôi Bất thoái.
Nguyện lớn như thế, thế giới không cùng
tận, chúng sinh không cùng tận, nghiệp và
phiền não hết thảy không cùng tận, thời
nguyện của con cũng không cùng tận.
Nguyện nay lễ Phật, phát nguyện tu trì, công
đức hồi hướng hữu tình, bốn ân khắp trả, ba
cõi giúp đều, pháp giới chúng sinh, đều lên
ngôi Chính Giác.
(Dứt mõ đều đứng dậy lễ tạ)
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh, thể
theo đạo lớn, phát tâm vô thượng. (1 lễ)
167Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh, thấu
rõ kinh tạng, trí tuệ như biển. (1 lễ)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh, thống
lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lễ)
Hòa nam thánh chúng.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sinh
Đều trọn thành Phật đạo.
(Vái 3 vái lui ra)
168
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét