2
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Lời giới thiệu của Thượng Tọa Thích Bảo Lạc
01 Chết, thân trung ấm và tái sinh
02 Giúp đỡ cho người hấp hối
03 Khi nào thần thức rời khỏi thể xác
04 Thần thức ở trong trạng thái trung ấm bao lâu?
05 Quan điểm của Phật giáo về việc tự sát
06 Hiến tặng thể xác có tốt không ?
07 Làm gì để chuẩn bị cái chết ?
08 Dưới ánh sáng của cái chết
09 Bạn muốn ''ngày ấy'' như thế nào ?
10 Chết, một pháp môn tu
11 Thực hành Pháp quán về cái chết
12 Hiến xác theo quan điểm của Phật giáo
13 Cơ thể sau khi chết
14 Một Lạt ma Tây Tạng tái sinh ở Hoa Kỳ
15 Một thế hệ mới của Lạt ma Tây Tạng
16 Tái sinh ở Phương Tây
17 Tin Phật trước khi chết
18 Một bằng chứng sống về thuyết tái sinh
19 Alan Molloy, một bác sĩ Phật tử người Mỹ.
20 Lời cuối sách
3
Lời giới thiệu (^)
---o0o---
Sách "Chết và Tái Sanh" hội đủ nhân duyên
dược tái bản do nhu cầu độc giả gia tăng tại Úc,
dựa hai điểm chính sau:
Thứ nhất, ấn bản lần đầu tiên, 1000 cuốn vào
tháng 10 năm 2000, đã phân phối rộng rãi nhiều
nơi tại Úc và Việt Nam. Sau hơn 2 tháng, vào
cuối tháng 12, sách đã hết sạch, có nhiều người
muốn đọc mà không tìm thấy sách nữa.
Thứ hai, sách đã được đài phát thanh SBS
(Syndey) trang trọng giới thiệu trong chương
trình toàn quốc vào sáng ngày 31 tháng 12 năm
2000, sau đó có rất nhiều thính giả hoặc trực tiếp
hoặc bằng điện thoại hỏi thỉnh sách.
Phần soạn dịch từ các tài liệu tiếng Anh qua
ngòi bút lưu lợi của Ðại Ðức Thích Nguyên
Tạng, người đang chăm sóc trang nhà điện tử của
Tu Viện Quảng Ðức, Melbourne
(http://www.quangduc.com), thực hiện gởi đến
quý độc giả như món quà Xuân Di Lặc năm 2001
4
này. Ngoài ra Ðại Ðức còn chuyên trách biên
khảo về Phật Giáo quốc tế, với các bài viết quen
thuộc về đất nước, nhân vật và sự kiện xảy ra đó
đây trên khắp thế giới, được đăng trên các tờ báo
Phật giáo Việt Nam ở Việt Nam và Hải Ngoại
như Pháp Bảo (Úc), Pháp Âm (Na-Uy), Giao
Ðiểm, Hoa Sen, Phật Học (Hoa Kỳ), Tạp chí
Phật Giáo, Tuần báo Giác Ngộ (Việt Nam)...
Riêng số lượng độc giả vào xem mạng Internet
của Tu Viện Quảng Ðức ngày càng khá đông với
số lượng ghi nhận của hệ thống automatic-
counter là có trên 3000 người mỗi tháng.
Qua hai yếu tố văn phong trong sáng và sự làm
việc chuyên cần của bút giả, tôi ân cần giới thiệu
đến độc giả tác phẩm nhỏ này của Ðại Ðức Thích
Nguyên Tạng, do Phật tử Tu Viện Quảng Ðức tại
Melbourne và Chùa Pháp Bảo, Sydney hùn
phước đóng góp tịnh tài ấn tống, để tác phẩm
sớm được phổ biến sâu rộng đến độc giả.
Sydney ngày 18/01/2001
Thượng Tọa Thích Bảo Lạc
5
Lời nói đầu
Ðạo Phật xuất hiện trên thế gian này chỉ một
mục đích duy nhất là đưa chúng sanh thoát khỏi
cảnh trầm luân đau khổ, ngày nào chúng sanh
chưa giải thoát sanh tử trong ba cõi, sáu đường,
ngày đó Ðạo Phật vẫn hiện hữu. Nói vậy sẽ có
nhiều người ỷ lại rằng bên ta luôn có Tam Bảo
che chở, không cần tu tập, và nếu đến lúc chết,
vấn đề sinh tử luân hồi chưa được giải quyết, thì
chư Phật và chư Bồ Tát tiếp tục ra đời với sứ
mạng cứu khổ độ sinh .
Ðó là một quan niệm sai lầm. Người xưa từng
nói " Chớ hẹn tuổi già mới học đạo, mồ hoang
lắm kẻ tuổi xuân xanh". Sự vô thường già, bệnh,
chết không hẹn trước với ta, nó sẽ đến với ta bất
cứ giờ phút nào, do đó mọi người phải tự biết
mình và phải chuẩn bị hành trang cho một
chuyến đi của mình chắn chắn sẽ xảy ra ở phía
trước.
Tập sách này phần chính là ghi lại cuộc tham
vấn giữa Thượng Tọa Pende Hawter và các Lạt
Ma Tây Tạng, những con người được mệnh danh
là có đủ năng lực để thẩm định sự sống chết.
6
Thượng Tọa Pende Hawter là một Tăng sĩ
người Úc, sáng lập viên Dưỡng Ðường Tiếp Dẫn
Kasura để chăm sóc người sắp lâm chung ở
thành phố Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc
Ðại Lợi. Ngài đã viếng thăm các bậc Lạt Ma tên
tuổi như Dalai Lama, Dilgo Khyentse Rinpoche,
Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje Khamtul
Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, để tìm hiểu về
tiến trình hấp hối, chết và tái sinh của con người.
Cuộc tham vấn được thực hiện vào tháng 5 năm
1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn Ðộ
( nơi các Lạt Ma Tây Tạng đang sống cuộc đời
lưu vong từ năm 1959) và sau đó được đăng tải
trên Nguyệt San Mandala của Hội Bảo Tồn Phật
Giáo Ðại Thừa (The Foundation for the
Preservation of the Mahayana Tradition) tại Hoa
Kỳ.
Ngoài ra tập sách này cũng cung cấp nhiều tài
liệu khác có liên quan đến chủ đề "Chết và Tái
sinh", những thông tin có thể giúp ta ít nhiều
trong tiến trình chết và sau khi chết.
Tập sách nhỏ này được ấn hành lần đầu tại Sài
gòn vào tháng 10/2000 do một đệ tử góp nhặt
các bài ngắn đã in trên báo trước đó, rồi sách lại
7
được tái bản tại Úc vào tháng 2/2001 để cung
ứng cho sự học hỏi của Phật tử tại đây. Và nay
nó được Ðạo hữu Phillip Phạm và một số bạn bè
của anh tại Tiểu bang California lấy xuống từ
trang nhà của Quảng Ðức (www.quangduc.com)
để in lại cho quý Phật tử đọc.
Tôi xin ghi lại nơi đây lời tán dương công đức
của Ðạo hữu Phillip và Quý Phật tử tại Mỹ, đã
góp phần lăn chuyển bánh xe Pháp đến với
chúng sanh trên thế gian này.
Xin chắp tay nguyện cầu cho Chánh Pháp được
trường tồn , chúng sanh được an lạc. Và cũng
xin nguyện cầu cho Cữu Huyền Thất Tổ, Cha Mẹ
nhiều đời của chúng ta sớm tái sinh về cõi giới
an lành.
Nam Mô Ðại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Melbourne, mùa Báo Hiếu 2001
Tỳ Kheo Thích Nguyên Tạng
8
01
CHẾT,
THÂN TRUNG ẤM VÀ TÁI SINH
---o0o---
1. CHẾT:
Qua sự huân tập và ảnh hưởng của tam độc
tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập
những mối liên kết với tâm thức qua những
khuynh hướng có mục tiêu. Khi con người chết,
nếu có những khuynh hướng như thế sẽ tiếp tục
đầu thai trong vòng sanh tử luân hồi với thân và
tâm được thừa hưởng từ sự tích lũy nghiệp thiện
và ác ở kiếp sống vừa qua.
Một số người chết vì kiệt sức hoàn toàn, một số
khác chết do hao mòn phước đức, chết không
đúng thời điểm hay còn gọi là bất đắc kỳ tử.
Một người chết thường ở một trong ba trạng
thái tâm: Thiện, Bất thiện và Vô ký. Trong
trường hợp thứ nhất, người hấp hối có thể quán
tưởng về Tam Bảo hay một vị thầy đức hạnh của
mình, bằng cách đó tâm của vị ấy mới phát sinh
9
tín tâm. Hoặc người hấp hối có thể nuôi dưỡng
niềm hỷ lạc vô biên để thoát khỏi sự ràng buộc
của những phiền não tham dục, luyến ái, thay
vào đó bằng cách quán niệm Tánh không và Tâm
từ bi. Ðiều này có thể tự người hấp hối làm hoặc
qua sự trợ niệm của người khác. Nếu những yếu
tố trên được nuôi dưỡng trong thời điểm hấp hối,
một người chết với tâm thanh tịnh như thế thì
việc tái sinh của họ sẽ được cải thiện. Ðây là
cách tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết. Mặt khác,
ta nên tránh đánh thức, quấy nhiễu người đang
hấp hối, điều đó chỉ khiến cho họ nổi giận thôi.
Ðôi khi người thân và bạn bè tập trung quanh tử
sàng bày tỏ niềm tiếc thương và khóc lóc bi
thảm, sẽ làm cho người hấp hối khởi tâm tham ái
và quyến luyến. Nếu người chết với tâm niệm bất
thiện như thế, sẽ đẩy họ đầu thai vào cõi xấu,
điều này rất nguy hiểm. Trong bất cứ trường hợp
nào, trạng thái tâm của người hấp hối bao giờ
cũng quan trọng trước khi chết. Bởi vì ngay cả
một người tu luyện tâm linh mà bị quấy rầy vào
thời điểm ấy cũng làm cho phiền não phát khởi,
chính trạng thái tâm này sẽ tạo ra ác nghiệp và
đó là động cơ chính dẫn dắt người ấy tái sinh vào
một cõi bất lợi như bao đường ba ác: Ð?a ngục,
10
Ngạ quỷ và Súc sanh. Vì thế, điều tối quan trọng
cho cả người hấp hối lẫn người sống là tránh tạo
ra những tình huống gây bất lợi cho tâm thức của
người chết. Chúng ta cần biết điều này.
Những người chết trong trạng thái tâm thiện
đều có cảm giác mình từ trong bóng tối thoát ra
ánh sáng, loại bỏ sự khổ đau và đạt được hạnh
phúc. Có nhiều trường hợp người bệnh rất nặng,
đến lúc gần chết đã nói ra những điều tốt đẹp
thoải mái thay vì nói đến căn bệnh của họ. Còn
đối với người bệnh tuy nhẹ nhưng nỗi sợ hãi quá
lớn, giai đoạn cuối cùng này tâm họ luôn hoảng
hốt, nên có cảm giác mình từ nơi ánh sáng đi vào
trong bóng tối và từ nơi hạnh phúc bị rơi vào
cảnh khổ đau.
Một số người, thân thể ấm áp của họ đã bị suy
yếu qua cơn bệnh nên họ trở nên khao khát muốn
được hơi nóng, bằng cách này củng cố thêm cho
khuynh hướng tái sinh của họ vào nơi như địa
ngục nóng hoặc một nơi có khí hậu nóng. Những
người khác thích cái mát lạnh, thích uống nước
lạnh và khiến cho khuynh hướng tái sinh của họ
hướng vào nơi như địa ngục hàn băng hay một
nơi có khí hậu lạnh. Vì thế điều rất quan trọng là
11
tránh khởi những ý niệm tham ái trong lúc chết
và trực tiếp hướng tâm đến những điều thiện.
2. THÂN TRUNG ẤM :
Thân trung ấm (bardo/intermediate state) được
hiểu nôm na là sự sống sau khi chết trước khi
thần thức người ấy đi tái sinh vào một trong sáu
cõi nào đó (Trời, Người, A tu la, Ðịa ngục, Ngạ
quỷ và Súc sinh). Thân trung ấm là thân không
có xác thịt mà chỉ lấy tư tưởng làm thân. Sau khi
người ấy chết, thần thức thoát ra khỏi xác thì trụ
lại ở thế giới trung gian này từ một đến bảy tuần
lễ, rồi sau đó tìm kiếm một nơi thích hợp với
nghiệp lực của mình mà đi tái sinh. Nếu trong
thời gian này, thân trung ấm chưa tìm thấy một
nơi tương ứng với mình để tái sinh thì nó lại chết
đi sau mỗi bảy ngày, sau đó thần thức lại chuyển
qua một thân trung ấm khác, chu kỳ sinh diệt này
cứ lập lại cho đến khi thần thức đi tái sinh.
Trong thời gian ở lại với cõi trung ấm này, vào
những ngày đầu, vong linh không nhận ra mình
đã chết, họ quay lại gia đình để gặp những người
thân nhưng không ai hay biết, họ hỏi thăm từng
người nhưng không ai trả lời, họ cố gắng sinh
12
hoạt trở lại bình thường như lúc còn sống nhưng
không thể được, cho đến khi họ tự phát hiện ra
họ không có bóng hình trên đất, không có ảnh
trên gương, họ mới biết là mình đã chết. Giờ đây,
họ lần lượt nhớ lại những thiện và ác nghiệp mà
họ đã tạo ra trong đời sống vừa qua. Tất cả
những cảnh tượng hạnh phúc hay khổ đau trong
suốt đời họ hiện ra trước mắt như một cuộn
phim. Nếu là vong linh của người vốn từng tạo
phước, tu tập tâm linh, thì luôn có những cảm
giác yên bình, thanh thản và dễ dàng để tìm
đường tái sinh vào cõi lành. Còn nếu những
người từng tạo ra ác nghiệp, sống cuộc đời tiêu
cực thì luôn đối mặt với những cảnh tượng khổ
đau, kinh hoàng, sợ hãi, thất vọng và chán
chường. Họ lang thang một cách tuyệt vọng
trong cõi trung ấm và muốn tìm một thân xác để
tái sinh tương xứng với nghiệp lực của họ. Nếu
thân trung ấm có tu tập và làm chủ được thần
thức của mình, thì người ấy chọn lựa cho mình
một cảnh giới tốt để tái sinh, ngõ hầu tiếp tục tu
luyện hoặc vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Bằng như trái lại, thì không có sự lựa chọn nào,
dù muốn hay không thì thần thức của người ấy
13
cũng buộc phải thọ sinh vào một cảnh giới nào
đó khế hợp với nghiệp lực của mình.
3. TÁI SINH:
Nếu được tái sinh trở lại cõi người, thần thức
của người ấy thấy cha mẹ tương lai của mình
đang nằm với nhau. Nếu người ấy tái sinh thành
người nam thì phát khởi tâm muốn chiếm hữu
người mẹ mà rất ghét người cha. Nếu tái sinh trở
thành người nữ thì ngược lại, thần thức người
khởi tâm muốn giao hợp với người kia, nhưng
lúc ấy họ chỉ thấy bộ phận sinh dục của người
kia (nam hay nữ) mà không thể thực hiện được,
do đó họ nổi giận, chính cơn giận này đã làm
chấm dứt thân trung ấm của họ và thần thức của
họ được chuyển qua đời sống kế tiếp, bằng cách
nhập vào bào thai của người mẹ và bắt đầu với
hình dáng của một con người. Khi ấy tinh cha và
huyết mẹ được kết hợp với thần thức của người
ấy, họ tự nhiên và dần dần phát triển thành một
con người.
Như đã nói ở trên, khi gần đến ngày tái sinh,
thần thức của người ấy bị lôi kéo về nơi tái sinh
tương lai, thậm chí nơi ấy là địa ngục. Ví dụ, một
14
đồ tể nhìn thấy một con cừu, anh ta muốn đuổi
bắt và giết chết nó, nhưng lập tức anh ta thấy
bóng mờ xuất hiện, nên anh ta giận dữ, cơn giận
đã làm kết liễu thân trung ấm và thần thức của
anh ta rơi vào Ðịa ngục hay Súc sinh.
Sự chuyển tiếp sự sống từ đời này sang đời
khác là nghiệp lực. Nghiệp (karma) có một năng
lực cá biệt và đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc cấu tạo tâm tánh của con người.
Nghiệp được hình thành dưới sự tập hợp của tam
độc tham, sân, si hay vô minh và ái dục. Chính
vô minh (ignorance) và ái dục (desire) là cội rễ
của mọi ác nghiệp. Do ác nghiệp này mà khiến
cho con người trôi lăn trong vòng sinh tử luân
hồi. Ðể thoát khỏi vòng tuần hoàn khổ đau này
con người phải nỗ lực tu tập đoạn diệt cho bằng
được cội rễ của vô minh. Khi vô minh bị tận diệt
thì ái dục cũng bị tận diệt, ái dục diệt thì sinh,
lão, bệnh, tử, sầu bi khổ ưu não cũng không còn,
khi ấy con người mới thật sự thoát khỏi vòng vây
của sinh tử luân hồi.
02
CUỘC HÀNH TRÌNH ÐI ÐẾN KIẾP SAU
15
---o0o---
Thượng tọa Pende Hawter, sáng lập Viện
Dưỡng Ðường Tiếp Dẫn Karuna (Từ Bi) để
chăm sóc người sắp lâm chung ở thành phố
Brisbane, tiểu bang Queensland, Úc Ðại Lợi, đã
thực hiện cuộc phỏng vấn các bậc Ðại sư Tây
Tạng như Dalai Lama, Dilgo Khyentse
Rinpoche, Kirti Tsen-shab Rinpoche, Garje
Khamtul Rinpoche, và Geshe Lamrimpa, về tiến
trình hấp hối, chết và tái sinh của con người.
Cuộc phỏng vấn được thực hiện vào tháng 5 năm
1995 tại tỉnh Dharamsala, miền Bắc nước Ấn
Ðộ.
GIÚP ÐỠ CHO NGƯỜI HẤP HỐI
Hỏi: Xin cho biết cách nào tốt nhất để chúng ta
có thể giúp đỡ cho người đang hấp hối và người
vừa qua đời?
Ðức Dalai Lama: Khi gặp người đang hấp hối
tuyệt đối tránh quấy rầy họ. Ð?c biệt là không
làm cho họ nổi giận hoặc khóc lóc để họ sanh
tâm quyến luyến. Ngược lại, phải nhắc nhở để họ
hành trì, tu tập vào giờ phút cuối, ví dụ như quán
16
tưởng hình ảnh của chư Phật, các vị thầy đức
hạnh, Chúa Jésus, hoặc một lời dạy nào đó tùy
theo tín ngưỡng của họ. Nếu người ấy không
theo một tôn giáo nào, nên giúp đỡ cho họ chết
trong thanh thản và yên bình.
Khi người ấy trở nên hôn mê, nếu là hành giả,
thì nhắc nhở pháp môn mà họ công phu thường
ngày, đặc biệt là lúc họ sắp ra đi. Kế đó tụng một
số bài cầu nguyện. Nếu thân nhân muốn tốt cho
người đang hấp hối thì tự tụng niệm hoặc cung
thỉnh chư tăng về nhà để cầu nguyện cho họ.
Trường hợp không có chư Tăng tiếp dẫn, người
thân trong gia đình có thể tụng thần chú Om
mani padme hum, hoặc những thần chú khác mà
họ biết, để tiếp dẫn cho người chết. Sau tang lễ,
gia đình tiếp tục thọ trì, tụng niệm đến ngày thứ
49 cho hương linh dễ dàng tìm lối tái sinh vào
cõi lành.
Công việc mai táng thi hài còn tùy nghi theo
mỗi nền văn hóa hay tập tục của người chết, điều
này không mấy quan trọng, bởi vì một khi thần
thức (consciousness) đã thoát thân thì xác chết ấy
cũng giống như một đống đất. Tại một làng
không theo Phật giáo thuộc miền Nam Ấn Ðộ,
17
tập quán của họ là chôn cất thi hài rồi trồng cây
lên mộ. Ðây là một cách để chấm dứt việc ô
nhiễm không khí (air pollution) từ hỏa táng bằng
củi đuốc, một tập tục thường thấy ở Ấn Ðộ, điều
này còn tránh đi việc hủy diệt cây rừng, một tài
nguyên quý giá của quốc gia. Ðây là một phương
pháp tốt mặc dù nó không bằng như ở phương
Tây nơi dùng điện để hỏa táng.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Ðối với
người hấp hối và người vừa chết, cách tốt nhất
mà bạn muốn giúp đỡ là phát khởi lòng bi mẫn
của chính bạn hướng đến với người sắp lâm
chung. Lòng thương yêu và bi mẫn của bạn rất
có ích cho người hấp hối, vì nó phát khởi từ lòng
bạn nên bạn dễ dàng tỏ bày cho người ấy lòng bi
mẫn vô điều kiện mà người sắp chết rất cần.
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu
không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến
chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập
của họ trong tương lai. Một điều quan trọng khác
là bạn đừng xa lánh và bỏ người đang hấp hối
một mình. Chết là sự thật và là một nỗi sợ hãi
ghê gớm nhất đối với con người. Do đó, bạn nên
ở bên cạnh họ, hoặc cầm tay họ nói lời an ủi,
18
hoặc nhìn vào mắt họ với niềm cảm thông. Thân
thể cũng có ngôn ngữ yêu thương của nó, hãy sử
dụng nó đừng sợ hãi vì e rằng họ hôi hám, dơ
bẩn hoặc sợ họ bắt mình theo, nếu bạn thể hiện
được những cử chỉ trìu mến như thế, thì bạn sẽ
đem lại cho người sắp lâm chung niềm an lạc lớn
nhất ở cuối cuộc đời họ.
Khi bạn chắc chắn người ấy đã chết, bạn vẫn
duy trì lòng bi mẫn vô bờ của bạn và cùng với
mọi người ở bên cạnh tử sàng mà tụng lớn danh
hiệu chư Phật như Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A
Di Ðà hoặc danh hiệu 35 vị Phật v.v... Nếu bạn
niệm Phật với lòng bi mẫn vô biên của bạn sẽ
giúp cho người lâm chung một bước đường tái
sinh.
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có hai hạng
người cần xem xét ở đây. Thứ nhất là người có
tín ngưỡng. Thứ hai là người không theo một tôn
giáo đặc biệt nào. Nếu người hấp hối là một Phật
tử thì chúng ta tụng kinh và niệm Phật tiếp dẫn
siêu độ cho họ. Nếu người ấy không theo tín
ngưỡng nào thì điều tốt nhất để giúp đỡ họ là
khuyên họ nghĩ đến những người tốt và những
điều tốt đẹp nhất trên đời. Khi một người đang
19
hấp hối và trong giờ phút bối rối ấy, không gì tốt
hơn là đem lại cho họ cái cảm giác bình an và ấm
áp của lòng người, cảm giác này rất có ích cho
tâm thức của họ.
Tôi sẽ giải thích chi tiết về những gì để giúp đỡ
hai hạng người này. Ðối với người theo đạo Phật,
chúng ta có thể gợi cho họ hồi hướng về những
gì mà họ từng quy y và tu tập. Chúng ta có thể
nhắc cho họ nhớ về Bồ đề tâm, tỉnh thức tâm,
thanh tịnh tâm và sự tập trung thiền định... Ðiều
này rất có lợi cho một Phật tử. Ðối với người
không có đạo, chúng ta có thể khuyên họ suy
nghĩ rằng: "Cầu mong cho mọi người được hạnh
phúc, cầu mong cho mọi sinh linh được an vui,
cầu nguyện cho mọi chúng sanh thoát khỏi
những khổ sầu của họ". Những ý tưởng muốn sự
tốt đẹp đến với người khác, rất có ích cho người
hấp hối.
Ðối với Phật tử lúc sắp chết, nên nhắc cho họ
nhớ về công hạnh của chư Phật, nhớ về hình ảnh
của một vị Phật nào đó, có thể đặt một ảnh Phật
trong phòng của họ... Ðiều này rất có ích và là
điều kiện giúp cho vong linh tái sinh vào đất
tịnh.
20
Ngay sau khi người ấy chết, điều rất quan trọng
cần lưu ý là không được đụng chạm đến thi hài
của họ để cho tiến trình chết không bị gián đoạn,
tiến trình này chỉ chấm dứt khi thân trung ấm
(Bardo/Intermediate state) hoàn toàn thoát ra
khỏi thân xác. Ở Tây Tạng, người thân phải đợi
48 tiếng đồng hồ sau mới tiến hành tang lễ.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Nói chung, khi đã
xác định người ấy sẽ chết, điều quan trọng là
phải hoàn thành mọi ước nguyện của họ. Nếu họ
tỏ ra luôn luôn giận dữ thì chúng ta nên làm cách
nào để ngăn chặn cơn giận của họ, giữ cho họ
luôn ở trạng thái thanh thản và yên bình. Nên
tránh gây ồn ào và di chuyển đi lại thường xuyên
bên người ấy. Nếu người hấp hối quá quyến
luyến người thân, vợ (hoặc chồng), cha mẹ con
cái, thì tốt nhất không cho những người thân này
đến gần tử sàng. Hãy cố gắng làm điều này để
chấm dứt lòng luyến ái của người hấp hối. Nếu
xác định chắc chắn rằng họ sẽ chết, thì chúng ta
nên cho họ những đồ ăn thức uống và các thứ mà
họ đòi hỏi để họ vui lòng và thỏa mãn, ngay cả
thức ăn kiêng cữ trong thời gian điều trị. Tuy
21
nhiên, không được cung cấp độc dược và thức ăn
có thể đe dọa đ?n mạng sống.
Nếu chúng ta cố gắng nói Pháp cho người hấp
hối nhưng họ không thích nghe, thì tốt nhất là
đừng nói, vì điều này tạo cho họ có ác cảm đối
với Chánh pháp. Với ý nghĩ như vậy thì đời sau
họ sẽ không thích gần gũi với Phật pháp.
Tương tự, nếu họ thích ăn uống mà mình
không làm thỏa mãn ước muốn của họ, sẽ làm họ
giận dữ và là nguyên nhân khiến họ đọa vào loài
ngạ quỷ (hungry ghost).
Nếu một người tin tưởng vào sự giúp đỡ của
người khác và cũng là người từng giúp đỡ kẻ
khác trong đời này, chúng ta nên nhắc cho họ
nhớ về công hạnh tốt của họ và khen tụng về việc
tốt mà họ đã làm. Việc này làm tâm họ vui và họ
sẽ tái sinh ở một nơi đầy hạnh phúc. Nếu chúng
ta giúp cho ước nguyện của người hấp hối hoàn
thành, thì họ sẽ rất mãn nguyện. Ðiều này ngăn
ngừa sự trỗi dậy lòng tham ái, giận dữ, quyến
luyến và những tâm tà kiến khác của người hấp
hối, nhờ đó giúp họ tái sinh vào cõi lành mà
không đọa vào cõi xấu.
22
Ðối với Phật tử và người từng thọ trì một pháp
môn nào đó thì thật là thuận lợi nếu họ được
chúng ta nhắc lại mười điều Phật dạy trước khi
chết như sau:
1. Không nên khởi niệm tham đắm chấp thủ
mọi dục vọng ở đời này. Nên cố gắng và tránh
hướng tâm ái luyến đến người thân của mình,
vì dẫu đời sau có gặp lại thì cũng phải chia lìa.
Trong thời điểm hấp hối, ta phải bỏ tất cả mọi
thứ lại phía sau. Ta cũng không nên chấp đắm
tấm thân của mình, vì lúc chết ta phải rời bỏ
nó. Ta không luyến tiếc các thứ như thức ăn,
áo quần, nhà cửa, vì những thứ ấy cuối cùng
cũng từ bỏ ta.
2. Ta nên phát khởi lòng bi mẫn và thương
yêu đối với mọi chúng sanh.
3. Ta nên đoạn tận mọi phẫn uất và thù hằn,
nếu không thì nó sẽ làm hại ta trong kiếp sau.
4. Tất cả các giới pháp mà mình thọ trì nếu đã
vi phạm thì phải cố gắng sám hối cho thanh
tịnh trước khi chết.
23
5. Ta phải phát tâm dõng mãnh trong đời vị lai
sẽ thọ trì và giữ giới pháp thanh tịnh.
6. Ta phải cảm thấy đau xót về những ác
nghiệp mà mình đã gây tạo cho người khác
trong đời này và phải sám hối để dễ dàng tái
sanh.
7. Ta phải nhớ đến những công đức mà mình
đã làm trong đời này, những công đức của
người khác đã làm và phát tâm sẽ tiếp tục làm
trong vị lai.
8. Ta nên nghĩ đã đến lúc mình phải ra đi để
đến đời sau, không có gì sợ hãi cả, vì đó là
quy luật tự nhiên có sinh ắt có tử.
9. Phải quán thấy mọi sự vật hiện tượng đều
do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên
mà hoại diệt.
10. Ta phải quán thấy rằng mọi sự vật hiện
tượng đều vô ngã để ta vượt thoát khỏi sầu và
đạt được sự an lạc.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Cách tốt
nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành
động của mình phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi.
24
Nếu có thể thì cung thỉnh các bậc thầy đức hạnh
đến để làm pháp chuyển di tâm thức
(transference of consciousness) cho người hấp
hối. Pháp này Tạng ngữ gọi là Powa, được xem
là một pháp tu đặc biệt có giá trị và hiệu quả nhất
để giúp cho người hấp hối. Bạn quán tưởng hình
ảnh đức Phật ở trên đầu người hấp hối. Quán
tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người sắp
lâm chung làm sạch bản thể của họ, và quán thấy
họ tan thành ánh sáng, hòa nhập vào ánh sáng
của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành
công hay không là còn tùy thuộc vào sức thiền
định của người đang thực hiện pháp tu này. Pháp
tu đặc biệt này không những dành cho người sắp
chết mà còn có thể giúp tịnh hóa và chữa lành
bệnh cho người còn sống. Các vị Lama vẫn
thường dùng pháp này để cầu an thọ mạng cho
người già yếu. Một số vị thầy cho rằng nên thực
hiện pháp chuyển di tâm thức vào khoảng ngừng
lại giữa hơi thở vào và hơi thở ra. Nhiều người
khác thì nói rằng nên thọ trì pháp này càng nhiều
càng tốt sau khi người đó chết để hộ trì cho thân
trung ấm của họ dễ dàng tái sinh.
25
Theo giáo nghĩa của Luật Tông thì nên hỏa
táng thi thể càng sớm càng tốt sau khi chết.
Nhưng theo Mật Tông thì tốt nhất là đừng di dời
thân thể sau khi chết trong vòng ba ngàỵ
Hỏi: Người sắp lâm chung rất đau đớn về thể
xác và hãi hùng với nỗi sợ chết. Phương pháp
nào tốt nhất để giúp họ vượt qua nỗi sợ hãi đó?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: ? phương
Tây người ta thường dùng thuốc phiện hoặc
thuốc an thần để giảm cơn đau thể xác của người
hấp hối và giúp cho họ chết trong bình an. Tuy
nhiên theo Phật giáo thì con người cần phải chết
một cách đầy đủ ý thức, có sự tự chủ và tỉnh táo
càng nhiều càng tốt. Vì thế cần phải kiểm soát sự
đau đớn để nó không thể che mờ ý thức của
người sắp lâm chung, đó là điều kiện cốt yếu của
việc làm giảm sự đau đớn về thể xác.
Thứ hai, làm gì để giúp người sắp chết vượt
qua nỗi sợ chết? Trước hết, bạn phải thật bình
tĩnh và chính bạn cũng phải vượt qua nỗi sợ hãi
ấy. Khi giúp đỡ người hấp hối, bạn cần phải lưu
ý từng phản ứng của chính bạn, vì phản ứng của
bạn sẽ phản chiếu trên phản ứng của người sắp
26
chết và nó sẽ góp phần rất lớn vào sự an ủi của
họ hay tàn phá họ. Khi niệm Phật tiếp dẫn, bạn
cần chú ý trấn an người hấp hối rằng trong giờ
phút cuối cùng này họ sẽ đối mặt với vô số
những cảnh tượng hãi hùng khác nhau mà lâu
nay họ chưa từng biết, và điều đó khiến cho họ
vô cùng sợ hãi. Tuy nhiên, bạn phải trấn an họ
rằng đó chỉ là ảo ảnh hoàn toàn không có thật mà
chỉ là sản phẩm từ ảo giác của người hấp hối.
Nếu có thể hãy trao cho họ chuỗi ngọc Mani,
hoặc một xâu chuỗi hạt của các thầy đức hạnh sẽ
giúp đỡ cho họ vượt qua nỗi sợ hãi. (Chuỗi hạt ở
đây là biểu tượng năng lực của bậc đạo sư).
Hỏi: Ðối với người không phải là Phật tử, họ
không theo một tín ngưỡng nào, thì làm gì để
giúp họ?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Ðối với một
người không tin hoặc không biết gì về đạo Phật,
chỉ cho họ viên ngọc Mani cũng như an ủi và
giải thích cho họ biết những cảnh tượng rùng rợn
mà họ sắp thấy trong chốc lát chỉ là những ảo
ảnh trong giấc mộng chứ không có thật. Nhờ sự
dặn dò trước này, họ sẽ vượt qua nỗi sợ hãi khi
hấp hối.
27
---o0o---
03
KHI NÀO THẦN THỨC CỦA NGƯỜI MỚI
RA KHỎI THỂ XÁC?
---o0o---
Hỏi: Ở phương Tây, dấu hiệu thông thường
của cái chết là chấm dứt hơi thở và tim ngừng
đập. Còn theo Phật giáo thì phải mất bao lâu sau
khi việc này xảy đến thần thức mới thoát ra khỏi
thể xác?
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Có lẽ có hai
hạng người cần xem xét ở đây. Thứ nhất, những
người trẻ tuổi hoặc những người đã nằm chờ chết
trong một thời gian dài. Hạng người này tâm
thức rất tinh tế và thần thức của họ sẽ không lưu
lại trong thể xác lâu, có thể chỉ một ngày thôi.
Thứ hai là những người mạnh khỏe và cái chết
đến nhanh, thần thức của họ lưu lại trong thể xác
đến ba ngày.
28
Những cái chết khác như bất đắc kỳ tử(chưa
đến thời điểm chết mà phải chết), chết vì tai nạn
hay vì bạo lực. Chẳng hạn hai người đánh chém
nhau, một người trong số đó chết đột ngột, thì
thần thức của họ không lưu lại trong thể xác lâu.
Nói chung, thời gian bao lâu tùy thuộc vào tâm
thức nặng hay nhẹ của mình mà thoát ra khỏi
thân xác sau khi chết.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Khi hơi thở dứt và
tim ngừng đập, nó chỉ rõ rằng phần thô của thần
thức đã tan mất. Tuy nhiên có nhiều trường hợp,
phần tinh tế của tâm thức còn lưu lại trong xác
thân người ấy hàng tuần lễ, thậm chí có lúc cả
tháng. Nhưng hầu hết là phần tinh tế của tâm
thức rời khỏi thể xác trong ba hoặc bốn ngày,
trong thời gian này thi hài không bốc mùi hoặc
thối rữa.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Chưa thể
khẳng định rằng một người bình thường, sau khi
chết thần thức của họ rời khỏi xác trong ba ngày
sau đó. Nhiều người lưu lại lâu hơn, nhưng một
số người khác thì trụ lại thời gian ngắn hơn. Có
nhiều ví dụ điển hình trong số các vị Lama Tây
Tạng. Như đức Lama Ling Rinpoche, thầy dạy
29
học của đức Dalai Lama, thần thức của ngài đã
trụ lại trong xác thân cả tuần lễ sau khi viên tịch.
Ở trong cộng đồng người Tây Tạng, những
trường hợp tương tự vẫn thường xảy ra.
Tóm lại, việc hỏa táng hoặc tiến hành tang lễ
hay di chuyển thể xác tốt nhất phải đợi ba ngày
sau. Tuy nhiên, ngày nay điều này khó thực hiện
vì người ta sợ ô nhiễm, do vậy, nên làm phép
chuyển di tâm thức trước khi động đến thể xác
của người quá cố.
Hỏi: Trường hợp của những người chết vì bệnh
quá nặng như ung thư và Aids (Sida) thì thần
thức của họ có thoát xác nhanh hơn không?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Ðiều này
không chắc chắn lắm. Việc thoát xác sớm hay
muộn không thực sự tùy thuộc vào người chết bị
tai nạn hay bị bệnh nặng, mà tôi nghĩ rằng việc
ấy có liên hệ mật thiết đến thiện và ác nghiệp của
người mất. Ví dụ, đối với một người tu tập theo
pháp Dzogchen hay một pháp nào khác thì sau
khi chết họ tiếp tục quán tưởng Tánh không và
thần thức của họ duy trì lại trong thể xác rất lâu,
30
cho dù họ không hề luyến ái tấm thân ngũ uẩn
này.
Hỏi: Các ngài có thể cho biết khi nào thì thần
thức rời khỏi thể xác? Những dấu hiệu nào cho
chúng ta biết rõ điều này?
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa
chúng ta lại thảo luận về hai hạng người thoát
xác sau khi chết. Bây giờ tôi sẽ không đề cập đến
hạng người có thần thức lập tức thoát xác sau khi
chết mà chỉ nói đến hạng người có phần tinh tế
thần thức lưu lại trong thi thể nhiều ngày. Người
ta nói rằng trước khi thần thức người ấy thoát ra
khỏi xác thì trên thi thể họ sẽ có một điểm nóng
được tụ lại duy nhất có màu đỏ hoặc màu trắng,
điểm nóng tụ lại ở đâu thì thần thức sẽ thoát ra ở
chỗ đó. Ví dụ, nếu điểm nóng hội tụ ở đỉnh đầu
thì chúng ta tin rằng người ấy sẽ tái sinh vào cõi
lành, điểm nóng tụ lại ở bàn chân thì chắc chắn
người ấy sẽ đọa vào hạ giới. Dấu hiệu cho biết
khi thần thức thoát xác sẽ có một ít máu chảy ra
ở lỗ mũi hoặc tinh dịch thoát ra từ bộ phận sinh
dục.
31
Tuy nhiên, có một số người không thấy dấu
hiệu này, đó là những người chết đột ngột vì tai
nạn hay bị bệnh tim. Dấu hiệu này chỉ tìm thấy ở
những người có tiến trình chết chậm và lâu.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Hầu hết người nào
bị chết vì bệnh nặng thì khi thần thức rời khỏi thể
xác đều có dấu hiệu máu hoặc chất nước vàng
chảy ra từ lỗ mũi hoặc bộ phận sinh dục. Khi
thần thức thoát ra thì thể xác mới có mùi hôi.
Ðức Dalai Lama thứ 14 từng nói chuyện với các
bác sĩ nổi tiếng ở phương Tây về vấn đề thần
thức rời khỏi thể xác khi bệnh nhân tắt thở. Các
bác sĩ đã trắc nghiệm và nói rằng họ đã thấy một
làn khói trắng nhỏ thoát ra từ một điểm nào đó
trên thân của người chết. Kết quả này được kiểm
tra bằng máy móc và phân tích thể xác một cách
cẩn thận.
Những dấu hiệu như giọt máu hoặc nước vàng
đều xảy ra đối với những người chết vì bệnh
nặng. Tuy nhiên, thi thể người ấy thường được di
chuyển quá nhiều trước khi thấy những dấu hiệu
này, vì vậy những trường hợp như thế tuyệt đối
không bao giờ xảy ra. Ở Tây Tạng, theo tập quán
truyền thống phải giữ thi thể trong ba, bốn hoặc
32
bảy ngày ngõ hầu giúp cho thần thức có đủ thời
gian để thoát xác. Trong thời gian chờ đợi này,
các lễ kỵ siêu cho người quá cố được tiến hành
một cách nghiêm mật.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Bạn có thể
biết khi thần thức thoát xác dựa vào sự biến đổi
của thi thể. Khi thần thức còn lưu lại trong thể
xác thì bạn cảm thấy người ấy chưa chết thật sự,
nước da của họ còn tươi và sáng lạ thường, giống
như họ đang nằm ngủ. Nhưng một khi thần thức
đã thoát xác thì lập tức ta thấy thi thể thay đổi
khác liền, nước da khô, tái xanh đi và bắt đầu có
mùi hôi. Lúc ấy, bạn mới có cảm giác đó là một
xác chết chứ không phải là một người nữa.
Những kinh nghiệm về làn khói hoặc giọt máu
xuất ra khi thần thức thoát xác không phải lúc
nào cũng nhìn thấy được, chúng ta chỉ gặp ở một
số ít người. Trong số những người này, khi thần
thức thoát xác, chất nước vàng chảy ra từ lỗ mũi
và ở hạ bộ. Có một vị cao tăng Tây Tạng viên
tịch, khi thần thức thoát xác, lỗ mũi của ngài liền
chảy ra hai dòng chất dịch lỏng, một bên thì màu
đỏ còn bên kia màu trắng.
33
Hỏi: Có đúng là cho đến khi thần thức thoát
xác, thi thể mới bắt đầu có mùi hôi và có dấu
hiệu thối rữa?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Sự thật
đúng như thế.
Hỏi: Khi một người chết nhưng thần thức vẫn
còn lưu lại trong thể xác. Vậy người ấy có cảm
giác gì không nếu bị người khác đụng chạm
đến?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Họ sẽ không có cảm
giác gì cả. Khi phần khô của thần thức tan mất
thì người ấy không còn cảm giác nữa. Ðối với
các vị Tăng chứng đắc và người Phật tử có tu
tập, khi chết, phần tinh tế của thần thức còn lưu
lại trong thể xác, thì họ có thể chết ở trong tư thế
ngồi thiền, đến khi thần thức thoát xác, thi thể
của vị ấy mới ngã xuống.
Mấy mươi năm trước, khi những người Tây
Tạng đầu tiên đến tỵ nạn tại tỉnh Buxa của Ấn
Ðộ, một Phật học viện của Phật giáo Tây Tạng
nọ, có hai vị tăng đánh nhau và một người chết.
Sau đó, vì vụ này mà chính quyền Ấn và người
dân địa phương chỉ trích rất gắt gao đối với
34
người dân Tây Tạng, h? nói rằng các tu sĩ Tây
Tạng chỉ biết chém giết nhau mà thôi. Về sau có
một Lama đức hạnh tên là Gyari Rinpoche, đến
từ tu viện Gender ở Tây Tạng, vị này đã viên tịch
tại Ấn với tư thế ngồi kiết già trong bảy ngày;
Người Ấn được mời đến chứng kiến cái chết lạ
thường của vị Lama này và họ cố gắng giật mạnh
khăn trải giường để làm cho thi thể của ngài ngã
xuống, nhưng ngài vẫn ngồi thẳng như pho
tượng, dù trải qua bảy ngày nhưng thể xác của
ngài vẫn không có mùi hôi. Sau sự kiện này,
quan điểm của họ về các Tăng sĩ Tây Tạng đã
thay đổi hẳn, họ không còn phê bình, chê bai
nữa.
Hỏi: Nếu đụng chạm và di chuyển thi thể trước
khi thần thức thoát xác có ảnh hưởng gì đến tâm
thức của người chết không? Vì ở trong bệnh
viện, sau khi người hấp hối ngừng thở và tim hết
đập, còn nhiều thủ tục khác chi phối đến tử thi.
Sự can thiệp này có hại cho thần thức người chết
không?
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Trước hết,
nếu đó là một người tinh thông có năng lực thiền
định, họ cố gắng luyện tập thiền định sau khi trút
35
hơi thở, nếu ta lắc mạnh thi thể của họ vào lúc họ
ở trong trạng thái thiền định thì sẽ khuấy rối tiến
trình tập trung thần thức của họ. Do đó, tốt nhất
là không đụng chạm đến thể xác họ trong thời
điểm ấy. Ngay cả một người thường (người
không có tu tập) cũng không nên đụng đến thi
thể của họ cho đến ba ngày sau. Nếu một người
đang ngủ say, nhưng ta lay mạnh thì họ sẽ thức
giấc ngay, người chết ở đây cũng vậy, khi chạm
đến họ, không có tác hại gì cho thể xác, nhưng có
hại rất lớn đến thần thức của họ.
Thêm vào đó, nếu chúng ta buộc phải thay tấm
khăn trải giường và nệm từ giường của người
vừa chết cho sạch sẽ thì cũng nên thao tác nhẹ
nhàng. Tương tự, nếu người chết còn mở mắt và
hả miệng, nên yêu cầu một người thân trong gia
đình đến trước tử thi bày tỏ lòng kính trọng cuối
cùng rồi giúp họ khép mắt và miệng lại để trông
dễ nhìn hơn. Ðối với những người bị dị tật, tay
chân cong quẹo, lúc tẩm liệm phải kéo thẳng ra
để dễ dàng đưa vào quan tài. Nhưng mỗi cử chỉ
đối với người chết đều phải nhẹ nhàng và thực
hiện ba ngày sau khi người ấy trút hơi thở cuối
cùng.
36
Hỏi: Có lợi ích gì khi chúng ta chạm hoặc kích
thích trên đỉnh đầu của người hấp hối và người
chết, đặc biệt là người vừa chết?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Khi một
người vừa chết, chúng ta có thể sờ chạm vào
đỉnh đầu của họ, đó là vùng huyệt đạo tốt nhất để
thần thức thoát ra mà ngài Lama Je Tsong Khapa
gọi là "chiếc cổng vàng". Do đó, bạn nên kích
thích vào vùng đỉnh đầu, nếu thần thức của người
chết thoát ra ngoài bằng đường này thì chắc chắn
họ sẽ thác sinh vào cảnh giới an lành.
Nhưng nếu thần thức thoát ra bằng các đường ở
hạ bộ, từ lỗ rốn trở xuống, người ấy sẽ thác sinh
vào ác đạo, như cõi ngạ quỷ hay loài cầm thú. Vì
thế, người Tây Tạng không bao giờ tiếp xúc phần
hạ bộ của thi thể người chết, nếu ta chạm vào chỗ
nào của họ thì thần thức sẽ tụ lại chỗ ấy mà thoát
ra ngoài
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Tiếp xúc
vào đỉnh đầu của người hấp hối được xem như là
đang làm phép "chuyển di tâm thức" cho họ.
Thực hiện phép này không phải là một vấn đề
đơn giản, phải làm cẩn thận để giúp cho thần
37
thức của người hấp hối tập trung ở đỉnh đầu, chỗ
mái tóc giáp nhau, gọi là cửa Brahma. Nếu đầu
của người ấy không bị sói thì chúng ta phải nhổ
năm ba sợi tóc bên trên cửa ấy và dùng ngón tay
trỏ cạo nhiều lần vào chỗ ấy, việc làm này nhằm
giúp cho thần thức của người chết biết chỗ mà
thoát ra ngoài. Kỹ thuật này cũng thường giúp
cho chất nước vàng chảy ra từ cửa ấy, dấu hiệu
đó chứng minh cho phép chuyển di tâm thức đã
thành công.
---o0o---
04
THẦN THỨC PHẢI Ở TRONG
TRẠNG THÁI TRUNG ẤM BAO LÂU
---o0o---
Hỏi: Sau khi thần thức rời khỏi thể xác và
bước vào giai đoạn thân trung ấm giữa đời này
và cuộc sống kế tiếp, phải mất bao lâu trước khi
thần thức này gá vào một bào thai mới?
38
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Thời gian
kéo dài trung bình để một người đi tái sinh vào
một cơ thể mới là bảy tuần lễ. Cứ sau bảy ngày
thì thân trung ấm chết đi và rồi tái sinh lại trong
một thân trung ấm khác cho đến khi nó bắt được
liên lạc với cha mẹ tương lai mới đi tái sinh. Tuy
nhiên có nhiều người sau khi chết chỉ mất hai
giây họ đã đi tái sinh vào cảnh giới khác.
Lý do tại sao thần thức phải chịu đựng trong
tiến trình trung gian sinh và tử giống như ma quỷ
này? Vì do nghiệp thiện và ác của người ấy gây
tạo đời trước sẽ quyết định dẫn dắt họ đến nơi
thích hợp, do đó phải cần có thời gian nhất định
để tìm kiếm cho một đời sống tương lai.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Bốn mươi
chín ngày là thời gian dành chung cho tất cả mọi
người, nhưng có một số người khác cứ vất vưởng
trong thế giới trung ấm này một thời gian rất lâu,
có lúc đến bảy năm mới đi tái sinh. Nếu trường
hợp họ bị kẹt lại trong thế giới trung gian này, họ
sẽ trở thành ma quỷ. Thông thường khi một
người đang hấp hối, chúng ta đọc kinh cầu
nguyện hoặc nhắc nhở, họ đ?u nghe thấy, thậm
chí người bất tỉnh cũng thế. Ðối với vong linh
39
trong cõi trung ấm cũng có khả năng nghe, cảm
nhận và hiểu được khi chúng ta đọc sách "Tử
thư Tây Tạng" (Tibetan Book of the Death) để
cảnh tỉnh họ. Vì thế, trong bảy tuần lễ đầu sau
khi chết là thời gian rất quan trọng để cho người
sống làm mọi việc có thể giúp sức tái sinh cho
người chết.
Còn thần thức của những bé chết trước khi sinh
(bị sẩy thai), trong lúc sinh hoặc tuổi còn nhỏ, sẽ
đi qua các trạng thái trung ấm một lần nữa và
nhận thấy một hiện hữu khác. Cha mẹ của họ
cũng có thể tạo phước (meri-forious acts) để hồi
hướng công đức cho vong linh hoặc thực hiện
các pháp dành cho người chết như thọ trì thần
chú Kim cương Tát đỏa một trăm âm (Hundred -
syllable mantra of Vajrasattva), đủ túc số 100
biến, cúng dường đèn, bố thí, phóng sinh các loài
vật... để giúp cho thần thức của hài nhi đó được
nhẹ nhàng và dễ dàng tìm lối tái sinh.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Không thể xác định
thời gian chính xác là bao lâu. Nếu một người
không phải tái sinh vào cõi người thì họ liền thác
sinh đến cõi khác chứ không qua giai đoạn thân
trung ấm. Nhưng nói chung một người có thể ở
40
trong cõi trung ấm trung bình là 49 ngày, có
người ở một ngày, bốn ngày và có khi bảy
ngày... Trong thời gian trụ lại trong trung ấm
thân, vong linh tìm kiếm một đời sống tương lai
khế hợp với nghiệp của mình để tái sinh.
Ðại sư Gerje Khamtul Rinpoche: Ðối với một
số người thời gian dài nhất là bảy tuần lễ, nhưng
có một số khác chỉ ở trong thân trung ấm ba
ngày. Phần lớn mọi người đều phải đầu thai sau
hai mươi mốt ngày.
Không phải ai chết cũng qua giai đoạn thân
trung ấm. Có một số người tu tập chứng ngộ, có
một đời sống phạm hạnh và lợi lạc, khi chết họ
trực tiếp tái sinh vào cảnh giới tốt lành chứ
không qua giai đoạn trung gian này. Một người
phạm tội ngũ nghịch (giết cha mẹ, phá hoại
chánh pháp...), hoặc có một đời sống tiêu cực, ác
độc... thì sẽ đọa liền vào địa ngục, hoặc một cõi
xấu nào đó chứ không qua giai đoạn thân trung
ấm.
---o0o---
05
41
QUAN ÐIỂM CỦA PHẬT GIÁO
VỀ VIỆC TỰ SÁT
---o0o---
Hỏi: Xin cho biết quan điểm của Phật giáo như
thế nào về vấn đề tự sát?
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Ðối với
người Phật tử, tự giết mình là một tội rất lớn. Vì
sao? Bởi vì có được thân người là một trong
những điều khó và làm bị thương hoặc hủy diệt
thân ấy là một điều sai lầm rất lớn. Tự tử thường
bắt nguồn từ kết quả của những cơn nóng giận.
Chỉ có giận dữ người khác mà không làm gì
được nên trở lại giết chết mình. Ðối với một
người không theo đạo Phật cũng thế, tự tử là một
hành vi đáng trách và tội lỗi. Sau khi chết, thần
thức của họ không có một nơi nào khác là phải
lao theo nghiệp ác của mình. Vì thế chúng ta
phải nghĩ cách làm thế nào để giúp họ vượt qua
những cơn khủng hoảng tinh thần và nỗi khổ đau
của họ. Ở trong tình trạng rối loạn, bế tắc và
tuyệt vọng, cơn khủng hoảng trầm trọng này có
thể đẩy con người đến chỗ tự sát.
42
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nhà Phật
cho rằng tự tử là một điều tồi tệ nhất mà con
người có thể làm. Ðây là một hành động tiêu cực
khiến cho thần thức của kẻ ấy gặp khó khăn
trong việc tái sinh. Theo truyền thống của Phật
giáo Tây Tạng thì có hàng trăm vị nam và nữ
thần ở trong thân của chúng ta, nếu phạm vào tội
tự sát, đồng thời ta cũng giết cả họ. Còn theo
Phật giáo Ðại Thừa thì dưới chân của mỗi sợi tóc
thì có hàng ngàn tế bào sống khác..., khi ta giết ta
thì đồng thời ta cũng hủy diệt chúng.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Theo Phật giáo thì tự
tử là một hành vi tiêu cực và là nguyên nhân
khiến cho thần thức của người ấy rơi rớt vào cõi
xấu.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Khi một
người tự tử, thần thức của họ thường phải đi theo
nghiệp xấu của mình, rất có thể họ sẽ bị một ác
ma bắt lấy và chiếm đoạt sinh lực. Ðể giúp cho
những người này, các vị thầy có năng lực phải
làm nhiều lễ cầu siêu đặc biệt như năm cuộc lễ
và những nghi thức khác để siêu độ thần thức
cho người chết.
43
Hỏi: Trong thời gian chiến tranh tại Việt Nam,
có nhiều Tăng sĩ đã tự thiêu, với động cơ là làm
cho thế giới chú ý đến nỗi khổ đau chiến tranh ở
VN. Việc tự thiêu của họ phải chăng là hành vi
tiêu cực?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Các vị Bồ Tát được
phép thực thi một số hành vi mà người thường
cho đó là tiêu cực. Tuy nhiên, Phật giáo Nguyên
thủy phản đối hành động này, vì thế tự tử luôn
được xem là hành vi tiêu cực trong truyền thống
này. Nếu bạn phân tích kỹ hơn, xem động cơ
khiến các vị Tăng này tự thiêu là gì thì chúng ta
mới phán xét là tiêu cực hay tích cực. Trong một
bộ kinh của Phật giáo có ghi lại câu chuyện về
một vị Tỳ kheo trẻ bị một phụ nữ ép buộc phải
lấy bà ta. Vị này biết rõ rằng nếu mình chịu lấy
thì sẽ phá bỏ giới luật; mặt khác, nếu không chịu
lấy, bà ta sẽ vu khống rằng mình đã có những
hành vi tồi bại. Vì thế, để giải quyết tình cảnh bế
tắc này mà không phạm giới, vị ấy quyết định tự
kết liễu đời mình. Suy nghĩ như thế rồi, vị ấy giả
vờ đồng ý và nói với bà ấy đợi một chút. Vị ấy
vào phòng trong, đóng cửa và tự đâm vào cổ
họng mà chết. Trước khi tắt thở, vị ấy kính lễ
44
mười phương Tam Bảo và nói rằng: "Vì tôn kính
Tam Bảo và gìn giữ giới hạnh mà con quyết định
từ bỏ thân này".
Trong Kinh nói đây là hành vi tích cực và có
công đức. Nếu trường hợp các Tăng sĩ Việt Nam
vì động cơ muốn cứu vãn Chánh pháp của đất
nước họ không lún sâu vào chiến tranh, vì một
động cơ cao cả như thế thì hành vi tự thiêu của
họ không thể cho là tiêu cực mà phải được xem
là hành vi của các vị Bồ Tát.
Hỏi: Quan điểm của Phật giáo như thế nào về
việc chấm dứt mạng sống trước khi người ấy
chết? Bệnh nhân yêu cầu để cho họ chết tự nhiên
bằng cách không dùng thuốc hay những phương
pháp y học nào đó vì họ quá đau đớn về thể xác
và tinh thần trong khi việc điều trị không mang
lại kết quả.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Trong
trường hợp này rõ ràng bạn muốn đem lại lợi ích
cho người khác, chấm dứt sự đau đớn của họ.
Tuy nhiên, cần phải xem xét cẩn thận chứ đừng
nên hành động thiếu suy nghĩ, bởi vì giết một
mạng người là một tội ác, vì vậy, dù đau đớn dữ
45
dội, thay vì để cho họ chết thì cố gắng dùng hết
khả năng để điều trị cho họ, có thể cho họ uống
thuốc giảm đau hoặc thuốc an thần chẳng hạn.
Mặt khác, nên nhớ rằng thân người rất khó khăn
mới có được. Do vậy, các nhà điều trị phải suy
nghĩ cẩn thận trước khi quyết định việc này.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Người ta nên tiếp
tục chữa trị để giữ mạng sống cho họ. Nếu người
ấy chết với trạng thái tâm giận dữ, bất an, tiêu
cực hay hôn mê thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc đầu thai và sẽ gặp bất lợi cho đời sống
tương lai của họ. Tuy nhiên, nếu cho họ uống
thuốc để rút ngắn mạng sống thì cũng không
thích hợp.
Hỏi: Ðôi khi họ muốn được chết thì sao?
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Họ muốn chết trước
thời hạn, bởi vì họ không chịu đựng nổi sự đau
đớn ngay trong đời này. Nhưng họ đâu biết rằng
nỗi khổ đau ấy họ vẫn phải đối mặt trong đời
sau, vì thế, tốt hơn hết nên giúp họ điều trị.
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Sử dụng
máy móc để kéo dài mạng sống của một người
không còn cơ may lành bệnh là điều vô lý và hãi
46
hùng. Tốt hơn cứ để cho họ chết một cách tự
nhiên trong bầu không khí yên bình. Khi sử dụng
máy móc mà không có hy vọng hồi phục cho
người bệnh thì việc chấm dứt điều trị bằng máy
không phải là tội ác. Rõ ràng không cần thiết để
kéo dài sự sống nhân tạo cho họ. Theo cách nhìn
của nhà Phật, thì chúng ta nên làm bất cứ điều gì
có thể để trợ giúp cho người ấy đối phó với sự
xuống tinh thần trong giờ phút đau đớn và sợ hãi,
đem lại cho họ niềm bình an vào phút cuối của
cuộc đời.
06
HIẾN TẶNG THỂ XÁC CÓ TỐT KHÔNG?
---o0o---
Hỏi: Ở phương Tây, hiến tặng những bộ phận
trong cơ thể người vừa chết là việc bình thường,
như hiến tặng cặp mắt, quả thận để cho người
khác, việc làm này có ảnh hưởng hay làm trở
ngại gì cho thần thức của người chết không?
47
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc hiến
tặng thi thể là một điều tốt, bởi vì nó phát khởi từ
động cơ làm lợi lạc cho người khác với lòng bi
mẫn chân thật. Và một khi nó là ước nguyện cuối
cùng của người chết thì tuyệt nhiên không có ảnh
hưởng hoặc có hại gì cho thần thức của họ khi họ
rời bỏ thể xác. Trái lại, việc làm tích cực này sẽ
góp phần tạo thiện nghiệp cho người ấy trong đời
sống vị lai.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Nếu một
người muốn hiến tặng thi thể của họ thì nên lấy
những bộ phận cần thiết ấy sau khi người đó
chết. Ðiều này không có gì ảnh hưởng đến tiến
trình thần thức thoát xác và tái sinh của họ.
Hỏi: Có nhiều trường hợp nếu các bộ phận của
thi thể được lấy đi mà thần thức của họ chưa rời
khỏi thể xác thì sao?
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Ðiều này
tùy thuộc vào lòng bi mẫn và ước nguyện của
người chết. Nếu người ấy đã từng bày tỏ nguyện
vọng bố thí lớn lao đó một cách chân thành, thì
có thể lấy đi những bộ phận cần thiết ngay cả
48
trước khi tim ngừng đập, cũng không có hại gì
cho thần thức.
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Như tôi đã
nói trên, thần thức sẽ rời khỏi thể xác khi ta đụng
chạm đến thi hài của họ, chẳng hạn như ta kích
thích vào vùng đỉnh đầu để chỉ dẫn cho thần thức
thoát ra. Một khi thần thức đã ra rồi thì bạn có
thể lấy đi những thân phần cần thiết. Do đó, nên
lưu ý giúp người chết làm phép chuyển di thần
thức trước khi lấy những thân phần của họ.
Hỏi: Còn phương pháp đông lạnh (Cryonics)
thi hài sau khi chết thì sao ?
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Việc ấy
hoàn toàn vô nghĩa, không đem lại một lợi ích
nào. Thần thức người ấy không thể quay lại thi
thể một khi người ấy đã chết thật sự.
---o0o---
07
LÀM GÌ ÐỂ CHUẨN BỊ CHO CÁI CHẾT?
---o0o---
49
Hỏi: Có phương pháp nào tốt nhất để chuẩn bị
cho cái chết của mình không?
Ðại sư Dilgo Khyentse Rinpoche: Phương
pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết của mỗi
người là nên tu tập tâm linh trong suốt cuộc đời
mình.
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Một lần nữa
tôi phải đề cập đến hai hạng người, thứ nhất là
tín đồ theo đạo Phật, thứ hai là những người
không có đạo.
Ðối với hạng người thứ nhất đã từng quy y và
tu học theo Chánh pháp, khi họ biết rằng cái chết
đang đến với họ thì đó là thời gian giúp họ tinh
tấn hơn trong việc tu tập của mình.
Ðối với hạng người thứ hai, chưa hề nghĩ gì về
con đường đạo trong cuộc đời họ, nên khuyên họ
cố gắng phát khởi tâm đạo, tâm đạo ở đây nghĩa
là suy nghĩ về điều tốt, nghĩ và cầu mong điều tốt
đến với người khác. Ðây là cách tốt nhất dành
cho những người không có đạo chuẩn bị cái
chết.
50
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Giống như
ta đi đến một nha sĩ, đó là điều không ai tránh
khỏi, việc cuối cùng cũng phải xảy ra, chết cũng
thế, vì vậy có gì tốt đẹp bằng nếu ta bắt đầu suy
nghĩ về nó ngay bây giờ. Ð? biết rõ về cái chết ta
nên hỏi các bậc thầy của mình, những người có
kiến thức về cái chết, các ngài sẽ cho chúng ta
biết con người sẽ chết như thế nào. Nếu ta có
những hiểu biết như thế, ta thật sự không sợ chết
và nó sẽ giúp đỡ ta rất nhiều.
Ðại sư Geshe Lamrimpa: Nếu một người đang
chuẩn bị một nơi tái sinh hạnh phúc thì sẽ loại bỏ
tham sân si và tịnh hóa mười ác nghiệp nếu đã
phạm phải trong quá khứ, bày tỏ sự hối tiếc và
lập nguyện không vi phạm giới pháp trong tương
lai. Ðây là lời dạy chung cho tất cả mọi chúng
sinh. Ðối với một người đã thọ giới để tu hay
một hành giả Mật giáo, họ phải sám hối và tịnh
hóa tất cả giới luật và lời phát nguyện mà họ đã
phá bỏ.
Mặt khác, nếu muốn đời sau giàu sang thì phải
thực hành pháp bố thí, muốn được hạnh phúc thì
phải giữ giới hạnh, muốn được trường thọ nên
tránh sát sinh, muốn được ngưỡng mộ và tôn
51
kính phải tu pháp nhẫn nhục. Muốn giải thoát thì
tu tập sáu hạnh của Bồ Tát, v.v... Nói chung, nếu
chúng ta loại bỏ hết ác nghiệp, tịnh hóa hết tất cả
nghiệp chướng và hướng đến hành vi công đức,
tạo cho ta có một sức mạnh hỷ lạc về nội tâm.
Khi cái chết đến với ta, chính năng lực công đức
và giới hạnh ấy sẽ tiếp sức cho ta đi tới một đời
sống khác an toàn và hạnh phúc. Ðó là cách tốt
nhất để chuẩn bị cho cái chết của mọi người.
Hỏi: Ở trong Phật giáo có một vài phương
pháp thiền quán niệm về cái chết và kể lại tiến
trình chết. Loại thiền này có lợi ích gì không ?
Theo triết học của Phật giáo, phương pháp
thiền quán tưởng về cái chết là nhắm vào mục
đích để ta ý thức được cuộc đời là vô thường và
ta sẽ trở nên quen thuộc với những diễn biến
khác nhau về cái chết mà con người sẽ phải đi
qua. Ðiều đó rất có ích. Trong pháp tu này, hành
giả biết rõ những dấu hiệu xảy ra trong tiến trình
đưa đến cái chết như sự suy yếu của sáu giác
quan, và sự tan rã dần của thân tứ đại... Rồi tiếp
đó, ta cũng nhận ra rằng khi ta tái sinh vì sự hỗn
hợp giữa tinh cha, huyết mẹ và thần thức của ta;
một lần nữa, ta lại thấy cái chết đến với ba thứ
52
này, tiến trình sinh tử này không dứt cho đến khi
ta giác ngộ. Theo triết học Phật giáo Tây Tạng
thì luyện tập quán tưởng về cái chết là một pháp
tu rất quan trọng.
***
CHỦ NGHĨA VỊ THA
LÀ TRÁI TIM CỦA PHẬT GIÁO
Hỏi: Ở phương Tây, nhờ Phật giáo mà trong
những năm gần đây có sự phát triển rất nhanh về
phong trào thiết lập những Tiếp Dẫn Ðường để
chăm sóc cho những người sắp lâm chung. Các
ngài có nghĩ rằng chúng ta có thể đem lại lợi lạc
cho người chết không?
Ðại sư Garje Khamtul Rinpoche: Tôi cho rằng
phong trào này rất tốt bởi vì người phục vụ và
người được chăm sóc đều biết rõ mình cuối cùng
cũng đi đến cái chết, do đó khi còn sống trên đời
này họ cố gắng làm mọi điều tốt đẹp và nhất là
giúp đỡ những người sắp lâm chung. Giống như
khi bạn đi máy bay, biết rằng bạn đang ở trên
không trung và có cảm giác sợ hãi. Nhưng khi
53
bạn thấy xung quanh có đủ tất cả những tiện nghi
để giúp đỡ bạn thì bạn cảm thấy như mình đang
ở nhà, bạn cảm thấy hạnh phúc về điều đó. Tóm
lại, tôi thấy rằng các Tiếp Dẫn Ðuờng ở phương
Tây rất tốt, vì nó giúp cho người sắp lâm chung
cảm thấy an toàn, tự tin và không sợ hãi nữa.
Ðại sư Kirti Tsenshab Rinpoche: Ý tưởng
thành lập các dưỡng Ðường Tiếp Dẫn cho người
sắp lâm chung là biểu trưng cho lòng bi mẫn vô
biên của chúng ta đối với người sắp chết. Ðây là
một phong trào rất tốt mà tôi cho rằng phát triển
nhiều Trung tâm thêm chừng nào tốt chừng ấy. Ở
phương Tây xưa nay không quan tâm đến vấn đề
tu tập tâm linh, nên người sắp chết rất cần sự
nâng đỡ về tinh thần ở cuối đời, điều này giúp
cho họ có một sức mạnh nội tâm để vượt qua nỗi
hãi hùng của cái chết.
Cuối cùng, trái tim của Phật giáo là lòng vị tha,
nghĩ đến người khác và giúp đỡ cho họ. Chúng ta
phải nỗ lực nhiều hơn nữa để có thể đem lại sự
an ủi, nâng đỡ tinh th?n cho họ mà xã hội đã một
thời bỏ rơi và thiếu quan tâm.
54
Từ đáy lòng mình, tôi muốn nói lời cảm ơn
Thầy (người thực hiện cuộc phỏng vấn này) rất
nhiều và tôi phải nói rằng Thầy đừng nghĩ rằng
mình đang đơn độc với trong công việc này. Vì
tất cả những gì mà Thầy đang làm hiện nay là đại
diện cho một đường hướng hoạt động của Phật
giáo trong thời hiện đại. Chư Phật, Bồ tát và các
vị Thiên thần Hộ pháp luôn ủng hộ và luôn ở
phía Thầy.
---o0o---
08
DƯỚI ÁNH SÁNG CỦA CÁI CHẾT
---o0o---
Rich Fields, một nhà thơ, nhà văn, đệ t? của
Hòa thượng Chogyam Trungpa Rinpoche và
nhiều bậc thầy nổi tiếng người Tây Tạng, ông
được ghi nhận là mắc bệnh ung thư phổi từ năm
1995. Hiện nay ông đang giữ chức Tổng biên tập
tạp chí Yoga và Phó tổng biên tập nguyệt san
Phật giáo Tricyle (xuất bản tại Hoa Kỳ). Ông
55
đang cư ngụ tại Fairfax, bang California với
người điều dưỡng là bà Marcia Cohen. Ông là
tác giả của nhiều quyển sách Phật giáo có giá trị
như "Làm sao những con thiên nga đến được bờ
hồ, Lịch sử Phật giáo nước Mỹ...". Cuộc phỏng
vấn này do đạo hữu Helen Tworkov (Tổng biên
tập tờ Tricyle) thực hiện vào tháng 5 năm 1997
để tìm hiểu quan điểm về cái chết của ông.
Tricycle: Lần đầu tiên khi biết mình ung thư,
ông đã làm gì ?
Fields: Vào tối hôm ấy, một vị Lama cho tôi
một lời dạy của Ðức Phật Dược Sư (Medicine
Buddha) và tôi cảm thấy an ủi. Tôi xem căn bệnh
nan y này là một cơ hội tốt để tôi trả nghiệp. Ðó
là một trong những Bồ tát hạnh mà bạn phải thực
hành. Quan điểm này rất khác biệt so với quan
điểm của phương Tây. Quan điểm của Bồ tát làm
đảo lộn hết mọi thứ xung quanh nó. Ðây là một
pháp môn luyện tập của Kim Cương thừa, chấp
nhận bất cứ mọi hoàn cảnh khó khăn nào và phải
đưa nó vào con đường tu tập, không cứ là hoàn
cảnh tốt mà bất cứ một tình huống nào cũng biến
nó trở thành phương tiện để tu luyện. Bạn có thể
mong rằng "chứng bệnh này giúp tôi mang lấy
56
hết bệnh của tất cả chúng sinh, nhận lấy hết đau
đớn của chúng sinh, để cho họ hết bệnh và hết
đau đớn". Bằng cách này, bạn tấn công vào "bản
ngã tự thương xót lấy mình" và nhiều vấn đề cơ
bản khác phát sinh khi chúng ta mắc bệnh, chẳng
hạn như chúng ta tự hỏi "tại sao tôi... ?".
Tricycle: Các bậc thầy của ông đã nói gì ?
Fields: Câu nói đầu tiên của họ luôn luôn là:
"Mọi người đều phải chết. Chết là một sự thật".
Hoặc "Chúng ta có thể điều trị bệnh này và con
sẽ khỏi thôi". Hay "Ồ, con chờ đợi cái gì nào?
Có sanh ắt phải có tử". Rồi một ý kiến khác
"Con may mắn vì nó là một cơ hội tốt cho việc tu
luyện của con".
Tricycle: May mắn, bởi vì ông là một hành giả
tu luyện?
Fields: May mắn là vì có thời gian để chuẩn bị
mọi thứ, dù bạn là một hành giả hoặc không.
Quan điểm thông thường ở phương Tây là "Ồ,
may mắn là vì họ đã chết trong lúc ngủ hay chết
vì cơn đau tim hoặc chết đột ngột". Tuy nhiên,
bệnh ung thư là đặc biệt tốt cho bạn, bởi vì bạn
có đủ thời gian để tiên liệu mọi việc và giải quyết
57
nó. Về việc tu tập thì theo lời dạy của thầy
Trungpa Rinpoche rằng: "Chết là sự thật, nó đến
mà không báo trước. Thân này sẽ trở thành một
xác chết". Chết chỉ là một phần trong đời sống
của chúng ta. Nền văn hóa của phương Tây giúp
đỡ chúng ta phớt lờ với cái chết, nhưng phương
Ðông thì phải nhìn thẳng vào cái chết, từ một
quan điểm ấy, một căn bệnh ở vào giai đoạn chót
rất có thể hữu ích cho việc tu tập tâm linh.
Tricycle: Những ý kiến "nó tốt cho việc tu tập
của bạn" có quấy rầy ông không?
Fields: Ở những trung tâm tu học điều đó
thường được xem là chuyện đùa. Ðối với một
người chưa có kinh nghiệm thì điều đó thật phiền
hà, họ lập tức phản kháng, đầu hàng hay chấp
nhận. Còn đối với tôi thì không.
Tricycle: Ông quan tâm đến việc tiên đoán sự
phát triển của căn bệnh không?
Fields: Không, quan điểm của tôi là "Tôi sẽ
sống cho đến lúc chết", một việc mà tất cả mọi
người đều có thể làm. Tôi không hiểu hết giá trị
của những câu nói mà mọi người thường nói
rằng: "Anh còn bốn tháng nữa để sống". Và tôi
58
không muốn tạo ra bất cứ một gánh nặng nào cho
ai. Tôi không bao giờ quan tâm đến những lời
nói may mắn.
Tricycle: Ông sẽ chọn giải pháp nào giữa việc
chấp nhận cái chết và cố gắng điều trị căn bệnh
ở đoạn cuối?
Fields: Chúng ta có quyền chọn lựa sao? Cuối
cùng tất cả chúng ta đều phải chết. Chết là sự
thật, nó đến mà không cần báo trước, và thân này
sẽ trở thành cái xác. Phật giáo luôn luôn kiên
định về vấn đề này. Những bác sĩ đầu tiên nói
với tôi rằng số lượng thống kê bệnh ung thư phổi
giống như tôi đều không có cơ may chữa khỏi.
Tôi đã từng nói với các bác sĩ, tôi không quan
tâm đến việc nghe họ. Tôi sẽ sống cho đến khi
tôi chết dù bốn tháng hay năm năm. Các bác sĩ
cũng như thế, họ cũng sống cho đến lúc chết.
Ông ta biết khi nào tôi chết nhưng ông ta thì
không biết khi nào đến lượt mình. Nếu tôi chống
lại cái chết, có thể tôi sẽ chết sớm hơn.
Tricycle: Khi ông chống lại bệnh ung thư, nó
có trở nên là một cái gì đó phân ly giữa nó và
ông không?
59
Fields: Trước hết, tôi cảm thấy nó giống như
một cái gì đó đã tấn công tôi. Dĩ nhiên, các tế
bào tôi đã bảo vệ tôi. Những phản ứng đầu tiên
của tôi là xác định mình là một chiến binh đầy
sức mạnh. Tôi phải chiến đấu. Sau đó, có một lần
chữa bằng hóa trị, tôi dùng Mật Chú và quán
niệm thần Phẫn nộ để tiêu diệt các tế bào ung thư
trong thời gian hóa trị.
Tricycle: Việc công phu tu tập của ông có thay
đổi khi ông được chẩn đoán không?
Fields: Công việc tu tập của tôi càng trở nên
tích cực. Tôi thấy có kết quả rõ ràng hơn trong
một thời gian ngắn so với những thành tựu thiền
định mà tôi phải bỏ ra trong một thời gian dài
như trước đây.
Tricycle: Ông có bắt đầu dành nhiều thời gian
cho công phu buổi sáng không?
Fields: Có, tôi vẫn công phu như mỗi ngày.
Tôi cảm thấy không có vấn đề là tôi ngồi bao lâu
hoặc có liên hệ đến chỗ ngồi. Việc hành trì của
tôi vẫn không thay đổi.
60
Tricycle: Nó có ảnh hưởng đến cách cư xử của
ông không?
Fields: Có thể. Tuy nhiên tôi vẫn có những thói
quen thông thường. Tôi vẫn làm việc như mọi
ngày, vẫn giữ các mối quan hệ, vẫn viết bài và
vẫn sống. Ðôi khi tôi nghĩ mình nên gia nhập vào
một trại tu dưỡng và tôi nỗ lực tu tập để đắc đạo
trước khi chết (cười lớn). Nhưng đồng thời tôi
thích chờ đợi từng phút giây, bình an và chiến
đấu để sống một cách trọn vẹn, và đó là những gì
mà tôi chọn.
Tricycle: Ông có tự thương hại mình không?
Fields: Tôi nghĩ tự thương hại mình là đi cùng
với bản ngã. Khi điều này xảy ra lần đầu tiên, nó
mong muốn tất cả những nghiệp của tôi đến đậu
đúng trên chóp mũi của tôi, nhìn thẳng vào mắt
tôi, liếc nhìn tôi và tôi bắt đầu liếc nó trở lại. Ðó
là bộ mặt của một chiến binh. Sau đó, tôi được
chẩn đoán. Allen Ginsberg gọi điện và nhắc cho
tôi nhớ lời của thầy Trungpa Rinpoche đã nói với
Billy Burroughs, một người sống nhờ ghép bộ
phận gan mới. Rinpoche nói rằng: "Con sẽ sống
hoặc sẽ chết, cả hai cái đều tốt cả". Tôi không
61
muốn cái chết của tôi là một kẻ đối đầu. Chết
không phải là một kẻ thù. Chết là một phần trong
đời sống của chúng ta. Ung thư có thể xem như
là kẻ thù. Nhưng chính cái chết tự nó đến và đến
bất cứ lúc nào, nó không phải là một kẻ thù. Ðó
là cái đã được chấp nhận và đó là thế đứng của
một chiến binh. Ðối với một chiến binh, chết
không phải là kẻ thù. Khi các sĩ quan đội quân
cảm tử của Nhật Bản ra chiến trận, họ thường
được lãnh tiền thưởng cảm tử. Nếu bạn bước vào
chiến trận với sự can đảm không sợ hãi và biết
rằng cái chết có khả năng xảy ra, thì bạn sẽ chiến
đấu giỏi hơn và bạn sẽ chiến thắng! Nhiều pháp
môn tu tập của Phật giáo nói chung là nhắm vào
việc loại bỏ sự sợ hãi về cái chết, một loại sợ hãi
về tái sinh hay sợ hãi về cuộc sống của chúng ta.
Tricycle: Ông đã chẩn đoán biết mình đang
bệnh ung thư còn tôi thì không. Có sự khác biệt
nào giữa chúng ta? Có phải ông hấp hối trước
tôi? Có phải tình cảnh của ông có thức tỉnh về
cái chết trong khi tôi vẫn ở trong vòng ảo tưởng
là tôi sẽ sống mãi?
Fields: Không phải là bạn sẽ sống mãi mãi.
Nhưng sự tính toán thời gian có hơi khác biệt.
62
Tôi được nói rằng tôi đang ở trong cơn nguy cấp.
Sự lựa chọn thời gian chính xác là một vấn đề.
Nhưng tôi nói với một bác sĩ ở Stanford về ý
kiến thứ hai, tôi nói "Mọi người đều nói đây là
bệnh không thể cứu chữa được", và ông ta nói
"Có phải ai đó nói với anh là "không thể chữa
được" ở giai đoạn cuối phải không?". Và tôi trả
lời: "Không có ai đề cập đến việc đó cả". Có
nhiều căn bệnh không thể chữa được hoặc mãn
tính, nhưng có thể xoay xở và cứu vãn được ở
giai đoạn chót. Tôi đang sống với thời kỳ thay
đổi thư?ng xuyên. Hiện nay tôi đang ở trong tình
trạng thuyên giảm. Bệnh ung thư giống như một
con tê giác (Rhi-noceros) bề ngoài của nó trông
rất xấu xí, đôi mắt nhỏ, làn da sần sùi, ruồi bu
xung quanh, trông giống như một con kỳ lân
hung dữ; và đó là con tê giác hiền lành, đang
nhai cỏ trong đầm lầy, không chú ý đến bạn, bạn
cảm thấy thuyên giảm và khỏe mạnh. Nhưng vào
lúc nào đó, con tê giác nhìn quanh quẩn, chạy
như điên đến chỗ bạn... Sự khác biệt ở đây là tôi
luôn có một con tê giác ở xung quanh.
Tricycle: Ông tin điều gì sẽ xảy ra sau khi
chết?
63
Fields: Tôi không biết. Tôi nghĩ tôi cảm thấy
thoải mái với một người theo thuyết bất khả tri,
có xảy ra hoặc không xảy ra cũng vậy thôi. Và
tôi nghĩ là tôi đồng ý với những gì mà cư sĩ
Stephen Batchelor nói với mọi người có lý khi tu
tập để có một nơi tái sinh tốt, đó không phải là
kinh nghiệm của tôi. Tôi tu luyện tâm linh để có
đời sống hiện tại tốt hơn, an vui hơn... Và nếu kết
quả tu tập giúp tôi trong đời sống này thì tôi chắc
rằng nó cũng giúp tôi lúc tôi chết, vì chết là một
phần của đời sống.
Tricycle: Ông muốn an táng thi thể của mình
như thế nào?
Fields: Tôi muốn nghe ý kiến của bạn trước.
Tricycle: Tôi muốn theo phương pháp "không
táng" (sky burial) ở Nova Scotia. Ðặt thi hài trên
vùng St. Lawrence để làm thức ăn cho chim đại
bàng, quạ, chó sói và côn trùng. Dĩ nhiên điều
này bất hợp pháp, nhưng đó là sở thích của tôi.
Fields: Tôi cũng thích kiểu "không táng" này,
tuy nhiên hỏa táng (cremation) thì dường như là
một sự lựa chọn tốt hơn. Nhưng phải là hỏa táng
theo kiểu của người Ấn Ðộ, đặt thi thể lên đống
64
củi để thiêu. Ý kiến của tôi bị ảnh hưởng bởi lời
dạy của thầy Trungpa Rinpoche là không di
chuyển thể xác chỗ khác trong 3 ngày đầu, bởi vì
cần có đủ thời gian để cho thần thức rời khỏi xác
thân hoàn toàn. Lý tưởng nhất là đặt thể xác
trong chánh điện rồi đắp chiếc mền lên, để cho
mọi người nhìn thấy, chiêm nghiệm hoặc để
quán tưởng tử thi, và rồi có một buổi lễ đặc biệt
được thực hiện. Nếu có một người nào đó đến
làm phép chuyển di tâm thức thì thật là tuyệt vời.
Tôi nghĩ thật là tốt biết bao cho mọi người có
một buổi tiệc vào ngày ấy. Nói chung, một lần
nữa, tôi thích hỏa táng ngoài trời theo kiểu của
người Ấn.
Tricycle: Ông có thể khuyên điều gì cho những
người có hoàn cảnh tương tự như ông?
Fields: Tôi là nhân vật trung tâm của cuộc nói
chuyện này, mọi người có thể tìm thấy những
điều hữu ích cho bản thân mình về sự lựa chọn
phương pháp điều trị theo y học truyền thống.
Trong một số truyền thống tâm linh, có một quan
điểm cho rằng mọi việc đều xuất phát từ tâm, cho
nên mọi căn bệnh cũng phải được chữa trị từ tâm
hay bằng cách luyện tập tâm linh, tư duy tích cực
65
hoặc có niềm tin. Có người nói rằng cả thân và
tâm đều có sự ảnh hưởng lẫn nhau. Nhưng một
số người khác thì cho rằng chỉ quan tâm đến việc
điều trị bằng y khoa, kinh nghiệm của tôi là chữa
trị bằng thuốc Tây, bằng phương pháp xạ và hóa
trị, nếu điều trị đúng cách đúng lúc thì sẽ có kết
quả tốt, thậm chí có một số người chữa trị bằng
độc dược nữa. Nói chung, theo tôi nguời bệnh
phải theo dõi và kiểm tra thường xuyên căn bệnh
của mình rồi chọn lựa phương pháp điều trị. Tôi
thấy một số người đã chết vì bị hỗn loạn giữa các
lối điều trị.
Tricycle: Vai trò của người chăm sóc bệnh
như thế nào?
Fields: Tôi thấy người săn sóc gặp khó khăn
nhiều hơn người bị ung thư. Sức chịu đựng của
họ còn nhiều hơn người bệnh. Tôi may mắn có
được Marcia săn sóc. Cô ấy phát nguyện giúp đỡ
tôi trong thời gian điều trị này. Cô ấy cùng tôi đi
bác sĩ, ghi chép, hỏi han và chuẩn bị mọi thứ cho
cuộc giải phẫu phức tạp. Giúp đỡ một người
chống lại ung thư thật sự là một điều khó khăn
thử thách.
66
Tricycle: Ông có quan tâm đến việc chẩn đoán
bệnh không?
Fields: Lại đề cập đến vấn đề này một lần nữa.
Thừa là không tốt. Một trăm phần trăm là tôi sẽ
chết. Nhưng tôi sẽ sống cho đến khi tôi chết. Có
một điều tôi muốn nói ở đây là giáo pháp của đạo
Phật rất tuyệt vời ở phần đầu, phần giữa và phần
cuối, mọi người nên cầu học và tu tập trước khi
quá trễ
---o0o---
09
BẠN MUỐN "NGÀY ẤY" NHƯ THẾ NÀO?
---o0o---
"Tôi muốn được chết như một người phụ nữ mà
tôi đã từng săn sóc, đã qua đời hai tuần trước. Bà
là một người bình thường. Nhưng bà có phước
chết vào lúc tuổi già mà không bệnh hoạn, đầu
óc hoàn toàn tỉnh táo, có đầy đủ thân quyến và
Tăng Ni bên cạnh bà vào giờ phút cuối cùng.
67
Vào ba tuần lễ cuối, bà tỏ ra sáng suốt lạ lùng
giống như thể bà là một bậc thầy. Bà cung cấp
các nhu cầu cần thiết cho mọi người, một việc
mà bà vẫn luôn làm. Cuối cùng bà bày tỏ lòng
biết ơn mọi người và bà ra đi..."
Ni sư Ani Lodro
(63 tuổi, Tu viện Samye Ling ở Scotland)
"Tôi muốn chết trong trạng thái yên bình, lúc nào
thì không thành vấn đề. Tôi không biết lúc đó
như thế nào nhưng bây giờ đây tôi rất an lạc. Hy
vọng rằng tôi sẽ an lạc khi cái chết đến với tôi".
Thích Giác Hạnh (Làng Hồng, Pháp quốc)
"Cháu không muốn chết. Nhưng cháu đoán là
mình sẽ sống lâu như cháu mong muốn".
Bé Nandita
(10 tuổi, ở Santafe, New Mexico, Hoa Kỳ)
68
"Tôi muốn hoàn tất mọi việc trước khi ngày ấy
đến...".
Lee Moore
(24 tuổi, ở Kent, bang Ohio, Hoa Kỳ)
"Tôi muốn chết tỉnh thức, vì thế tôi sẽ biết rằng
tôi đang chết. Tôi muốn chết trong chánh niệm
và tỉnh giác. Tôi không sợ chết".
Thượng tọa Bimal Tishya
(Tu viện Bodhi Carya, bang Calcutta, Ấn Ðộ)
"Tôi muốn chết trong tỉnh thức".
Chân Hội (Montreal, Canada)
"Tôi muốn chết một mình. Một nơi nào đó cách
biệt và giữa những hàng cây đẹp với những con
chó yêu dấu của tôi".
Gretel Ehrlich (Bang California, Hoa Kỳ)
69
"Tôi muốn chết trong hạnh phúc".
Harrison Hoblitrelle (74 tuổi, Massachusetts,
Hoa Kỳ)
"Tôi muốn chết một cách tự nhiên, ngay cả lúc
tôi bị bệnh. Tôi muốn chết trong cách chết của
con người: Máy móc của nền y học hiện đại ngày
nay kéo dài mạng sống của con người làm cho
họ không thể chết theo thời gian của họ, con
người không thể chết với phẩm cách của họ".
Thượng tọa Nakagana
(Chùa Daihizan Fumon, Ðức quốc)
---o0o---
10
CHẾT, MỘT PHÁP MÔN TU
---o0o---
Nhiều người sẽ ngạc nhiên hỏi tại sao chết
cũng là pháp tu. Theo giáo lý đạo Phật, đó là
70
pháp tu rất quan trọng. Chết xuất phát từ tính vô
thường, sự thay đổi và biến chuyển, vạn vật có
sinh có tử, có hợp có tan, là trung tâm điểm của
việc tu tập Tuệ giác.
Quán niệm về cái chết không phải là một bài
luyện tập về sự bi ai, cũng không phải sự bất
hạnh của cuộc sống. Thật ra khi quán niệm về cái
chết được thực hành đúng, nó sẽ mang lại sự
bình yên biết bao. Có lẽ không có gì phải ngạc
nhiên vì hầu hết mỗi chúng ta đều bối rối khi nói
đến cái chết. Chúng ta đã không thỏa hiệp với
bản chất của cơ thể và không thấy cái chết là quá
trình tự nhiên. Vì vậy chúng ta có những phản
ứng buồn cười, đùa cợt quá mức, lẫn tránh hay bi
lụy. Quán niệm về cái chết có thể mang lại cho
chúng ta sự cân bằng.
Trong Kinh Sattipatana đức Phật có dạy nhiều
phương pháp quán niệm, trong đó có pháp quán
niệm về nghĩa địa (cemetery contemplation). Vào
thời đức Phật còn tại thế, các hành giả đi đến các
nghĩa địa và đôi khi họ sống ở đó trong một thời
gian dài. Các tử thi không được chôn cất hay hỏa
táng mà vứt bỏ tại nghĩa trang làm thức ăn cho
những con kên kên và những con thú ăn thịt
71
khác. Vì thế, các hành giả phải quan sát thi thể
con người qua những giai đoạn hôi hám, sình
ươn, mục rữa... Vấn đề chính mà hành giả phải
thấy là dù thân thể này của ai đi nữa thì cũng
phải chịu cùng một quy luật sinh diệt.
Hiện nay, pháp tu quán niệm về nghĩa trang
này vẫn còn áp dụng ở các tự viện trong rừng sâu
tại châu Á. Ðạo Phật cho rằng, nay ta còn trẻ áp
dụng pháp tu này sẽ giúp ta vượt qua nỗi sợ hãi
về cái chết.
Quán niệm về cái chết là tu tập về Tuệ giác. Trí
tuệ này có thể nhìn thấy rõ bản chất như thật của
sự vật. Bạn có thể thấy rằng quán niệm về cái
chết sẽ khiến cho bạn mạnh mẽ, giúp bạn vượt
qua những khó khăn trong tu tập, chẳng hạn như
cảm giác bồn chồn, buồn ngủ hay đau đớn. Như
chính trường hợp của người viết, khi tôi thấy
mình buồn ngủ trong lúc tọa thiền thì tôi nghĩ
ngay đến cái chết của chính mình, nó lập tức
đánh thức tôi. Hay lúc tôi khó chịu, cau có hoặc
thả hồn đâu đâu, thì tôi cũng nghĩ về cái chết của
chính tôi. Rất ít điều cản trở khi bạn chiếu ánh
sáng của cái chết lên nó. Hãy xem cái chết như
một người cố vấn của bạn.
72
Trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada), chứa
đựng nhiều lời dạy độc đáo của Phật, rằng con
người sẽ không đánh nhau hay tranh cãi khi họ
biết rõ rằng tất cả đều sẽ chết. Khi quán về cái
chết chúng ta cũng đang bày tỏ lòng từ bi với kẻ
thù. Chúng ta thấy rằng chúng ta cùng là đồng sự
với nhau. Tâm chúng ta sẽ mềm đi khi ta nhận ra
tất cả mọi người đều có chung một số phận:
chết.
Có nhiều lợi ích khác khi chúng ta thực hành
pháp quán niệm về cái chết. Hiện tại bạn đang
bận rộn làm mọi việc, dành nhiều thời giờ để ăn
và ngủ. Chỉ một lời thỉnh cầu ở đây là bạn hãy
suy gẫm về cái chết, điều đó có thể giúp bạn
đánh giá năng lượng các bạn đã tiêu phí. Một khi
bạn biết rằng không có sự vĩnh cửu (forever) thì
có lẽ bạn sẽ thay đổi tích cực và dành nhiều thời
gian để tu tập.
---o0o---
11
THỰC HÀNH PHÁP QUÁN VỀ CÁI CHẾT
73
---o0o---
I. Nội dung của pháp quán :
Cái chết không thể tránh khỏi.
1. Mọi người đều phải chết.
2. Tuổi thọ của ta đang giảm xuống theo thời
gian.
3. Thời gian dùng để tu tập trong đời ta rất ngắn
ngủi.
Không thể biết khi nào ta chết.
4. Tuổi thọ con người không chắc chắn.
5. Có nhiều nguyên nhân đưa đến cái chết.
6. Cơ thể con người quá mong manh.
Thực tế chỉ có tu tập mới có thể giúp chúng ta
lúc chết.
7. Tài sản và thú vui không thể giúp ta.
8. Người thân của ta cũng không thể giúp ta.
9. Chính cơ thể của ta cũng không thể giúp ta.
II. Quán niệm như thế nào ?
Nhiều hành giả đang tu pháp thiền quán niệm
(Vipassana) có thể chưa bao giờ niệm về cái
chết, vì pháp thiền này nhấn mạnh trực tiếp đến
những gì đang xảy ra ở thời điểm hiện tại. Khi
74
hành thiền quán niệm bạn không được khuyến
khích tư duy. Tuy nhiên trong thiền quán niệm
về cái chết bạn phải sử dụng tiến trình tư duy
một cách sáng tạo để tạo ra một trợ thủ cho việc
phát triển Tuệ giác.
Thật hữu ích khi bắt đầu pháp quán này bằng
cách chú tâm vào hơi thở hay tận dụng những kỹ
thuật khác để làm tâm bạn an tịnh. Mỗi ngày bạn
có thể luyện tập 20 phút. Trước hết là tìm cách
tĩnh tâm. Chọn một trong những đối tượng niệm
để quán tưởng và đi sâu vào đó. Khi chấm dứt
quán niệm ở phần này bạn lướt qua phần khác
(xem lại trong bản nội dung ở trên).
Cụ thể bạn quán tưởng như sau: Bạn chọn ý
tưởng và nói: "Mọi người đều phải chết". Rồi
bạn đem ý tưởng đó vào trong suy tưởng và quán
niệm nó. Ðây là lúc việc thực hành trở nên rất
sáng tạo. Mỗi người đều có thể thực tập theo
cách riêng của mình. Bạn có thể quán tưởng
chính bản thân mình hay một người bạn của
mình đang hấp hối, hay quán tưởng những nấm
mồ của người thân trong nghĩa địa, hoặc bộ
xương của chính bạn. Mức độ định tĩnh và tập
trung mà bạn có được từ quán niệm có liên quan
75
rất lớn đến chất lượng và kết quả tu tập của bạn.
Nếu bạn đã có định lực rồi, bạn sẽ trở nên rất
linh hoạt, bạn có thể chất vấn, suy niệm và ngay
cả chơi đùa với nó: cái chết.
---o0o---
12
HIẾN XÁC THEO QUAN ÐIỂM CỦA PHẬT
GIÁO
---o0o---
Việc hiến tặng các cơ quan nội tạng đối với
nhiều Phật tử là một vấn đề đầy mâu thuẫn. Một
mặt, chúng ta luôn muốn thực hành Bồ tát hạnh ở
mọi nơi có thể, vì ở Hoa Kỳ hằng ngày có chín
người hấp hối trong sự chờ đợi tuyệt vọng những
người hiến tặng. Mặt khác, theo giáo lý đạo Phật,
chỉ khi thần thức rời khỏi thể xác mới gọi là chết,
chứ không phải sau khi trút hơi thở cuối cùng, và
người ta thường tin rằng chính hoàn cảnh tử
vong lâm sàng và thời gian sau đó, trước khi thần
76
thức thoát đi, là thời điểm then chốt quyết định
sự tái sinh hoặc đầu thai của người đó. Theo
quan niệm này, tốt nhất là không được cắt xẻ thi
hài trong vòng ba ngày sau cái chết lâm sàng,
nếu không nó sẽ gây ra sự rối loạn cho tiến trình
tái sinh.
Tuy nhiên, theo y học, để cấy ghép cơ thể có
hiệu quả, những bộ phận đó trong cơ thể người
chết phải được cắt càng nhanh càng tốt sau khi
trút hơi thở sau cùng, như vậy nó có thể làm rối
loạn nghiêm trọng đến quá trình tự nhiên của ý
thức quan về dạng vô hình. Nhiều Phật tử đã phát
nguyện hiến xác theo yêu cầu không được cắt cơ
thể họ sau ba ngày, nhưng làm như vậy không
đảm bảo chất lượng cấy ghép các cơ quan nội
tạng, các mô đã hiến tặng.
Thiền sư Sheng Yen và Tangen Harada cho
rằng dù việc hiến tặng có thể làm rối loạn đến
tiến trình chuyển hóa ý thức của người hiến tặng,
nhưng nếu người ấy có tu tập và có ước nguyện
mạnh mẽ giúp đỡ người khác thì sự chi phối đến
thể xác của họ ít làm ảnh hưởng đến sự tán loạn
ở giai đoạn chuyển di thần thức.
77
Quan điểm khác thì cho rằng vì ta không biết
mình sẽ phản ứng như thế nào đối với quá trình
hiến tặng trong giai đoạn trung chuyển này, vì
vậy tốt nhất là nên tránh. Những người theo quan
niệm này thường nhấn mạnh đến khía cạnh
thương mại phiền toái của việc hiến tặng, như chi
phí cao và sự ưu tiên mang tính độc đoán trong
việc phân phối. Họ cũng cho rằng sự hấp tấp quá
mức có thể dẫn đến việc cắt đi các cơ quan trong
khi bệnh nhân đó vẫn còn có khả năng hồi sinh.
Cái chết của não (Brain death) cũng đưa ra
nhiều vấn đề khác. Phần lớn các cơ quan hiến
tặng là bệnh nhân bại não, khi cơ thể vẫn được
tiếp tục nuôi sống, gia đình và người thân đã sắp
xếp việc hiến tặng. Tuy nhiên, từ chết não cũng
không chính xác vì não cho thấy có một số còn
hoạt động ngay cả sau nhiều giờ ngừng thở. Ðến
nay, chúng ta vẫn chưa hiểu hết về mối quan hệ
giữa thần thức và chết não. Tuy nhiên, ta dễ đoán
ra rằng hoạt động của não sau khi trút hơi thở
cuối cùng có liên quan đến hoạt động của thần
thức.
Ðối với một số người, một phương pháp khác
có thể tránh được sự rối loạn trong quá trình
78
chuyển tiếp của thần thức do việc hiến tặng các
bộ phận cơ thể mà vẫn có ích cho người khác.
Sau hăm bốn giờ khi tim ngừng đập, ngoại trừ
việc cắt đi các cơ quan nội tạng người ta có thể
hiến xương và các mô sống. Mặt khác, có ba
cách nữa để trở thành người hiến tặng khi ta còn
sống và khỏe mạnh là hiến tặng máu, tủy hay
thận.
---o0o---
13
CƠ THỂ SAU KHI CHẾT
---o0o---
Phương thức chăm sóc thi hài người chết tùy
thuộc theo tập tục và truyền thống văn hóa khác
nhau. Những đề nghị sau đây là xuất phát từ kinh
nghiệm của chị Joan Hallifax, một Phật tử, chị
săn sóc những người hấp hối tại một Tiếp Dẫn
Ðường ở Hoa Kỳ.
Ngay sau khi chết:
79
Giữ cho bầu không khí đơn sơ và yên bình
quanh người chết. Nếu có thể, tránh đụng chạm
di dời cơ thể ngay sau khi chết. Nếu cần thì phải
thật nhẹ tay.
Khi người ấy đang hấp hối thì cầu nguyện hoặc
niệm Phật tiếp dẫn. Sau khi chết, nếu thích hợp
thì hãy tụng kinh siêu độ hay tiến hành các nghi
lễ truyền thống.
Trước khi xác bắt đầu lạnh cứng :
Khoảng hai giờ sau tử thi mới lạnh cứng, bạn
có đủ thời gian để tắm và thay đồ cho người chết.
Những thành viên trong gia đình hay bạn bè có
thể làm việc này như biểu lộ hành động thân yêu
và kính trọng người chết lần sau cùng. Ta biết
rằng trước khi mất, người hấp hối có thể ói mửa,
đổ mồ hôi hay tiểu tiện. Bạn có thể tắm cơ thể
bằng khăn thấm trà thơm và một ít rượu để bịt lỗ
chân lông. Nhét bông gòn vào hậu môn, âm vật
hay bao cao su bịt dương vật để tránh các chất
bài tiết thoát ra. Răng và miệng có thể lau sạch
nhưng đừng lấy răng giả ra, vì bạn sẽ gặp khó
khăn khi lắp vào lại sau này. Những phản xạ co
giật ở cơ mặt và tứ chi cũng thường xảy ra.
80
Nên chú ý đến việc ăn mặc và xếp tư thế của tử
thi trước khi tử thi lạnh cứng. Hãy mặc đồ vải
mỏng, tránh che phủ tử thi bằng khăn trải
giường. Tử thi cần an trí ở một nơi càng thoáng
mát càng tốt. Quạt máy, máy điều hòa hay cửa sổ
mở có thể giúp cho tử thi tươi tốt.
Một số người chết còn mở mắt, một người thân
trong gia đình đến nhẹ nhàng khép mí lại hoặc
dùng băng keo dán lại. Miệng cũng có thể mở,
bạn có thể dùng một khăn quàng cột quanh đầu
để khép lại. Nơi cuối cùng còn ấm là vùng tim
hoặc một chỗ nào khác. Theo truyền thống Phật
giáo cho biết hơi ấm tụ ở đầu hoặc ở ngực, là dấu
hiệu cho biết người ấy sẽ tái sinh vào cõi lành.
Làm gì với tử thi?
Bạn thường lo lắng là giữ tử thi trong nhà
không tốt, nhưng không có gì nguy hiểm cả.
Chăm sóc tử thi giống như bạn săn sóc một
người đang sống, bạn cũng chú ý về y tế, đặc biệt
là những người chết vì bệnh dễ lây nhiễm. Cần
phải có bác sĩ ký tờ khai tử. Trước khi đến bác sĩ
xin giấy khai tử, tốt nhất nên tiếp xúc với cơ
quan mai táng, nếu bạn muốn tử thi không bị
81
quấy rầy. Nhớ cởi đồ trang sức của người chết
trước khi đưa tử thi đến nhà tang lễ, nếu muốn
thì thân nhân có thể mang lại cho người mất
trước giờ phút tẩm liệm.
Một thi thể không ướp phải chôn cất hay hỏa
táng trong vài ngày để tránh vi trùng lây lan từ
người chết vì bệnh. Cơ quan phục vụ mai táng
chỉ đòi hỏi phải ướp xác khi phải đưa tử thi ra
nước ngoài, hay đông lạnh trong vòng hai mươi
bốn đến bốn mươi tám tiếng sau khi chết. Chú ý
việc ướp xác không phải khử trùng xác. Hóa chất
dùng trong việc ướp xác là chất độc đối với
người sống.
Ðiều quan trọng nhất là hãy làm theo ý nguyện
của người chết.
---o0o---
14
MỘT LẠT MA TÂY TẠNG
TÁI SINH Ở HOA KỲ
---o0o---
82
Ngày 3/2/1993, đó là ngày đầu tiên tại thành
phố Victorville, tiểu bang California, Hoa Kỳ,
Hội Phật giáo Tây Tạng ở nước ngoài đã tổ chức
lễ thụ phong (enthronement) Lama cho một cậu
bé người Hoa, năm tuổi, tên là Simon Hen, được
xem là hậu thân của Lama Lobsang Phakpa.
Simon Hen có thể là một cậu bé năm tuổi bình
thường, nhưng các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng tin
rằng cậu chính là hậu thân của một Lama tiền bối
người Tây Tạng. Vị Lama này viên tịch tại Tây
Tạng đã hơn 50 năm qua. Hen mới được khám
phá khi cậu bé gặp vị Thượng tọa Geshe
Lobsang Tsepel, một tăng sĩ coi sóc Trung tâm
PG của người Tây Tạng ở cách San Diego 140
km. Cậu bé được cha mẹ đưa đến tham quan
phong cảnh tại tu viện này và lần đầu tiên cậu
Simon nhìn thấy Thượng tọa Tsepel, cậu liền
nói: "Tôi biết ông, ông từng là bạn tôi". Tuy
nhiên, Thượng tọa Tsepel không để ý đến những
lời "đùa giỡn" này của cậu bé. Nhưng sau đó
không lâu, vị tu sĩ này nằm mơ thấy Thầy bổn sư
Lobsang Phakpa của mình, người mất vào năm
1950. Thượng tọa Tsepel hoang mang và lo lắng,
không biết cậu bé ấy có phải là hóa thân của thầy
83
mình hay không. Thượng tọa Tsepel quyết định
viếng thăm, tìm hiểu về thân phận của cậu bé
Simon Hen, và được biết rằng cha mẹ cùng gia
đình của Simon cũng có thắc mắc tương tự, vì
cậu bé đã tỏ ra là một đứa trẻ "không bình
thường". Bà nội của Simon cho biết cậu bé đã có
những lời tiên đoán chính xác trong ba tháng vừa
qua, cậu cho biết những tai nạn sắp xảy ra, cho
biết ai là người tốt, ai là người xấu, hoặc cậu
muốn đi Ấn Ðộ để trở thành một Lama...
Ðể kiểm chứng lại các sự kiện này, Thượng tọa
Tsepel đã viết thư thỉnh cầu ý kiến của đức Dalai
Lama thứ 14 (lãnh đạo tối cao của Phật giáo Tây
Tạng) ở Ấn Ðộ. Ðức Dalai Lama nói rằng nên
theo dõi và kiểm tra lại cậu bé một thời gian rồi
sẽ quyết định. Sau một thời gian trắc nghiệm về
khả năng nhận thức của cậu bé theo một số
phương pháp truyền thống của Phật giáo Tây
Tạng, cậu Simon Hen đã được nhìn nhận đúng là
người tái sinh của một Lama Tây Tạng từng
mang pháp hiệu là Lobsang Phakpa.
Tất cả những tín đồ Phật giáo đều tin rằng có
sự đầu thai hoặc tái sinh (rebirth) sau khi con
người chết. Nhưng tín đồ Phật giáo Tây Tạng tin
84
tưởng một cách mãnh liệt rằng những vị lãnh đạo
tôn giáo cao cấp của họ sẽ quay trở lại với một
dáng hình khác để tiếp tục công việc hoằng pháp
lợi sanh.
Việc chọn lọc những người tái sinh và quyết
định phong chức Lama ít khi được xảy ra ở nước
ngoài, (trước năm 1959 tổ chức ở Tây Tạng, sau
năm này các lễ nghi quan trọng như thế được tổ
chức ở Ấn Ðộ). Nhưng đây là lần đầu tiên một
cậu bé Lama được tìm thấy và chính thức được
thụ phong trên nước Mỹ.
---o0o---
15
MỘT THẾ HỆ MỚI CỦA LAMA TÂY
TẠNG
---o0o---
Chết không phải là hết, mà chỉ là một sự thay
đổi về hình hài, dòng tâm thức vẫn lưu chuyển
cho đến khi con người ấy đạt đạo. Ðặc biệt theo
truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, các vị Cao
85
tăng sau khi viên tịch thường chọn phương pháp
tái sinh (Reincarnation) vào một cảnh giới khác
để tiếp tục tu tập hoặc tái sinh trở lại kiếp người
trong những điều kiện thuận lợi hơn để hoàn tất
hạnh nguyện độ sinh mà họ còn dở dang ở kiếp
trước.
Trong bài này chúng tôi sẽ giới thiệu bốn vị
Lama tái sinh Tây Tạng nổi tiếng ở thế kỷ 20 đã
viên tịch đầu thập niên 80 và tái sinh trở lại kiếp
người. Hiện tại các "hài đồng Lama" này đang tu
học tại các Phật học viện Tây Tạng ở miền Nam
nước Ấn Ðộ. Ðại đức Roger Kunsang, phóng
viên tạp chí Mandala, USA, đã viếng thăm các vị
để thực hiện một cuốn băng video về sinh hoạt
hằng ngày của các vị Lama tý hon này.
Ling Rinpoche
Lama Ling Rinpoche năm nay 10 tuổi, hiện
đang tu học tại Phật học viện Drelung, là hậu
thân của cố Ðại sư Kyabje Ling Rinpoche (1903-
1993), từng là Viện trưởng Ðại học Phật giáo
Gander, thầy dạy học cao cấp của đức Dalai
Lama thứ 14 và nhiều Lama nổi tiếng khác. Từ
năm 1986 đến những năm cuối đời, ngài được
86
cung thỉnh sang châu AÂu và châu Mỹ để truyền
giới pháp cho người Tây phương tu học.
Roger:Kính chào, chú khỏe không?
Ling: Cảm ơn, tôi khỏe.
Roger: Xin hỏi, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
Ling: Mười tuổi.
Roger: Uớc mơ lớn nhất của chú là gì?
Ling: Uớc mơ lớn nhất của tôi là mong ước một
nền hòa bình thực sự trên hành tinh này.
Roger: Còn hạnh phúc dành cho riêng chú?
Ling: Dành cho mọi người.
Roger: Làm sao chú có thể đạt được ước mơ
đó?
Ling: Cầu nguyện, thiền định và học hành.
Không phải một người mà tất cả mọi người.
Roger: Chú sẽ hóa độ cho mọi người chứ?
Ling: Sẽ làm tất cả với khả năng của mình.
Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?
87
Ling: Khi việc học và tu của tôi hoàn tất.
Roger: Sẽ phải mất bao lâu?
Ling: Tôi không biết, nhưng tôi phải hoàn tất.
Roger: Theo chú, thiền định cần thực hành như
thế nào?
Ling: Thiền à? Bạn nên quán tưởng đến đức Phật
hoặc tập trung vào một đề mục nào đó để tâm
bạn được yên tịnh. Làm sao cho tâm bạn không
dao động là cốt lõi của thiền.
Roger: Chú có lời khuyên nào cho các đệ tử
(của vị tiền thân) trên thế giới?
Ling: Hãy nỗ lực tu học, kiên nhẫn và không nên
ích kỷ.
Trijang Rinpoche
Năm nay ngài 14 tuổi, hiện đang tu học tại Phật
học viện Gander (ở Nam Ấn Ðộ), được xem là
hóa thân của cố Ðại sư Kyabje Trijang Rinpoche
(1904 - 1981), là thầy dạy học trung cấp của đức
Dalai Lama thứ 14.
88
Roger: Kính chào chú, chú có khỏe không?
Trijang: Khỏe, cảm ơn.
Roger: Chú có nhớ gì về kiếp trước không?
Trijang: Không, hiện tại tôi đang ôn lại những gì
mà tôi từng biết.
Roger: Chú học thuộc lòng có dễ không?
Trijang: Dễ.
Roger: Thời khóa biểu sinh hoạt của chú một
ngày như thế nào?
Trijang: Tôi thức dậy vào lúc 5 giờ 30, tôi đi
đảnh lễ bảo tháp vị tiền nhiệm. Sau đó tôi có một
thời kinh sáng, rồi dùng điểm tâm. Từ 7g30 đến
9g tôi đọc kinh. Sau đó tôi nghỉ và chơi khoảng
nửa giờ. Từ 9g30 đến 10g30 tôi ôn lại các bộ
kinh mà tôi từng thuộc trước đây. Từ 10g30 tôi
học văn phạm Tạng ngữ; 11g tôi thọ trai, 11g30
tôi tập viết. Từ 1g đến 2g30 tôi nghỉ trưa. Thức
dậy tôi uống trà rồi bắt đầu với lớp học tranh
luận đến 5g. Sau đó là giờ tiểu thực; 6g tôi học
giáo lý với thầy Khensur Lati Rinpoche; 8g tôi
tranh luận với các bạn cùng lớp và 9g đến 11g tôi
tiếp tục học thuộc lòng kinh. Sau đó tôi đi ngủ.
89
Zong Rinpoche
Mười tuổi, hiện đang tu học tại Phật học viện
Gander, là hậu thân của cố Ðại sư Kyabje Zong
Rinpoche (1905-1983), ngài từng là Viện trưởng
Ðại học Gander nổi tiếng ở Tây Tạng (từ năm
1959, trường này được dời sang Ấn Ðộ), được
xem là một người có nhiều pháp thuật trong giới
Lama Tây Tạng. Từ năm 1978 đến 1980, ngài
thường đến phương Tây để thuyết giảng, hàng
ngàn tín đồ tại Ấn Ðộ và các nước ở phương Tây
đã tìm thấy sự an lạc và hạnh phúc từ lời dạy của
ngài.
Roger: Kính chào chú.
Zong: Xin chào!
Roger: Hôm nay là ngày nghỉ của chú?
Zong: Vâng.
Roger: Chú đang làm gì?
Zong: Tôi đang chơi.
Roger: Còn ngày mai?
Zong: Ngày mai thứ hai, cũng là ngày nghỉ của
tôi.
90
Roger: Buổi sáng, bình thường chú làm gì?
Zong: Tôi thức dậy vào lúc 6 giờ. Tôi tụng kinh
đến 8g, rồi ăn sáng và nghỉ đến 9g. Sau đó tôi
học giáo lý.
Roger: Hiện nay chú đang học giáo lý gì vậy?
Zong: Tôi đang học đến chương hai cuốn "Con
đường hướng đến Trung đạo".
Roger: Chương thứ nhất là gì?
Zong: Gander Lha Gyema.
Roger: Buổi sáng, học xong chú làm gì?
Zong: Tôi nghỉ trưa và chơi đến 15 giờ. Sau đó
tôi học đến 17 giờ. Học xong tôi đi tắm, ăn tối và
đi ngủ.
Roger: Chú có học tiếng Anh không?
Zong: Có chứ!
Roger: Chú có thích sang các nước phương Tây
không?
Zong: Có.
91
Roger: Chú nghĩ là chú sẽ thuyết pháp cho Phật
tử phương Tây chứ ?
Zong: Tất nhiên.
Roger: Khi nào chú mới bắt đầu?
Zong: Thầy Tenzin biết việc ấy.
Tenzin (vị thị giả của Zong Rinpoche): Chúng tôi
có dự kiến viếng thăm phương Tây vào năm tới.
Chú có thể nói một số thời pháp ngắn. Tuy
nhiên, chú thực sự sẽ làm công tác truyền giáo
sau khi tốt nghiệp Tiến sĩ.
Roger: Rinpoche, quốc gia nào chú sẽ đến
trước?
Zong: Canada và Hoa Kỳ.
Roger: Chú sẽ ở đó bao lâu?
Zong: Khoảng ba tháng.
Roger: Chú có nhắn nhủ với Phật tử phương Tây
điều gì không?
Zong: Xin đừng quên lời dạy của cố Ðại sư Zong
Rinpoche (tiền thân của chú).
Roger: Chú có thích thú vật không ?
92
Zong: Có.
Roger: Chú thích loài nào nhất ?
Zong: Rùa.
Roger: Tại sao chú lại thích rùa ?
Zong: Vì nó không bỏ chạy, nó sẽ ở lại với bạn.
Tôi đang nuôi 5 con.
Roger: Chú có biết câu chuyện nào về thú vật
không ?
Zong: Ồ rất nhiều, nhưng tôi thích nhất là câu
chuyện về chú rùa con. Chuyện kể rằng, một
hôm rùa con đến hỏi bố mẹ: "Tại sao con cứ mãi
mang cái "tòa nhà" nặng nề này trên lưng hoài
vậy?". Bố mẹ rùa nói: "Con may mắn lắm mới có
được nó, nó rất có ích khi con đi ra ngoài". Rùa
con không đồng tình với giải đáp kia nhưng chú
nghĩ mình phải nghe và chấp nhận lời dạy của bố
mẹ. Rồi một ngày nọ, rùa con gặp bạn của chú,
bạn ếch cũng thắc mắc: "Tại sao bạn phải mang
cái nhà trên lưng vậy ?". Rùa chưa kịp trả lời,
vừa lúc ấy có một người cưỡi ngựa chạy đến, ếch
cấp tốc nhảy xuống cái ao gần đó, còn rùa thì
chậm chạp nhưng chú nhanh chóng nhớ đến lời
93
dạy của bố mẹ nên chú liền thụt đầu vào "ngôi
nhà" của mình. Bạn ếch lo lắng "chắc rùa đã
chết rồi". Nhưng sau khi con ngựa chạy qua rồi,
chú rùa từ từ di động và bò đi. Chú không làm
sao cả. Chú nhớ lại lời của bố mẹ: "Này con trai,
con may mắn mới có được ngôi nhà ở trên
lưng!".
Osel Rinpoche
Mười hai tuổi, hiện đang tu học tại Phật học
viện Sera, là hậu thân của cố Ðại sư Thubten
Yeshe (1935-1984), một Pháp sư nổi tiếng Tây
Tạng, người góp sức san bằng các chướng ngại
địa dư và nối liền những phân cách văn hóa,
chủng tộc để dòng tuệ giác mặt trời đầu nguồn
Tây Tạng có thể tuôn chảy xuống vùng đất lạ
Tây phương, người đã giảng giải giáo lý tái sinh
bằng chính sự thong dong đôi bờ sinh tử và
chuẩn bị sắp xếp cho mình để có thể tái sinh như
ý và để người khác có thể nhận ra hóa thân của
mình. Bậc thầy vĩ đại ấy đã qua đời vì bệnh tim
tại bang California, Hoa Kỳ ở tuổi 49, để lại phía
sau mình một tổ chức khổng lồ. [Ông là người
sáng lập Hội Hộ Trì Phật giáo Ðại Thừa (FPMT)
và cho xuất bản tạp chí Mandala tại Hoa Kỳ,
94
hiện nay tổ chức này phát triển thêm hàng trăm
chi nhánh trên khắp thế giới]. Hai năm sau (từ
ngày mất) người ta phát hiện ra ngài trong một
dáng hình khác, đó là Osel Rinpoche, sinh ngày
12/2/1985 tại Bubion, Tây Ban Nha. Giới Phật
giáo Tây Tạng đã đưa chú bé tái sinh này trở lại
Ấn Ðộ để tiếp tục tu học.
Sau đây là thời khóa sinh hoạt hàng ngày của
Osel Rinpoche:
6g thức dậy, 6g10-7g tụng kinh, 7g-8g điểm tâm,
8g-9g học kinh, 9g-9g30 chơi, 9g30-10g30 học
tiếng Tây Ban Nha, 10g30-11g nghỉ giải lao,
11g-12g học tiếng Anh, 12g-14g thọ trai và nghỉ
trưa, 14g-16g học tiếng Anh, 16g-17g chơi,
17g30-19g học tiếng Tây Tạng, 19g-20g tiểu
thực, 20g-20g30 nghỉ, 20g30-21g học văn phạm,
21g tắm và đi ngủ.
---o0o---
16
TÁI SINH Ở PHƯƠNG TÂY
---o0o---
95
Cô Vicki Mackenzie, một ký giả người Anh,
từng là tác giả quyển sách nổi tiếng "The Boy
Lama", kể chuyện về cậu bé tái sinh người Tây
Ban Nha Tenzin Osel Rinpoche, hậu thân của cố
Ðại sư Thubten Yeshe (1935 - 1984). Ðó là một
người truyền dạy minh triết, kẻ vượt qua mọi
chướng ngại địa lý, phong tục tập quán định kiến
tôn giáo, để đánh thức khơi dậy những điều tốt
đẹp nhất đang bị chôn kín trong lòng người. Một
con người mà y học của thời đại "chim sắt" phán
quyết là phải chết nhưng vẫn sống và sống hùng
tráng như một mặt trời... Quyển sách in lần đầu
tiên vào năm 1989 bởi Nhà xuất bản Bloomsbury
(Luân Ðôn) và lập tức được dịch ra nhiều thứ
tiếng trên khắp thế giới (đến nay đã chuyển ngữ
ra mười thứ tiếng, bản dịch mới nhất là tiếng
Nhật. Bản dịch Việt ngữ "Hài đồng Lama" in
năm 1994.)
Quyển sách thứ hai của Vicki là "Tái sinh ở
phương Tây" (Reborn in the West) cũng do Nhà
xuất bản Bloomsbury ấn hành vào tháng 4 năm
1995. Quyển sách lần này viết về năm vị thầy tái
sinh người Tây phương - bốn nam và một nữ -
96
những người được thừa nhận là hậu thân của các
Lama người Tây Tạng. Quyển sách đề cập đến
một số người khác tái sinh ở phương Tây nhưng
họ không phải là Phật tử.
Adèle Hulse, phóng viên tạp chí Mandala, nói
chuyện với Vicki Mackenrie (đang cư ngụ tại
Melbourne, Australia) để biết thêm về nội dung
quyển sách này. Cô Vicki tâm sự:
"Ðiểm chính của tôi khi viết cuốn sách này là
an ủi mọi người rằng họ không bao giờ bị lãng
quên khi họ chết và sau khi chết họ còn có một
cuộc sống mới khác. Các Nhà xuất bản yêu cầu
tôi viết một cuốn sách về tái sinh, nhưng khi tìm
hiểu thì tôi thấy người ta chỉ thừa nhận việc tái
sinh xảy ra trong cộng đồng người Tây Tạng, vì
thế tôi sử dụng "tái sinh ở phương Tây" để làm
chủ đề chính ngõ hầu đánh tan sự ngộ nhận vốn
có bấy lâu nay của mọi người. Tôi cũng giới
thiệu những sự kiện tái sinh của người phương
Tây không theo Phật giáo. Tôi đã phỏng vấn tiến
sĩ Roger Woolger, một tu sĩ đạo Do Thái, người
nghiên cứu về tái sinh trong cộng đồng người Do
Thái. Tôi đã thử so sánh những kết luận của
97
người phương Tây về vấn đề này với những giáo
lý về tái sinh của Phật giáo Tây Tạng.
Ðiều kích thích tôi hơn tất cả là sự nhận ra
rằng hiện nay là thời điểm lịch sử của các bậc
thầy phương Ðông hiện thân ở phương Tây và sự
trùng khớp đầy ý nghĩa này với cuộc tranh luận
gắt gao trong giới khoa học về tâm thức và não
bộ có giống không. Dĩ nhiên các bậc thầy thì nói
rằng tâm thức là một phần độc lập đối với cơ
thể.
Tôi cũng đề cập đến vấn đề "vun trồng" Phật
giáo Tây Tạng thông qua những bậc thầy trên
mảnh đất phương Tây là một quá trình đầy khó
khăn vì phải va chạm sự cách biệt giữa các nền
văn hóa”.
---o0o---
17
TIN PHẬT TRƯỚC KHI CHẾT
---o0o---
98
"Là một người đồng tính luyến ái mắc bệnh
Aids (Sida), con có nhiều thời gian để chấp nhận
hoàn cảnh bi đát của mình. Nhưng khi nói
chuyện với Sư cô về vấn đề chết và hấp hối, con
cảm thấy mình có một nhận thức sâu sắc về cuộc
sống và chấp nhận căn bệnh quái ác này. Qua
phương pháp thiền chữa bệnh, kỹ thuật khống
chế cơn đau và nhiều lần tranh luận với Sư cô...
giờ đây con có cảm giác yên bình kỳ lạ, một cảm
giác mà chưa từng bao giờ có trong cuộc đời của
tôi. Theo cái nhìn của nhà Phật thì mỗi chúng
sinh đều bị sinh, lão, bệnh, tử chi phối, nhưng
dòng tâm thức thì vẫn lưu chuyển từ đời này
sang đời khác. Quan niệm này rất chí lý và an ủi
con..."
Trên đây là lá thư cuối cùng của Tim Sulliwan
đề ngày 26/6/94 gửi cho tôi (Sư cô T. Wongmo)
từ bang Chicago. Tim đến trung tâm tu học
Togmay Sangpo tìm kiếm sự bình ổn cho tâm
hồn vì tự biết mình sẽ chết trong vòng mấy tháng
nữa vì bệnh Aids.
Giống như một người bị ruồng bỏ, Tim dành
hết thời giờ để học Phật. Ðọc sách, bàn thảo về
Phật tánh, sự tái sinh, nhân quả, nghiệp báo... tất
99
cả đều làm cho anh say mê và nó đã tạo cho anh
một cảm giác dễ chịu. Anh là một người có từ
tâm, dù rõ ràng bị đau đớn và đối diện với cái
chết, nhưng cái đau lớn nhất của Tim là vẫn lo
lắng cho gia đình và bạn bè, những người đang
đau khổ vì căn bệnh nan y của anh. Tim tổ chức
một buổi họp mặt với số người thân này lại để tôi
có dịp giải thích về cuộc hành trình của tâm thức
đi tới kiếp sau. Vai trò hộ niệm của người thân
rất quan trọng đối với việc chuyển sanh của tâm
thức. Người thân có thể cầu nguyện, phóng sanh,
bố thí, cúng dường, hồi hướng công đức đó cho
người mạng chung thọ sanh vào cảnh giới an
lành. Bằng cách tập trung hộ niệm của quyến
thuộc và bạn bè như thế sẽ giúp cho tâm thức của
người đó tự động nâng lên. Tim và người thân
của anh ta nhận thấy ý tưởng này mới lạ và tích
cực so với những cảm giác bình thường của sự
bơ vơ và chán nản đi kèm với cái chết.
Ngay cả lúc khó chịu với cơ thể bệnh hoạn của
mình, Tim vẫn cố gắng tập thiền và niệm danh
hiệu Ðức Phật Dược Sư mỗi ngày. Ðặc biệt, vào
những ngày cuối cùng anh quá đau đớn không
làm được gì cả, tôi đến hướng dẫn cho anh
100
phương pháp thư giãn khống chế cơn đau. Tim
để cho trí não của mình đi theo sự dẫn dắt của
thiền và cuối cùng dễ dàng đi vào giấc ngủ.
Tim thành thật nói với mọi người đừng lo
buồn, rằng anh sẽ sẵn sàng đón nhận cái chết.
Tim cho thấy sự từ bỏ đó của anh đối với tiền
bạc bằng cách ban phát từ thiện. Khi Tim phàn
nàn về việc tóc rụng do liệu pháp hóa học
(chemotherapy), tôi đề nghị Tim nên cạo nó đi.
Thoạt đầu anh ta cảm thấy bồn chồn vì sợ dư
luận, nhưng sau đó anh ta cũng cạo nó và bắt đầu
mặc chiếc áo thun màu vàng cam. Vì thế chúng
tôi thường chế nhạo anh ta trông giống như một
"tu sĩ" Chicago.
Rồi thời gian trôi qua, Tim tự theo dõi khi nỗi
lo âu hiện lên trên diện mạo của mình, anh ta
cười khúc khích và nói: "đừng quyến luyến
nữa!".
Khi người nhà biết rõ Tim đang hấp hối, tôi
được mời đến nhà Tim. Tôi đến anh ta đang vật
lộn với bình ôxy và gần như không thể nói
chuyện được. Như đã hứa, tôi bắt đầu trì trú hộ
niệm và nhắc nhở anh ta nên nhiếp niệm trong
101
giờ phút căng thẳng đó. Tôi hỏi Tim có cần gì
nữa không, anh ta tháo mặt nạ ôxy ra và nói :
"Không cần gì cả, cảm ơn cô đã lo cho con". Ðó
là những lời sau cùng của Tim.
Tôi nói với Tim: "Mọi thứ đều ổn cả, con có
thể ra đi được rồi, đừng quyến luyến và sợ hãi,
thôi con có thể ra đi". Tim đáp lại những lời này
bằng cách gật đầu và ngừng thở trong yên bình.
Ðại đức Jangchup tiếp tục niệm Phật tiếp dẫn
cho Tim. Bầu không khí trong phòng yên lặng và
nghiêm trang giữa tiếng cầu kinh như để đưa lối
cho Tim ra đi.
Sau khi hỏa táng, với tro của Tim, Ðại đức
Jangchup đã tạo ra một pho tượng Chuẩn Ðề.
Tim đã có dịp tạo ra công đức của mình.
(Theo MANDALA Journal, tháng 10/1994 )
---o0o---
18
MỘT BẰNG CHỨNG SỐNG
102
VỀ THUYẾT TÁI SINH
---o0o---
Thượng tọa Thubten Zopa Rinpoche, là đồng
sáng lập viên "Hội bảo vệ truyền thống Phật giáo
Ðại thừa" (năm 1975, văn phòng trung ương đặt
tại bang California, Hoa Kỳ). Hiện tổ chức này
có gần một trăm chi nhánh trên khắp các châu
lục. Vừa qua, một tu viện tại Nepal đã cử hành lễ
"thụ phong cho một chú bé bốn tuổi mà giới Phật
giáo Tây Tạng xem đây là người tái sinh của cụ
bà Amala (mẫu thân của Thượng tọa Zopa
Rinpoche). Dưới đây là bài viết của Sư cô
Robina Courtin, đúc kết lại những gì đã nghe
thấy về cuộc "hành trình chuyển tiếp" khá lý thú
này.
"Tôi đã tìm thấy được mẹ tôi", Ngawang
Samten, chị của Thượng tọa Zopa, reo lên một
cách vui sướng khi vừa gặp lại cô Merry Colony
vào tháng 8 năm 1993, sau hai năm vắng mặt từ
ngôi làng bé nhỏ nằm trong vùng núi đá lởm
chởm thuộc vùng Khumbu, nước Nepal.
103
Cụ bà Amala, bà thân sinh của Thượng tọa
Zopa Rinpoche, được rất nhiều người biết đến,
đã qua đời vào đầu năm 1991. Merry nghĩ rằng
chắc Ngawang Samten muốn ám chỉ một điều gì
đó có liên quan đến sự tái sinh của cụ Amala.
Merry rất thân với cụ Amala và Ngawang
Samten trong dịp cô đến tu thiền trong một hang
động gần đó và thường đến thăm họ ở chùa
Lawudo. Cả hai đều là nữ tu, công việc chính của
họ là chăm sóc các hang động và ngôi chùa này.
Họ đến đây từ Thami, Tây Tạng.
"Gia đình tôi rất nghèo", Ngawang Samten nhớ
lại, "bố tôi qua đời lúc em trai tôi Sangye còn
trong bụng mẹ. Mẹ tôi suốt ngày đi chặt củi đổi
lấy gạo để nuôi cả gia đình. Bà chỉ kiếm vừa đủ
để nuôi anh em chúng tôi và bà thường lượm
những mảnh vải người ta vứt trong thùng rác để
may áo quần cho chúng tôi".
"Và bà thường đến biên giới Tây Tạng (hai
ngày đi bộ) mua muối đem về bán cho người
trong làng - Merry nói - Bà cụ là một người nhỏ
nhắn nhưng rất khỏe mạnh, bà làm mất đi nhiều
ngón tay của mình khi chặt củi. Giống như nhiều
104
người ở miền núi, bà cụ không biết chữ, bà cũng
không biết nhiều về giáo lý. Nhưng bà tin tưởng
Ðức Bồ tát Quán Thế AÂm và siêng năng thọ trì
câu thần chú : "OM MANI PADME HUM" trong
mọi lúc, mọi thời. Bà cụ rất tận tụy với các tăng
ni. Mỗi ngày bà đều chăm sóc hang động, quét
dọn, cúng dường hương đèn lên các bàn thờ".
Gần đây, Thượng tọa Zopa Rinpoche cũng cho
biết rằng: "Sau khi làm xong mọi việc trong chùa
mỗi ngày, bà cụ đều đến đảnh lễ Phật và cầu
nguyện cho tôi. Bà cụ nói là bà cụ cầu nguyện
cho tôi ba lần trong một ngày, sáng, trưa và buổi
tối".
"Mẹ cầu nguyện những gì ?", tôi hỏi bà cụ, "Bà
nói rằng bà chỉ cầu mong chư Phật gia hộ cho
tôi vượt qua mọi chướng ngại trên con đường tu
học của mình".
Vào tháng 12 năm 1990, cụ Amala muốn đi
thăm Ð?c Dalai Lama (ở Ấn Ðộ) trước khi cụ
qua đời. Già và yếu, nhưng bà vẫn cố gắng băng
núi đèo để đến Kathmandu, và rồi đến tỉnh
Sarnath (Bắc Ấn), đi cùng với bà có cậu út
Sangye và Ngawang Samten.
105
"Ðó là ngày trăng tròn tháng giêng năm 1991",
Sangye nhớ lại, "cũng là ngày cuối cùng của
khóa tu Mật tông Kalachakra. Suốt ngày hôm đó
cụ Amala, chị Ngawang và tôi đã dự lễ điểm đạo
của Ðức Dalai Lama. Sau đó chúng tôi trở lại
túp lều và cụ Amala bảo: "Mẹ muốn nghỉ ngơi,
đừng quấy rầy mẹ". Chúng tôi linh cảm có một
điều gì đó sắp xảy ra, chúng tôi ngồi quanh
giường của cụ, khoảng mấy phút sau, cụ trở
mình nghiêng bên phải và rồi mất tại đó. Khuôn
mặt bà như đang ngủ".
"Bà cụ vẫn nằm trong tư thế "kiết tường" như
vậy trong ba ngày, nét mặt đẹp hơn, sáng hơn.
Chúng tôi không chạm đến thi thể của cụ cho đến
chiều ngày thứ ba, nét mặt vẫn không thay đổi.
Chúng tôi tiến hành tang lễ và hỏa táng sau đó.
Có hơn 200 Tăng Ni và Phật tử đến dự.
Rõ ràng vào ngày cụ Amala qua đời là ngày
trăng tròn, người dân trong vùng Lawudo (ở
Nepal) nhìn thấy một con chim ưng lông trắng
bay lượn ba vòng ở trong vùng rồi sau đó bay về
hướng đông Tây Tạng. Sau này họ nói cho tôi về
điều đó, họ nói là họ rất ngạc nhiên".
106
Trên đây là toàn bộ câu chuyện mà Ngawang
đã kể cho cô Merry nghe, khi cô đến thăm
Lawudo vào tháng 8 năm 1993.
Vào đầu tháng 7 năm đó (1993), Ngawang
Samten hay tin một người bạn láng giềng của chị
là Lhakpa bị tai nạn, vì thế chị quyết định đi
thăm cô ta. Ngawang không gặp cô ta từ khi cụ
Amala qua đời. Gia đình cô dời về ở một ngôi
làng Genukpa cách chùa Lawudo khoảng mười
lăm phút đi bộ.
Ðó không phải là nơi gần với Lawudo, nên
Ngawang Samten và Lhakpa ít khi gặp nhau.
Lhakpa bị thương ở chân nhưng không nặng lắm,
cô ta rất mừng khi gặp lại Ngawang Samten.
Lhakpa có bốn đứa con, đứa nhỏ nhất là một
cậu bé được sanh sau khi cụ Amala mất vài tháng
ở Ấn Ðộ. Lhakpa bắt đầu nói với Samten về đứa
con trai út của mình. Nó là một đứa trẻ thông
minh lạ thường, cô ta nói, từ khi nó tập nói lúc 2
tuổi, chú bé thường nhắc đến chùa Lawudo, một
ngôi chùa mà chú chưa từng biết đến bao giờ. Vì
thế, điều này làm cho chị và cả gia đình rất kinh
ngạc.
107
Và khi Ngawang Samten gặp riêng chú bé, chú
dường như nhận ra chị, và chú yêu cầu chị đưa
chú đi thăm chùa Lawudo. Chú bé là một đứa trẻ
đẹp và khỏe mạnh, chú bày tỏ sự quen thuộc đối
với Lawudo - nhắc đến tên của ba con bò chẳng
hạn. Và chú tiếp tục nói là chú muốn đi đến đó:
"Ðó là nơi cháu đã từng sống", chú nói.
Ngawang Samten rất ngạc nhiên, chị bắt đầu đến
thăm chú bé thường xuyên hơn và luôn luôn tìm
thấy những điều tương tự. Chú yêu cầu chị: "Hãy
đưa cháu về Lawudo đi".
Một điều đáng chú ý hơn, là chú thường nhắc
đến Sangye, Thượng tọa Zopa Rinpoche và ngôi
tu viện Kopan của ngài, trong khi tu viện đó ở
dưới thung lũng Kathmandu. "Cháu tự hỏi không
biết khi nào Thượng tọa và Sangye sẽ đến thăm
cháu", chú nói. Ngawang Samten đi từ ngạc
nhiên này đến ngạc nhiên khác khi chú đưa ra
những thông tin mới hơn: "Con đường đi đến tu
viện Kopan rất xấu, có lẽ họ đang bận rộn sửa
sang lại nó". Rõ ràng đó là sự thật. Chú bé cũng
thường bày tỏ ý định muốn đến Kopan một
mình.
108
Một ý tưởng nảy sinh, phải chăng chú bé này là
một bằng chứng tái sinh của mẹ chị? Ý tưởng đó
đã ngự trị và trở nên rối bời trong đầu óc của
Ngawang Samten. Chị nghĩ rằng mình không thể
ngạc nhiên và bỏ qua cơ hội này; chị quyết định
trắc nghiệm chú bé.
Cuối cùng, chị đưa bé về thăm chùa Lawudo.
"Ngay khi bước vào phòng ăn", chị nhớ lại, "Chú
bé bắt đầu mô tả nhà bếp, những băng ghế, lò
sưởi; điều đáng chú ý là chú chạy lên chánh điện
và đi kinh hành mấy vòng - giống như cụ Amala
đã từng làm. Dù ở đây chú hay bị vấp và té, bởi
vì chú nhỏ quá".
Ngawang Samten cùng kiểm tra với Hòa
thượng Wangchuk, một người địa phương lừng
danh trong việc quan sát các trường hợp như thế,
và ngài đã xác nhận chú bé này đúng là người tái
sinh của cụ Amala.
Ngawang Samten cũng viết thư cho Hòa
thượng Trulshig và Thượng tọa Nyingma thuộc
tu viện Thubten Choeling ở Jumberi. Hai ngài đã
trả lời thư, chứng nhận rằng chú là một hình
dạng khác của cụ Amala và khuyên chị phải làm
109
lễ cầu an cho chú cũng như chăm sóc chú một
cách cẩn thận. Ngài Trulshig đã đặt tên cho chú
là Ngawang Jigme.
Ngawang Samten rất sung sướng. Chị quyết
định tổ chức lễ cầu an cho Ngawang Jigme, mời
tăng ni và bà con trong làng đến dự.
Trong buổi lễ ở chùa Lawudo, chú bé lại một
lần nữa làm cho mọi người phải ngạc nhiên bởi
việc đi kinh hành ba vòng trong chánh điện và
sau đó chú lễ Phật giống như cụ Amala đã làm
trước đây.
Ngawang Samten may cho chú mấy bộ đồ và
trong số đó có cả chiếc mũ len của cụ Amala.
Giật lấy chiếc mũ một cách vui mừng, chú reo
lên "đây là cái mũ của cháu", và lập tức chú
nhận ra một số nút áo cũ mà cụ Amala đã để
dành trước kia, nay được khâu vào chiếc áo ấm
mới: "Cái nút này của cháu", chú la lên một cách
sung sướng.
Sangye đã nhớ lại trong buổi lễ hôm đó mọi
người đều tặng khăn trắng Khatas cho chú, chú
đều biếu lại họ theo truyền thống như một cử chỉ
110
ban phước. Ðiều này không có ai dạy cho chú
biết trước đó.
Kể từ hôm đó, chú thường xuyên đến chùa
Lawudo, và chú tiếp tục làm cho mọi người phải
chú ý về sự hiển lộ trí nhớ của mình. Chú chỉ ra
mọi việc trong chùa, trong nhà bếp, trong hang
động. Chú biết rõ những thứ đó là gì và dùng để
làm gì. Chú cũng hỏi thăm các đồ vật thuộc về cụ
Amala mà chú không thấy ở chỗ cũ.
"Cây đèn của cháu ở đâu". Chú hỏi. Cụ Amala
gìn giữ các đồ dùng riêng trên một chiếc kệ trong
phòng ngủ của cụ: Một cái kính đeo mắt, một
bánh xe pháp luân nhỏ (dùng để cầu nguyện),
một xâu chuỗi, một cây đèn dầu...
Chú bé dường như quyết định tìm các đồ vật và
chú tỏ ra bực mình khi không tìm thấy chúng.
Cầm tay Ngawang Samten, chú chỉ về phía chiếc
kệ: "Cháu muốn lấy cây đèn của cháu về nhà,
cháu sẽ mang nó trở lại vào ngày mai".
"Chú bé rất kỳ lạ", Sangye cảm nhận, "và mọi
người gặp chú cũng đều cảm thấy như thế". Cách
cư xử của chú quá lạ lùng so với các đứa trẻ
khác. Chú hành xử và nói năng như người lớn
111
một cách tự nhiên. Về trí nhớ của chú cũng hoàn
toàn chính xác.
Vào tháng 5 năm 1994, bố mẹ của Ngawang
Jigme cảm thấy đã đến lúc đưa đứa con của họ
đến tu viện Kopan. Buổi lễ thụ phong được tổ
chức để chính thức xác nhận chú là tái sinh của
cụ Amala, một nữ tu người Tây Tạng, bởi 250
Tăng ni và Phật tử.
Cuối cùng, chú cũng đã bước vào tu viện như
là một tu sĩ thực thụ và chú sẽ được giáo dục
theo một phương pháp dành riêng cho người
được xem là tái sinh. Tu viện và các bậc cao đức
sẽ tạo cho chú có cơ hội để tiếp tục công việc tu
tập, hóa giải nghiệp lực, phát triển tâm linh và
hoằng pháp lợi sinh sau này.
Khi Ðức Dala Lama lần đầu tiên gặp chú bé tái
sinh người Tây Ban Nha, Tenxil Osel Rinpoche
(1), và Ngài đã thừa nhận chú ấy là hóa thân của
cố Lama Thubten Yeshe. Ngài nói: "Tất nhiên,
khi chú lớn hơn một chút, tự chú sẽ để lộ ra
những chứng cứ cho người ta biết chú thật sự là
ai". Và trường hợp của Ngawang Jigme ở đây
cũng tương tự như vậy.
112
Nhưng nếu bằng chứng đã có giá trị bề mặt thì
chú là một minh chứng hùng hồn nhất về công
hiệu của luật nhân quả. Ðó là suốt một quãng đời
cống hiến và tận tụy mà cụ Amala đã đặt trọng
niềm chánh tín của mình cho Chánh pháp để cuối
cùng đổi lấy một kết quả thấy rõ, đó chính là sự
"quay lại" của mình trong một dáng hình nam tử
mà trước đây cụ đã hằng mong ước.
* Ghi chú:
1. Tenzil Osel, sinh ngày 12/02/1985 tại Tây Ban
Nha, được xem là hậu thân của cố Lama
Thubten Yeshe (một pháp sư nổi tiếng của Phật
giáo Tây Tạng ở phương Tây, là thầy của
Thượng tọa Zopa Rinpoche). Hiện tại Lama
Tenzil Osel 2 tuổi đang sống và tu học ở tu viện
Sera, nước Ấn Ðộ.
---o0o---
19
ALAN MOLLOY
MỘT BÁC SĨ PHẬT TỬ NGƯỜI ÚC
113
---o0o---
Làm thế nào bạn có thể áp dụng việc tu tập
trong đời sống bận rộn hằng ngày? Ðây là một
trong những câu hỏi mà phóng viên tờ Mandala
đã phỏng vấn bác sĩ Alan Molloy, một thành viên
lâu năm của Viện Phật học Tara ở tiểu bang
Melbourne, Úc, một người đã chứng kiến sự phát
triển của đạo Phật tại quốc gia này từ cuối thập
niên bảy mươi đến nay. Trong bài nói chuyện
này, ông chia sẻ với độc giả những kinh nghiệm
tu học của mình trong đời sống hằng ngày.
Bác sĩ Alan Molloy đang làm việc toàn thời
gian ở một bệnh viện ung thư lớn nhất tại tiểu
bang Melbourne, Úc và khoa Lão ở một viện
dưỡng lão. Gần đây, ông còn là giảng viên thỉnh
giảng về môn "Tôn giáo Tỷ giáo" ở các đại học
Australia.
Công việc vẫn không ngừng khi bác sĩ Alan về
nhà. Nhà ở đây là Viện Phật học Tara (VPH
Tara), nơi ông đã cư trú chín năm qua với một
nhóm ba mươi lăm thành viên khác. Ở VPH
Tara, Alan là một trong những giáo viên Phật
114
học đứng lớp hằng tuần. Ông cũng phụ trách
giảng dạy giáo lý ở nhiều trung tâm khác. Và
như một học trò, Alan đang theo học lớp Phật
học cao cấp hằng tuần do TT Geshe Doga và HT
Tsong Khapa hướng dẫn. Năm rồi, Alan đã thành
lập và điều hành một cơ sở in ấn tài liệu cho
viện. Năm nay, Alan là một thành viên trong ban
tổ chức chuyến viếng thăm Úc của đức Ðạt Lai
Lạt Ma vào tháng 9 tới.
Lần đầu tiên, BS Alan tiếp xúc với Phật giáo
vào năm 1975. Lúc đó, ông thấy tờ áp-phích
quảng cáo dán ở Ðại học Melbourne về một buổi
diễn thuyết của một Tăng sĩ Tây Tạng. Ông đã
đến nghe và liền xin theo học giáo lý tại một
ngôi nhà nhỏ ở ngoại vi Melbourne, đó là tiền
thân của VPH Tara bây giờ. Năm 1979 trong kỳ
nghỉ phép, Alan cùng với ba người bạn sang
thăm Nepal và kết thúc chuyến đi này bằng một
lễ quy y. Alan trở thành một tín đồ Phật giáo và
phát nguyện giữ gìn năm giới.
Trở lại Melbourne, ông tiếp tục học giáo lý với
TT Dawo. Năm 1985 TT Dawo thuyên chuyển
về Ấn Ðộ và TT Geshe Doga thay thế. Nói về vị
Thầy này, Alan cho biết: "TT Doga là giáo sư
115
thuộc phái Hoàng Mạo, xuất thân từ Phật học
viện Sera, có công đào tạo nhiều thế hệ Tăng sĩ
Tây Tạng. Ngài rất thông hiểu tập tục và ngôn
ngữ của người Tây phương. - Sera, Ngài là thầy
của chúng tôi, chúng tôi thực sự rất may mắn".
Năm 1985, BS Alan đi Thụy Sĩ dự khóa tu Mật
tông Kalachakra do đức Ðạt Lai Lạt Ma làm đàn
chủ và sau đó theo hầu TT Zopa Rinpoche trong
một chuyến đi hoằng pháp thế giới. Tiếp đó,
Alan làm việc năm tháng trong một bệnh viện
nhi đồng ở Dharamsala, Ấn Ðộ. Sau đó, Alan đi
Anh quốc để tu nghiệp về một khóa học đặc biệt.
Hoàn tất khóa tu nghiệp ở Luân Ðôn, Alan trở
lại Melbourne và đi làm ở bệnh viện. Sau đó ông
được cử làm trưởng ban điều hành công trình xây
dựng VPH Tara. Ông bắt đầu tìm kiếm, vận động
và mua một miếng đất để xây dựng VPH Tara.
Vì lúc ấy, Tara quá nhỏ không thể làm nơi sinh
hoạt cho số lượng Phật tử đang gia tăng.
Lúc đầu công việc gần như bế tắc, vì không có
nơi thích hợp và không đủ kinh phí. Nhưng cuối
cùng BS Alan cũng tìm và mua được một nơi
đàng hoàng, đó là một dinh thự được xây dựng từ
cuối thế kỷ thứ 19 trên một mẫu đất nằm ở ngoại
116
ô Melbourne. BS Alan nhớ lại việc mua lúc đó:
"Mua được VPH Tara, theo tôi, đó là một bước
nhảy vọt phi thường ngoài khả năng của chúng
tôi. Viện đã cung cấp cho chúng tôi thêm sức
mạnh trong công tác truyền bá PG vào thế giới
phương Tây. Lúc đó chúng tôi không có một đại
thí chủ nào ủng hộ. Nhưng với tấm lòng thành,
nỗ lực và kết hợp của hàng ngàn Phật tử, họ đã
làm việc đều đặn, cặm cụi trong nhiều năm để
đóng góp kinh phí cho Tara. Chính tính cần cù
và đều đặn này của Phật tử đã giúp cho VPH
Tara thành công".
Thật vậy, trong khoảng mười năm qua, VPH
Tara ở Úc là một trong những trung tâm PG lớn
nhất thuộc PG Tây Tạng ở phương Tây. Chương
trình học giáo lý hàng tuần vẫn diễn ra đều đặn
gồm tối thứ hai giới thiệu các lớp, tối thứ ba môn
triết học PG, tối thứ tư thảo luận những gì đã
học, cuối tuần là thời gian để tụng niệm và thiền
định. Tuần lễ đông nhất có đến trên 300 Phật tử
về dự.
VPH Tara cũng điều hành các khóa học thiền
cho người bệnh kinh niên và các khóa học cho
những người tình nguyện giúp đỡ người lớn tuổi
117
và người bệnh. Viện cũng ủng hộ cho các tổ
chức cộng đồng địa phương và điều hành một
ngân quỹ từ thiện. Ðặc biệt, VPH Tara đã cung
cấp nhiều giảng viên Phật học để làm công tác
giảng dạy cho nhiều cộng đồng ở Úc.
Về công tác chuyên môn ở bệnh viện, BS Alan
đối diện với cái chết hằng tuần, thậm chí hằng
ngày. Theo kinh nghiệm ông cho rằng người già
trong xã hội phương Tây luôn đối diện, cô đơn
và sợ hãi trước cơn vô thường của bệnh tật và
chết chóc. Ðó là một nhu cầu rất lớn cho các
trung tâm ở thành phố như Tara phải cung cấp và
hướng dẫn họ về đời sống tâm linh. BS Alan nói
"Tuổi già là cái mất mát kéo theo những mất mát
khác như sức khỏe, tính năng động, nhục dục,
cha mẹ, vợ con, tài sản... Cái chết, vô thường và
nghiệp lực là cái đáng sợ hãi của tuổi già. Ðiều
quan trọng là người ta có được giải thích tại sao
họ chết và cái gì xảy ra sau khi chết?".
"Cái chết thường đi kèm sau cái bệnh, có nghĩa
là chúng ta không thể tu tập được. Vì thế rất
quan trọng để nghĩ rằng hiện tại chúng ta đang
khỏe mạnh, ta đang có cơ hội để tu tập, chuẩn bị
con đường tâm linh cho mình. Tôi có được cái
118
may mắn là trong nghề nghiệp chuyên môn tôi
nhận ra điều này trong mọi lúc và tôi không
ngừng được nhắc nhở về điều đó. Chính nó đã
tạo cho tôi có một sức mạnh để tu tập. Người
Tây phương cần được hiểu về cái chết và giáo lý
vô thường để họ có thể vượt qua khổ đau trong
giai đoạn cuối của cuộc đời".
Hiện nay, BS Alan đang chờ đợi sự tái sinh của
vị thầy bổn sư của ông, đó là HT Geshe
Dhargyey vừa viên tịch vào năm rồi ở Tân Tây
Lan. Năm nay, BS Alan bận rộn cho công tác
chuẩn bị chuyến viếng thăm và truyền pháp của
Ðức Ðạt Lai Lạt Ma ở Úc (từ 16/9 đến
1/10/1996). Ông cũng là người tổ chức hai
chuyến viếng thăm trước đây (năm 1982 và
1992) của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma. Ðặc biệt, năm
1992 BS Alan muốn cho mọi người tận mắt thấy
Ðức Ngài, nên ông đã tổ chức buổi diễn thuyết
tại Trung tâm quần vợt quốc gia, có trên 20.000
người về dự trong dịp đó.
Phật giáo là một tôn giáo phát triển nhanh nhất
ở Úc. Với hàng trăm ngàn tín đồ của 18 triệu
dân. Phật giáo Tây Tạng có mặt ở Úc từ giữa
những năm bảy mươi của thế kỷ này và đến nay
119
đã có mười ba Trung tâm PG của người Tây
Tạng ở Úc. BS Alan rất hồ hởi và nói về chuyến
viếng thăm lần này của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma:
"Lần này chắc sẽ vui lắm. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma
thứ 14 rất thương mến và quan tâm đến Phật tử
ở Úc châu. Lần này Ngài trở lại Australia giống
như ghé thăm một người bạn cũ. Nhiều người sẽ
đến nghe Ngài giảng và cuộc sống của họ sẽ thay
đổi".
(Tổng hợp theo các tạp chí Mandala và Tricycle
từ năm 1995 đến 1997)
---o0o---
20
Lời cuối sách
Chuẩn bị cho một chuyến đi...
---o0o---
Chết là một sự thật hiển nhiên mà cuối cùng ai
cũng phải đối mặt dù mình có muốn hay là
không. Ðó là một chân lý mà mỗi chúng ta phải
120
ghi nhớ và chấp nhận, để khi nó đến, ta không
còn phải ngạc nhiên, lo âu và sợ hãi. Đoàn Như
Khuê (1) từng nói:
" Biển khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió
Rốt cuộc rồi trong bể thảm thôi"
Thật vậy trong cái biển khổ mênh mông ấy,
chúng ta chỉ là những "khách trần" lai vãng, đến
rồi đi, và nếu chết vẫn chưa hết, ta sẽ phải tiếp
tục trôi lăn trong "biển khổ" sinh tử luân hồi này.
Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu từng nhắc nhở
rằng: "Vô thường già, bệnh, chết không hẹn
trước với ta", tức là cái chết sẽ đến với ta bất cứ
giờ phút nào. Một điều quan trọng mà tất cả
chúng ta cần phải khắc trong lòng là sau khi chết,
thần thức của ta sẽ không mất, mà nó được lưu
chuyển sang một đời s?ng khác. Theo giáo lý nhà
Phật, sau khi chết nếu ta chưa đạt Ðạo, giác ngộ
và giải thoát, ta sẽ có thể tái sinh, đầu thai vào
một trong sáu cõi giới: Cõi trời, Cõi người, A-tu-
la, Ðịa ngục, Ngạ quỹ và Súc Sanh. Kết quả
được thác sanh vào cõi nào đã được ta thiết lập
ngay trong đời sống vừa qua, có nghĩa là trong
121
đời sống hiện tại hôm nay, chính ta đang tạo
dựng một đời sống ngày mai của ta vậy. Do đó
chúng ta phải chuẩn bị mọi thứ cần thiết để có
thể mang theo làm hành trang cho riêng mình
trong cuộc hành trình vô tận đang chờ đợi ta ở
phía trước.
Ta phải chuẩn bị điều gì?
Ðó là một câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Tuy
nhiên, như ở đầu tập sách này, các bậc Thầy
người Tây Tạng đã khuyên dạy chúng ta rằng:
phương pháp tốt nhất để chuẩn bị cho cái chết
là mỗi người nên làm điều lành và tránh làm
điều ác trong suốt cuộc đời mình. Lời dạy này
đã cho chúng ta hiểu rằng, tất cả những nghiệp
thiện và nghiệp ác mà mình tạo ra trong suốt
cuộc đời, từ lúc mới sinh đến khi nhắm mắt lìa
đời, sẽ là hành trang mà ta sẽ phải mang theo sau
khi ta trút hơi thở cuối cùng ở kiếp này và chính
nó sẽ dẫn dắt chúng ta đi tiếp trong các đời sống
vị lai.
Do thấy rõ được cảnh khổ của chúng sinh trong
sáu cõi giới luân hồi này, mà Bồ tát Ðịa Tạng đã
hơn một lần nhắc nhở chúng ta về những quả báo
122
khổ đau mà chúng ta sẽ phải gánh chịu ở tương
lai, nếu ta phạm phải ở kiếp này:
Ngài dạy rõ "Nếu gặp kẻ sát hại loài sinh vật,
quả báo sẽ bị chết yểu; nếu người trộm cướp, sẽ
bị quả báo nghèo cùng khốn khổ; nếu người tà
dâm (không chung thủy với vợ hoặc chồng), sẽ
bị quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương; kẻ
nói lời thô ác, sẽ bị quả báo quyến thuộc hay
kình chống nhau; nếu kẻ hay khinh chê, sẽ bị quả
báo không lưỡi hay miệng lở; nếu người thường
nóng giận, sẽ bị quả báo thân hình xấu xí; nếu
người có tánh bỏn xẻn, sẽ bị quả báo cầu muốn
không được toại nguyện; nếu người thường tổ
chức săn bắn, sẽ bị quả báo kinh hãi điên cuồng,
mất mạng; nếu kẻ trái nghịch với cha mẹ, sẽ bị
quả báo trời đất tru lục; nếu người đốt núi rừng
cây cỏ, sẽ bị quả báo cuồng mê đến chết; nếu cha
ghẻ, mẹ ghẻ ăn ở ác độc, sẽ bị quả báo thác sinh
trở lại hiện đời sẽ bị roi vọt; nếu người dùng lưới
bắt chim non, sẽ bị quả báo thân quyến chia lìa;
nếu người hủy báng Tam Bảo, sẽ bị quả báo đui,
điếc, câm, ngọng; nếu người hay khinh chê giáo
pháp, sẽ bị quả báo ở mãi trong ác đạo; nếu kẻ
lạm phá của Thường trụ, chùa chiền, sẽ bị quả
123
báo ức kiếp luân hồi nơi địa ngục; nếu kẻ làm ô
nhục người hạnh thanh tịnh và vu báng Tăng già,
sẽ bị quả báo ở mãi trong loài súc sanh; nếu kẻ
dùng nước sôi, hay lửa, chém chặt, giết hại sinh
vật, sẽ bị quả báo phải luân hồi thường mạng lẫn
nhau; nếu kẻ phá giới phạm trai, sẽ bị quả báo
làm cầm thú đói khát; nếu người phung phí, phá
tổn của cải một cách phi lý, sẽ bị quả báo tiêu
dùng thiếu hụt; nếu kẻ thường tự cao kiêu mạn,
sẽ bị quả báo hèn hạ, bị người sai khiến; nếu kẻ
đâm chọc gây gổ, sẽ bị quả báo không lưỡi hay
trăm lưỡi; nếu kẻ tà kiến hay mê tín dị đoan, sẽ
bị quả báo thọ sanh vào chốn hẻo lánh..." (lược
theo Phẩm thứ hai, Kinh Ðịa Tạng, bản dịch của
HT Trí Tịnh).
Nếu ta biết rõ những nguyên nhân và kết quả
trên, ta phải cố gắng tránh tạo những ác
nghiệp(tham lam, sân hận, si mê, giết hại sinh
vật, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu...), và
nỗ lực làm những điều thiện (không tham lam,
không nóng giận, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định, cúng dường, phóng sinh...) để
đem an lạc, hạnh phúc cho mình và cho người.
Bài học công bằng mà tất cả chúng ta đều thuộc
124
lòng, đó là, nếu mình đem hạnh phúc cho người,
thì mình sẽ được an vui, ngược lại, đem khổ đau
cho người, thì chính mình sẽ chịu sự bất hạnh.
Niềm hạnh phúc và an lạc hoặc sự bất hạnh và
khổ đau , đã, đang và sẽ được chính ta tạo ra và
chính ta thừa hưởng ngay trong đời sống này
cũng như sau khi chết.
Những điềm báo trước khi chết:
Những người tu hành đã đắc đạo, họ an lạc, tự
tại, thong dong giữa hai bờ sống chết, họ có thể
tái sinh về bất cứ cõi giới nào họ muốn. Còn
chúng sanh mê muội, phàm phu tục tử đều phải
tùy nghiệp mà thọ sanh, tức là sau khi chết, phải
chịu sự dẫn dắt của nghiệp lực mà thọ sanh về
cảnh giới thích ứng với nghiệp mà mình đã gây
tạo. Nói vậy không có nghĩa là Phật tử tin vào
thuyết định mệnh, tức là cái đã sắp đặt sẵn mọi
chuyện, mình phải đi theo cái có sẵn ấy. Ở đây,
không phải vậy, người Phật tử tin rằng mình là
chủ nhân của chính mình, tuy nhiên, một khi
mình không làm chủ được mình để cho ác nghiệp
đã được xảy ra, thì chính cái nghiệp ấy sẽ trở lại
điều khiển mình. Do đó người Phật tử hãy thận
trọng trong mọi hành vi, lời nói và ý nghĩ của
125
mình, từ nơi đó sẽ đưa chúng ta tới an lạc, và
cũng từ nơi đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau.
Theo kinh điển nhà Phật, một người trước khi
chết có những điềm báo trước, có thể tùy theo
mỗi người mà có cảm thọ khác nhau về cảnh giới
thiện hay cảnh giới ác, và những điềm này sẽ
giúp cho ta dự đoán được nơi thọ sanh của người
quá cố.
Những điềm lành báo trước sẽ có thể sinh
về Tịnh độ:
Tâm hồn không bị bối rối
Biết trước ngày giờ chết
Tâm niệm chân chánh không mất
Biết trước giờ chết mà tắm rửa và thay quần
áo.
Tự mình niệm Phật, niệm có tiếng hoặc niệm
thầm
Ngồi ngay thẳng, chắp tay niệm Phật mà chết
Mùi thơm lạ lan tỏa khắp nhà
Có hào quang sáng soi vào thân thể
Nhạc trời vang dội giữa hư không
Tự nói ra bài kệ để khuyên dạy người ở lại.
126
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh
lên cõi trời:
Móng lòng thương mến
Phát khởi thiện tâm
Lòng thường vui vẻ
Chánh niệm được rõ ràng
Thân thể không bị hôi hám
Sống mũi không xiên xẹo
Tâm không giận dữ
Tâm không luyến ái tài sản, vợ, chồng, con,
dòng họ
Mắt luôn trong sáng
Ngửa mặt lên trời và mỉm cười
Những điềm báo trước sẽ có thể tái sinh
trở lại cõi người:
Ðến khi chết vẫn nhớ nghĩ đến điều lành
Thân không đau khổ
Ít nói lời phô trương, thường nghĩ nhớ đến cha
mẹ
Tai thường muốn nghe tên họ của anh chị em
và bầu bạn
Ðối với việc lành dữ nhận rõ không lầm loạn
Tâm tánh ngay thẳng không ưa sự dua nịnh
127
Biết rõ bà con bạn bè giúp đỡ cho mình
Thấy bà con trông nom sinh lòng vui mừng
Dặn dò mọi việc trong nhà trước khi chết
Sanh lòng chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, Tăng
đến đối diện quy y.
Những điềm xấu báo trước sẽ có thể đọa
vào địa ngục:
Gặp phải tình trạng con cái và bà con đều nhìn
kẻ sắp chết bằng đôi mắt ghét bỏ
Người sắp chết thường đưa hai tay lên mà rờ
mó hư không
Dù bạn lành có khuyên bảo điều hay cũng
không tùy thuận
Người sắp chết kêu gào than khóc
Ði ra đại tiện, tiểu tiện mà không hay biết
Nhắm nghiền đôi mắt
Thường hay che úp mặt mày
Nằm nghiêng mà ăn uống
Mình mẩy miệng mồm đều hôi hám
Gót chân, đầu gối luôn run rẩy
Sống mũi xiên xẹo
Mắt bên trái hay động đậy
Hai mắt đỏ ngầu
Úp mặt mà nằm
128
Thân hình co rút và tay bên trái chấm xuống
đất
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh
vào cõi giới ngạ quỹ:
Ưa liếm môi miệng
Thân nóng như lửa
Thường lo đói khát và hay nói đến việc ăn uống
Mắt thường hay trương lên mà không nhắm
Hai mắt khô khan như mắt chim gỗ.
Ðầu gối bên phải lạnh trước
Tay bên phải thường nắm lại
Những điềm báo trước sẽ có thể thác sinh
vào loài súc sanh:
Yêu mến vợ con, đắm đuối không bỏ
Ngón tay và ngón chân đều co quắp
Khắp trong thân mình đều toát ra mồ hôi
Tiếng nói ra khò khè
Miệng thường ngậm đồ ăn
Hộ niệm cho người hấp hối:
Nếu người hấp hối đang ở trong bệnh viện,
người thân nên đến chùa (hoặc điện thoại) thỉnh
quý Chư Tăng Ni và Ban Hộ Niệm đến giường
129
bệnh để tiếp dẫn cho người mất. Nếu gia đình
không quen biết chùa nào, có thể tìm đến khoa
Chăm sóc về tinh thần (Pastoral Care - các tu sĩ,
giáo sĩ các Tôn giáo chính, được mời vào làm
việc toàn thời hoặc bán thời tại nơi đây. Phân
khoa này cũng có một Trung Tâm Cầu Nguyện
(Worship Center) nằm ngay trong khuôn viên
bệnh viện để cung ứng cho niềm tín ngưỡng của
bệnh nhân) ngay trong bệnh viện đó để nhờ văn
phòng này mời quý Thầy đến hộ niệm.
Nếu không cung thỉnh được quý Thầy, Cô đến
hộ niệm, hoặc nhà ở xa chùa, thì có thể mở băng
cassette niệm danh hiệu Phật cho người hấp hối
và con cháu trong nhà đứng xung quanh giường
bệnh để niệm lớn câu: Nam Mô Tiếp Dẫn Ðạo
Sư A Di Ðà Phật, niệm liên tục cho đến lúc
người ấy trút hơi thở cuối cùng, chứ không được
khóc kể, sầu thảm. Nếu cứ khóc than như thế sẽ
khiến cho thần thức của người sắp ra đi quyến
luyến mãi không rời khỏi thân xác, hoặc nếu có
rời khỏi thi thể thần thức người ấy vẫn quanh
quẩn trong nhà chứ không thể siêu thoát được.
Một người thân hoặc người lớn tuổi trong gia
đình nên đến bên cạnh người hấp hối nhắc nhở
130
họ về nguyên lý vô thường: " Cõi đời là huyễn
ảo, vô thường, mọi sự vật hiện tượng sinh rồi
diệt, hội họp rồi chia ly, xin người đừng quyến
luyến nữa, hãy xả bỏ tất cả và ra đi trong thanh
thản".
Sau khi người bệnh vừa tắt thở: người thân
nhất nên điều chỉnh thi thể trở lại cho ngay ngắn,
mọi động tác đều phải thật nhẹ nhàng, tránh đụng
chạm mạnh đến thi thể, vì lúc ấy thần hồn của
người chết chưa ra khỏi thi thể, dễ có cảm giác
đau đớn và khó chịu, chính sự khó chịu ấy sẽ
khiến cho thần thức của người thác sinh vào cõi
ác xấu. Cho nên phải cố gắng càng hạn chế chạm
đến thi thể người vừa tắt thở càng tốt. Ba hoặc
năm tiếng đồng hồ sau khi tắt thở, gia đình có thể
dùng nước ấm, nước hoa hoặc rượu cồn (alcohol)
để tắm cho người chết và thay quần áo mới. Tất
cả nữ trang phải được tháo ra, để ngăn ngừa kẻ
tham lam có thể xâm phạm đến tử thi. Nếu là tín
đồ Phật giáo nên mặc lót bên trong một bộ đồ
màu trắng, mới và sạch, bên ngoài mặc áo tràng
màu nâu hoặc màu lam và đắp một cái mền
Quang Minh bên trên.
Tang sự:
131
Lễ tang được bắt đầu sau khi người thân của
mình qua đời, có nhiều việc cần thiết phải làm.
Những người có trách nhiệm phải thật bình tĩnh
mới có thể giải quyết được công việc. Nếu người
mất theo tín ngưỡng nào thì nên tôn trọng niềm
tin của họ mà tổ chức tang lễ theo nghi thức của
tôn giáo ấy. Riêng Phật tử, nên tổ chức theo nghi
lễ của Phật giáo. Nghi lễ này được diễn ra gọn
gàng, đơn giản, trang nghiêm, ít tốn kém, và
không theo tập tục mê tín của thế gian, như đốt
vàng mã, lầu đài, nhà kho...
Công việc đầu tiên là một hay hai người trong
gia đình phụ trách liên lạc với quý Thầy để chọn
ngày giờ thích hợp cho việc tẩm liệm, phát tang,
di quan và an táng, một mặt liên lạc với Sở Mai
táng, để lo mua quan tài, đặt xe tang, nơi an
táng... Những người còn lại trong gia đình chia
nhau mỗi người mỗi việc, thông báo cho thân
nhân ở xa, viết cáo phó gởi báo, đài, quét dọn
nhà cửa, bàn thờ Phật, Tổ Tiên, sắm sửa đèn nến,
hương hoa, trang hoàng bàn vong để thờ phụng
người quá cố.
Bàn thờ Phật cần được trần thiết trang nghiêm
với một hình hoặc tượng Phật đặt ngay ngắn ở
132
giữa, hai chân đèn, lư hương, đĩa trái cây, bình
hoa, hai ly nước trong...
Bàn thờ Vong, cũng phải trang hoàng cho đẹp
đẽ với cặp chân đèn, đĩa trái cây, bình hoa, ba ly
nước, một bài vị (gồm có tên tuổi, ngày sinh,
ngày mất) do Thầy viết. Và đặc biệt là di ảnh của
người chết, phải chọn một tấm hình đẹp, rõ ràng
của người quá cố để thờ.
Tẩm liệm, phát tang, cúng cơm và an
táng:
Ðến thời điểm thích hợp đã định trước, quý
Thầy Cô, ban Hộ Niệm cùng tang quyến và bạn
bè thân hữu vân tập trước bàn thờ Phật để tụng
Kinh và cầu nguyện cho vong linh người quá cố.
Sau khi nắp quan tài đậy lại là lễ Phát tang (còn
gọi là lễ Thành phục). Tất cả con cháu đều quỳ
ngay thẳng trước linh đài của người mất. Quý
Thầy tụng Kinh và sái tịnh vào khăn tang, rồi
phát tang cho tang quyến. Mỗi người đều lạy hai
lạy và nhận chiếc khăn màu trắng, rồi chít khăn
lên đầu và mặc quần áo tang.
Theo tục lệ truyền thống, người con gái chỉ đeo
khăn tang, quần tang mà không có áo. Người con
133
rể, chỉ quấn khăn tang là đủ. Riêng hàng cháu,
chắt, trên khăn tang có đính thêm một miếng vải
nhỏ hình tròn màu xanh hay màu đỏ tùy theo bên
nội và bên ngoại. Vợ chồng để tang cho nhau,
chỉ cần bịt một khăn tang là đủ.
Sau khi lễ phát tang là lễ cúng cơm (tiến linh).
Tất cả nên cúng thức ăn chay, cúng nước trà thay
vì cúng rượu. Tiếp đó là lễ tụng kinh cầu siêu
cho hương linh. Trong tang lễ, phần quan trọng
nhất là tụng kinh cầu nguyện cho thần hồn người
chết siêu thoát, chứ không phải chú trọng về hình
thức cúng kiến, đờn trống, nhạc Tàu, nhạc Tây....
Những hình thức bề ngoài chỉ cốt để làm nở mặt
nở mày của tang quyến đối với người ngoài, chứ
không ảnh hưởng gì đến thần thức người quá cố.
Ðến ngày an táng linh cữu, tang quyến cùng bè
bạn thân hữu cùng quý Thầy Cô và ban Hộ niệm
tiễn đưa linh cữu đến nơi an táng (địa táng hay
hỏa táng tùy theo sự chọn lựa của người quá cố),
tất cả nên thành tâm niệm Phật để tiếp dẫn vong
linh đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Sau lễ an táng, chủ nhà rước vong linh về nhà
hoặc chùa để làm lễ An Sàng, tức là lễ an vị vong
134
linh và di ảnh của người quá cố. Có nhiều người
hiểu lầm lễ này gọi là lễ ăn sàng, nên bắt buộc
tang quyến phải tổ chức tiệc tùng để được ăn
uống. Ðây là một sự thật đáng buồn.
Sau lễ An sàng, là cúng tuần thất (7 ngày sau
khi qua đời), cúng Bách nhật (100 ngày), cúng
Tiểu tường (giáp năm, 365 ngày) và cúng Ðại
tường (ba năm xả tang, còn gọi là mãn tang hay
mãn khó, tức là đúng 1095 ngày), rồi từ đó mỗi
năm cúng lễ giỗ tưởng niệm (cúng đúng vào
ngày mất gọi là Chánh kỵ, trước ngày mất gọi là
Tiên Thường). Và nếu gia đình tang quyến có
điều kiện nên tổ chức lễ Trai Tăng cúng dường,
bố thí, phóng sanh các loài vật, đi lễ Phật và
cúng dường 10 chùa, để hồi hướng công đức ấy
cho vong linh người quá cố, giúp họ tái sinh vào
cõi giới an lành.
Tóm lại, theo giáo lý nhà Phật, chết chưa phải
là hết mà còn nhiều vấn đề khác nữa, nếu người
quá cố chưa giác ngộ giải thoát, chưa giải quyết
được vấn đề sinh tử ngay trong kiếp sống hiện tại
này, thì còn vô số đời sống khác đang đợi chờ họ
ở phía sau.
135
____
English version
____
(1) ĐOÀN NHƯ KHUÊ: (hiệu: Hải Nam; 1883 -
1957), nhà báo, nhà thơ Việt Nam. Quê: tỉnh Hải
Dương. Học chữ Hán, có đi thi hương, sau ra Hà
Nội làm báo, viết sách, dịch sách. Sở trường về
thơ Nôm. Năm 1917, xuất bản tập thơ "Một tấm
lòng", trong đó nổi tiếng nhất là bài "Bể thảm",
góp phần với Đông Hồ, Tương Phố làm cho thơ
thời kì 1910 - 30 đầy tính chất bi luỵ: người khóc
vợ, kẻ khóc chồng, riêng Đoàn Như Khuê thì
khóc đời. Lời thơ của Đoàn Như Khuê yếu đuối,
thấy mình bất lực trước thời cuộc. Đoàn Như
Khuê còn soạn "Luận ngữ cách ngôn" (1927),
trích dịch sách "Luận Ngữ" ra văn vần dùng làm
sách giáo khoa. Trong Kháng chiến chống Pháp,
tham gia Ban Cổ học của Hội Văn hoá Kháng
chiến Liên khu III (1947 - 49). Xem nguyên văn
bài Bể Thảm của Đoàn Như Khuê.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/default.
136
aspx?param=18D0aWQ9MzYzNTUmZ3JvdXB
pZD0ma2luZD1zdGFydCZrZXl3b3JkPSVjNCU
5MQ==&page=17
---o0o---
Vi tính : Đàm Thanh - Ngọc Dung
http://www.quangduc.com/ipad/index.html
http://www.quangduc.com/tacgia/thichnguyentang.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét