Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

kinh chiêm sát nghiệp báo thiện ác

KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
BAN HOẰNG PHÁP TW GHPGVN
TỊNH ĐỘ ĐẠO TRÀNG
Đời Tùy Tam Tạng Pháp Sư: BỒ ĐỀ ĐĂNG
Người nước Ấn Độ dịch Phạn Văn ra Hán Văn.
Việt dịch: THÍCH THIỆN THÔNG
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
4 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác
LỜI TỰA
Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác, còn gọi là Kinh
Địa Tạng Bồ Tát Nghiệp Báo, gồm hai quyển, do Ngài Bồ
Đề Đăng người nước Ấn Độ dịch ra Hoa ngữ vào đời nhà
Tùy, được thâu vào tập thứ 17 trong Đại Tạng Đại Chánh
Tân Tu của Nhật Bản.
Kinh này do Đức Bồ Tát Địa Tạng, vì chúng sinh đời
Mạt Pháp, cầu học Pháp lành, ứng với lời dạy của Phật mà
nói ra. Quyển thượng nói rõ cách “chiêm quẻ” để xem xét
nghiệp báo thiện ác, quyển hạ thuật rành nghĩa chân thật của
Đại thừa.
Chiêm sát tức là dùng tướng mộc luân (những mảnh gỗ)
gieo quẻ để biết nghiệp thiện, nghiệp ác, cùng quả báo khổ
vui, lành dữ đời trước và đời này cho một người nào đó.
Cách làm mộc luân là: Đem mười điều thiện và mười điều
ác phân biệt ra và khắc chữ ở trên mười mảnh gỗ nhỏ thành
nhóm thứ nhất. Viết ba chữ Thân, Khẩu, Ý trên ba mảnh gỗ
khác, có khắc nét dài, ngắn, sâu, cạn, lớn nhỏ thành nhóm
thứ hai. Viết chữ số từ 1 đến 18 trên sáu mảnh gỗ khác nữa
(mỗi mảnh gỗ chỉ ba mặt còn chừa một mặt trống) thành
nhóm thứ ba. Đem gieo từng nhóm trên vật sạch, do những
mộc luân đó hiện ra những chữ có số gì, rồi theo đó mà
xem xét việc lành dữ tốt xấu, hoặc nhân quả đời trước, đời
này v.v… đó là nội dung quyển thượng. Tuy về hình thức
6 7 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
là chiêm bói, nhưng thực chất lại khác xa muôn trùng đối
với những việc chiêm bói của thế gian. Tại sao vậy? Bởi vì,
cách chiêm bói này đòi hỏi người thực hành phải là đệ tử
của Phật, thuộc thành phần xuất gia, tại gia, có quy y thọ
giới hẳn hoi, và trước khi muốn chiêm sát, phải biết cúng
dường Tam Bảo, sám hối, phát nguyện, tùy hỷ, hồi hướng
v.v… Có được đức tin thuần túy thanh tịnh rồi, thì sự chiêm
sát thiện ác mới tương ưng với bi nguyện chỉ dẫn của chư
Phật, Bồ Tát và Ngài Địa Tạng, khi đó những điều cần cầu
mới ứng nghiệm và chính xác. Không đủ những yếu tố này,
việc chiêm sát sẽ không tương ưng. Lại nữa, khi thực hành
đúng theo lời dạy của Đức Địa Tạng Bồ Tát và việc mình
muốn xem xét, được hiện ra kết quả rõ ràng, phải biết đó
là duy tâm sở hiện, cũng chính là một phần mảnh mún nơi
Thể, Tướng, Dụng của chân tâm chúng ta.
Quyển Hạ Kinh này chỉ dạy về Pháp quán như thế nào
để đúng với nghĩa thật của Đại thừa. Nghĩa là, người muốn
hướng về Đại thừa để tu học, trước tiên cần phải biết hạnh
căn bản ban sơ, đó là cảnh giới của Nhất thật tướng. Nhất
thật tướng này được tóm nêu bằng hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất
là Tâm chân như. Nghĩa thứ hai là Thức A lại da. Tâm chân
như là cái thể bất sinh bất diệt của tất cả các Pháp. Thức A
lại da là nghĩa sinh diệt của tất cả các Pháp. Học tập quán
này, có hai đường lối quán sát, ấy là Pháp quán duy tâm thức
và Pháp quán thật tướng trung đạo của chân như. Người nào
nương vào một trong hai Pháp quán này mà tiến tới, tức có
thể trực nhận ra Nhất thật tướng, được mệnh danh là tu đúng
Pháp Đại thừa, sẽ dự vào chủng tính Bồ Tát. Vị nào không
kham nổi việc tu tập hai Pháp quán nói trên, hãy niệm danh
hiệu Đại Bồ Tát Địa Tạng, cầu sinh về Tịnh độ của chư Phật
ở các phương khác, hoặc tùy một Đức Phật ở phương nào,
xoay về hướng ấy mà niệm danh hiệu của Ngài, đến khi
được nhất tâm, sẽ tùy nguyện sinh cõi Phật đó, rốt ráo sẽ
không rơi vào các đường ác, tám chỗ nạn, sẽ thành tựu đức
tin về Đại thừa mau được bất thoái chuyển.
Như trên là nội dung tóm tắt hai quyển của bộ Kinh Chiêm
Sát Nghiệp Báo Thiện Ác. Đức Đại Bồ Tát Địa Tạng, vì
thương xót chúng sinh đời Mạt Pháp, mà đã thay Phật chỉ
dạy rành rẽ mọi điều.
*
* *
Ở Trung Hoa, từ đời nhà Tùy trở lại đây, những người
căn cứ theo bản Kinh này để thực hành Pháp sám tội, số ấy
rất nhiều, đủ cho thấy tập tục dân gian của Trung Quốc với
tư tưởng Phật giáo một mực kết hợp với nhau. Có điều là,
từ đời Tùy đến trước đời Đường, Kinh này bị một số học
giả xem là ngụy tạo, vì cho rằng xuất xứ của Kinh không
được rõ ràng. Đến đời Đường, niên hiệu Đại Châu, những
nhà Sư định mục lục các Kinh Phật, với bộ Khai Nguyên
Thích Giáo Lục, mới xem Kinh này là chân Kinh, và thâu
vào mục lục các Kinh trong Đại Tạng, sự truyền bá có hơi
rộng rãi kể từ đó.
Đến đời Minh, có Ngài Trí Húc Đại Sư trước tác một
quyển tựa đề là “Huyền Nghĩa Kinh Chiêm Sát”, hai quyển
“Chiêm Sát Nghĩa Sớ” và một quyển “Chiêm Sát Hành
Pháp” (Cách thực hành việc chiêm sát). Bốn quyển trên đều
8 9 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
là chú sớ bộ Kinh này (theo tài liệu Lịch Đại Tam Bảo Ký
quyển 12). Cận đại đây cũng có Ngài Luật Sư Hoằng Nhất,
trong khi viết quyển Địa Tạng Bồ Tát Thánh Đức Đại Quan.
(Nhìn chung về Thánh đức của Bồ Tát Địa Tạng), đã trích
dẫn Kinh Chiêm Sát này rất nhiều, và đề cao bi nguyện độ
sinh của Đức Địa Tạng Đại Bồ Tát, đối với chúng sinh ở cõi
Ta Bà.
Ngày nay hàng ngũ xuất gia tại gia như chúng ta, đang ở
vào thời kỳ Mạt Pháp, tức thời kỳ giáo Pháp của đức Phật
đang suy vi, tà pháp đang lừng lẫy, điều đó rất hiển nhiên,
không thể phủ nhận. Tuy rất nhiều vị phát tâm trỗi vượt, cầu
Vô thượng Bồ Đề, và tu theo các môn thiền định của Phật
giáo, nhưng số người đạt được thành quả không phải là đa
số, mà hầu như rất hiếm hoi; Phải chăng đều do túc thế thiện
căn còn mong manh yếu ớt, mà nghiệp chướng và tội nặng
hiện tại và quá khứ lại sâu dày, cho nên thường bị nhiều điều
chướng nạn, hoặc bị sự nhiễu loạn bởi các thứ quỷ thần của
95 phái tà sư ngoại đạo khiến cho lui mất căn lành, hoặc trở
lại cầu phước báu nhỏ mọn ở thế gian, như Đức Bồ Tát Địa
Tạng đã dạy trong Kinh này.
Cũng vì những nguyên nhân đó, đức Đại Bồ Tát khởi
lòng đại bi vô tận, chỉ dạy cách chiêm sát nghiệp báo thiện
ác, để người tu hành tự biết túc căn của mình, sau đó chọn
lựa Pháp tu cho hợp với căn cơ trình độ, ngõ hầu thoát khỏi
sự phá hoại của các thứ ma tà. Thế nên, những đệ tử Phật,
khi xem đến, hoặc nghe nói đến việc chiêm bói, chớ vội
khinh thường, cho rằng Phật Pháp pha trộn với hình thức
bói quẻ của thế gian.
Với hình thức một bộ mộc luân gồm 19 mảnh gỗ, chia
làm ba nhóm, nhóm đầu gồm 10 cái, thâu nhiếp tất cả thập
thiện thập ác. Nhóm giữa ba mảnh thâu nhiếp nghiệp thiện
ác sâu cạn riêng biệt thuộc Thân, Khẩu, Ý , nhóm sau 6
mảnh thâu nhiếp sáu căn, sáu trần, sáu thức thuộc 18 giới,
với 189 hiện tượng của phàm Thánh thế gian và xuất thế
gian; Như vậy đủ thấy Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện
Ác này thật bất khả tư nghì, không một loại bói khoa nào
có thể sánh kịp. Riêng về thật nghĩa của Đại thừa thì cũng
được Bồ Tát Địa Tạng giảng giải một cách tinh vi sâu thẳm
nơi quyển hạ. Nếu đem luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ Tát
Mã Minh đã tạo để so sánh, ta sẽ thấy rằng, những nghĩa căn
bản của Luận Khởi Tín, phần lớn đều ở trong Kinh này, thế
thì Kinh này đã tóm tắt dạy về ý nghĩa trọng yếu của đạo lý
nhất thừa vậy.
*
* *
Vì nhân duyên nào chúng tôi dịch Kinh này ?
Xin thành thật thưa rằng: Từ trước đến nay, các bản Kinh
Hoa ngữ lưu hành ở Việt Nam rất nhiều, nhưng bộ Kinh
Chiêm Sát này chưa thấy lưu thông, lại cũng ít khi được
nghe nói đến. Nay tình cờ một nhân duyên nào đó thúc đẩy,
khiến cho một Phật tử người Đài Loan, khi qua làm ăn ở
Việt Nam, đầu năm Bính Tý 1996, đã đem theo bộ Kinh
này, với hộp mộc luân được khắc chạm mạ vàng rất tinh
xảo công phu, có cả bản chỉ dẫn phương pháp sử dụng 19
mộc luân để chiêm sát. Cư sĩ muốn tìm người dịch ra Kinh
này để lợi ích cho hàng Phật tử Việt Nam. Sau một thời gian
10 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác
mấy tháng tìm không được người, ông thổ lộ với một Phật
tử Việt Nam rằng: “Muốn đem bộ Kinh và hộp mộc luân
này về Đài Loan” Người Phật tử kia giới thiệu đến chúng
tôi, ông vui lòng trao lại bản Kinh và hộp mộc luân, với hy
vọng tôi có thể dịch bộ Kinh này.
Sau khi nhận bản Kinh, đầu tháng tư năm nay 1996, tôi
khởi sự dịch hằng ngày, mặc dù trong mùa Phật đản và an
cư kiết hạ, với nhiều bận rộn, tôi cũng cố gắng hết sức mình,
đến cuối tháng tư thì xong hai quyển, với phần chú thích
những từ ngữ khó, và bản chỉ dẫn phương pháp sử dụng
mộc luân, để những vị tu sĩ, cư sĩ Phật tử Việt Nam bớt khó
hiểu trong khi sử dụng đến.
Sau khi bản thảo hoàn thành, tôi gửi đến vị cư sĩ Đài Loan
nọ để ông xem thử, Cư sĩ rất vui mừng và phát biểu rằng:
“Bản dịch của chúng tôi không trái với nội dung của Kinh”,
như thế, nguyện vọng của ông đã thỏa mãn. Phải chăng đây
đều do thần lực của đức Bồ Tát Địa Tạng gia bị hộ trì, khiến
cho tôi làm được việc này. Tôi thầm tin tưởng như vậy, xin
ghi lại nơi đây, để gửi đến chư vị có nhân duyên đọc và sử
dụng Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác này.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!
Tháng Trong Hạ, mùa An cư năm Bính Tý 1996.
Dịch giả kính ghi.
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Quyển Thượng
Đời Tùy Tam tạng Pháp Sư: BỒ ĐỀ ĐĂNG
Người nước Ấn Độ, dịch Phạn Văn ra Hán văn.
Việt dịch: THÍCH THIỆN THÔNG
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Phật,
Đấng Nhất Thiết Trí, ở thành Vương Xá,
trong núi Linh Thứu, dùng sức thần thông,
thị hiện đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm,
rộng rãi vô ngại, cùng với vô lượng vô biên
đại chúng câu hội, diễn nói Pháp môn Căn
Tụ  (1) rất sâu.
Bấy giờ trong hội có một Bồ Tát, tên là
Kiên Tịnh Tín  (2)  từ tòa đứng dậy, sửa lại y
phục, vén áo vai mặt, cung kính chắp tay,
bạch lên đức Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Nay con ở giữa chư
đại chúng đây, muốn có chỗ hỏi, thưa thỉnh
12 13 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Thế Tôn, cúi mong Thế Tôn rủ lòng cho phép?
Đức Phật dạy rằng:
Này thiện nam tử! Tùy chỗ ông hỏi, Như
Lai có thể giải nói cho ông.
Ngài đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín thưa:
Như đức Thế Tôn trước đây có nói: “Ta
nhập diệt rồi, đến sau thời kỳ Chính Pháp
chấm dứt
(3) Tượng Pháp sắp hết  (4) sang
thời Mạt Pháp
(5) vào thời kỳ này, chúng
sinh phước mỏng, nhiều sự suy buồn, quốc
độ xảy ra rối loạn hoài hoài, tai họa nhiều
lần nổi lên khắp nơi,  (6) đủ thứ ách nạn, toàn
những sợ sệt bức xúc chúng sinh. Đệ tử Như
Lai, đa số đánh mất niệm lành của mình, chỉ
nuôi lớn thêm tham, giận, ganh tỵ, ngã mạn
v.v…Giả sử có người, làm được những điều,
giống như thiện Pháp, (7) thì cũng chỉ cầu lợi
dưỡng tiếng khen theo người thế gian, lấy
đó làm đích, chẳng thể chuyên tâm tu Pháp
xuất yếu
(8) trong thời kỳ này, chúng sinh
khắp nơi, nhìn thấy trong đời tai biến loạn
ly, lòng họ khiếp nhược, lo sợ thân mình và
những quyến thuộc chẳng được áo cơm để
nuôi thân mạng. Do những nhân duyên đầy
dẫy các thứ chướng ngại như thế, cho nên
đối với Chính Pháp của Phật, căn tính của
họ, trở nên chậm lụt, đức tin ít ỏi, người
chứng được đạo cực kỳ hiếm có, đến đỗi lần
lần, đối với Ba thừa, những người thành tựu
đức tin căn bản lại cũng rất hiếm. Những
người tu học thiền định thế gian, mà phát
sinh những năng lực thần thông, như biết
kiếp trước của mình v.v… lần lượt chẳng
còn. Vào thời Mạt Pháp, lâu xa như vậy,
người chứng đạo quả, người được đức tin,
người được thiền định, thần thông v.v…
hoàn toàn không có…” (9) .
Kính bạch Thế Tôn! Con vì thời đại ác
trược sau này, khi Tượng Pháp sắp hết, và
vì chúng sinh căn lành nhỏ nhoi trong thời
Mạt Pháp, xin hỏi Như Lai, bày phương
tiện nào, mở mang chỉ dẫn hàng đệ tử Phật,
14 15 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
khiến sinh lòng tin, được trừ suy buồn?
Bởi các chúng sinh, gặp thời đại ác, nhiều
chướng ngại nên họ thoái tâm lành. Đối với
nhân quả của Pháp thế gian và Pháp xuất
thế, phần nhiều nghi ngờ, chẳng thể bền
lòng, chuyên cầu thiện Pháp, chúng sinh
như vậy đáng thương đáng cứu.
Tâm đại từ bi của đức Thế Tôn bao la
vô tận, trí biết tất cả, xin khởi phương tiện,
dạy rõ điều này, khiến lìa lưới nghi, trừ các
chướng ngại, thêm được đức tin, nương
theo các thừa mà mau được giải thoát.
Đức Phật bảo ngài Kiên Tịnh Tín rằng:
Lành thay! Lành thay! Ông hỏi việc này
hay lắm, rất vừa ý ta! Nay trong hội này,
có đại Bồ Tát tên là Địa Tạng, ông nên đem
việc này, thưa hỏi với Người. Vị Bồ Tát ấy
sẽ vì ông mà dựng lập phương tiện, mở bày
diễn nói, để ông mãn nguyện.
Khi đó Bồ Tát Kiên Tịnh Tín bạch Phật:
Kính bạch Thế Tôn! Như Lai là đấng đại trí
vô thượng, ý gì đức Phật chẳng nói, lại muốn
để cho Bồ Tát Địa Tạng diễn nói việc này?
Đức Phật bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
Ông chớ có sinh tư tưởng cao hạ, Bồ Tát
Địa Tạng, từ khi phát tâm tu hành đến nay,
đã hơn vô lượng vô biên bất khả tư nghì
A tăng kỳ kiếp, từ lâu Người đã chứng vào
biển Nhất Thiết Trí, công đức tràn đầy, chỉ
vì nương sức đại tự tại và thệ nguyện xưa
mà khéo hóa hiện, ứng thân mười phương.
Dù rằng dạo khắp tất cả cõi nước, khởi dụng
độ sinh, nhưng với đời ác năm trược, riêng
Người là làm lợi ích giáo hóa sâu dày hơn
cả. Lại cũng nương sức huân tập, thệ nguyện
thuở xưa, mà Người nhận lấy sự nghiệp giáo
hóa chúng sinh có nhân đáng độ.
Bồ Tát Địa Tạng, từ mười một kiếp trở
lại đây, luôn luôn trang nghiêm thế giới Ta
Bà, thành thục chúng sinh, do đó, trong đại
hội này, thân tướng của Người đoan nghiêm,
oai đức thù thắng. Chỉ trừ Như Lai, ngoài ra
16 17 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
không ai có thể hơn nổi. Vả lại bao nhiêu sự
nghiệp giáo hóa nơi thế giới này, trừ những
vị Đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi, Quán
Thế Âm, ngoài ra không ai có thể sánh kịp.
Cũng bởi bản thệ và nguyện lực xưa của Bồ
Tát này, là nhanh chóng thỏa mãn tất cả
nguyện cầu của khắp chúng sinh, hay diệt
tất cả tội nặng, hay trừ các thứ chướng ngại
cho khắp chúng sinh, để họ hiện đời được
sự an ổn.
Lại nữa, Bồ Tát Địa Tạng, được mệnh
danh là “Đấng khéo nói Pháp an ủi chúng
sinh” Nghĩa là khéo nói những Pháp rất sâu
có thể mở mang, dẫn dắt những người vừa
mới tu học, phát khởi ý chí cầu Pháp Đại
thừa, khiến chẳng khiếp nhược. Bởi những
nhân duyên như vậy cho nên, nơi thế giới
này, chúng sinh khát ngưỡng, chịu sự giáo
hóa, đắc độ của Người, do đó mà ta để cho
Người nói.
Khi ấy, Bồ Tát Kiên Tịnh Tín đã hiểu
được ý của Phật, ngay đó Ngài liền mở lời
khuyến thỉnh đức Địa Tạng rằng:
- Hay thay đấng Đại Sĩ cứu đời! Hay thay
đấng Đại Trí khai đạo! Như điều tôi hỏi về
những chúng sinh trong đời ác trược, dùng
phương tiện gì giáo hóa chỉ dẫn, cho họ lìa
khỏi các thứ chướng ngại, được vững niềm
tin? Nay đức Như Lai muốn để cho Ngài nói
phương tiện đó, xin Ngài phải thời, thương
xót nói cho.
Lúc đó Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng nói với
Ngài Kiên Tịnh Tín rằng:
- Này thiện nam tử! Hãy khéo lắng nghe,
ta sẽ vì ông mà nói:
- Thời gian sau khi đức Phật diệt độ, trong
đời ác trược, những vị Tỳ kheo hay Tỳ kheo
ni, nam nữ cư sĩ, đối với những điều nhân
quả thế gian và xuất thế gian, như chưa có
được đức tin quyết định, chẳng thể tu học về
tưởng vô thường, về ý tưởng khổ, ý tưởng vô
ngã, ý tưởng bất tịnh… Những Pháp quán
18 19 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
ấy chẳng thể thành tựu, chẳng thể siêng
năng quán bốn Thánh đế, hoặc là Pháp quán
mười hai nhân duyên, hoặc là những Pháp
quán bất sinh bất diệt…Do chẳng siêng quán
những Pháp như vậy, cuối cùng chẳng thể
không tạo tội lỗi, thuộc mười điều ác căn bản.
Đối với công đức của Phật, Pháp, Tăng, và
những cảnh giới nhiệm mầu của ngôi Tam
Bảo, chẳng hay chuyên lòng tin tưởng sâu sắc,
đối trong ba thừa, đều không định hướng…
Những hạng người trên, nếu có bất cứ thứ
chướng duyên nào, thì mối lo lắng càng thêm
tăng trưởng, hoặc nghi, hoặc hối. Đối với mọi
điều, tâm chẳng sáng tỏ, cầu nhiều, lo nhiều,
lắm chuyện rằng buộc, làm việc bất định, tư
tưởng rối loạn, phế tu đạo nghiệp.
Hàng đệ tử Phật, người nào có sự chướng
nạn như thế, nên dùng phương pháp xem
Tướng Mộc Luân  (10)  mà chiêm nghiệm xét
nét. Nghiệp nhân tốt xấu của những đời
trước, cũng như những sự khổ vui lành dữ
hiện tại đời này, duyên hợp mà có, duyên
hết thì tan, nghiệp nhóm theo tâm, tướng
hiện quả khởi, chẳng mất, chẳng hư, tương
ứng với nhau, không hề sai lạc. Hãy nên như
vậy, chiêm nghiệm kỹ càng nghiệp báo tốt
xấu, rồi tự nhắc nhở nơi lòng của mình. Đối
với việc nào có chỗ nghi ngờ, thì lấy theo đó
quyết định rõ rệt.
Là đệ tử Phật, hãy nên học tập phương
pháp Chiêm Sát Tướng Mộc Luân này, hết
lòng nương theo việc được xem xét, thì không
điều nào mà chẳng thành tựu. Chẳng nên vứt
bỏ phương pháp nói trên, trở lại theo đuổi
những thứ bói quẻ, hoặc là những việc chiêm
tướng lành dữ của người thế gian, rồi sinh
ham đắm, ưa thích học tập. Nếu thích học
tập, thì rất chướng ngại Thánh đạo Bồ Đề.
- Này thiện nam tử! Muốn học cách làm
Tướng Mộc Luân thì, trước phải khắc gỗ,
cỡ như ngón út, dài dưới một tấc  (11)  chính
giữa mảnh gỗ, bốn mặt bằng nhau, đầu hai
20 21 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
mảnh gỗ, nhọn lần lần ra, ngửa tay gieo
qua chỗ sạch bên cạnh, khiến cho chuyển
đổi, nhân vì nghĩa này mệnh danh là Luân.
Lại nương tướng này, có thể phá hỏng lưới
nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển
sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi
là Luân  (12) .
Về Tướng Mộc Luân, thì có tất cả ba thứ
khác nhau. Thế nào là ba?
- Một là Luân tướng biểu thị nghiệp chủng
thiện ác sai biệt đã tạo đời trước. Luân này có
mười.
- Hai là Luân tướng biểu thị nghiệp
chủng chứa nhóm trong những đời trước,
hoặc xa hoặc gần, tạo nghiệp mạnh yếu, lớn
nhỏ khác nhau, Luân này có ba.
- Ba là Luân tướng biểu thị thọ báo, sai
biệt cả trong ba đời, Luân này có sáu.
Như muốn xem xét những nghiệp ác sai
biệt đã tạo đời trước, thì phải khắc gỗ ra làm
mười Luân, y mười Luân này viết ghi danh từ
của mười thiện nghiệp, cứ mỗi thiện nghiệp,
chủ ở một luân, ghi ở một mặt. Kế lấy mười
ác nghiệp, viết đối diện lại với mười thiện
nghiệp, khiến cho cân đối, mỗi luân cũng ghi
ở tại một mặt.
Về mười thiện nghiệp chính là cội rễ tất
cả điều thiện, có thể tóm nhiếp tất cả thiện
Pháp khác.
Về mười ác nghiệp, cũng là cội rễ tất cả
điều ác, có thể tóm nhiếp tất cả ác Pháp khác.
Nếu muốn chiêm quẻ Tướng Mộc Luân này,
trước hết phải học sự dốc lòng thành, lễ
chung tất cả chư Phật mười phương, nhân
đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh
mười phương, đều được nhanh chóng gần
gũi cúng dường, thưa hỏi lãnh nhận Chính
Pháp của Phật. Kế đó nên học sự dốc lòng
thành, kính lạy mười phương tất cả Pháp
tạng, nhân đó lập nguyện: Nguyện cho tất cả
chúng sinh mười phương, đều được nhanh
chóng thọ trì đọc tụng, tu hành đúng Pháp,
22 23 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
vì người diễn nói. Kế nữa phải học sự dốc
lòng thành, kính lạy mười phương tất cả
Hiền Thánh, nhân đó lập nguyện: Nguyện
cho tất cả chúng sinh mười phương, đều
được nhanh chóng, gần gũi cúng dường,
phát tâm Bồ Đề, đến bất thoái chuyển. Sau
đó nên học sự dốc lòng thành, kính lạy nơi
Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, nhân đó
lập nguyện: Nguyện cho tất cả chúng sinh
mười phương, mau được trừ diệt đi nghiệp
ác, lìa các chướng ngại, những vật nuôi thân
đều được đầy đủ.
Lạy như thế rồi, tùy chỗ có được hương
hoa v.v…nên sắm cúng dường, trong khi
cúng dường, hành giả phải nên nhớ nghĩ tất
cả Phật, Pháp, Tăng Bảo, thể thường khắp
giáp, hiện hữu khắp nơi. Nguyện cho những
món hương hoa dâng cúng, đồng với Pháp
tính, xông khắp tất cả cõi nước mười phương
của các đức Phật, rộng làm Phật sự.
Lại nghĩ mười phương tất cả món cúng,
lúc nào cũng có. Nay tôi sẽ dùng tất cả những
thứ hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, bảo
cái, những món trân quý, các thứ âm nhạc,
đèn đuốc sáng tỏ, món ăn, thức uống, y phục,
mền nệm, thuốc thang v.v… cho đến bao
nhiêu những món trang nghiêm cúng dường
tận khắp mười phương, mà mình có thể hình
dung nhớ tưởng, đều cùng chung với tất cả
chúng sinh, dâng hiến cúng dường. Lại nên
nghĩ đến người nào sắm sửa những món
cúng dường trong các thế giới, ta đều tùy
hỷ, người nào chưa thể sắm sửa cúng dường,
nguyện được dẫn dắt tu Pháp cúng dường.
Lại nguyện thân ta, có thể nhanh chóng,
đến khắp tất cả cõi nước mười phương, ở
mỗi mỗi chỗ Phật, Pháp, Tăng Bảo, đều
dùng tất cả những món trang nghiêm, với
khắp chúng sinh, đồng đem dâng hiến,
cúng dường tất cả Pháp thân, sắc thân, xá
lợi, hình tượng, chùa viện, tháp miếu, tất cả
Phật sự của các đức Phật. Cúng dường tất
24 25 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
cả bao nhiêu tạng Pháp và chỗ thuyết Pháp.
Cúng dường tất cả chư Hiền Thánh Tăng,
nguyện con cùng với tất cả chúng sinh, tu
hành cúng dường như thế xong rồi, lần lần
thành tựu sáu ba la mật, bốn vô lượng tâm,
biết sâu các Pháp xưa nay vắng lặng, không
sinh, không diệt, nhất vị bình đẳng
(13) , lìa
niệm, thanh tịnh, rốt ráo tròn đầy.
Lại một lần nữa buộc tâm một chỗ, riêng
cúng dường Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát, bằng cách xưng danh, hoặc tụng niệm
thầm, nhất tâm xưng rằng: Nam Mô Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Xưng danh như
vậy đủ một nghìn lần. Qua một nghìn niệm
rồi, bạch lời như vầy: Địa Tạng Bồ Tát Ma
Ha Tát! Đại từ đại bi, cúi mong Bồ Tát hộ
niệm cho con và tất cả chúng sinh, mau trừ
các chướng, thêm lớn đức tin thanh tịnh,
khiến cho những điều xem xét hiện nay, khế
hợp tương xứng đối với sự thật…
Nói lời ấy rồi, sau đó tay cầm mộc luân
(14)  ở trên vật sạch, gieo qua một bên. Cách
thức như thế, muốn xem cho mình, hoặc
xem cho người, cũng đều như vậy, người
xem nên biết.
Người muốn chiêm sát tướng mộc luân
đây, tùy nghiệp được hiện, đều phải mỗi
mỗi quan sát kỹ lưỡng suy tư nghiệm xét.
Hoặc là thuần đủ cả mười điều thiện, hoặc
là thuần đủ cả mười điều ác, hoặc thiện ác
xen lẫn, hoặc thuần thiện chẳng đủ, hoặc
thuần ác chẳng đủ. Nghiệp nhân như vậy,
giống loại chẳng đồng, tập khí, quả báo mỗi
thứ mỗi khác, như đức Thế Tôn đã nói rộng
rãi nơi nhiều Kinh khác. Phải nên nhớ nghĩ,
suy ngẫm quan sát nghiệp chủng được hiện,
cùng với những việc quả báo khổ vui, lành
dữ trải qua trong hiện đời này, như tương
xứng với nghiệp tập phiền não (đang nhận),
đó mệnh danh là khế hợp. Nếu chẳng tương
xứng, phải biết đó là chẳng hết lòng thành,
mà là luống sai.
26 27 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
- Nếu chiêm tướng mộc luân, mà nghiệp
thiện, nghiệp ác đều chẳng hiện ra, thì người
này đã chứng tâm sáng suốt của trí vô lậu.
Hãy nên chuyên cầu xuất ly thế Pháp, chớ
ưa nhận lại quả báo thế gian, những nghiệp
hữu lậu, lần lượt nhỏ yếu, chẳng còn tăng
trưởng, cho nên chẳng hiện.
Trường hợp thuần thiện chẳng đủ, thuần
ác chẳng đủ thì hai hạng người này, những
gì về nghiệp thiện, nghiệp ác của họ chẳng
hiện, đều là nhỏ yếu, chưa dẫn đến quả, do
đó chẳng hiện.
- Nếu đời sau này, những vị đệ tử của đức
Như Lai, một khi chiêm nghiệm quả báo
thiện ác, được tương ưng rồi, đối với những
món thuộc năm thứ dục  (15) , khi được xứng
ý, chớ tự dễ duôi, rồi khởi buông lung, liền
nên xét nghĩ “Ta được như vầy, là do thiện
nghiệp đã tạo đời trước, cho nên ngày nay
được phước báo này, nay ta càng phải tiến tu
thêm nữa, chẳng nên dừng nghỉ”. Nếu gặp
ách nạn, hoặc là những sự suy não chẳng
lành, rối rắm, lo sợ, chẳng được vừa ý, phải
nên cam chịu, chớ nên nghi hối mà thoái tu
thiện nghiệp, liền nên xét nghĩ: “Nghiệp ác
thế này, chỉ do đời trước ta đã gây tạo, cho
nên bây giờ mắc báo như thế. Nay ta phải
nên sám hối ăn năn những nghiệp ác đó,
cũng như chuyên tu Pháp môn đối trị và
tạo nghiệp lành thêm, không được dừng lại
hay biếng lười phóng túng, nếu chẳng như
thế, chỉ càng thêm sự chứa nhóm các thứ
khổ tụ mà thôi…”
Trên đây gọi là phương pháp Chiêm
sát bằng Tướng Mộc Luân, thuộc cách thứ
nhất.
- Thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát
nghiệp được chứa nhóm xa gần, trong đời
quá khứ về trước, những nghiệp đã tạo,
mạnh yếu, lớn nhỏ sai khác thế nào, lại nên
khắc gỗ ra làm ba luân, biểu thị ba nơi:
Thân, Khẩu, Ý. Mỗi luân chủ một nơi, viết
28 29 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
chữ vào đó. Lại nơi mỗi luân, chính giữa
một mặt, viết vào đường gạch, hơi lớn và
dài, cho đến chí mí. Kế mặt thứ ba, rạch
một nét khác, hơi to và sâu. Đến mặt thứ tư
cũng khắc một nét cho lớn và cạn.
Cần nên biết rằng, nghiệp thiện trang
nghiêm, cũng tương tự như vẽ vời tô điểm.
Nghiệp ác suy hại, giống như gạch bỏ.
Gạch nào dài lớn, tượng trưng cho
sự chứa thiện vốn đã từ lâu trở lại, thiện
nghiệp đã làm, mạnh mẽ bén nhạy, việc
làm tăng thêm.
Gạch nào nhỏ ngắn, tượng trưng cho
sự chứa thiện trở lại, vốn còn gần, cạn, chỉ
mới tập tành, nền tảng chậm chạp, việc làm
mỏng manh.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa sâu, tượng
trưng cho những tập quán xấu ác, từ lâu trở
lại, việc làm tăng thêm, dư họa cũng dày.
Nét khắc nào mà, vừa to vừa cạn, tượng
trưng cho sự thoái tu thiện Pháp, trở lại đây
gần, mà mới tập tành theo những ác pháp,
những nghiệp đã tạo, cũng chưa đến nỗi tăng
thượng lên lắm. Hoặc là dù có khởi nghiệp
ác nặng, nhưng từng hối cải, đó được gọi là
những điều ác nhỏ.
- Này thiện nam tử! Nếu như chiêm sát
luân tướng lần đầu, thì chỉ mới biết thiện
ác sai biệt đã tạo đời trước, nhưng chẳng
thể biết tập quán chứa nhóm lâu xa hay
gần, cũng như chưa thể biết nghiệp đã tạo
là mạnh hay yếu, hoặc lớn hay nhỏ. Thế
nên cần phải, chiêm sát luân tướng lần thứ
hai nữa  (16) .
Nếu như chiêm sát luân tướng lần hai,
thì phải căn cứ nghiệp được phát hiện trong
luân tướng đầu. Nghĩa là: Nếu thuộc nơi
thân thì gieo luân tướng có ghi chữ thân.
Nếu thuộc về khẩu, thì gieo luân tướng có
ghi chữ khẩu. Nếu thuộc về ý, thì gieo luân
tướng có sẵn chữ ý. Chẳng được đem tất
cả tướng của ba luân, gieo chung một lần,
30 31 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
phải tùy theo nghiệp. Chú ý nên nhớ từng
nghiệp thiện ác, căn cứ theo luân thuộc về
nghiệp nào thì gieo riêng luân đó, để chiêm
cho đúng.
- Lại nữa, nếu trong luân tướng, chiêm
lần thứ nhất, chỉ được điều tốt nơi thân,
mà trong luân tướng chiêm lần thứ hai, lại
được điều xấu nơi thân, như vậy gọi là lòng
không chí thành, chẳng được khế hợp, gọi
là sai luống.
- Lại nữa, chẳng tương ưng là: trong mười
luân tướng xem lần thứ nhất, được nghiệp
bất sát (chẳng giết), hay nghiệp thâu đạo
(trộm cướp), ý trước chú mục xem nghiệp
bất sát, nhưng trong luân tướng chiêm lần
thứ hai, được ác nơi thân, đó cũng gọi là
chẳng được khế hợp.
- Lại nữa, nếu thấy hiện tại, từ khi sinh ra
cho đến bây giờ, chẳng ưa nghiệp sát, không
tạo tội giết, chỉ có ý là còn chủ nghiệp sát,
nhưng trong luân tướng chiêm lần thứ hai,
được thân đại ác, đó cũng gọi là chẳng được
khế hợp. Từ đó suy ra, trong nghiệp của
khẩu, hay nghiệp của ý, nghĩa chẳng tương
ưng lại cũng như vậy, cần phải biết rõ.
Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng lại bảo Ngài
Kiên Tịnh Tín:
- Này thiện nam tử! nếu đời sau này các
hạng chúng sinh, muốn cầu thoát khỏi sinh,
già, bệnh, chết; Vừa mới phát tâm tu tập
thiền định, trí tuệ vô tướng, cần phải xem
trước, nghiệp ác đã tạo trong những đời
trước, nhiều ít, nhẹ nặng thế nào, nếu như
nghiệp ác nhiều và sâu dày, thì chẳng được
học ngay Pháp thiền định, trí tuệ, trước hết
cần phải tu Pháp sám hối.
Tại vì sao thế?
- Người này đời trước, tập khí ác tâm
mạnh mẽ bén nhạy, cho nên hiện tại, ắt tạo
nhiều ác, hủy phạm trọng cấm, cho nên nếu
chẳng sám hối, khiến được thanh tịnh, mà
lập tức tu thiền định trí tuệ, thì người đó
32 33 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
sẽ có nhiều chướng ngại, chẳng thể thành
công. Hoặc bị thất tâm, lầm lạc, cuồng loạn,
hoặc bị tà ma ngoại đạo quấy rối, hoặc thâu
nạp pháp tà, thêm lớn ác kiến, thế nên trước
hết, phải tu Sám Pháp. Một khi giới thể đã
được thanh tịnh, hay tội nặng đời trước,
được nhẹ mỏng rồi, ắt lìa các chướng.
- Thiện nam tử! Hành giả muốn tu Pháp
sám hối, thì nên ở chỗ vắng, tùy năng lực
mình, mà trang nghiêm một tịnh thất vừa
phải, trong thất tôn trí tượng Phật, Bồ Tát,
để Kinh Sám, treo phan lọng lụa, chuẩn bị
hương hoa để dùng cúng dường, tắm gội thân
thể, giặt sạch y phục, chớ cho hôi hám. Mỗi
ngày ba lần, ở trong thất ấy, ba thời xưng
niệm danh hiệu sám hối. Một lòng kính lạy
bảy đức Phật quá khứ và năm mươi ba đức
Phật, kế đó tùy mười phương mà mỗi mỗi
lạy chung. Vận tâm lạy khắp nơi có sắc thân
Xá Lợi, hình tượng, tháp miếu, và những
Phật sự của tất cả chư Phật. Kế lại lạy chung
tất cả chư Phật mười phương ba đời.
Lại nên vận tâm, lễ khắp mười phương
tất cả Pháp tạng. Lại nên vận tâm, lạy
khắp tất cả chư Hiền Thánh Tăng trong
khắp mười phương.
Sau đó, riêng xưng danh thêm  (17) và đỉnh
lễ Ta, Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát. Lễ như
vậy rồi, cần phải nói về những tội đã tạo,
một lòng ngưỡng bạch:
“Cúi mong mười phương chư Đại Từ Tôn,
chứng biết hộ niệm cho con sám hối, chẳng
còn tạo lại. Xin nguyện con và tất cả chúng
sinh, mau được trừ diệt những tội từ vô lượng
kiếp trở lại, mười thứ nghiệp ác, bốn thứ tội
nặng, năm tội đại nghịch, tà kiến điên đảo, chê
bai Tam Bảo, tội nhất xiển đề v.v…”
Khi đó hành giả lại nên xét nghĩ: tính tội
như vậy, chỉ là từ tâm hư vọng, điên đảo
mà khởi, không có thật thể nhất định, để có
thể nắm bắt và thể của nó vốn là rỗng lặng.
Nguyện cho tất cả chúng sinh đều mau thấu
34 35 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
đạt bản tâm, diệt hẳn gốc tội.
Kế lại phát lời nguyện khuyến thỉnh:
Xin nguyện mười phương tất cả Bồ Tát,
vị nào chưa thành Vô thượng Chính Giác,
xin nguyện vị ấy mau thành Chính Giác. Vị
nào đã thành, xin nguyện thường trụ mãi
trên thế gian, để chuyển Pháp luân, không
vào Niết Bàn.
Kế lại phát lời nguyện tùy hỷ:
Nguyện con và khắp tất cả chúng sinh,
rốt ráo lìa hẳn thứ tâm ganh tỵ, tất cả cõi
nước trong khắp ba đời, những người tu
học được các công đức và được thành tựu,
con đều tùy hỷ.
Kế lại phát lời nguyện hồi hướng:
Nguyện những công đức mà con đã tu, nếu
có lợi ích cho khắp chúng sinh, đều xin hồi
hướng về Nhất Thiết Trí, đến thành Niết Bàn.
Phát những lời nguyện hồi hướng đó rồi,
hành giả bước qua bên cạnh tịnh thất, ngồi
thẳng nhất tâm hoặc niệm lớn tiếng, hoặc là
niệm thầm danh hiệu của Ta. Hành giả phải
nên tiết giảm ngủ nghỉ. Nếu bị hôn trầm
che mờ tâm tính, thì nên trở vào đạo tràng
trong thất, kinh hành niệm tụng (Trên đây
là nói ban ngày).
Kế đến là phần giờ giấc ban đêm:
- Nếu có đèn nến thắp sáng ban đêm, cũng
nên ba thời cung kính cúng dường, sám hối
phát nguyện. Nếu chẳng thể sắm đèn nến
sáng sủa, phải nên thường trực ở trong tịnh
thất, một lòng tụng niệm, hằng ngày thực
hành Pháp sám như vậy, chớ lười bỏ phế.
Nếu người có sẵn nền tảng thiện nghiệp
xa xôi đời trước, mà tạm thời gặp nhân
duyên xấu ác, rồi tạo điều ác, thì tội chướng
nhẹ, tâm của người ấy mạnh mẽ lanh lợi, ý
lực hùng dũng, trải qua bảy ngày liền được
thanh tịnh, trừ các chướng ngại.
Các hạng chúng sinh, nghiệp có dày
mỏng, cho nên căn tính có lanh, có chậm, sai
khác không lường. Hoặc có những người,
36 37 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
sau hai mươi bảy ngày thì được thanh tịnh.
Có người trải qua hai mươi mốt ngày, cho
đến trải qua bốn mươi chín ngày, bèn được
thanh tịnh.
Nếu như người nào, quá khứ hiện tại,
đều có các thứ tội nặng tăng trưởng, phải
qua trăm ngày mới được thanh tịnh, hoặc
hai trăm ngày, cho đến trải qua một nghìn
ngày sau, mới được thanh tịnh.
Nếu người căn tính cực kỳ chậm lụt, tội
chướng sâu nặng, cần phải luôn luôn phát
tâm dõng mãnh, chẳng đoái tưởng đến việc
tiếc thân mạng, thường xuyên xưng niệm,
sớm tối kinh hành, nhiễu quanh tượng Phật
giảm bớt ngủ nghỉ, lễ sám phát nguyện, vui
tu cúng dường, chẳng lười chẳng bỏ, dù cho
mất mạng, cũng chẳng dừng thoái. Tinh tấn
như thế trong một nghìn ngày, quyết được
thanh tịnh.
- Thiện nam tử! Nếu muốn biết được
tướng thanh tịnh thì: Bắt đầu từ khi tu hành
sám Pháp, qua sau bảy ngày, phải nên mỗi
bữa, vào lúc sáng sớm, lấy tướng mộc luân
thuộc lớp thứ hai
(18) để đủ trong tay, gieo
luôn ba lần. Nếu thân, khẩu, ý đều là thuần
thiện, người ấy được gọi là thanh tịnh lại.
Về đời sau này, các hạng chúng sinh,
người nào có thể tu hành Sám Pháp, thì quá
khứ từ trước, lâu xa trở lại, ở trong Phật
Pháp, đời nào đã từng tu tập thiện Pháp, tùy
người đó tu những công đức gì, thì nghiệp
cũng có dày mỏng, đủ thứ khác lạ, do đó
những hạng người kia trong lúc được sự
thanh tịnh, tướng cũng chẳng đồng.
Hoặc có chúng sinh, khi được ba nghiệp
thuần thiện, bèn liền được thêm các thứ
tướng hảo.
Hoặc có chúng sinh, khi được tướng
trạng ba nghiệp lành vừa, thì trong một
ngày đêm, lại thấy ánh sáng đầy thân của
mình. Hoặc nghe có mùi hương thơm lạ mà
nơi thân ý thơi thới, hoặc có mộng lành,
38 39 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
mộng thấy thân Phật đến để chứng minh,
tay xoa đầu mình, khen rằng “Lành thay!
Ngươi nay thanh tịnh, Ta đến chứng minh
cho ngươi”. Hoặc nằm mơ thấy, thân vị Bồ
Tát đến để chứng giám. Hoặc mộng thấy rõ
hình tượng đức Phật phóng ra ánh sáng để
vì chứng minh… (19) .
Nếu người chưa được tướng ba nghiệp
lành, mà chỉ trước đó thấy nghe những việc
như vậy, rồi cho là mình sám có kết quả, thì
đó chính là, hư vọng dối ngụy, chẳng phải
tướng lành vậy.
Nếu người từng có gốc lành xuất thế, tùy
sự nhiếp thọ của họ mạnh lanh, thì Ta lúc đó,
tùy chỗ đáng độ mà vì hiện thân, phóng ánh
từ quang, khiến họ an ổn, lìa những nghi sợ,
hoặc hiện những thứ thần thông biến hóa,
hoặc lại khiến họ tự nhớ những việc lành dữ
đã tạo trong những kiếp trước, hoặc lại tùy
họ ưa những Pháp gì, liền vì nói những giáo
Pháp thâm yếu, ngay đó người ấy hướng về
thừa nào, tức được đức tin quyết định vững
chắc, hoặc lần lần chứng quả vị Sa Môn  (20) .
- Lại nữa, nếu chúng sinh nào, mặc dù
chưa thấy hóa thân của Ta, biến đổi nói
Pháp, hễ siêng tu học với lòng chí thành,
khiến thân, khẩu, ý được tướng thanh tịnh
rồi, Ta cũng hộ niệm, khiến chúng sinh ấy
mau được tiêu diệt các thứ chướng ngại,
Thiên Ma Ba Tuần  (21)  chẳng đến phá hoại,
cho đến tất cả những quỷ thần của chín mươi
lăm thứ tà sư ngoại đạo  (22) cũng chẳng đến
quấy nhiễu, và năm món cái  (23) lần lượt nhẹ
mỏng, kham nổi tu tập thiền định trí tuệ.
- Lại nữa, nếu đời sau này, các hạng
chúng sinh, tuy chẳng vì cầu thiền định trí
tuệ của đạo xuất yếu, hễ gặp những thứ
hoạn nạn tai ách, nghèo nàn khốn khổ, lo
rầu bức bách, cũng nên cung kính, lễ lạy
cúng dường Tam Bảo, ăn năn tội ác đã tạo
và thường phát nguyện. Trong tất cả thời,
trong tất cả chỗ, siêng lòng xưng niệm danh
40 41 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
hiệu của Ta với lòng chí thành, cũng sẽ mau
thoát các thứ suy não, bỏ thân này rồi, sinh
về chỗ lành.
- Lại nữa, thời đại sau này, các hạng chúng
sinh tại gia xuất gia, muốn cầu thọ giới thanh
tịnh vi diệu, nhưng trước đó tạo tội nặng tăng
thượng, chẳng được phép thọ, cũng phải như
trên, tu Pháp sám hối với lòng chí thành. Khi
được tướng lành của thân, khẩu, ý rồi, liền
hãy khá thọ. Nếu chúng sinh ấy muốn tu tập
theo đạo lý Đại thừa, và cầu thọ những giới
trọng căn bản của bậc Bồ Tát, hay nguyện thọ
chung tất cả giới cấm xuất gia tại gia, nghĩa
là: Nhiếp Luật nghi giới, Nhiếp Thiện Pháp
giới, Nhiếp chúng sinh giới, nhưng chẳng tìm
được giới sư giỏi khéo, có thể giải rộng Tạng
Pháp Bồ Tát tu hành trước kia, phải nên
dốc lòng, ở trong đạo tràng, cung kính cúng
dường, ngưỡng bạch mười phương chư Phật,
Bồ Tát, cung thỉnh chư Phật làm thầy truyền
giới, chư Đại Bồ Tát làm bậc Tôn chứng, một
lòng lập nguyện, kể rành mười tướng, trước
hết nói mười giới trọng căn bản, kế đến nêu
chung ba thứ tụ giới, tự thệ mà thọ, đây cũng
đắc giới.
- Lại nữa, các hạng chúng sinh về đời vị
lai, muốn cầu xuất gia, hoặc xuất gia rồi,
lại chẳng thể gặp giới sư giỏi đúng và thanh
tịnh Tăng, tâm họ nghi ngờ, chẳng được
đúng Pháp thọ những giới cấm. Hễ có khả
năng, học sự phát tâm cầu đạo Vô Thượng
và cũng làm cho thân, khẩu, ý được thanh
tịnh rồi, song những người ấy còn chưa xuất
gia, hãy nên cạo tóc, mặc vào pháp y, lập
nguyện như trên, tự thệ mà thọ ba tụ luật
nghi của giới Bồ Tát. Đó mệnh danh là được
đầy đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa  (24) của người
xuất gia, gọi là Tỳ kheo, hay Tỳ kheo ni. Sau
đó liền phải tìm tòi học hỏi Luật tạng Thanh
Văn và Luật tạng kiết tập của Bồ Tát thừa,
thọ trì đọc tụng, quán xét tu hành.
Nếu tuy xuất gia, mà tuổi người ấy chưa
42 43 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
đầy hai mươi, phải nên trước thệ nguyện
thọ mười giới căn bản của Bồ Tát, và thọ
những giới riêng của Sa di hay Sa di ni, liền
phải gần gũi, cúng dường cung cấp hầu hạ
bậc đã xuất gia kỳ cựu, vị này trước đã học
Đại thừa tâm và thọ đủ giới. Sa di mới thọ,
thỉnh cầu vị này làm thầy y chỉ, thỉnh xin
dạy dỗ, tu hành oai nghi, như những phép
tắc của một Sa di hay Sa di ni. Nếu chẳng
thể gặp người nào như thế, thì chỉ nên gần
gũi những vị Bồ Tát tu về Luận tạng mà đọc
tụng suy ngẫm, quán xét tu hành, hãy siêng
cúng dường Phật, Pháp, Tăng Bảo.
Nếu Sa di ni tuổi đã mười tám, cũng nên
tự thệ thọ sáu giới Pháp của một Thức Xoa
trong Tạng Tỳ ni, và phải học hỏi tất cả tụ
giới của Tỳ kheo ni. Lúc tuổi người đó tròn
đủ hai mươi, mới có thể tổng thọ Ba tụ tịnh
giới của một Bồ Tát, như trên đã nói. Sau
đó được gọi Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
Nếu chúng sinh nào, tuy học sám hối mà
chẳng hay hết lòng, chẳng được triệu chứng
mộng thấy tướng hảo, giả sử tác Pháp, tưởng
mình thọ giới, chẳng gọi đắc giới.
Bấy giờ Ngài Kiên Tịnh Tín hỏi Ngài Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát:
- Bạch Đấng Đại Sĩ! Về sự chí tâm, tính
cách sai biệt, có bao nhiêu thứ? Những sự
chí tâm nào, có thể cảm triệu mộng thấy
tướng lành?
Ngài Địa Tạng đáp:
- Này thiện nam tử! Nói về chí tâm, tóm
tắt có hai, những gì là hai?
Một là: chí tâm cầu nguyện của người
vừa mới phát tâm học tập.
Hai là: chí tâm của người nhiếp ý tinh
chuyên thành tựu dõng mãnh.
Được sự chí tâm thứ hai, có thể gặt hái
kết quả mơ thấy tướng lành.
Hai sự chí tâm này lại có ba thứ khác nhau
giữa hạ, trung, thượng. Những gì là ba?
Một là nhất tâm, nghĩa là hệ niệm tư
44 45 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
tưởng một chỗ, không cho tán loạn, tâm trụ
tỏ rõ. (bậc hạ).
Hai là tâm dõng mãnh, ấy là chuyên cần,
không hề biếng trễ, chẳng tiếc thân mạng.
(bậc trung).
Ba là thâm tâm, nghĩa là tương ưng với
Pháp  (25) rốt ráo chẳng thoái. (bậc thượng).
Nếu người tu tập Pháp sám hối này, cho
đến chẳng được chí tâm bậc hạ, thì trọn chẳng
thể có sự cảm triệu tướng tốt thanh tịnh.
Trên đây là nói phương pháp Chiêm Sát
Luân Tướng thứ hai.
- Này thiện nam tử! Nếu muốn chiêm sát
sự chịu quả báo sai khác ba đời, lại phải khắc
gỗ ra làm sáu luân. Nơi sáu luân này lấy các
con số: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14,
15, 16, 17, 18 ghi vào trong đó. Mỗi số chủ
một mặt, mỗi luân viết ba mặt, mỗi mặt một
số, số ghi thứ lớp không cho lộn lạo. Nên biết,
những số như thế, đều từ số Một mà khởi,
lấy Một làm gốc. Cái tướng của những con
số như vậy, tượng trưng cho nhóm sáu căn
của khắp tất cả chúng sinh, đều từ cảnh giới
Nhất Thật Tướng Tự Tính Thanh Tịnh Tâm
của Như Lai Tạng mà khởi.
Nương nơi cảnh giới (chân vọng hòa
hợp) của Nhất Thật Tướng, lấy đó làm gốc.
Nghĩa là nương cảnh giới của Nhất Thật
Tướng, sẵn có vô minh, chẳng rõ Nhất
Chân Pháp Giới, nhận lầm cái nhớ nghĩ tư
duy, mà hiện ra cảnh giới hư vọng, rồi phân
chấp đắm, chứa nhóm mãi thành nhân
duyên của nghiệp, sinh các giác quan, như
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nương vào sáu
căn bên trong, đối với sáu trần bên ngoài, là
sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà khởi ra
nhận thức của sáu giác quan, hoặc nghịch,
hoặc thuận, chẳng nghịch, chẳng thuận  (26)
thành ra 18 cảm thọ.
- Nếu đời sau này, hàng đệ tử Phật,
đối với sự thọ quả báo ba đời, người
nào có ý, muốn giải quyết nghi, phải
46 47 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
nên ba lần, gieo tướng mộc luân cách
thứ ba này, chiêm sát bằng cách tính
số cộng lại, căn cứ tổng số mà xem, để
định thiện ác. Các tướng quả báo thiện
ác ba đời để xem như vậy, gồm có 189
thứ. Những gì là 189 thứ?
1. Cầu Thượng thừa sẽ được bất thoái
chuyển.
2. Cầu quả được chứng, hiện tại sẽ chứng.
3. Cầu Duyên Giác thừa, được không
thoái chuyển.
4. Cầu Thanh Văn thừa, được bất thoái
chuyển.
5. Cầu sức thần thông, được sự thành tựu.
6. Tu bốn phạm hạnh  (27) được sự thành tựu.
7. Tu thiền thế gian, được sự thành tựu.
8. Giới nào muốn thọ, là được Diệu giới.
9. Giới nào từng thọ, được đầy đủ giới.
10. Cầu Thượng thừa nhưng đức tin
chưa trụ.
11. Cầu Duyên Giác thừa nhưng đức tin
chưa vững.
12. Cầu Thanh Văn thừa nhưng đức tin
chưa vững.
13. Người được chiêm sát chính là bạn
lành.
14. Tùy nghe những gì đều đúng Chính
Pháp.
15. Người được chiêm sát chính là bạn ác.
16. Tùy nghe những gì đều sai Chính Pháp.
17. Người đang được xem có đức thật sự.
18. Người đang được xem không có thật
đức.
19. Nghĩa được tu quán là không sai lầm.
20. Nghĩa được tu quán là bị lầm lộn.
21. Những gì đọc tụng là không lầm lộn.
22. Những gì đọc tụng là bị lầm lộn.
23. Những hạnh được tu chẳng bị sai lầm.
48 49 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
24. Những gì thấy nghe, đều là tướng lành.
25. Có sở chứng gì đều là chân thật.
26. Có học những gì đều là sai lầm.
27. Những gì thấy nghe, chẳng phải
tướng lành.
28. Có chứng ngộ gì đều chẳng phải chính.
29. Có kết quả gì, là do tà thần giúp giữ.
30. Nói giỏi điều gì, là trí tà biện bác.
31. Biết chỗ huyền diệu, chẳng phải sức
người.
32. Nên trước tập quán đường lối sáng suốt.
33. Nên tập đường lối thiền định trước đó.
34. Xem chỗ được học, không bị chướng
ngại.
35. Xem chỗ được học, là điều thích nghi.
36. Xem chỗ được học, chẳng phải thích
nghi.
37. Xem chỗ được học, là đã tu tập đời
trước.
38. Xem chỗ được học, chẳng phải đời
trước tu tập.
39. Xem chỗ được học, khéo tăng trưởng
lên.
40. Xem chỗ được học, là phương tiện nhỏ.
41. Xem chỗ được học, không sự tiến thú.
42. Quả gì mong cầu, hiện tại chưa được.
43. Cầu xuất gia thì sẽ được ra đi.
44. Mong cầu nghe Pháp sẽ được chỉ dạy.
45. Cầu những quyển Kinh sẽ được đọc
tụng.
46. Hãy xem việc làm đều là ma sự.
47. Xem những việc đã làm đều thành tựu.
48. Xem việc được làm, chẳng được
thành tựu.
49. Cầu giàu của cải, sẽ được sung thạnh.
50. Cầu địa vị quan sẽ được kết quả.
51. Cầu sống lâu sẽ được thêm tuổi thọ.
52. Cầu tiên đạo thế gian, sẽ được kết quả.
50 51 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
53. Xem chỗ học vấn, đạt được nhiều chỗ.
54. Xem chỗ học vấn, ít đạt kết quả.
55. Tìm thầy, tìm bạn, được như ý muốn.
56. Tìm đệ tử, được như ý.
57. Tìm cha mẹ, được như ý muốn.
58. Cầu con trai con gái, được như ý.
59. Tìm thê thiếp như ý.
60. Tìm bạn đồng học, được như ý muốn.
61. Xem lại những gì lo lự, được hòa hợp.
62. Người được xem, tâm họ mang hờn
giận.
63. Mong người không giận, sẽ được
hoan hỷ.
64. Cầu sự hòa hợp, được như ý muốn.
65. Tâm của người được xem thì hoan hỷ.
66. Người mình nghĩ đến, sẽ được gặp gỡ.
67. Người mình nghĩ đến, chẳng được
gặp lại.
68. Người được mời gọi, sẽ được nhóm đến.
69. Người bị chê ghét, được rời khỏi họ.
70. Người mình kính mến, sẽ được gần họ.
71. Quán Pháp ly dục, ý được tập trung.
72. Quán Pháp ly dục, ý chẳng tập trung.
73. Người được mời gọi, họ sẽ chẳng đến.
74. Người được hẹn trước, chắc chắn sẽ đến.
75. Người được hẹn trước, ở lại không đến.
76. Người đang được xem, được sự an lành.
77. Người đang được xem, hiện chẳng an
lành.
78. Người đang được xem, đã không còn
thân.
79. Người mình trông gặp, sẽ được gặp họ.
80. Những gì mình đang tìm, được gặp lại.
81. Những gì cầu nghe, sẽ được lợi lành.
82. Những gì mong tìm thấy, chẳng như ý.
83. Xem chỗ bị nghi, chính là đúng thật.
84. Xem lại chỗ bị nghi, là chẳng thật.
85. Người đang được xem, chẳng còn hòa hợp.
52 53 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
86. Cầu làm Phật sự, sẽ được kết quả.
87. Cầu những món cúng, sẽ được kết quả.
88. Tìm những của cải, sẽ được như ý.
89. Tìm của nuôi thân, ít được kết quả.
90. Có cầu những gì, thảy đều sẽ được.
91. Có cầu những gì, thảy đều chẳng được.
92. Có cầu những gì, ít được kết quả.
93. Có cầu những gì, đều được như ý.
94. Có cầu những gì, liền được nhanh chóng.
95. Có cầu những gì, chẳng được nhanh
chóng.
96. Có những mong cầu, nhưng bị tổn thất.
97. Có cầu những gì, sẽ được lợi lành.
98. Có cầu những gì, nhưng sẽ chịu khổ.
99. Xem vật bị mất, sẽ tìm lại được.
100. Xem vật bị mất, chẳng tìm lại được.
101. Xem vật bị mất, tự trở về lại.
102. Cầu lìa ách nạn, được thoát ách nạn.
103. Cầu khỏi bệnh hoạn, sẽ được trừ lành.
104. Xem những việc đã qua, không
chướng ngại.
105. Xem những việc đã qua, có chướng
ngại.
106. Xem nơi đang ở, được dừng ở yên.
107. Xem nơi đang ở, chẳng được bình an.
108. Nơi vừa mới đến, được sự an vui.
109. Nơi vừa mới đến, là có ách nạn.
110. Nơi vừa mới đến, là lưới của ma.
111. Nơi vừa mới đến, khó thể khai hóa.
112. Nơi vừa mới đến, có thể khai hóa.
113. Nơi vừa mới đến, tự được lợi ích.
114. Con đường dạo qua, không bị não hại.
115. Con đường dạo qua, có bị não hại.
116. Vua dân ác, nên đói kém nổi lên.
117. Vua dân ác, nên nhiều bệnh ôn dịch.
118. Vua dân tốt, nên nước được giàu vui.
119. Vua vô đạo, nên nước tai hại lớn.
120. Vua tu đức, tai nạn loạn ly diệt.
54 55 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
121. Vua làm ác, nước sắp bị phá hoại.
122. Vua tu thiện, nước được xây dựng lại.
123. Xem chỗ dạo qua, được khỏi các nạn.
124. Xem chỗ dạo qua, chẳng thoát khỏi
nạn.
125. Nơi đang được ở, mọi người an ổn.
126. Nơi đang được ở, có sự chướng ngại.
127. Tụ lạc đang ở, mọi người chẳng yên.
128. Là nơi nhàn tịnh, không có ác nạn.
129. Xem ra quái lạ, nhưng không tổn hại.
130. Xem ra quái lạ, có sự tổn hại.
131. Xem ra quái lạ, tinh tấn thì an.
132. Giấc mộng được thấy, không gây
tổn hại.
133. Giấc mộng được thấy, có sự tổn hại.
134. Giấc mộng được thấy, tinh tấn thì an.
135. Giấc mộng được thấy, là một lợi lành.
136. Thấy chướng loạn đó, nhưng mau
được lìa.
137. Thấy chướng nạn đó, lần lần được lìa.
138. Thấy chướng loạn đó, mà chẳng lìa
khỏi.
139. Thấy chướng loạn đó, nhứt tâm là trừ.
140. Thấy nạn đang bị, nhưng mau được
thoát.
141. Thấy nạn đang bị, lâu mới được thoát.
142. Thấy nạn đang bị, chịu nhiều suy não.
143. Thấy nạn đang bị, tinh tấn sẽ thoát.
144. Thấy nạn đang bị, biết mạng sắp chết.
145. Thấy bệnh đang mắc, rất chẳng nên
điều trị.
146. Thấy bệnh đang mắc, chẳng phải
người phá.
147. Thấy bệnh đang mắc, hợp với phi nhân.
148. Thấy bệnh đang mắc, có thể trị liệu.
149. Thấy bệnh đang mắc, khó thể trị liệu.
150. Thấy bệnh đang mắc, tinh tấn là lành.
151. Thấy bệnh đang mắc, phải khổ lâu dài.
56 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác
152. Thấy bệnh đang mắc, tự động sẽ lành.
153. Thấy bệnh đang mắc, đến thầy khám
mới trị nổi.
154. Thấy bệnh được chữa, là trị đúng pháp.
155. Thuốc đang được uống, sẽ được hiệu lực.
156. Thấy bệnh đang mắc, được trừ lành hẳn.
157. Thầy được tìm đến, chẳng thể trị liệu.
158. Cách được trị liệu, là chữa trị sai.
159. Thuốc đem cho uống, chẳng được
hiệu lực.
160. Thấy bệnh đang mắc, là mạng sắp chết.
161. Đó là trong đường địa ngục mà đến.
162. Từ trong con đường súc sinh mà đến.
163. Từ trong con đường ngã qủy mà đến.
164. Từ trong con đường A tu la mà đến.
165. Từ trong nhân loại mà đến.
166. Từ trong loài trời mà tái sinh đến.
167. Từ trong những người tại gia mà đến.
168. Từ trong hàng ngũ xuất gia mà đến.
169. Đã từng gặp Phật cúng dường mà đến.
170. Từng gần cúng dường Hiền Thánh
mà đến.
171. Từng được nghe Pháp rất sâu mà đến.
172. Bỏ thân này rồi, sẽ vào địa ngục.
173. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm súc sinh.
174. Bỏ thân rồi, sẽ đọa làm ngã qủy.
175. Bỏ thân rồi, sẽ làm A tu la.
176. Bỏ thân rồi, sẽ sinh vào nhân đạo.
177. Bỏ thân rồi, làm vua trong loài người.
178. Bỏ thân rồi, sẽ sinh lên cõi trời.
179. Bỏ thân rồi, sẽ làm vua cõi trời.
180. Bỏ thân rồi, sẽ nghe Pháp rất sâu.
181. Bỏ thân rồi, được xuất gia tu học.
182. Bỏ thân rồi, sẽ được gặp Thánh Tăng.
183. Bỏ thân rồi, sinh lên trời Đâu Suất.
184. Bỏ thân rồi, sinh Tịnh độ của Phật.
185. Bỏ thân rồi, liền được thấy đức Phật.
186. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa dưới
58 59 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
(Thanh Văn)
187. Bỏ thân rồi, sẽ trụ vào thừa giữa
(Duyên Giác)
188. Bỏ thân rồi, sẽ chứng được đạo quả.
189. Bỏ thân rồi, liền được bậc Thượng thừa.
- Này thiện nam tử! Đó gọi là những
tướng sai biệt của 189 thứ quả báo lành dữ.
Cách chiêm sát như thế, đều tùy sự chú ý và
tùy tâm của người được xem đến. Nếu các
số cộng, với ý người tương xứng, thì không
sai lạc. Các số cộng, gieo cho người nào, mà
con số thành với việc tâm đang chú trọng
theo đuổi để xem, kết quả không tương
xứng, ấy là chẳng hết lòng thành, như thế
gọi là hư luống. Người nào gieo ba lần mà
không thấy hiện số, là kẻ ấy đã được “vô sở
hữu” (không gì để vướng mắc).
- Lại nữa! Thiện nam tử! Nếu tự phát ý
xem cho người khác đang chịu quả báo, thì
sự việc cũng đồng như vậy.
Nếu có người nào chẳng thể tự chiêm,
mà đến cầu thỉnh muốn xem cho họ, phải
nên cân nhắc, quán xét tâm mình, có tham
danh lợi thế gian hay không, bên trong ý có
thanh tịnh hay không, sau mới có thể quy
kính tu hành, cúng dường như trước dốc
lòng phát nguyện, vì họ chiêm sát, chẳng
nên tham cầu danh lợi thế gian, như việc
làm của những hạng thầy tà, để tự phương
hại, rối loạn cho người. Nếu xét trong tâm
chẳng được thanh tịnh, dầu cho chiêm sát,
nhưng chẳng tương xứng, chỉ là sai lầm một
cách hư luống mà thôi.
- Lại nữa, các hạng chúng sinh về đời sau
này, bất cứ việc gì được chiêm sát đến, mà
chẳng đạt được kết quả tốt lành, việc cầu
chẳng được, nhiều sự lo âu, lúc bị bức bách,
lo rầu sợ sệt, phải nên sớm tối thường nên
60 61 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
tụng niệm danh hiệu của Ta. Nếu luôn chí
thành thì việc chiêm sát, sẽ được tốt lành,
cầu gì được nấy, hiện đời lìa khỏi những sự
suy buồn.
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Hết quyển thượng
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Quyển Hạ
Đời Tùy Tam tạng Pháp Sư: BỒ ĐỀ ĐĂNG
Người nước Ấn Độ, dịch Phạn Văn ra Hán văn.
Việt dịch: THÍCH THIỆN THÔNG
Bấy giờ Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín
hỏi Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát rằng:
- Làm sao mở bày phương tiện, chỉ cho
những người muốn hướng đến Đại thừa?
Ngài Địa Tạng đáp:
- Này thiện nam tử! Nếu có người nào
muốn hướng về Đại thừa, trước hết người
ấy phải biết hạnh nghiệp căn bản ban đầu.
Hạnh nghiệp căn bản đầu tiên là gì? Đó là
nương vào cảnh giới của Nhất Thật Tướng,
để tu lòng tin và sự hiểu biết. Nhờ sức tin
hiểu thêm lớn cho nên nhanh chóng được
vào dòng giống Bồ Tát.
62 63 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Cảnh giới của Nhất Thật Tướng là gì?
- Nghĩa là bản thể nơi tâm của tất cả
chúng sinh, từ trước đến giờ chẳng sinh
chẳng diệt, tự tính nó thanh tịnh, không
chướng không ngại, dường như hư không
vì lìa phân biệt, bình đẳng khắp giáp, nơi
nào cũng có, tràn đầy khắp mười phương,
rốt ráo một tướng, không hai không khác,
chẳng biến, chẳng đổi, không thêm, không
bớt. Do vì bản thể nơi tâm của tất cả chúng
sinh, nơi tâm của tất cả Thanh Văn, Độc
Giác, nơi tâm của tất cả Bồ Tát và nơi tâm
của tất cả chư Phật, đều cùng chẳng sinh
chẳng diệt, không nhiễm, không tịnh, đồng
là một tướng chân như. Tại sao vậy? Vì tất
cả những tâm có khởi phân biệt, đều như
huyễn hóa, không hề chân thật. Nghĩa là:
Những Pháp số của tâm như: ức niệm, lo
lắng, xét biết v.v…thuộc bốn uẩn là Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải xanh,
chẳng phải vàng, chẳng phải đỏ, chẳng phải
trắng, chẳng phải tạp sắc, chẳng có dài
ngắn, vuông tròn, lớn, nhỏ…cho đến cùng
tận mười phương hư không, tất cả thế giới,
tìm về hình trạng tâm này, không một chút
phần, có thể nắm bắt. Chỉ vì chúng sinh bị
vô minh si tối làm nhân làm duyên huân
tập, hiện ra cảnh giới hư vọng, khiến sinh
nhớ nghĩ vướng mắc.
Tâm này nó chẳng thể tự biết, vọng tự bảo
có, khởi tưởng xét nét, so đo về ngã, sở hữu
của ngã, nhưng thật ra không có cái tướng
của giác tri. Bởi vọng tâm này rốt ráo không
có thật thể, vì chẳng thể tìm thấy cái thật thể
của vọng tâm. Nếu không có cái năng phân
biệt của giác tri, thì không có cái tướng của
tất cả cảnh giới sai biệt thuộc mười phương
ba đời, bởi tất cả Pháp đều chẳng thể tự có,
chỉ nương sự phân biệt của vọng tâm mà có.
Nghĩa là tất cả cảnh giới, mỗi mỗi chẳng tự
nghĩ mình là có, chẳng biết đây là tự, kia là
tha. Thế nên tất cả Pháp chẳng thể tự có, ắt
64 65 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
không đổi khác. Chỉ nương vọng tâm, chẳng
biết chẳng rõ, vì bên trong tự không. Tức
là: Có cái bị biết bên ngoài, rồi vọng sinh
các thứ tưởng Pháp, cho là có, cho là không,
bảo kia, bảo đây, bảo phải, bảo trái, bảo tốt,
bảo xấu…cho đến vọng sinh vô lượng vô
biên tư tưởng về Pháp. Nên biết tất cả các
Pháp như thế, đều từ vọng tưởng sinh ra,
nương vọng tâm làm gốc. Nhưng vì vọng
tâm không tự tướng, cũng chỉ nương cảnh
giới mà có. Nghĩa là nó duyên niệm xét biết
theo cảnh giới đằng trước, cho nên gọi là
tâm. Vả lại, vọng tâm này với cảnh giới mé
trước, mặc dù đều nương vào nhau, nhưng
sự phát khởi của nó không trước sau gì cả
và vọng tâm này luôn luôn là nguồn gốc, là
chủ tể của tất cả cảnh giới. Tại sao vậy? Bởi
vì, nương vào vọng tâm mà vọng tâm này
chẳng rõ một tướng Pháp giới, vì thế nói
rằng tâm có vô minh. Nương vào sức mạnh
vô minh làm nhân, cho nên hiện ra cảnh
giới hư vọng. Lại cũng do vô minh diệt, cho
nên tất cả cảnh giới cũng diệt theo. Chẳng
phải do tất cả cảnh giới tự chẳng sáng tỏ
mà nói cảnh giới có vô minh, cũng chẳng
phải nương nơi cảnh giới mà sinh vô minh.
Tất cả các đức Phật đối với tất cả cảnh giới
chẳng sinh vô minh.
Lại nữa, chẳng do cảnh giới diệt mà tâm
vô minh diệt. Bởi tất cả cảnh giới, từ trước
đến giờ thể tính tự vắng lặng, vì chưa từng
có bất cứ thứ gì. Do nghĩa như thế, cho nên
chỉ nói, tất cả các Pháp nương nơi tâm làm
gốc. Nên biết, tất cả các Pháp, Pháp nào
cũng gọi là tâm, vì nghĩa của thể không thay
đổi, và được nhiếp vào tâm vậy.
Lại nữa, tất cả các Pháp, được khởi từ
tâm, với tâm mà tạo ra tướng, hòa hợp mà
có, cùng sinh cùng diệt, đồng không dừng
trụ. Bởi tất cả cảnh giới chỉ bị duyên của
tâm, niệm niệm tiếp nối mà được duy trì,
tạm thời được có.
66 67 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Về nghĩa của tâm được nói trên đây, có
hai thứ tướng. Thế nào là hai?
Một là tướng bên trong tâm. Hai là tướng
bên ngoài tâm.
- Tướng bên trong tâm lại có hai thứ.
Một là chân, hai là vọng.
Chân là gì? Đó là cái tướng sẵn có nơi
thể của tâm, tướng này như như chẳng đổi,
thanh tịnh tròn đầy không chướng, không
ngại, kín nhiệm khó thấy. Bởi nó khắp giáp
tất cả chỗ, thường hằng không hoại, nên có
thể kiến lập, sinh trưởng tất cả Pháp.
Vọng là gì? Tức là luôn luôn khởi niệm,
phân biệt, xét nét, duyên lự, nhớ tưởng các
việc. Mặc dù liên tục hay sinh tất cả cảnh
giới, nhưng thể bên trong của nó là hư ngụy,
không hề chân thật, và cũng không thể tìm
thấy nó.
- Tướng bên ngoài tâm, tức là tất cả các
Pháp và các thứ cảnh giới v.v…Tùy có cái
bị niệm mà cảnh giới hiện ra trước, vì vậy
mà biết, có sự sai biệt giữa tâm bên trong và
tâm bên ngoài. Thế thì nên biết, tướng vọng
bên trong, là nhân, là thể, tướng vọng bên
ngoài, là quả là dụng.
Do những nghĩa như vậy, thế nên ta nói:
Tất cả các Pháp, đều gọi là tâm.
Lại nữa, nên biết cái tướng bên ngoài của
tâm. Tướng này cũng như các thứ cảnh giới
bị thấy trong mộng, duy tâm hiện ra, không
có việc thật bên ngoài. Tất cả cảnh giới đều
cũng như vậy, bởi đều nương vào giấc mộng
vô minh của nghiệp thức mà được thấy,
vọng tưởng mà thành.
Lại nữa, nên biết mỗi niệm, mỗi niệm
trong nội tâm đều chẳng có dừng trụ, cho
nên tất cả cảnh giới bị thấy, bị duyên, cũng
tùy theo tâm mà niệm niệm chẳng dừng.
Nghĩa là: Tâm sinh, nên các Pháp sinh, tâm
diệt, nên các Pháp diệt. Tướng sinh diệt này
chỉ có tên gọi, thật bất khả đắc. Bởi vì tâm
chẳng qua đến cảnh giới, cảnh giới chẳng
68 69 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
về đến tâm, như tướng trong gương, không
đến không đi, thế nên tất cả Pháp, tìm tướng
sinh diệt nhất định trọn chẳng thể được.
Nghĩa là tất cả Pháp rốt ráo không có thật
thể, từ trước đến giờ luôn luôn rỗng rang, vì
thật sự chẳng sinh chẳng diệt vậy.
Tất cả các Pháp thật không có sinh diệt
như thế, thì không có tướng cảnh giới sai
khác, mà là vắng lặng nhất vị. Như thế gọi
là Chân Như, gọi là Đệ nhất Nghĩa đế, gọi
là Tự tính Thanh tịnh Tâm. Tự tính Thanh
tịnh Tâm ấy long trọng, tròn đầy, vì không
có cái tướng phân biệt. Tướng không phân
biệt tức là, đối với tất cả chỗ, không đâu mà
chẳng hiện hữu. Vì nó hiện hữu ở khắp giáp,
do đó có thể nương vào sự hiện hữu này mà
duy trì và dụng lập tất cả Pháp.
Lại nữa, tâm đó gọi là Như Lai Tạng,
Như Lai Tạng nghĩa là: Tâm này gồm chứa
đầy đủ vô lượng vô biên bất khả tư nghì
chủng tử vô lậu và công đức thanh tịnh, vì
Pháp thân của chư Phật, từ ngằn mé vô thỉ
đến nay, không chướng, không ngại, tự tại
chẳng diệt. Tất cả mọi sự hóa hiện và những
công đức nghiệp hằng thường lẫy lừng,
chưa bao giờ dứt. Nghĩa là chư Phật đều thị
hiện Phật ở trong tất cả thế giới, ứng hóa đủ
cách làm lợi ích chúng sinh. Do đó thân một
đức Phật, chính là thân của tất cả chư Phật,
thân của tất cả chư Phật cũng chính là thân
một đức Phật, và bao nhiêu việc làm cũng
đồng là một, tức là không tướng phân biệt,
không niệm kia đây, bình đẳng không hai.
Bởi nương vào một Pháp tính mà có sự tác
nghiệp, đồng ứng hóa một cách tự nhiên, vì
thể không đổi khác vậy.
Như trên đã nói, Pháp thân của các đức
Phật khắp tất cả chỗ và tròn đầy bất động,
tùy các chúng sinh, chết đây sinh kia mà luôn
luôn làm chỗ nương tựa cho các chúng sinh.
Ví như hư không đều có thể dung nạp tất cả
sắc tướng và các thứ hình trạng. Tất cả sắc
70 71 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
tướng và các thứ hình trạng đều nương nơi
không mà có sự dựng lập và sinh trưởng ở
trong hư không, bị nhiếp vào nơi hư không,
lấy hư không làm thể, không có vật gì có thể
ra ngoài ranh giới của hư không. Nên biết,
trong mọi sắc tướng biên giới hư không
chẳng bị hủy diệt, khi sắc tướng hoại bèn
trở về với hư không và biên giới hư không
sẵn có không thêm, không bớt, chẳng động,
chẳng biến đổi.
Pháp thân của các đức Phật cũng lại
như vậy, đều có thể dung nạp các thứ quả
báo của tất cả chúng sinh, đều nương vào
Pháp thân của các đức Phật, mà có sự dựng
lập và sinh trưởng, ở trong Pháp thân, bị
nhiếp nơi Pháp thân, lấy Pháp thân làm
thể, không một vật gì có thể ra ngoài ranh
giới của Pháp thân. Nên biết trong thân của
tất cả chúng sinh, Pháp thân của chư Phật
cũng chẳng thể hủy diệt, nếu khi phiền não
bị đoạn trừ, sẽ trở về với Pháp thân, về biên
giới Pháp thân sẵn có không thêm không
bớt, chẳng động, chẳng biến đổi.
Chỉ vì từ đời vô thỉ trở lại đây, tâm tương
ưng với vô minh, do năng lực nhân duyên
huân tập si ám, cho nên hiện ra cảnh giới hư
vọng, rồi do nương vào cảnh giới hư vọng,
làm nhân làm duyên huân tập mà khởi
vọng tưởng, tương ưng với tâm, chấp ngã,
sở hữu của ngã, tạo chứa các nghiệp, để rồi
chịu khổ sống chết không ngừng, thay vì gọi
Pháp thân, lại gọi là chúng sinh.
Nếu trong số các chúng sinh, người nào
có được năng lực huân tập của Pháp thân,
thì phiền não của chúng sinh ấy lần lần cạn
mỏng, có thể nhàm chán sự khổ thế gian và
cầu đạo quả Niết Bàn, tin tưởng quay về với
Nhất Thật Tướng, tu sáu Pháp ba la mật và
tất cả Pháp phần Bồ Đề, đó mệnh danh là
Bồ Tát. Trong số những Bồ Tát như thế, vị
nào tu hành tất cả thiện Pháp một cách đầy
đủ hoàn toàn, rốt ráo được lìa giấc ngủ vô
72 73 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
minh, sẽ được mệnh danh là Phật. Lại nên
biết rằng, danh từ chúng sinh, Bồ Tát, Phật
v.v… chỉ nương lời lẽ giả gọi của thế gian để
nói mà thôi, về thể của Pháp thân, thì không
có gì sai khác, rốt ráo bình đẳng, không có
tướng biến đổi.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
- Này thiện nam tử! Trên đây là lược nói
ý nghĩa cảnh giới của Nhất Thật Tướng,
nếu muốn nương vào cảnh giới Nhất Thật
Tướng, để tu lòng tin và sự hiểu biết  (28) , thì
hãy nên học tập hai đường lối quán chiếu.
Thế nào là hai?
- Một là quán các Pháp đều Duy tâm Duy
thức. Hai là quán Thật tướng Chân như.
Về cách học quán Duy tâm Duy thức thì:
Trong tất cả thời, trong tất cả chỗ, tùy
thân, khẩu, ý có sự móng niệm, đều phải
quán xét, biết những niệm khởi chỉ là do
tâm, cho đến bất cứ cảnh giới gì, nếu tâm trú
vào sự nhớ nghĩ, thì phải xét biết và buông
xả, chớ để cho tâm rơi vào tình trạng vô ký
(29) , hoặc vin theo duyên mà không tự kiểm
soát. Trong mỗi mỗi niệm đều nên quán sát,
tùy ý niệm nào mà tâm duyên đến, lập tức
thâu nhiếp trở lại, không để cho tâm theo
đuổi những ý niệm đó. Làm sao cho tâm tự
biết, nội tâm của mình tự sinh tưởng niệm,
chẳng phải tất cả cảnh giới có tưởng niệm,
có phân biệt. Nghĩa là nội tâm tự sinh các
quan niệm như: hay dở, tốt xấu, phải quấy,
được mất, suy lợi, có không v.v…tóm lại là
vô lượng ý tưởng. Song, tất cả cảnh giới chưa
từng có tưởng, chưa từng có khởi phân biệt,
nên biết tất cả cảnh giới, tự nó không có
tư tưởng phân biệt, tức là tự nó chẳng phải
hay dở, chẳng phải tốt xấu, cho đến chẳng
phải có, chẳng phải không, lìa tất cả tướng.
Cứ như vậy quán sát, biết tất cả Pháp chỉ
duy tâm tưởng mà sinh. Nếu như lìa tâm, thì
không có tướng bất cứ một Pháp nào có thể
tự thấy có sự sai biệt. Thường nên như vậy
74 75 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
mà khắc ghi và giữ gìn nội tâm, biết rằng
chỉ có vọng niệm, không có cảnh giới chân
thật. Sự quán sát này cần phải đều đặn, chớ
cho bỏ dở. Đây gọi là sự tu học duy tâm, duy
thức quán.
Nếu tâm bị vô ký, chẳng biết tự tâm đang
nghĩ gì, đó chính là có cảnh giới ở trước,
chẳng gọi là duy tâm thức quán.
Vả lại, gìn giữ và khắc ghi nội tâm, ắt
biết được, tưởng tham, tưởng sân, tưởng
si, tưởng tà kiến. Biết thiện, biết bất thiện,
biết vô ký, biết tâm lao lư nghĩ đến các sự
khổ v.v… Nếu khi tịnh tọa, tùy đối tượng bị
duyên của tâm mà mỗi niệm xét biết sự sinh
diệt của duy tâm, ví như dòng nước trôi
chảy, hay ánh lửa tiếp nối của ngọn đèn,
không lúc nào tạm thời dừng lại. Từ đó sẽ
được chính định vắng lặng các sắc. Được
tam muội này rồi, kế đến học tập đức tin về
quán tâm của Pháp Xa Ma Tha  (30) và đức
tin về quán tâm của Pháp Tỳ Bát Xá Na  (31) .
Học tập đức tin về quán tâm của Pháp
Xa Ma Tha nghĩa là: Tư duy về tướng chẳng
thể thấy của nội tâm. Tướng này tròn đầy,
bất động, không đến, không đi, bản tính
chẳng sinh, chẳng diệt, vì lìa phân biệt vậy.
Học tập đức tin về quán tâm của Pháp Tỳ
Bát Xá Na nghĩa là: Xét biết những tư tưởng,
nhận biết các sắc bên trong bên ngoài, đều
theo tâm mà sinh, theo tâm mà diệt, cả đến
tư tưởng nhận thức về sắc thân Phật cũng
vậy, đều tùy tâm sinh, tùy tâm mà diệt, như
huyễn như hóa, như trăng dưới nước, như
bóng trong gương, chúng chẳng phải tâm,
cũng chẳng lìa tâm, không phải đến, không
phải chẳng đến, không phải đi, không phải
chẳng đi, không phải sinh, không phải bất
sinh, không phải tác động, không phải chẳng
tác động.
Đại Bồ Tát Địa Tạng, bảo Ngài Kiên Tịnh
Tín:
- Này thiện nam tử! Nếu luôn luôn dùng
76 77 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
đức tin, tu tập hai Pháp quán tâm như vậy,
mau được ngộ ra đạo lý nhất thừa. Nên
biết, quán Pháp duy tâm duy thức như vậy,
gọi là ngưỡng cửa trí tuệ cao tột hơn hết.
Ngưỡng cửa này có thể khiến cho tâm của
hành giả mạnh mẽ bén nhạy và thêm lớn
sức tin hiểu, nhanh chóng vào nghĩa không
của Đại thừa, và phát được tâm Vô thượng
Đại Bồ Đề.
Trên đây là nói về Pháp quán Duy tâm
Duy thức.
Nếu muốn học tập Pháp quán Thật tướng
Chân như thì: Hành giả tư duy về tính của
tâm vốn không sinh, không diệt, không trụ
vào cái thấy nghe hiểu biết, lìa hẳn tất cả
những tưởng phân biệt, lần lần có thể vượt
qua tướng cảnh giới của các định không vô
biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi
tưởng, phi phi tưởng xứ. Được tương tự với
không tam muội, thì tướng phân biệt thô
của Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng hiện
ra trước từ đó mà tiến tu thêm, sẽ làm bậc
thiện tri thức, với lòng từ bi quảng đại. Vì
khéo bảo nhiệm và trưởng dưỡng, cho nên
lìa các chướng ngại, siêng tu chẳng bỏ phế
lần lượt có thể vào tam muội vắng lặng của
tâm. Được Tam muội đó rồi, lại liền có thể
nhập Nhất hạnh Tam muội, nhập Nhất hạnh
Tam muội rồi, thấy vô số đức Phật và phát
những tâm hạnh sâu rộng chẳng thể nghĩ
bàn, trụ vào bậc Kiên Tín  (32) .
Trên đây là đường lối của hai Pháp quán
Xa Ma Tha và Tỳ Bát Xá Na, chắc chắn được
sự tin hiểu, có thể quyết định thú hướng Bồ
Đề, tùy chỗ tu học các Tam muội Thiền định
và sự nghiệp thế gian, nhưng không bị đắm
trước, cho đến có thể tu khắp tất cả thiện
căn của Pháp phần Bồ Đề, đối với sự sống
chết không bị khiếp sợ, không thích Nhị
thừa. Bởi nương vào phương tiện hay khéo,
vô cùng vi diệu và khả năng tu tập bằng hai
đường lối quán tâm này, có thể làm chỗ sở y
78 79 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
cho các thứ trí tuệ và các hạnh căn bản vậy.
Lại nữa, tu học sự tin hiểu như trên gồm
có hai hạng người. Thế nào là hai? Một là
hạng căn tính lanh lợi. Hai là hạng căn tính
chậm lụt.
Hạng căn tính lanh lợi: Người này trước
đó đã biết: Tất cả các cảnh giới bên ngoài,
duy tâm tạo ra, hư dối chẳng thật, như
mộng, như huyễn, quyết định không còn
nghi ngờ gì nữa, năm món cái nhẹ mỏng,
tâm tán loạn cũng ít. Hạng người nói trên,
nên học tập ngay Pháp quán Thật tướng
Chân như.
Hạng người căn tính chậm lụt: Hạng này
trước đó chưa thể biết tất cả các cảnh giới
bên ngoài, đều chỉ là tâm, vì hư dối không
thật. Tình thức nhiễm mắc của họ dày đặc,
năm món cái nhiều phen nổi lên, tâm khó
điều phục, thì trước hết phải nên học Pháp
quán duy tâm thức. Nếu người nào, tuy học
sự tin hiểu như vậy, nhưng chủng tử thiện
căn còn mỏng, chưa thể tiến lên, các phiền
não xấu ác chẳng bị bẻ dẹp lần lần, và tâm
những người ấy nghi ngờ khiếp nhược, sợ
đọa vào ba đường ác, hoặc sinh vào chỗ tám
nạn  (33) , sợ chẳng thường được gặp đức Phật,
chư vị Bồ Tát, các bậc Thánh nhân, chẳng
được cúng dường nghe nhận chính Pháp,
sợ hạnh Bồ Đề khó thể thành tựu… Có các
thứ nghi sợ và những chướng ngại như thế
v.v…thì nên trong tất cả thời, trong tất cả
chỗ, thường xuyên tụng niệm danh hiệu của
Ta, Địa Tạng Bồ Tát. Nếu được nhất tâm
thì căn lành sẽ thêm lớn và ý chí người ấy
dõng mãnh lanh lợi. Lại thêm quán Pháp
thân của Ta, và Pháp thân của tất cả các
đức Phật, với tự thân của mình thể tính đều
bình đẳng, không hai không khác, chẳng
sinh chẳng diệt, có đủ bốn đức thường, lạc,
ngã, tịnh, công đức tràn đầy. Đó là điều
đáng nên nương tựa.
- Lại nữa, hành giả thường nên quán
80 81 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
sát thân mình và cái tướng của tâm đều vô
thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, như huyễn,
như hóa, đáng chán, đáng lìa.
Nếu luôn luôn tu học Pháp quán như
vậy, hành giả mau được tăng trưởng đức
tin thanh tịnh, bao nhiêu chướng ngại lần
lần giảm bớt. Tại sao vậy ?
- Vì những người này được gọi là học tập
theo sự nghe danh hiệu của ta, cũng có thể
nói, học tập sự nghe danh hiệu của các đức
Phật trong mười phương. Được gọi là sự học
tập chí tâm lễ lạy và cúng dường ta, và hay
học sự chí tâm lễ lạy cúng dường đức Phật
trong mười phương. Được gọi là học sự nghe
những Kinh điển thâm sâu đại thừa. Được
gọi là sự giữ gìn biên chép, cúng dường cung
kính Kinh điển Đại thừa sâu thẳm. Được gọi
là học sự xa lìa những chấp trước tà vạy, đối
với nghĩa lý sâu xa của chính Pháp, chẳng
bị rơi vào sự phỉ báng chê bai. Được gọi là
đối với đệ nhất nghĩa, rốt ráo sâu xa của
thật tướng, học sự tin hiểu. Được gọi là hay
trừ các thứ tội chướng. Được gọi là sẽ được
sự chứa nhóm vô lượng công đức.
Những người nói trên, khi bỏ thân này,
trọn chẳng đọa vào ác đạo và tám chỗ nạn.
Khi sinh trở lại được nghe chính Pháp và
tin tưởng học tập tu hành. Cũng có thể tùy
nguyện sinh về Tịnh Độ của các đức Phật ở
các phương khác.
- Lại nữa, nếu như người nào muốn sinh
Tịnh Độ hiện tại ở phương khác, thì phải
theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó  (34) mà
chuyên ý niệm tụng, một lòng chẳng loạn và
quán sát Pháp thân như đã nói trên, người ấy
quyết định được sinh Tịnh Độ của đức Phật
ấy. Chừng đó căn lành sẽ thêm lớn và mau
được bất thoái. Nên biết, sự nhất tâm buộc
niệm tư duy Pháp thân bình đẳng của các
đức Phật được nói trên đây, đối trọng tất cả
căn lành, nó là tịnh nghiệp trỗi vượt trên hết.
Do đó, người nào siêng năng tu tập, lần lần có
82 83 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
thể hướng đến Nhất hạnh Tam muội. Một khi
được vào Nhất hạnh Tam muội, là thành tựu
tâm hạnh rộng lớn nhiệm mầu, mệnh danh là
được tương tự với Vô sinh Pháp nhẫn.
Bởi luôn luôn được nghe danh hiệu của
Ta, cho nên cũng luôn luôn được nghe danh
hiệu của chư Phật mười phương. Bởi luôn
luôn dốc lòng lễ lạy cúng dường Ta, cho
nên cũng luôn luôn lễ lạy cúng dường mười
phương chư Phật. Bởi luôn luôn được nghe
Kinh điển Đại thừa sâu thẳm, luôn luôn gìn
giữ biên chép cúng dường, cung kính Kinh
điển Đại thừa sâu thẳm, luôn luôn thọ trì, đọc
tụng Kinh điển Đại thừa sâu thẳm, cho nên
có thể đối với đệ nhất nghĩa của thật tướng
sâu thẳm rốt ráo, chẳng sinh sợ sệt, xa lìa
phỉ báng, được tâm chính kiến, luôn luôn tin
hiểu, quyết định trừ diệt các thứ tội chướng
và hiện đời thực chứng vô lượng công đức.
Tại sao vậy?
- Vì được tâm Bồ Đề vô phân biệt, vì
được trí tuệ vắng lặng hiện tiền, vì phát khởi
chủng tử phương tiện các thứ nguyện hạnh.
Luôn luôn nghe danh hiệu của ta, là được
sự quyết định của đức tin và việc làm lợi
ích, cho nên bất cứ việc gì có thể làm, đều
được chẳng thoái chuyển nghiệp nhân của
đạo nhất thừa vật.
Nếu tu hành với tâm tạp loạn cấu uế,
thì dầu có xưng tụng danh hiệu của Ta, đó
chẳng được gọi là nghe danh hiệu, vì chẳng
hay sinh sự tin hiểu quyết định, chỉ gặt hái
quả báo lành nhỏ mọn của thế gian mà thôi,
chẳng được lợi ích rộng lớn sâu diệu. Hành
giả nào tu với tâm tạp loạn cấu uế như vậy,
tùy tu bất cứ thiện Pháp nào, đều chẳng thể
được lợi ích sâu rộng.
Bồ Tát Địa Tạng bảo Ngài Kiên Tịnh Tín:
- Thiện nam tử: nên biết, sự siêng lòng
tu học môn Thiền vô tướng trên đây, không
lâu sẽ được lợi ích rộng lớn sâu xa, lần hồi
thành Phật.
84 85 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Sự lợi ích rộng lớn sâu xa là: được vào
Pháp vị Kiên Tín, vì thành tựu Tín nhẫn  (35) .
Vào địa vị Kiên tu  (36) , vì thành tựu Thuận
nhẫn  (37) , vào Chính nhân vị  (38) vì thành tựu
Vô sinh nhẫn  (39) .
Lại thành tựu Tín nhẫn, là có thể trở
thành dòng giống của Như Lai. Thành tựu
Thuận nhẫn, có thể hiểu Hạnh của Như Lai.
Thành tựu Vô sinh nhẫn là được nghiệp của
Như Lai.
Lần hồi thành Phật là: lược nói có bốn
hạng.
- Một là: vì tròn đầy đức tin về Pháp mà
làm Phật. Nghĩa là: nương vào bậc Tập chủng
tính  (40) , quyết định tin các Pháp chẳng sinh
chẳng diệt, thanh tịnh, bình đẳng, không gì
đáng nguyện cầu.
- Hai là: vì hiểu trọn vẹn về Pháp mà làm
Phật. Nghĩa là, nương vào bậc Giải hạnh  (41) ,
hiểu sâu tính các Pháp, biết chủng tử của
Như Lai là không tạo, không tác, đối với
sinh tử và Niết Bàn, chẳng khởi hai tưởng
và tâm không bị sợ sệt.
- Ba là: vì chứng trọn vẹn Pháp mà làm
Phật, nghĩa là nương vào Tịnh tâm địa  (42) ,
do được trí vô phân biệt, thể nhập Pháp thân
tịch tịnh, cũng như nghiệp dụng tự nhiên
chẳng thể nghĩ bàn, không còn ý tưởng tìm
cầu nữa.
- Bốn là: tất cả hạnh công đức trọn vẹn
mà làm Phật. Nghĩa là, nương vào bậc Bồ
Tát cứu cánh địa
(43) có thể diệt trừ tất cả
chướng ngại, giấc mộng vô minh không còn.
Lại cũng nên biết, tu học theo môn Thiền
hữu tướng của thế gian, gồm có ba thứ. Thế
nào là ba?
- Một là: không có phương tiện và sức
tin hiểu, cho nên tham nhận công đức của
các thiền định rồi sinh kiêu mạn, bị sự hệ
phược của thiền, làm cho thoái tâm, chỉ cầu
mối lợi thế gian.
- Hai là: không có phương tiện và sức
86 87 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
tin hiểu, cho nên nương vào thiền mà phát
khởi hạnh chán lìa một bên khiếp sợ sinh
tử, thoái đọa vào hàng Nhị thừa.
- Ba là: có phương tiện và sức tin hiểu.
Nghĩa là, nương tựa cảnh giới Nhất Thật
Tướng, tu tập gần với đường lối hai Pháp
quán Xa Ma Tha, Tỳ Bát Xá Na, nên có thể
tin hiểu tất cả các Pháp, duy tâm tưởng sinh,
đồng như mộng như huyễn. Dầu được công
đức của thiền định thế gian, mà chẳng đắm
trước kiên cố, chẳng còn thoái tâm, cầu quả
báo trong ba cõi. Lại tin và biết sinh tử cũng
chính là Niết Bàn, nên cũng chẳng sợ sệt,
khiếp nhược, chẳng thoái cầu quả Nhị thừa.
Người tu học tất cả Thiền định Tam
muội như đây, nên biết có mười môn tướng
thứ lớp, nhiếp lấy đầy đủ sự nghiệp thiền
định, có thể làm cho người học thành tựu
sự tương ưng mà không lầm, không lộn.
Những gì là mười?
- Một là: Tướng phương tiện nhiếp niệm.
- Hai là: Tướng muốn trụ cảnh giới.
- Ba là: Tướng biết sự xuất nhập một
cách tỏ rõ cảnh giới vừa mới trụ tâm.
- Bốn là: khéo trụ cảnh giới được vững
vàng.
- Năm là: Tướng mống khởi tư duy
phương tiện dõng mãnh, càng cầu sự tiến
thủ hơn nữa.
- Sáu là: Tướng lần lần được điều độ,
xứng với hỷ lạc của tâm, trừ mối nghi ngờ,
thêm sự tin hiểu và tự an ủi mình.
- Bảy là: Tướng chắc được sự thắng tiến,
bởi ý chuyên nhất, tương ưng ít phần với
khả năng nhận thức.
- Tám là: Tướng công tu, thêm sáng suốt,
công phu thêm vững vàng, được công đức
thù thắng, thành tựu sự đối trị vọng tâm.
- Chín là: Tướng tùy tâm hành giả khởi
niệm làm những gì, muốn thị hiện công đức ra
ngoài, đều tương ưng với ý mà không sai lầm.
- Mười là: Tướng nếu muốn tu thêm
88 89 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Pháp khác, nương nơi sở đắc có trước mà
khởi phương tiện, sẽ lần lượt thành tựu,
xuất nhập tùy tâm, siêu việt một cách tự tại.
Đó gọi là mười môn tướng thứ lớp, nhiếp
hết sự nghiệp của người tu tập Thiền định.
Bấy giờ Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín hỏi
Đại Bồ Tát Địa Tạng:
- Ngài vì sao mà khéo nói Pháp sâu xa,
có thể khiến chúng sinh lìa sự khiếp nhược?
Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng đáp:
- Này thiện nam tử! Nên biết, người mới
phát ý cầu về Đại thừa mà chưa được tín
tâm, đối với giáo Pháp sâu xa của đạo Vô
Thượng, họ ưa sinh nghi ngờ khiếp nhược,
cho nên Ta dùng phương tiện hay khéo,
tuyên rõ nghĩa thật để an ủi họ, khiến lìa
khiếp nhược. Do đó hiệu của Ta là “Bậc
khéo nói an ủi”. An ủi như thế nào? Nghĩa
là những chúng sinh căn tính chậm lụt,
tâm lượng nhỏ hẹp, nghe sự tối thắng, tối
mầu của đạo Vô Thượng, mặc dù ý họ ham
thích, phát tâm hướng về, nhưng lại suy nghĩ
rằng: Sự cầu đạo Vô Thượng, cần phải chứa
công để đức rất rộng, tu những hạnh khổ
khó làm, phải tự độ, độ tha, trải qua kiếp số
dài xa, ở trong sinh tử lâu chịu siêng khổ,
mới có thể thành. Vì lý do đó họ sinh khiếp
nhược. Ta liền vì họ nói nghĩa lý chân thật.
Nghĩa là nói tất cả các Pháp bản tính tự rỗng
rang, rốt ráo vô ngã, không có người làm,
không có người thọ, không tự không tha,
không đi, không đến, không có phương sở,
cũng không quá khứ, hiện tại, vị lai, cho đến
vì họ nói mười tám món không. Tất cả các
Pháp không có tướng sinh tử Niết Bàn, cũng
không có tướng chắc thật có thể nắm bắt.
Lại vì họ nói: Tất cả các Pháp như huyễn,
như hóa, như trăng dưới nước, như bóng
trong gương, như thành Càn Thát Bà, như
tiếng dội trong hang trống, như quán nắng,
như bọt nước, như sương mốc, như đèn lòa,
như mắt bị nhặm, như mộng, như chớp, như
90 91 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
mây nổi đầu non, những phiền não sinh tử
tính nó rất yếu ớt, có thể dễ làm cho diệt
mất… Lại dạy họ rằng: phiền não sinh tử,
rốt ráo không có tự thể, tìm nó chẳng thể
được, xưa nay chẳng sinh, thật cũng chẳng
diệt, tự nó vắng lặng, chính là Niết Bàn…
Những lời nói như vậy, nhằm phá tất
cả mọi sự nhận thức sai lầm, bớt đi sự
chấp đắm nơi tự thân tâm, để chúng sinh
được lìa khiếp nhược.
Lại có chúng sinh, vì chẳng hiểu ý chỉ
nơi lời nói của đức Như Lai mà sinh khiếp
nhược. Ý chỉ nơi lời nói của đức Như Lai
như thế nào? Đó là: Đức Như Lai đã luôn
luôn nhìn thấy cảnh giới Nhất Thật Tướng,
rốt ráo lìa khỏi các pháp ác thuộc sinh, lão,
bệnh, tử, chứng được Pháp thân của Ngài,
Pháp thân này thường hằng không mất,
không biến đổi v.v…có sự chứa nhóm vô
lượng công đức. Như Lai lại có thể thấy tỏ
rõ trong thân của tất cả chúng sinh, đều có
sẵn những công đức chân thật, thanh tịnh
nhiệm mầu, nhưng vì bóng tối nhiễm ô của
vô minh che chướng, cho nên từ trước tới
giờ luôn luôn chịu vô lượng thứ khổ sinh,
già, bệnh, chết. Như Lai ngay đó khởi tâm
đại bi, muốn khiến cho tất cả chúng sinh lìa
các thứ khổ, đồng gặt hái sự vui đệ nhất của
Pháp thân và Pháp thân ấy là Pháp vô phân
biệt, lìa tất cả ý niệm. Chỉ có bậc hay diệt tư
tưởng hư vọng của thức, chẳng khởi niệm
phân biệt, mới có thể chứng nhập.
Chỉ vì tất cả chúng sinh, thường ưa phân
biệt, chấp đắm các Pháp, bởi điên đảo vọng
tưởng cho nên chịu sống chết triền miên, do
đó đức Như Lai muốn cho họ lìa ý tưởng
phân biệt chấp trước, cho nên Ngài nói: Tất
cả pháp thế gian rốt ráo của nó rỗng rang,
không là gì cả, cho đến tất cả những Pháp
xuất thế gian, bản thể của nó cũng rốt ráo,
rỗng không, không thuộc vào đâu…” Nếu nói
rộng ra thì như mười tám Pháp không  (44) . Sự
92 93 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
hiển bày tất cả các Pháp như vậy, đều chẳng
lìa thể của Bồ Đề. Thể của Bồ Đề chẳng thể
có, chẳng phải không, chẳng phải chẳng có,
chẳng phải chẳng không, chẳng phải cả có
lẫn không, chẳng phải một, chẳng phải khác,
chẳng phải chẳng một, chẳng phải chẳng
khác, chẳng phải một lẫn khác, cho đến rốt
ráo không một tướng nào có thể nắm bắt, vì
nó lìa hết tất cả tướng. Thế nào là lìa hết tất
cả tướng? Nghĩa là chẳng thể nương vào lời
lẽ để giữ lấy, vì trong Pháp của Bồ Đề, không
có sự lĩnh nhận bằng lời lẽ nói năng, và sự
nói năng không thể đến được, lại cũng chẳng
thể nương vào cái tâm có nghĩ ngợi mà biết
được. Trong Pháp Bồ Đề không có “người
hay giữ lấy và Pháp để giữ lấy”. Không ta,
không người vì lìa tướng phân biệt. Nếu còn
có sự phân biệt, chính là hư ngụy, chẳng gọi
là khế hợp với Bồ Đề…
Những lời dạy như thế của đức Như Lai,
các chúng sinh căn tính chậm lụt, không
thể hiểu nổi, cho rằng Vô thượng Bồ Đề và
Pháp thân của Như Lai chỉ là Pháp trống
không, rốt ráo một mực, không có gì hết,
do đó mà tâm của họ khiếp nhược, sợ sệt
vào chỗ “không được gì cả”. Hoặc họ sinh
ra tư tưởng đoạn diệt, khởi nhận thức có
tăng có giảm, chuyển sang phỉ báng, khinh
mình, khinh người v.v…Để đối trị hạng này,
ta liền vì họ nói: Pháp thân Như Lai, tự tính
nó chẳng phải ngoan không, mà là có Tự thể
chân thật, Thể này đầy đủ vô lượng công đức
thanh tịnh, từ vô thỉ đến giờ, nó tự nhiên tròn
đầy, chẳng phải nhờ tu mới có, chẳng phải
nhờ tạo mới thành. Cả đến trong thân tất
cả chúng sinh cũng đều sẵn đủ, không biến,
không đổi, không thêm, không bớt. Những
lời nói như vậy, có thể trừ sự khiếp nhược
của chúng sinh, đó mệnh danh là “An ủi”.
- Lại nữa, những chúng sinh ngu si chấp
chặt, nghe những lời nói như thế, cũng sinh
khiếp nhược nữa, vì không hiểu nổi nghĩa này,
94 95 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
họ lại chấp rằng Pháp thân của Như Lai từ
xưa đến nay đã đầy đủ, chẳng phải là tướng
tu tạo, thì đâu có tướng chứng đắc gì, do đó
mà họ sinh khiếp nhược, rơi vào hạng tín tà
đảo kiến, theo lối của tự nhiên ngoại đạo.
Đối với hạng này, ta liền vì họ nói đến sự
tu hành tất cả thiện Pháp, để tăng trưởng sự
đầy đủ, mới sinh ra sắc thân Như Lai, được
quả báo vô lượng công đức thanh tịnh. Những
lời nói như thế, nhằm khiến chúng sinh lìa sự
khiếp nhược, đó được mệnh danh là “An ủi”.
Những nghĩa sâu thẳm được ta nói ra,
khế hợp với lý chân thật, không có các lỗi,
bởi lìa lời nói mâu thuẫn của thế gian, làm
sao biết tướng lìa lời nói mâu thuẫn?
Bởi vì Pháp thân của Như Lai, mặc dầu
không có cảnh giới của lời lẽ, và lìa cả cái
tâm tưởng niệm, chẳng phải không, chẳng
phải bất không, cho đến không có tất cả các
tướng, chẳng thể căn cứ vào lời lẽ để chỉ
bày, nhưng căn cứ vào Pháp giả gọi đối đãi
nhau bởi nhân duyên huyễn hóa của thế
đế, thì có thể dùng phương tiện chỉ bày để
nói. Vì tính của Pháp thân này không phân
biệt, lìa cả tướng tự, tướng tha, chẳng phải
không, chẳng phải bất không, cho đến lìa hết
tất cả các tướng, cho nên nói rằng, bản thể
của Pháp thân là rốt ráo rỗng rang, không
thuộc vào cái có. Vì khi đã lìa tâm phân biệt
rồi, thì tưởng niệm hết sạch, bèn không còn
một tướng nào cả, nhưng có thể tự thấy, tự
biết và tự có tất cả. Thế nên nghĩa không
quyết định khế hợp với thật tướng chân
như, không hề sai lầm.
- Lại nữa, chính trong nghĩa không đó,
do lìa tâm vọng tưởng phân biệt, thì sự rốt
ráo tận cùng của nó, không một tướng nào
có thể nói rằng không. Vì chỉ còn lại một sự
chân thật, chính đó gọi là bất không vậy.
Lìa tưởng niệm của thức, cho nên không có
bất cứ một tướng hư ngụy nào, mà là rốt
ráo thường hằng chẳng biến, chẳng đổi. Bởi
96 97 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
không còn một tướng nào có thể hoại, có thể
diệt, cho nên cũng lìa mọi sự tăng giảm.
- Lại nữa, chỗ vô phân biệt của Thật thể
Chân như này, từ đời vô thỉ đến nay, đủ vô
lượng chủng tử công đức vô lậu, tự nhiên sẵn
có, lúc nào cũng tương ưng, vì nó không lìa,
không rời, cho nên nói là bất không. Những
công đức chứa nhóm nơi Thật thể Chân như
như thế, tất cả chúng sinh đều có sẵn, chỉ vì
chúng sinh bị vô minh che lòa, cho nên chẳng
biết, chẳng thấy, chẳng thể nào đạt được công
đức lợi ích của Pháp thân, đâu khác gì hoàn
toàn không có. Nói chưa có là nói những chúng
sinh chẳng biết, chẳng thấy về thể của Pháp
thân, cho nên bao nhiêu lợi ích của công đức
nghiệp, chẳng phải là chỗ những chúng sinh
ấy có thể thọ dụng, vì vậy chẳng gọi là thuộc về
của họ. Chỉ có nhờ vào sự tu khắp tất cả thiện
Pháp, đối trị các thứ nghiệp chướng, nhận ra
Pháp thân kia, sau đó mới được những công
đức lợi ích. Thế nên nói rằng tu tất cả thiện
Pháp, sinh ra sắc thân Như Lai.
- Thiện nam tử! Như hiện nay Ta, Địa
Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, khi nói về những
phương tiện thù thắng và Pháp môn trọng
yếu sâu xa này, có mười vạn ức chúng sinh,
phát tâm Vô thượng Bồ Đề, trụ bực Kiên
Tín. Lại có chín vạn tám nghìn Bồ Tát được
Vô sinh Pháp nhẫn. Toàn thể đại chúng, đều
dùng hương hoa vi diệu cõi trời cúng dường
đức Phật và Đại Bồ Tát Địa Tạng.
Bấy giờ đức Phật bảo đại chúng rằng:
- Các vị mỗi người phải nên thọ trì Pháp
môn này, tùy ở chỗ nào, đều làm cho lan
rộng. Tại sao vậy?
- Pháp môn như thế này rất là khó gặp, hay
làm lợi ích rất lớn. Nếu như người nào, được nghe
danh hiệu của Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, và
tin những lời người nói, nên biết người ấy có thể
nhanh chóng lìa tất cả mọi sự chướng ngại mau
đến Vô thượng Bồ Đề.
Lúc ấy đại chúng đều phát lời rằng:
- Chúng con sẽ thọ trì, lưu thông thế gian,
chẳng dám để quên.
98 99 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Bấy giờ Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín
bạch Phật:
- Kính bạch Thế Tôn! Những điều được
nói trong Khế Kinh Lục Căn Tụ này, tên là
Pháp môn gì? Pháp chân yếu này, con sẽ thọ
trì, khiến đời sau này, khắp đều được nghe.
Đức Phật bảo Ngài Đại Bồ Tát Kiên Tịnh Tín:
Pháp môn này gọi là: Chiêm Sát Nghiệp
Báo Thiện Ác; Cũng gọi tên là: Tiêu Trừ
Các Chướng. Còn được gọi là: Chỉ Bày Cho
Người Cầu Về Đại Thừa Biết Phương Tiện
Tiến Đến Và Phát Lộ Nghĩa Thật Rốt Ráo
Rất Sâu; Và cũng gọi là: Khéo Nói An Ủi
Khiến Lìa Khiếp Nhược Mau Vào Đức Tin
Kiên Cố Quyết Định. Y danh nghĩa như thế,
Ông nên thọ trì.
Đức Phật nói tên Pháp môn này rồi, tất
cả đại hội thảy đều hoan hỷ, tin nhận vâng
theo thực hành.
KINH CHIÊM SÁT NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Hết quyển hạ
CHÚ THÍCH
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Quyển thượng
(1) Pháp môn căn tụ: Phần xuất xứ của Kinh này, căn cứ
trong nguyên bản, thấy ghi là “Rút trong Kinh Lục Căn Tụ”
(xuất Lục Căn Tụ Kinh trung). Chúng tôi tra cứu trong Phật
Quang Tự Điển chưa tìm thấy nội dung của Kinh này.
(2) Kiên Tịnh Tín: Tên vị Bồ Tát đã thưa hỏi Phật và Phật
để Ngài Đại Bồ Tát Địa Tạng nói Kinh này. Kiên Tịnh Tín
có nghĩa là đức tin vững chắc, thanh tịnh. Thật ra chư Đại
Bồ Tát không nhất định là tên gì, chỉ tùy theo đức, tùy theo
hạnh mà đặt tên. Vị Bồ Tát này muốn cho chúng sinh thành
tựu đức tin kiên cố thanh tịnh, cho nên Ngài có tên như vậy.
(3) Sau thời kỳ chính Pháp chấm dứt: Những thuyết nói về
thời kỳ Chính Pháp, Tượng Pháp, Mạt Pháp có chỗ chẳng
đồng. Nay xin lược dẫn một thuyết: sau Phật diệt độ trong
vòng 500 đến 1000 năm, thuộc thời giáo Pháp của đức Phật
trụ thế, thời kỳ này gọi là thời kỳ Chính Pháp, vì có giáo lý,
có người tu hành được chứng quả rất nhiều. Từ 1000 năm sau
Phật diệt độ trở đi, gọi là sau thời kỳ chính Pháp chấm dứt.
(4) Tượng Pháp sắp hết: Tượng nghĩa là tựa như, na ná như,
là thay đổi sai lệch đi, và Pháp nghi chẳng được thi hành
100 101 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
đúng như thuở đầu, do đó mà ít có người chứng Thánh quả.
Chỉ có giáo, có hạnh tương tự như Phật Pháp mà thôi, thời
kỳ này gọi là thời kỳ Tượng Pháp, cũng khoảng 1000 năm,
sau thời kỳ Chính Pháp.
(5) Sang thời Mạt Pháp: Mạt có nghĩa là ngọn cành, là suy vi.
Chỉ có giáo lý, mà không có thực hành đúng nghĩa, cho nên
hiếm có người chứng quả. Đây là thời kỳ sau Phật nhập diệt
2000 năm trở đi.
(6) Tai họa nhiều lần nổi lên khắp nơi: Đó là những tai nạn
thường xảy ra trong nhiều quốc gia trên khắp thế giới, và
xảy ra nhiều lần, như tai nạn chiến tranh giữa nước này với
nước khác, tai nạn ôn dịch, tai nạn động đất, tai nạn núi
lửa, tai nạn bão lụt, tai nạn hạn hán v.v…Làm cho rất nhiều
người cùng chết một lúc.
(7) Làm được những điều giống như thiện Pháp: Thiện Pháp
được nói ở đây, chính là tu ngũ giới, thập thiện, bát quan trai
giới, cho đến những Pháp tu thuộc tứ thiền, bát định. Thời
đại hiện nay, có rất nhiều người tu tập những thiện Pháp
này, song đa số chỉ cầu phước báu thế gian, nên trong Kinh
nói “lấy đó là đích”.
(8) Chẳng thể chuyên tâm tu Pháp xuất yếu: Pháp xuất yếu
là những Pháp tu thiết cốt, căn bản để thoát ly hệ phược ba
cõi. Đây là những Pháp thiền định được nói đến trong vô số
Kinh điển của Phật. Đại thể những Pháp này có thể chia hai:
Thiền của Tiểu thừa, và Thiền của Đại thừa. Về Tiểu thừa
Thiền có những Pháp như: quán tứ niệm xứ, quán bất tịnh,
quán sổ tức, quán từ bi, quán nhân duyên v.v… cho đến 37
phẩm trợ đạo. Những Pháp Thiền của Đại thừa cũng có rất
nhiều, xin đơn cử một Pháp như sau: Duy thức quán, Chân
như quán, Pháp giới quán, niệm Phật tam muội, Nhất tâm
tam quán v.v…Người thực hành những Pháp tu này, một khi
đã thành tựu, tức thâm nhập chính định, đoạn trừ các phiền
não ba cõi, chứng các quả vị Hiền Thánh, không bị nghiệp
lực dẫn sinh trong lục đạo. Do đó gọi là Pháp xuất yếu. Tóm
lại, Pháp xuất yếu là con đường quan trọng để giải thoát
khỏi vòng sinh tử luân hồi.
(9) Người được thiền định, thần thông v.v…hoàn toàn
không có: Hiện nay (PL 2540) nhằm thời kỳ Mạt Pháp, cách
Phật 25 thế kỷ, những người tu hành trong giáo Pháp của
Phật tuy rất nhiều nhưng thành tựu thiền định và năng lực
thần thông thì rất hiếm, càng trở về sau này, chắc chắn càng
hiếm có hơn nữa, Nơi Kinh Đại Tập, đức Phật đã nói trước
rằng: Đời Mạt Pháp ức ức người tu hành, nhưng ít có người
chứng được đạo quả, chỉ nương vào sự niệm Phật A Di Đà
mà được tha lực của Phật tiếp độ vãng sinh Thế giới Cực
Lạc. Kinh nói hoàn toàn không có, phải chăng là từ sau thế
kỷ 21 trở đi, hoàn toàn không có người chứng đạo?
(10) Tướng Mộc Luân: Nguyên chữ Luân nghĩa đen là bánh
xe, (là vòng là vừng. Chúng tôi dịch là mảnh gỗ) đó là căn cứ
theo hình dáng của miếng gỗ được khắc chạm theo sự chỉ dẫn
trong Kinh. Đoạn dưới đức Địa Tạng đã cắt nghĩa chữ Luân,
người đọc nhân đây mà nhận rõ hơn. Không dùng chữ “mảnh
102 103 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
gỗ” thì khó tìm chữ nào khác để diễn dịch chữ “Luân” này.
(11) Dài dưới một tấc: Một tấc đây là một tấc Tàu. Đơn vị
chiều dài một thước Tàu phỏng độ 6m40, một tấc Tàu bằng
một phần mười bốn tấc Tây, tức 4cm. Theo hình gỗ được
khắc, bề dài cũng là 4cm.
(12) Đức Bồ Tát Địa Tạng đã dạy: “Lại nương tướng này, có
thể phá hỏng lưới nghi chấp tà trong tâm chúng sinh, chuyển
sang đường chính, đến chốn an ổn, nên gọi là Luân”. Đây là
cắt nghĩa chữ Luân nói trên.
(13) Nhất vị bình đẳng: Kinh Pháp Hoa nói: “Như Lai nói
Pháp, một tướng một vị, đó là một tướng giải thoát, một
tướng xa lìa, một tướng vắng lặng, rốt ráo đến chỗ nhất thiết
chủng trí”. Nơi các Kinh khác cũng nêu lên ví dụ: “Như
nước biển cả, chỉ một vị mặn, giáo Pháp Như Lai cũng chỉ
một vị, đó là vị giải thoát…”
(14) Tay cầm mộc luân: Mộc luân tất cả gồm 19 cái, chia
làm 3 nhóm, nhóm thứ nhất có 10 cái, nhóm thứ hai có 3 cái
và nhóm thứ ba có 6 cái. Đây là cách nói gieo lần thứ nhất,
đem 10 cái đó ghi 10 thiện, 10 ác mà gieo.
(15) Năm thứ dục: Năm món dục lạc ở thế gian mà người
đời thường tham đắm, đó là Tài, sắc, danh, thực, thùy; 1.Tài:
tiền bạc châu báu, của cải vật chất, cho đến nhà cửa ruộng
vườn, xe cộ, y phục v.v…2.Sắc: Nhan sắc, gồm cả thanh
(tiếng hay), hương (mùi thơm). 3.Danh: Danh dự, quyền
lợi, tiếng khen, dòng họ chủng tộc v.v…4.Thực: Món ngon
vật lạ, cao lương mỹ vị. 5.Thùy:Ngủ nghỉ, gồm luôn những
thú vui như ca hát, âm nhạc, các trò tiêu khiển v.v…Người
đời thường ưa đắm năm thứ dục lạc này, cho nên khó bề tu
hành Thánh đạo. Người xuất gia cũng khó thoát năm thứ
dục này, nên khó có người chứng Thánh quả.
(16) Chiêm sát luân tướng lần thứ hai: Đây là gieo nhóm
mộc luân thứ hai, gồm 3 cái, có ghi 3 chữ: thân, khẩu, ý. Lời
dạy đoạn văn này rất tế nhị. Dịch giả xin góp lời giúp cho
người chiêm sát khỏi bị sai lạc, thiếu sót.
Sau khi gieo nhóm mộc luân thứ nhứt gồm 10 cái, mà hiện
trên mặt gỗ, gồm 10 nghiệp thiện, ác lẫn lộn, ví dụ như: Sát
sinh, thâu đạo, bất tà dâm (3 nghiệp của thân) Bất vọng ngữ,
bất lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ (4 nghiệp của miệng) Tham
ái, bất sân nhuế, ngu si. (3 nghiệp của ý)
Người gieo muốn biết tính chất các nghiệp bất thiện nói trên
là nặng hay nhẹ, phải tiến gieo thêm từng mảnh gỗ trong 3
luân của nhóm 2. Ví dụ, nghiệp phát hiện nơi thân là Sát
sinh, thâu đạo,trọng tâm là hai nghiệp này thuộc nơi thân,
thì lấy mộc luân có chữ thân gieo xuống. Nếu mộc luân
chữ thân hiện ở mặt trước là nét khắc sâu và dài, đó là biểu
hiện hai nghiệp ác này rất nhiều, sâu dày. Nhưng nếu hiện
ra nét bạc dài, đó là điều không tương ưng cần phải sám
hối gieo lại. Tiếp theo đó, xem hai luân được phát hiện của
khẩu nghiệp là ác khẩu, ỷ ngữ, muốn biết sự sâu cạn của hai
nghiệp này, thì gieo mộc luân có chữ khẩu. Nếu mộc luân
hiện ra nét khắc ngắn cạn, đó là nghiệp ác khẩu, ỷ ngữ nhẹ.
Nhưng nếu hiện ra nét bạc dài, hoặc ngắn (biểu hiện thiện
nghiệp dày hoặc mỏng) thì không tương ưng, phải sám hối
104 105 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
phát nguyện gieo lại. Đến như Luân của ý cũng như vậy.
Nếu thấy ý nghiệp được phát hiện là tham ái, ngu si, thì lấy
riêng mộc luân có chữ ý mà gieo.
(17) Riêng xưng danh thêm: Xưng danh thêm, ở đây là xưng
niệm danh hiệu đức Đại Bồ Tát Địa Tạng. Nghĩa là xưng
niệm: Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát, xưng niệm một
vạn câu, hai vạn câu v.v…sau đó chí thành đỉnh lễ Ngài.
(18) Mộc luân thuộc lớp thứ hai: Lối gieo lần này không
phải như lần trước. Gieo nhóm thứ hai như lần trước, thì
gieo từng cái. Đến đây sau khi đã sám hối một thời gian nào
đó, muốn biết ba nghiệp thanh tịnh lại chưa, cho nên phải
gieo 3 luân một lúc.
(19) Phóng ra ánh sáng để vì chứng minh: Điều này trong
Kinh Luật Đại thừa như Kinh Phạm Võng cũng dạy rõ.
Hành giả có những tội nặng như mười điều ác, bốn trọng
cấm, nếu thành tâm sám hối từ 14 ngày, 21 ngày, 3 tháng,
6 tháng, đến khi nằm mộng thấy Phật, Bồ Tát đến xoa đỉnh
an ủi, thấy ánh sáng lạ, thấy hoa báu… Đó là triệu chứng tội
đã được tiêu diệt.
(20) Quả vị Sa môn: Đây là đạo quả mà những vị Tỳ kheo
thuộc Thanh Văn thừa có thể thành tựu. Bậc Thanh Văn
thừa một khi dụng công tu hành đúng Pháp có thể chứng các
quả vị như Tu đà hoàn, Tu đà hàm, A na hàm, A la hán. Đến
quả A la hán là dứt hết kiết sử phiền não trong ba cõi, thoát
ly mọi sự sinh tử trong Tam giới.
(21) Thiên ma Ba Tuần: Ba Tuần là tên của Ma vương, chúa
tể cõi trời Tha hóa Tự tại. Theo lời trong Kinh điển Phật giáo,
thì ma vương này có những quyền năng lôi cuốn bó buộc
chúng sinh chìm đắm những thú dục lạc thế gian. Những
người tu hành muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi, thường bị
ma vương này phá hoại đủ cách.
(22) Chín mươi lăm thứ tà sư ngoại đạo: Nguyên là 96 thứ
ngoại đạo, trừ bớt một phái còn 95. Ở Ấn Độ trước và sau
Phật xuất hiện, có sáu phái ngoại đạo. Sáu lưu phái này, đạo
sư mỗi phái có 15 đệ tử, mỗi đệ tử sau lập ra mỗi lưu phái
riêng, tổng cộng là 96 phái. Sáu đạo sư gốc là: 1. Phú Lan
Na Ca Diếp. 2. Mạt Già Lê Câu Xa Lê Tử. 3. San Xà Da Tỳ
La Chi Tử. 4. A Tỳ Đa Xí Xá Khâm Bà La. 5. Ca La Cưu Đà
Ca Chiên Diên. 6. Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử. Trong 96 thứ đạo
này, về sau có một phái nhập chung với Phật giáo, đó là phái
Độc Tử, còn vào 95 phái bộ. Một thuyết khác nói trong 96
phái ngoại đạo thì giáo nghĩa của phái Ni Kiền Tử ngoại đạo
gần với Phật Pháp, cho nên trừ phái này ra, còn lại 95 phái.
(23) Năm món cái: Cái có nghĩa là che lấp. Năm Pháp hay
che lấp tâm tính sáng suốt, làm cho chẳng sinh thiện Pháp
gọi là ngũ cái. 1.Tham dục: Ham đắm dục lạc thế gian, cho
nên che lấp chân tính. 2. Sân nhuế: Giận dỗi đối với cảnh
nghịch mà che lấp chân tính. 3. Thụy miên: Tâm thần mê
muội, thân xác nặng nề không sử dụng tu tập nổi, làm cho
chân tính bị che lấp. 4. Trạo hối: Tâm thức chao động gọi là
trạo, lo lắng phiền não về những việc đã làm gọi là hối, đến
mức độ che lấp chân tính. 5. Nghi ngờ: Đối với chính Pháp
mà do dự không quyết đoán, không đặt tròn niềm tin, do đây
106 107 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
che lấp chân tính. Lại nữa, tất cả mọi thứ phiền não hay làm
che lấp chân tính, cho nên cũng gọi là cái.
(24) Ba la đề mộc xoa: Dịch là Biệt giải thoát hoặc Xứ xứ
giải thoát. Đó là giới luật mà bảy chúng đệ tử của Phật tiếp
nhận, đều có mục đích giải thoát. Ba la đề mộc xoa của giới
Tăng Ni xuất gia có sự nhiều ít khác nhau.Tỳ kheo ni có 348
giới và Tỳ kheo tăng có 250 giới.
(25) Tương ứng với Pháp: Pháp ở đây là chân Pháp, là sự
vắng lặng của nội tâm, do thực hành Pháp tu, Pháp sám hối
lâu ngày, nhiều ngày, đưa đến trạng thái lắng đọng các vọng
niệm, những phiền não thô không dấy khởi mãnh liệt nữa,
đức tin nơi chính Pháp nhiệm mầu của chư Phật đã được
thành tựu, không còn nghi ngờ thoái chuyển nữa…Như thế
gọi là tương ứng với Pháp. Người sám hối mà được những
kết quả như vậy, thì những tội nặng đã diệt, sẽ không mắc
những quả báo nặng nề trong các ác đạo.
(26) Hoặc nghịch, hoặc thuận, chẳng nghịch chẳng thuận:
Đây là ba loại cảm thọ của sáu giác quan, nếu gọi bằng danh
từ khác sẽ là: Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Nghĩa là
cảm giác khổ, vui, chẳng khổ chẳng vui. Khi các giác quan
này tiếp xúc với cảnh, thường sinh ba thứ cảm thọ này. Căn
đối với cảnh có sự ưa thích bèn khởi ra cảm thọ vui, gọi là
lạc thọ. Căn đối với cảnh chán ghét, liền khởi ra ý tưởng
chẳng bằng lòng, gọi là khổ thọ, hay vô ký.
(27) Bốn phạm hạnh: Còn gọi là bốn Phạm trụ, tức bốn vô
lượng tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn tâm này là nghiệp hạnh để
sinh về cõi Phạm thiên, cho nên gọi là Phạm hạnh.
CHÚ THÍCH
KINH CHIÊM SÁT
NGHIỆP BÁO THIỆN ÁC
Quyển hạ
(28) Lòng tin và sự hiểu biết: Đây là nói đến các vị Bồ Tát
sơ phát tâm, và các Bồ Tát thuộc Tam hiền. Lòng tin là nói
hàng Thập tín. Sự hiểu biết là nói bậc Giải hạnh phát tâm.
Hiểu biết thực hành mà phát tâm. Bậc Giải hạnh phát tâm
gồm có 30 ngôi vị: Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi hướng.
Về Thập Tín, theo Kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp, nêu 10
thứ tâm như sau: 1.Tín tâm: Một lòng quyết định ưa muốn
thành tựu. 2.Niệm tâm: Thường tu sáu niệm: Niệm Phật,
niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí, niệm Giới, niệm Thiên. 3.
Tinh tiến tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát, tinh cần tu tập thiện
nghiệp không gián đoạn. 4.Định tâm: Đối với sự, đối với
nghĩa, buộc tâm an trú, xa lìa tất cả hư ngụy, khinh tháo, lìa
nhớ tưởng phân biệt. 5. Huệ tâm: Nghe tạng Pháp Bồ Tát,
suy lường quán sát, biết tất cả Pháp không ta không người,
tự tính rỗng lặng. 6. Giới tâm: Thọ trì Luật nghi thanh tịnh
của Bồ Tát, thân, khẩu, ý thanh tịnh, chẳng phạm các lỗi,
có phạm liền sám hối. 7. Hồi hướng tâm: Tu được căn lành
nào đều hồi hướng Bồ đề, không nguyện hưởng quả báo nơi
các cõi, hồi hướng cho chúng sinh, chẳng chuyên vì mình,
không vướng mắc danh tướng. 8. Hộ pháp tâm: Phòng hộ
108 109 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
tâm mình, chẳng khởi phiền não và tu năm thứ hộ tâm. 9.
Xả tâm: Chẳng tiếc thân mạng, tài sản, những gì có được
thường hay thí xả. 10. Nguyện tâm: Tùy lúc mà tu tập các
thứ tịnh nguyện.
Lại như Ngài Cưu Ma La Thập dịch Kinh Nhân Vương, ở
quyển thượng nơi Phẩm Bồ Tát giáo hóa, trình bày 10 thứ
tâm là: Tín tâm, tinh tấn tâm, niệm tâm, huệ tâm, định tâm,
thí tâm, giới tâm, hộ tâm, nguyện tâm, hồi hướng tâm, lấy
đó làm 10 thứ tâm thuộc tập chủng tính.
Kinh Phạm Võng quyển thượng trình bày 10 tâm là: Xả tâm,
giới tâm, nhẫn tâm, tiến tâm, định tâm, huệ tâm, nguyện
tâm, hộ tâm, hỷ tâm, đỉnh tâm. Lấy 10 tâm này gọi là Thập
phát thú tâm trong bậc Kiên Tín nhẫn. Ngoài ra còn một vài
thuyết nữa, chúng tôi xin lược bớt. Về phần Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi hướng, sẽ chú thích ở đoạn sau.
(29) Tình trạng vô ký: Những người tu thiền định thường
có ba trạng thái trong lúc dụng công, đó là Hôn trầm, Tán
loạn, Vô ký. Hôn trầm nghĩa là bị buồn ngủ, ngủ gục, tâm
trí không kiểm soát tư tưởng. Tán loạn: Trong lúc chuyên
chú theo dõi nội tâm nhưng nhiều loại vọng tưởng khởi lên
liên tục, làm cho tâm không định tỉnh được. Vô ký: Nghĩa
là không bị hôn trầm, tán loạn, nhưng vọng niệm sinh khởi
hành giả không phân biệt là đúng với Pháp tu hay chẳng
đúng với Pháp tu, như thế gọi là vô ký.
(30) Xa ma tha: Dịch là chỉ. Đó là Pháp tu chỉ, là sự tu nhiếp
tâm trụ vào một duyên, xa lìa mọi tán loạn, chỉ là tên gọi
khác của định, có nghĩa là tịch tỉnh. Đối với phép nhiễm
tịnh, tâm không bị vọng duyên.
(31) Tỳ bát xá na: Dịch là quán, là kiến, là chủng chủng
quán sát. Dùng trí tuệ quan sát giản trạch các Pháp. Quán là
tên khác của huệ, ở quả gọi là huệ. Cũng như: Chỉ là nhân,
Định là quả. Hai pháp Chỉ Quán này người tu Phật phải vận
dụng cả hai trong khi tu tập thiền định, vận dụng cùng một
lúc, không phải trước sau gì cả.
(32) Kiên Tín: Như đã giải sơ ở phần chú thích số 28. Các
vị Bồ Tát sơ phát tâm thành tựu 10 đức tin mà được vào bậc
Thập trụ, gọi là Tập chủng tính. Đến đây đức tin về Đại thừa
đã vững chắc, không bị lay chuyển, cho nên gọi là Kiên Tín.
(33) Tám chỗ nạn: Sở dĩ gọi nạn là vì không gặp Phật, không
nghe Pháp, không được sự giáo hóa của Hiền Thánh Tăng.
Tám nạn là: Ba đường ác: Địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Thứ
tư là Bắc Câu Lô Châu, vì người ở châu này sung sướng
nhưng không có Phật Pháp lưu thông. Thứ năm là Thường
Thọ Thiên, Thọ mạng thiên chúng ở các cõi trời Sắc giới
rất lâu dài, nhưng khi hết phước báu bèn sinh xuống các cõi
dưới, cho nên cũng khó tu Phật Pháp. Thứ sáu là đui điếc
câm ngọng. Thứ bảy là Thế trí biện thông, đây là những
người ỷ vào kiến thức đời nên không tin không tu Phật Pháp.
Tám là sinh trước khi Phật ra đời và sinh sau khi Phật nhập
diệt đã lâu xa. Tám điều trên đây khiến chúng sinh không
giác ngộ, không giải thoát được, nên gọi là nạn.
(34) Theo danh hiệu vị Phật ở thế giới đó: Đây là Pháp trì
danh hiệu Phật để được nhất tâm bất loạn. Nhất tâm bất
loạn cũng được gọi là Nhất hạnh Tam muội. Kinh Văn Thù
110 111 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Sư Lợi nói Bát Nhã dạy rằng: Muốn được Nhất hạnh Tam
muội thì tùy đức Phật ở phương nào, nên ngồi xoay mặt về
phương ấy mà xưng niệm danh hiệu của Ngài không cho
gián đoạn, tức có thể được nhất tâm bất loạn, khi được nhất
tâm rồi, có thể tùy nguyện vãng sinh về thế giới của đức
Phật ấy.
(35) Tín nhẫn: Một trong sáu nhẫn Pháp, tương ưng với giai
vị của Bồ Tát. Các vị Bồ Tát bực Thập trụ của Biệt giáo tu
tập Pháp quán không, tin tất cả các Pháp đều rỗng lặng, đối
với Pháp không, có thể nhẫn, có thể chứng, cho nên gọi là
Tín nhẫn.
(36) Kiên tu: Một trong sáu Kiên Pháp của các giai vị Bồ
Tát. Kiên tu là chỉ cho giai vị Bồ Tát Thập Hồi Hướng của
Biệt giáo, các bậc này tu tập Pháp Trung quán, rõ biết tất cả
Pháp, không Pháp nào chẳng là trung đạo, không thể nào
hủy hoại, do đó bậc Thập Hồi Hướng gọi là Kiên tu.
(37)Thuận nhẫn: Một trong năm nhẫn của các giai vị Bồ Tát
gồm 42 địa vị. Năm nhẫn là: Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận
nhẫn, Vô sinh nhẫn và Tịch diệt nhẫn. Bốn nhẫn trước
mỗi nhẫn có thượng, trung, hạ thành ra 12 nhẫn. Nhẫn thứ
năm (Tịch diệt nhẫn chia làm hai, là thượng và hạ). 1.Phục
nhẫn: các vị Bồ Tát tiền địa (Tam hiền) chưa được trí tuệ vô
lậu, phiền não chưa đoạn, chỉ thể hàng phục trụ địa phiền
não, làm cho chẳng khởi mà thôi (chưa thể diệt). Trong đó
Thập Trụ thuộc về Phục nhẫn bậc hạ. Thập Hạnh thuộc về
Phục nhẫn bậc trung. Thập Hồi hướng thuộc Phục nhẫn bậc
thượng. 2. Tín Nhẫn: Bồ Tát từ sơ địa trở lên, được Vô
lậu tín, tùy thuận không nghi, trong đó Sơ địa là Hạ phẩm,
Nhị địa là Trung phẩm, Tam địa là Thượng phẩm tín nhẫn.
3.Thuận nhẫn: Bồ Tát thuận Vô thượng Bồ đề đạo, hướng
đến vô sinh quả, trong đó đệ tứ địa là Hạ phẩm Thuận nhẫn,
ngũ địa là Trung phẩm, Lục địa là Thượng phẩm của Thuận
nhẫn. 4. Vô sinh nhẫn: Bậc Bồ Tát đã hết vọng hoặc, biết rõ
tất cả Pháp đều chẳng sinh, trong đó Thất địa là Hạ phẩm,
Bát địa là Trung phẩm, Cửu địa là Thượng phẩm của Vô
sinh nhẫn. 5. Tịch diệt nhẫn: các hoặc đã hết, thanh tịnh vô
vi, lòng trong lặng lẽ, trong đây Thập địa là Hạ phẩm, Phật
quả là Thượng phẩm (Kinh Nhân Vương, Kinh Bát Nhã…)
(38) Chánh chân vị: Chỉ cho bậc đã đạt ngộ Pháp tính, đã
phục diệt phiền não. Đó là bậc Bồ Tát Thượng địa, từ Sơ địa
trở lên đến Thập địa.
(39) Vô sinh nhẫn: Như đã giải ở đoạn trên.
(40) Tập chủng tính: Gọi đủ là Tập sở thành chủng tính.
Phạn Samudanitam gotram, gọi tắt là Tập chủng. Chỉ cho
chủng tính trước đó chưa có mà sau này tu được, cũng chính
là huân tập. Chủng tính do tu các thiện Pháp mà được thành.
Tập chủng tính thường được gọi chung với tính chủng tính,
hai chủng tính này trong các Kinh Luận có nhiều chỗ đề
cập đến, như Luận Đại thừa Khởi tín gọi nó là Bản giác với
Thủy giác. Thành duy thức luận lại nói là: Chủng tử sẳn có
với chủng tử mới huân. Nghĩa là tính Phật sẵn có phát ra
chủng tử vô lậu, phát ra bên ngoài, làm cái nhân huân tập
trở vào bên trong, cho nên gọi là Bản giác và Thủy giác.
Đây cũng tiêu biểu giai vị tu hành của Bồ Tát. Kinh Nhân
112 113 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
cứu cánh có nghĩa là đến chỗ chí cực, Lý và Thể không hai.
(44) Mười tám Pháp không: Phạn Astadasa sunyatah. Vì để
phá các thứ tà kiến, đức Phật nói về 18 Pháp không: 1. Nội
không 2. Ngoại không 3. Nội ngoại không 4. Không không
5. Đại không 6. Đệ nhất lớn của phương pháp này chẳng thể
nghĩ bàn, tuyệt đối không một phương pháp bói quẻ nào của
thế gian có thể theo kịp.
II. CHỦNG LOẠI CỦA MỘC LUÂN:
Hộp mộc luân của Kinh Địa Tạng Chiêm Sát này có 19
cái (19 mảnh gỗ) chia làm 3 nhóm để sử dụng.
A. Nhóm mộc luân thứ nhất: Gồm có mười cái, chia làm
mười thiện, mặt sau là mười bất thiện nghiệp. Mười nghiệp
thiện, mười nghiệp ác này thuộc ba bộ phận: Thân, Khẩu,
Ý nghiệp, có thể chỉ rõ chủng loại thiện nghiệp, ác nghiệp
trong những đời trước.
Mặt Chính
Bất Bất Bất Bất Bất Bất Bất Bất Bất Bất
Sát Thâu Tà Vọng Lưỡng Ác Ỷ Tham Sân Ngu
sinh Đạo dâm Ngữ Thiệt Khẩu Ngữ Ái Nhuế Si
Vương, Kinh Bát Nhã nói đến ba chủng tính là Tập chủng
tính, tính chủng tính, Đạo chủng tính. Y theo thứ tự có thể
phối với giai vị tu hành của Bồ Tát Đại thừa là Thập tín tâm,
Thập trụ tâm, Thập hạnh tâm. Lại như Kinh Bồ Tát Anh Lạc
Bổn Nghiệp quyển thượng lập danh thì có: Tập chủng tính,
Tính chủng tính, Đạo chủng tính, Thánh chủng tính, Đẳng
giác tính, Diệu giác tính. Y thứ tự có thể phối với Thập
trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu
giác. Tóm lại Tập chủng tính là nói về 10 giai vị của Bồ Tát
thuộc Thập trụ.
(41) Giải hạnh: Từ ngữ này để chỉ các bậc Bồ Tát thuộc
Tam hiền, tức Thập trụ, Thập Hạnh và Thập Hồi hướng.
Các Ngài vừa hiểu biết Chính Pháp của Phật một cách sâu
sắc, luôn luôn tu tập ba Pháp quán không quán, giả quán và
trung đạo quán, và thực hành sáu ba la mật (thí, giới, nhẫn,
tấn, thiền, trí) cho nên gọi là giải hạnh.
(42) Tịnh tâm địa: Đây là bậc thứ nhất trong Thập địa, cũng
gọi là sơ hoan hỷ địa. Thập địa còn gọi là Thập thánh. Khi
Bồ Tát tu hành đến mãn Thập hồi hướng là qua A tăng kỳ
kiếp, có thể chứng vào bậc Tịnh tâm địa này. Đến đây là
chứng nhập Pháp thân thanh tịnh, phá từng phần căn bản vô
minh tiến lên các địa sau và thành tựu diệu dụng chẳng thể
nghĩ bàn.
(43) Cứu cánh địa: Chỉ cho bậc Bồ Tát từ Đẳng giác đến
Diệu giác (Phật). Theo cấp bậc tu hành của Bồ Tát thuộc
Viên giáo thì đến đây Bồ Tát đã phá xong vô minh phẩm thứ
42, chứng được Thật tướng các Pháp một cách rốt ráo. Chữ
114 115 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Mặt sau lưng
Sát Thâu Tà Vọng Lưỡng Ác Ỷ Tham Sân Ngu
Sinh Đạo Dâm Ngữ Thiệt Khẩu Ngữ Ái Nhuế Si
B. Nhóm mộc luân thứ hai: Gồm có 3 cái, chia làm: Thân,
Khẩu, Ý. Có thể chiêm sát mười điều thiện, mười điều ác,
để biết tính chất mạnh hay yếu của mỗi nghiệp. Dưới đây là
hình dạng 4 mặt của mỗi mộc luân thuộc thân khẩu ý.
Đường chỉ bạc dài, tiêu biểu
nghiệp lành rất lớn.
Đường chỉ bạc ngắn, tiêu biểu
nghiệp lành nhỏ yếu.
Nét khắc sâu dài, tiêu biểu
nghiệp ác lớn.
Nét khắc cạn ngắn, tiêu biểu
nghiệp ác nhỏ.
C. Nhóm mộc luân thứ ba: Gồm có 6 cái, trên mỗi mộc
luân có ba mặt chữ số và một mặt để trống, đánh số 1 đến
mười tám (biểu trưng cho sáu căn, sáu trần, sáu thức), có thể
xem xét tất cả việc xuất thế, nhập thế, quá khứ, hiện tại, vị lai.
III. SỬ DỤNG TỪNG BƯỚC PHÁT HIỆN MỘC LUÂN:
Trước khi sử dụng phương pháp chiêm tướng mộc luân,
cần phải lễ lạy chư Phật, Bồ Tát và Ngài Địa Tạng, rồi kiền
thành tu Pháp sám hối, phát nguyện hồi hướng (y theo Kinh
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo mà tu sám). Có 3 cách để
chiêm sát các luân tướng hiện ra.
1. Sử dụng nhóm mộc luân thứ nhất (10 cái, lấy mỗi cái
trong mười luân bắt đầu gieo xuống, có thể hiện rõ trạng
thái nghiệp báo của mười điều thiện hoặc mười điều ác. Ví
dụ khi gieo xuống, theo thứ tự trước sau, hiện ra như vầy:
Bất Bất Tà Bất Lưỡng Tham Sân Ngu
Sát Thâu Vọng
sinh Đạo dâm Ngữ Thiệt Ái Nhuế Si
bộ phận thân nghiệp  bộ phận khẩu nghiệp bộ phận ý nghiệp
116 117 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
Nếu là tướng như vậy, biểu hiện tổng quát người được xem,
có đủ nghiệp ác như: Tà dâm, lưỡng thiệt, tham ái, sân nhuế,
ngu si. Lại có được nghiệp thiện, là không sát sinh, không
trộm cắp, không vọng ngữ. Riêng ác khẩu và ỷ ngữ chẳng
hiện. Như vậy là biểu thị chủng tử nghiệp lực thiện ác còn
chưa chín mùi. Đợi đến ngày sau, đủ sự huân tập bởi nhân
bên trong và duyên bên ngoài, mới có thể hiện rõ quả báo.
Ghi chú: Kết quả đơn cử tuy đã có, còn phải tiến một
bước nữa để thẩm tra đúng hay sai, đối với tình huống thực
tế có phù hợp hay không. Lấy ví dụ như đối tượng được
xem, một đời nhiều tật bệnh đến nỗi đoản mạng chết sớm,
thì tham chiếu nghiệp nhân của mười thiện mười ác (được
gieo lần thứ nhất), chủng loại quả báo như thế nào đó mà
thuyết minh, có thể biết nghiệp nhân đời trước của người
đó; Phải đủ nghiệp sát sinh (mới bị quả báo chết non). Hễ
mộc luân gieo hiện ra “bất sát sinh” cố nhiên là mâu thuẫn.
Đó là không khế hợp với Bồ Tát. Vậy cần phải lễ bái một
lần nữa, sám hối rồi bắt đầu gieo lại. Hoặc niệm Phật, hoặc
tu định, để tâm được bình tịnh rồi mới thành tâm chiêm sát
một lần nữa.
2. Nếu mười luân nhóm thứ nhất đã được tương ưng rồi,
tưởng cần phải tiến một bước nữa, để hiểu rõ một thứ nghiệp
lực của người nọ là mạnh hay yếu. Có thể dùng nhóm mộc
luân thứ hai (3 cái) trắc nghiệm, để biết từng bộ phận thân,
miệng hay ý.
Ví dụ như muốn biết nghiệp ngu si của người kia là
nặng hay nhẹ, cần phải lấy riêng mộc luân ý ra để gieo
quẻ (vì nhân của ngu si thuộc ý nghiệp).
Nếu muốn biết nghiệp lưỡng thiệt (nói lưỡi đôi
chiều) thì lấy riêng ra một luân “khẩu” (lưỡng thiệt
thuộc về khẩu).
Nếu trong 10 luân trước đã hiện ra ngu si (tham sân
si mà gieo mộc luân ý hiện ra nét khắc dài, tức biểu
hiện người ấy đại ngu si).
Nếu hiện ra nét khắc ngắn, tiêu biểu người ấy ngu
si nhẹ, hoặc ít.
Nhưng nếu được nét chỉ bạc dài, hoặc đường chỉ
bạc ngắn đó là mâu thuẫn, vì đường chỉ bạc dài và
ngắn tiêu biểu nghiệp thiện thiện lớn hoặc nhỏ, dày
hoặc mỏng), tức chẳng khế hợp với Bồ Tát, nên tu lễ
sám hối một lần nữa, sau đó mới chiêm quẻ lại.
Nếu muốn biết các việc xuất thế, nhập thế, quá khứ,
hiện tại, vị lai, có thể lấy đơn độc nhóm mộc luân thứ
ba để chiêm quẻ (6 cái). Đem sáu cái mộc luân gieo
xuống một lần, rồi cộng tất cả số thành lần thứ nhứt đó
lại. Kế gieo lần thứ hai, cộng số thành lần này và gieo một
lần thứ ba nữa, cũng cộng số thành lần thứ ba. Lấy ba lần số
thành đã ứng hiện cộng chung lại, đối chiếu với việc muốn
xem tức được biết rõ.
Ví dụ như, muốn biết tình trạng bệnh hoạn nơi thân
thể mình như thế nào, và gieo ba nhóm, mộc luân, ba lần
như vậy được kết quả:
118 119 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
+  + + + +
Tổng số thành ba lần gieo là: “48+51+49 = 148”
Hãy tra cứu trong Kinh, đoạn nói về số 148 trong 189
điều, thì sẽ thấy rằng: “thấy (xem) bệnh đang mắc có thể trị
liệu”. Như vậy việc chiêm tướng cho người đang mắc bệnh,
có thể trị lành.
Nếu xem tình trạng người đang mắc bệnh, và ba lần gieo,
tổng số là 119. Với số này trong Kinh ghi là “Vua vô đạo cho
nên nước tai nạn lớn”. Thế là đáp số của câu hỏi không được
tương ứng, ắt phải tu sám lại, rồi chiêm quẻ một lần nữa.
IV. KẾT LUẬN:
Kinh “Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo” được đức Phật
và Bồ Tát Địa Tạng tuyên nói, ý nghĩa của Kinh rộng rãi
tinh mật sâu xa vô cùng. Người muốn dùng mộc luân để
chiêm quẻ, phải nên luôn luôn áp dụng đúng theo lời dạy.
Lại cần phải đọc trước cho rành rẽ Bản Kinh, thì sự chiêm
sát tất nhiên càng linh nghiệm.
LỜI DỊCH GIẢ
Bảng chỉ dẫn gồm 7 trang này nguyên bằng chữ Hán,
được kèm theo bộ Kinh Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo.
Sau khi dịch xong bộ Kinh, nếu không có bản hướng dẫn
này, thì người muốn chiêm sát cũng khó biết sử dụng hộp
mộc luân gồm 19 thẻ, cho nên chúng tôi dịch ra Việt ngữ, để
những vị muốn chiêm sát được biết một cách rõ ràng.
Dịch giả cũng xin lưu ý cùng chư vị muốn sử dụng Mộc
luân để chiêm sát thiện ác nghiệp báo, hãy nên thận trọng,
chỉ nên xem những việc chính đáng, có lợi ích cho sự tu
hành của mình và người. Những việc xét không cần thiết, thì
không nên sử dụng nhiều. Bởi vì phải sám hối, lập nguyện,
tùy hỷ công đức và hồi hướng Pháp giới, rồi mới chiêm quẻ
kiết hung, nếu tâm niệm bị tạp loạn, thì việc chiêm sát chắc
chắn sẽ không mấy tương ưng, làm cho người được xem
mất niềm tin, trở lại nghi ngờ lời dạy của Phật, Bồ Tát.
Kính mong quý vị lưu ý cho điều này!
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
Dịch giả cẩn chí!
HT.THÍCH THIỆN THÔNG.
+ + + + +
3
6  9  12  18
= 48
= 51
gieo lần thứ hai
gieo lần thứ ba
gieo lần thứ nhất
+ = 49 + + + +
120 121 Kinh Chiêm Sát Nghiệp Báo Thiện Ác THÍCH THIỆN THÔNG dịch
CHIÊM SÁT HÀNH PHÁP
DIỆT CHƯỚNG TRỪ NGHI
BAN HOẰNG PHÁP TW GHPGVN
TỊNH ĐỘ ĐẠO TRÀNG
Pháp Sư Định Hoằng
Chuyển ngữ: Hạnh Chơn
CHIÊM SÁT HÀNH PHÁP
DIỆT CHƯỚNG TRỪ NGHI
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
4
ĐỊA TẠNG
CHIÊM SÁT SÁM NGHI
Bản Thuần Thục
Thị phạm: Định Hoằng Pháp Sư.
Chuyển ngữ: Hạnh Chơn
(Nghi thức: Cúng nước, Dâng hương, Đỉnh lễ Phật ba lạy, Xá)
*Nhất thiết cung kính! Nhất tâm kính lễ
Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo! (3 lễ)
(Quỳ đọc)
Nghiêm trì hương hoa,
Cúng dàng như Pháp.
Nguyện khói hương thơm này,
Biến mãn khắp mười phương.
Cúng dàng tất cả Phật,
Tôn Pháp các Hiền Thánh.
Vô biên trong cõi Phật,
Lợi ích làm Phật sự.
Tất cả Phật, Pháp, Tăng Bảo,
Thể thường biến mãn,
6 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
Đều hiện hữu khắp nơi.
Nguyện khiến hương hoa này,
Đồng như các Pháp tính,
Phổ huân tất cả các cõi Phật,
Cúng dàng làm Phật sự.
Dụng cụ cúng dàng tất cả mười phương
Lúc nào cũng có.
Hôm nay con xin đem tất cả hương hoa
anh lạc, tràng phan, bảo cái, các trang sức
quý báu vi diệu, vô số âm nhạc, ánh sáng
đèn nến, ẩm thực, y phục, ngọa cụ, thuốc
men trong mười phương. Cho đến hết tất
cả những dụng cụ trang nghiêm trong mười
phương có để cúng dàng, suy nghĩ đặt ra để
phụng hiến cúng dàng cho khắp cả chúng
sinh; Trong các thế giới có người tu cúng
dàng, hôm nay con tùy hỷ; Nếu người chưa
tu cúng dàng, nguyện được dẫn dắt khiến
họ tu cúng dàng.
Lại nguyện thân con nhanh chóng có
thể biến khắp đến các cõi nước, đối trước
7 Hạnh Chơn chuyển ngữ
Phật, Pháp, Tăng, cúng dàng các loại dụng
cụ trang nghiêm cho tất cả. Cùng tất cả
chúng sinh chấp trì hiến cúng; Cúng dàng
tất cả Pháp thân, sắc thân của chư Phật, xá
lợi hình tượng, phù đồ tháp miếu và tất cả
các Phật sự. Cúng dàng tất cả Pháp tạng và
nơi thuyết Pháp. Cúng dàng tất cả các Hiền
Thánh Tăng chúng.
Nguyện cúng dàng như vậy đến với tất cả
chúng sinh tu hành, dần dần được thành Lục
sáu Ba la mật, Tứ vô lượng tâm. Hiểu sâu
tất cả Pháp vốn tịch tịnh, không sinh không
diệt, một vị bình đẳng, rời niệm thanh tịnh,
cứu kính viên mãn. Cúng dàng xong, tất cả
cung kính.(lễ)
• Khởi thỉnh Tam Bảo Chư Thiên:
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Bản Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật! (đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Tỳ Bà Thi
Đẳng Quá Khứ Thất Phật! (đọc 3 lần,1 lễ).
8 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Phổ
Quang Phật Đẳng Ngũ Thập Tam Phật!
(đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Nhất
Thiết Chư Phật Sở Hữu Sắc Thân Xá Lợi
Hình Tượng, Phù Đồ Miếu Tháp Nhất
Thiết Phật Sự! (đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập
Phương Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật!(
đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Chiêm
Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu
Pháp Tạng! (đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập
Phương Nhất Thiết Pháp Tạng! (đọc 3 lần,
1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Thập
Phương Nhất Thiết Hiền Thánh! (đọc 3
lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Kiên Tịnh
9 Hạnh Chơn chuyển ngữ
Tín Bồ Tát Ma Ha Tát! (đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Biên Kiết
Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát!
(đọc 3 lần, 1 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Nam Mô Địa Tạng
Bồ Tát Ma Ha Tát! (đọc 3 lần, 3 lễ).
• Nhất tâm phụng thỉnh Phạm Thích Tứ
Vương Thiên Long Bát Bộ Tăng Già
Lam Nội, Hộ Chính Pháp Giả Nhất Thiết
Thánh Chúng! (đọc 3 lần, 1 xá).
(Quỳ đọc)
Duy nguyện Đức Thích Ca Từ Phụ, thất
Phật Thế Tôn, ngũ thập tam Phật, tất cả các
bậc giác ngộ, tha tâm đạo nhãn, thấy nghe
vô ngại, thần thông tự tại, quang lâm đạo
tràng, nhiếp thủ chúng con, khiến thành
tịnh tín. (đọc 3 lần,1 lễ).
Chiêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Tôn
Kinh, tất cả mười phương, Pháp Tạng
thanh tịnh, cùng chân Pháp tính, sung mãn
10 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
hư không, hiển hiện đạo tràng, nhận con
cúng dường. (đọc 3 lần,1 lễ).
Kiên Tịnh Tín Bồ Tát, Biến Kiết Bồ Tát,
Quán Thế Âm Bồ Tát, Đẳng Thập Phương
Nhất Thiết Hiền Thánh, không xả từ bi, quang
lâm Pháp tọa, thương xót ủng hộ, chứng minh
hành Pháp của con. (đọc 3 lần,1 lễ).
Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát, là bậc cứu
thế, là bậc đại trí, luôn dùng lời nhẹ nhàng
an ủi, khiến cho con mau trừ chướng ngại,
tăng trưởng lòng tin hiểu sâu chắc. Đại từ
đại bi, không trái thệ nguyện, phóng đại
quang minh, tròn đầy sở nguyện cho con.(
đọc 3 lần,1 lễ).
(Đứng) Hộ Pháp Thiên Long, Già Lam
Chân Tể, tùy thuận lời thỉnh của con, giữ
vững đạo tràng, khiếp sợ các ma chướng,
thị hiện kiết tường, khiến sở tu của con, tự
tại thành tựu. (đọc 3 lần,1 xá).
11 Hạnh Chơn chuyển ngữ
Tán Lễ Tam Bảo
Con nghe khắp mười phương, công đức
chân thật vô biên, độ thoát các hữu tình,
tâm hoan hỷ kính lễ. Từng tu vô lượng
phước, nay được lễ Thế Tôn, nguyện trong
vô lượng kiếp, thường tu Pháp cúng dàng.
• Nhất tâm đỉnh lễ Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thi Khí Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tỳ Xá Phù Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Câu Lưu Tôn Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Câu Na Hàm Mâu Ni Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Ca Diếp Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Bản Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Minh Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Tịnh Phật.
12 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
• Nhất tâm đỉnh lễ Đa Ma La Bạt Chiên
Đàn Hương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Ma Ni Tràng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hoan Hỷ Tạng Ma Ni
Bảo Tích Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Nhất Thiết Thế Gian
Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Ma Ni Tràng Đăng
Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Cự Chiếu Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hải Đức Quang Minh Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Kim Cang Lao Cường
Phổ Tán Kim Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đại Cường Tinh Tấn
Dõng Mãnh Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đại Bi Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Từ Lực Vương Phật.
13 Hạnh Chơn chuyển ngữ
• Nhất tâm đỉnh lễ Từ Tạng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Chiên Đàn Khốt Trang
Nghiêm Thắng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hiền Thiện Thủ Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thiện Ý Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Quảng Trang Nghiêm
Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Kim Hoa Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Bảo Cái Chiếu Không
Tự Tại Lực Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hư không Bảo Hoa
Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Lưu Ly Trang Nghiêm
Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Phổ Hiện Sắc Thân
Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Bất Động Trí Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hàng Phục Chủng Ma
Vương Phật.
14 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
• Nhất tâm đỉnh lễ Tài Quang Minh Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Trí Huệ Thắng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Di Lặc Tiên Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thiện Tịch Nguyệt Âm
Diệu Tôn Trí Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thế Tịnh Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Long Chủng Thượng
Tôn Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Nhật Nguyệt Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Nhật Nguyệt Châu
Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Tràng Thắng Vương
Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực
Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Diệu Âm Thắng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thường Quang Tràng
Phật.
15 Hạnh Chơn chuyển ngữ
• Nhất tâm đỉnh lễ Quan Thế Đăng Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Huệ Oai Đăng Vương
Phật
• Nhất tâm đỉnh lễ Pháp Thắng Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tu Di Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tu Ma Na Hoa Quang
Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Ưu Đàm Bát La Hoa
Thù Thắng Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đại Huệ Lực Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang
Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Vô Lượng Âm Thanh
Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tài Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Kim Hải Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Sơn Hải Huệ Tự Tại
Thông Vương Phật.
16 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
• Nhất tâm đỉnh lễ Đại Thông Quang Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Nhất Thiết Pháp Tràng
Mãn Vương Phật.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đông Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đông Nam Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Nam Phương Nhất Thiết
Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng,
phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tây Nam Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tây Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
17 Hạnh Chơn chuyển ngữ
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Tây Bắc Phương Nhất
Thiêt Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Bắc Phương Nhất Thiết
Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng,
phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Đông Bắc Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Hạ Phương Nhất Thiết
Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi hình tượng,
phù đồ miếu tháp, nhất thiết Phật sự.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thượng Phương Nhất
Thiết Chư Phật sở hữu sắc thân xá lợi
hình tượng, phù đồ miếu tháp, nhất thiết
Phật sự.
18 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
• Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Tam Thế
Nhất Thiết Chư Phật. (3 lễ).
• Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Nhất Thiết
Pháp Tạng. (3 lễ).
• Nhất tâm đỉnh lễ Chiêm Sát Thiện Ác
Nghiệp Báo Kinh Vi Diệu Pháp Tạng.
• Nhất tâm đỉnh lễ Thập Phương Nhất Thiết
Hiền Thánh. (3 lễ).
• Nhất tâm đỉnh lễ Kiên Tịnh Tín Bồ Tát
Ma Ha Tát.
• Nhất tâm đỉnh lễ Biên Kiết Bồ Tát, Quán
Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
• Nhất tâm đỉnh lễ Địa Tạng Bồ Tát Ma Ha
Tát. (3 lễ).
(Quỳ đọc)
Tu Hành Sám Hối
Con cùng chúng sinh, từ vô thủy đến nay,
thường vì ba nghiệp, sáu căn và trọng tội
làm chướng ngại, nên không thấy được chư
19 Hạnh Chơn chuyển ngữ
Phật, không biết xuất ly sinh tử. Thuận theo
sinh tử, không biết giáo lý vi diệu. Ngày nay
tuy đã biết, nhưng do con và chúng sinh,
đều bị tất cả tội nặng làm chướng ngại. Hôm
nay xin đối trước Bồ Tát Địa Tạng, thập
phương chư Phật, rộng vì tất cả chúng sinh
mà quy y sám hối. Duy nguyện chư Phật từ
bi gia hộ, khiến chúng con tội chướng tiêu
diệt. (lễ)
Rộng vì tất cả chúng sinh khắp Pháp
giới, đều nguyện đoạn trừ ba chướng, quy y
sám hối. (lễ)
Con cùng chúng sinh, từ vô thủy đến
nay, đều do tham ái kiến chấp, trong lòng
suy tính ngã nhân:
1. Ngoài thêm bạn xấu,
2. Không tùy hỷ người, không có chút
thiện niệm,
3. Duy chỉ có ba nghiệp, tạo ra nhiều tội
chướng,
4. Việc tuy không rộng, nhưng ác tâm
lan tràn,
20 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
5. Ngày đêm liên tục, không hề gián đoạn,
6. Lại phạm lỗi lầm, không muốn người
biết,
7. Không sợ ác đạo,
8. Không tàm không quý,
9. Không biết nhân quả.
Vì thế ngày nay:
1. Thâm tín nhân quả,
2. Sinh lòng hổ thẹn,
3. Luôn luôn sợ hãi,
4. Phát lộ sám hối,
5. Đoạn tâm tương tục,
6. Phát tâm Bồ Đề, đoạn ác tu thiện,
7. Tinh cần sách tấn ba nghiệp, sửa đổi
tội nặng trong quá khứ,
8. Tùy hỷ phàm Thánh, dù chút thiện nhỏ,
9. Nguyện mười phương Phật, có đại
trí tuệ, có thể cứu bạt cho con, cùng tất cả
chúng sinh, từ trong biển sinh tử vô tận, đến
bờ của Tam đức.
Từ vô thủy đến nay, không biết tính của
21 Hạnh Chơn chuyển ngữ
các Pháp vốn không tịch, nên tạo nhiều tội
ác. Nay biết không tịch, cầu đạo Bồ Đề,
nguyện độ chúng sinh, rộng tu các điều
thiện, đoạn tất cả điều ác. Duy nguyện hết
thảy Tam Bảo, Địa Tạng Bồ Tát, từ bi nhiếp
thọ, nghe con sám hối! (lễ)
Con đệ tử...............................chí tâm sám
hối, con cùng chúng sinh, tự tính thanh
tịnh, cảnh giới chân thật, đồng thể chư
Phật. Vô minh si ám, huân tập nhân duyên,
hiện cảnh giới vọng, khiến sinh tham trước,
so tính ta và của ta; Huân tập các ác pháp,
sáu căn ba nghiệp, tạo nhiều tội chướng,
thập ác ngũ nghịch, trọng nan khinh giá;
Chướng tuệ chướng định, chướng chư giới
phẩm, dẫn đến luân hồi khổ ải, mãi không
có ngày ra khỏi.
Giả như muốn tu hành, nhưng quá nhiều
nghi chướng, hoặc bị ngoại ma quấy nhiễu,
hoặc gặp tà kiến, không đủ trợ duyên, tín
tâm không thành. Nay gặp Địa Tạng Bồ Tát
22 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
Ma Ha Tát, dùng lời nhẹ nhàng an ủi, khai
phá mê mờ cho con, rửa sạch tâm con, cầu
ai sám hối. Duy nguyện thập phương chư
Đại Từ Tôn chứng tri hộ niệm!
Nay con sám hối, thề không tái phạm,
nguyện con cùng hết thảy chúng sinh,
nhanh được trừ diệt, từ vô lượng kiếp đến
nay, mười ác bốn trọng, ngũ nghịch điên
đảo, hủy báng Tam Bảo, tội nhất xiển đề.
Tội tính như vậy, vốn là không tịch. Nhưng
từ hư vọng, khởi tâm điên đảo, chưa có định
thật, mà có thể chứng đắc. Nguyện tất cả
chúng sinh, mau đạt bản tâm, vĩnh viễn diệt
trừ tội căn.
Sám hối xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (lễ)
Phát Khuyến Thỉnh Nguyện
Con đệ tử...............................................chí
tâm khuyến thỉnh, nguyện khiến hết thảy Bồ
Tát trong mười phương chưa thành Chính
giác, nguyện mau thành Chính giác. Nếu đã
thành Chính giác, nguyện thường trú tại
23 Pháp Sư Định Hoằng
thế, vận chuyển bánh xe Pháp, không nhập
Niết Bàn.
Khuyến thỉnh xong, quy mạng lễ Tam Bảo . (lễ)
Phát Nguyện Tùy Hỷ
Con đệ tử...............................................chí
tâm tùy hỷ, nguyện cho con và tất cả chúng
sinh, xả bỏ rốt ráo vĩnh viễn tâm đố kỵ. Đối
với tất cả công đức tu học và thành tựu của
các cõi nước trong ba đời, thảy đều tùy hỷ.
Tùy hỷ xong, quy mạng lễ Tam Bảo.(lễ)
Phát Nguyện Hồi Hướng
Con đệ tử....................................................
chí tâm hồi hướng, nguyện đem tất cả công
đức mà con tu được, làm lợi ích cho tất cả
chúng sinh, đồng hướng đến trí Phật, đến
thành Niết Bàn.
Hồi hướng xong, quy mạng lễ Tam Bảo. (lễ)
(Phát nguyện thêm và đoan tọa tịnh thất,
xưng niệm danh hiệu Pháp môn ngũ hối: Nam
Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát!)
24 Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
Con đệ tử.............................................chí
tâm phát nguyện, nguyện mười phương
Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ
trì, cứu bạt chẩn tế. Khiến đất nước này,
tiêu trừ thiên tai động loạn, chính Pháp lưu
thông, khắp cả đều sinh tịnh tín. Không
có các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ tà
ma. Con và chúng sinh, mau chóng diệt trừ
trọng tội, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não,
cuộc sống sung túc. Tam tụ giới căn, rốt ráo
thanh tịnh. Hai loại quán đạo, ưng niệm hiện
tiền, tam muội tổng trì, thần thông phương
tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều viên thành.
Liễu ngộ tự tâm, cảnh giới chân thật, xả
thân vào thế giới khác, sinh tại Phật tiền,
đối diện Di Đà, thị giả chư Phật, được Phật
thọ ký. Trở lại trần lao, phổ độ quần mê,
đồng quy mật tạng.
Phát nguyện xong, quy mạng lễ Tam Bảo! (lễ)
25 Hạnh Chơn chuyển ngữ
Tam Quy Y
Tự quy y Phật,
Đương nguyện chúng sinh,
Thể giải đại đạo,
Phát vô thượng tâm. (lễ)
Tự quy y Pháp,
Đương nguyện chúng sinh,
Thâm nhập Kinh Tạng,
Trí tuệ như Hải. (lễ)
Tự quy y Tăng,
Đương nguyện chúng sinh,
Thống lý đại chúng,
Nhất thiết vô ngại.
Hòa Nam Thánh Chúng. (lễ)
26
Kệ Hồi Hướng
Nguyện đem công đức này,
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ ba đường.
Nếu có ai thấy nghe,
Đều phát tâm Bồ Đề.
Hết một báo thân này,
Đồng sinh Cực Lạc Quốc.
Địa Tạng Chiêm Sát Sám Nghi
CHIÊM SÁT HÀNH PHÁP DIỆT
CHƯỚNG TRỪ NGHI
Phổ khuyến Tịnh Tông đồng tu kiêm tu Chiêm
Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi.
Chủ Giảng: Pháp Sư Định Hoằng
Chuyển Ngữ: Hạnh Chơn
Thời gian: ngày 09/02/2014
Địa điểm: Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội Hiếu - Giảng Đường Đài Bắc.
Từ chỗ Hoàng Cảnh Quan vừa mới giới thiệu, chúng ta
có thể biết được ông ta rất có nghiên cứu Chiêm Sát Sám,
cũng là một người thành thạo, nên đôi ba lời đã nói lên được
đại ý của Chiêm Sát với mọi người một cách rõ ràng.
Pháp môn này đích thực là một Pháp môn vô cùng thù
thắng. Đại sư Ngẫu Ích khen ngợi Pháp môn này là “thần
đơn cứu mạng” của thời kỳ mạt pháp. Lời này không thấy
Ngài khen ngợi đối với các Kinh điển và các Pháp môn
khác, đại khái là Ngài chỉ khen ngợi duy nhất Pháp môn
niệm Phật và Pháp môn Chiêm Sát này.
Hoàng Cảnh Quan vô cùng từ bi, mời tôi đến đây giới
thiệu cho mọi người Pháp môn thù thắng này. Pháp môn này
có thể nói là một thực hành cụ thể về đại tâm, đại nguyện,
đại hạnh của Bồ Tát Địa Tạng. Ở Địa Tạng Tịnh Tông Học
Hội giảng giới thiệu về Pháp môn này vô cùng thích hợp.
Hoàng Cảnh Quan cũng tuân theo tinh thần đại từ, đại bi của
28 29
Bồ Tát Địa Tạng lưu thông, tuyên dương giáo dục nhân quả,
giáo dục hiếu đạo và Pháp môn niệm Phật này tại Đài Loan
cho đến toàn cầu. Nhân quả, hiếu đạo, niệm Phật, đúng như
trong Kinh Địa Tạng nói là ba tôn chỉ lớn, Kinh Địa Tạng
gọi là hiếu Kinh của Phật Giáo, lại đặc biệt đề cao nhân quả
và xưng danh hiệu Phật.
Hôm nay, tôi giới thiệu với mọi người về một bộ Kinh
khác của Địa Tạng Tam Kinh; Ngoài Kinh Địa Tạng còn có
bộ Kinh Chiêm Sát này. Ngoài ra, còn có một bộ Kinh chính
là “Thập Luận Kinh”, hợp lại thành Địa Tạng Tam Kinh. Bộ
Kinh Chiêm Sát này cũng nói đến nhân quả, cũng nói đến
niệm Phật, càng nổi bật hơn nữa là nói về sám hối, Pháp
môn sám hối. Chúng ta cùng nhau học tập và hoằng dương
Pháp môn này, nhất định được Bồ Tát Địa Tạng gia trì; Nếu
Tâm và Hành của bản thân giống với Bồ Tát Địa Tạng thì
Ngài nhất định gia trì chúng ta.
Quý vị xem Hoàng Cảnh Quan, chúng ta thấy tướng mạo
của ông, quý vị có ai phát hiện chăng? Hình như có chút
giống với tôn tượng Bồ Tát Địa Tạng ở đây. Vì sao tướng
lại giống vậy? Vì tâm ông giống với tâm Bồ Tát, mà tướng
là do tâm sinh. Như vậy, mỗi người chúng ta đều học tập
Bồ Tát Địa Tạng, tâm giống Địa Tạng Bồ Tát thì tướng mạo
cũng giống Địa Tạng Bồ Tát.
Bản thân tôi cảm thấy có nhân duyên rất thâm sâu với Bồ
Tát Địa Tạng; Tôi học Phật cũng bắt đầu từ Pháp môn Địa
Tạng; Khi chưa tiếp xúc với Kinh giáo của Hòa Thượng
(Tịnh Không), mỗi ngày đều tụng Kinh Địa Tạng. Lúc đó,
tuy không hiểu thấu suốt yếu nghĩa của Kinh Địa Tạng, chỉ
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
tụng như vậy thôi, nhưng cảm thấy rất nhiếp thọ, mỗi lần
tụng đều rơi nước mắt; Đặc biệt là tụng đến sự chí thành,
hiếu đạo của Bồ Tát Địa Tạng, Bà La Môn Nữ cứu mẹ,
Quang Mục cứu mẹ, thấy sự chí thành đó, đều là khóc than
rơi lệ. Tự mình cũng sám hối, bản thân mình so với Bồ Tát
Địa Tạng quả thật không thể nào sánh được;
Ở sau đọc đến Bồ Tát Địa Tạng được đức Thế Tôn xoa
đỉnh phó chúc, đem chúng sinh trong thời mạt pháp phó
chúc cho Bồ Tát Địa Tạng; Muốn Ngài trước khi Di Lặc Bồ
Tát ra đời, chính là trong vòng khoảng 56 ức năm, gánh vác
trọng trách cứu độ những chúng sinh đau khổ; Hay nói cách
khác, Ngài chính là truyền nhân sau khi Phật diệt độ, là
Giáo Chủ của thế giới Ta Bà của chúng ta hiện nay. Đây
quả thực là đại bi đại nguyện!
Trong Hội Địa Tạng, đức Thế Tôn khen ngợi Bồ Tát Địa
Tạng, ở Đao Lợi Thiên, cũng khen ngợi bốn việc lớn không
thể nghĩ bàn của Ngài: “Này Địa Tạng! Địa Tạng! thần lực
của ông không thể nghĩ bàn, từ bi của ông không thể nghĩ
bàn, trí tuệ của ông không thể nghĩ bàn, biện tài của ông
không thể nghĩ bàn!”.
Quả thật, đức Thế Tôn hiếm khi khen ngợi các vị Bồ Tát
khác như vậy, như ở đây Hòa Thượng viết: “ba đời Như Lai
đều tán thán, mười phương Bồ Tát cùng quy y, đây là một vị
Bồ Tát vĩ đại nhất”. Chúng ta có thể tiếp xúc được giáo huấn
của vị đại Bồ Tát này, cụ thể là trong Kinh Chiêm Sát này;
Lúc nãy, chúng ta vừa nói đến bốn điều không thể nghĩ
bàn: Thần lực, Từ bi, Trí tuệ, Biện tài. Bản thân tôi lĩnh hội
Hạnh Chơn chuyển ngữ
30 31
là tập trung thể hiện trong bộ Kinh Chiêm Sát này; Thế nên,
chúng ta may mắn gặp được bộ Bảo Điển này phải sinh tâm
cảm ân; Đây là trăm nghìn vạn kiếp khó gặp được; Có thể
khiến chúng sinh trong thời mạt thế nhanh chóng diệt
trừ ác nghiệp trọng tội, tiêu trừ tất cả chướng ngại để tu
hành, buông bỏ tất cả nghi hoặc và có thể mau thành tựu
trên con đường Bồ Đề. Mục tiêu của chúng ta là niệm Phật
cầu sinh Tịnh Độ, lấy Pháp môn Chiêm Sát này trợ duyên
thêm cho chúng ta, như vậy nhất định sẽ thuận lợi.
Chúng ta cũng là hàng phàm phu ngu muội, nhưng nhân
duyên rất thù thắng, gặp được ân sư là Tịnh Không Pháp Sư,
theo Ngài học Kinh điển gần hai mươi năm; Trên thực tế, từ
khi nghe Kinh đến nay là hai mươi hai năm; Do đó, về sau
theo Hòa Thượng, từ bỏ công việc, xuất gia hoằng Pháp,
cũng quyết tâm hoằng dương Pháp môn Tịnh Độ. Nhưng
chính mình tập khí, nghiệp chướng phiền não cũng rất nặng,
nên tu học lâu như vậy mà cảm thấy rất xấu hổ vì không có
thành tựu gì.
Đầu năm ngoái, Hòa Thượng đưa tôi đến Tịnh xá Chánh
Giác học giới, đây cũng là phước báo lớn của Định Hoằng.
Được học giới dưới tòa của một vị giới đức cao cả là Hòa
Thượng Luật sư Quả Thanh; Trong lúc học giới, đã gặp bộ
Kinh Chiêm Sát này. Liên tục hơn nửa năm, năm ngoái,
trước khi tôi đi kiết hạ an cư, bắt đầu gặp được bộ Kinh này,
đến nay cũng hơn nửa năm, có thể nói là lợi ích vô cùng,
nhờ từ bi nhiếp thọ của Bồ Tát Địa Tạng, được sự gia trì
rất lớn. Lát sau tôi sẽ giới thiệu tường tận với mọi người về
nhân duyên tôi gặp bộ Kinh này, cũng là giúp mọi người
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
sinh khởi tín tâm với bộ Kinh này; Vì có thể mọi người ít
tiếp xúc với bộ Kinh này, đặc biệt là các đồng học của Tịnh
Tông; Như trước đây, tôi chưa từng tiếp xúc đến, chỉ nghe
tên nhưng chưa từng đọc đến; Nay bản thân đã đạt được lợi
ích lớn lao như vậy, nên có nghĩa vụ chia sẻ với mọi người,
cũng là báo đáp thâm ân của Bồ Tát Địa Tạng.
Vì sao tôi học Pháp môn này? Điều này có liên quan đến
việc học giới của tôi; Bản thân, vốn cũng không nghĩ đến
học giới, chỉ nghĩ tới xuất gia thì phải chuyên tu, chuyên
hoằng Pháp môn Tịnh Độ; Đã chọn Kinh Vô Lượng Thọ,
đời này không thay đổi đề mục. Đương nhiên, đối với giới
luật, cơ bản gọi là không biết gì, tuy đã thọ giới cụ túc,
nhưng chưa từng đọc tụng tới giới bản; Vốn Đức Phật yêu
cầu Tỳ Kheo chúng ta phải nửa tháng tụng giới một lần,
thậm chí quý vị thọ năm giới, Bồ Tát giới, đều mỗi nửa
tháng tụng giới một lần; Tôi không đụng đến giới bản, chỉ
chuyên nghiên cứu Kinh Vô Lượng Thọ.
Thật ra, như vậy là tôi đã làm trái với giáo huấn của Phật.
Vì Đức Phật chế Tỳ Kheo trong vòng năm Hạ phải tinh
chuyên giới luật, sau năm hạ mới cho phép nghe giáo tham
thiền; Năm hạ của tôi chính là năm năm, mỗi năm đều phải
kiết hạ an cư đây gọi là năm hạ. Tôi thọ Cụ Túc Giới, Hạ
an cư đầu tiên tôi không có, đến năm thứ hai, Sư Phụ thấy
vấn đề của tôi, không thể trái với Phật chế, phải làm gương
cho mọi người, nên đưa tôi đến học giới dưới tòa của Hòa
Thượng Luật sư Quả Thanh.
Lúc đó, tôi vẫn không tình nguyện lắm, không phải học
Tịnh Tông cũng được rồi sao? Học giới luật nữa để làm gì?
Hạnh Chơn chuyển ngữ
32 33
Đây đều là hiểu lầm và thiên kiến của mình; Vì sao vậy?
Sau đó tôi đọc được của Đại Sư Ngẫu Ích, đây là vị Tổ đời
thứ chín của Tịnh Độ Tông; Ngài là quyền uy của Tịnh Độ
Tông, nhưng Ngài đã nói như thế nào?
Trong “Trọng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu” Ngài nói:
“Trì giới, niệm Phật vốn là một môn; Tịnh giới là nhân,
Tịnh độ là quả”. Nên trì giới và niệm Phật không phải là hai
môn mà là một Pháp môn; Vậy mà tôi lại phân nó thành hai,
tôi niệm Phật được rồi không phải trì giới, như vậy là sai.
Nói thật! không trì giới, nhất định không niệm Phật
tốt. Quý vị thử nghĩ xem, bản thân mình còn phạm giới,
vừa tạo sát, đạo, dâm, vọng, miệng vừa niệm Phật A Di
Đà; Quý vị có thể niệm tốt được chăng? Đó chính là Đại
Sư Từ Vân Quán Đỉnh nói: “Người niệm Phật có một trăm
loại quả báo, loại thứ nhất là đọa vào địa ngục A Tỳ, không
phải vãng sinh Tây Phương; Miệng niệm Di Đà, tâm không
tương ưng”.
Sau đó, thông qua học giới, dần dần đã coi trọng giới luật
hơn; Mới biết, thì ra giới luật là đối trị tập khí phiền não
của chúng ta, chúng ta không đoạn trừ tập khí phiền não,
nó sẽ chướng ngại chúng ta niệm Phật. Quý vị thấy Bồ Tát
Đại Thế Chí nói: “Đô nhiếp lục căn, tịnh niệm tương tục”,
hai câu này là cương lĩnh tu hành chung của Tịnh Tông. Bồ
Tát Đại Thế Chí là Sơ tổ của niệm Phật Pháp giới;
Tổng kết tám chữ của hai câu nói này chính là: “trì giới,
niệm Phật”; “Đô nhiếp lục căn” chính là trì giới; Năm căn
là: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, là tượng trưng cho ba nghiệp:
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
thân, khẩu, ý. Ý căn là ý nghiệp của chúng ta, đều phải dùng
giới Pháp để thu nhiếp nó; Thân, khẩu không tạo nghiệp, ý
cũng không nghĩ đến những điều vọng tưởng, đây gọi là:
“đô nhiếp lục căn”. Sau đó quý vị mới có thể: “tịnh niệm
tương tục”; Niệm Phật chính là “tịnh niệm tương tục”; Thế
nên, Bồ Tát Đại Thế Chí dạy: tu hành chính là “trì giới,
niệm Phật”.
Trì giới và niệm Phật là một, không phải hai; Lấy tịnh giới
làm nhân, Tịnh độ làm quả; Trì giới đến lúc thanh tịnh, mới
có thể vãng sinh Tịnh Độ. Tịnh giới là gì? Tâm cũng không
phạm giới, thân khẩu đương nhiên cũng không phạm, gọi
là “tâm tịnh tức cõi Phật tịnh”; Đây là nguyên lý của Pháp
môn Tịnh Độ. Rốt cuộc, tôi cũng hiểu được nguyên lý này
nên rất coi trọng giới luật không dám khinh xuất.
Điều đầu tiên của việc học giới là phải đắc giới mới được;
Phải vậy chăng? Đều không đắc giới như vậy, học giống
như “danh không chính, ngôn không thuận”; Phải đắc giới
mới có thể học giới. Quý vị thọ ngũ giới mới có thể trì ngũ
giới; Thọ giới Bồ Tát mới có thể trì giới Bồ Tát; Thọ giới
Tỳ Kheo mới có thể trì giới Tỳ Kheo. Vậy, rốt cuộc bản thân
tôi đã đắc giới rồi chăng? Trong lòng có nghi hoặc! Khi đọc
cuốn sách: “Niên Phổ đời thường của Đại Sư Ngẫu Ích”, tôi
thấy Ngài lúc đó cũng hoài ghi bản thân chưa đắc giới; Ngài
đã tham phỏng như thế nào? Ngài liền làm mấy cái thăm để
rút thăm, ở trước Phật rút thăm hỏi; Hỏi xem bản thân đắc
giới gì? kết quả rút được một thăm chính là Sa Di Bồ Tát
giới; Là Đức Phật nói cho Ngài biết Ngài đã đắc giới Sa Di
Bồ Tát; Thế nên, về sau Ngài tự xưng là Sa Di Bồ Tát mà
Hạnh Chơn chuyển ngữ
34 35
không xưng là Tỳ Kheo.
Tôi cũng học Đại Sư Ngẫu Ích, tôi rất ngưỡng mộ Ngài;
Nên cũng làm một ít thăm, ở trước Phật rút thăm hỏi; Tôi
làm thăm đầu tiên là Bồ Tát Tỳ Kheo giới, thăm thứ hai là
Sa Di Bồ Tát, thứ ba là Bồ Tát xuất gia Ưu Bà Tắc; Không
đắc giới Sa Di chỉ là giới Ưu bà Di, chính là chỉ có năm giới,
như Đại sư Hoằng Nhất, Ngài tự xưng là xuất gia Ưu Bà
Tắc, sau đó hỏi lại chỉ đắc ngũ giới, sau cùng chỉ có Tam quy
y, đến ngũ giới cũng không có; Tôi đã làm mấy cây thăm,
kiền thành lễ bái, lễ bái nghìn Phật, vạn Phật. Sau khi lễ lạy
xong, đến trước Phật rút thăm; Làm điều này cần phải chí
thành, không chí thành không cảm thông được. Lạy được
một vạn lạy cũng đủ chí thành, liền rút thăm; Phát hiện, tất
cả các giới đều không đắc! Lúc đó, tôi thật như trái bóng
xì hơi vậy! Tôi cứ nghĩ rằng ít nhất tôi không được làm Sa
Di Bồ Tát như Ngẫu Ích Đại Sư, thì cũng làm được Xuất
gia Ưu Bà Tắc như Hoằng Nhất Đại Sư; Kết quả không đạt
được giới nào! Thật hổ thẹn! Sau đó tự mình phản tỉnh! Vì
sao không đắc giới?
Thứ nhất là: khi thọ giới không có lòng biết ơn! Nếu
không có tâm chí thành cảm ơn, để như Lý như Pháp quán
tưởng, nạp thọ mười phương hư không Thiện Pháp làm giới
thể, nạp thọ thân tâm chính báo của chính mình, không như
Lý để quán tưởng như vậy; Khi thọ giới cũng không đắc
giới! Chỉ có hình thức, không có đắc giới.
Thứ hai là: không thực sự phát khởi tâm hộ giới chân
thành! Như cổ đức nói: “Thà bỏ thân mạng cũng không
phạm giới”; Có thể vứt bỏ thân mạng cũng không bỏ giới
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Pháp. Không có tâm dũng mãnh này nên tự nghĩ cũng không
thể đắc giới.
Hiện nay, đã muốn học giới thì cần phải đắc giới; Như
vậy, điều đầu tiên tôi phải cầu giới. Thế nên, tôi bắt đầu
nghiên cứu phần trình bày của Đại Sư Ngẫu Ích về phương
diện này. Sau đó thấy Đại Sư Ngẫu Ích nói: sau thời nhà Tấn
Trung Quốc, không còn Tỳ Kheo.
Đại Sư Hoằng Nhất cũng rất kính ngưỡng Đại Sư Ngẫu
Ích. Mọi người đều biết rất rõ về Đại Sư Hoằng Nhất đúng
không? Là vị Luật sư vĩ đại trong thời cận đại, Ngài đã nói
như thế nào? Ở trong “Luật Học Yếu Lược”, Đại Sư Hoằng
Nhất nói: “Nếu thọ giới Sa Di phải hai Tỳ Kheo truyền thụ,
giới Tỳ Kheo phải ít nhất năm vị Tỳ Kheo truyền thọ; Năm
vị Tỳ Kheo truyền thọ! Nếu như tìm không được năm vị,
không những không thọ được giới Tỳ Kheo mà đến giới Sa
di cũng không thọ được.
Tôi có một câu nói rất thương tâm muốn nói với quý vị:
từ Nam Tống đến nay là sáu bảy trăm năm, có thể nói Tăng
chủng đã đoạn tuyệt! Trong mắt người bình thường cho rằng
Trung Quốc rất nhiều Tăng chúng, đại khái có khoảng mấy
trăm vị; Nhưng căn cứ trên thật sự mà nói, muốn tìm một vị
Tỳ Kheo chân chính trong số mấy trăm vạn người này, chỉ
sợ cũng không phải là chuyện dễ”.
Như vậy, làm sao có thể thọ giới Sa Di, thọ giới Tỳ Kheo?
Đã không có người có thể thọ giới, như vậy làm sao có thể
đắc giới được? Điều này, chúng tôi học giới Tỳ Kheo mới
biết, thì ra muốn đắc giới Tỳ Kheo phải đầy đủ sáu duyên,
Hạnh Chơn chuyển ngữ
36 37
chính là không thể thiếu một trong sáu điều kiện.
Đại Sư Hoằng Nhất đưa ra một trường hợp, chính là nói
quý vị không tìm thấy một người có thể thọ giới Tỳ Kheo,
nên quý vị nhất định không đắc giới được. Chỉ là một trong
sáu duyên mà thôi, càng huống gì là trong sáu duyên, các
duyên khác chưa chắc đầy đủ, trong đó cũng bao hàm bản
thân phải rất thành tâm như Lý quán tưởng nạp thọ giới thể.
Vấn đề này, đích thực là một vấn đề rất nghiêm túc! Vì
sao vậy? Nếu như không có Tỳ Kheo, chứng tỏ Tăng Bảo đã
đoạn tuyệt ở thế gian. Vậy Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng; Phật
thì đã diệt độ, chỉ còn Pháp bảo tồn tại; Điều tôi muốn nói
đây là Trụ Trì Tam Bảo, Tự Tính Tam Bảo chúng ta không
nói đến Tam Bảo trên mặt Lý, chỉ nói đến Trụ Trì Tam Bảo.
Pháp Bảo chính là Kinh sách! Pháp là nhờ Tăng truyền,
phải có Tăng để hoằng dương Pháp này; Nếu như không
có Tăng, thì Pháp Bảo cũng như hư không; Nên có thể nói,
hiện nay, Tam Bảo đã suy tàn đến tận cùng, đã đến bước
đường nguy hiểm nhất! Nếu không cứu vãn, coi như Tam
Bảo đã vĩnh viễn diệt vong tại thế gian này.
Thế nên, Đại Sư Hoằng Nhất có một đoạn xuất phát từ
đáy lòng, Ngài nói: “Chư vị à! Lời này là Ngài nói với giới
tử thọ giới Tỳ Kheo trong giới trường, khuyến khích mọi
người; Ngài nói: “Này chư vị! Nếu có người thật sự muốn
Thiệu Long Tăng chúng, cần phải cầu đắc Sa Di và Tỳ
Kheo giới”; Cũng có một phương pháp đặc biệt, tức là
như Đại Sư Ngẫu Ích lễ Chiêm Sát Sám Nghi cầu đắc
thanh tịnh luân tướng, tức có thể đắc Sa Di và Tỳ Kheo
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
giới, về sau có thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát; Hay nói cách
khác, chúng ta lễ Chiêm Sát Sám Nghi, sau khi cầu được
thanh tịnh luân tướng thì tất cả giới Sa Di, giới Tỳ Kheo,
giới Bồ Tát đều đạt được.
Trong Kinh Chiêm Sát có nói một cách cụ thể như vậy.
Đây là ba nghìn năm trước, Bồ Tát Địa Tạng ở trong Đại hội
Chiêm Sát, Đại hội này mở ở đâu? Cùng địa điểm với Kinh
Vô Lượng Thọ, trong Núi Kỳ Xà Quật, ở Thành Vương Xá,
do Bồ Tát Kiên Tịnh Tín, đặc biệt thay đại chúng trong thời
kỳ mạt pháp chúng ta, khởi thỉnh hỏi đức Thế Tôn: “Chúng
sinh trong thời mạt pháp, đặc điểm chính là nghiệp chướng
sâu nặng, phước bạc nhưng lại nhiều lòng nghi hoặc lo lắng,
làm sao có thể giúp chúng sinh diệt trừ nghiệp chướng và
nghi hoặc?” Đức Thế Tôn rất từ bi: vấn đề này, Tôi mời Bồ
Tát Địa Tạng giải đáp cho quý vị.
Bởi vậy, Bồ Tát Địa Tạng đã làm việc đáng phải làm,
liền nói ra đáp án này. Ngài liền giảng bộ Kinh Chiêm Sát
này; Thế nên, Pháp môn này chuyên đối trị khuyết điểm của
chúng sinh trong thời mạt pháp. Đương nhiên, vấn đề của
chúng ta, chính là thời kỳ mạt pháp này, muốn đắc giới là
rất khó.
Vậy Kinh Chiêm Sát này nói như thế nào? “Các chúng
sinh trong đời sau, muốn cầu xuất gia hay đã xuất gia, nếu
không thể được giới sư giỏi và Tăng chúng thanh tịnh, tâm
họ sinh nghi hoặc, không thọ được giới cấm như Pháp,
nhưng có thể học phát tâm Vô Thượng Đạo, cũng khiến
thân khẩu ý được thanh tịnh; Còn người chưa xuất gia thì
nên thế phát, mặc Pháp y như ở trên, lập nguyện tự thệ mà
Hạnh Chơn chuyển ngữ
38 39
thọ ba loại giới tụ của Luật nghi Bồ Tát, tức gọi là đạt được
đầy đủ giới Ba La Đề Mộc Xoa của người xuất gia, gọi là
Tỳ Kheo, Tỳ kheo Ni”.
Ý đoạn này nói, trong thời kỳ mạt pháp, nếu không có
điều kiện thọ giới Tỳ Kheo ở chỗ giới sư, thì có thể dùng
Pháp môn Chiêm Sát này, ngay cả hiện tại, quý vị chưa
xuất gia. Quý vị nghĩ tôi xuất gia để được giới Tỳ Kheo?
Phát tâm lớn như vậy thì trước tiên phải như thế nào? Phải
phát tâm Vô Thượng Đạo! Chính là tâm Vô Thượng Bồ Đề!
Tự mình phải thành tựu, đồng thời còn phải phổ độ chúng
sinh, phổ độ bằng cách nào? Thiệu Long Tăng chúng, hoằng
Pháp lợi sinh, cứu vãn Tăng Bảo, cứu sống Tam Bảo, đây
chính là tâm Vô Thượng Đạo!
Lúc này quý vị có thể lễ Chiêm Sát sám, lễ đến mỗi ngày
dùng Chiêm Sát môn này để chiêm sát xem Bồ Tát Địa
Tạng có thể giám định cho chúng ta! Thân, khẩu, ý, chúng
ta được thanh tịnh; Giả như ba bánh xe này, tôi đem theo
bánh xe, ở đây có ba bánh xe tượng trưng cho: thân, khẩu,
ý; Hai bên là màu đen, hai bên là màu đỏ, phân biệt tượng
trưng cho: việc ác lớn và việc ác nhỏ, việc thiện lớn và việc
thiện nhỏ; Bánh xe có bốn mặt, giả như thân, khẩu, ý, ba
bánh xe này liên tục ném ba lần đều xuất hiện mầu đỏ; Chín
màu đỏ, đây gọi là Thanh tịnh Luân tướng;
Bồ Tát Địa Tạng mượn Thanh tịnh Luân tướng này để
hiển thị giám định cho quý vị, thân khẩu ý của quý vị đã
thanh tịnh; Lúc này, có thể tự thệ, bản thân ở trước Phật phát
thệ, cầu thọ giới Sa Di, giới Tỳ Kheo, giới Bồ Tát, làm một
lần là đắc các giới. Kinh Chiêm Sát này đã mở ra cho chúng
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
ta phương pháp cầu giới đặc biệt.
Đại Sư Ngẫu Ích cũng dùng phương pháp này để đắc
giới. Hai mươi tư tuổi, Ngài xuất gia, ba mươi ba tuổi gặp
được Kinh Chiêm Sát; Ngài nói vừa bi ai, vừa vui mừng.
Quả thực tự than gặp được Kinh này quá trễ, hoan hỷ vô
lượng! Đến năm ba mươi bảy tuổi, Ngài giảng bộ Kinh này.
Lúc đó, Ngài còn muốn chú sớ cho bộ Kinh này; Nhưng vì
thân thể có bệnh, nên kéo dài đến bốn mươi sáu tuổi.
Năm bốn mươi sáu tuổi, Ngài muốn cầu giới Tỳ Kheo,
Ngài chưa bằng lòng với giới Sa Di Bồ Tát, phải làm sao?
Ngài liền xả tất cả các giới mà Ngài vốn có như: giới Bồ
Tát, giới Sa Di, làm người thọ Tam Quy; Tức giống như
tôi vậy, không có giới nào cả. Sau đó, bắt đầu bái sám, lễ
Chiêm Sát Sám, lạy thiên Phật, lạy vạn Phật, lạy Chiêm Sát
Sám; Lạy đến nguyên đán thứ hai, mồng một đầu năm vừa
Chiêm Sát, liền được thanh tịnh luân tướng;
Mới thấy từ lúc đó, sau năm bốn mươi bảy tuổi, Ngài có
thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát; Nên Chiêm Sát Sám Nghi này,
quý vị xem nghĩa sớ của Ngài, Ngài nổi tiếng chính là Tỳ
Kheo Trí Húc; Trước đó, Ngài chỉ xưng là Sa Di Bồ Tát, sau
đó được thanh tịnh luân tướng liền gọi là Tỳ Kheo.
Ngài Ngẫu Ích nói: “Đời vị lai, muốn được tịnh giới, giới
luật thanh tịnh, nếu bỏ Pháp Chiêm Sát luân tướng này, thì
không còn con đường nào khác, bỏ phương pháp này thì
không còn Pháp nào khác, duy có phương pháp này có thể
đắc giới. Trong thời kỳ mạt pháp, duy chỉ có phương pháp
này đắc giới Pháp. Không chỉ có giới Tỳ Kheo, xuất gia, Sa
Hạnh Chơn chuyển ngữ
40 41
Di, Tỳ Kheo giới, cho đến người tại gia, quý vị muốn đắc
năm giới, Bồ Tát giới cũng có thể dùng phương pháp này để
đạt được; Chỉ cần đạt được thân khẩu ý thanh tịnh, Thanh
tịnh Luân tướng hiển hiện, tức có thể nói là đắc giới”.
Giới là cơ sở của Định, nhân Giới sinh Định, nhân Định
phát Tuệ; Nếu như có giới thanh tịnh, như vậy là Bồ Tát Địa
Tạng ấn chứng cho quý vị! Giới đã Thanh tịnh rồi, quý vị
muốn tu Định sẽ rất dễ dàng, không còn chướng ngại.
Đại Sư Hoằng Nhất cũng đề xướng Pháp môn này, tuy
Ngài không cầu Thanh tịnh Luân tướng, vì Ngài có sứ mệnh
của mình; Ngài cần phải hoằng dương những Pháp của Nam
Sơn Tam Đại Bộ trong Tỳ Kheo Giới, nên không có thời
gian để cầu Thanh tịnh Luân tướng; Nhưng Ngài rất đề
xướng, Ngài nói như thế nào? Về sau, khi được Thanh tịnh
Luân tướng, tức có thể tổng thọ Bồ Tát Giới mà Sa Di và
Tỳ Kheo giới đều bao hàm trong Bồ Tát giới, Tam tụ Tịnh
giới, thứ nhất là Luật nghi giới, Luật nghi giới bao hàm Sa
Di và Tỳ Kheo giới, cũng bao hàm tất cả Luật nghi giới của
tại gia, như vậy về sau có thể xưng là Tỳ Kheo Bồ Tát.
Hoằng Nhất Đại Sư lại nói: “lễ Chiêm Sát Sám được
Thanh tịnh Luân tướng, tuy không phải là việc quá đơn
giản, nhưng nếu chư vị thực sự phát tâm lớn cũng có thể ra
sức tiến hành; Đây là điều tôi hy vọng ở quý vị nhất!” Đây
là lời của Hoằng Nhất Đại Sư. Đương nhiên, được Thanh
tịnh Luân tướng theo cách nói của Đại Sư Hoằng Nhất quả
thật không dễ; Nhưng khó hay dễ đều do mình, nếu quý vị
quyết tâm làm, cho dù giống như trong Kinh Vô Lượng Thọ
nói: “Lấy đấu đo biển”, đều có thể xuyên tới đáy.
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Nếu như quý vị không quyết tâm làm, có dễ như đưa tay
ra là được, quý vị cũng không chịu làm; Bởi thế, vì sao cần
phải phát tâm Vô Thượng Đạo? Tôi phải thực sự đắc giới
mới có thể sinh Định khai trí Tuệ; Phải có tâm nguyện như
vậy, chí tâm cầu đạo, tinh tấn không thôi, sẽ chiến thắng
được! Không có nguyện nào không thành tựu.
Bởi thế, bản thân Định Hoằng học Pháp môn này cảm thấy
rất thù thắng; Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Ngoài Pháp môn này
có thể đắc giới ra, thì không còn cách nào khác”, nên chỉ có
thể cầu Pháp môn này. Nhưng mới bắt đầu vẫn có nghi hoặc,
có thể rất nhiều người đều có cùng sự nghi hoặc này; Tôi là
chuyên tu, chuyên hoằng dương Tịnh Độ vì sao còn phải học
theo Chiêm Sát Sám? Tuy trước đây cũng biết trì giới và
niệm Phật vốn là một, nhưng lễ sám và niệm Phật phải chăng
cũng là một môn? Vẫn còn nghi hoặc về điều này!
Nhưng hiện nay vì muốn được đắc giới, nên trước phải
đến hỏi Bồ Tát Địa Tạng. Vì vậy, nên dùng bánh xe thứ ba,
ba loại Luân tướng, tổng cộng có ba loại bánh xe; Lúc này
nói bánh xe thứ hai là cầu giới, bánh xe thứ ba có sáu bánh,
trên một mặt đều là trống, ba mặt còn lại có số, tổng cộng lại
từ một đến mười tám, là 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8,… đến 18; Sáu
bánh xe này, quý vị y theo chỉ thị của Bồ Tát Địa Tạng có
thể hỏi vấn đề. Tôi muốn hỏi vấn đề gì? Tôi muốn hỏi bản
thân có thể không tu Chiêm Sát Sám này nhưng vẫn có thể
đắc giới Tỳ Kheo chăng? Còn có con đường nào nhanh hơn
chăng? Tuy Đại Sư Ngẫu Ích đã nói không còn con đường
nào nhanh hơn, tôi vẫn muốn hỏi Bồ Tát Địa Tạng. Tôi có
thể niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, như vậy có thể đắc giới
Hạnh Chơn chuyển ngữ
42 43
chăng? Chúng ta hỏi, có vấn đề thì nên hỏi, đến hỏi Bồ Tát
Địa Tạng, chính là dùng bánh xe thứ ba để hỏi.
Ném liên tục ba lần, trước tiên phải niệm một nghìn danh
hiệu Địa Tạng Bồ Tát. Quỳ ở đó niệm, sau đó liên tiếp ném
ba lần, cộng tất cả các chữ số lại, sau đó kiểm tra trong Kinh
Chiêm Sát, có tổng cộng 189 loại quả báo, chính là giống
như tượng trưng của bói quẻ vậy. Đi kiểm tra thử, vừa tra
tướng thứ 150 là gì vậy? “Quán sở khứ hữu chướng nạn”!
Chính là nói quý vị muốn không lễ Chiêm Sát sám mà đắc
giới Tỳ Kheo, đắc giới Bồ Tát, sẽ có chướng nạn, có chướng
ngại, có khó khăn.
Hay nói cách khác, là cần phải lễ Chiêm Sát Sám. Điều
này chứng tỏ Ngài Ngẫu Ích nói không sai, quả thực trừ
Pháp Chiêm Sát này ra, những Pháp khác không thể. Nên
bắt đầu thiết thực lễ Chiêm Sát Sám; Bồ Tát Địa Tạng muốn
tôi lễ, nên tôi lễ;
Làm sao mới có thể đạt được Thanh tịnh Luân tướng?
Trong Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ, Đại Sư Ngẫu Ích nói:
“Ngày nay, mặc dù từ lâu đã phế bỏ Tăng luân, nhưng thề
tiếp tục nắm giữ, nên cần phải học phát tâm Vô Thượng
Đạo mới có thể cảm ứng được Thanh tịnh Luân tướng”.
Hay nói cách khác, là đưa tiêu chuẩn này ra cho quý vị. Đại
Sư Ngẫu Ích đạt Thanh tịnh Luân tướng là như vậy.
Ngài nói quý vị làm sao có thể đạt được? Cần phải phát
khởi tâm Vô Thượng Đạo! Vì sao vậy, vì hiện nay nhìn thấy
Tăng luân đã phế bỏ từ lâu; Chính là Tăng Bảo không còn
nữa, không còn Tỳ Kheo chân chính nữa. Quý vị muốn cứu
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Tam Bảo? Thề nguyện nắm giữ chính Pháp? Đặc biệt là hàng
xuất gia như tôi, trên hình thức cũng thọ giới Tỳ Kheo, như
vậy cũng không thể chỉ có hữu danh vô thực mà thôi; Phải
có danh, mà danh phải đúng như sự thật, phải nắm lấy chính
Pháp. Phải học phát tâm Vô Thượng Đạo, như vậy mới có
điều kiện chiêu cảm Thanh tịnh Luân tướng. Điều này cần
phải chí thành cảm thông, may mắn là điều không thể. Vì
đây là nguyện lực của Bồ Tát Địa Tạng, quý vị không hành,
Ngài sẽ không cho quý vị Thanh tịnh Luân tướng; Quý vị
hành, Ngài mới cho. Trong các bánh xe này, đều có thần lực
của Bồ Tát Địa Tạng gia trì, không sai chút nào!
Ngẫu Ích Đại Sư đề xướng Pháp môn này, lúc đó là dốc
hết sức. Quý vị xem, Ngài viết bộ “Chiêm Sát Kinh Nghĩa
Sớ” này có huyền nghĩa, có chú sớ, lúc viết như thế nào?
Ngài viết lúc Ngài năm mươi hai tuổi; Lúc bốn mươi chín
tuổi, Ngài viết “Di Đà Yếu Giải”. Đại Sư Ấn Quang từng
tán thán “Di Đà Yếu Giải”: “dù cổ Phật tái sinh để chú giải
Kinh Di Đà, cũng không hơn được Ngẫu Ích Đại Sư”. Hay
nói cách khác, lúc Ngài Ngẫu Ích bốn mươi chín tuổi, đã đạt
được cảnh giới của Cổ Phật, có thể Ngài chính là cổ Phật
tái sinh.
Bộ Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ này là ba năm sau mới viết,
Ngài viết lúc năm mươi hai tuổi. Lúc đó, càng là cảnh giới
của cổ Phật. Đây là một trong hai bộ chú sớ sau cùng của
Ngài. Ngài không chỉ làm chú sớ này, Ngài còn sám nghi
cho Pháp môn Chiêm Sát.
Nếu ngày mai, chúng ta có thời gian, khoảng 9h30 buổi
sáng, các vị đồng tu phát tâm muốn học, đều có thể đến
Hạnh Chơn chuyển ngữ
44 45
tham gia. Tôi hướng dẫn mọi người cùng nhau lễ Chiêm Sát
Sám Nghi. Mới bắt đầu lễ khoảng một tiếng, bây giờ tôi đã
làm thời khóa cố định là ba mươi lăm phút. Trong Tịnh Xá
của tôi, có một Pháp sư lễ sám hơn hai mươi phút là xong,
thời gian lễ sám không nhiều nhưng vô cùng thù thắng. Sám
Nghi này do Đại Sư Ngẫu Ích biên soạn, căn cứ theo ý trong
Kinh mà viết ra.
Còn có một Nghi là Chiêm Luân Tướng Pháp, chính là
lúc nãy dùng Luân tướng thứ ba để hỏi vấn đề. Quý vị hỏi
vấn đề gì đều được, hỏi bản thân nên học tập ở đâu tốt, cần
đi làm việc chăng? Hay là ở nhà tu hành, bao gồm chúng ta
có thể vãng sinh Thế giới Cực Lạc chăng? Đợi một chút, có
vấn đề gì quý vị cứ hỏi.
Có một Nghi thức cũng là Đại Sư Ngẫu Ích soạn. Nên
có thể nói, Ngài đã làm cho Pháp môn Chiêm Sát Sám này
trở nên rất toàn vẹn, chúng ta chỉ tu tập theo, trực tiếp học
hành như vậy. Ngài giảng Pháp môn này không thể không
lưu thông, phải nhanh chóng lưu thông, dốc toàn lực lưu
thông Pháp môn này, Ngài giảng rất nhiều lần. Nói là
Pháp môn này có thể cứu bệnh nặng cho tất cả chúng
sinh trong thời mạt thế. Đáng tiếc, từ thời đại của Ngài
đến chúng ta hiện nay đã hơn ba trăm năm, Pháp môn
này vẫn chưa lưu thông rộng rãi, thật đáng tiếc! Quả là
chúng sinh phước bạc!
Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội của chúng ta đã có hai chữ
“Địa Tạng” thì phải đưa cao cán cờ của Bồ Tát Địa Tạng.
Chúng ta hoằng dương Pháp môn Địa Tạng. Bởi thế, vì sao
tôi lại có nhân duyên với Địa Tạng Tịnh Tông Học Hội như
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
vậy, đại khái là có sự sắp đặt âm thầm; Tôi và Hoàng Cảnh
Quan lần đầu tiên gặp nhau mà giống như bạn tri giao lâu
ngày gặp lại vậy. Đến khi hỏi, thì ra ông cũng lễ Chiêm Sát
Sám, mà ông ta còn giảng Kinh Chiêm Sát, quả thực tâm
đầu ý hợp! Thế nên, chúng tôi đều có sứ mạng phải phát
dương quảng đại Chiêm Sát Sám Nghi, Chiêm Sát hành
Pháp này. Đây cũng là kế thừa di chí của Đại Sư Ngẫu Ích,
chính là vị Tổ sư đời thứ chín của Tịnh Độ Tông. Có thể
nói, trong mười ba Tổ sư Tông Tịnh Độ, đối với việc hoằng
dương Tịnh độ mà nói, Ngài là người có cống hiến lớn nhất.
Di Đà Yếu Giải chính là một bộ trước tác được Tổ Sư Ấn
Quang tán thán, dù cổ Phật tái sinh cũng không viết được
hơn thế.
Đã muốn cầu Thanh tịnh Luân tướng, cần phải phát tâm
Vô Thượng Đạo! Không được sợ khó, thà bỏ thân mạng
cũng phải cầu giới hạnh, hy vọng có thể lấy chí nguyện của
Tổ Sư làm chí nguyện của mình. Bản thân tôi rất ngưỡng
mộ Đại Sư Ngẫu Ích! Tôi có hai vị Đại Sư, một vị đang tại
thế, một vị đã qua đời là quá khứ, vị trong quá khứ chính
là Đại Sư Ngẫu Ích; Còn vị Đại Sư hiện nay mọi người đều
biết, chính là người chúng tôi tôn kính nhất, chính là Hòa
Thượng Tịnh Không, hai vị Ân sư.
Về sau tôi hỏi Sư Phụ (PS Tịnh Không), con muốn hoằng
dương Pháp môn này được chăng? Tôi đã viết bài tựa cho
Chiêm Sát Kinh Nghĩa Sớ của Đại Sư Ngẫu Ích, vì ở Bắc
Kinh có một vị Cư sỹ muốn phát tâm in bộ Kinh này; Ông
mời tôi viết lời tựa, tôi cũng vì việc nghĩa không thể chối từ,
nên đã viết lời tựa trình lên Sư Phụ xem có thể lưu thông được
Hạnh Chơn chuyển ngữ
46 47
chăng? Sư Phụ xem xong nói: có thể lưu thông! Sau đó, Sư
phụ còn nói với tôi: “Trước đây tôi cũng từng làm việc này”,
mà càng khiến tôi kinh ngạc hơn là gì, Ngài nói, Ngài cũng
đã từng làm ba mươi bộ bánh xe gỗ tặng cho người khác. Tôi
nói: “Vậy là Hòa thượng quả thật quá tuyệt vời”.
Hòa Thượng nói phương pháp này có thể giúp người khác
đoạn nghi hoặc; Đặc biệt là đối với hàng sơ học chúng ta,
có nghi hoặc, có lo ngại, không đoạn nghi, tín tâm sẽ không
sinh khởi được, thậm trí trở thành chướng ngại lớn cho việc
tu học Tịnh Độ của chúng ta; Vì Tịnh Độ đáng quý nhất là
niềm tin, tín nguyện hạnh. Nếu như không đủ tín tâm, có
nghi hoặc, đó chính là chướng ngại! Pháp môn này là hóa
giải nghi ngờ. Bởi thế, Thiệu Long Tăng Chúng, gánh vác
sự nghiệp của Như Lai, không phải chúng ta thì là ai? Bởi
thế, cần phải phát tâm lễ sám! Lễ Sám như thế nào? Y theo
phương thức của Chiêm Sát Sám Nghi này.
Bước đầu tiên phải dùng Luân tướng thứ nhất, Luân
tướng thứ nhất có tất cả mười bánh xe, tượng trưng thân
khẩu ý, thập ác và thập thiện nghiệp của chúng ta; Sát sinh
hay không sát sinh? Trộm cắp hay không trộm cắp? Tà dâm
hay không tà dâm? .v.v. là tượng trưng mười ác nghiệp,
mười thiện nghiệp; Mỗi bánh xe có bốn mặt, một mặt mầu
đỏ tượng trưng cho thiện, một mặt mầu đen tượng trưng cho
ác, hai mặt khác là trống không.
Đầu tiên là y theo cách thức của Bồ Tát Địa Tạng, trong
Kinh này Bồ Tát Địa Tạng nói một cách rất tinh tế, tỉ mỉ,
nên làm như thế nào? Đầu tiên phải chiêm bánh xe thứ nhất,
bánh xe thứ nhất dùng để làm gì? Chính là kiểm tra tư liệu
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
đời trước của mình, xem đời trước chúng ta là nghiệp thiện
nhiều hay nghiệp ác nhiều, đâu là thiện nghiệp, đâu là ác
nghiệp, chúng ta đều có thể nhận ra;
Cũng y theo chiêm Luân tướng Pháp, chí thành lễ bái
cúng dường, quán tưởng cúng dường, sau đó niệm một
nghìn biến Thánh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng, rồi cầm ngửa
bàn tay, ném ra như vậy; Bánh xe lăn tròn là tượng trưng
cho nghiệp đang chuyển, sau đó nó dừng lại, liền xem thử.
Bây giờ quý vị sẽ quan sát được đời trước, thậm chí là thiện
ác nghiệp trong đời này.
Sau khi chiêm xong, còn phải dùng bánh xe thứ hai, bánh
xe thứ hai là để kiểm nghiệm xem chúng ta ném bánh xe thứ
nhất có tương ưng chăng và còn xem nghiệp của chúng ta
mạnh hay yếu; Bởi thế, ném bánh xe thứ nhất trước.
Bánh xe thứ hai đây là thân khẩu ý; Có ba bánh xe nên
quý vị phân biệt bói, ví dụ quý vị nhìn thấy một người sát
sinh, sát sinh là chứng minh đời trước hoặc đời này chúng ta
có nghiệp sát, chúng ta thử xem có tương ưng chăng? Nên
dùng thân này, bánh xe này là Thân nghiệp, tôi liền cầm
một bánh xe, sau đó tác ý. Bây giờ tôi muốn xem sát nghiệp
của tôi mạnh hay yếu, hoặc là tương ưng hay không, sau đó
cũng ném như vậy rồi xem thử; Nếu là màu đen, chứng tỏ
đời này và đời trước tạo sát nghiệp rất nặng; Tương ưng, vì
sát nghiệp là ác, mà bánh xe thứ hai cũng hiển thị là ác, như
vậy là tương ưng; Giả như bánh xe thứ hai hiện lên màu đỏ,
không tương ưng với màu đen của bánh xe thứ nhất, coi như
là lần này không tính. Có thể chúng ta chưa đủ thành tâm
nên bói không ra, giả như tương ưng, vậy nhất định là đúng;
Hạnh Chơn chuyển ngữ
48 49
Trong Kinh, Bồ Tát Địa Tạng nói rất rõ, nếu là chấm đen
nhỏ chính là có sát nghiệp, nhưng không nặng lắm, dễ sám
hối hơn, còn như nặng thì phải cố gắng sám hối.
Bây giờ tôi sẽ bói chính mình trước, sau khi ném bánh xe
thứ nhất xong, xem thử, sau đó dùng bánh xe thứ hai bói,
tương ưng, chỉ có hai cái; Một cái là không vọng ngữ, một
cái là không tham dục, ngoài ra nếu như không hiển thị là
trống không, nếu không là không tương ưng; Mà khi dùng
bánh xe thứ hai để bói hai cái này đều là không tham dục,
không vọng ngữ đều là màu đỏ, chứng tỏ đều là tốt; Có thể
đời trước ít vọng ngữ, ngoài ra không tham dục, cần phải
quan sát tập quán của đời này, cũng rất chính xác. Trong
Kinh cũng có nói, nếu chúng ta bói mà không tương ưng với
tập khí trong đời này; Ví dụ, trong đời này chúng ta rất thích
ăn, rất tham lam, nhưng khi bói lại ứng với không tham dục,
như vậy là không tương ưng; Tôi suy nghĩ lại, trong đời này
coi như là không tham lắm, cũng coi là tương ưng.
Sau khi đạt được Luân tướng như vậy, trong lòng liền
sinh khởi chút tín tâm, thật ra nghiệp chướng có thể là có
nhưng không nặng lắm, không phải là nghiệp sát, đạo, dâm,
vọng; Nếu hoàn toàn là mầu đen, như vậy là rất nặng, nhưng
nặng cũng có thể sám hối, còn như nhẹ thì phải cầu giới, cầu
thân khẩu ý thanh tịnh, điều này vẫn còn có hy vọng;
Bởi thế nên y theo Sám Nghi này nói, bắt đầu lễ sám, nên
lễ sám như thế nào? Bảy ngày đầu tiên phải ngày đêm sáu
thời lễ bái; Như vậy, mỗi ngày chúng ta lễ bảy bộ Sám; Mới
bắt đầu, lễ sám một bộ khoảng một tiếng, hay nói cách khác
bảy ngày đầu, mỗi ngày được bảy tiếng, còn phải niệm một
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
nghìn tiếng danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng.
Đến ngày thứ tám, bắt đầu dùng bánh xe thứ hai, bánh xe
thứ hai là ba bánh xe thân khẩu ý; Bắt đầu cầu Thanh tịnh
Luân tướng, ba bánh xe phải ném cùng một lúc, không phải
ném từng cái một, ba bánh xe này cũng cùng một lúc, không
cần niệm một nghìn biến danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng; Sáng
sớm, vừa đánh răng, rửa mặt xong, sau đó liền ném ba bánh
xe này một lúc, ném liên tục ba lần như vậy, vừa đúng cả ba
cái đều là mầu đỏ; Nếu như chín cái màu đỏ, bất luận là mầu
đỏ lớn hay nhỏ đây gọi là Thanh tịnh Luân tướng.
Chúng ta sẽ ném mỗi ngày, sám hối mỗi ngày, ném mỗi
ngày, lạy đến lúc được Thanh tịnh Luân tướng làm thời hạn;
Vì trong Kinh Chiêm Sát Bồ Tát Địa Tạng nói rất rõ, giả
như tâm quý vị chí thành, sơ tâm không thối chuyển, cho dù
nghiệp chướng nặng đến đâu, lễ một nghìn ngày nhất định
được Thanh tịnh Luân tướng, nghìn ngày chính là ba năm.
Điều này cần có tâm kiên trì, có nghị lực, sơ tâm không
thối chuyển, thế nên tôi đã quyết tâm để lễ lạy, kết quả
không ngờ, lễ sám được một tháng, ngày 8/8 được Thanh
tịnh Luân tướng. Lúc đó cảm thấy buồn vui lẫn lộn, nên lập
tức phải tạ ơn, quả thực là cảm ơn Thế Tôn, cảm ơn Bồ Tát
Địa Tạng, cảm ơn Sư Phụ, Hòa Thượng Quả Thanh, còn
có Pháp Sư Thiên Nhân, Pháp Sư Quả Lương, giới thiệu
Pháp môn này cho tôi, tôi đi đến chỗ họ để cảm ơn; Hay nói
cách khác, nếu quý vị được Thanh tịnh Luân tướng theo như
trong Kinh nói, là quý vị có thể đắc Bồ Tát giới, Sa Di giới,
Tỳ Kheo giới.
Hạnh Chơn chuyển ngữ
50 51
Suốt đời của Đại Sư Ngẫu Ích chí cầu năm Tỳ Kheo trụ
thế, sống cùng nhau hòa hợp là có thể hình thành Tăng đoàn,
có thể khiến chính Pháp phục hưng. Suốt đời Ngài Ngẫu Ích
chưa thực hiện được ước mơ này. Nên biết rằng năm vị Tỳ
Kheo này muốn hòa hợp ở một nơi cũng không phải là dễ,
nếu được Thanh tịnh Luân tướng, còn phải tinh chuyên giới
Pháp, mọi người sống với nhau hòa hợp, như Lý như Pháp.
Có Tăng đoàn này xuất hiện, đó chính là Tăng đoàn Lục
hòa mà Hòa Thượng hay nói. Tăng đoàn hòa hợp này vừa
xuất hiện, thì thiên tai ở thế gian này đều được hóa giải,
nhất định được chư Phật gia hộ, Thiên Long hộ trì, không có
thiên tai, mà chính Pháp có thể phục hưng. Điều này chính
mình phải nỗ lực!
Tuy Bồ Tát Địa Tạng quan tâm đến chúng ta như thế,
cho chúng ta Thanh tịnh Luân tướng, nhưng phải cần có
bốn người ý chí tương đồng cùng sống với chúng ta; Khi
hình thành Tăng đoàn đầy đủ năm vị Tỳ Kheo, chúng ta
có thể thực hiện ước mơ của Đại Sư Ngẫu Ích, có thể làm
được chăng? Chúng ta có tâm nguyện này, nỗ lực cầy cấy
không hỏi đến thu hoạch. Sư Phụ chúng tôi cũng nói, muốn
phục hưng Phật Pháp, cần phải khôi phục chế độ Tùng Lâm,
chính là khôi phục Tăng đoàn.
Trong đời Hòa Thượng hình như vẫn chưa nhìn thấy, nên
đời sau của chúng ta cần phải kế thừa di chí của tiên nhân,
tiên hiền, tiếp tục nỗ lực; Ngài Ngẫu Ích rất hy vọng như
vậy, Đại Sư Hoằng Nhất cũng hy vọng như vậy, Sư Phụ
chúng tôi cũng hy vọng như vậy, nên chúng ta phải nỗ lực
tiến hành, bất luận thành tựu hay không cũng cần phải nỗ
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
lực. Như Khổng Tử nói “Trì kỳ bất khả di nhi di trí” (Biết
điều này không dễ làm mà vẫn cứ làm).
Thế nên, bản thân gặp được Pháp môn Chiêm Sát này,
một nhân duyên khi học giới. Hiện nay hồi tưởng lại, cảm
ứng không thể nghĩ bàn. Bản thân giống như trong Kinh
nói: “Nhờ Bồ Tát Địa Tạng nhiếp thọ, Bồ Tát dùng lời nhẹ
nhàng an ủi nói, mở đám mây mờ cho tôi và rửa sạch tâm
tư, phá mê trừ chướng, phá trừ nghi ngờ lo lắng cho chúng
ta, đoạn tận chướng ngại cho chúng ta, xa dời khiếp nhược,
tăng trưởng tịnh tín”. Hiện tại bản thân tôi lĩnh hội một
cách sâu sắc, Pháp môn này gọi là tăng trưởng tịnh tín, tín
tâm của chúng ta có thể tăng trưởng, có thể thanh tịnh.
Trong Kinh này, Bồ Tát Địa Tạng nói với chúng ta rằng:
“Khi học nên chí tâm, khiến thân khẩu ý được thanh tịnh
tướng, tôi cũng hộ niệm, khiến chúng sinh này nhanh chóng
tiêu trừ chủng chủng chướng ngại, Thiên Ma Ba Tuần không
đến phá hoại, cho đến 95 loại ngoại đạo tà sư, tất cả quỷ
thần cũng không đến làm não loạn; Tất cả ngũ cái uyển
chuyển nhẹ nhàng và có thể tu tập thiền trí tuệ”. Trong lời
nguyện của Bồ Tát Địa Tạng, Ngài đã phát nguyện: chỉ cần
chúng ta có thể phát khởi chí tâm, cầu đắc Thanh tịnh Luân
tướng, thân khẩu ý được thanh tịnh, thì Bồ Tát Địa Tạng sẽ
hộ niệm, có thể khiến chúng ta nhanh chóng tiêu diệt các
chướng nghiệp.
Thiên Ma Ba Tuần đều không dám đến nhiễu loạn, thậm
chí 95 loại ngoại đạo tà sư và tất cả quỷ thần, chính là nói tất
cả những oán thân trái chủ của chúng ta, những oan hồn ma
quỷ cũng đều không đến quấy nhiễu. Nên đạo Bồ Đề của
Hạnh Chơn chuyển ngữ
52 53
chúng ta vô cùng thuận lợi và tất cả ngũ cái của bản thân,
như tham dục, sân uế, thùy miên, nghi pháp, trạo hối, uyển
chuyển nhẹ nhàng, dần dần ít đi, có thể tu tập các thiền trí
tuệ, dần dần có thể được định, có thể được tam muội, có thể
khai trí tuệ;
Tôi thấy Bồ Tát Địa Tạng nói điều này trong lòng rất hoan
hỷ, quả thật cảm thấy Pháp môn này rất thù thắng. Bản thân
tín tâm tăng trưởng rất nhanh, thì ra chính là khiếp nhược
trong Kinh nói, không dám gánh vác. Muốn cứu Phật Pháp,
cứu chúng sinh, chúng ta làm sao dám gánh vác? Trước đây
không dám gánh vác, đây là khiếp nhược, hiện nay xa rời
khiếp nhược nên dám trực tiếp gánh vác.
Mặc dù Phật, Bồ Tát tuyển chọn chúng ta, vậy chúng ta
phải: nghĩa bất dung từ tiếp nối huệ mạng Phật, thiệu long
tăng chúng, hoằng Pháp lợi sinh, tận hết sức lực của mình mà
tu hành, bản thân phải nhắc nhở mình phải tinh tấn, tinh tấn
cũng đừng sợ chướng ngại, vì có Bồ Tát Địa Tạng hộ niệm;
Bởi thế, quý vị xem tôi ở Tịnh Xá Chánh Giác tu Phật
thất và ngay đó phối hợp với Địa Tạng Học Hội niệm Phật
một ngày đêm vào tết nguyên đán. Chúng ta tuy thân ở hai
nơi nhưng tâm ở một nơi; Tôi nói với Hoàng Cảnh Quan,
chúng ta cùng nhau, tôi cũng đến phối hợp với mọi người
niệm Phật một ngày một đêm; Tôi niệm Phật một ngày một
đêm đó, niệm như thế nào?
Chính mình phải thử nghiệm, dùng phương pháp Bát
châu; Tức là chỉ đi, không ngồi cũng không nằm, đương
nhiên cũng không ngủ và không ăn; Vì không ăn là để ít đi
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
nhà vệ sinh, uống nước cũng rất ít, để tập trung thời gian
niệm Phật A Di Đà; Đi như vậy suốt một ngày một đêm,
thân thể rất mệt, nhưng trong lòng cảm thấy rất nhẹ nhàng.
Tu tập như thế, cũng không có ma chướng nào xuất hiện,
tinh tấn như vậy nếu như có chướng ngại thì oán thân trái
chủ sẽ đến quẫy nhiễu chúng ta.
Quý vị xem, Cư sỹ Lý Bỉnh Nam, trước đây cũng tu tinh
tấn Phật thất đúng không? Trong đó có hai học viên xảy ra
vấn đề, Lý Bỉnh Nam Ngài hướng dẫn mười tháng mới bình
phục, nên về sau không dám tu tinh tấn Phật thất nữa. Sư
Phụ kể chuyện này rất nhiều lần, vì sao họ xảy ra vấn đề?
Chính vì có chướng ngại, nếu tinh tấn dụng công, chướng
ngại này liền xuất hiện, quý vị không tinh tấn thì không
sao, Ma không nhọc công xuất hiện, không cần động đến;
Nhưng quý vị tinh tấn, chúng bắt đầu lo lắng, liền đến phá
hoại, đến chướng ngại quý vị;
Nhưng nếu quý vị giống như ở đây nói, đạt được Thanh
tịnh Luân tướng, Bồ Tát Địa Tạng phát nguyện đến hộ trì
quý vị, Thiên Ma Ba Tuần đều không dám đến nhiễu loạn,
các loại ma nhỏ khác lại càng không dám đến; Ma Vương
đều không đến, ma nhỏ càng không dám đến; Quý vị thấy,
trong lòng phải chăng cảm thấy rất thiết thực? Gọi là tăng
tín an ổn, trong lòng rất an ổn, chúng ta chỉ sợ mình không
siêng năng mà thôi, nếu tinh tấn thì đừng có sợ ma chướng.
Bản thân đương nhiên cũng rất hổ thẹn, không đủ siêng
năng, thật ra siêng năng tinh tấn, thành công sẽ rất nhanh.
Bởi có Ngài Địa Tạng hộ trì chúng ta, thế nên, Pháp môn
này rất hay, chính mình được lợi ích rất lớn. Nên cảm thấy
Hạnh Chơn chuyển ngữ
54 55
cần phải chia sẻ với mọi người, không chia sẻ quả thật rất có
lỗi với mọi người, hy vọng rằng mọi người dùng Pháp môn
này trợ duyên thêm cho Pháp môn Tịnh Độ;
Pháp này không phải là Pháp môn chính, Pháp môn chính
vẫn là Tín, Nguyện, Trì Danh; Không thể thay đổi được
điều này, nhưng phải có phụ trợ, nếu không có phụ trợ, chỉ
sợ Pháp môn chính này sẽ có ma chướng. Lý của Pháp môn
Chiêm Sát này rất thâm sâu, lúc nãy là giới thiệu sơ với mọi
người về nhân duyên tôi học Pháp môn này, bây giờ bắt đầu
chính thức nói với mọi người.
Đầu tiên nói về Lý của Pháp môn này, Lý này là gì?
Là y theo tự tính thanh tịnh Nhất thật cảnh giới mà nói, Nhất
thật cảnh giới chính là tự tính, Hoa Nghiêm gọi là Nhất
chân Pháp giới, cõi Thường Tịch Quang ở Thế giới Cực
Lạc. Tất cả vạn Pháp đều sinh ra từ tự tính, tự tính mê thì
gọi là phàm phu, chính là chúng sinh, tự tính ngộ chính là
chư Phật. Chúng ta hiện nay là tự tính đang mê, bởi thế nên
khởi hoặc tạo nghiệp, nhất niệm bất giác liền khởi hoặc tạo
nghiệp; Mà khởi hoặc, tạo nghiệp lại không thể quán chiếu,
không thể quay đầu, khi đã mê là mê luôn, vô lượng kiếp
cũng không quay đầu lại được; Mà tội chướng này, càng tạo
càng nhiều, ngày càng dầy, chướng ngại này ngày càng lớn,
nên ngày càng khó quay đầu; Tội chướng này sẽ chướng
ngại chúng ta;
Pháp môn này giúp chúng ta diệt trừ tội chướng, khiến
chúng ta dùng phương pháp Chiêm Sát này dần dần đi vào
Nhất thật Pháp giới của chính mình; Nên Pháp môn này là
Pháp môn đại thừa, không phải kiểu bói tướng như thế gian
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
nói, không phải như vậy. Đây là Bồ Tát Địa Tạng dùng
phương tiện thiện xảo, dùng trí tuệ lớn lao, dùng từ bi vô
lượng, giúp hàng chúng sinh căn tính như chúng ta. Chúng
sinh trong đời mạt pháp căn tính kém cỏi, nói lý thâm sâu
họ không hiểu, nên dùng quyền xảo này để tiếp dẫn chúng
ta, dần dần đi vào Nhất thật Pháp giới;
Từ đầu dùng bánh xe gỗ để Chiêm Sát, dần dần lĩnh hội
hai loại quán đạo; Toàn bộ Kinh, Đại Sư Ngẫu Ích tán thán:
tông của nó chính là cương lĩnh tu hành, chính là hai loại
quán đạo. Loại thứ nhất là: Duy Tâm Thức Biến, loại thứ
hai là: Chân Như Thật Quán.
Duy Tâm Thức quán là gì? Chính là quán tất cả hiện
tượng vạn vật trong vũ trụ, đều là duy tâm sở hiện, duy thức
sở biến. Điều này hoàn toàn giống như trong Hoa Nghiêm
nói, đó gọi là Duy Tâm Thức Quán. Bây giờ chúng ta chưa
hiểu cái lý này, muốn quán rất khó; Bồ Tát Địa Tạng dùng
phương tiện, đầu tiên là dùng Luân tướng để quán, Luân
tướng này là một loại tướng mà tâm của quý vị hiện ra, dùng
tướng này để quán tâm chúng ta.
Tâm chúng ta tạo nghiệp là thiện hay ác, dùng Luân
tướng này là có thể hiển hiện ra, tướng do tâm sinh, tướng
tùy tâm chuyển; Tâm chúng ta đã chuyển, vốn là ác bây giờ
chuyển thành thiện, quý vị đi bói lại nó đã biến thành thiện,
tướng này đã chuyển, tùy theo tâm quý vị mà chuyển, giúp
quý vị lĩnh hội duy tâm thức quán. Sau đó, quý vị dần phát
hiện, không chỉ là bánh xe gỗ chuyển, mà tất cả cảnh giới
như hoàn cảnh nhân sự, hoàn cảnh vật chất, thì ra là giống
với Luân tướng, chuyển theo tâm chúng ta.
Hạnh Chơn chuyển ngữ
56 57
Bởi thế, vì sao bánh xe này gọi là bánh xe gỗ, bánh xe
này có nghĩa là chuyển, mỗi niệm đều đang chuyển. Bồ Tát
Di Lặc nói, một khẩy móng tay có ba mươi hai ức một trăm
nghìn niệm, mỗi niệm đều có tướng, thế nên bánh xe gỗ
tướng của một giây trước, không giống tướng của một giây
sau, nó đều đang thể hiện tâm của quý vị, đây chính là duy
tâm thức quán; Sau đó, quý vị sẽ dần dần phát hiện, thì ra
thế giới Ta Bà cũng là duy tâm thức, Thế giới Cực Lạc cũng
là duy tâm thức.
Vậy tại sao chúng ta không tạo Thế giới Cực Lạc? Vì sao
chúng ta khởi tham sân si tạo ra thế giới Ta Bà, để ở trong
đó luân hồi thọ khổ, chính là duy tâm thức quán. Chúng ta
bắt đầu từ Luân tướng, sau đó chúng ta còn có Chân như
Thật quán, Chân như Thật quán là trực tiếp quán Pháp thân
mình, tức quán Tự Tính, không bắt đầu từ chân tướng, trực
tiếp bắt đầu từ thể, quán bản thể của chúng ta. Tự tính thanh
tịnh, vốn tự thanh tịnh, vốn không dao động, vốn tự đầy đủ,
năng sinh vạn Pháp, chính là quán điều này.
Quý vị xem, đây là thu nhiếp hết tất cả Pháp môn của
Đại thừa, sau đó đưa nó nhập vào Nhất thật cảnh giới, Nhất
thật cảnh giới là Nhất chân Pháp giới. Lý của Pháp môn này
hoàn toàn giống với Hoa Nghiêm và Pháp Hoa mà nó còn
có một loại công năng diệt trừ chướng ngại; Phàm phu cũng
đều có thể thọ trì, tuy không hiểu về lý, nhưng khi lễ lạy, khi
bói, đều đạt hiệu quả giống nhau.
Thế nên, trong Chiêm Sát Sám Nghi, Đại Sư Ngẫu Ích
ở phần khuyên tu là khuyên mười hai hạng người tu Sám
Pháp này đều bao hàm ở trong đó, tôi sẽ đọc qua cho mọi
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
người nghe sẽ hiểu hơn. Đại Sư Ngẫu Ích nói: “Nếu đệ tử
Phật, muốn tu chính Pháp xuất thế, muốn hiện tại không
có các chướng duyên, muốn trừ diệt ngũ nghịch thập ác và
trọng nghiệp vô gián, muốn cầu tư sinh chúng cụ đều được
sung mãn nhiêu ích”.
Quý vị muốn đạt được cuộc sống sung túc đều được,
muốn khiến trọng nạn khinh giá đều được tiêu diệt, chính
là quý vị phải cầu giới, có trọng nạn khinh giá làm chướng
ngại giới của quý vị, nếu quý vị muốn đoạn tận, muốn được
Ưu Bà Tắc, Sa Di, Tỳ Kheo, thanh tịnh Luật nghi, đây là cầu
tại gia Bồ Tát, giới tại gia, Tỳ Kheo giới và các giới xuất gia.
Muốn được Bồ Tát Tam tụ Tịnh giới, muốn đạt được chư
thiền tam muội, đây là cầu định, muốn đạt trí tuệ vô tướng,
đây là cầu trí tuệ, cầu giới, cầu định, cầu tuệ đều được.
Muốn cầu hiện đời chứng được quả vị tam thừa, cầu
chứng quả tam thừa bao gồm tất cả Thanh Văn, Duyên Giác,
Bồ Tát, muốn tùy ý vãng sinh về cõi nước Tịnh Độ. Đây
là điều chúng ta thích nhất, muốn vãng sinh Tây Phương,
muốn ngộ Vô Sinh Pháp Nhẫn, viên mãn chứng nhập Nhất
thật cảnh giới. Tức là Quý vị muốn thành Phật, đều nên thọ
trì, tu hành Pháp Sám hối này, tức là đều phải thọ trì Pháp
Sám hối này, vì sao vậy?
Đây là Đức Thế Tôn đặc biệt hoằng từ, từ bi vô lượng.
Địa Tạng Bồ Tát xưng cơ bi nguyện khế hợp với căn cơ của
chúng ta; Pháp môn dùng đại bi nguyện lực để truyền lại,
nhổ sạch các khổ và ban vui cho tất cả, nương theo đây tu
hành, tịnh tín kiên cố, không có khổ nào không thể bạt trừ,
không có niềm vui nào không thể đạt được, thậm chí nghĩ
Hạnh Chơn chuyển ngữ
58 59
đến Thế giới Cực Lạc, muốn thành Phật, Pháp môn này đều
có thể giúp chúng ta.
Đại Sư Ngẫu Ích đã khen ngợi Pháp môn này đến cực
điểm, nên chúng ta phải cố gắng tu tập, đây là điều đầu tiên;
Có thể có người vẫn còn nghi hoặc, chúng ta tu Tịnh Độ,
sao phải tu lễ sám này? Ở đây tôi dùng Kinh Vô Lượng Thọ
để nói rõ với quý vị phải lễ sám, phải sám hối, không sám
hối không thể vãng sinh.
Ai dạy chúng ta sám hối? Trong Kinh Vô Lượng Thọ,
Phật A Di Đà dạy chúng ta sám hối, không biết quý vị có
nghĩ đến chăng? Phật A Di Đà Phát bốn mươi tám nguyện
đúng không? Trong đó, nguyện thứ hai mươi mốt nói gì?
“Hối quá đắc sinh nguyện”, Kinh văn nói rằng: “nếu có
ác nghiệp từ đời trước, nghe danh hiệu của Tôi, tức tự sám
hối, vì đạo mà làm thiện, thọ trì Kinh giới, nguyện sinh
nước Tôi, mạng chung không đọa trong ba đường ác, tức
sinh nước tôi”. Đoạn Kinh văn này chắc mọi người rất quen
thuộc, không chỉ được đọc qua loa, đây là Phật A Di Đà dạy
chúng ta.
Nếu như có nghiệp ác trong đời quá khứ, chính là túc thế,
tức là ác nghiệp tạo ra từ xưa đến nay, ai không có ác nghiệp
trong nhiều đời? Ai dám nói không có ác nghiệp trong nhiều
đời? Quý vị xem, Bồ Tát Phổ Hiền nói, những ác nghiệp
của Ngài trong nhiều đời trước, nếu như có hình tướng, có
thể tướng, tận hư không giới đều không dung nạp hết. Bồ
Tát Đẳng Giác mà ác nghiệp trong quá khứ còn nhiều đến
thế, nên Thập đại Nguyện Vương của Ngài phải tu sám hối
nghiệp chướng.
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Chúng ta so với Bồ Tát Phổ Hiền thì sao? Quý vị dám
nói không có ác nghiệp trong quá khứ ư? Nếu có thì như
thế nào? Nghe danh hiệu Tôi liền tự sám hối, nghe danh
hiệu Phật A Di Đà để cầu sinh Tịnh Độ thì cần phải sám hối,
không sám hối làm sao được. Thế nên, Phật A Di Đà dạy
chúng ta tu sám hối.
Trong sám hối, Ngài Ngẫu Ích khen ngợi nhất là Chiêm
Sát Sám, đây chính là trợ hạnh của Tịnh Độ chúng ta. Sám
hối xong, vì đạo làm thiện, nên cố gắng tu đạo, tín nguyện
trì danh, chuyên tu thiện nghiệp, còn phải trì Kinh trì giới.
Trì giới rất quan trọng, trì giới sẽ không còn tạo nghiệp. Trì
Kinh, chúng ta chuyên trì Kinh Vô Lượng Thọ, nhất môn
huân tập, trường thời huân tu, nguyện sinh vào nước Tôi,
sau khi mạng chung không bị đọa vào ba đường ác, mà lập
tức sinh vào Thế giới Cực Lạc. Thế nên, chúng ta coi trọng
Pháp môn Sám hối.
Ở Hồng Kông, tôi cũng giới thiệu về Pháp môn này, giới
thiệu ở đâu? Cô Hà Mỹ Tuệ mời tôi đến nhóm sám hối của
cô, tôi nói tôi giới thiệu Pháp môn Sám hối đến nhóm sám
hối của quý vị, giới thiệu rất thích hợp; Tôi nói với mọi
người: quý vị đồng tu, tôi xem bản thảo nghi thức sám hối
của quý vị rất cảm động, nào là phát lồ, sám hối những việc
như bản thân ngày xưa có nạo phá thai, tà dâm, hủy báng
Tam Bảo, còn có sát nghiệp rất nặng, ở trước đại chúng phát
lồ những trọng tội này, đây là điều rất khó được, nhưng có
tác dụng chăng?
Tội của quý vị chưa chắc tiêu hoàn toàn mà chỉ gọi là
phát lộ, chưa hoàn toàn gọi là sám hối, đương nhiên phát lộ
Hạnh Chơn chuyển ngữ
60 61
là phương tiện của sám hối, ta không phát lộ làm sao sám
hối; Đầu tiên là phát lộ, nhưng tội có diệt được chăng? Phải
dùng cách sám hối.
Tội nhẹ đối đầu sám hối là được, tìm một người sám hối
là được, tội nặng phải thủ tướng sám hối. Thủ tướng sám
chính là một trong các phương pháp sám của Chiêm Sát
Sám, chẳng qua nó không giống với một số thủ tướng sám
khác; Các thủ tướng sám thông thường khác ví như Pháp
Hoa sám, Đại Bi sám, phải thấy hảo tướng; Trong Phạm
Võng Bồ Tát giới, cũng có Phạm Võng sám, nó cần thấy
hảo tướng;
Như thế nào gọi là hảo tướng: như thấy Phật, thấy ánh
sáng, thấy hoa, thấy trong định hoặc thấy trong mộng đều
được, đây gọi là thấy hảo tướng; Nếu như không thấy những
hảo tướng này, vậy thì tội không tiêu diệt được, nhưng điều
này không dễ. Quý vị thấy Phật được mấy lần? Thấy hoa
sen được mấy lần? Rất khó!
Vậy Chiêm Sát Sám thì sao? Lấy thân khẩu ý, Tam Luân
Thanh tịnh Luân tướng, đây gọi là thấy tướng hảo. Điều này
rất đúng, đây chính là thủ tướng sám; Nếu dùng thủ tướng
sám được Thanh tịnh Luân tướng thì những trọng tội đó
có thể diệt trừ; Mà cách sám hối này có thể diệt trừ được
nghịch tội; Nghịch tội còn nặng hơn phạm trọng giới, phạm
trọng giới là gì? Trọng giới sát sinh như giết người gọi là
giới nặng, giới trộm cắp như ăn trộm ngũ tiền trở lên, có
một cách tính là khoảng một nghìn đài tệ trở lên, điều này
rất dễ phạm, phải cẩn thận;
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Quý vị đã thọ năm giới, phạm năm giới này chính là
phạm trọng giới. Thứ ba là phạm giới dâm, thật sự phạm tà
dâm.Thứ tư là đại vọng ngữ, đại vọng ngữ này là “vị chứng
ngôn chứng, vị đắc ngôn đắc”. Chúng ta chưa chứng quả mà
nói đã chứng, chưa thấy Phật mà nói thấy Phật. Đây đều là
đại vọng ngữ; Bốn loại trọng tội này, các Pháp sám hối khác
không sám trừ được, cần phải dùng phương pháp thủ tướng
sám hối.
Còn nghịch tội thì quá nặng, như giết cha, giết mẹ, làm
thân Phật chảy máu, phá hòa hợp Tăng, giết A La Hán, đây
là tội ngũ nghịch, nhất định đọa địa ngục A Tỳ; Nhưng dùng
Chiêm Sát sám có thể diệt tội, Chiêm Sát sám này quả thật
là không tội gì không diệt, không có khổ nào không nhổ
sạch; Người niệm Phật chúng ta, đặc biệt là người niệm
Phật trong thời kỳ mạt pháp, trên cơ bản đều thuộc vào loại
nghiệp chướng sâu nặng.
Bản thân Định Hoằng cũng cảm thấy nghiệp chướng sâu
nặng, quý vị xem học Phật hơn hai mươi năm vẫn chưa
thành tựu. Ngài Ngẫu Ích vừa xuất gia nửa năm đã đại ngộ,
chính là người kiến tánh trong Thiền tông; Chúng tôi theo
Sư Phụ hơn hai mươi năm, nhưng không có chút thành tựu
nào, mà còn tạo không ít tội nghiệp, người giống như chúng
tôi nhất định cũng rất nhiều, có thể có người còn tạo nghiệp
nặng hơn tôi; Họ đều có thiện căn, đều muốn cầu sinh Tịnh
độ, chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ họ, giới thiệu Chiêm Sát
Sám này, phải sám tội, trì giới, niệm Phật. Sám tội, trì giới
là trợ hạnh, niệm Phật là chính hạnh, nếu như không có trợ
hạnh, chính hạnh cũng khó mà thành tựu được.
Hạnh Chơn chuyển ngữ
62 63
Trước đây, Cư sĩ Lý Bỉnh Nam và một vị cao túc khác
chính là Cư sĩ Chu Gia Lân, chắc mọi người đều biết Cư
sĩ Chu Gia Lân, suốt đời cực lực hoằng dương Chiêm Sát
Kinh. Ông có một bộ giảng về Kinh Chiêm Sát; Trước đây,
ông giảng rồi học trò biên tập lại, trong bài giảng của ông
nói như thế nào? Đây là lời nói nguyên văn của ông, tôi đọc
để mọi người nghe: “Đây giống như là bình bát đựng nước
uống, giống như cái bát này đem đựng nước uống, nếu bát
không thanh tịnh, cho dù là thuốc tiên cũng sẽ biến chất. Do
đó muốn niệm Phật được nhất tâm, đầu tiên phải gột sạch
chướng ngại trong lòng, muốn gột sạch chướng ngại trong
lòng, cần phải tìm cầu sức trợ duyên để đoạn trừ chướng
ngại, Kinh này tức là Kinh Chiêm Sát”. Về phương diệt tiêu
trừ nghiệp chướng, chú ý sám hối cả hai mặt Lý và Sự, Tri
và Hành đều kiêm toàn, dùng phương tiện quán Pháp có thể
khiến quý vị thấy đạo rất nhanh, chính là thấy đạo thật, tức
là đắc đạo, dùng sám hối chân thành khẩn thiết có thể giúp
niệm Phật nhất tâm.
Trong giảng ký của Cư sĩ Chu Gia Lân đã nói như vậy.
Điều này chứng minh tính quan trọng của chính trợ song
tu. Quý vị không phải là Pháp khí, nên trong tâm rất nhiều
ô nhiễm, tội nghiệp chướng ngại, nếu không thanh trừ nó
thì niệm Phật không thể thành tựu. Hoàng Cảnh Quan từng
nói với tôi, ông ta quen một người cũng là người niệm Phật,
niệm rất lâu nhưng vẫn không thành công;
Kết quả có một cặp mắt âm dương nhìn thấy, nói trên cổ
ông ta toàn bộ cá mà ông câu được, số cá mà trước đây ông
đã giết ăn đều đến tìm ông; Bởi thế, ông ta niệm Phật mãi
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
không thành công, vì chướng chưa trừ, tội chưa tiêu, nên
muốn tinh tấn cũng không được. Tôi không biết mọi người
có cảm giác gì chăng, tôi trước đây cũng vậy, muốn niệm
Phật, muốn cố gắng nhưng chướng duyên quá nhiều, nếu
không phải ngoại duyên nhiễu loại như điện thoại reo không
ngừng, hay là thường có người gõ cửa, lúc thực sự muốn nỗ
lực thì bên ngoài có người đến tìm, khiến tâm không định
lại được, hoặc là tập khí phiền não của bản thân khởi hiện
hành nên khó định được, đây đều thuộc về chướng ngại,
phải dùng Chiêm Sát Sám giúp quý vị diệt trừ, sau khi diệt
trừ rồi, thân tâm thanh tịnh, niệm Phật hoàn toàn thuận lợi.
Hòa Thượng cũng khuyên chúng ta như vậy, vì sao Hòa
Thượng muốn chúng ta nắm chắc ba căn bản trước? Thậm
chí Hòa Thượng nói phải dùng một đến ba năm để đặt vững
ba nền móng, sau đó mới thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ,
Hòa Thượng từng nói như vậy, vì sao phải làm như vậy?
Quý vị muốn thâm nhập Kinh Vô Lượng Thọ, nếu có
chướng ngại sẽ không thể vào được; Nhất môn huân tập,
trường kỳ huân tu, không sai! Nhưng không thâm nhập
được, vì có chướng ngại, chướng ngại vì ba nền móng
không vững, làm người cũng không làm tốt, như vậy là do
tội nghiệp sâu nặng, nên Hòa Thượng khuyên chúng ta nên
nắm vững ba cái gốc, nhiều người cũng rất nghe lời bao
gồm tôi trong đó.
Người ta từ năm 2004, bắt đầu khởi xướng Đệ Tử Quy,
đến nay đã mười năm, đúng vậy chăng? Tôi cũng tu Đệ Tử
Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, cần cù bù khả
năng, bản thân thực hành hàng ngày, sau đó giảng. Có thể
Hạnh Chơn chuyển ngữ
64 65
nói là rất nỗ lực học tập những căn bản này, tôi luôn nghi
hoặc, những thứ căn bản này phải học đến khi nào mới tốt?
Khi nào mới có thể thâm nhập một môn Kinh Vô Lượng
Thọ? Rất nhiều người hỏi tôi vấn đề này, Tôi cũng không
biết trả lời sao? Thôi thì hỏi Bồ Tát Địa Tạng vậy. Quý vị
thử đến bói xem, hỏi Bồ Tát Địa Tạng hiện nay chúng ta
đã học tốt ba thứ căn bản chưa? Có thể thâm nhập Kinh Vô
Lượng Thọ rồi chăng? Bồ Tát Địa Tạng sẽ trả lời quý vị.
Hoặc dứt khoát dùng ba loại Luân tướng này cầu Thanh
tịnh Luân tướng; Nếu đạt được Thanh tịnh Luân tướng như
vậy thì căn bản đã vững; Quý vị nghĩ Thập thiện Nghiệp
đạo đây là gốc rễ thứ ba, thân ba, khẩu bốn, ý ba đều đã
thanh tịnh, như vậy thì căn bản của Thập thiện Nghiệp đạo
đã rất vững vàng, đã thông qua, cơ sở Thập thiện Nghiệp
đạo là Cảm ứng thiên, cơ sở của Cảm ứng thiên là Đệ Tử
Quy; Thập Thiện Nghiệp Đạo coi như đã xong thì hai điều ở
trước không có gì để nói, vì Bồ Tát Địa Tạng đã giám định
cho chúng ta, nên chúng ta mới có thể an ổn, mới có tín tâm,
thì ra bây giờ là lúc thâm nhập KinhVô Lượng Thọ.
Nếu không bản thân chúng ta cũng không biết phải như
thế nào? Có thể học suốt đời cũng cảm thấy chưa học được
tốt đúng chăng? Bởi thế, phương pháp này chính là giải
quyết nghi ngờ, nói với quý vị một cách rất chính xác, bây
giờ quý vị nên làm như thế nào, hiện nay quý vị làm đến
mức độ nào, nói rất chuẩn xác.
Trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa Tạng đặc biệt nhắc
nhở chúng ta, đặc biệt là người nghiệp nặng, như tôi thuộc
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
người nghiệp nặng, không biết ở dưới tòa có ai hơn tôi
chút nào chăng? Người nghiệp nặng thì như thế nào? Bồ
Tát Địa Tạng khuyên chúng ta, không thể lập tức tu định
tuệ, nên y theo Sám Pháp để được thanh tịnh trước; Trong
Kinh văn nói: mới bắt đầu học, nên phát tâm tu học kiên
định Vô tướng trí tuệ; Như chúng ta hiện nay, muốn thâm
nhập một môn Kinh Vô Lượng Thọ, cầu niệm Phật tam
muội, thậm chí cầu Lý nhất tâm bất loạn, đây chính là cầu
tu tập thiền định!
Thiền định là niệm Phật tam muội, Vô tướng trí tuệ là Lý
nhất tâm bất loạn, hiện lên như thế nào? Đầu tiên nên quán
xem, nghiệp ác đời trước làm bao nhiêu? Chính là dùng
Chiêm Sát sám là nặng hay nhẹ, xem nghiệp ác đời trước
của mình là nhẹ hay nặng, nếu ác nghiệp nhiều sâu dày,
không được lập tức học thiền định, trí tuệ, đầu tiên nên tu
Pháp Sám hối;
Ý này chính là nói, lúc nãy quý vị dùng bánh xe thứ nhất,
nếu bói đến chính mình trong mười nghiệp có trọng nghiệp,
dùng bánh xe thứ hai để kiểm nghiệm bánh xe thứ nhất,
nếu là mầu đen lớn lại tương ưng, đó chính là ác nghiệp
rất nặng, vậy quý vị tốt nhất không nên lập tức gấp gáp
thâm nhập một môn, có thể có chướng ngại, quý vị phải tiêu
nghiệp trước.
Đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, Ngài nói:
“sở dĩ giả hà” tại sao như vậy? Người này tập khí, ác tâm
đời trước rất mãnh liệt sắc bén, nên đời này phải tạo nhiều
ác nghiệp, hủy phạm cấm giới, nên phạm tội rất nặng, nếu
không sám hối khiến cho thanh tịnh mà tu thiền định trí tuệ,
Hạnh Chơn chuyển ngữ
66 67
nên có nhiều chướng ngại, không có lợi ích; Hoặc thất tâm
toán loạn, hoặc ngoại tà não loạn, hoặc nạp thọ tà pháp, tăng
trưởng ác kiến, đây đều thuộc bị tẩu hỏa nhập ma, nên phải
tu Pháp sám hối trước.
Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở chúng ta, khuyến cáo chúng
ta, nếu ác nghiệp nặng, có thể có người không dùng bói,
nhưng biết được bản thân nghiệp ác nặng. Ví dụ, người từng
nạo phá thai, hoặc từng phạm tội tà dâm, thậm trí là hủy
báng chính Pháp, đây đều thuộc về ác nghiệp nặng; Hoặc là
đại nghịch bất đạo, ngỗ nghịch cha mẹ, hạng người này, tốt
nhất là tu Pháp sám hối trước.
Nếu không, quý vị tu tinh tấn, vì tập khí ác nghiệp của
quý vị rất nặng, ác tâm rất mãnh liệt, sẽ như thế nào? Rất
dễ phạm trọng giới, mà còn thất tâm sai trái, như phát thần
kinh; Bệnh thần kinh, quả thực có hạng người này, đang tu
như vậy tự nhiên nhẩy lầu, đây là do mắc bệnh thần kinh,
hoặc tà ma bên ngoài nhiễu loạn, chính mình tiếp nhận tà
pháp, tin lời những tà pháp đó, làm tăng trưởng tà kiến
không thể quay đầu. Hạng người này tốt nhất khoan tu tinh
tấn, phải tu Pháp sám hối trước, tinh tấn sám hối, được thân
khẩu ý Thanh tịnh Luân tướng, sau đó mới tu Pháp môn của
mình, như vậy sẽ không có vấn đề.
Đây là giới thiệu sơ lược cho mọi người về Pháp Sám hối
này. Sám Pháp này có thể như trong Kinh nói, là lấy bổn thệ
nguyện lực của Bồ Tát, nhanh chóng đầy đủ sở cầu cho tất
cả chúng sinh, có thể diệt trừ tất cả trọng tội của chúng sinh,
trừ các chướng ngại, hiện đời được an ổn; Bất luận quý vị
có sở cầu gì, cầu hiện đời an lạc, ví dụ nói quý vị rất nghèo
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
muốn được phú quý, có thể đạt được, tiểu quả, quý vị muốn
ra khỏi Tam giới, ra khỏi luân hồi cũng có thể được; Muốn
vãng sinh Tây Phương cũng có thể được; Muốn tức thân
thành Phật cũng có thể đạt được, vì quý vị đã diệt trừ tất cả
tội nặng của ác nghiệp, đoạn trừ tất cả chướng ngại, như vậy
quý vị sẽ đạt;
Vì tự tính đã đầy đủ, tự tính của quý vị vốn đã đầy đủ,
tất cả phước báo, tất cả trí tuệ, công năng đều vốn có trong
tự tính. Vì sao hiện nay không có, chính là vì có chướng
ngại, hiện nay đoạn trừ tất cả các chướng ngại đó nó liền
hiện tiền. Bởi thế, Đại Sư Ngẫu Ích nói, sự thành tâm này
là thuốc thần đối trị bệnh nan y cho đời mạt thế, là Pháp
phương tiện thù thắng trong các Pháp phương tiện. Tôi thấy
Ngài Ngẫu Ích chỉ khen ngợi thứ nhất là niệm Phật, thứ hai
là Pháp môn Chiêm Sát, gọi là Pháp phương tiện thù thắng
trong các Pháp phương tiện; Hai Pháp môn này cũng là một
không phải hai;
Vì Phật A Di Đà dạy chúng ta biết sám hối sẽ được vãng
sinh, đúng vậy chăng? Làm gì có phân thành hai, đặc biệt nó
giúp chúng ta tăng trưởng tịnh tín, chúng ta không thể vãng
sinh, vấn đề chủ yếu chính là chưa đủ tín tâm. Mọi người
đều có nguyện, đều muốn vãng sinh đúng chăng? Nhưng
chưa đủ tín tâm! Ngài Ngẫu Ích đã nói về sáu niềm tin: Tin
mình, tin người, tin nhân, tin quả, tin Sự, tin Lý. Chưa đủ
chữ tín này nên không thể vãng sinh, cho dù quý vị niệm
Phật rất dụng công, coi như quý vị may mắn lắm, thì cao
nhất chỉ vãng sinh về Biên Địa Nghi Thành; Đây đã là đỉnh
điểm, nếu như không dụng công niệm Phật, thì đến Biên
Hạnh Chơn chuyển ngữ
68 69
Địa Nghi Thành cũng khó đến được, mà đi vào trong luân
hồi lục đạo. Đây gọi là Pháp môn Kiên Tịnh Tín do Bồ Tát
Kiên Tịn Tính khởi thỉnh, nếu tu theo Pháp môn này có thể
chứng Kiên Tín Tịnh.
Chúng ta vừa mới giới thiệu chủ yếu là dùng pháp
môn Chiêm Sát Sám này, tiếp theo là giới thiệu với mọi
người cũng giống như điều này, cũng là trong Kinh Chiêm
Sát nói, chính là Chiêm Luân Tướng Pháp để hỏi vấn đề,
cũng là giải quyết nghi ngờ, nếu chúng ta muốn niệm Phật
vãng sinh phải buông bỏ tất cả đúng chăng? Phải chân thành
niệm Phật, tức không có tham cầu gì nữa cả, như vậy là rất
đúng! Nhưng chúng sinh trong thời mạt pháp, không dễ làm
được đến chỗ vô cầu;
Có người nói với tôi, bây giờ tôi không nghĩ đến bất cứ
điều gì, không cầu bất cứ điều gì, không biết khi nào Phật
A Di Đà mới đến? Quý vị xem, không phải quý vị vẫn đang
cầu ư? Quý vị vẫn đang còn nghi ư? Quý vị vẫn lo lắng
không biết khi nào Phật A Di Đà đến? Quý vị không thể nói
quý vị vô cầu, không thể nói quý vị không có nghi hoặc, bởi
quý vị vẫn còn nghi, vẫn chưa đủ tín tâm, không đủ tín tâm,
Pháp môn này có thể giúp quý vị.
Vậy bản thân có thể vãng sinh Tây Phương Cực Lạc
chăng? Mọi người có nắm chắc được chăng? Ai nắm chắc
xin giơ tay? Tốt! Chúng ta vỗ tay chúc mừng những vị này!
Nhưng đại đa số đều chưa nắm chắc. Vì sao không nắm
chắc? Vấn đề chủ yếu chính là nghi. Pháp môn này gọi là
con đường dễ hành, Pháp môn này mà quý vị không dễ
thành công, chứng tỏ quý vị không thể thành công. Đạo dễ
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
hành là dựa vào bổn thệ nguyện lực của Phật A Di Đà tiếp
dẫn quý vị. Đây là Pháp môn tha lực, chỉ cần quý vị tin chân
thật, thật sự phát nguyện nhất định sẽ được vãng sinh.
Vì sao quý vị vẫn còn hoài nghi? Có người nghe, năm
trước, trong buổi tọa đàm về Tu hành và cuộc sống, tôi trả
lời vấn đề trong buổi tọa đàm đó chính là nói đến vấn đề
này, chí tâm tin tưởng an vui cho đến mười niệm đều có thể
vãng sinh. Cần phải tin, chẳng hạn nói hiện nay tôi rất chí
tâm tín nguyện nhưng không biết Phật A Di Đà lúc nào đến,
lỡ khi tôi lâm chung nghiệp chướng hiện tiền, phải làm sao?
Hôn mê thì phải làm sao? Bị bệnh suy ngốc của người già
phải làm sao? Bệnh tim đột phát phải làm sao? Sợ không
kịp niệm Phật, lại không có ai trợ niệm phải làm sao? Quá
nhiều sự lo ngại.
Tôi nói đây không phải là chí thành tin tưởng an vui, chí
tâm là hoàn toàn không có nghi ngờ, chỉ có một niềm tin
kiên cố là bây giờ phải niệm Phật A Di Đà để vãng sinh,
ngoài ra đều buông bỏ hết tất cả. Phật A Di Đà nhất định đến
lúc chúng ta lâm chung sẽ không bị bệnh ngốc của người
già, không bị hôn mê bất tỉnh, thậm chí không có ai trợ niệm
chúng ta đều có thể niệm Phật A Di Đà cho đến mười niệm,
nhất định về Cực Lạc.
Quý vị còn lo lắng nói chẳng may thì làm sao? Không có
chuyện chẳng may, có chẳng may chứng tỏ quý vị còn nghi
hoặc, không phải là tịnh tín kiên cố, không phải chí tâm tín
nhạo, sau khi mọi người nghe như thế trong lòng cảm thấy
an ổn hơn, nên họ đã đem những lời tôi nói cắt ra hình như
khoảng hai mươi phút đặt tựa đề gọi là: “Vô Thượng Đề
Hạnh Chơn chuyển ngữ
70 71
Hồ”; Khen ngợi hơi quá đáng, nhưng nói thật thì quả đúng
như vậy.
Pháp môn này chính là vô thượng đề hồ, rất nhiều người
nghe xong sinh khởi tín tâm, niệm Phật A Di Đà cảm thấy an
ổn hơn. Nhưng yên ổn được bao lâu? Khó nói! Khi nghiệp
chướng hiện tiền, họ lại không tin nữa, vậy phải làm sao?
Phải dựa vào Pháp môn này!
Nếu bây giờ chúng ta không nắm chắc được việc vãng
sinh của mình, muốn hỏi thử rốt cuộc có được vãng sinh
Cực Lạc chăng? Bồ Tát Địa Tạng có thể trả lời quý vị, nếu
không ngại quý vị có thể lấy bánh xe thứ ba; Lúc nãy có
nói là bánh xe thứ ba, tức hỏi Bồ Tát Địa Tạng, như trình
độ của con hiện nay, có thể vãng sinh Thế giới Tây Phương
Cực Lạc chăng? Ném bánh xe liên tục ba lần, cộng các chữ
số lại, kiểm tra thử.
Nếu đáp án khẳng định có thể vãng sinh, như vậy quý vị
sẽ có tín tâm, nhưng cũng không nên, lần lần nhẹ nhàng, vì
sao vậy? Trong Kinh Chiêm Sát nói, trước khi chưa chứng
quả vị bất thoái, nó sẽ lúc lên lúc xuống. Quý vị vừa hoan
hỷ vừa khởi tâm ngã mạn là tôi có thể vãng sinh, liền bắt
đầu phóng dật, lúc này sợ không thể tiếp tục bói được, nên
không được nâng nâng bay bổng, phải cố gắng lỗ lực duy
trì; Công phu phải tăng tiến, tín nguyện hạnh không ngừng
tăng trưởng, ngày càng vững vàng. Đúng vậy chăng? Thậm
chí hy vọng có thể tự tại vãng sinh, đứng vãng sinh, ngồi
vãng sinh, làm gương tốt cho mọi người.
Giả như quý vị bói là không thể vãng sinh. Tôi cũng từng
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
bói cho mọi người có thể vãng sinh chăng? Hiện nay có
chướng ngại hoặc có thể không vãng sinh được, phải làm
sao? Quý vị cũng đừng nản chí, tướng này chính là phơi bầy
trạng thái tâm của chúng ta ngay lúc này, tâm hiện nay không
tương ưng với vãng sinh, đây là Bồ Tát Địa Tạng nhắc nhở;
Chúng ta nên cố gắng phản tỉnh, chắc chắn chưa đủ Tín
Nguyện. Trong Di Đà Yếu Giải, Ngài Ngẫu Ích nói: được
vãng sinh hay không hoàn toàn dựa vào có Tín, Nguyện hay
không, nếu khẳng định không quý vị sẽ không tin, có nghi
hoặc, nếu không là nguyện chưa đủ, không buông được;
Tín nguyện đầy đủ nhất định vãng sinh, không thể vãng
sinh là vì Tín Nguyện chưa đủ. Nếu như niềm tin chưa đủ
vào Pháp môn này, phải làm sao thâm nhập giáo lý? Nên
nghe nhiều Tịnh Độ Đại Kinh Khoa Chú của Hòa Thượng
giảng, hiểu rõ giáo lý, niềm tin sẽ sâu sắc. Nguyện thiết thì
hành sẽ tinh chuyên, thật sự phát nguyện vãng sinh, phải
buông bỏ tất cả những gì ở thế gian này còn vướng mắc,
chứng tỏ nguyện chưa khẩn thiết. Câu Phật hiệu này phải
liên tục suốt ngày không hề gián đoạn, chứng minh nguyện
của quý vị rất khẩn thiết; Nguyện thiết thì hành sẽ chuyên,
còn như chưa đạt được chính là chưa đủ tín nguyện, cần
phải tinh tấn nỗ lực hơn.
Sau đó dụng công khoảng nửa năm, Chiêm Sát lại thử
xem, có thể Bồ Tát Địa Tạng ấn khả cho quý vị, lúc đó cũng
đừng nên hoan hỷ mà vẫn phải tiếp tục nỗ lực chân thành
niệm Phật. Chiêm Sát này có thể vãng sinh chăng? Cũng
không phải tôi đề xuất, mà do Hòa Thượng Mộng Tham đề
xuất, Hòa Thượng là học trò của Đại sư Hoằng Nhất. Ngày
Hạnh Chơn chuyển ngữ
72 73
xưa từng làm thị giả cho Đại sư Hoằng Nhất. Bộ bánh xe gỗ
này là đương thời Đại sư Hoằng Nhất tự tay làm cho Hòa
Thượng Mộng Tham, còn dặn dò Hòa thượng Mộng Tham
phải hoằng dương Pháp môn Chiêm Sát này.
Đại Sư Hoằng Nhất hoàn toàn dựa theo kích thước trong
Kinh Chiêm Sát để làm, chúng ta tin rằng Ngài làm rất chuẩn
xác; Vì Đại sư là nhà điêu khắc, nhà nghệ thuật, vô cùng cẩn
thận, nghiên cứu học vấn cũng rất nghiêm cẩn, thế nên kích
cỡ Ngài làm bánh xe gỗ rất là chính xác. Hòa Thượng Mộng
Tham đem bộ bánh xe duy nhất này làm ra thật nhiều, nên
bộ bánh xe gỗ của tôi cũng từ đó mà ra rất nhiều, hiện nay
lưu thông rất rộng. Nhưng đồng tu Tịnh Tông chúng ta rất ít
người có được, tôi cũng có nguyện này, hy vọng lưu thông
thật rộng rãi;
Hiện nay ở Bắc Kinh cũng có người đang làm, cảm ứng
của vị đồng tu ở Bắc Kinh cũng không thể nghĩ bàn. Ông
vừa phát tâm muốn lưu bố Chiêm Sát Sám, lưu thông Chiêm
Sát Nghĩa Sớ, mời tôi viết lời tựa, còn tìm nhà xưởng để làm
bánh xe gỗ này; Ông có cảm ứng như thế nào? Vợ của ông
khi ông còn trẻ, vợ ông mang thai, sau khi mang thai năm
tháng, gần đây không may bị lưu sản, trong lòng ông cảm
thấy rất buồn bã đến hỏi tôi; Tôi bèn kể ông ta nghe một
câu chuyện; Thời nhà Thanh có môt đôi vợ chồng, đây là
câu chuyện thật, cặp vợ chồng này tu thiện tích đức làm rất
nhiều việc tốt, nhưng chín đứa con trai của ông chết liên tục,
ông ta không sao hiểu được, tôi làm nhiều việc tốt như vậy,
sao con tôi đều chết hết vậy? Kết quả tối hôm đó, mộng thấy
Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài đến an ủi ông ta, nói vì ông làm
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
việc tốt nên ông trời cho ông báo ứng tốt, chín đứa con trai
của ông vốn là đến đòi nợ, đều là oán thân trái chủ của ông
hiện nay, chúng đều đi hết; Ông còn có năm người con trai,
năm người này đều đến để báo ân, sau đó quả nhiên ông
sinh năm đứa con trai đều rất tốt, đạt được công danh.
Tôi kể câu chuyện này cho vị đồng tu nghe, ông nghe
xong đương nhiên trong lòng dễ chịu hơn một chút, mấy
năm gần đây ông ta in ấn không ít Pháp bảo; Nhưng trong
lòng luôn cảm thấy có chút gì đó rất khó chịu, dù sao cũng
là cốt nhục của mình, lại là song thai, sắp làm cha rồi, không
ngờ hai đứa con đã ra đi; Phải cứu độ hai đứa trẻ này, cảm
thấy chúng hiện nay rất khổ, nên đã chiêm sát; Ông chiêm
sát hai đứa trẻ này, xem hiện nay như thế nào? Muốn hỏi
thử nhưng trong bói nói, nơi chúng đến có ách nạn, quẻ
tượng nói chúng đi đến chỗ có ách nạn, có thể đã đọa vào ba
đường ác; Trong lòng ông ấy rất khủng hoảng, đến hỏi tôi,
tôi nói ông nên lập tức lễ Chiêm Sát Sám, niệm Phật A Di
Đà cầu Bồ Tát Địa Tạng gia trì, ông đã phát tâm in ấn Kinh
Chiêm Sát Sám này, tức là cầu Bồ Tát Địa Tạng, quả thật
ông ta rất nghe lời lễ sám, niệm Phật A Di Đà, phát nguyện
niệm hai mươi bốn tiếng đồng hồ, làm như vậy suốt hai
mươi ba ngày. Đột nhiên, có một hôm ông cảm thấy thân
tâm nhẹ nhàng, còn vợ ông vốn đang sốt nặng liền lập tức
hạ sốt, chính ông cảm thấy anh linh của hai đứa con đã vãng
sinh Tây Phương; Chắc là cha con đồng cảm, nên ông có
cảm giác này. Ông chiêm sát lại xem linh hồn của hai đứa
con, rốt cuộc hiện nay đã đi về đâu? Phải chăng đã vãng
sinh? Vừa chiêm sát quả thực không sai, giống như những
Hạnh Chơn chuyển ngữ
74 75
gì ông cảm nhận được, kết quả nói linh hồn hai đứa con ông
đã vãng sinh Cực Lạc; Ông cảm thấy quả thực không thể
nghĩ bàn, nên đến hỏi tôi. Tôi nói chiêm sát Luân tướng này
là Bồ Tát Địa Tạng dùng thần lực hộ trì, chỉ cần tương ưng
nhất định chính xác không nên hoài nghi;
Thật ra tôi nói như vậy trong lòng cũng có chút hồi hộp,
tôi nói với mọi người không nên hoài nghi nhưng trong lòng
cảm thấy hơi lo, nếu có thể có nhiều điều chứng minh tôi
càng yên tâm hơn; Tôi liền nói với ông ta, ông có thể y theo
cách trong Kinh Địa Tạng, trong Kinh Địa Tạng có nói: nếu
muốn biết quyến thuộc sinh vào chốn nào? Có thể niệm
một vạn danh hiệu của Bồ Tát Địa Tạng là có thể biết được.
Tôi khuyên ông ta như vậy và cũng lấy ông ta làm thực
nghiệm và tôi muốn hoằng dương Pháp Chiêm Sát cần phải
có chứng cứ để chứng minh; Kết quả, ông ta rất nghe lời
nên đã niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng một vạn biến; Tối
đến, ông mộng thấy Bồ Tát hiện thân cầm đến cho ông một
trang giấy, trong đó có viết một ít văn tự để ông ta xem, văn
tự đó nói gì vậy? Nói anh linh hai đứa con đã vãng sinh Thế
giới Cực Lạc, chúng được thần lực của Bồ Tát Địa Tạng gia
hộ; Còn nói với ông ta, bản thân ông còn rất nhiều nghiệp
chướng, cần phải lễ Chiêm Sát Sám cho tiêu nghiệp; Trong
mộng ông ta thấy tờ giấy này hai lần, rất chân thật, khi tỉnh
lại, ông nói với tôi, tôi nói rằng ông xem, việc này đâu có
sai, không sai! Kết quả chiêm sát nhất định là đúng, Bồ Tát
Địa Tạng sẽ chứng minh cho quý vị;
Nhưng không chỉ như thế, đến tối thứ bảy, sau khi hai anh
linh này đã vãng sinh, ông lại thấy một giấc mộng thần kỳ,
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
thấy anh linh hai đứa con ông đến, hai đứa con đã chết của
ông đã là A Duy Việt Trí Bồ Tát, đến nói với ông, hai người
họ là Hạ bối vãng sinh, nói cho ông ta biết phẩm vị là hạ
bối vãng sinh. Hòa Thượng cũng từng nói, quý vị có thể xác
định họ có vãng sinh chăng? Có hai chứng cứ, thứ nhất là
khi họ còn sống nói với chúng ta: bây giờ tôi đi theo Phật A
Di Đà, thứ hai là họ trở về báo mộng, nói cho chúng ta biết
họ đã vãng sinh. Hai anh linh này trở về báo mộng cho ông
ta, quý vị thấy lại kết quả của chiêm sát, ông ta còn nhờ tôi
giúp ông chiêm sát; Ông sợ mình làm không đúng nên nhờ
tôi bói giúp thêm lần nữa;
Kết quả giống như ông ta vậy, kết quả hai lần chiêm sát
và hai giấc mộng đủ để chứng minh Pháp Chiêm Sát này
quả thật không thể nghĩ bàn; Cũng chứng minh thần lực
Ngài Địa Tạng không thể nghĩ bàn; Thiện xảo phương tiện
không thể nghĩ bàn, có thể diệt trừ tất cả chướng ngại, tăng
trưởng tịnh tín của chúng ta.
Quý vị xem, Pháp môn Chiêm Sát trước khi chưa phổ
biến rộng đã có cảm ứng như vậy, đây là Bồ Tát Địa Tạng
đã sắp xếp sẵn cho chúng ta. Hoàng Cảnh Quan cũng có
tâm hoằng dương Pháp môn này. Tôi tin rằng phàm những
ai tham gia hoằng dương Pháp môn Chiêm Sát, nhất định
được thần lực của Ngài Địa Tạng gia trì, nhất định có cảm
ứng không thể nghĩ bàn.
Tôi vừa đưa ra trường hợp này cũng đã nghiệm chứng tư
tưởng của Ngài Địa Tạng trong Kinh Chiêm Sát, Bồ Tát Địa
Tạng nói như thế nào? “Nếu các chúng sinh trong đời vị lai,
tất cả những gì bói được mà không được kết quả tốt, không
Hạnh Chơn chuyển ngữ
76 77
đạt sở cầu, chủng chủng lo ngại, khiến cho phiền não sợ
hãi, vậy nên ngày đêm thường tinh cần tụng niệm danh hiệu
của ta, nếu có thể chí tâm, những gì bói được đều tốt, sở cầu
đều có kết quả, hiện đời ra khỏi sầu bi khổ não”.
Tôi vừa nói đến trường hợp của một người, ông ta chính
là như vậy, lần đầu tiên bói nơi chúng đến có ách nạn, không
lành, phải như thế nào? Rất nhiều lo lắng, bản thân rất đau
khổ khó chịu, khiến phiền não sợ hãi, nên như thế nào? Nên
ngày đêm niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng, ông niệm một
vạn biến, tức là niệm suốt một ngày, hình như cũng lễ được
mấy bộ Chiêm Sát sám, nhưng tâm ông ta rất chí thành. Kết
quả đã thay đổi được vận mệnh, hiệu quả thay đổi vận mệnh
quả là rất thù thắng, còn thù thắng hơn cả ông Liễu Phàm,
hay là ông Vũ Tịnh Ý. Vì sao vậy?
Đây là Bồ Tát Địa Tạng gia trì, là nhị lực Pháp môn,
giống như Tịnh Độ vậy, cũng là nhị lực Pháp môn, do thần
lực Ngài Địa Tạng giúp chúng ta, kết quả thì sao? Bói lại,
những gì bói đều tốt, sở cầu đều đạt được, ông ta cầu linh
hồn hai đứa con vãng sinh Tây Phương cuối cùng đã đạt
được, hiện đời xa rời khổ não ưu sầu, lập tức chỉ trong vòng
bảy ngày; Suy não chính là ưu não, sợ hãi của ông ta được
giải trừ hoàn toàn, giải trừ thực sự, chứ không phải chỉ trong
tâm được an ổn mà thôi. Quả thực linh hồn hai đứa con đã
được vãng sinh.
Quý vị xem, đến quyến thuộc của mình, Bồ Tát Địa Tạng
đều có thể giúp họ được vãng sinh; Vậy thì những việc khác
như cầu được công việc, được người chồng như ý, được đứa
cháu, đây đều là những việc nhỏ nhặt, những điều này quý
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
vị đều có thể cầu. Nhưng tốt nhất là đừng cầu, chỉ nên cầu
vãng sinh Tây Phương.
Bởi thế, chúng ta có những nghi vấn, không nên đi bói
toán, không nên làm những điều của thế gian, những thứ đó
ảnh hưởng tâm thanh tịnh của chúng ta, càng không nên đến
cái gì là thần thông, đến quỷ, thần linh .v.v. đều không cần.
Muốn hỏi thì hỏi Bồ Tát Địa Tạng, quý vị không hỏi Bồ Tát
Địa Tạng vậy thì hỏi ai? Vấn đề mà Ngài Địa Tạng không
giải đáp được quý vị hỏi ai khác nhất định cũng không đạt
được. Nhưng có vấn đề nếu như quý vị niệm một nghìn
danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát mà không phải dùng tâm chí
thành để niệm, vừa niệm vừa vọng tưởng, như vậy kết quả
sẽ không tương ưng; Chẳng hạn quý vị hỏi về sức khỏe bản
thân, bệnh nặng hay không, nhưng quý vị lại nhận được đáp
án là một vị quân dân tốt, làm đất nước hưng thịnh an lạc,
không liên quan gì đến bệnh của quý vị, đáp án không đúng
với câu hỏi, vấn đề chính là bản thân quý vị không chí tâm.
Như vậy, nên làm sao? Niệm lại một lần nữa, bói lại từ
đầu, nghi thức này từ đầu đến cuối có ba mươi lăm phút,
làm lại lần nữa xem có tương ưng chăng? Nếu không tương
ưng thì bói tiếp, bói đến lúc tương ưng mới thôi, khi đã
tương ưng nhất định là Bồ Tát Địa Tạng trả lời quý vị, bất
luận trả lời tốt hay là xấu, là lành hay không lành, đều phải
nên chấp nhận.
Có người đồng tu hỏi tôi, ông ta biết tôi học Pháp này,
ông nói mình có một vấn đề nan giải chưa giải quyết được,
vì ông di dân đến Hồng Kông, nên hai đứa con trai của ông
cũng muốn đến Hồng Kông học, trường ở Hồng Kông tốt
Hạnh Chơn chuyển ngữ
78 79
hơn ở Đại Lục; Ông hỏi tôi có thể bói thử chăng? Được!
Tôi liền bói cho ông, bói như thế nào? Hai người con trai
này nên đến Hồng Kông chăng? Kết quả có sở cầu nhưng
không đạt lắm, tức là những gì quý vị cầu rất khó đạt được,
vì ông ta hy vọng hai người con được giáo dục tốt, nhưng
bói nói rằng không kết quả lắm. Ông ta cảm thấy Bồ Tát Địa
Tạng rất tương ưng, tuy là điều không lành những rất tương
ưng, quý vị nên tin tưởng, vì vậy mà ông ta không đi Hồng
Kông nữa và tìm trường học ở Thẩm Quyến; Một thời gian
sau ông gọi điện cho tôi lòng đầy hoan hỷ, cũng may nghe
lời Bồ Tát Địa Tạng, bây giờ tôi đã tìm được trường học tốt
nhất ở Thẩm Quyến, tốt hơn rất nhiều so với trường ở Hồng
Kông mà học phí lại rẻ. Tôi nói, ông xem đây chính là Bồ
Tát Địa Tạng nói ông biết, bây giờ đã tin đúng vậy chăng?
Trường hợp này chứng minh kết quả quý vị bói được, mặc
dù là vượt ra ngoài dự liệu, nên tin tưởng Bồ Tát Địa Tạng
cũng đang hộ trì quý vị, sắp xếp tốt nhất cho quý vị, quý vị
nên tiếp nhận.
Bây giờ thời gian cũng sắp hết, tôi sẽ tổng kết vấn đề
này lại. Ở trước nói qua với mọi người tâm đắc thô thiển
của bản thân khi học Pháp môn này. Tôi cũng lấy điều này
để khuyên tất cả người tu Tịnh Độ nên chuyên tu Chiêm
Sát Hành Pháp này, bao gồm Sám Nghi và Chiêm Luân
Tướng Pháp để hỗ trợ thêm cho chúng ta tu hành; Diệt trừ
tội chướng, tăng trưởng tịnh tín, đoạn nghi sinh tín.
Trong Kinh, Đức Phật nói, có thể tin những gì Bồ Tát Địa
Tạng nói: “Đương tri thị nhân tức năng đắc ly nhất thiết sở
hữu chư chướng ngại sự, tận chí vô thượng đạo”. Nếu tin
Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
tưởng Bồ Tát Địa Tạng, có thể thọ trì Chiêm Sát Hành Pháp
này, nhất định nhanh chóng diệt trừ mọi chướng ngại, rất
nhanh chóng đạt đến đạo Vô thượng; Chúng ta vãng sinh
Tịnh Độ chính là đạo Vô Thượng, nó là tận chí Vô Thượng
Đạo. “Tận” nghĩa là nhanh chóng, nhanh chóng đạt đến Thế
giới Tây Phương Cực Lạc;
Pháp môn này gọi là “Thậm vi năng trị đắc đại lợi ích” rất
khó gặp được, có thể được lợi ích lớn, quý vị đến đây đều
là người có phước báo lớn, là người có nhân duyên thâm
hậu với Bồ Tát Địa Tạng; Quý vị xem hôm qua có rất nhiều
người không đến, chỉ đến khoảng một nửa mà thôi, đúng
vậy chăng? Chứng tỏ rất khó gặp, chúng ta gặp được phải
sinh lòng cảm ơn sâu sắc, bản thân nên cố gắng học, cũng
có thể lưu bố, lưu thông rộng rãi Pháp môn này, cùng nhau
diệt trừ nghiệp chướng, tăng tín an ổn, sau cùng niệm Phật,
tự tại vãng sinh.
Hôm nay chia sẻ với mọi người đến đây, có chỗ nào
nói chưa thỏa đáng xin mọi người phê bình chỉ giáo. A
Di Đà Phật!
Con và chúng sinh từ vô thủy, thường vì tội nặng của ba
nghiệp, sáu căn làm chướng ngại, nên không thấy được chư
Phật, không biết vượt thoát luân hồi, thuận theo sinh tử,
không biết diệu lý. Nay con đã biết, nên vì tất cả chúng sinh
nghiệp chướng trọng tội. Hôm nay đối trước mười phương
chư Phật, Đức Địa Tạng Bồ Tát, vì hết thảy chúng sinh mà
quy y sám hối, xin mười phương chư Phật, Địa Tạng Bồ
Tát gia hộ, khiến chúng con tội chướng tiêu trừ!
Hạnh Chơn chuyển ngữ
81 80 Chiêm Sát Hành Pháp Diệt Chướng Trừ Nghi
Con đệ tử Định Hoằng! chí tâm phát nguyện, nguyện
mười phương Tam Bảo, Địa Tạng Từ Tôn, thương xót hộ
trì, cứu bạt chẩn tế, khiến đất nước này, thiên tai động loạn
tiêu trừ, chính Pháp lưu thông, hàm sinh tịnh tín, không còn
các chướng ngại, vĩnh viễn đoạn trừ ma chướng. Con cùng
chúng sinh, nhanh chóng diệt trừ trọng tội, hiện đời ra khỏi
sầu bi khổ não, cuộc sống sung mãn, tam tụ giới căn, rốt ráo
thanh tịnh, hai loại quán đạo, ứng niệm hiện tiền, tam muội
tổng trì, thần thông phương tiện, tứ nhiếp lục độ, tất cả đều
viên thành; Giác ngộ tự tâm, nhất thật cảnh giới, bỏ thân ở
thế giới này, được sinh về Tây Phương Cực Lạc, đối diện Di
Dà, thị giả chư Phật, được Phật thọ ký, trở lại trần lao, phổ
độ quần mê, đồng quy mật tạng! Nam Mô A Di Đà Phật!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét