Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

kinh a di đà

KINH A - DI - ĐÀ
DAO TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP DỊCH
ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính
Phát hành theo thỏa thuận giữa Công ty Văn hóa Hương Trang và tác giả. Nghiêm cấm mọi sự sao
chép, trích dịch hoặc in lại mà không có sự cho phép bằng văn bản của chúng tôi.
ĐKKHXB số 736-2010/CXB/05-124/TG
QĐXB số 687/QĐ-TG
In ấn và phát hành tại Nhà sách Quang Minh
416 Nguyễn Thị Minh Khai, P5, Q3, TP HCM  Việt Nam
Published by arrangement between Huong Trang Cultural Company Ltd. and the
author.
All rights reserved. No part of this book may be reproduced by any means without
prior written permission from the publisher. KINH
A-DI-ĐÀ
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ
KINH
[ÂM - NGHĨA]
DAO TẦN TAM TẠNG PHÁP SƯ CƯU-MA-LA-THẬP DỊCH
ĐOÀN TRUNG CÒN - NGUYỄN MINH TIẾN Việt dịch và chú giải
NGUYỄN MINH HIỂN hiệu đính
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO5
NGHI THỨC KHAI KINH
(Phần nghi thức này không thuộc Kinh văn nhưng
cần  tụng  niệm  trước  để  tâm  thức  được  an  tịnh
trước khi đi vào tụng đọc Kinh văn)
NIỆM HƯƠNG
(Thắp đèn đốt hương trầm, đứng ngay ngắn chắp
tay ngang ngực  thầm niệm  theo nghi  thức  dưới
đây.)
Tịnh pháp giới chân ngôn:
Án lam tóa ha.
(3 lần)
Tịnh tam nghiệp chân ngôn:
Án ta phạ bà phạ, thuật đà ta phạ, đạt
ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám.
(3 lần)
(Chủ lễ thắp 3 cây hương, quỳ ngay ngắn nâng hương
lên ngang trán niệm bài Cúng hương sau đây.)
CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT
Nguyện thử diệu hương vân,
Biến mãn thập phương giới.
Cúng dường nhất thiết Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ Tát,
Vô biên Thanh văn chúng,
Cập nhất thiết thánh hiền.6
KINH A-DI-ĐÀ
Duyên khởi quang minh đài,
Xứng tánh tác Phật sự.
Phổ huân chư chúng sanh,
Giai phát Bồ-đề tâm,
Viễn ly chư vọng nghiệp,
Viên thành vô thượng đạo.
(Chủ lễ xá 3 xá rồi đọc bài Kỳ nguyện dưới đây.)
KỲ NGUYỆN
Tư  thời đệ  tử chúng đẳng phúng  tụng
kinh chú, xưng tán hồng danh, tập thử công
đức, nguyện  thập phương  thường  trú Tam
bảo, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Tiếp Dẫn
Đạo Sư A-di-đà Phật... từ bi gia hộ đệ tử... ....
Pháp danh... .... phiền não đoạn diệt, nghiệp
chướng  tiêu  trừ,  thường hoạch kiết  tường,
vĩnh ly khổ ách. Phổ nguyện âm siêu dương
thới,  hải  yến  hà  thanh,  pháp  giới  chúng
sanh tề thành Phật đạo.
(Cắm  hương  ngay  ngắn  vào  lư  hương  rồi  đứng
thẳng chắp tay niệm bài Tán Phật sau đây. )7
NGHI THỨC KHAI KINH
TÁN PHẬT
Pháp vương vô thượng tôn,
Tam giới vô luân thất.
Thiên nhân chi Đạo sư,
Tứ sanh chi từ phụ.
Ư nhất niệm quy y,
Năng diệt tam kỳ nghiệp.
Xưng dương nhược tán thán,
Ức kiếp mạc năng tận.
QUÁN TƯỞNG
Năng lễ sở lễ tánh không tịch,
Cảm ứng đạo giao nan tư nghì.
Ngã thử đạo tràng như đế châu,
Thập phương chư Phật ảnh hiện trung.
Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền,
Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ.
Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam-mô  tận  hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương  chư Phật, Tôn  pháp, Hiền  thánh
tăng thường trú Tam bảo.
(1 lạy)8
KINH A-DI-ĐÀ
Chí  tâm đảnh  lễ: Nam-mô Ta-bà Giáo
chủ Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Đương
lai hạ  sanh Di-lặc Tôn Phật, Đại  trí Văn-
thù-sư-lợi Bồ Tát, Đại hạnh Phổ Hiền Bồ
Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh  Sơn
Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam-mô Tây phương
Cực Lạc Thế giới Đại từ Đại bi A-di-đà Phật,
Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(1 lạy)
(Từ đây bắt đầu khai chuông mõ, đại chúng
đồng tụng.)
TÁN HƯƠNG
Lư hương xạ nhiệt,
Pháp giới mông huân,
Chư Phật hải hội tất diêu văn,
Tùy xứ kiết tường vân,
Thành ý phương ân,
Chư Phật hiện toàn thân.9
NGHI THỨC KHAI KINH
Nam-mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma-ha-
tát.
(3 lần)
CHÚ ĐẠI BI
Nam-mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần)
Thiên  thủ  thiên  nhãn  vô  ngại  đại  bi
tâm đà-la-ni.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam
mô a rị da, bà lô yết đế, thơcs bát ra da, bồ
đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma
ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số
đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông, a rị da
bà lô kiết đế, thất phật ra lăng đà bà.
Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn
đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ
dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế,
ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát 10
KINH A-DI-ĐÀ
bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà
dựng cu lô cu lô, kiết mông độ lô độ lô, phạt
xà da dế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra,
địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ
mạ phạt ma ra, mục đế  lệ, y hê y hê, thất
na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa
phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra,
hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô
rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà
dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na,
ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha.
Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà du nghệ,
thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà
ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục
khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta
bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba
đà ma yết, tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì
bàn đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lỵ thắng yết
ra dạ, ta bà ha.
Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam
mô a rị da bà lô yết đế, thước bàn ra dạ, ta
bà ha.11
NGHI THỨC KHAI KINH
Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta
bà ha. (3 lần)
Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
(3 lần)
KHAI KINH KỆ
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp,
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ,
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì,
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
Nam-mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
(3 lần)12
PHẦN DỊCH ÂM
A-DI-ĐÀ KINH
[PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH]
(Dao Tần Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập dịch)
Như  thị  ngã  văn: Nhất  thời, Phật  tại
Xá-vệ quốc, Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên, dữ đại
tỳ-kheo tăng, thiên nhị bá ngũ thập nhân
câu.  Giai  thị  đại  A-la-hán,  chúng  sở  tri
thức: Trưởng  lão Xá-lợi-phất, Ma-ha Mục-
kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ma-ha Ca-chiên-
diên, Ma-ha Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lỵ-
bàn-đà-già,  Nan-đà,  A-nan-đà,  La-hầu-la,
Kiều-phạm-ba-đề,  Tân-đầu-lô-phả-la-đọa,
Ca-lưu-đà-di, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-
la, A-nậu-lâu-đà. Như thị đẳng chư đại đệ
tử.
Tinh  chư  Bồ  Tát Ma-ha-tát:  Văn-thù-
sư-lỵ Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ Tát, Càn-
đà-ha-đề Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, 13
PHẦN DỊCH ÂM
dữ như thị đẳng chư đại Bồ Tát, cập Thích-
đề-hồn-nhân đẳng, vô lượng chư thiên đại
chúng câu.
Nhĩ  thời, Phật  cáo Trưởng  lão Xá-lợi-
phất: Tùng  thị Tây phương quá  thập vạn
ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc.
Kỳ độ hữu Phật, hiệu A-di-đà, kim hiện tại
thuyết pháp.
Xá-lợi-phất! Bỉ  độ  hà  cố  danh  vi Cực
Lạc? Kỳ quốc  chúng  sanh,  vô hữu  chúng
khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lạc.
Hựu Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ, thất
trùng  lan  thuẫn,  thất  trùng  la võng,  thất
trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo châu táp vi
nhiễu. Thị cố bỉ quốc danh vi Cực Lạc.
Hựu Xá-lợi-phất! Cực Lạc quốc độ, hữu
thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn
kỳ trung. Trì để thuần dĩ kim sa bố địa. Tứ
biên giai đạo, kim, ngân lưu ly, pha lê, hiệp
thành.  Thượng  hữu  lâu  các,  diệc  dĩ  kim,
ngân,  lưu  ly, pha  lê, xa cừ, xích châu, mã
não, nhi nghiêm sức chi. 14
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
Trì  trung  liên  hoa  đại  như  xa  luân,
thanh sắc thanh quang, huỳnh sắc huỳnh
quang, xích sắc xích quang, bạch sắc bạch
quang, vi diệu hương khiết.
Xá-lợi-phất!  Cực  Lạc  quốc  độ  thành
tựu như thị công đức trang nghiêm.
Hựu  Xá-lợi-phất!  Bỉ  Phật  quốc  độ
thường  tác  thiên nhạc, huỳnh kim vi địa,
trú dạ lục thời vũ thiên Mạn-đà-la hoa. Kỳ
độ chúng sanh, thường dĩ thanh đán, các dĩ
y kích, thạnh chúng diệu hoa, cúng dường
tha phương thập vạn ức Phật. Tức dĩ thực
thời  hồn  đáo  bổn  quốc,  phạn  thực  kinh
hành.
Xá-lợi-phất!  Cực  Lạc  quốc  độ  thành
tựu như thị công đức trang nghiêm.
Phục thứ, Xá-lợi-phất! Bỉ quốc thường
hữu chủng chủng kỳ diệu tạp sắc chi điểu:
bạch  hạc,  khổng  tước,  anh  vũ,  xá-lỵ,  ca-
lăng-tần-già, cộng mạng chi điểu.
Thị  chư  chúng  điểu  trú  dạ  lục  thời
xuất hòa nhã âm. Kỳ âm diễn xướng Ngũ 15
PHẦN DỊCH ÂM
căn, Ngũ  lực, Thất bồ-đề phần, Bát thánh
đạo phần, như thị đẳng pháp. Kỳ độ chúng
sanh văn thị âm dĩ, giai tất niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng.
Xá-lợi-phất! Nhữ  vật  vị  thử  điểu  thật
thị  tội báo sở sanh. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật
quốc độ vô tam ác đạo.
Xá-lợi-phất! Kỳ  Phật  quốc  độ  thượng
vô ác đạo chi danh, hà huống hữu thật? Thị
chư chúng điểu giai  thị A-di-đà Phật dục
linh pháp âm tuyên lưu, biến hóa sở tác.
Xá-lợi-phất! Bỉ Phật quốc độ vi phong
xuy  động  chư  bảo  hàng  thọ,  cập  bảo  la
võng,  xuất  vi  diệu  âm,  thí  như  bá  thiên
chủng nhạc đồng thời câu tác. Văn thị âm
giả,  tự  nhiên  giai  sanh  niệm  Phật,  niệm
Pháp, niệm Tăng chi tâm.
Xá-lợi-phất!  Cực  Lạc  quốc  độ  thành
tựu như thị công đức trang nghiêm.
Xá-lợi-phất! Ư nhữ ý vân hà? Bỉ Phật
hà cố hiệu A-di-đà?16
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
Xá-lợi-phất!  Bỉ  Phật  quang-minh  vô
lượng,  chiếu  thập  phương  quốc,  vô  sở
chướng ngại. Thị cố hiệu vi A-di-đà.
Hựu Xá-lợi-phất! Bỉ Phật thọ mạng cập
kỳ  nhân  dân,vô  lượng  vô  biên  a-tăng-kỳ
kiếp. Cố danh A-di-đà.
Xá-lợi-phất!  A-di-đà  Phật  thành  Phật
dĩ lai, ư kim thập kiếp.
Hựu Xá-lợi-phất! Bỉ Phật hữu vô lượng
vô biên thanh văn đệ tử, giai A-la-hán, phi
thị tốn số chi sở năng tri. Chư Bồ Tát chúng
diệc phục như thị.
Xá-lợi-phất! Bỉ Phật quốc độ thành tựu
như thị công đức trang nghiêm.
Hựu  Xá-lợi-phất!  Cực  Lạc  quốc  độ,
chúng sanh sanh giả, giai thị A-bệ-bạc trí.
Kỳ  trung đa hữu nhất  sanh bổ  xứ. Kỳ  số
thậm đa, phi thị tốn số, sở năng tri chi, đản
khả dĩ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thuyết.
Xá-lợi-phất! Chúng  sanh văn giả, ưng
đương phát nguyện, nguyện sanh bỉ quốc. 17
PHẦN DỊCH ÂM
Sở dĩ giả hà? Đắc dữ như  thị chư  thượng
thiện nhân câu hội nhất xứ.
Xá-lợi-phất! Bất khả dĩ thiểu thiện căn,
phước đức nhân duyên, đắc sanh bỉ quốc.
Xá-lợi-phất!  Nhược  hữu  thiện  nam  tử,
thiện nữ nhân văn thuyết A-di-đà Phật, chấp
trì danh hiệu, nhược nhất nhật, nhược nhị
nhật, nhược tam nhật, nhược tứ nhật, nhược
ngũ nhật, nhược lục nhật, nhược thất nhật,
nhất tâm bất loạn. Kỳ nhân lâm mạng chung
thời, A-di-đà Phật dữ chư thánh chúng hiện
tại kỳ tiền. Thị nhân chung thời, tâm bất điên
đảo, tức đắc vãng sanh A-di-đà Phật Cực Lạc
quốc độ.
Xá-lợi-phất! Ngã kiến thị lợi cố thuyết
thử ngôn. Nhược hữu chúng sanh văn  thị
thuyết giả, ưng đương phát nguyện sanh bỉ
quốc độ.
Xá-lợi-phất! Như ngã kim giả tán thán
A-di-đà Phật, bất khả tư nghị công đức chi
lợi.
Đông phương diệc hữu A-súc-bệ Phật,
Tu-di  Tướng  Phật,  Đại  Tu-di  Phật,  Tu-di 18
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
Quang Phật, Diệu Âm Phật, như thị đẳng
Hằng  hà  sa  số  chư  Phật,  các  ư  kỳ  quốc,
xuất  quảng  trường  thiệt  tướng,  biến  phú
tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành
thật ngôn: Nhữ đẳng chúng sanh đương tín
thị xưng tán bất khả tư nghị công đức Nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.
Xá-lợi-phất! Nam phương thế giới hữu
Nhật Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang
Phật,  Đại  Diệm  Kiên  Phật,  Tu-di-Đăng
Phật,  Vô  Lượng  Tinh  Tấn  Phật,  như  thị
đẳng Hằng hà sa số chư Phật, các ư kỳ quốc,
xuất  quảng  trường  thiệt  tướng,  biến  phú
tam thiên đại thiên thế giới, thuyết thành
thật ngôn: Nhữ đẳng chúng sanh đương tín
thị xưng tán bất khả tư nghị công đức Nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.
Xá-lợi-phất! Tây phương thế giới, hữu
Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng Phật,
Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại
Minh Phật, Bảo Tướng Phật, Tịnh Quang
Phật, như thị đẳng Hằng hà sa số chư Phật, 19
PHẦN DỊCH ÂM
các  ư  kỳ  quốc,  xuất  quảng  trường  thiệt
tướng,  biến  phú  tam  thiên  đại  thiên  thế
giới, thuyết thành thật ngôn:
Nhữ  đẳng  chúng  sanh  đương  tín  thị
xưng  tán  bất khả  tư nghị  công đức Nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.
Xá-lợi-phất! Bắc phương thế giới, hữu
Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan
Trở  Phật,  Nhật  Sanh  Phật,  Võng  Minh
Phật,  như  thị  đẳng  Hằng  hà  sa  số  chư
Phật,  các  ư  kỳ  quốc,  xuất  quảng  trường
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên
thế giới, thuyết thành thật ngôn: Nhữ đẳng
chúng sanh đương tín thị xưng tán bất khả
tư nghị công đức Nhất thiết chư Phật sở hộ
niệm kinh.
Xá-lợi-phất! Hạ  phương  thế  giới,  hữu
Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang
Phật, Đạt-ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì
Pháp Phật, như thị đẳng Hằng hà sa số chư
Phật,  các  ư  kỳ  quốc,  xuất  quảng  trường 20
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
thiệt tướng, biến phú tam thiên đại thiên
thế giới, thuyết thành thật ngôn: Nhữ đẳng
chúng sanh đương tín thị xưng tán bất khả
tư nghị công đức Nhất thiết chư Phật sở hộ
niệm kinh.
Xá-lợi-phất  Thượng  phương  thế  giới
hữu Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương
Thượng  Phật,  Hương  Quang  Phật,  Đại
Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm
Thân Phật, Ta-la Thọ Vương Phật, Bảo Hoa
Đức  Phật,  Kiến  Nhất  Thiết  Nghĩa  Phật,
Như Tu-di Sơn Phật, như thị đẳng Hằng hà
sa số chư Phật, các ư kỳ quốc, xuất quảng
trường thiệt tướng, biến phú tam thiên đại
thiên thế giới, thuyết thành thật ngôn:
Nhữ  đẳng  chúng  sanh  đương  tín  thị
xưng  tán  bất khả  tư nghị  công đức Nhất
thiết chư Phật sở hộ niệm kinh.
Xá-lợi-phất!  Ư  nhữ  ý  vân  hà?  Hà  cố
danh  vi: Nhất  thiết  chư Phật  sở hộ niệm
kinh? 21
PHẦN DỊCH ÂM
Xá-lợi-phất! Nhược hữu  thiện nam  tử,
thiện  nữ  nhân,  văn  thị  kinh  thọ  trì  giả,
cập văn chư Phật danh giả, thị chư thiện
nam  tử,  thiện nữ nhân, giai vi nhất  thiết
chư Phật chi sở hộ niệm, giai đắc bất thối
chuyển  ư  A-nậu-đa-la-tam-miệu  Tam-bồ-
đề. Thị cố Xá-lợi-phất! Nhữ đẳng giai đương
tín thọ ngã ngữ, cập chư Phật sở thuyết.
Xá-lợi-phất! Nhược hữu nhân  dĩ  phát
nguyện,  kim  phát  nguyện,  đương  phát
nguyện,  dục  sanh A-di-đà Phật  quốc  giả,
thị chư nhân đẳng, giai đắc bất thối chuyển
ư  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề,  ư  bỉ
quốc độ nhược dĩ  sanh, nhược kim  sanh,
nhược đương sanh.
Thị cố Xá-lợi-phất! Chư thiện nam tử,
thiện  nữ  nhân,  nhược  hữu  tín  giả,  ưng
đương phát nguyện sanh bỉ quốc độ.
Xá-lợi-phất! Như ngã kim giả xưng tán
chư Phật bất khả tư nghị công đức, bỉ chư
Phật  đẳng  diệc  xưng  tán  ngã  bất  khả  tư 22
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
nghị công đức, nhi tác thị ngôn: “Thích-ca
Mâu-ni Phật năng vi thậm nan hy hữu chi
sự, năng ư Ta-bà quốc độ ngũ trược ác thế:
kiếp  trược,  kiến  trược,  phiền  não  trược,
chúng sanh  trược, mạng  trược  trung, đắc
A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề,  vị  chư
chúng sanh thuyết thị nhất thiết thế gian
nan tín chi pháp.”
Xá-lợi-phất! Đương tri ngã ư ngũ trược
ác  thế, hành  thử nan  sự, đắc A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề, vị nhất thiết thế gian
thuyết  thử nan  tín  chi pháp,  thị  vi  thậm
nan!
Phật thuyết thử thử kinh dĩ, Xá-lợi-phất
cập chư tỳ-kheo, nhất thiết thế gian, thiên
nhân,  a-tu-la  đẳng,  văn  Phật  sở  thuyết,
hoan hỷ tín thọ, tác lễ nhi khứ.
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
CHUNG23
PHẦN DỊCH ÂM
(Kinh văn đến đây là hết, phần nghi thức kết thúc
và hồi hướng người tụng có thể tùy chọn, hoặc thực
hành theo như dưới đây.)
TÁN PHẬT
Tây phương giáo chủ,
Tịnh độ năng nhơn,
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh.
Phát nguyện thệ hoằng thâm,
Thượng phẩm thượng sanh,
Đồng phó Bảo liên thành.
Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế giới
Đại từ Đại bi Tiếp dẫn Đạo sư A-di-đà Phật
(3 lần)
CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ
1. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô An Dưỡng quốc,
Cực  Lạc  giới Di-đà Hải  hội,  Vô  Lượng
Quang Như Lai. 
(1 lạy)24
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
2.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc,  Cực  Lạc  giới  Di-đà  Hải  hội,  Vô
Biên Quang Như Lai.
(1 lạy)
3.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc,  Cực  Lạc  giới  Di-đà  Hải  hội,  Vô
Ngại Quang Như Lai.
(1 lạy)
4.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc, Cực Lạc giới Di-đà Hải hội, Vô Đối
Quang Như Lai.
(1 lạy)
5. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô An Dưỡng quốc,
Cực Lạc giới Di-đà Hải hội, Diệm Vương
Quang Như Lai.
(1 lạy)
6. Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô An Dưỡng quốc,
Cực Lạc giới Di-đà Hải hội, Thanh Tịnh
Quang Như Lai.
(1 lạy)25
PHẦN DỊCH ÂM
7.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc, Cực Lạc giới Di-đà Hải hội, Hoan
Hỷ Quang Như Lai.
(1 lạy)
8.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc,  Cực  Lạc  giới  Di-đà  Hải  hội,  Trí
Huệ Quang Như Lai.
(1 lạy)
9.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam  Mô  An  Dưỡng
quốc, Cực Lạc  giới Di-đà Hải hội, Nan
Tư Quang Như Lai.
(1 lạy)
10.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam Mô  An  Dưỡng
quốc,  Cực  Lạc  giới  Di-đà Hải  hội,  Bất
Đoạn Quang Như Lai.
(1 lạy)
11.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam Mô  An  Dưỡng
quốc,  Cực  Lạc  giới  Di-đà  Hải  hội,  Vô
Xưng Quang Như Lai.
(1 lạy)26
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
12.  Chí  tâm  đảnh  lễ:  Nam Mô  An  Dưỡng
quốc, Cực Lạc giới Di-đà Hải hội, Siêu
Nhật Nguyệt Quang Như Lai.
(1 lạy)
MA-HA BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA 
TÂM KINH
Quán Tự  Tại Bồ Tát  hành  thâm Bát-
nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn
giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Xá-lợi tử! Sắc bất dị không, không bất
dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc.
Thọ. tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
Xá-lợi  tử! Thị chư pháp không  tướng,
bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng
bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ,
tưởng, hành,  thức; vô nhãn, nhĩ,  tị,  thiệt,
thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp;
vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô 27
PHẦN DỊCH ÂM
minh, diệc vô vô minh  tận; nãi chí vô  lão
tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo;
vô trí diệc vô đắc.
Dĩ  vô  sở  đắc  cố, Bồ-đề-tát-đỏa  y Bát-
nhã ba-la-mật-đa cố, tâm vô quái ngại, vô
quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên
đảo mộng  tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam
thế  chư  Phật  y  Bát-nhã  ba-la-mật-đa  cố,
đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.
Cố  tri  Bát-nhã  ba-la-mật-đa  thị  đại
thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng
chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất
thiết khổ, chân thật bất hư.
Cố  thuyết  Bát-nhã  ba-la-mật-đa  chú,
tức thuyết chú viết:
Yết-đế, yết-đế, ba-la-yết-đế, ba-la-tăng-
yết-đế, Bồ-đề tát-bà-ha. (3 lần)28
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
VÃNG SANH QUYẾT ĐỊNH CHÂN NGÔN
Nam mô A-di-đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
đa điệt dạ  tha. A-di-rị-đô bà  tỳ. A-di-rị-đa
tất đam bà tỳ. A-di-rị-đa tỳ ca lan đế. A-di-
rị-đa tỳ ca lan đa. Dà di nị dà dà na, chỉ đa
ca lệ, ta-bà-ha.
(3 lần)
TÁN PHẬT
A-di-đà Phật thân kim sắc,
Tướng hảo quang minh vô đẳng luân.
Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu-di,
Cám mục trừng thanh tứ đại hải.
Quang trung hóa Phật vô số ức,
Hóa Bồ Tát chúng diệc vô biên.
Tứ thập bát nguyện độ chúng sanh,
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
Nam mô Tây phương Cực Lạc thế giới,
Đại từ, Đại bi Tiếp dẫn Đạo sư A-di-đà Phật.
Nam-mô A-di-đà Phật (108 lần)29
PHẦN DỊCH ÂM
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát 
(3 lần)
Nam Mô Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát 
(3 lần)
Nam Mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
(3 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát
(3 lần)
SÁM THẬP PHƯƠNG
Thập phương tam thế Phật,
A-di-đà đệ nhất.
Cửu phẩm độ chúng sanh,
Oai đức vô cùng cực.
Ngã kim đại quy y,
Sám-hối tam nghiệp tội,
Phàm hữu chư phước thiện,
Chí tâm dụng hồi hướng.
Nguyện đồng niệm Phật nhân,
Cảm ứng tùy thời hiện,
Lâm chung Tây phương cảnh, 30
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
Phân minh tại mục tiền.
Kiến văn giai tinh tấn,
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Kiến Phật liễu sanh tử,
Như Phật độ nhất thiết.
Vô biên phiền não đoạn,
Vô lượng pháp môn tu,
Thệ nguyện độ chúng sanh,
Tổng giai thành Phật đạo.
Hư không hữu tận,
Ngã nguyện vô cùng.
Tình dữ vô tình,
Đồng viên chủng trí.
SÁM PHỔ HIỀN
Nhứt giả lễ kính chư Phật,
Nhị giả xưng tán Như Lai,
Tam giả quảng tu cúng-dường,
Tứ giả sám hối nghiệp chướng,
Ngũ giả tùy hỷ công-đức,
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân, 31
PHẦN DỊCH ÂM
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
Bát giả thường tùy học Phật,
Cửu giả hằng thuận chúng-sanh,
Thập giả phổ giai hồi hướng.
Nam-mô Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma-ha-
tát (3 lần)
HỒI HƯỚNG
Phúng kinh công đức thù thắng hạnh,
Vô biên thắng phước giai hồi hướng.
Phổ nguyện pháp giới chư chúng sanh,
Tốc vãng vô lượng quang Phật sát.
Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền não,
Nguyện đắc trí huệ chân minh liễu.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
Nguyện sanh Tây phương, Tịnh độ trung,
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu.
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.32
PHẬT THUYẾT A-DI-ĐÀ KINH
Nguyện dĩ thử công đức,
Phổ cập ư nhất thiết,
Ngã đẳng dữ chúng sanh,
Giai cộng thành Phật đạo.
TAM TỰ QUY Y
Tự  quy  Phật,  đương  nguyện  chúng
sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.
(1 lạy)
Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng
sanh, thâm nhập Kinh tạng, trí tuệ như hải.
(1 lạy)
Tự quy y Tăng, đương nguyện  chúng
sanh,  thống  lý  đại  chúng,  nhất  thiết  vô
ngại.
(1 lạy)33
PHẦN DỊCH NGHĨA
KINH A-DI-ĐÀ
(Dao Tần, Tam Tạng Pháp Sư Cưu-ma-la-thập dịch)
Tôi nghe như thế này:
1 Có một lúc, đức
Phật ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc,
2 gần thành
Xá-vệ,
3  cùng với  các vị đại  tỳ-kheo  tăng,
4
tất cả  là một ngàn hai trăm năm mươi vị,
1
Như thị ngã văn: Là phần xác tín được đặt ở đầu tất cả các kinh điển theo lời di
giáo của đức Phật, để xác nhận rằng kinh này do chính đức Phật thuyết dạy và
được các vị đệ tử ghi nhớ lại. Chữ “ngã” ở đây thường được hiểu là “tôi”, tức là
ngài A-nan, người nhắc lại kinh này; nhưng cũng có thể hiểu là “chúng tôi”, tức
là tất cả các vị tham gia vào việc kết tập kinh điển.
2
 Vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc: thường gọi tắt là Kỳ Viên. Đây là một tinh xá có vườn
cây bao quanh, tọa lạc tại thành Xá-vệ (Sravasti). Vườn cây này của ông thái tử
Kỳ Đà (Jeta), con vua Ba-Tư-Nặc (Prasenajit) hiến cúng, còn ông Trưởng giả Tu-đạt
(Sudatta), hiệu là Cấp Cô Độc (Anathapindika) bỏ vàng ra mua đất để cúng cho
Tăng-già, nên gọi chung là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc.
3
  Thành Xá-vệ: Tuy bản Hán văn dùng chữ “quốc” (國) (Xá-vệ quốc) nhưng ở đây
mang  nghĩa  là  thành.  Thành  Xá  vệ  (Sravasti)  là  kinh  đô  của  nước  Câu-tát-la
(Kocala), do vua Ba-tư-nặc (Prasenajit) trị vì.
4
Đại tỳ-kheo tăng: Những vị tỳ-kheo (Bhiksu) đạo cao đức trọng được tôn xưng là
đại tỳ-kheo. Tỳ-kheo là người thuộc nam giới xuất gia theo Phật, thọ cụ túc giới,
chỉ đi khất thực, sống bằng sự cúng dường của bá tánh. Tỳ-kheo, tiếng Phạn là
Bhiksu, bao hàm bốn nghĩa: 1. Giữ hạnh khất thực thanh tịnh. 2. Phá trừ phiền
não. 3. Trì giới thanh tịnh. 4. Có thể làm chúng ma khiếp sợ. Tăng, hay Tăng-già,
tiếng Phạn  là Sangha, Hán dịch  là Hịa hiệp chúng, nghĩa  là nhiều người cùng
sống chung hịa hợp để tu hành. Từ ba vị tỳ-kheo trở lên, cùng sống ở một nơi mà
tu hành gọi là Tăng chúng.34
KINH A-DI-ĐÀ
đều là bậc đại A-la-hán1 mà ai ai cũng biết,
như: Trưởng lão Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-
liên, Đại  Ca-diếp, Đại  Ca-chiên-diên, Đại
Câu-hy-la,  Ly-bà-đa,  Châu-lỵ-bàn-đà-già,
Nan-đà,  A-nan-đà,  La-hầu-la,  Kiều-phạm-
ba-đề,  Tân-đầu-lô-phả-la-đọa,  Ca-lưu-đà-
di, Đại Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-
đà... các vị đệ tử lớn như thế.
Lại  có  các  vị  đại  Bồ  Tát2  như:  Pháp
Vương Tử3 Văn-thù-sư-lỵ, Bồ Tát A-dật-đa,
4
Bồ Tát Càn-đà-ha-đề, Bồ Tát Thường Tinh
Tấn... các vị đại Bồ Tát như thế, cùng với
1
 Đại A-la-hán: Vì 1.250 người đệ tử của Phật đều là đại tỳ-kheo, nên các vị ấy đã
chứng quả A-la-hán. Đại A-la-hán là tiếng tôn xưng vị A-la-hán có công đức lớn
trong Tăng chúng. A-la-hán (Arhat) có ba nghĩa: 1. Sát tặc: giết giặc, tức là diệt
trừ phiền não; 2. Ứng cúng: Xứng đáng thọ hưởng sự cúng dường của chư thiên và
con người, vì có đủ đức độ; 3. Bất sanh: Chẳng phải tái sanh trong sáu nẻo luân
hồi, sẽ nhập Niết-bàn ngay trong kiếp này. Quả A-la-hán tức là quả thứ tư, cao
hơn hết  trong bốn quả: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. A-la-hán
cũng được viết tắt là La-hán.
2
 Đại Bồ Tát (Bồ Tát Ma-ha-tát): tiếng Phạn là Bodhisattva-Māhasattva, viết đủ là
Bồ-đề-tát-đỏa Ma-ha-tát-đỏa. Trong đó, chữ Bồ-đề Hán dịch là đạo, giác, nghĩa
là tánh sáng suốt của Phật; chữ tát-đỏa Hán dịch là chúng sanh, hữu tình. Bồ Tát
hay Bồ-đề-tát-đỏa là chúng sanh đã được giác ngộ; chữ ma-ha Hán dịch là đại,
nghĩa là lớn, ma-ha-tát là tiếng dùng thêm để tôn xưng, nên Bồ Tát Ma-ha-tát có
nghĩa chung là Đại Bồ Tát, là bậc có đại nguyện đem lòng từ cứu giúp chúng sanh
được an vui, đem lòng bi mà cứu vớt cho chúng sanh khỏi sự khổ não.
3
Pháp Vương Tử: con của đấng Pháp Vương. Đức Phật được  tôn xưng  là Pháp
Vương (Vua của các Pháp), nên các vị Đại Bồ Tát cũng được tôn xưng là Pháp
Vương Tử.
4
 Bồ Tát A-dật-đa, phiên âm từ tiếng Phạn là Ajita, dịch nghĩa là Vô Năng Thắng,
tức danh hiệu khác của Bồ Tát Di-lặc.35
PHẦN DỊCH NGHĨA
vua cõi trời là Đế-thích1 và vô số chư thiên,
đại chúng cùng quy tụ.
Lúc  ấy,  Phật  bảo  Trưởng  lão  Xá-lợi-
phất2 rằng: “Về phương tây, cách đây mười
vạn ức cõi Phật, có một thế giới tên là Cực
Lạc.
3 Ở  cõi  ấy  có  đức  Phật  hiệu  A-di-đà4
hiện nay đang thuyết pháp.
1
Đế-thích:  tức  Thích-đề-hoàn-nhân,  viết  đủ  là  Thích-ca  Đề-hoàn  Nhân-đà-la
(Śākya Déva Indra). Trong đó, chữ Thích-ca Hán dịch là năng nhân, nghĩa là có
lòng nhân từ, chữ Đề-hoàn Hán dịch là thiên, nghĩa là các vị sống trên cõi trời,
chư thiên; chữ Nhân-đà-la Hán dịch là chúa, chủ, nghĩa là bậc đứng đầu. Trọn
tên này, Hán dịch là Năng Thiên Chủ, nghĩa là vị vua cõi trời có lòng nhân từ.
2
   Trưởng  lão Xá-lợi-phất: Trưởng  lão,  tiếng Phạn  là  Sthavira,  là  tiếng  tôn  xưng
vị  tỳ-kheo có đức độ, xuất gia  tu học đã nhiều năm. Xá-lợi-phất, tiếng Phạn  là
Śāriputra, Hán dịch là Thu tử. Xá-lợi, tiếng Phạn là Śāri, chỉ loài chim thu, là tên
bà mẹ, vì bà có cặp mắt đẹp như mắt chim thu. Phất, hay Phất-đát-ra, tiếng Phạn
là putra, Hán dịch là tử, nghĩa là người con trai. Vì thế có kinh cũng gọi ngài là
Xá-lợi tử. Xá-lợi-phất được Phật khen ngợi là vị đệ tử có trí huệ bậc nhất trong các
đệ tử của Phật.
3
Cực Lạc: tiếng Phạn là Sukhāvatī, Hán dịch là cực lạc, nghĩa là rất vui sướng. Ở
nước ấy, người ta sống vô cùng vui sướng, yên ổn, không có sự khổ não. Cực Lạc
là một cõi Tịnh độ, cho nên ở đó người ta hưởng toàn sự trong sạch, vui sướng.
Còn cõi Ta-bà của chúng ta là một cõi Uế độ, cho nên phải chịu nhiều sự uế tạp,
khổ não.
4
 A-di-đà: Tiếng Phạn  là Amitābha, Hán dịch  là Vô  lượng  thọ, nghĩa  là sống  lâu
vô số kiếp. Khi đức Phật Thích Ca đản sanh, xuất gia, thành đạo và thuyết pháp
giáo hóa chúng sanh ở cõi Ta-bà thì đức Phật A-di-đà đang thuyết pháp độ sanh
tại cõi Cực Lạc. Sau khi đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn, cho đến hiện nay và
vô số kiếp về sau, đức Phật A-di-đà vẫn còn thuyết pháp tại cõi Cực Lạc và tiếp
dẫn những chúng sanh niệm Phật về cõi ấy, vì đời sống của ngài dài vô số kiếp.
Trong tôn hiệu đức Phật A-di-đà (阿彌陀), căn cứ vào Phạn âm thì không phải âm
“di” mà là âm “mi” (Amitābha). Gần đây Hịa thượng Thích Trí Tịnh đã có nêu ra
vấn đề này. Theo tra cứu của chúng tôi thì nguyên nhân đọc sai âm “mi” thành
âm “di” là do chữ 彌? trong âm Hán Việt quen đọc là “di”, trong khi chính các từ
điển Hán Việt hiện đại vẫn phiên âm chữ này là âm “mí”. (Xin tham khảo Từ điển
Hán Việt hiện đại do Nguyễn Kim Thản chủ biên, NXB Thế giới – 2000, trang
654, dòng 24.) Cách đọc sai này cũng xuất hiện  trong nhiều  trường hợp khác,
như trong chú Lục tự đại minh “Án ma-ni bát di hồng” thì Phạn âm là “Om maṇi
padme hum”– chữ “ni” trong maṇi cũng đã bị đọc sai thành âm “di”.36
KINH A-DI-ĐÀ
“Xá-lợi-phất! Tại sao cõi ấy gọi là Cực
Lạc? Nơi ấy chúng sanh không có những sự
khổ não, chỉ hưởng các điều vui sướng, nên
gọi là Cực Lạc.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc,
đền đài có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới bao
phủ và bảy hàng cây, thảy đều có bốn món
báu1 vây quanh. Cho nên cõi ấy gọi là Cực
Lạc.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc
có ao xây bằng bảy món báu,
2 trong chứa
nước có tám công đức.
3 Đáy ao tồn bằng cát
vàng, bốn phía có những bậc  thang bằng
vàng, bạc,  lưu  ly, pha  lê hợp  lại. Bên trên
có những lầu, gác cũng dùng vàng, bạc, lưu
1
 Bốn món báu (tứ bảo), là vàng, bạc, lưu ly, pha lê.
2
 Bảy món báu (thất bảo), là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não.
3 Nước có tám công đức (Bát công đức thủy): theo bản dịch của ngài Huyền Trang
thì tám công đức ấy là: 1. Trừng tịnh: lắng gạn trong sạch; 2. Thanh lãnh: trong
trẻo mát lạnh; 3. Cam mỹ: mùi vị ngon ngọt ngon; 4. Khinh nhuyễn: nhẹ nhàng
mềm mại; 5. Nhuận trạch: thấm nhuần tươi mát; 6. An hịa: yên ổn hịa nhã; 7.
Trừ được đói khát và vô số khổ não; 8. Trưởng dưỡng thân tứ đại, tăng trưởng các
thiện căn 37
PHẦN DỊCH NGHĨA
ly, pha  lê, xa cừ, xích châu, mã não trang
hồng. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe.
Hoa xanh tỏa ánh sáng xanh, hoa vàng tỏa
ánh sáng vàng, hoa đỏ tỏa ánh sáng đỏ, hoa
trắng tỏa ánh sáng trắng.
1
“Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ
công đức trang nghiêm như thế.
“Lại  nữa,  Xá-lợi-phất!  Cõi  Phật  ấy
thường  trỗi  nhạc  trời. Mặt  đất  tồn  bằng
vàng ròng. Ngày đêm sáu thời2 từ trên trời
mưa  xuống  hoa  mạn-đà-la.
3  Chúng  sanh
cõi ấy vào  sáng  sớm  thường  trải áo hứng
lấy hoa quý, mang đi cúng dường mười vạn
đức Phật ở các phương khác. Đến giờ ăn4
1
 Đoạn này mô tả bốn loại hoa sen: hoa ưu-bát la màu xanh, hoa câu-vật-đầu màu
vàng, hoa ba-đầu-ma màu đỏ, hoa phân-đà-lỵ màu trắng.
2
 Ngày đêm sáu  thời: Ngày phân  làm ba  thời, đêm phân  làm ba  thời. Kinh Hoa
Nghiêm, phẩm Thọ lượng chép rằng: Tâm Vương Bồ Tát nói: “Một kiếp ở cõi Ta-
bà này bằng một ngày một đêm ở cõi Cực Lạc của Phật A-di-đà.”
3
Hoa mạn-đà-la:  Tiếng  Phạn  là Mandāravas, Hán  dịch  là Bạch  đoàn  hoa  hay
Thích ý hoa, là loài hoa màu trắng, mùi rất thơm. Nhìn thấy hoặc ngửi được mùi
thơm của hoa đều thích ý.
4 Giờ ăn: Thực thời hay Pháp thực thời là giờ ngọ, lúc giữa trưa. Theo giới luật do
Phật chế định thì vị tỳ-kheo chỉ ăn vào giờ ngọ, khi mặt trời xế bóng thì không ăn.38
KINH A-DI-ĐÀ
trong ngày liền trở về dùng cơm rồi đi kinh
hành.
1
“Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ
những công đức trang nghiêm như thế.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất! Cõi ấy thường có
nhiều  lồi  chim xinh đẹp đủ  các màu  sắc,
như bạch hạc,
2 khổng tước,
3 anh võ,
4
xá-lợi,
5
ca-lăng-tần-già,
6  cộng  mạng7...  Ngày  đêm
sáu thời, những lồi chim ấy hòa tiếng kêu
thanh nhã. Tiếng chim ấy lại thuyết giảng
1
Đi kinh hành: các vị tỳ-kheo sau khi dùng cơm thì đi chậm rãi quanh chùa tháp
hoặc  trong  chánh điện. Trong  khi đi  ấy  thường nhiếp  tâm  cho  an định.  Sách
Thích thị yếu lãm chép rằng: Kinh hành có năm sự lợi ích: 1. Vận động cơ thể
cho khang kiện; 2. Luyện tập cho có sức mạnh; 3. Trừ được nhiều chứng bệnh; 4.
Giúp thêm sự tiêu hóa; 5. Làm cho ý chí thêm kiên cố.
2
 Bạch hạc: Chim hạc trắng, loài chim lông trắng, mỏ dài, chân cao, bay xa, kêu
tiếng lớn và thanh.
3
Khổng tước: chim công, loài chim giống như chim trĩ, lông đuôi dài, con trống rất
đẹp, xòe cánh ra như cái quạt, màu sắc rực rỡ.
4
 Anh võ: chim két, loài chim lông cánh xanh, mỏ ngắn, có thể tập nói được tiếng
người.
5
 Xá-lợi: chim thu, chim oanh, loài chim có đôi mắt rất trong, hót nghe tiếng thanh
dịu.
6
 Ca-lăng-tần-già: Tiếng Phạn  là Kalavińka. Ca-lăng:  tốt, đẹp. Tần-già:  tiếng, âm
thanh. Loài chim tiếng tốt, trong trẻo. Hán dịch là mỹ âm điểu, diệu thanh điểu.
Chim này cư trú ở Tuyết sơn, miền bắc Ấn Độ.
7
 Cộng mạng: Tiếng Phạn là Jivajiva (Kỳ-bà), dịch âm là Bà-bà-kỳ-bà, cũng dịch là
Mạng mạng, hay Sanh sanh. Loài chim tương truyền là một thân có hai đầu.39
PHẦN DỊCH NGHĨA
về Năm căn,
1 Năm  lực,
2 Bảy phần Bồ-đề,
3
Tám phần Thánh đạo.
4
Chúng  sanh  ở  cõi
ấy nghe rồi đều nhớ nghĩ đến Phật, Pháp,
Tăng.
1
Năm căn: Năm điều được xem là cội rễ, giúp cho các pháp lành nảy sanh. Đó
là: 1. Tín căn: lòng tin nơi Tam bảo, vào giáo lý Tứ diệu đế; 2. Tinh tấn căn: lòng
tinh tấn, dõng mãnh tu hành thiện pháp; 3. Niệm căn: lòng nhớ tưởng Tam bảo,
Phật, Pháp, Tăng; 4. Định căn: thiền định, lòng không tán loạn; 5. Huệ căn: sáng
suốt, biết rõ sự lý, thông hiểu kinh nghĩa.
2
 Năm lực: Nhờ có Năm căn mà sanh ra Năm lực: 1. Tín lực: sức mạnh của lòng
tin; 2. Tinh tấn lực: sức mạnh của sự tinh tấn; 3. Niệm lực: sức mạnh của sự tưởng
niệm, nhớ nghĩ; 4. Định lực: sức mạnh của sự an định; 5. Huệ lực: sức mạnh của
trí huệ.
3
   Bảy phần Bồ-đề: Tiếng Phạn  là Saptabodhyaṅga, Hán dịch  là Thất giác phần
hay Thất giác chi. Bảy phần này là bảy yếu tố để thành tựu quả Bồ-đề, bao gồm:
1. Trạch pháp giác chi, tiếng Phạn là: Dharmapravicaya, sự phân biệt pháp tốt
hoặc pháp xấu do trí phán xét của mình; 2. Tinh tấn giác chi, tiếng Phạn là Vīrya:
Đem lòng dõng mãnh mà từ bỏ điều ác, làm điều lành; 3. Hỷ giác chi, tiếng Phạn
là Prīti, lòng được vui vẻ; 4. Khinh an giác chi, tiếng Phạn là Praśabdhi, lòng nhẹ
nhàng yên tĩnh, không có sự nặng nhọc bứt rứt; 5. Niệm giác chi, Tiếng Phạn là
Smṛti, lòng tưởng nhớ Chánh Pháp, Tam bảo; 6. Định giác chi, tiếng Phạn là Samādhi,
tâm trí an định, không tán loạn; 7. Xả giác chi, Phạn: Upekşā, cũng gọi là Hộ giác chi:
Buông bỏ những vướng mắc, dứt bỏ sự lầm lạc.
4
 Bát thánh đạo phần: Tám phần trong con đường hướng đến giác ngộ, cũng gọi là
Bát chánh đạo, tám pháp chân chánh, tức là Đạo đế trong Tứ diệu đế, bao gồm:
1. Chánh kiến, tiếng Phạn là Sammā-diţţhi, chỗ thấy chân chánh, như thấy vạn
vật là chẳng thật, vô ngã, thấy luân hồi là khổ não...; 2. Chánh tư duy, tiếng Phạn
là Sammā-saṅkappa, suy xét, chiêm nghiệm những lẽ chân chánh; 3. Chánh ngữ,
tiếng Phạn là Sammāvācā, lời nói chân chánh, chẳng nói điều phi lý, sai lệch...;
4. Chánh nghiệp, tiếng Phạn là Sammākammanta, việc làm chân chánh, không
sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm; 5. Chánh mạng, tiếng Phạn là Sammā-
ājīva, cuộc sống chân chánh, trong sạch, tự nuôi sống bằng nghề nghiệp không
gây  tổn hại đến chúng sanh; 6. Chánh  tinh  tấn,  tiếng Phạn  là Sammā-vāyāma,
dũng mãnh xa lánh phiền não, dũng mãnh tu thiện; 7. Chánh niệm, tiếng Phạn
là Sammā-sati, lòng niệm tưởng chân chánh, nhớ nghĩ những chỗ chánh đáng;
8. Chánh định, tiếng Phạn là Sammā-samādhi: tâm trí vào thiền định, không tán
loạn, không chạy theo trần cảnh.40
KINH A-DI-ĐÀ
“Xá-lợi-phất!  Ông  chớ  tưởng  rằng
những lồi chim ấy là do tội báo sanh ra. Vì
sao vậy? Cõi Phật ấy không  có ba đường
ác.
1
“Xá-lợi-phất! Cõi Phật ấy, đến  tên gọi
ba đường ác còn không có, huống chi là có
thật? Các  lồi chim ấy đều  là do đức Phật
A-di-đà  vì  muốn  cho  tiếng  thuyết  pháp
được truyền ra khắp nơi nên mới biến hóa
tạo thành.
“Xá-lợi-phất! Nơi cõi Phật ấy, gió nhẹ
lay động những hàng cây báu và lưới báu,
vang  lên  tiếng êm dịu vô cùng, như  trăm
ngàn  tiếng  nhạc  cùng  hòa  nhau  trỗi  lên.
Ai nghe được tiếng ấy tự nhiên sanh  lòng
tưởng niệm đến Phật, Pháp, Tăng.
2
1
 Ba đường ác: Chúng sanh trong ba cõi thế giới tùy nghiệp lành hoặc dữ của mình,
sanh vào trong sáu đường: Ba đường lành, Ba đường ác. Ba đường lành là: cõi trời,
cõi người, cõi a-tu-la. Ba đường ác là: địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ.
2
  Phật, Pháp, Tăng, tức Tam bảo, hay Ba ngôi báu. Phật, tiếng Phạn là Buddha, viết
đủ là Phật-đà, Hán dịch là Giác giả, nghĩa là người giác ngộ hoàn toàn. Phật có
đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân thể. Sau khi Phật nhập Niết
bàn, người ta theo đó mà chế ra những tượng cốt bằng chất kim, bằng cây hoặc
vẽ hình trên giấy, trên vải để thờ phụng, nhớ tưởng đến Phật; Pháp, tiếng Phạn
là Dharma, nên cũng đọc  theo âm  là Đạt-ma,  là những giáo  lý do Phật  truyền
dạy cho chúng sanh. Sau khi Phật nhập diệt, người ta gom góp những lời dạy của
Ngài mà chép thành ba tạng Kinh, Luật và Luận để truyền lại; Tăng, tiếng Phạn 41
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Xá-lợi-phất! Nơi cõi Cực Lạc có đầy đủ
công đức trang nghiêm như thế.
“Này Xá-lợi-phất! Ý ông nghĩ sao? Tại
sao đức Phật ấy có hiệu là A-di-đà?
“Xá-lợi-phất! Hào quang của đức Phật
ấy  chiếu  sáng  vô  cùng,  soi  khắp  các  cõi
nước mười phương, không hề ngăn ngại. Vì
thế nên có hiệu là A-di-đà.
1
“Lại  nữa,  Xá-lợi-phất!  Đời  sống  của
đức Phật và nhân dân cõi ấy kéo dài vô số
a-tăng-kỳ kiếp2 nên gọi là A-di-đà.
là Sangha, viết đủ là Tăng-già, Hán dịch là Hịa hiệp chúng, gồm nhiều người tu
học cùng nhau. Sau khi Phật nhập diệt, Tăng-già là những người tiếp tục tu tập và
truyền dạy giáo pháp cho chúng sanh.
1
 Ở đây kinh văn đề cập đến các danh hiệu khác của đức Phật A-di-đà. Đó là: Vô
Lượng Quang Phật: Vì hào quang của ngài là vô lượng, sáng suốt vô lượng, rộng
lớn vô  lượng; Vô Biên Quang Phật: Vì hào quang của ngài  là không cùng  tận,
không có bờ bến, chiếu khắp cả các thế giới mười phương; Vô Ngại Quang Phật:
Vì hào quang của ngài chiếu khắp nơi mà không bị ngăn ngại, soi cả những nơi
bị che lấp, những cảnh hắc ám. Những chúng sanh nào gặp được hào quang của
đức Phật A-di-đà, thì ba món độc tham, sân, si liền bị tiêu diệt, thân thể được nhu
nhuyễn, tâm ý được hoan lạc, khởi sinh lòng lành. Những chúng sanh trong ba
đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, gặp được hào quang của ngài tức thì hết
khổ não, khi mạng chung được thoát khỏi ba đường ác.
2
 Vô số a-tăng-kỳ kiếp: Cách nói tượng trưng có nghĩa là một quãng thời gian kéo
dài không thể đo lường, tính đếm. Chữ kiếp nói đủ là kiếp-ba (kalpa), chia ra làm
ba loại: tiểu kiếp, trung kiếp, đại kiếp. Một tiểu kiếp có một ngàn sáu trăm tám
mươi vạn năm. Một trung kiếp có ba vạn ba ngàn sáu trăm vạn năm. Một đại kiếp
có mười ba vạn bốn ngàn bốn trăm vạn năm. Nhưng thật ra thì đây là những con
số mang ý nghĩa tượng trưng hơn là thực sự tính đếm.42
KINH A-DI-ĐÀ
“Xá-lợi-phất! Đức  A-di-đà  thành  Phật
đến nay đã được mười kiếp.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất! Đức Phật ấy có
vô số các vị đệ tử Thanh văn,
1 thảy đều là
bậc A-la-hán, không thể tính đếm mà biết
được  số  lượng. Các vị Bồ Tát  cũng nhiều
như vậy.
“Xá-lợi-phất! Cõi nước Phật ấy có đầy
đủ những công đức trang nghiêm như thế.
“Lại nữa, Xá-lợi-phất! Chúng sanh được
sanh về cõi Cực Lạc đều là những bậc không
còn thối chuyển,
2 trong đó có nhiều vị chỉ
còn một lần sanh nữa là sẽ thành Phật.
3 Số
ấy rất nhiều, không thể lấy sự tính đếm mà
biết được, chỉ có thể gọi chung là vô số.
1
Thanh văn, tiếng Phạn là Śrāvaka, hàng đệ tử Phật theo giáo pháp Thanh văn thừa,
(Śrāvakayāna), tu tập Tứ diệu đế, chứng đắc các thánh quả từ Tu- đà- hoàn cho
đến A- la- hán.
2
   Bậc không còn thối chuyển, tiếng Phạn là Avaivartika (A-bệ-bạt-trí), tức là bậc
Bồ Tát không còn thối chuyển trên đường tu học.
3
Chỉ còn một lần sanh nữa là sẽ thành Phật: Gọi là Bồ Tát nhất sanh bổ xứ, tức là
những vị Bồ Tát đã tròn quả nguyện, chỉ còn một lần thọ sanh nữa là thành Phật.43
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Xá-lợi-phất!  Chúng  sanh  nghe  biết
rồi, nên phát nguyện sanh về cõi ấy.
1 Tại
sao vậy? Để được chung sống với các bậc
hiền thiện cao thượng.
“Xá-lợi-phất! Người  có  ít  nhân  duyên
phước đức căn lành2 không thể sanh về cõi
ấy.
“Xá-lợi-phất! Như những kẻ nam, người
nữ  có  lòng  lành,  nghe  giảng  nói  về Phật
A-di-đà, bèn  chuyên  tâm niệm danh hiệu
ngài, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba
ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc
sáu ngày, hoặc bảy ngày, nhất tâm không
1
  Phát nguyện sanh về cõi ấy: Người đọc kinh điển nói về cõi Cực Lạc của đức Phật
A-di-đà mà muốn được vãng sanh về đó, trước hết phải phát nguyện. Sau khi phát
nguyện, thì hết lòng nhớ tưởng đến đức Phật A-di-đà, nhớ tưởng đến thế giới Cực
Lạc. Nhờ có chí nguyện vững bền, niệm tưởng kiên định nên chắc chắn sẽ được
vãng sanh về đó.
2
 Về căn lành (thiện căn), Thập trụ Tỳ-bà-sa luận có nói đến ba căn lành: chẳng
tham, chẳng sân, chẳng si. Tất cả pháp lành đều do đó mà nảy sanh. Về phước
đức, Kinh Quán Vô Lượng Thọ có dạy: “Muốn sanh về cõi ấy, nên tu ba loại phước
đức. Phước đức thứ nhất là hiếu thảo với cha mẹ, hầu hạ bậc sư trưởng, vì lòng từ
mà chẳng giết hại, tu mười nghiệp lành; phước đức thứ hai là thọ trì tam quy, giữ
trọn các giới, chẳng phạm oai nghi; phước đức thứ ba là: phát tâm Bồ-đề, tin sâu
lẽ nhân quả, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn những người tu hành.44
KINH A-DI-ĐÀ
tán loạn.
1 Người ấy khi lâm chung liền thấy
đức Phật A-di-đà cùng các vị thánh chúng
hiện  ra  trước mắt.  Khi mạng  chung  tâm
không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực
Lạc của đức Phật A-di-đà.
“Xá-lợi-phất! Ta thấy sự lợi ích đó, nên
mới giảng nói như vậy. Nếu có chúng sanh
nào được nghe, nên phát nguyện sanh về
cõi ấy.
“Xá-lợi-phất! Cũng như ta nay xưng tán
lợi  ích  công đức không  thể nghĩ bàn  của
Phật A-di-đà, phương đông lại có chư Phật
như: Phật A-súc-bệ, Phật Tu-di Tướng, Phật
Đại  Tu-di,  Phật  Tu-di  Quang,  Phật  Diệu
Âm..., vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều
từ cõi nước của mình, hiện tướng lưỡi rộng
1
Nhất tâm không tán loạn (Nhất tâm bất loạn) là ý chỉ cốt yếu của toàn quyển Kinh
A-di-đà này. Chẳng những trong khi ngồi, mà khi đi, khi đứng, khi nằm, lúc nào
hành giả cũng giữ nơi lòng một câu Nam-mô A-di-đà Phật, lòng tưởng nhớ đến
đức Phật ấy, không để một tư tưởng nào khác xen vào, đó gọi là nhất tâm không
tán loạn.45
PHẦN DỊCH NGHĨA
dài bao trùm ba ngàn đại thiên thế giới, nói
ra lời chân thật này: Hết thảy chúng sanh
nên  tin  vào  lời  xưng  tán  công đức  chẳng
thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật
đều hộ niệm.
“Xá-lợi-phất!  Các  thế  giới  về  phương
nam  có  chư Phật như: Phật Nhật Nguyệt
Đăng,  Phật  Danh  Văn  Quang,  Phật  Đại
Diệm Kiên, Phật Tu-di Đăng, Phật Vô Lượng
Tinh Tấn...,  vô  số  chư Phật như  vậy, mỗi
vị  đều  từ  cõi  nước  của mình,  hiện  tướng
lưỡi rộng dài1 bao trùm ba ngàn đại thiên
thế giới, nói ra lời chân thật này: Hết thảy
chúng sanh nên tin vào lời xưng tán công
đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả
chư Phật đều hộ niệm.
“Xá-lợi-phất! Các thế giới về phương tây
có chư Phật như: Phật Vô Lượng Thọ, Phật
1
  Tướng lưỡi rộng dài: Đức Phật trải qua vô số kiếp không nói lời luống dối, sai sự
thật, nên được quả báo có tướng lưỡi rộng dài hơn tất cả chúng sanh. Khi chư Phật
hiện tướng lưỡi rộng dài là muốn xác nhận lời nói chân thật không hề luống dối.46
KINH A-DI-ĐÀ
Vô  Lượng  Tướng,  Phật  Vô  Lượng  Tràng,
Phật Đại Quang, Phật Đại Minh, Phật Bảo
Tướng, Phật Tịnh Quang..., vô số chư Phật
như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của mình,
hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn
đại thiên thế giới, nói ra lời chân thật này:
Hết thảy chúng sanh nên tin vào lời xưng
tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh
mà tất cả chư Phật đều hộ niệm.
“Xá-lợi-phất!  Các  thế  giới  về  phương
bắc có chư Phật như: Phật Diệm Kiên, Phật
Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật
Sanh, Phật Võng Minh...,  vô  số  chư Phật
như vậy, mỗi vị đều từ cõi nước của mình,
hiện tướng lưỡi rộng dài bao trùm ba ngàn
đại thiên thế giới, nói ra lời chân thật này:
Hết thảy chúng sanh nên tin vào lời xưng
tán công đức chẳng thể nghĩ bàn của kinh
mà tất cả chư Phật đều hộ niệm.47
PHẦN DỊCH NGHĨA
“Xá-lợi-phất!  Các  thế  giới  về  phương
dưới  có  chư Phật  như: Phật  Sư Tử, Phật
Danh  Văn,  Phật  Danh  Quang,  Phật  Đạt-
ma,  Phật  Pháp  Tràng,  Phật  Trì  Pháp...,
vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi
nước  của mình, hiện  tướng  lưỡi  rộng dài
bao  trùm  ba ngàn  đại  thiên  thế  giới, nói
ra lời chân thật này: Hết thảy chúng sanh
nên  tin  vào  lời  xưng  tán  công đức  chẳng
thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư P*hật
đều hộ niệm.
“Xá-lợi-phất!  Các  thế  giới  về  phương
trên  có  chư  Phật  như:  Phật  Phạm  Âm,
Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật
Hương Quang, Phật Đại Diệm Kiên, Phật
Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta-la
Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Đức, Phật Kiến
Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu-di  Sơn...,
vô số chư Phật như vậy, mỗi vị đều từ cõi
nước  của mình, hiện  tướng  lưỡi  rộng dài
bao  trùm  ba ngàn  đại  thiên  thế  giới, nói 48
KINH A-DI-ĐÀ
ra lời chân thật này: Hết thảy chúng sanh
nên  tin  vào  lời  xưng  tán  công đức  chẳng
thể nghĩ bàn của kinh mà tất cả chư Phật
đều hộ niệm.
“Xá-lợi-phất!  Ý  ông  nghĩ  sao?  Vì  sao
kinh này được gọi là: Tất cả chư Phật đều
hộ niệm?
“Xá-lợi-phất! Nếu những kẻ nam, người
nữ  có  lòng  lành, nghe được kinh này mà
thọ trì, cũng như nghe danh hiệu chư Phật,
thì những kẻ nam, người nữ có  lòng  lành
ấy liền được tất cả chư Phật hộ niệm, thảy
đều được địa vị không còn thối chuyển đối
với quả vị Vô  thượng Chánh đẳng Chánh
giác.
“Xá-lợi-phất! Vì vậy mọi người nên tin
theo lời ta và chư Phật đã nói.
“Xá-lợi-phất! Như  có người nào  trước
đã phát nguyện, hoặc nay mới phát nguyện,
hoặc sau này sẽ phát nguyện sanh về cõi
Phật A-di-đà, thì những người ấy đều được 49
PHẦN DỊCH NGHĨA
địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị
Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những
người ấy hoặc đã được sanh, hoặc nay được
sanh, hoặc sau này sẽ được sanh về cõi ấy.
“Xá-lợi-phất! Vậy nên những  kẻ nam,
người nữ có lòng lành, nếu có đức tin, nên
phát nguyện sanh về cõi ấy.
“Xá-lợi-phất! Như nay ta xưng tán công
đức không thể nghĩ bàn của chư Phật. Tất
cả chư Phật cũng đều xưng  tán công đức
không thể nghĩ bàn của ta, nói ra lời này:
Phật  Thích-ca Mâu-ni  làm  được  việc  rất
khó khăn ít có. Từ trong cõi Ta-bà là cõi ác
có năm thứ uế trược như: kiếp trược, kiến
trược, phiền não trược, chúng sanh trược,
mạng  trược,  mà  thành  đạo  Vô  thượng
Chánh đẳng Chánh giác, vì chúng sanh mà
thuyết  dạy  pháp môn  khó  tin  nhận  nhất
trong thế gian này.
“Xá-lợi-phất! Nên biết rằng, ta ở trong
cõi đời xấu ác có năm thứ uế trược, làm nên 50
KINH A-DI-ĐÀ
việc  khó  khăn,  đạt  được  quả  Vô  thượng
Chánh đẳng Chánh giác, vì tất cả thế gian
thuyết  dạy  pháp môn  khó  tin  nhận  này,
thật là một điều rất khó lắm thay!”
Phật thuyết kinh này xong, Xá-lợi-phất
cùng  với  chư  tỳ-kheo,  hết  thảy  thế  gian,
trời, người, a-tu-la... nghe Phật thuyết dạy
đều vui mừng tin nhận, lễ bái lui về.
PHẬT THUYẾT KINH A-DI-ĐÀ51
NỘI DUNG
Nghi thức khai kinh  ..................................................5
PHẦN DỊCH ÂM  .......................................................12
PHẦN DỊCH NGHĨA  ................................................33

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét