Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

tịnh độ hoặc vấn

Tịnh Độ Hoặc Vấn
Đời Nguyên
Thiên Như Duy Tắc Thiền Sư Thuật
HT Thiền Tâm
---o0o---
Nguồn
http://www.quangduc.com
Chuyển sang ebook 9-6-2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
---o0o---
Đề Từ
Ngoài song non xanh giăng màn hoa
Triền non thanh tuyền buông cầm ca
Trong song kìa ai im như mơ
Ngồi xem Thiên Như câu Di Đà
Người đời đều ưa cơ Thiền sâu
Hành nhơn ai vào tâm vương mầu
Đèn sương trơ vơ ngoài trời thu
Non Tu vi trần đều gồm thâu
Mà trong A Di hồng danh thâm
Ngàn muôn khôn tìm ra tri âm!
Thiên Như lòng từ soi chân đăng
Đưa người mau ra vòng mê lầm
Hư không chim bay dường như tranh
Lưu tuyền quanh co triền non xanh
Người đi xa xa làn mây trôi
Di Đà chân như nầy tâm lành
Ôi câu hồng danh mầu thâm xa
Sâu cùng chư tông làng thiền na
Buông ra thâu vào đều như như
Tương tư tâm đầy trời Liên Hoa
Thuật ý Thành Thời Đại Sư.
Liên Du
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy
cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa
tay ra ý mời ngồi. Đối tọa đã lâu, ánh tịch dương tà tà xuyên qua song trúc,
lò hương thiền khói sắp muốn tan, khách từ từ đứng dậy, sửa y phục nghiêm
trang, thư thả mở lời thưa thỉnh:
1. Hỏi rằng:- Trộm nghe Vĩnh Minh Hòa Thượng ẩm thọ môn học đơn
truyền nơi Thiều Quốc Sư ở Thiên Thai, mà cũng chính là đích tôn của
ngài Pháp Nhãn. Khi Hòa Thượng trụ trì chùa Tịnh Từ ở Hàng Châu, đã
khai thị cho học chúng rất nhiều, biện tài cơ trí dường như gió cuốn sấm
vang, hải nội thiền lâm đều kỉnh xưng là bậc đại tông tượng. Tại sao
ngoài sự nói Thiền, ngài lại tự tu Tịnh Độ, khuyên người niệm Phật, viết
sách rộng truyền môn ấy nơi đời. Hơn nữa, ngài lại làm kệ Tứ Liệu Giản,
đại ý nói: 'Có Thiền không Tịnh Độ, mười người chín ngại đường, không
Thiền có Tịnh Độ, muôn tu muôn người sanh.' Qua mấy câu ấy, có phải
ngài đã chủ trương Tịnh Độ, tự hạ môn Thiền của mình, lời nói dường
như quá đáng chăng? Ngu ý nghi ngờ việc nầy rất nhiều, mong Đại Sư
chỉ thị.
Đáp:- Lời hỏi ấy rất thích đáng! Tuy nhiên, Vĩnh Minh Đại Sư không
phải quá khen Tịnh yểm Thiền, mà thật ra lời nói của ngài rất có công với
bên Tông cũng như bên Giáo. Tiếc vì trong Tứ Liệu Giản, ngài chỉ nói lược
qua đại cương, chưa phát minh hết ý thú, nên chưa đánh tan được mối nghi
hoặc của nhà Thiền. Tôi học tập theo Thiền Tông, chưa tinh tường về Tịnh
Độ, nhưng cũng thường qua những kinh sách của môn đó, nên cũng biết
phần đại khái.
Tịnh Độ là pháp dễ tu dễ chứng, song cũng là môn khó nói khó tin. Cho
nên khi còn tại thế, Đức Thích Ca Từ Phụ vì hàng đệ tử nói Kinh A Di Đà đã
dự biết chúng sanh đời mạt pháp khó sanh lòng tin tưởng, mới dẫn lời thành
thật của sáu phương chư Phật để phá mối nghi và phát khởi tín tâm cho
người sau. Lúc thuyết kinh gần xong, nhân nói đến chư Phật khen ngợi
mình, Đức Bổn Sư lại bảo: 'Nên biết ta ở nơi đời ác năm trược làm việc khó
nầy đắc quả Vô Thượng Bồ Đề vì tất cả thế gian nói pháp khó tin đây, thật là
một điều rất khó!' Ấy đều là những lời tha thiết cặn kẽ, dặn dò để khuyên
người tin tưởng vậy. Vã Đấng Thế Tôn đã rủ lòng đại bi, cứu đời trong kiếp
mạt, khi kim khẩu nói ra một câu một kệ, hàng nhơn phi nhơn đều tín thọ
phụng hành, nhưng riêng về thuyết Tịnh Độ, thế gian có xen lẫn lòng nghi,
là tại sao? Bởi giáo môn Tịnh Độ cực rộng lớn, mà pháp tu Tịnh Độ lại quá
giản dị, hai điểm ấy dường như cách biệt, khiến cho người nghe khó nén
lòng nghi. Nói rộng lớn, là môn nầy thâu nhiếp tất cả căn cơ: trên từ bậc
Đẳng Giác Bồ Tát, vị Nhứt Sanh Bổ Xứ đều cầu về Tịnh Độ, dưới cho đến
hàng ngu phu ngu phụ, kẻ tạo ngũ nghịch, thập ác, nếu quyết tâm tín hướng
đều được vãng sanh. Nói giản dị, là người tu không phải quá gian nan lao
khổ, không trải qua cảnh giới sai biệt mê lầm, chỉ trì niệm sáu chữ hồng
danh, mà được thoát Ta Bà, được sanh Cực Lạc, được bất thối chuyển, cho
đến khi thành Phật mới thôi. Bởi có sự rộng lớn mà lại giản dị như thế nên
dù cho người trí cũng sanh mối nghi ngờ. Nếu ông nhận thức rõ được điểm
nầy, tất sẽ biết lời khen của ngài Vĩnh Minh rất có ý thâm, mà không phải là
quá đáng.
2. Hỏi:- Sự rộng lớn và giản dị, tôi đã nghe lời chỉ dạy. Nhưng bậc ngộ
đạt trong Thiền Tông, đã gọi thấy tánh thành Phật, há lại khứng chịu cầu
sanh về Tây Phương ư?
Đáp:- Thật ra ông chưa biết đó thôi. Chính những bậc ngộ đạt càng cấp
thiết cầu sanh. Cổ đức đã bảo: 'Không cầu về Tịnh Độ, còn nguyện sanh cõi
nào?' Nay ông chưa ngộ đạo, giả sử khi được tỏ ngộ rồi, e cho tâm niệm cầu
sanh Cực Lạc của ông, muôn trâu cũng không thể kéo lại!
3. Hỏi:- Sở dĩ Phật, Tổ ra đời vì độ chúng sanh; học giả chỉ lo việc lớn
chưa xong, nếu đã phát minh đại sự (tức ngộ đạo), nên theo gương đấng
Đại Giác hiện thân vào nơi khốn khổ, không hiềm đường sanh tử, mà độ
khắp hàm linh. Nếu bậc đã ngộ đạt mà còn cầu sanh Tịnh Độ, đó chẳng
qua là tâm niệm chán khổ tìm vui, không đoái đến kẻ đang ở trong vòng
chìm đắm? Tôi dù ngu hèn, vẫn không thích làm như vậy!
Đáp:- Thấy chiếc trứng mà muốn cho nó nở liền, tâm niệm ấy sao đà vội
gấp! Ông cho rằng sau một phen tỏ ngộ, thì nghiệp tập đã dứt sạch, được
ngay vị bất thối chuyển ư? Và cũng không còn học khắp Phật Pháp, không
cần phải tu hành thêm để chứng những quả vị từ thấp đến cao ư? Hay là ông
lại nghĩ: sau một phen ngộ đạo, tất đã đồng hàng với chư Phật, có thể vào
sanh ra tử không bị chướng duyên nhiễu loạn ư? Nếu quả như thế thì chư
Đại Bồ Tát trải qua hằng hà sa kiếp tu sáu độ muôn hạnh, cũng đều phải hổ
thẹn với ông vậy! Cổ giáo đã có lời răn nhắc: 'Hàng Thanh Văn còn muội
lúc ra thai, bậc Bồ Tát còn mê khi cách ấm!' Hai hạng ấy mà còn như thế,
huống chi người ngộ giải non kém, tự cứu chưa xong giữa đời nay ư? Dù
cho chỗ tỏ ngộ có sâu xa, trí thông hiểu có cao sáng, hạnh cùng giải hợp
nhau, chí quyết muốn độ người; nhưng vì chưa lên hàng bất thối, lực dụng
chưa đầy đủ, mà muốn ở cõi đời ác nầy hóa độ kẻ cang cường, điều ấy bậc
Tiên Thánh cũng chưa hứa nhận. Ví như đem chiếc thuyền đóng trám chưa
kỹ, để vớt người nơi biển dậy ba đào, cái họa trầm nịch cả đoàn tất không
tránh khỏi. Cho nên Luận Vãng Sanh nói: 'Muốn du hành nơi địa ngục,
muốn cứu độ chúng hữu tình mê khổ, trước phải cầu sanh về cõi kia, đợi khi
chứng được Vô Sanh Nhẫn rồi sẽ trở lại đường sanh tử mà thật hành bản
nguyện. Do nhân duyên ấy nên người tu mới cầu về Tịnh Độ.' Lại Tiên
Thánh cũng đã bảo: 'Chưa được vị Bất Thối Chuyển, chưa chứng Vô Sanh
Nhẫn, cần phải thường không rời Phật. Ví như trẻ thơ không nên xa mẹ, như
chim non chỉ có thể bay chuyền theo cành cây.'
Nay ở cõi Ta Bà nầy Đức Thích Ca đã diệt, Phật Di Lặc chưa sanh.
Huống nữa, bốn đường khổ thú, nhân quả dây dưa, trăm mối ngoại tà, thị phi
rối loạn; sắc tốt tiếng dâm hằng quyến dụ, cảnh hư duyên ác mãi vây quanh.
Trong hiện trạng ấy, đã không có Phật để nương nhờ, lại bị cảnh duyên làm
khuấy động, hàng sơ tâm ngộ đạo hỏi mấy ai không bị thối lui? Cho nên
Đấng Thế Tôn ân cần chỉ về Cực Lạc là bởi lý do ấy. Phương chi ở cõi kia,
Đức Di Đà hiện đang nói pháp, cảnh diệu độ muôn thứ thuận duyên; đã
nương nhờ hải chúng, nhẫn lực mau thành, lại gần Đấng Pháp Vương, Phật
Thừa dễ đạt. Chừng ấy muốn ra ứng hoá độ sanh, còn chi trở ngại? Cũng vì
lẽ ấy, nên bậc thượng căn lợi trí còn nguyện thác sanh, huống chi ông là
hạng trung hạ mới được đôi chút giải ngộ đó ư?
Ông há không thấy trong kinh Quán Phật Tam Muội, Ngài Văn Thù tự
bày tỏ túc nhân, bảo mình đã chứng môn Niệm Phật Tam Muội, thường sanh
ở Tịnh Độ ư? Do bởi đó, Đức Thế Tôn mới thọ ký cho ngài rằng: 'Ông sẽ
được sanh về thế giới Cực Lạc.'
Lại chẳng thấy trong kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát đem mười đại
nguyện vương khuyến tấn Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng nơi hải hội, nên
dùng công đức đó cầu sanh về Cực Lạc ư? Trong ấy có đoạn nói: 'Tôi
nguyện khi đến lúc lâm chung. Dứt trừ tất cả điều chướng ngại. Diện kiến
Đức Phật A Di Đà, liền được sanh về cõi Cực Lạc.'
Lại chẳng thấy trong Kinh Lăng Già, Đức Thế Tôn đã huyền ký: 'Sau xứ
Nam Thiên Trúc, có danh đức Tỳ Khưu, tôn hiệu là Long Thọ. Hay phá hữu,
vô tông. Trong thế gian hiển ngã. Pháp Vô Thượng đại thừa. Chứng Sơ
Hoan Hỷ Địa. Sanh về cõi Cực Lạc' ư?
Và chẳng thấy trong Luận Khởi Tín, Mã Minh Bồ Tát, khen ngợi sự
vãng sanh; trong Kinh Đại Bảo Tích, Phật hứa khả cho Tịnh Phạn Vương và
bảy muôn Thích chủng đồng về An Dưỡng; trong Kinh Thập Lục Quán, Đức
Thế Tôn chỉ dạy phương pháp cho bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ được
lễ cẩn Đức A Di Đà ư?
Trong mấy vị trên, như Vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy hiện tiền đều đã
chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Ở Tây Trúc những hạng ấy cầu vãng sanh
rất nhiều. Bên đông độ thì có Viễn Công ở Lô Sơn cùng các bậc cao nhơn
trong Liên Xã, những vị tôn túc ở hai tông Thiên Thai, Hiền Thủ, tất cả đều
dùng môn niệm Phật tự tu và độ người khuyến hóa hàng tăng tục đồng cầu
sanh về Tịnh Độ. Nói chung những bậc cao đức tu tịnh nghiệp số lượng
không biết bao nhiêu mà kể! Đến như hai ngài Văn Thù, Phổ Hiền là bậc
Đại Bồ Tát, Thiện Tài Đồng Tử và hải chúng Hoa Tạng đều là bậc đại nhơn
trong bốn mươi mốt vị. Mã Minh, Long Thọ là hàng Bồ Tát, mà cũng là bậc
Đại Tổ Sư.
Những thánh nhơn ấy chỗ ngộ và chứng siêu xuất hơn người ngộ đạt
ngày nay như trời với vực, mà còn nguyện sanh về Tây Phương, ông bảo
rằng đã tỏ ngộ không cầu về Cực Lạc, lại bác sự cầu sanh, thì các ngài Văn
Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ, chắc là không bằng ông rồi! Ông thử
tự lượng xem chổ tu chứng có bằng hai bậc Đại Sĩ, và hai vị Tổ Sư; sự tham
ngộ có bằng ngài Thiện Tài cùng hải chúng, cảnh giới sở đắc và được Phật
hứa khả có bằng vua Tịnh Phạn và bà Vi Đề Hy chăng? Vã Tịnh Phạn
Vương là thân sanh của Phật, bảy muôn Thích chủng là tộc thuộc của Ngài,
nếu sự về Tịnh Độ không có lợi ích thì Đức Thế Tôn đâu nỡ khiến phụ
vương và hàng thân thuộc cầu vãng sanh? Trước kia đã nói bậc chứng được
Vô Sanh Nhẫn có thể vào tục độ sanh, nay vua Tịnh Phạn và người thân
thuộc của Phật đã đắc quả ấy mà Đức Như Lai còn khuyên và thọ ký cho
vãng sanh, thì tấm lòng hộ trì bảo dưỡng của Ngài há chẳng là thân thiết và
sâu xa ư?
Tôi thấy hàng thiền giả đời nay phần nhiều không xét liễu nghĩa của
Như Lai, chẳng rõ huyền cơ của Đạt Ma, bụng rỗng lòng cao, tập quen thành
bệnh cuồng vọng. Khi thấy người tu Tịnh Độ, họ khinh thường và cười bảo:
'Đó là việc làm thấp kém của hàng ngu phu ngu phụ!' Tôi thường cho đó
không phải khinh hạng ngu phụ ngu phu, mà chính là khinh các Ngài Văn
Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ; đó chẳng những tự mê chánh đạo, tự
làm mất căn lành mà còn tự bỏ quên huệ thân và tự để tiêu Phật chủng. Đó
cũng là tự gây ra tội báng Chánh Pháp, tự kết thành nghiệp khinh Thánh
Tăng. Chư Phật, Tổ xem những kẻ ấy là hạng người đáng thương xót! Vì lẽ
ấy nên Ngài Vĩnh Minh động mối bi tâm đem hết tâm can chủ trương Tịnh
Độ, đã tự tu lại khuyên đời. Nên khi lâm chung, Đại Sư biết trước ngày giờ,
có các điềm lành ứng hiện; lúc trà tỳ xá lợi tuôn ra vô số. Về sau có một vị
tăng ở Phủ Châu thường cung kính đi nhiễu xung quanh tháp của ngài, nhiều
người hỏi lý do thì vị tăng ấy đáp: 'Nhân lúc tôi bị bịnh nặng thần thức đi
vào minh giới, Diêm Vương xét thấy thọ số chưa mãn, cho đưa trở về. Khi
ấy tôi thấy bên phía tả đại điện có thiết bàn thờ di tượng một vị Đại Đức,
Diêm Vương lễ bái ân cần. Hỏi ra thì Quan Chủ lại bảo đó là chân dung của
Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư, vì ngài tu hành tinh tấn, được sanh về
Thượng Phẩm ở Cực Lạc, nên Diêm Vương họa tượng để thờ.' Vĩnh Minh
Đại Sư là bậc đã ngộ suốt môn thiền trực chỉ của tổ Đạt Ma, mà lại gởi chất
nơi phẩm sen thượng thượng bên trời An Dưỡng; những sự kiện ấy đủ giải
thích mối tình chấp của người tu thiền, còn làm duyên khuyến tấn cho chúng
sanh đời mạt pháp. Cho nên tôi nói ngài rất có công đối với bên tông cũng
như bên giáo là ở điểm nầy.
Song chẳng những chỉ có Vĩnh Minh Đại Sư mới như thế mà thôi. Ngoài
ra, còn có Tử Tâm Tân Thiền Sư đã ngộ bên Thiền, lại khuyên tu bên Tịnh.
Ngài đã bảo: Di Đà rất dễ niệm, Tịnh Độ rất dễ sanh. Người tham thiền niệm
Phật rất tốt. Nếu kẻ căn cơ hơi kém, sợ e đời nay chưa được đại ngộ, kiếp
sau dễ lạc bến mê, thì nên nhờ sức bi nguyện của Đức A Di Đà để sớm vãng
sanh về Cực Lạc. Nếu vị nào chí tâm niệm Phật mà không được sanh về
Tịnh Độ, lão tăng xin chịu đọa vào địa ngục Bạt Thiệt (ngục rút lưỡi). Lại
như Chân Yết Liễu Thiền Sư, trong bài văn khuyên tu Tịnh Độ, có nói: 'Tại
sao người trong tông Tào Động, ngoài sự tập thiền, còn mật tu Tịnh Độ? Sở
dĩ có việc ấy, vì pháp môn niệm Phật là con đường tắt trong các lối tu hành.
Xét trong Đại Tạng môn nầy ngoài sự tiếp dẫn bậc thượng thượng căn còn
thâu nhiếp hạng người trung hạ... Bậc đại tượng trong tông môn đã ngộ pháp
phi không phi hữu, lại chăm chú tu tịnh nghiệp, có phải sự thấy Phật cửa
Tịnh Độ còn giản dị hơn tông môn chăng? Cho nên dù Phật dù Tổ, hoặc
Giáo hoặc Thiền, đều do nơi cửa Tịnh Độ đồng về nơi chân nguyên. Vào
được môn nầy, tức có thể vào được vô lượng pháp môn khác...'
Đến như các ngài: Thiên Y Hoài Thiền Sư, Viên Chiếu Bản Thiền Sư,
Từ Thọ Thâm Thiền Sư, Nam Nhạc Tư Thiền Sư, Pháp Chiếu Thiền Sư,
Tịnh Yết Thiền Sư, Tịnh Từ Đại Thông Thiền Sư, Thiên Thai Hoài Ngọc
Thiền Sư, Lương Đạo Trân Thiền Sư, Đường Đạo Xước Thiền Sư, Tỳ Lăng
Pháp Chân Thiền Sư, Cô Tô Thủ Nạp Thiền Sư, Bắc Nhàn Giản Thiền Sư,
Thiên Mục Lễ Thiền Sư, những đại lão ấy là bậc tông tượng trong thiền
môn, song xét ra chỗ mật tu và hiển hóa đều phát dương ý chỉ Tịnh Độ, tuy
không ước hẹn mà ngẫu nhĩ đồng đường. Chẳng những các vị đại lão ấy như
thế mà thôi, tôi lại thường nghe một vị kỳ túc bên tông môn nói: 'Hầu hết
ngũ gia tông phái và những thiền tăng trong thiên hạ, đã tỏ ngộ cùng chưa tỏ
ngộ, đều quy hướng về Tịnh Độ.' Hỏi lý do thì vị đó đáp: 'Ngài Bá Trượng
Trí Hải Thiền Sư là đích tử của Giang Tây Mã Tổ, những tòng lâm trong
thiên hạ đều y theo cách thức của ngài mà kiến lập và thanh quy ở khắp
thiền môn đều y theo pháp chế của ngài mà cử hành. Từ xưa đến nay không
ai dám có lời thị phi và trái với pháp chế ấy. Theo thanh quy của ngài, thì
nghi thức tụng cầu cho những vị tăng bệnh nặng có lời văn như sau: 'Phải
nhóm chúng lại, tất cả đồng tụng bài kệ tán Phật A Di Đà, rồi cao tiếng niệm
Nam Mô A Di Đà Phật, hoặc trăm câu, ngàn câu. Khi niệm xong, hồi hướng
phục nguyện rằng: Nếu các duyên chưa mãn, sớm được an lành. Như hạn
lớn đến kỳ, sanh về A Dưỡng.' Đó chẳng phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh
Độ hay sao? Lại trong nghi thức đưa những vị tăng đã tịch có đoạn nói: 'Đại
chúng đồng niệm A Di Đà Phật hồi hướng phục nguyện rằng: Thần siêu cõi
tịnh, nghiệp dứt đường trần, thượng phẩm sen nở hiện kim thân, nhứt sanh
Phật trao phần quả ký.' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ hay
sao? Đến như lúc trà tỳ, trong thanh quy lại dạy: Vị Duy Na chỉ dẫn khánh
niệm Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật
mười lần, đại chúng đồng xướng họa theo.
Khi xướng xong, lại hồi hướng rằng: 'Trước đây xưng dương mười
niệm, phụ giúp vãng sanh...' Đó không phải là bằng chứng chỉ quy Tịnh Độ
hay sao? Cho nên lão tăng nói: 'Các thiền gia trong thiên hạ đều quy hướng
Tịnh Độ, là bởi nguyên nhân đó.' Tôi nghe những lời dẫn chứng của vị kỳ
túc ấy đều có y cứ, nên không biện bác ra sao được. Nhân đó tôi lại chợt
hiểu chỗ lập pháp của ngài Bá Trượng tất có thâm ý nhiệm mầu.
Nay ông ở tòng lâm, thân đã đưa không biết bao nhiêu vị tăng quy tịch,
tai cùng miệng đã nghe và xướng không biết bao nhiêu lần mười niệm, ý đã
chuyên chú hồi hướng về Tịnh Độ lại không biết bao nhiêu lần nữa! Thế mà
ông đã không hiểu ý Tổ Sư, đã không phát lòng thức tỉnh, lại lầm bảo:
những bậc ngộ đạt không nguyện vãng sanh. Quả thật cái bệnh chấp thiền
trong thiên hạ, không còn ai hơn ông được.
4. Hỏi:- Sự nhiếp cơ của Tịnh Độ quả thật là rộng, ngu giả không còn
dám luận bàn. Nhưng tôi thường nghe nói: 'Di Đà bản tánh, Tịnh Độ duy
tâm,' trong ý cũng có trộm mừng! Đến chừng xem qua các kinh luận về
tông nầy, thì Tịnh Độ là miền Cực Lạc ngoài muôn ức cõi. Di Đà là vị
giáo chủ ở Liên Bang. Như vậy thì kia đây cách xa, ngoài nghĩa lý duy
tâm bản tánh rồi! Thế là ý chỉ gì?
Đáp:- Chỗ hiểu ấy còn nông cạn hẹp hòi. Ông không biết rằng chân tâm
của ông rộng rãi và sáng suốt vô cùng? Kinh Lăng Nghiêm nói: 'Những non
sông đất liền cho đến hư không ở ngoài sắc thân ta, đều là cảnh vật trong
chân tâm mầu sáng.' Lại nói: 'Các pháp sanh hóa, đều là hiện cảnh của duy
tâm.' Thế thì đâu có cõi Phật nào ngoài tâm ta ư? Cho nên ý nghĩa của Tịnh
Độ duy tâm là nói cõi Tịnh Độ ở trong chân tâm của ta, như biển cả nổi lên
vô lượng bóng bọt, mà không có bóng bọt nào ở ngoài biển cả. Lại như
những hạt bụi nơi đất liền, không có hạt bụi nào chẳng phải là đất; cũng như
không có cõi Phật nào chẳng phải là tâm. Nên Tiên Thánh đã nói: 'Chỉ một
tâm nầy có đủ bốn cõi là: Phàm Thánh Đồng Cư, Phương Tiện Hữu Dư,
Thật Báo Vô Chướng Ngại, và Thường Tịch Quang.'
Cõi Phàm Thánh Đồng Cư có hai: Đồng Cư Tịnh Độ và Đồng Cư Uế
Độ. Đồng Cư Uế Độ là như cõi Ta Bà trong quốc độ nầy có phàm có thánh ở
chung lẫn, mà phàm và thánh đều có hai hạng. Hai hạng của phàm là ác
chúng sanh, tức bốn thú, và thiện chúng sanh, tức trời người. Hai hạng của
thánh là thật thánh và quyền thánh. Thật thánh là các thánh nhơn thuộc bốn
đạo quả, bậc Bích Chi Phật, bậc thất địa trong Thông giáo, thập trụ trong
Biệt giáo, thập tín hậu tâm trong Viên giáo. Những vị nầy phần thông hoặc
tuy dứt song sắc thân quả báo hãy còn, nên đều gọi là thật. Quyền thánh là
các vị Bồ Tát trụ ở những cõi Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang cùng bậc
Diệu Giác (Phật) vì làm lợi lạc cho kẻ hữu duyên nên ứng sanh vào cõi
Đồng Cư. Bởi tùy cơ thị hiện nên gọi là quyền. Những vị trên đây cùng với
phàm phu đồng ở, nên gọi là Phàm Thánh Đồng Cư, và cảnh cư trú về phần
khí thế giới, có hầm hố, gai gốc, bùn đất, cùng các tướng nhơ nhớp, về phần
hữu tình giới có bốn ác thú, nên gọi là Uế Độ. Đồng Cư Tịnh Độ là như cõi
Cực Lạc, tuy y báo chánh báo nơi đây trang nghiêm mầu nhiệm, không có
bốn ác thú, song cũng gọi Phàm Thánh Đồng Cư vì chúng sanh sanh về cõi
nầy không phải đều là bậc đắc đạo. Như trong kinh nói: 'Hạng người phạm
tội nặng, khi lâm chung chí tâm sám hối và niệm Phật, đều được vãng sanh.'
Do đó nên biết nơi cõi nầy chúng sanh còn hoặc nhiễm cũng có thể được ở.
Thế Giới Cực Lạc cũng có hai hạng Thánh Cư và bởi y báo chánh báo đều
sạch sẽ trang nghiêm, nên gọi là Tịnh Độ. Để nói rộng thêm, tuy gọi Tịnh
Độ nhưng thật ra trong ấy có nhiều hạng hơn kém không đồng. Như thế giới
Diệu Hỉ tuy là Tịnh Độ, song còn có nam nữ và núi Tu Di, và Tịnh Độ đã
như thế, uế độ cũng như vậy.
Cõi Phương Tiện Hữu Dư là chỗ ở của bậc Nhị Thừa và ba hạng Bồ Tát
đã chứng Phương Tiện Đạo. Những vị nầy do tu hai môn quán, dứt phần
thông hoặc, phá hết trần sa, bỏ thân phân đoạn thọ thân pháp tánh, tự tại ở
ngoài ba cõi; nhưng vì họ chưa đoạn được biệt hoặc vô minh nên còn có sự
biến dịch sanh tử. Sở dĩ gọi phương tiện vì đó là cảnh giới của hành nhơn tu
chứng Phương Tiện Đạo. Gọi hữu dư là bởi họ chưa đoạn được vô minh.
Cho nên trong Thích Luận nói: 'Ngoài tam giới có cõi Tịnh Độ, đây là chỗ
của hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật cư trú, thọ Pháp Tánh thân, không còn
sự phân đoạn sanh tử.'
Cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại là nơi không có hàng Nhị Thừa, chỉ
thuần là bậc pháp thân Bồ Tát ở. Những vị nầy phá từng phần vô minh,
chứng từng phần pháp tánh, được quả báo chân thật. Song vì họ chưa đoạn
hết vô minh nên còn nhuận vô lậu nghiệp, thọ báo thân pháp tánh, và cảnh
giới nầy cũng gọi là Quả Báo Độ. Kinh Nhân Vương nói: 'Ba hiền mười
thánh trụ quả báo' là chỉ cho sự việc trên đây. Sở dĩ gọi Thật Báo, vì các Đại
Sĩ ấy do quán thật tướng, phát được chân vô lậu thọ hưởng quả báo chân
thật. Gọi Vô Chướng Ngại là bởi chư Bồ Tát đây, tu chân không định, sắc
cùng tâm không ngăn ngại lẫn nhau. Trong Kinh Hoa Nghiêm thuyết minh
thế giới Nhân Đà La Võng, chính là cảnh nầy.
Cõi Thường Tịch Quang là chân lý pháp giới như như, sáng suốt cùng
cực của bậc Diệu Giác. Đây là Phật Tánh Chân Như, tức độ là thân, tức thân
là độ, thân và độ không hai, là trụ xứ của Đức Tỳ Lô Giá Na, cũng gọi là
Pháp Tánh Độ. Thường chính là đức pháp thân. Tịch là đức giải thoát.
Quang là đức bát nhã , như chữ Y (() có ba điểm, không thể cách lìa, một tức
là ba, ba nguyên vẫn một. Đây cũng gọi là Bí Mật Tạng, là cảnh giới du hóa
của Như Lai, cứu cánh chân thường, thanh tịnh cùng cực.
Hai cõi trước là chỗ ở của Ứng Thân Phật. Cõi thứ ba cũng thuộc về
Ứng cũng thuộc về Báo, mà chánh thức là chỗ ở của Báo Thân Phật. Cõi thứ
tư không phải Ứng và Báo mà kiêm cả Ứng, Báo, là chỗ ở của Pháp Thân
Phật.
Bốn cõi trên đây tùy theo chỗ tu chứng mà phân chia, song kỳ thật vẫn là
một. Cho nên chân tâm bao trùm muôn tượng, vô biên quốc độ như vi trần ở
khắp mười phương, chính là cảnh giới trong tâm ta, hằng sa chư Phật trong
ba đời, cũng là các Đức Phật trong tâm ta; tất cả không ngoài bản tâm mà có.
Hiểu được lý nầy thì biết không có cõi nào chẳng nương nơi tâm ta mà kiến
lập, không có vị Phật nào chẳng nương nơi tánh ta mà xuất sanh. Thế thì
miền Cực Lạc ngoài mười muôn ức cõi há chẳng phải là cảnh Tịnh Độ của
duy tâm ư?
Thế Giới Cực Lạc đã như thế, thì vị giáo chủ ở cõi ấy cũng là Đức Di Đà
của bản tánh. Nên biết chỉ một tâm nầy bao trùm đủ mười giới, thân và độ
dung thông, trùng trùng không ngại. Lại nên biết tâm, Phật, chúng sanh, ba
chính là một, đồng thể không khác nhau, chúng sanh và Phật hỗ hiện, mỗi
niệm giao tham. Cho nên cổ đức nói: 'Chúng sanh trong tâm chư Phật, mỗi
trần đều là Cực Lạc, chư Phật trong tâm chúng sanh, mỗi niệm chính thật Di
Đà. Mười phương tịnh uế gom về trong khoảng sát na. Một niệm sắc tâm,
bủa khắp gồm thâu pháp giới.' Xem thế thì biết tất cả đều sẵn đủ trong thể
thiên chân, không phải do duyên khởi mới thành lập. Một tâm niệm đã như
thế, một điểm trần lại khác chi? Vì vậy nên mới có thể: 'Trong mỗi mỗi trần
tất cả cõi. Trong mỗi mỗi tâm tất cả tâm. Mỗi mỗi tâm trần lại khắp nhau.
Trùng trùng không tận không chướng ngại. Đồng thời hiện rõ không ẩn hiển.
Tất cả viên thành chẳng kém hơn.' Cảnh giới chân tâm bao hàm vô biên
quốc độ trên đây, như lưới báu Thiên Châu của trời Đế Thích, bóng và ánh
sáng của bao nhiêu hạt châu đều gom hiện vào một hạt châu, bóng và ánh
sáng của một hạt châu lại hiện khắp vào tất cả các hạt châu khác. Tuy mỗi
mỗi hạt châu giao hiện lẫn nhau, nhưng hạt châu nầy không thể là hạt châu
kia, hạt châu kia không thể là hạt châu nầy, xen mà không tạp, lìa mà chẳng
phân, mỗi mỗi khắp bày, vẫn không sở tại! Thế giới Cực Lạc cho đến mười
muôn ức cõi mỗi miền cũng như một trong các hạt châu. Nói tinh tế hơn
khắp mỗi cõi từ tam thừa thánh nhơn cho đến trời, người, tu la, súc sanh, ngạ
quỉ, địa ngục, mỗi mỗi lại cũng như một trong các hạt châu. Và Đức A Di
Đà cũng là một trong các hạt châu. Cho nên, thấy một vị Phật, tức thấy mười
phương chư Phật, mà cũng là thấy chín giới chúng sanh ở khắp mười
phương. Cõi Phật vô biên, mười phương kim cổ toàn thể là một hải ấn đốn
viên, không còn pháp chi khác nữa!
Như thế thì, thần trải qua mười muôn ức cõi, chính hóa sanh trong bản
tâm ta; chất gởi nơi chín phẩm hoa sen, há cách biệt ngoài chân như Phật?
Những lời dẫn giải trên đây đều là những minh huấn của Phật, Tổ, Thánh,
Hiền đã tuyên dương vậy. Hiểu được lý này tất sẽ thấy thế giới Cực Lạc là
duy tâm, mỗi cõi Phật mỗi điểm trần đều là duy tâm; Đức Di Đà là bản tánh,
mỗi vị Phật mỗi chúng sanh cũng đều là bản tánh. Như thế lại còn chi phải
nghi ngờ?
Lời phụ:
Pháp giới chân tâm là một thể rộng rãi vô biên, bao hàm vi trần thế giới,
chư Phật và chúng sanh. Trong thể nhất chơn ấy, phần thế giới chúng sanh
luôn luôn biến đổi, thuộc về sanh diệt môn; phần tịch quang lặng mầu sáng
suốt và thường hằng, gọi là chân như môn. Chân tâm là một thật thể chung,
gồm hai môn hữu vi và vô vi đó. Tất cả những danh từ: Chân Tâm, Bản
Tánh, Bản Thể, Phật Tánh, Như Lai Tạng, Pháp Giới, Pháp Tánh, Thật
Tướng, Niết Bàn, Pháp Thân, Vô Cấu Bạch Tịnh Thức, Như Lai A Lại Da
Thức, Bản Lai Diện Mục, Bát Nhã, Chân Không, đều là chỉ cho thật thể ấy.
Để trở về thật thể nầy, giáo môn của Phật chia làm hai. Các tông như: Thành
Thật, Tam Luận, Thiên Thai, Thiền, Thai Tạng Bộ của Mật Giáo, từ nơi
không môn mà đi vào. Còn các tông: Câu Xá, Pháp Tướng, Luật, Hoa
Nghiêm, Tịnh Độ, và Kim Cang Bộ của Mật Giáo, lại do nơi hữu môn mà
thể nhập. Cho nên những vị hiểu sâu về lý Bát Nhã của Thiền, hay lý huyền
môn của Hoa Nghiêm, đều nhận rõ sắc chẳng khác không, không chẳng khác
sắc, sắc chính là không, không chính là sắc. Trái lại, các vị học chưa thấu
đáo, nếu không chấp có tất cũng chấp không. Nhưng chấp có thì còn biết
kiêng sợ nhân quả, lánh dữ làm lành, đời sau hưởng phước nhân thiên, hoặc
chuyên niệm Phật lại có thể sanh về Tịnh Độ. Đến như chấp không tất sẽ đi
đến chỗ bài nhân quả, bác Phật Thánh, tương lai bị đọa xuống tam đồ. Cho
nên tiên đức đã răn bảo: 'Thà chấp có như non Tu, chớ chấp không như hạt
cải!'
Vị thiền giả trên, vì chưa nhận rõ chân tâm, nên nghe nói 'duy tâm Tịnh
Độ, bản tánh Di Đà', vội hiểu lầm rằng tâm mình thanh tịnh đó là Tịnh Độ là
Di Đà rồi, chớ không có cõi Cực Lạc hay Đức Di Đà nào khác nữa. Phật
Pháp dù ở xứ nào, Trung Hoa hay Việt Nam cũng có hạng người tà kiến
chấp không ấy. Đại khái họ bác không có Di Đà, Cực Lạc, không có địa
ngục, thiên cung, hoặc như nói Địa Tạng là tâm địa tánh tạng, chớ không có
Đức Địa Tạng nào cả. Như người đeo cặp kiến đen thì thấy nơi nào cũng tối
tăm, những kẻ ấy dù có giảng thuyết bao nhiêu lời, diễn dịch bao nhiêu kinh
sách, kết cuộc cũng lạc vào bịnh không chấp. Những kẻ chấp không thường
tự cao tự mãn, cho mình là cao siêu, bác người là chấp tướng. Xét ra khi
diễn dịch kinh, họ cũng có tâm muốn hoằng dương Phật Pháp, không dè
ngược lại thành ra kết quả hủy báng Tam Bảo; tự mình đã sai lầm, khiến cho
bao nhiêu người khác bị lầm lạc theo. Ví như kẻ dung y đem tâm muốn cứu
đời, chẳng ngờ sự học hiểu về y dược không rành, trở lại làm cho nhiều
người thêm bịnh.
Cho nên sự dịch kinh, thuyết pháp, vị tất là có phước, là hoằng dương
Phật Giáo nếu hành giả lạc vào tà kiến, không hiểu ý kinh.
5. Hỏi:- Đã gọi tịnh uế dung thông, mỗi điểm trần đều là Cực Lạc, tại
sao cõi Ta Bà lại thành uế độ?
Đáp:- Do nghiệp cảm của phàm phu, chính nơi tịnh mà thành uế. Còn
Phật nhãn nhìn xem tất cả uế đều thành tịnh. Báo cảnh của Đức Thích Ca, há
phải thật là uế ư?
6. Hỏi:- Lý duy tâm bao gồm tất cả, viên dung không ngại, tôi đã tin là
rộng lớn, là nhiệm mầu. Nhưng kẻ còn trệ nơi tình mê, chưa lìa nghiệp
uế, làm sao mà được thanh tịnh?
Đáp:- Tâm nhơ thì cõi nhơ, tâm sạch thì cõi sạch. Kinh Duy Ma nói:
'Muốn được Tịnh Độ, trước phải tịnh tâm; tùy tâm thanh tịnh, cõi Phật thanh
tịnh.' Pháp tu Tịnh Độ là một môn huyền diệu để đi đến chỗ tịnh tâm, không
còn phương tiện nào đặc biệt hơn nữa!
7. Hỏi:- Về phần đại khái của pháp môn Tịnh Độ, tôi có thể nghe được
chăng?
Đáp:- Tịnh Độ nguyên không chi tu, tu nhân bởi mê lầm mới có; pháp
môn vẫn không cao thấp, cao thấp do căn lành mà phân. Vì chúng sanh căn
cơ sai biệt nhau, nên pháp tu cũng có nhiều cách. Tuy nhiên, nếu tóm lại, có
thể chia thành ba môn là: quán tưởng, ức niệm, và chúng hạnh.
Môn thứ nhất, nói quán tưởng là như trong Quán Kinh dạy: 'Chư Phật
Như Lai là thân pháp giới, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Cho
nên khi tâm các ông tưởng Phật, thì tâm ấy chính là 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp
tùy hình, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ
nơi tâm tưởng mà sanh. Vì thế các ông phải nhớ nghĩ và quán tưởng kỹ thân
Đức Phật kia.'
Thiên Thai Sớ nói: Mấy chữ chư Phật Như Lai sắp xuống, là thuyết
minh tất cả chư Phật; mấy chữ phải nhớ nghĩ sắp xuống, là chỉ cho quán
tưởng riêng Đức A Di Đà. Pháp giới thân là pháp thân của Báo Phật. Tâm
chúng sanh tịnh, pháp thân tự hiện, nên gọi là vào; như khi vầng hồng nhật
mọc lên tất bóng hiện xuống trăm sông. Đây là chỉ cho Phật thân tự tại, có
thể tùy vật hiện hình vậy. Lại pháp giới thân là chỉ cho thân Phật, khắp tất cả
chỗ, lấy pháp giới làm thể. Khi hành giả chứng được môn quán Phật Tam
Muội nầy, giải nhập tương ưng, nên nói vào trong tâm tưởng. Tâm nầy làm
Phật là Phật nguyên vẫn không, nhân chúng sanh tâm tịnh mới có. Tâm nầy
là Phật, ý nói trước nghe bảo: Phật nguyên vẫn không, nhân chúng sanh tâm
tịnh mới có, sợ e người hiểu lầm cho rằng bổng nhiên mà có, nên mới nói là
Phật. Mới khởi tu quán nên nói làm, sự tu đã thành nên gọi là.
Diệu Tông Thích nói: 'Muốn tưởng thân Phật, phải hiểu rõ quán thể. Thể
đó là bản giác, từ nơi đây mà khởi thành pháp quán. Bản giác là thân pháp
giới của chư Phật, vì chư Phật không sở chứng chi khác, toàn chứng bản
tánh của chúng sanh. Nếu thỉ giác có công, bản giác mới hiển, nên nói 'pháp
thân từ nơi tâm tưởng mà sanh.' Lại Đức Di Đà cùng tất cả chư Phật đồng
một Pháp thân một trí huệ, sự ứng dụng cũng như vậy. Hiển được thân Đức
Di Đà tức là hiển được thân chư Phật, tỏ được thân chư Phật tức là lộ được
thể Di Đà. Cho nên trong văn kinh nói rộng qua chư Phật để kết về sự quán
tưởng Đức A Di Đà. Từ mấy chữ thân pháp giới trở xuống là nói về sự giao
cảm của đạo cảm ứng và ước về lý giải nhập tương ưng.
Phê bình về hai lời giải trên, ngài Dung Tâm đã nói: 'Nếu không có lời
giải trước, thì môn quán tưởng ấy không phải là quán Phật; như không có lời
giải sau, e học giả hiểu lầm rằng thể của chúng sanh và Phật, khác nhau. Hai
lối giải đã tác thành cho nhau mà thuyết minh quán pháp vậy.'
Môn thứ hai, nói ức niệm là hành giả hoặc duyên theo tướng tốt, hoặc trì
danh hiệu của Phật, đều gọi là ức niệm. Môn nầy có lý có sự. Trong Kinh
Hoa Nghiêm, Giải Thoát trưởng giả nói: 'Nếu tôi muốn thấy Đức Vô Lượng
Thọ Như Lai và thế giới An Lạc, thì tùy ý liền được thấy. Tôi có thể biết rõ
tất cả chư Phật, quốc độ tùy thuộc, cùng những việc thần thông của các
Ngài. Bao nhiêu cảnh tướng trên đây, không từ đâu mà đến, không đi về đâu,
không có xứ sở và không chỗ trụ; cũng như thân tôi không thật có đi, đứng,
tới lui. Các Đức Như Lai kia không đến chỗ tôi, tôi cũng không đi đến chỗ
của các Ngài. Sở dĩ như thế, vì tôi hiểu rõ tất cả chư Phật cùng với tâm
mình, đều như mộng. Lại hiểu tự tâm như nước trong chum, các pháp như
hình bóng hiện trong nước. Tôi đã ngộ tâm mình như nhà huyễn thuật, tất cả
chư Phật như cảnh huyễn hóa. Lại biết chư Phật Bồ Tát trong tự tâm, đều
như tiếng vang, như hang trống tùy theo âm thanh mà phát ra tiếng dội lại.
Vì tôi ngộ giải tâm mình như thế nên có thể tùy niệm thấy Phật.'
Về đoạn kinh trên, ngài Trinh Nguyên giải rằng: 'Từ câu đầu đến mấy
chữ chỗ của các ngài chính là thuyết minh lý duy tâm, nếu ngộ tức tâm mà
vô tâm liền vào chân như Tam Muội. Khi hành giả hiểu rõ các cảnh tướng
đều hư huyễn, duy tâm hiện ra, đã ngộ duy tâm và tức tâm là Phật, thì tùy
chỗ tưởng niệm, không đâu chẳng là Phật. Đoạn sau nêu ra bốn điều thí dụ:
cảnh mộng là dụ cho lý không đến không đi, hình bóng trong nước là dụ cho
lý không ra không vào, tướng huyễn hóa là dụ cho lý chẳng có chẳng không,
tiếng vang là dụ cho lý chẳng tan chẳng hợp. Và dụ thứ nhất là nói toàn thể
đều duy tâm, dụ thứ hai nói vì duy tâm nên không, dụ thứ ba nói vì duy tâm
nên giả dụ, thứ tư nói vì duy tâm nên trung. Bốn dụ đều đủ bốn quán gồm
thông và biệt để hiển lý duy tâm, tất cả vẫn viên dung không ngại, đó là ý
Kinh Hoa Nghiêm.'
Nếu hành giả hiểu rõ lý trên đây, rồi chấp trì bốn chữ A Di Đà Phật,
không dùng tâm có, tâm không, tâm cũng có cũng không, tâm chẳng phải có
chẳng phải không, dứt cả quá khứ hiện tại vị lai mà niệm, đó gọi là lý ức
niệm. Và ngày đêm sáu thời cứ như thế mà nhiếp tâm trì niệm không cho
gián đoạn, không sanh một niệm thì chẳng cần vượt giai tầng mà đi thẳng
vào cõi Phật. Đây cũng gọi là lý nhất tâm.
Về sự ức niệm, như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: 'Nhớ Phật niệm Phật,
hiện đời hoặc đương lai nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa, không
cần mượn phương tiện chi khác mà tâm tự được khai ngộ.' Hay như các kinh
sách khác đã chỉ dạy, hoặc hệ niệm suốt một đời, hoặc trì niệm trong ba
tháng, bốn mươi chín ngày, một ngày đêm, cho đến bảy ngày đêm, hoặc mỗi
buổi sớm mai giữ mười niệm. Nếu hành giả dùng lòng tin sâu, nguyện thiết,
chấp trì câu niệm Phật như rồng gặp nước, như cọp dựa non, thì được sức
Phật gia bị đều vãng sanh về Cực Lạc. Theo trong kinh, cho đến hạng phàm
phu tạo tội ngũ nghịch thập ác, nếu khi lâm chung chí tâm xưng danh hiệu
Phật mười niệm, cũng được vãng sanh. Và đây gọi là sự nhất tâm.
Nói tóm lại, lý nhất tâm là người thông đạt bốn lý quán trên, dùng tâm
ấy mà niệm Phật, tương ưng với không huệ, đi đến chỗ thuần chơn. Sự nhất
tâm là hành giả tâm còn giữ niệm, mỗi niệm không cho xen hở, đi đến chỗ
không còn tạp niệm. Lý nhất tâm là hành môn của bậc thượng căn, sự nhất
tâm thông về hàng trung hạ.
Môn thứ ba, nói chúng hạnh là hành giả dùng nhiều hạnh để vãng sanh
về Cực Lạc. Như trong Kinh Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Bồ Tát khuyến tấn
Thiện Tài Đồng Tử và đại chúng nơi hải hội dùng mười đại nguyện vương
cầu sanh Tịnh Độ. Mười đại nguyện ấy là: lễ kính chư Phật, khen ngợi Như
Lai, rộng tu sự cúng dường, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ các công đức,
thỉnh Phật chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ ở đời, thường theo Phật tu học,
hằng tùy thuận chúng sanh, và hồi hướng khắp tất cả. Trong mỗi nguyện ấy
đều có nói: khi nào cõi hư không, cõi chúng sanh, nghiệp chúng sanh, phiền
não của chúng sanh hết, thì nguyện tôi mới hết. Và hành giả phải dùng ba
nghiệp thân, khẩu, ý, thật hành nguyện đó không gián đoạn, không chán
mỏi. Đến khi lâm chung, tất cả mọi thứ tùy thân đều để lại, cho đến các căn
đều tan rã, duy đại nguyện ấy hằng theo bên mình trong khoảng sát na hành
giả liền được sanh về Cực Lạc. Đây là nói về dùng nguyện lực để vãng sanh.
Lại như trong Kinh Đại Bảo Tích, Đức Thế Tôn bảo ngài Di Lặc: 'Mười
thứ tâm nầy, không phải hạng phàm ngu, bất thiện, kẻ nhiều phiền não có
thể phát được. Mười thứ tâm ấy là gì?
1- Đối với chúng sanh khởi lòng đại từ, không làm tổn hại.
2- Đối với chúng sanh khởi lòng đại bi, không làm bức não.
3- Với chánh pháp của Phật, hết lòng hộ trì, không tiếc thân mạng.
4- Với chánh pháp sanh lòng thắng nhẫn, không chấp trước.
5- Tâm điềm tĩnh an vui, không tham sự lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng.
6- Tâm cầu chủng trí của Phật trong tất cả thời không quên lảng.
7- Đối với chúng sanh khởi lòng tôn trọng cung kính, không cho là hạ
liệt.
8- Không tham trước thế luận, với phần Bồ Đề sanh lòng quyết định.
9- Tâm thanh tịnh không tạp nhiễm, siêng trồng các căn lành.
10- Đối với chư Phật, xả ly các tướng, khởi lòng tùy niệm.
Đây là mười thứ phát tâm của Bồ Tát, do tâm nầy nên được vãng sanh.
Nếu có kẻ nào thành tựu một trong mười tâm trên, muốn sanh về thế giới
Cực Lạc mà không được như nguyện, đó là điều không khi nào có.' Đoạn
kinh trên là nói về dùng tâm lực để vãng sanh.
Lại nữa, như trong Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, Đức Quán Thế Âm Bồ
Tát bạch Phật: 'Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi,
mà còn bị đọa vào ba đường ác, tôi thề không thành Chánh Giác. Tụng trì
thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành
Chánh Giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng Tam Muội
biện tài, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, tất cả sự
mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được như nguyện, thì chú nầy không
được gọi là Đại Bi Tâm Đà La Ni; duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ
tâm không chí thành.' Ngoài ra, những kẻ chí tâm trì tụng các chú như: Bạch
Táng Cái, Chuẩn Đề, Vãng Sanh, đều có thể sanh về Cực Lạc hoặc các Tịnh
Độ khác. Đây là nói về dùng thần lực để vãng sanh.
Và, như trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: 'Muốn sanh về Cực Lạc,
phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ bi
không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ kỹ các giới,
không phạm oai nghi. 3. Phát lòng Bồ Đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh
điển đại thừa, khuyến tấn người tu hành. Ba thứ phước nầy là chánh nhân
tịnh nghiệp của chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.' Đây là nói về dùng
phước lực để vãng sanh.
Ngoài ra những kẻ cất chùa, xây tháp, tạo tượng, lễ bái tán tụng, giữ gìn
trai giới, đốt hương, rải hoa, cúng dường tràng phang bảo cái, trai tăng bố
thí, nếu hạnh lành thuần thục, dùng lòng tín nguyện hồi hướng, đều có thể
vãng sanh. Các điều dẫn ra trên đây gọi là chúng hạnh. Nhưng nguyện hạnh
đã có lớn nhỏ không đồng, lý sự sai biệt, thì việc thấy Phật, nghe pháp, cảm
thọ y chánh tất cũng có hơn kém khác nhau, đây là chỉ nói phần đại lược.
Lời phụ:
Muốn sanh về Cực Lạc, hành giả có thể dùng một trong các hạnh:
nguyện lực, tâm lực, thần lực, phước lực để hồi hướng, không phải chỉ đặc
biệt có môn quán tưởng hay trì danh. Tuy nhiên, trong bốn phương pháp ấy,
người tu phải thật hành cho đến độ công đức tinh thuần, hạnh lành thành tựu
mới có hy vọng. Mà kẻ dung thường thì nghiệp chướng nặng không dễ gì
đoạn, hạnh lành khó không dễ gì thành, duy có hạnh trì danh nương cầu nơi
tha lực, là chắc chắn nhất. Cho nên, Ấn Quang Pháp Sư đã nói: 'Hạng phàm
phu kém cỏi mà được vãng sanh, toàn là nhờ từ lực của Như Lai.' Vậy người
niệm Phật đời nay muốn cho phần vãng sanh được đảm bảo, nên lấy sự trì
danh làm phần chánh, còn các công đức như: tụng kinh, trì chú, bố thí và
những hạnh lành khác, để vào phần trợ, mới là đường lối an toàn.
Trong ba môn của ngài Thiên Như trình bày, đại khác môn thứ nhất nói
về Thật Tướng Niệm Phật, hạng trung hạ khó hành trì. Môn thứ ba, thì hạng
dung thường, nhiều nghiệp duyên, cũng ít có hy vọng, chỉ nên dùng làm
phần trợ. Duy phương pháp sự trì danh thuộc môn thứ hai là mọi người đều
có thể thật hành và có hy vọng thành tựu. Tuy nhiên, vì căn tánh của chúng
sanh khác nhau, ngài phải nói cho đủ để mọi người tùy sở thích mà lựa chọn.
Về phần dịch giả chỉ căn cứ theo phần đông hạng dung thường đời nay mà
biện minh sự lợi hại thế thôi.
8. Hỏi:- Tôi nghe Thiện Tài Đồng Tử là bậc viên đốn lợi căn, một đời
được chứng quả. Sao Đức Phổ Hiền không khuyên ngài sanh về cõi Hoa
Tạng mà lại khuyên sanh về Cực Lạc, là ý thế nào?
Đáp:- Trong Hoa Nghiêm Sớ có lời hỏi ấy. Sớ bản đã đáp: 'Việc đó hàm
ẩn nhiều lý do: vì có nhân duyên, vì để tâm niệm được quy nhứt, vì không
lìa cõi Hoa Tạng, vì tức là bản sư.' Hai lý do trước dễ hiểu. Lý do thứ ba là
trong thế giới Hoa Tạng có vi trần cõi Phật, miền Cực Lạc cách đây mười
muôn ức Phật độ, tất cả đều không ngoài số sát chủng ấy. Lý do thứ tư là
như trong kinh nói: 'Hoặc thấy pháp hội Phật Vô Lượng Thọ, có nhiều vị Bồ
Tát như Quán Thế Âm vi nhiễu, liền khen ngợi thân dị hóa của Đức Tỳ Lô
Giá Na. Tỳ Lô Giá Na Như Lai là Giáo Chủ cõi Hoa Tạng, Đức A Di Đà đã
là thân dị hóa của ngài thì đâu có khác chi ngài, vì thế nên mới nói 'tức là
bản sư.' Trong ấy lại nói: 'Phổ Hiền Bồ Tát vì Thiện Tài và hải chúng kết
khuyến về Cực Lạc bởi ngài Thiện Tài là bậc tin hiểu viên thông, vào trí
Văn Thù, tu hạnh Phổ Hiền, phước huệ và sự lý đều xứng hợp pháp giới. Đó
là bậc đại tâm, tuy đã ngộ thể bản minh, đồng hàng với chư Thánh, nhưng vì
lực dụng chưa đầy đủ, không thể nhập thế làm lợi ích khắp quần sanh như
các Đức Như Lai. Vì thế Phổ Hiền Bồ Tát khuyên ngài, cho đến hải chúng,
nương về Tịnh Độ, gần gũi Di Đà, không ngoài ý muốn cho tất cả được mau
chứng quả Phật.'
9. Hỏi:- Trong môn chúng hạnh nói: 'Nguyện hạnh đã có lớn nhỏ
không đồng, lý sự sai biệt, thì việc thấy Phật, nghe pháp, cảm thọ y chánh,
tất cũng có hơn kém khác nhau; thế thì hai môn quán tưởng ức niệm,
nhân tu không đồng, sự cảm tướng có khác nhau chăng?
Đáp:- Việc ấy cố nhiên là phải khác. Vì thế ngài Vĩnh Minh đã bảo: 'Sự
vãng sanh có chín phẩm, không phải đồng một bậc. Hoặc có kẻ nương về
hóa quốc, thấy ứng thân của Phật; hoặc có vị sanh nơi báo độ, thấy chân thể
của Như Lai; hoặc có kẻ trải qua nhiều kiếp, mới chứng quả tiểu thừa, hoặc
có vị vừa sanh một đêm liền siêu lên thượng địa. Nói tóm lại, vì người vãng
sanh căn hạnh không đồng, có độn căn lợi căn, có định ý tán ý, nên hoa nở
có sớm muộn, quả chứng có chậm mau, thời hạn rất là cách biệt.' Từ Vân
Sám Chủ cũng bảo: 'Tuy chia ra chín phẩm nhưng đó chỉ là lược phân; nếu
tế phân lẽ ưng phải có vô lượng phẩm.'
10. Hỏi:- Cực Lạc chỉ là cõi Đồng Cư, không phải cõi Thật Báo, tại
sao lại nói: 'hoặc có vị sanh nơi báo độ, thấy chân thể của Như Lai?'
Đáp:- Ông cho rằng có cõi Thật Báo ở riêng ngoài cõi Đồng Cư hay
sao? Nên biết ba cõi kia không lìa cõi Đồng Cư mà có, chỉ khác là thân, cảnh
và sự thọ dụng không đồng nhau thế thôi! Như trong kinh nói: 'Thân của
Phật A Di Đà cao sáu mươi muôn ức na-do-tha hằng hà sa do tuần.' Các bậc
cổ đức bình giải cho đó là thân Thật Báo. Chẳng những thế giới Cực Lạc có
bốn độ không đồng, mà các cõi khác cũng đều như vậy. Nên ngài Kinh Khê
nói: 'Ngay cõi Ta Bà nầy có đủ bốn độ. Như đương thời hải hội Hoa Nghiêm
không lìa Thệ Đa Lâm, mà các bậc đại Thanh Văn vẫn không nghe thấy và
hay biết.'
11. Hỏi:- Nếu cõi Ta Bà có đủ bốn độ, thì chỉ nên ở tại đây mà lần lượt
tu hành, cần chi phải cầu sanh Cực Lạc?
Đáp:- Cõi nầy tuy đủ bốn độ, nhưng vì thuộc về Đồng Cư Uế Độ, nên
người tu khó trừ nghiệp nhiễm. Muốn thoát ly nhiễm nghiệp, hành giả phải
cầu sanh về Đồng Cư Tịnh Độ ở Liên Bang. Nên Tứ Minh Tôn Giả nói: 'Cõi
Ta Bà cảnh duyên trược ác nặng, người tu phải chứng đến vị thập tín mới
thoát khổ luân. Miền Cực Lạc cảnh duyên thắng diệu nên khi về chín phẩm
đều lên hàng bất thối. Ông há không nghe trong Kinh Pháp Hoa nói có
những vị thọ giáo với Đại Thông Trí Thắng Như Lai, từ đó đến nay đã trải
qua số kiếp như bụi nhỏ của vô lượng vô biên cõi Phật mà còn ở nơi địa vị
Thanh Văn hay sao? Ấy đều bởi do mãi thối chuyển nên phải trải qua thời
kiếp lâu xa. Chẳng hạn như ngài Xá Lợi Phất tiền kiếp đã chứng đến lục trụ
mà còn thối tâm, huống nữa là hạng tu hành lơ láo ư? Nói chung, ở cõi nầy
vì có nhiều chướng duyên, nên người tu dễ bị lui sụt. Nên tiên đức đã bảo:
'Số lượng Bồ Tát mới phát tâm nhiều như bông xoài trứng cá, nhưng kết
cuộc còn lại không được bao nhiêu.'
Nếu kẻ nào biết hướng về Cực Lạc, nhờ thắng duyên bên cõi ấy, dù cho
hạng phàm phu thấp thỏi, cũng lên ngay ngôi bất thối. Đây là lý do tất yếu
trong sự cầu sanh, mà các hành nhơn nên suy gẫm kỹ.
12. Hỏi:- Trong mười phương, cõi đồng cư Tịnh Độ rất nhiều. Nay lại
riêng chỉ thế giới Cực Lạc và duy khen cảnh duyên ở cõi ấy thắng diệu, là
tại sao?
Đáp:- Kinh Phật Thuyết A Di Đà nói: 'Chúng sanh ở cõi ấy không có các
sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên gọi là Cực Lạc.' Cảnh duyên ở Cực
Lạc rất thù thắng, có nhiều sự kiện thuận lợi cho chúng sanh nơi cõi nầy hơn
các Tịnh Độ khác, mà tâm lượng của phàm phu trong tam giới không thể
thấu hiểu được. Nay xin tạm đem cảnh duyên ở Ta Bà đối chiếu để so sánh
lược qua:
Ở cõi nầy loài người bẩm thọ thân hình huyết nhục, có sanh là có khổ;
cõi kia thì chúng hữu tình đều hóa chất nơi hoa sen, không còn sự khổ về
sanh. Ở cõi nầy thời tiết đổi dời, con người lần lần đi đến cảnh già yếu; cõi
kia là thế giới trường xuân, không có đêm, ngày, nóng, lạnh, chúng sanh
không bị sự khổ suy già. Ở cõi nầy con người thân tứ đại khó điều hòa, dễ
sanh nhiều bệnh hoạn; cõi kia thì chúng sanh thể chất kim cương thơm sạch,
không có sự khổ về yếu đau. Ở cõi nầy con người ít ai sống đến bảy mươi,
cơn vô thường mau chóng; cõi kia thì chúng sanh thọ số đến kiếp lượng vô
biên, không có sự khổ về chết. Ở cõi nầy con người bị sợi dây thân tình ái
luyến ràng buộc, chịu đau khổ vì nỗi tử biệt sinh ly; nơi cõi kia chúng sanh
hóa thân nơi hoa sen, không có cha mẹ vợ con, nên không bị khổ về ân tình
chia cách. Ở cõi nầy ai không có kẻ thương người ghét, nên khi oán thù gặp
gỡ tất phải chịu nhiều nỗi phiền não gian truân; nơi cõi kia toàn là bậc thiện
nhơn dắt dìu giúp đỡ lẫn nhau, không có sự khổ về oan gia hội ngộ. Ở cõi
nầy con người phần nhiều nghèo khổ thiếu kém, dù kẻ giàu sang cũng có
biết bao ước vọng không thành; nơi cõi kia, sự thọ dụng về ăn, mặc, ở, các
thứ trân bảo, bao nhiêu điều mong muốn, đều được hóa hiện tự nhiên, chúng
sanh an vui, không có nổi đau buồn về thất vọng. Ở cõi nầy con người hoặc
hình thể xấu xa, các căn không đủ; cõi kia chúng sanh đều có 32 tướng tốt,
thân kim cương xinh đẹp, có ánh quang minh. Ở cõi nầy chúng sanh xoay
vần trong nẻo luân hồi, nơi cõi kia bậc thượng thiện đều chứng Vô Sanh
Pháp Nhẫn. Ở cõi nầy có đủ bốn ác thú khổ não; nơi cõi kia tên ba ác đạo
hãy còn không. Ở cõi nầy nhiều gò nổng hang hố, rừng rậm chông gai, dẫy
đầy các tướng nhơ ác; nơi cõi kia thì vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu
chói trân châu, hoa đua bốn sắc. Ở cõi nầy thì Song Lâm đã khuất, Long Hoa
còn xa; nơi cõi kia, Di Đà Thế Tôn hiện đang thuyết pháp. Ở cõi nầy thì
Quán Âm, Thế Chí, luống mến danh lành; nơi cõi kia, chư Bồ Tát thượng
nhơn hằng làm thắng hữu. Ở cõi nầy thì các ma cùng ngoại đạo, làm não
loạn bậc chánh tu; nơi cõi kia, Phật hóa tinh thuần, ngoại ma tuyệt tích. Ở
cõi nầy thì sắc thinh danh lợi, khiến mê hoặc người tu; nơi cõi kia, y chánh
sạch nghiêm, không còn duyên nhiễm. Ở cõi nầy thì ác thú muỗi mòng,
khiến hành nhơn không yên ổn; nơi cõi kia, nhạc cây chim nước, hằng nói
pháp âm.
So sánh lược qua hai cõi, cảnh duyên hơn kém thật đã cách xa, nếu nói
cho kỹ thì sự ưu liệt làm sao kể xiết! Tuy nhiên tóm lại phần khái yếu cũng
không ngoài hai quan điểm: một là vì cảnh Cực Lạc thù thắng, nên có thể
khích phát lòng mong mến và quy hướng của loài hữu tình; hai là duyên liên
quốc nhiệm mầu, nên có thể giúp ích cho người vãng sanh dễ tiến mau trên
đường tu chứng. Vì thế, cõi Đồng Cư Tịnh Độ ở mười phương tuy nhiều,
song riêng cõi Cực Lạc có đầy đủ thắng duyên, các kinh luận đều chỉ quy,
cũng do lẽ đó.
13. Hỏi:- Trong mười phương có vô số chư Phật, những chúng sanh
hữu tâm đều có thể thân cận. Nay lại riêng suy cử Đức A Di Đà, là tại
sao?
Đáp:- Trong ấy có ba lý do: Vì Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng, vì
chúng sanh ở cõi này có nhân duyên lớn với Ngài, và vì sự giáo hóa của hai
Đức Thế Tôn ở Tây Phương và Đông Độ liên quan nhau.
Về nguyên nhân thứ nhứt, như kinh Vô Lượng Thọ nói: Đức A Di Đà
trong thời kỳ tu nhân, đã phát nhiều thệ nguyện rộng lớn. Phần khái yếu
trong các lời nguyện ấy là: 'Khi tôi thành Phật, nếu có chúng sanh nào muốn
sanh về nước tôi, siêng tu các căn lành và chí tâm xưng danh hiệu tôi cho
đến mười niệm, như kẻ ấy không được vãng sanh thì tôi thề không thành
chánh giác. Kẻ nào đã sanh về nước tôi mà còn bị thối chuyển và không
quyết định được thành Phật, tôi thề không thành chánh giác.' Nên trong Hoa
Nghiêm Sớ nói: 'Phật A Di Đà có lời thề sâu nặng nguyện tiếp dẫn chúng
sanh ở cõi Ta Bà.'
Về nguyên nhân thứ hai, khi Phật Thích Ca còn ở đời, chúng sanh nghe
lời từ huấn, quy hướng về Đức A Di Đà rất nhiều. Từ khi Đức Thế Tôn niết
bàn về sau, không luận là hàng tăng tục nam nữ, giàu nghèo sanh hèn, kẻ đã
nghe chánh pháp hay chưa biết gì về Phật Giáo vẫn thường xưng niệm danh
hiệu A Di Đà Phật. Dù cho hạng hung dữ, kẻ không lòng tin, khi gặp cảnh
nguy khốn tai nạn, hay lúc vui mừng, thán oán, bất giác cũng kêu gọi A Di
Đà Phật. Cho đến trẻ nhỏ khi chơi đùa vẫn thường nắn hình, vẻ tượng Phật
A Di Đà; người hát xướng hay đứa hài nhi năm ba tuổi nói năng chưa rành,
cũng biết niệm A Di Đà Phật. Sự không ai khuyến khích mà vẫn biết niệm
ấy không phải do nhân duyên là gì? Lại như trong kinh Vô Lượng Thọ, Đức
Thế Tôn đã bảo: 'Nay ta nói kinh nầy khiến cho chúng sanh được thấy Phật
Vô Lượng Thọ và quốc độ của Ngài. Những kẻ muốn bước lên đường giải
thoát, nên cầu vãng sanh. Pháp môn nầy mọi người đều có thể tu, chớ vì ta
diệt độ rồi mà sanh lòng nghi hoặc. Trong đời đương lai, khi tam tạng giáo
điển đã diệt hết, ta dùng nguyện lực từ bi, duy lưu kinh nầy trụ thế một trăm
năm. Những chúng sanh nào có duyên được gặp, tùy ý mong cầu thảy đều
đắc độ.' Lại nói: 'Sau khi kinh nầy diệt rồi, Phật pháp hoàn toàn mất hẳn
trong đời, chỉ còn lưu truyền bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh;
kẻ nào không tin mà hủy báng, sẽ bị đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ.'
Vì lẽ đó, nên ngài Thiên Thai nói: 'Phải biết Đức Phật kia đối với cõi trược
nầy, có nhân duyên rất lớn.'
Về nguyên nhân thứ ba, thì các vị tiên giác đều bảo: 'Đức Thích Ca ứng
sanh nơi cõi uế, đem các duyên: nhơ ác, khổ não, vô thường, chướng nạn,
mà chiết phục chúng sanh, khiến cho họ sanh lòng nhàm chán mà tu theo
chánh đạo. Đức Di Đà hiện thân nơi cõi tịnh, dùng các duyên: trong sạch, an
vui, lâu dài, không thối chuyển mà nhiếp hóa loài hữu tình, khiến cho họ
khởi tâm ưa mến mà trở lại nguồn chân. Hai bậc Thánh Nhơn đã dùng hai
môn chiết và nhiếp làm cho chánh giáo lưu hành, nên sự hóa độ có liên quan
nhau. Lại Đức Bổn Sư ngoài sự chỉ dạy ba thừa để giáo hóa chúng sanh, đặc
biệt nói thêm môn Niệm Phật để nhờ Đức A Di Đà tiếp dẫn những kẻ còn
chưa được độ. Vì thế, trong các kinh đại thừa, Đức Thế Tôn đã ân cần dặn
bảo, luôn luôn khen ngợi và khuyến khích sự vãng sanh.'
Ba lý do trên đây đã nói rõ tại sao Đức A Di Đà được riêng suy cử, trong
số mười phương chư Phật.
14. Hỏi:- Về việc duy chỉ cõi Cực Lạc, riêng suy cử Đức A Di Đà, cùng
những ý nghĩa: chiết, nhiếp, chán, ưa, tôi đã nghe lời diệu chỉ. Nhưng
thiết tưởng chân tâm vẫn bình đẳng trong lành, nếu còn niệm chán ưa,
tức là còn sự ghét, yêu, lấy, bỏ. Như thế có lỗi hay chăng?
Đáp:- Ông chưa hiểu sâu về việc trên, nên mới có lời hỏi ấy. Sự chán ưa
đó không phải là lòng yêu ghét của thế gian, mà chính là đường lối chung để
chuyển phàm thành thánh của mười phương chư Phật. Nếu không chán bỏ,
làm sao chuyển phàm; nếu không có ưa lấy, làm sao thành thánh?
Cho nên từ phàm phu đi đến thánh vị, từ thánh vị đi đến Đẳng Giác,
khoảng thời gian tăng tiến đó, đều ở trong vòng lấy bỏ chán ưa. Chừng nào
hành nhơn đã chứng đến ngôi cực quả là Diệu Giác, mới không còn sự lấy
bỏ chán ưa, vào thể như như bình đẳng. Vì thế tiên đức đã bảo: 'Người tu
trước tiên phải có lấy bỏ để đi đến chỗ không lấy bỏ. Khi sự lấy bỏ đã chí
cực, thì cùng với sự không lấy bỏ vẫn đồng nhau.' Huống chi pháp môn Tịnh
Độ vốn do Đức Thích Ca và Di Đà kiến lập, một vị khuyến khích cầu sanh,
một vị giữ phần tiếp dẫn; nếu người tu tịnh nghiệp không có niệm chán bỏ
thì làm sao lìa cõi Ta Bà, không có tâm ưa cầu, làm sao sanh về Cực Lạc?
Sự sanh về Tịnh Độ chẳng qua là mượn thắng duyên bên cõi ấy để mau
thành quả Bồ Đề, thì việc lấy bỏ chán ưa đã không có công lớn thì thôi, sao
lại cho là có lỗi?
15. Hỏi:- Thuyết lấy bỏ đã đúng, tôi không còn dám luận bàn. Song
việc vãng sanh chẳng biết có trái với lý vô sanh hay chăng?
Đáp:- Ngài Thiên Thai đã bảo: 'Người trí sốt sắng cầu sanh Tịnh Độ,
song hiểu rõ sanh thể vốn không. Đó chính là lý sanh mà vô sanh, và tâm
tịnh cõi Phật thanh tịnh. Kẻ ngu bị cái sanh ràng buộc, nghe nói sanh hiểu là
thật có sanh, nghe nói vô sanh lại nhận lầm rằng không sanh về đâu cả. Đâu
biết sanh tức là vô sanh và vô sanh há lại ngại gì sanh ư?' Trường Lô Thiền
sư nói: 'Cho sanh là thật có sanh, lạc vào lỗi chấp thường; cho vô sanh là
không có sanh, lạc vào lỗi chấp đoạn. Sanh mà không sanh, không sanh mà
sanh, mới chính thật đệ nhất nghĩa đế.' Thiên Y Thiền Sư cũng bảo: 'sanh thì
quyết định sanh, song về vẫn thật không về.' Lý thuyết của ba Đại Sư trên, ý
nghĩa rất rõ ràng; nay tôi xin đem hai chữ tánh, tướng để giải thích rộng
thêm. Về phần tánh thì chân tâm mầu lặng, thể nó vốn tự không sanh. Về
phần tướng thì khi nhân duyên hòa hợp, trong chân tâm vẫn huyễn hiện ra
các tướng sanh diệt. Vì tánh hay hiện tướng, nên nói vô sanh tức là sanh. Vì
tướng do tánh mà hiện, nên gọi sanh tức là vô sanh. Hiểu được nghĩa nầy thì
sanh về Tịnh Độ, tức là sanh trong thể duy tâm, sanh mà không sanh, lý đâu
có trái!
16. Hỏi:- Thuyết vãng sanh, ý nghĩa đã rõ ràng. Song về việc đó, hàng
học giả đời nay, trong ngàn muôn người, mấy ai được thông hiểu? Vì thế
họ đều nghi rằng miền Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi, lộ trình đã
xa vợi, khi mạng chung làm sao có thể đến nơi? Chẳng biết Đại Sư có
phương sách gì để thuyết minh việc ấy chăng?
Đáp:- Mối nghi ấy thật đã vớ vẫn! Tôi đã nhiều lần nói ngoài tâm không
độ, ngoài độ không tâm, mà ông còn chưa hiểu sao? Song việc ấy không chi
khác, chỉ vì nhiều người đã nhận lầm rằng tâm mình thuộc vào phạm vi nhỏ
hẹp ở trong sắc thân. Họ đâu ngờ đó chỉ là vọng thức, mà thật ra chân tâm
của mỗi người rộng rãi vô biên, bao trùm sa giới, đầy khắp thái hư. Cho nên
mười phương hư không vô tận vô cùng, hằng sa thế giới vô biên vô số, đều
bị tâm lượng của ta bao trùm và đầy khắp tất cả. Xem thế thì biết mười
muôn ức cõi chỉ ở trong tâm ta, kỳ thật rất gần, có chi là xa? Và khi mạng
chung được vãng sanh, cũng chỉ sanh ở trong tâm ta, kỳ thật rất dễ, có chi là
khó? Thập Nghi Luận nói: 'Mười muôn ức cõi là đối với tâm lượng của hạng
nhục nhãn phàm phu ở trong nẻo luân hồi mà nói đó thôi. Nếu đối với chúng
sanh tịnh nghiệp thành tựu, thì tâm ở trong định khi lâm chung, chính là tâm
thọ sanh về Tịnh Độ, vừa động niệm liền được vãng sanh. Vì thế trong Quán
Kinh nói: 'cõi nước của Phật A Di Đà cách đây không xa.' Lại nghiệp lực
không thể nghĩ bàn, trong niệm liền được sanh về cõi Phật, không cần phải
lo đường lối xa xôi. Ví như người nằm mơ, thân tuy ở nơi giường mà tâm đi
khắp các nơi xa lạ như lúc còn thức. Sự sanh về Tịnh Độ đại để cũng như
vậy.
Các kinh có chỗ nói trong khoảng khảy ngón tay, liền được vãng sanh.
Có chỗ nói khoảng co duỗi cánh tay, hoặc nói trong khoảnh khắc. Nên Tự
Tín Lục đã bảo: 'Trong khoảnh khắc liền vượt qua mười muôn ức cõi, vì tự
tâm vốn nhiệm mầu.' Những điểm thí dụ trên đại ý chỉ cho: vì sanh trong
chân tâm rộng lớn của mình, nên rất dễ và rất gần đó thôi. Hãy gác qua việc
chân tâm rộng, nay tôi chỉ căn cứ nơi tâm lượng phàm phu nhỏ hẹp của ông,
lập ra một thí dụ cho dễ hiểu: Ví như từ đây sang sứ Tây Thiên Trúc, lộ trình
trải qua nhiều nước và xa hơn mười muôn dặm. Có người tuy chưa đi đến
Tây Thiên, nhưng nghe kẻ khác đã đi rồi trở về thuật lại rành rẽ, để ý ghi
nhớ kỹ nơi lòng. Về sau người ấy trong khi ngồi nằm, bỗng động niệm nhớ
lại việc trước, suy nghĩ trải qua ngàn dặm đến nước nào, muôn dặm đến
nước nào, và kết cuộc đến xứ Thiên Trúc ra làm sao; liền thấy hiện ra cảnh
giới của mỗi giai đoạn, lúc nghĩ tới đâu như thấy mình thân hành đến ngay
nước đó. Sự vãng sanh về Cực Lạc cũng không ngoài đạo lý ấy, trong
khoảng khảy ngón tay hoặc trong một niệm liền đi đến, có chi là khó khăn
ư? Nếu ông không tu Tịnh Độ mà muốn đến Cực Lạc, cố nhiên là khó; như
tịnh nghiệp của ông thành tựu thì sự đi đến rất dễ dàng. Chỉ cần quyết tâm là
sẽ được mãn nguyện, Phật Thánh không khi nào có lời nói dối đâu!
17. Hỏi:- Không tu tịnh nghiệp, tất khó vãng sanh, đó là điều chắc
chắn. Nhưng tại sao hàng phàm phu nghịch ác khi lâm chung cũng có thể
vãng sanh? Điểm ấy tôi còn chưa hiểu và có chỗ nghi ngờ, mong Đại Sư
chỉ dạy rành rẽ?
Đáp:- Trong Quán Kinh đã dạy: 'Hạ phẩm hạ sanh là như có người tạo
tội ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc không lành, do vì ác nghiệp, nên
đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp, chịu khổ vô cùng!
Nhưng khi lâm chung, kẻ ấy được gặp thiện tri thức an ủi và thuyết pháp cho
nghe, khuyên phải nhớ tưởng đến Phật; song đương nhơn vì bị sự khổ bức
bách nên không nhớ tưởng được. Thiện hữu lại bảo: 'Nếu ông không thể nhớ
Phật, thì hãy chí tâm xưng Nam Mô A Di Đà Phật âm thanh liên tiếp nhau
cho đủ mười niệm.' Người ngu ác kia vâng lời hết lòng xưng danh, nên trong
mỗi niệm diệt được tội nặng nơi đường sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Khi
người ấy niệm Phật, bỗng thấy hoa sen vàng chói sáng như vầng nhựt hiện
ra ở trước, trong khoảng một niệm, đương nhiên liền được sanh về thế giới
Cực Lạc và kế tiếp đó phải ở trong hoa sen mãn mười hai đại kiếp. Khi hoa
sen nở ra, kẻ ấy thấy Đức Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi, vì
mình nói thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn
nghe pháp rồi tự nhiên vui vẻ, phát tâm Vô Thượng Bồ Đề.'
Đoạn kinh trên chỉ rõ cảnh tướng của bậc hạ phẩm hạ sanh. Mười hai đại
kiếp ở trong hoa sen, tuy thời gian có lâu xa, nhưng người vãng sanh thấy
mình ở trong một bầu thế giới riêng biệt, hưởng thọ sự vui như chư thiên nơi
cung trời Đao Lợi. Vì thế cổ đức đã bảo: 'Trong hoa vui vẻ như Đao Lợi.
Khác hẳn thai phàm của thế gian.'
Theo Quán Kinh Sớ, thì người nghịch ác mà được vãng sanh, là do khi
lâm chung, kẻ ấy chí tâm niệm Phật, nên tội chướng được tiêu trừ. Thế thì ý
của Sớ Văn cho sự niệm Phật là thắng duyên vãng sanh. Riêng tôi, sau khi
tham khảo các kinh luận và sớ giải về Tịnh Độ, lại ước kết trong ba nghĩa:
Điều thứ nhất, hành nhơn chỉ niệm Phật trong thời gian ngắn ngủi mà có
thể thắng nổi nghiệp ác trọn đời, là do nhờ tâm lực rất mạnh mẽ ý chí cực
quyết định; đó gọi là đại tâm. Tình cảnh ấy ví như người bị quân giặc vây
khổn, đang lúc nguy cấp, do liều chết không kể đến thân mạng, nên phát
được sức dũng mãnh cùng cực, xông phá vượt ra khỏi trùng vi.
Điều thứ hai, kẻ ấy tuy tạo ác, song hoặc hiện đời đã có tu Tam Muội,
nên khi lâm chung nghe người nhắc bảo, định lực được dễ thành. Đây cũng
thuộc về hạng người, mà trong nhà Phật gọi là thừa cấp giới huởn. Nếu
đương nhơn hiện đời không tu Tam Muội, tất đời trước cũng đã có huân tu.
Hạt giống lành ấy nay đã đến thời kỳ thuần thục, nên khi lâm chung gặp
thiện tri thức khuyên bảo, kẻ đó nương nơi túc thiện nghiệp, trong mười
niệm mà được thành công.
Điều thứ ba, nếu không phải do công tu trong hiện đời hay nghiệp lành
về kiếp trước, tất khi lâm chung kẻ ấy đã niệm Phật với lòng sám hối tha
thiết cùng cực. Nên ngài Vĩnh Minh nói: 'Vì thể nhân duyên vốn không, nên
nghiệp thiện ác chẳng định; muốn rõ đường siêu đọa, phải nhìn nơi tâm niệm
kém hơn. Cho nên một lượng vàng ròng thắng nổi bông gòn trăm lượng,
chút lửa le lói đốt tiêu rơm cỏ muôn trùng.'
Một trong ba nhơn duyên trên, cộng thêm công đức của Phật hiệu,
nguyện lực của Di Đà, nên khi lâm chung kẻ nghịch ác mới thắng được tội
khiên, sanh về Cực Lạc.
18. Hỏi:- Sống trong đời ác năm trược, mỗi người đều có tội; giả sử
không tạo tội nặng ngũ nghịch, thì cũng vương vào các lỗi khác. Nếu có
người không sám hối, hoặc sám hối mà tội chưa tiêu diệt hết, khi bình
thời và lúc lâm chung đều chí tâm niệm Phật, thì có được vãng sanh hay
chăng?
Đáp:- Những kẻ hành trì như thế đều được vãng sanh, do nhờ sức đại
nguyện không thể nghĩ bàn của Đức A Di Đà. Kinh Na Tiên nói: 'Như đem
tảng đá thật to để trên thuyền, do nhờ sức thuyền nên đá không bị chìm và
được chuyển sang bờ bên kia. Nếu không có thuyền thì dù đem hạt cát để
xuống nước, hạt cát ấy cũng vẫn bị chìm.' Tảng đá to dụ cho người nghiệp
nặng, hạt cát dụ cho người nghiệp nhẹ, chiếc thuyền dụ cho nguyện lực của
Phật. Người dù nghiệp nặng bao nhiêu mà biết ăn năn chí tâm niệm Phật thì
cũng được Phật tiếp dẫn, ví như tảng đá to được thuyền chở qua bờ bên kia.
Kẻ nghiệp tuy nhẹ mà không niệm Phật, khi mạng chung sẽ tùy nghiệp chịu
khổ luân hồi, ví như hạt cát bị chìm, bởi không thuyền chuyên chở. Cho nên
trong nhà Phật có thuyết đới nghiệp vãng sanh, là còn mang nghiệp mà được
sanh về Tây Phương, chính ý nghĩa đó. Trong Tịnh Độ văn, đoạn nói về bốn
cõi cũng bảo: 'Người còn đủ hoặc nhiễm, vẫn được sanh về Đồng Cư Tịnh
Độ.' Như Hùng Tuấn, Trương Chung Quỳ, và một người ở Phần Châu đều
lấy nghiệp đồ sát làm nghề sanh sống; khi lâm chung cả ba người kẻ thì thấy
bầy trâu ồ ạt kéo đến muốn chém, kẻ lại thấy thần nhơn đuổi bầy gà đến mổ
khắp cả mình và đôi mắt, làm cho máu chảy ướt giường. Nhưng nhờ chí tâm
niệm Phật, nên cả ba đều thoát khỏi nghiệp nê lê (địa ngục), được sanh về
Cực Lạc. Sự tích nầy có chép rõ trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục. Những việc
trên đây không phải bằng chứng của Phật lực là gì?
Xin đem một thí dụ nữa để nói rõ: Như có người phạm pháp quan đáng
lẽ phải bị tù ngục, nhưng kẻ ấy biết cầu cứu với vua, nhờ che chở cho để chờ
lúc lập công; do vua tuyên triệu nên quan không thể gia hình. Đương nhơn
nhờ đó mà đi thẳng đến đế kinh, không ai cầm bắt được. Cho nên bộ Tây Tư
Sao nói: 'Chúng sanh được về Tịnh Độ là do nhờ Đức Thích Ca chỉ đường,
Phật A Di Đà tiếp dẫn, và chư Phật mười phương đều hộ niệm. Như người
qua biển cả, đã được thuyền to, lại nhờ tay lương đạo, thêm vào đó sức gió
thuận, nên có thể mau đến bờ bên kia. Nếu còn không chịu bước lên thuyền,
lưu liên nơi miền ác địa, đó là lỗi của ai ư?'
19. Hỏi:- Trước đã nói: 'Hàng phàm phu cũng được lên ngôi bất thối.'
Theo thiển ý, ngôi bất thối là để cho hạng người không ác nghiệp. Nay
những kẻ đới nghiệp vãng sanh mà cũng được bất thối ư?
Đáp:- Chỉ được vãng sanh là đều lên hàng bất thối chuyển. Kinh nói:
'Những kẻ sanh về, đều trụ nơi chánh định tụ.' Lại nói: 'Ở cõi Cực Lạc,
chúng sanh nào sanh về đó, đều là bậc A Bệ Bạt Trí.' Thập Nghi Luận nói:
'Có năm nhân duyên khiến cho người vãng sanh không thối chuyển: 1- Do
nguyện lực đại bi của Phật nhiếp trì. 2- Ánh sáng của Phật thường soi đến
thân, nên lòng Bồ Đề của chư thiện nhơn luôn luôn tăng tiến. 3- Chim, nước,
rừng cây, gió, âm nhạc, thường phát ra tiếng pháp: khổ, không, vô thường,
vô ngã; hành giả nghe rồi sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. 4-
Chúng sanh được sanh về Cực Lạc, thì bạn lành toàn là bậc Bồ Tát thượng
thiện, tuyệt tất cả chướng nạn, ác duyên, lại không ngoại đạo, tà ma, nên tâm
thường an tịnh. 5- Đã được sanh về cõi ấy, thì thọ lượng vô cùng, đồng với
Phật và Bồ Tát, an nhiên tu tập trải qua vô biên A Tăng Kỳ kiếp,' Cổ đức
cũng bảo: 'Không nguyện sanh Tịnh Độ thì thôi, có thật nguyện tất đều được
vãng sanh. Không sanh Tịnh Độ thì thôi, đã vãng sanh tất đều được bất thối
chuyển.'
20. Hỏi:- Kẻ một đời tạo ác, khi lâm chung duy niệm Phật, đã được đới
nghiệp vãng sanh, lại còn không thối chuyển; nguyện lực của Đức A Di
Đà thâm diệu, thật không thể nghĩ bàn! Vậy thì bây giờ tôi tạo tác theo
duyên đời, đợi khi sắp chết rồi sẽ niệm Phật có được chăng?
Đáp:- Khổ thay! Lời ấy rất ngu muội sai lầm, còn nguy hiểm hơn thứ
rượu độc, đã hại mình lại làm hại lây đến hàng tăng ni, người, thiện tín trong
đời nữa! Sở dĩ hàng phàm phu nghịch ác khi lâm chung biết niệm Phật, là do
từ trước họ đã có căn lành, phước đức, nhân duyên, nên mới được gặp thiện
tri thức, mới khởi lòng tin tưởng và phụng hành. Đó là việc cầu may trong
muôn một, đâu phải mỗi người đều được như thế? Luận Quần Nghi nói:
'Trong đời có mười hạng người khi lâm chung không niệm Phật được: 1-
Không gặp bạn lành, nên chẳng ai khuyên niệm. 2- Nghiệp khổ bức thiết,
không yên ổn rỗi rảnh để niệm Phật. 3- Trúng phong cứng họng, không thể
xưng danh Phật. 4- Cuồng loạn mất trí, không thể chú tâm tưởng niệm. 5-
Thoạt gặp tai nạn nước lửa, mất sự điềm tỉnh chí thành. 6- Bỗng gặp cọp beo
ác thú làm hại. 7- Khi lâm chung bị bạn ác phá hoại lòng tin. 8- Gặp bạo
bịnh hôn me bất tỉnh mà qua đời. 9- Bị trúng thương thoạt chết giữa quân
trận. 10- Từ trên cao té xuống mà mạng vong.'
Mười sự kiện trên đây là những việc thường nghe thấy, không luận tăng,
tục, nam, nữ, hạng nào cũng có thể bị vướng vào. Đó là do túc nghiệp hoặc
hiện nghiệp chiêu cảm, nên sự việc bỗng nhiên xảy ra, không còn trốn tránh
kịp. Ông đã không phải là bậc thánh nhơn chứng túc mạng thông, biết được
khi lâm chung có nghiệp hay không nghiệp, lại chẳng phải là bậc đủ tha tâm,
thiên nhãn, biết mình khi mạng chung chết tốt hoặc xấu, mà bình thời không
niệm Phật, đến khi lâm chung nếu rủi mắc phải một trong mười duyên ác đó,
thì sẽ liệu ra sao? Chừng ấy dù có Phật sống hay bao nhiêu thiện tri thức
đứng vây quanh cũng không làm thế nào cứu được, và thần thức ông sẽ tùy
theo nghiệp đi vào chốn tam đồ bát nạn, nhiều kiếp chịu khổ, biết có còn
được nghe danh hiệu của Phật như ngày nay chăng?
Giả sử ông không bị những ác duyên đó, chỉ bịnh sơ sài rồi mãn phần,
thì lúc sắp chết bốn đại phân ly, gân xương rút chuyển, thân tâm đau đớn
kinh hoàng, như con đồi mồi bị lột vảy, con cua rớt vào nước sôi, làm sao
mà niệm Phật? Dù cho ông không bịnh mà chết một cách yên ổn nữa, khi
lâm chung hoặc e duyên đời chưa dứt, niệm tục còn vương, nỗi tham sống sợ
chết làm cho tâm ý rối loạn phân vân cũng không niệm Phật được. Nếu là
người tục, thì lại thêm gia vụ chưa xong xuôi, việc sau chưa sắp đặt, vợ kêu
con khóc, trăm mối ưu tư cũng không rỗi rảnh để niệm Phật. Chẳng đợi lúc
lâm chung, giả sử trước khi ông chưa chết mà có chút bịnh nơi thân, phải
gắng chịu sự đau khổ, rên rỉ không yên, tìm thuốc hỏi thầy, nhờ người cầu
an sám hối, tạp niệm rối ren, chưa dễ nhiếp tâm niệm Phật. Dù lúc ông chưa
có bịnh, thì bị tuổi cao sức yếu, đủ sự kém suy, áo não buồn than, chỉ lo sự
việc trên cái thân già còn chưa xong, chắc chi đã niệm Phật? Ví như lúc ông
chưa già, thân lực đang cường tráng, mà còn đeo việc thế, chưa dứt niệm
đời, bôn tẩu đông tây, âu lo đủ việc, biển thức mênh mang, làm sao có thể
niệm Phật? Dù ông được muôn duyên rỗi rảnh, có chí tu hành, nhưng đối với
tướng thế gian, nếu nhìn không thấu, nắm không vững, dứt không xong, khi
xúc đối với ngoại duyên không thể tự chủ, tâm tùy theo cảnh mà điên đảo
làm sao yên chí để niệm Phật?
Ông thử nghĩ xem, chỉ khi già, bịnh, cho đến thuở mạnh khỏe an nhàn
nếu còn một việc đeo đẳng nơi lòng, cũng không thể chánh tâm niệm Phật,
huống nữa là đợi đến lúc lâm chung ư? Phương chi, ông lại còn nói tạo tác
theo duyên đời, đó phải chăng là lời si mê, là chỗ dụng tâm rất nên lầm lỗi?
Vã sự nghiệp thế gian, như giấc mơ, trò huyễn, như bóng bọt, tiếng vang, chỉ
thoáng chốc rồi không, nó có lợi ích chi thiết thật cho ông trên đường giải
thoát? Dù cho ông có tạo được chùa chiền qui mô rộng lớn, gây nên thanh
thế địa vị cao tôn, kết thân với nhiều kẻ quyền chức sanh giàu, trong tâm tự
hào cho đó là đã thành công nơi đường tu, đâu ngờ thật ra chính lại phạm
nhằm điều răn của tiên thánh! Bởi cổ đức từng khuyến giới rằng: 'Người
xuất gia phải chí thú nơi sự giải thoát, đừng quá đua theo công nghiệp hữu
vi, vì trong ấy có nhiều lầm lỗi, e cho thiên đường chưa thấy, địa ngục đã
trước! Nếu việc sống chết chưa xong, thì tất cả công nghiệp hữu vi đều là
nguyên nhân của sự khổ. Một mai nhắm mắt đi rồi, tùy theo nghiệp mà thọ
báo, chừng ấy mới hay việc đã làm là trên gông cùm thêm xiềng xích, dưới
vạc nóng thêm củi than, mãnh pháp y đã mất nơi thân, nẻo dị loại đổi hình
muôn kiếp!'
Qua mấy lời trên, nếu người có chí giải thoát, biết cảm thương thân thế
của mình, phải nên động lòng rơi lệ! Tổ sư đã tha thiết khuyên răn như thế,
đâu có hứa cho ông tạo tác duyên đời, rồi đợi khi lâm chung mới niệm Phật
ư?
Ông há không thấy Tử Tâm Thiền Sư bảo: 'Trong đời, những người tiền
của như núi, thê thiếp đầy nhà, đâu phải họ không muốn trẻ mãi để ngày
đêm hưởng phước báo thế gian? Nhưng vì kiếp sanh có hạn, tháng năm thúc
dục tuổi già, cái chết há thiên vị kẻ giàu sang, sức nghiệp đâu nể kiêng người
tài trí? Chừng ấy tội hành nghiệp cảm, còn chi là thói phong lưu; kiếp trả
đền vay, luống hối cho đời phóng đảng! Những việc vừa nói, thế nhân hầu
hết mắt đã từng thấy và tai cũng đã từng nghe. Người đời thường lần lựa chờ
khi lớn tuổi, việc nhà xong xuôi rồi sẽ niệm Phật, nhưng cái chết đâu có hẹn
trẻ hay già, và tuy nói như thế, đã mấy ai tuổi cao mà biết lo niệm Phật? Cổ
nhơn bảo: 'Chớ đợi đến già rồi niệm Phật. Đồng hoang mồ trẻ đã nhiều đây!'
Lại nói: 'Con người từ lúc còn trẻ, có gia đình rồi đến nuôi con cái, trong
cuộc sanh sống phải chịu biết bao là nỗi khổ nhọc đắng cay! Khi hơi thở đã
tàn thì gia đình tiền của, tất cả đều bỏ lại hết, chỉ theo nghiệp mà đi. Nếu là
con có nghĩa thì nó khóc cho ít tiếng, đốt cho mấy xấp giấy tiền, rước thầy
tụng cho năm ba bộ kinh, rồi đến ngày lại sắm cơm canh cúng quảy; đó gọi
là còn biết tưởng nhớ đến mẹ cha. Rủi gặp con bất hiếu, thì cha mẹ vừa
nhắm mắt, đầu xương chưa lạnh, nó đã lo tranh nhà giành đất, cãi cọ kiện
thưa, khi được phần rồi lại phung phí ăn chơi, thậm chí lãng quên ngày cúng
giổ. Việc đời kết cuộc bất quá chỉ như thế, có điều chi đáng hẹn chờ! Cho
nên bậc hiểu rộng thấy xa, phải sớm niệm Phật tu hành, con cháu mỗi người
tự có phước riêng, kẻ làm cha mẹ chỉ lo bổn phận phần nào mà thôi, chớ vì
nó suốt đời làm thân trâu ngựa!' Xin dẫn thêm ra đây mấy lời của cổ đức:
'Cười thương kẻ giàu sang. Lo giàu thêm rộn ràng! Hủ gạo sanh sâu mọt.
Kho tiền đầy ngổn ngang. Ngày cầm cân suy nghĩ. Đêm đốt đuốc tính toan.
Hình hài trơ lẩn thẩn. Tâm trí rối bàng hoàng. Vô thường khi chợt đến. Biển
nghiệp sóng mênh mang!'
Ngài Tử Tâm đã tha thiết nhắc khuyên như thế, đâu có hứa cho ông tạo
tác duyên đời rồi đợi đến khi lâm chung mới niệm Phật ư?
Cho nên ông phải xét nghĩ kiếp người mong manh ngắn ngủi, như lửa
nhán thân đá, như chớp giật lưng trời, mới còn đó đã mất đi, có chi là trường
cửu? Phải nhận định cho chắc, rồi thừa lúc chưa già chưa bịnh, gác qua thế
sự, rủ sạch thân tâm, được một ngày quang âm lo một ngày niệm Phật, được
một khắc rỗi rảnh tu một khắc công phu, đến lúc lâm chung mọi việc đã an
bài, trời tây cũng sẵn mở lối đường quang đãng! Bằng chẳng thế khi duyên
nghiệp đáo đầu, chừng ấy ăn năn đã muộn! Nên suy nghĩ kỹ!
21. Hỏi:- Lời ngu giả đã thành lỗi lầm, dù có dong xe bốn ngựa cũng
không thể vớt lại kịp! Nghe qua mấy điều Đại Sư chỉ dạy, ai lại chẳng
lạnh lòng! Hiềm vì nổi lòng người tuy dễ tinh tiến song cũng dễ thối lui,
khi nghe lời khuyên nhắc thì dõng mãnh siêng năng, lúc gặp việc chi
chướng ngại lại giãi đãi thối lui ngả theo hướng khác. Phần đông đều
bảo: kết quả của sự niệm Phật có lẽ đợi sau khi chết rồi; còn hiện tại chỉ
thấy nhọc nhằn mà không lợi ích chi thiết thật cả. Phải chăng đó cũng là
duyên cớ thích đáng trong sự thối tâm biếng trễ của người tu?
Đáp:- Chỗ thấy của ông chưa được rộng. Trong kinh nói: Người nào chí
tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười điều thắng lợi:
1- Ngày đêm thường được tất cả chư thiên, đại lực thần tướng và hằng sa
quyến thuộc ẩn hình ủng hộ.
2- Thường được hai mươi lăm vị Đại Bồ Tát như Đức Quán Thế Âm và
tất cả Bồ Tát theo thủ hộ bên mình.
3- Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm; Đức A Di Đà thường phóng
ánh sáng nhiếp thọ người ấy.
4- Tất cả ác quỷ như Dạ Xoa, La Sát đều không thể làm hại. Tất cả rồng
độc, rắn độc và thuốc độc đều không thể xâm phạm.
5- Không bị những tai nạn như: nước trôi, lửa cháy, giặc oán, đao tên,
gông xiềng, tù ngục, hoạch tử.
6- Những nghiệp ác về trước lần lượt tiêu diệt. Những oan mạng bị
đương nhơn giết, nhờ công đức niệm Phật, đều được giải thoát, không còn
theo báo phục.
7- Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành hay thấy sắc thân
thắng diệu của Phật A Di Đà.
8- Tâm thường an vui, nhan sắc sáng nhuận khí lực đầy đủ, việc làm có
kết quả tốt đẹp.
9- Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ, hoặc hoan hỷ lễ bái cũng
như kỉnh Phật.
10- Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm hiện ra, được thấy
Phật A Di Đà và các Thánh Chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về
Cực Lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm mầu.
Mười điều lợi ích như trên chính do kim khẩu nói ra, mà kinh văn đã ghi
chép lại. Niệm Phật đã có lợi ích trong hiện tại và tương lai như vậy, thì đó
chính là pháp khẩn yếu trong các môn thế và xuất thế gian. Cho nên người tu
chỉ gắng tinh tấn, đừng mang tâm niệm hoài nghi.
22. Hỏi:- Về môn niệm Phật, nhờ ơn nhiều phen chỉ dạy, nên các mối
nghi đã tiêu tan, và lòng chánh tín cũng đã khai phát. Nhưng trước đã
nói: 'Gác qua thế sự, rủ sạch thân tâm,' mà người đời hoàn cảnh đều
khác nhau; kẻ được rảnh rỗi thuận duyên thì có thể tuân hành, người bị
trăm việc buộc ràng phải làm sao để tu tập?
Đáp:- Nếu người tu biết thống cảm cảnh vô thường và thiết tha vì sự giải
thoát, thì dù gặp duyên thuận nghịch khổ vui, động tịnh gấp huởn, hoặc khi
tiếp tân đãi khách, lo việc công tư, đối xử muôn duyên, ứng thù tám mặt,
cũng không ngại gì đến sự niệm Phật. Cổ nhơn đã bảo: 'Non cao khó đón
đường mây bạc. Trúc rậm khôn ngăn ngọn suốt trong!' Lại nói: 'Mai lại A Di
Đà. Chiều cũng A Di Đà. Dù gấp như tên bắn. Không rời A Di Đà.' Cho nên
muôn cảnh vẫn nhàn, tự mình náo động, nếu người thiết thật cầu về Cực Lạc
và biết cách dụng tâm, thì không có duyên nào làm trở ngại được sự tu niệm
cả.
Tuy nhiên, những kẻ năng lực kém yếu, việc đời bận nhiều, phải nên
trong gấp cố tìm chút thời giờ rảnh, trong động gắng giữ niệm lắng yên, rồi
tùy sức niệm Phật hoặc nhiều hoặc ít. Mỗi ngày nên định khóa hoặc ba
muôn hay một muôn câu, ba ngàn hay một ngàn câu, và giữ mực thường
hằng, đừng cho gián đoạn. Nếu vị nào duyên sự quá nhiều, ít có giây phút
rỗi rảnh, thì mỗi buổi sớm mai tu theo pháp Thập Niệm Hồi Hướng, cứ giữ
như thế suốt đời, cũng được nhờ ơn tiếp dẫn. Người có thì giờ hay phương
tiện, ngoài thời niệm Phật, hoặc trì chú tụng kinh, hoặc sám hối bố thí, tùy
phần tùy lực mà tu các phước lành, dù có mảy may công đức, cũng đem hồi
hướng Tây Phương. Dụng công như thế, chẳng những quyết định được vãng
sanh mà cũng sẽ tăng cao thêm phẩm vị.
23. Hỏi:- từ trước đến nay, kẻ hậu tiến nầy chỉ nghe nói nhiều về niệm
Phật mà chưa hiểu rõ phương châm; và pháp Thập Niệm Hồi Hướng thế
nào, riêng lòng cũng chưa được tường tất. Xin nhờ Đại Sư chỉ thị?
Đáp:- Niệm Phật là duyên tưởng theo ba mươi hai tướng, buộc tâm vào
định, làm sao cho khi mở mắt hay nhắm mắt thường được thấy Phật. Hoặc
phương pháp nữa là chuyên xưng danh hiệu, chấp trì không tán loạn, cứ bền
giữ như thế, trong đời nầy cũng được thấy Phật. Hiện nay, tôi thấy phần
đông người tu Tịnh Độ đều lấy pháp Trì Danh làm thắng. Phép xưng danh
cần phải lắng lòng không cho tán loạn, mỗi niệm nối tiếp nhau, buộc tâm nơi
hiệu Phật. Khi miệng niệm Nam Mô A Di Đà Phật, tâm phải soi theo mỗi
câu mỗi chữ cho rành rẽ rõ ràng. Khi xưng danh hiệu Phật, không luận ít hay
nhiều, đều phải một lòng một ý tâm tâm nối nhau. Niệm như thế, mới có thể
mỗi câu diệt được tội nặng nơi đường sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Nếu
chẳng vậy thì tội chướng khó tiêu trừ.
Còn về pháp Thập Niệm, thì mỗi buổi sớm mai hành giả phải quì trước
bàn Phật, hoặc chấp tay đứng ngay thẳng hướng về phương Tây, niệm Phật
liên tiếp, luôn một hơi, cứ mỗi hơi kể một niệm, mười hơi là mười niệm. Khi
niệm không hạn số câu ít hay nhiều, chỉ tùy theo hơi dài ngắn, chuyên chú
niệm luôn cho hết hơi mới thôi. Nên giữ tiếng niệm Phật cho rành rẽ, không
thấp không cao, không gấp không huởn, niệm mười hơi liên tiếp, chớ để tâm
ý tán loạn. Đây là pháp mượn hơi nhiếp tâm, quí ở nơi chuyên nhứt, và phải
giữ như thế trọn đời, không được một ngày tạm bỏ.
Về phần hồi hướng là sau khi niệm xong, dùng tâm chí thành nguyện
rằng: 'Con là (pháp danh), phát lòng Bồ Đề, một lòng quy mạng Đức A Di
Đà, nguyện về Cực Lạc. Xưa Phật lập thệ: 'Nếu chúng sanh nào muốn về
nước ta, hết lòng xưng danh, cho đến mười niệm, như không được sanh, ta
không thành Phật.' Con nguyện nương nhờ, từ lực của Phật, tội diệt phước
sanh. Con nguyện lâm chung, biết ngày giờ trước, dứt trừ chướng ngại, Phật
cùng Thánh Chúng, tiếp dẫn vãng sanh, mau ngộ Phật Thừa, độ khắp muôn
loại.'
Môn Thập Niệm Hồi Hướng trên đây là phương pháp rất thiết yếu của
tiên đức đã chỉ dạy. Môn nầy rất được thạnh truyền và có lợi ích cho đời,
người niệm Phật nên tuân hành.
24. Hỏi:- Đối với người ở trong lưới tục, cổ đức đã tùy lượng mà chỉ
dạy phương pháp rất cặn kẻ rõ ràng. Nhưng với chúng tôi là hạng người
thế ngoại, lại phải làm sao để dụng công?
Đáp:- Trước tôi đã nói pháp tu có nhiều loại tổng nhiếp thành ba môn.
Trong ba môn ấy, mỗi người tùy ý mình lựa chọn hoặc chuyên tu hay kiêm
tu, chỉ yếu tâm chân thiết và giữ cho bền lâu, tự sẽ có kết quả.
25. Hỏi:- Phương tu viên quán, pháp niệm duy tâm, dường như hành
môn của bậc thượng khí. Còn mười nguyện trong kinh Hoa Nghiêm,
mười tâm trong kinh Bảo Tích, cũng là dụng công của hạng lợi căn. Nếu
như căn khí không xứng hợp, e cho công hạnh khó thành! Nay tôi tự xét
căn tánh và sở thích của mình, thì chỉ nên chuyên trì danh hiệu, nếu rảnh
thì thêm lễ Phật sám hối mà thôi. Ý Đại Sư như thế nào?
Đáp:- Lành thay! Ông biết tự lượng đó! Xét qua lời ông nói thật rất hợp
với thuyết chuyên tu vô gián của Thiện Đạo Đại Sư. Thuyết ấy đại khái như
sau:
Chuyên tu là do chúng sanh phần nhiều chướng nặng, tâm tưởng thô
phù, ý thức rối loạn, mà quán cảnh lại quá tinh tế, nên công hạnh khó thành.
Do đó nên đấng đại thánh xót thương, bảo chuyên xưng ngay danh hiệu; vì
xưng danh rất dễ, nếu giữ mỗi niệm tương tục, liền được vãng sanh. Kẻ nào
suốt đời hành trì như thế, thì mười tu mười người về, trăm tu trăm người về.
Bởi tại sao? Vì không tạp duyên nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản
nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái giáo pháp. Vì thuận theo lời Phật
dạy. Nếu bỏ chuyên tu mà hành theo tạp hạnh để cầu sanh thì trong trăm
ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn. Sở dĩ như thế, vì bởi tạp duyên loạn
động làm mất chánh niệm. Vì trái bản nguyện của Phật. Vì trái giáo pháp. Vì
không thuận theo lời Phật dạy. Vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau. Vì không
tương tục để báo ân Phật. Vì tuy có hạnh lành mà tương ưng với danh lợi. Vì
ưa theo tạp duyên mà làm chướng sự sanh Tịnh Độ cho mình và người.
Vô gián tu là thân chuyên lễ Phật A Di Đà, không lễ vị thánh nào khác;
miệng chuyên xưng danh Phật A Di Đà, không trì tụng các kinh và xưng
danh hiệu khác; ý chuyên tưởng Phật A Di Đà, không xen tạp các tưởng
niệm khác. Lại khi những nghiệp tham, sân, si, nổi lên làm cho công tu gián
đoạn, phải tùy phạm tùy sám hối, đừng để qua cách ngày, cách đêm, cách
giờ. Phải làm sao giữ một niệm thanh tịnh, không xen tạp, không hở dứt, đó
mới thật là vô gián tu.
Trên đây là pháp chuyên tu vô gián của Thiện Đạo Đại Sư. Theo Thiên
Trúc Truyện, Đại Sư là hóa thân của Phật A Di Đà. Chỗ lập thuyết của ngài,
điểm chính yếu là ở nơi niệm niệm tương tục. Cô Sơn Hòa Thượng cũng
bảo: 'Chẳng nên xưng danh tán loạn, phát nguyện lơ là.' Và Vĩnh Minh Đại
Sư cũng dạy: 'Phải một lòng quy mạng, trọn kiếp tinh tu khi ngồi nằm
thường hướng về Tây. Lúc lễ bái, niệm Phật, phát nguyện, phải khẩn thiết
chí thành, không xen lẫn tạp niệm, trạng như người sắp bị hình lục, như kẻ
đang ở lao tù, như người gặp giặc oán rượt theo, như bị nạn nước lửa bức
bách, một lòng cầu cứu, nguyện thoát khổ luân, mau chứng vô sanh, để nối
ngôi Tam Bảo, đền đáp bốn ân, độ loài hàm thức. Chí thành như thế, tất
công phu không uổng. Trái lại, nếu lời và hạnh không hợp nhau, lòng tin
không vững chắc, niệm lực thường gián đoạn không tương tục, đem sự biếng
trễ ấy để mong vãng sanh, thì e cho khi lâm chung khó gặp bạn lành, bị sức
nghiệp lôi kéo, sự đau khổ ép bức mà không thành chánh niệm. Vì sao? Bởi
việc hiện tại là nhân, lúc lâm chung là quả; nhân phải cho thật, quả mới
không hư, như âm thanh lớn thì tiếng vang dội rền xa, và hình ngay bóng
mới thẳng vậy.'
26. Hỏi:- Tu làm sao cho mỗi niệm nối nhau, thật ra tôi vẫn muốn
được như thế. Song chỉ hiềm định lực chưa thành, niệm đầu không chủ,
hoặc tri giác cũ khó quên, hoặc tư tưởng vọng nổi dậy, hoặc xúc đối cảnh
duyên tự kềm giữ không vững, hoặc tâm tình rối loạn cố ngăn dẹp chẳng
kham. Cứ ngồi vào lần chuỗi một lúc, là tâm niệm đã chạy hết đông sang
tây, bất giác nó đã đi xa cách mấy ngàn muôn dặm hồi nào, cũng không
tự hay biết. Có khi phải bận lo một việc chi, thì luôn trong năm mười ngày
hoặc đến cả tháng, tâm trí vẫn vướng vít chưa quên, chỉ dẹp trừ nó còn
chưa xong, nói gì đến việc gián đoạn! Điều nầy thốt ra thật đáng hổ thẹn,
song nghĩ lại cũng đáng thương tâm! không biết có cách gì đối trị chăng,
xin nhờ Đại Sư chỉ bảo?
Đáp:- Đó là căn bịnh chung của hầu hết người tu. Trong lúc ấy nếu ông
không thống thiết tự trách răn, thì khó mà thành tựu pháp chuyên tu vô gián.
Tôi nghe người xưa có ba điều thống thiết tự trách răn, nay vì ông tỏ bày,
nên ghi nhớ cho kỹ:
Điều thứ nhất là phải nghĩ đến sự báo ân. Người tu có những ân trọng.
Hãy tạm gác qua ân Phật ân thầy, như ông là phận xuất gia, công ơn sanh
dưỡng của cha mẹ há chẳng phải là sâu nặng ư? Ông đã lìa tục xuất gia, vì đi
học đạo nên phải xa cách quê quán nhiều năm, cha mẹ nhọc nhằn cực khổ
ông cũng không biết, khi già yếu đau bịnh lại cũng không hay mà săn sóc
thuốc thang. Đến lúc cha mẹ mãn phần, ông không biết, hoặc có được tin gì
về cũng đã trễ muộn. Khi ông còn nhỏ, có khi cha mẹ vì nuôi nấng thương lo
cho con mà gây ra nhiều tội nghiệp, lúc chết rồi hoặc bị đọa vào nẻo khổ, hy
vọng ông cứu độ, như khát chờ uống, như hạn trông mưa. Nếu ông tu hành
lơ láo tất tịnh nghiệp không thành; đã không thành thì tự cứu chưa xong, làm
sao cứu được cha mẹ? Đối với song thân ông đã lỗi phần phụng dưỡng về
thể chất, mà còn không cứu độ được phần hương linh, tức là phụ nghĩa quên
ân, là người đại bất hiếu. Kinh nói: 'Phạm tội bất hiếu, sẽ bị đọa vào địa
ngục.' Thế thì tâm niệm gián đoạn không chuyên tu, chính là nghiệp địa
ngục vậy.
Lại ông không dệt mà mặc, không cày mà ăn. Phòng, nhà, chăn, gối,
cơm áo, thuốc thang đều do đàn việt cúng dâng. Tổ sư từng răn dạy: 'Hàng
thiện tín vì sùng kính Tam Bảo đã chia cắt bớt phần ăn của gia đình đem đến
cúng dường. Nếu người tu đạo hạnh không tròn, thì dù là tấc vải hạt cơm,
kiếp sau cũng phải đền trả. Muốn báo ân đàn việt ông phải lo chuyên tu tịnh
nghiệp để độ mình độ người. Nếu ông sanh một niệm gián đoạn không
chuyên. Tất đã có phần trong kiếp luân hồi vay trả. Và tâm niệm ấy chính là
nghiệp hạ tiện hoặc súc sanh vậy.
Điều thứ hai là phải có chí quyết định. Người tu hành phải kiên quyết để
đi đến kết quả. Ông một đời tham thiền đã chẳng ngộ thiền, khi học giáo lại
không tinh về giáo. Cho đến ngày nay tâm địa chưa lắng yên, niệm đầu còn
sôi nổi, khi thì muốn làm thi, lúc lại thích tả tự, khi thì thuyết giáo, lúc lại
đàm thiền, ý chí ly tán đi ba bốn nẻo. Tổ sư đã bảo: 'Tâm niệm còn vướng
mắc, đó là nghiệp luân hồi. Tình tưởng vừa sanh ra, muôn kiếp bị ràng
buộc.' Sở dĩ ông chưa được chánh niệm, là do vì còn tình tưởng phân vân, và
tình tưởng còn phân vân cũng bởi chí không quyết định. Cho nên người tu
mà ý chí không nhất quyết, đó chính là đầu mối của sự sa đọa tam đồ vậy.
Lại nếu người tu ý chí không quyết định, thì không thể gìn giữ giới căn.
Do ý niệm phân vân nên không thể thâu nhiếp thân và khẩu. Kinh nói: 'Thà
lấy nước đồng sôi rót vào miệng, nguyện không để miệng phá giới nầy thọ
các thức ăn uống của tín tâm đàn việt. Thà dùng lưới sắt nóng quấn thân thể
mình, nguyện không để thân phá giới nầy thọ những y phục của tín tâm đàn
việt.' Phương chi, do các giới không trang nghiêm, nên tâm càng vọng động;
nhân sự vọng động ấy mà phần chuyên tu bị gián đoạn. Thế thì một niệm
gián đoạn, đâu chỉ là nghiệp nhân của lưới sắt nóng và nước đồng sôi ư?
Và nếu người tu ý chí không quyết định, tất không nhận rõ tướng đời giả
huyễn, dễ chạy theo danh lợi hư phù. Khi danh lợi thuộc về mình thì sanh
lòng mê đắm, danh lợi thuộc kẻ khác lại sanh lòng ganh ghét hơn thua. Cổ
đức bảo: 'Tham đắm danh lợi đi về nẻo súc đường quỉ, buông lòng thương
ghét đồng vào hầm lửa vạc dầu!' Thế thì một niệm gián đoạn chính là ngạ
quỉ, hầm lửa vậy.
Điều thứ ba là cầu sự ứng nghiệm. Người đã tu tịnh nghiệp, nên cố gắng
làm sao cho có sự ứng nghiệm. Kiếp người mong manh, vô thường chẳng
hẹn. Như ông nay tóc đã điểm bạc, da đượm nét nhăn, tướng suy tàn hiện rõ,
kỳ lâm chung phỏng còn được mấy ngày? Vậy ông phải cố gắng chuyên tu,
làm sao cho có triệu chứng vãng sanh chắc chắn. Như khi xưa, Huệ Viễn
Pháp Sư ở Lô Sơn, ba phen thấy Phật xoa đầu. Lại như Hoài Cảm Pháp Sư
chí thành xưng danh hiệu Phật, liền thấy Đức A Di Đà phóng ánh quang
minh, hiện ra tướng hảo. Và như Thiếu Khang Pháp Sư khi niệm Phật một
câu, đại chúng liền thấy một vị Phật từ nơi miệng bay ra, cho đến trăm ngàn
câu cũng như thế, tợ hồ các hạt chuỗi nối tiếp nhau. Những sự ứng nghiệm
như thế có đến muôn ngàn. Nếu tâm ông không gián đoạn, thì thấy Phật rất
dễ; như còn gián đoạn, tất khó thấy Phật. Đã không thấy Phật thì cùng với
Phật vô duyên. Và đã vô duyên quyết khó sanh Tịnh Độ. Khi không được
sanh về Tịnh Độ tất sớm muộn gì cũng bị đọa vào ác đạo. Thế thì một niệm
gián đoạn chính là nghiệp tam đồ vậy. Phải nên răn dè và suy nghĩ kỹ!
Ba điều cảnh sách trên, người tu tịnh nghiệp phải ghi nhớ suy nghĩ rồi tự
trách răn một cách thống thiết, làm sao cho tâm không rời Phật, Phật chẳng
rời tâm, đạo cảm ứng giao thông, hiện đời được thấy Phật. Đã thấy Đức Phật
ở Cực Lạc, tức thấy chư Phật khắp mười phương, và thấy chư Phật mười
phương, tức thấy vị Phật thiên chân của tự tánh. Khi thấy được Phật tự tánh,
thì sự đại dụng sẽ hiện tiền. Chừng ấy mới theo lòng bi nguyện, độ khắp
quần sanh. Đó gọi là Tịnh Độ Thiền mà cũng là Thiền Tịnh Độ vậy. Thế thì
ý của ngài Vĩnh Minh nói: 'Có Thiền có Tịnh Độ, dường như cọp mọc sừng,
đời nay làm thầy người, đời sau làm Phật Tổ.' há chẳng là ứng nghiệm trong
giai đoạn nầy ư? Phải nên cố gắng!
Thiền giả nghe xong vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lặng lẽ giây lây,
dường như tìm được vật chi đã mất. Thiên Như lão nhơn lại bảo: 'Thiền
cùng Tịnh Độ vẫn không hai, nếu liễu thì liễu cả, mê cũng đồng mê, bởi
ngoài tâm không pháp, ngoài pháp không tâm, đừng nên lầm nhận!' Thiền
thượng nhơn liền đảnh lễ mà thưa rằng: 'Tôi rất may mắn được nhờ ơn chỉ
bảo, nay đã biết đường về!' rồi từ tạ mà lui.
Lời phụ:
'Thiền cùng Tịnh Độ vẫn không hai, nếu liễu thì liễu cả, mê cũng đồng
mê.' Lời của Thiên Như Đại Sư quả thật xác đáng. Bởi chân tâm bao hằng sa
muôn pháp, hàm vô biên quốc độ, nơi Thiền gọi là Bản Lai Diện Mục, nơi
Tịnh gọi là Tự Tánh Di Đà. Kinh Lăng Nghiêm nói: 'Mười phương hư
không sanh trong tâm ông như áng mây nổi điểm giữa trời xanh rộng lớn
bao la, huống chi vô lượng thế giới ở trong hư không ư?' Cổ đức cũng bảo:
'Hằng sa pháp ấy Bồ Đề Đạo, nghĩ đến Bồ Đề cách vạn tầm!' Vì chân tâm
bao hàm muôn tượng nên nếu người tu Thiền mà hiểu Thiền bằng lý không
không, rồi bác chẳng có Cực Lạc, bác sự cầu sanh, tất chưa phải là người
hiểu Thiền. Sở dĩ ngài Thiên Như nhiều phen cặn kẽ chỉ bày là để phá mối
chấp không đó. Về phần thể, chân tâm sáng lạng bao hàm vô biên thế giới,
gọi là Thiền Tịnh Độ và vô lượng thế giới ảnh hiện trong chân tâm, tất cả
đều tịch tịnh như huyễn, gọi là Tịnh Độ Thiền. Về phần dụng, hành giả khi
đã ngộ tánh bản lai, rồi khởi lên bi nguyện tu những hạnh trang nghiêm cõi
Phật, thành tựu chúng sanh, gọi là Thiền Tịnh Độ và nếu dùng môn Tịnh Độ
để nhiếp hóa hữu tình trở về chân tánh, gọi là Tịnh Độ Thiền.
Tóm lại, Thiền tức Tịnh Độ, Tịnh Độ tức là Thiền. Nếu bác Tịnh Độ
chính là chưa hiểu rõ Thiền, và bác Thiền cũng chẳng suốt thông Tịnh Độ.
Liễu thì liễu cả, mê cũng đồng mê, bởi do lý đó.
Đề Bạt
Tức tâm là độ lý không ngoa
Tịnh khác Thiền đâu vẫn một nhà
Phước kết trang nghiêm phần sắc tướng
Huệ tuôn vô ngại cõi hằng sa
Trời Tây sáng lạ màu vi diệu
Nguyện Phật thâm sâu đức hải hà
Ngoảnh lại đường tu ai sớm tỉnh?
Nỗi thương ác đạo mãi vào ra!
Tây Trai Lão Nhơn
Thiên Như Đại Sư
Tịnh Độ Hoặc Vấn
---o0o---
HẾT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét