Chủ Nhật, 15 tháng 7, 2018

âm chất văn quyển thượng

AN SĨ TOÀN THƯ
PHẦN I
Âm chất văn quảng nghĩa
Quyển thượng
Tác giả: Chu An Sĩ
Việt dịch và chú giải: Nguyễn Minh Tiến
GĐK-KHXB số.... /CXB/04-236/TG
QĐXB số ... /QĐ-TG
Trung tâm DIỆU PHÁP ÂM thực hiện
CHU AN SĨ
AN SĨ TOÀN THƯ
安士全書
PHẦN I
GIẢNG RỘNG BÀI VĂN ÂM CHẤT
Quyển Thượng
NGUYÊN TÁC HÁN VĂN
ÂM CHẤT VĂN QUẢNG NGHĨA
QUYỂN THƯỢNG
VIỆT DỊCH VÀ CHÚ GIẢI: NGUYỄN MINH TIẾN
NHÀ XUẤT BẢN ____________
Lời tựa nhân việc khắc bản in lại
sách An Sĩ toàn thư
Đ
ối với tất cả chúng sinh, hai nghiệp dâm dục
và giết hại là căn bản của vòng luân hồi sinh
tử. Khó dứt trừ nhất chính là dâm dục, mà dễ phạm
vào nhất chính là giết hại. Trong 2 việc ấy, đối với
dâm dục thì người có chút trí tuệ đều có thể tự xét mà
kiềm chế không phạm vào. Tuy nhiên, muốn cho tâm ý
thanh tịnh, hoàn toàn dứt sạch đến tận ngọn nguồn vi
tế của dâm dục, thì chỉ có bậc A-la-hán đã trừ hết lậu
hoặc, chứng đắc thể tánh chân thật mà thôi. Những
ai chưa được như thế, hẳn đều đeo mang tập khí ái
dục, cho dù có phần nặng nhẹ, nhiều ít khác nhau. Do
đó mà ngày lại ngày qua tham dục càng kiên cố hơn
trong tâm thức, đời này nối sang đời khác, không thể
đạt đến sự giải thoát.
Đối với sự giết hại, người đời đều xem là việc tất
nhiên, lấy mạnh hiếp yếu, dùng máu thịt chúng sinh
mà làm đầy bụng mình, chỉ biết được sự ngon miệng
An Sĩ toàn thư
6 7
Lời tựa nhân dịp khắc bản in lại sách An Sĩ toàn thư
nhất thời mà chẳng ai tin chuyện phải đền trả trong
muôn kiếp. Kinh Lăng nghiêm 1 dạy rằng: “Người ăn
thịt dê, dê chết lại sinh làm người, người chết lại sinh
làm dê, cho đến hết thảy các loài chúng sinh cũng đều
sinh tử xoay vòng như thế, ăn nuốt lẫn nhau, cùng tạo
ác nghiệp mãi mãi không thôi!”
Bậc cổ đức dạy rằng:
Muốn cho thiên hạ thái bình,
Phải ngưng ăn thịt chúng sinh các loài.
Lại cũng dạy rằng:
Muốn biết vì sao thế gian,
Triền miên binh lửa, ngút ngàn nạn tai,
Hãy nghe vang vọng đêm dài,
Tiếng kêu thảm thiết vạn loài sinh linh.
Kìa trong lò mổ sát sinh,
Muôn loài bỏ mạng vì mình đó thôi!
Cho nên, đã tạo nhân như thế nào, ắt phải chịu
quả như thế ấy. Nếu không suy nghĩ thì còn có thể
1 Thật ra đoạn này trích lại gián tiếp từ Thủ Lăng Nghiêm nghĩa sớ
chú kinh (首楞嚴義疏注經), được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại
tạng kinh, tập 39, kinh số 1799, do ngài Tử Tuyền soạn vào đời
Tống. Sách này có 20 quyển. Đoạn trích này thuộc quyển 7, bắt
đầu từ dòng thứ 21, trang 877, tờ b.
phạm vào, bằng như đã có sự suy ngẫm, hẳn phải lấy
làm kinh sợ mà không dám giết hại nữa!
Tiên sinh An Sĩ 1 cung kính vâng theo lời Phật dạy,
khởi tâm thương xót muôn người, soạn ra sách Dục hải
hồi cuồng (欲海回狂) để khuyên ngăn sự tham dâm,
sách Vạn thiện tiên tư (萬善先資) để khuyên ngăn việc
giết hại. Trong đó dẫn chứng những việc có thật, chỉ
rõ lẽ nhân quả, mong sao cho hết thảy người đời đều
đối đãi với nhau như anh em một nhà cùng do trời đất
sinh ra; người với muôn loài cũng một chân tâm, mãi
mãi dứt trừ tâm xấu ác gây ra những chuyện tổn hại
đạo lý, trái nghịch luân thường, ỷ mạnh hiếp yếu. Lại
cũng muốn cùng với tất cả mọi người đều không phạm
điều ác, siêng làm việc lành, nên lấy bài văn Âm chất
(陰騭文) của Văn Xương Đế Quân mà thêm vào chú
thích tường tận, gọi là Âm chất văn quảng nghĩa (陰騭
文廣義), khiến người đời có thể noi theo đây mà trong
hết thảy mọi việc làm hằng ngày đều giữ lòng lành
khi ứng xử, ví như ở tầm vóc lớn lao thì có thể trị nước
an dân, mà trong phạm vi nhỏ nhặt thì mỗi một lời
1 Tức cư sĩ Chu An Sĩ (周安士), sinh năm 1656, mất năm 1739, là
bậc danh sĩ vào đầu triều Thanh Trung Hoa, tên thật là Chu Mộng
Nhan (周梦顏), tên khác là Tư Nhân (思仁). Ông tin sâu pháp môn
Tịnh độ cầu sinh Tây phương nên tự lấy biệt hiệu là Hoài Tây Cư
sĩ (怀西居士).
An Sĩ toàn thư
8 9
Lời tựa nhân dịp khắc bản in lại sách An Sĩ toàn thư
nói, mỗi một ý nghĩ cũng đều có sự thận trọng suy xét,
tương hợp với đạo lý.
Từ những lời dạy của các bậc hiền thánh xưa như
thế, phải hết sức cung kính thận trọng, đọc qua và suy
ngẫm với tâm chân chánh, với ý chí thành, chẳng phải
những kẻ chỉ bàn luận suông mà có thể hiểu được.
Cả 3 tập sách nói trên, văn chương ý thú đều thông
suốt việc xưa nay, ích đời lợi người, đó là nhờ tiên sinh
đã vận dụng tài năng trác tuyệt, kết hợp với sự thấu
triệt sâu mầu, nắm hiểu được tâm pháp của chư Phật
Tổ, Thánh hiền rồi dùng bút mực mà truyền đạt chân
thật đến người đời, phát huy được những điều đã hiểu.
Tuy nhiên, cho dù có thể tiết chế sự dâm dục, từ
bỏ nghiệp giết hại, điều ác không phạm, lại siêng làm
việc thiện, nhưng nếu chưa đạt đến sự giải thoát rốt
ráo khỏi vòng sinh tử thì làm sao tránh khỏi phải tái
sinh đời đời kiếp kiếp? Chỉ có thể cố gắng giữ gìn không
buông thả, ắt sẽ thường được sinh vào những cảnh giới
tốt lành, rộng tu trí huệ, không rơi vào những cảnh
giới xấu ác. Được như thế cũng đã chẳng mấy người,
nói gì đến chuyện thấu triệt lẽ tử sinh, vượt thoát luân
hồi, phải đâu là chuyện dễ nói được sao? Chỉ có thể
nhờ vào sức tu định tuệ, dứt trừ lậu hoặc, chứng đắc
chân tánh mới có thể đạt đến sự tự do, giải thoát rốt
ráo mà thôi. Hết thảy những ai chưa được như thế, chỉ
nhờ phước báu mà có thể sinh làm vua các cõi trời, cao
đến như cõi trời Phi phi tưởng, được hưởng phước báu
và sống thọ đến 80. 000 đại kiếp,  1 nhưng dù vậy thì
tất cả cũng đều bị trói buộc trong vòng nghiệp lực, tùy
theo các nghiệp thiện ác mà phải mãi mãi thọ sanh
lưu chuyển trong luân hồi.
Do vậy, y theo pháp môn mà đức Như Lai đã dạy,
rằng nương sức từ bi của Phật thì dẫu nghiệp lực chưa
dứt vẫn có thể được vãng sanh, tiên sinh An Sĩ liền
rút lấy những ý nghĩa cốt yếu trong các kinh, luận về
Tịnh độ mà kết hợp soạn thành một bộ sách, lấy tên
là Tây quy trực chỉ (西歸直指). Như ai có thể một lần
đọc qua sách ấy ắt khởi lòng tin sâu vững, dứt sạch
nghi ngờ. Nếu khởi tâm tin tưởng, phát nguyện cầu
sinh về cõi Tây phương, cho dù căn cơ lanh lợi hay
chậm lụt, tội nghiệp đã tạo nặng hay nhẹ, công phu tu
tập sâu hay cạn, chỉ cần có đủ lòng tin, phát nguyện
thật chân thành chí thiết, trì niệm danh hiệu Phật, thì
1 Đại kiếp: khoảng thời gian lâu xa không thể hình dung tính đếm.
Trong kinh Phật có 5 thí dụ về quãng thời gian của đại kiếp, gọi
là đại kiếp ngũ dụ (大劫五喻), bao gồm thảo mộc dụ (ví như số
lượng cây cỏ), sa tế dụ (ví như số lượng hạt cát mịn), giới tử dụ
(ví như số lượng hạt cải), toái trần dụ (ví như số lượng hạt bụi) và
phất thạch dụ (ví như thời gian lau mòn tảng đá lớn). Cả 5 ví dụ
này đều nhằm cho thấy thời gian của một đại kiếp là rất dài, vượt
ngoài khả năng hình dung tính đếm của chúng ta.
An Sĩ toàn thư
10 11
Lời tựa nhân dịp khắc bản in lại sách An Sĩ toàn thư
chắc chắn đến lúc lâm chung sẽ nương sức từ bi tiếp
dẫn của đức Phật mà được vãng sanh.
Khi được vãng sanh rồi, tất nhiên đã bỏ phàm lên
thánh, thấu triệt lẽ tử sinh, giải thoát luân hồi, ngay
trong một niệm tỏ ngộ tự tâm, việc chứng quả Chánh
giác ắt là sắp đến. Những ý nghĩa lợi ích như thế, chỉ
ai đã thực sự chứng đắc rồi mới biết, không thể miêu
tả hình dung bằng văn chương ngôn ngữ.
Yếu chỉ của pháp môn này dùng sự tin sâu phát
nguyện của tự thân hành giả cảm ứng giao hòa với
tâm từ bi của đức Phật, nhờ đó mà được sự lợi ích lớn
lao vô cùng như thế. Nếu so với việc tự dùng sức mình
để dứt trừ lậu hoặc, chứng đắc chân tánh, thấu triệt
lẽ sinh tử, vượt thoát luân hồi, thì mức độ khó dễ quả
thật chênh nhau như trời với đất!
Hiện nay 1 trên thế giới có những quốc gia chiến
tranh kéo dài liên miên, người trong nước [Trung Hoa]
thì khởi sinh từ sự bất đồng ý kiến mà phân chia thành
nam bắc, công kích lẫn nhau. Lại thêm trong nhiều
năm gần đây thường xảy ra thiên tai bão lụt, hạn hán,
động đất, giặc cướp, dịch bệnh... Thường nghe những
tin tức thống kê số thương vong trong ngoài không
dưới vạn vạn người, khiến trong lòng đau đớn khôn
1 Tức năm 1918, khi viết bài tựa này.
cùng chẳng biết làm sao, hận mình bất tài kém trí,
lạm đứng vào hàng tăng chúng mà chưa chứng đắc
đạo quả, chỉ có tấm lòng thương đời thương người, thật
không chút sức lực để ra tay cứu vớt.
Có người đồng hương ở Cần Phố là tiên sinh Lưu
Tại Tiêu, vốn là kẻ sĩ trong hàng thanh bạch, gia thế
nhiều đời nối truyền đạo đức, lại tin sâu Phật pháp.
Mùa hè năm nay, tiên sinh tìm lên núi xin gặp mặt hỏi
đạo. Khi cùng nhau bàn luận đến tình cảnh hiện nay
ở trong nước cũng như ngoài nước, tiên sinh bỗng lo
lắng hỏi: “Bạch thầy, liệu có phương pháp nhiệm mầu
nào có thể cứu giúp được chăng?”
Tôi đáp: “Đó là nghiệp quả khổ đau, mà quả khổ
đau ấy ắt phải có nguyên nhân. Nếu muốn cứu khổ thì
phải dứt trừ nhân của khổ. Nhân đã dứt trừ thì quả
sẽ không do đâu mà sinh ra. Cho nên kinh Phật dạy
rằng: ‘Bồ Tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả.’”
Nhân đó liền đưa sách An Sĩ toàn thư cho tiên sinh
xem, mong được khắc bản lưu truyền rộng rãi, khiến
cho người người xem qua đều được vượt thoát luân hồi,
thẳng đến bến bờ giác ngộ. Tiên sinh không kiềm được
nỗi vui mừng, lập tức gọi người cháu là Triệu Bộ Vân
lấy ra 700 đồng tiền, mong tôi lo giúp việc khắc in. Tôi
nhớ lại hồi năm Mậu Thân (1908) đã từng khuyên Lý
An Sĩ toàn thư
12 13
Lời tựa nhân dịp khắc bản in lại sách An Sĩ toàn thư
Thiên Quế khắc in sách này ở đất Thục, 1 ông ấy liền
nhờ tôi viết cho lời tựa, nhưng rồi sau không đủ nhân
duyên nên cuối cùng việc lại không thành.
Nay nhờ có Lưu tiên sinh quyết lòng giúp vào, thật
là thuận duyên lớn lao, tôi liền thêm vào các bản văn
sau để cùng khắc in:
- Sách Liễu Phàm tứ huấn ( 了凡四訓 ) của Viên
Liễu Phàm, là những lời hay ý đẹp khuyên việc
bỏ ác làm lành.
- Một quyển thuật ký của Du Tịnh Ý, 2 lời lẽ hết
sức chí thành, thấu suốt chỗ sâu xa tốt đẹp trong
trời đất, phát huy nghĩa lý mọi việc, khuyên
người kiên trì nỗ lực công phu, chính là chỗ
trang nghiêm đẹp đẽ thuần khiết bậc nhất, tỏ rõ
tường tận.
Hai quyển này được thêm vào sau quyển hạ của
phần Âm chất văn quảng nghĩa.
- Bài văn Giới sát phóng sinh (戒殺放生文) của
Đại sư Liên Trì, có thể xem là bậc chủ sư từ bi
diệt trừ ma quân tàn độc, nay thêm vào sau sách
Vạn thiện tiên tư.
- Các bài tụng trong tập Bất tịnh quán (不淨觀)
của Pháp sư Tỉnh Am, có thể xem là vị dũng
1 Tức là vùng Tứ Xuyên (四川).
2 Tức quyển Du Tịnh Ý công ngộ táo thần ký (俞净意公遇灶神記).
tướng tịnh hạnh diệt trừ ma quân tham dục,
nay thêm vào sau sách Dục hải hồi cuồng.
- Bài văn Khuyên phát tâm Bồ-đề (勸發菩提心文)
cũng của ngài Tỉnh Am, có thể xem là con thuyền
từ cứu vớt chúng sinh trong biển khổ luân hồi,
nay thêm vào sau sách Tây quy trực chỉ.
Ba tập sách của tiên sinh An Sĩ lại được thêm vào
các phần như thế, thật chẳng khác nào như trên gấm
đẹp lại thêu hoa, như đèn sáng đặt cạnh gương soi,
ánh sáng màu hoa càng thêm rực rỡ xán lạn, khiến
lòng người thảy đều hoan hỷ. Quả thật, với người khéo
đọc sách này ắt những tâm niệm gian dối tàn độc sẽ
tức thời tan biến, mà những tâm nguyện tự lợi lợi tha
sẽ tự nhiên mạnh mẽ sinh khởi, từ chỗ suy ngẫm mà
từng bước dần dần hướng thiện, ngày càng tiến bộ sâu
xa hơn, dẫu không lưu tâm đến mà tự nhiên tâm trần
tục cũng chuyển dần thành trí tuệ thánh nhân, gần
như có thể đạt đến chỗ thấu triệt lẽ sinh tử, vĩnh viễn
thoát khỏi luân hồi, được đối diện kính lễ đức Phật
A-di-đà, tự mình được Phật ban lời thọ ký.
Kính cẩn đọc qua sách này rồi, hân hoan có lời
tụng rằng:
Từ lâu chìm trong biển nghiệp,
Bỗng nhiên gặp chiếc thuyền từ.
Xin vâng theo đạo từ bi,
Quay về nương Đấng Giác ngộ.
An Sĩ toàn thư
14 15
Lòng tin sâu, nguyện chí thiết,
Tham chấp, luyến ái đều buông,
Giao hòa cảm ứng đạo mầu,
Phật A-di-đà kề cận.
Ngoài ra xin đọc thêm ở bài tựa viết năm Mậu
Thân (1908), nay không chép lại rườm rà.
Năm Dân quốc thứ 7 (1918),
Mậu Ngọ, ngày 19 tháng 6.
Cổ Tân Thích Ấn Quang kính cẩn ghi. 1
1 Đại sư Ấn Quang sinh ngày 11 tháng 1 năm 1862, mất ngày
2 tháng 12 năm 1940, được tôn xưng là Tổ thứ 13 của Tịnh độ
tông Trung Hoa, có nhiều cống hiến quan trọng trong việc chấn
hưng Phật giáo tại Trung Hoa nói chung và pháp môn Tịnh độ nói
riêng. Đại sư ở nhiều tác phẩm khác cũng thường ký tên là Cổ Tân
Thường Tàm Quý Tăng Thích Ấn Quang (古莘常惭愧僧释印光).
Ngài biết trước ngày viên tịch, cho mời bốn chúng đệ tử cùng tụ
tập và hết lời khuyên dạy phải tin sâu pháp môn niệm Phật. Sau
đó ngài ngồi xuống trong tư thế kiết già, cùng đại chúng niệm Phật
trong chốc lát rồi an nhiên viên tịch. Người đương thời tin rằng
ngài là hóa thân của Bồ Tát Đại Thế Chí.
Lời tựa viết năm Mậu Thân (1908)
(Viết theo lời thỉnh cầu
của vị cư sĩ đất Thục là Lý Thiên Quế)
L
ớn lao thay! Bản tâm ta vốn đầy đủ chánh
đạo! Mầu nhiệm thay! Bản tâm ta vốn sẵn có
diệu pháp!
Xưa nay lặng lẽ chiếu soi không phân biệt; đường
chân nẻo tục thảy viên dung. Lìa tất cả niệm, dứt hết
thảy tình; không sinh cũng không diệt. Nói là có đó
mà không phải có; nhưng không có mà lại có. Nói là
không đó mà chẳng phải không; tuy chẳng phải không
mà lại không. Các vị Phật sống đều từ đó xuất sanh,
bậc thánh kẻ phàm đều không thể gọi tên. Như gương
sáng xưa nay không một vật, nhưng hiện ra muôn
cảnh Hán, Hồ. Như hư không mênh mông xa lìa mọi
hình tướng, ngại gì lúc mặt trời chiếu sáng hoặc mây
che. Đó chính là thực tại rốt ráo, không vướng một
mảy bụi trần; ngay trong tâm chưa giác ngộ này đã
trọn gồm đủ các pháp như chỗ chứng đắc giác ngộ vô
An Sĩ toàn thư
16 17
Lời tựa viết năm Mậu Thân (1908)
thượng của chư Phật, cũng như chỗ mê muội không
nhận biết chân tâm thường trụ của chúng sinh.
Các bậc thánh nhân trong Tam giáo đều y theo một
tâm tánh này mà rủ lòng thương xót dạy dỗ, dẫn dắt
bao chúng sinh mê muội. Do ý nghĩa này mà Khổng
Phu tử 1 đề xướng thuyết “thành minh”, chọn lấy sự chí
thành sáng suốt làm chỗ uyên áo, từ đó đưa ra những
giềng mối tu sửa trị an;  2 Lão tử 3 nói ra sách Đạo Đức
kinh, giảng dạy phép sống lâu an ổn. Đấng Đại giác
Thế Tôn nêu rõ tánh pháp giới, chỉ bày tâm chân như,
dạy đạo chân thật buông bỏ phàm trần quay về Chánh
giác, lập nên tông chỉ bất sanh bất diệt. Tuy chỗ cạn
sâu lớn nhỏ không đồng, giữa thế gian với xuất thế
gian có điều khác biệt, nhưng thảy đều không ra ngoài
lẽ chung là ngay trong tâm này của chúng ta đã đủ
đầy muôn pháp. Phát huy giảng rộng pháp này đến
hết thảy chúng sinh hữu tình, từ nơi tự tánh mà khởi
tu, chính là nhằm hiển lộ tự tánh, dứt sạch vọng niệm
1 Nguyên tác dùng địa danh Ni Sơn (尼山) để chỉ đức Khổng Tử,
vì đây là nơi ngài sinh ra.
2 Tức là thuyết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, là căn bản
trong học thuyết trị an của đức Khổng tử.
3 Nguyên tác dùng chữ Trụ Sử (柱史) để chỉ đức Lão Tử, vì theo
Cao sĩ truyện (高士傳), quyển thượng, phần Lão Tử Lý Nhĩ, thì
ngài từng giữ chức quan ngự sử trong triều đình nhà Chu.
huyễn ảo, quay về tự tánh chân thật vốn có, vĩnh viễn
ra khỏi đường mê, thẳng một đường lên bến giác.
Đức Văn Xương Đế Quân là người trong nhiều
đời thường giữ theo năm mối luân thường, 1 cung kính
vâng lời dạy trong Tam giáo, lấy công hạnh của chính
mình để giáo hóa người khác, chỉ một lòng muốn vươn
lên chí thiện; công cao đức sáng, chấp chưởng quyền
hành, thường lo cho những kẻ ít học vô trí, mê muội
không biết đến bản tánh xưa nay thường trụ, nên
nhân đó viết ra bài văn Âm chất (陰騭文), trong đó nói
rõ ngài đã “trải qua mười bảy đời đều sinh làm kẻ sĩ
có quyền thế”. Bài văn ấy nghĩa lý nhiệm mầu không
cùng tận, liệu ai có thể đo lường được chỗ cội nguồn
uyên áo? Tuy qua nhiều năm đã có rất nhiều người chú
giải, nhưng vẫn chưa có ai thấu rõ được hết chỗ sâu xa
thâm áo, khiến cho từ trước đến nay, kẻ dạy người học
văn này đều còn có chỗ vướng mắc phân vân, không
thể nào hài lòng thấu triệt.
Tiên sinh An Sĩ là bậc nhiều đời trồng sâu cội phúc,
theo nguyện lành tái sinh cõi này, thông hiểu đến chỗ
tột cùng của sách vở thế gian, thâm nhập sâu xa vào
Kinh tạng Phật giáo, đem chỗ sở học ấy mà dạy dỗ dắt
dẫn người đời, khiến cho ai nấy đều tin nhận. Tiên
1 Tức ngũ thường của Nho giáo, bao gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí và
tín.
An Sĩ toàn thư
18 19
Lời tựa viết năm Mậu Thân (1908)
sinh dấn thân vào chốn thế tục để làm khuôn mẫu tốt
đẹp cho người đời, dùng chỗ học hiểu am tường, chứng
đắc mầu nhiệm để nắm lấy tinh yếu trong Phật pháp
cũng như trong Lão học, 1 thuận theo bài văn giảng
pháp tùy căn cơ của Đế Quân, đưa vào những chú giải
so sánh tường tận dễ hiểu cho tất cả mọi người, đạo
lý căn bản chẳng lìa bản tâm mà văn từ đạt được chỗ
tinh yếu, trưng dẫn những chuyện có thật, xua tan
mây đen ngờ vực phủ che tâm ý, nêu rõ được tôn chỉ
nghĩa lý, giương cao mặt trời trí tuệ chiếu soi giữa bầu
trời chân tánh, khiến người đọc qua rồi thì mỗi mỗi
sự việc đều có chỗ học theo, mỗi mỗi tâm niệm đều
có chỗ tự răn ngừa, cải hối; ấy là trực tiếp tương giao
với tấm lòng từ bi thương người của Đế Quân, giảng
giải thấu triệt, bày rõ ngọn nguồn, khiến cho hết thảy
trong thiên hạ, kẻ dạy người học văn này ngày nay
đều có thể hiểu rõ mọi điều, không còn một chút gì
phân vân vướng mắc.
Nhưng tâm bi mẫn như thế dường chưa đủ, đại
nguyện từ ái vẫn khôn cùng, tiên sinh còn muốn cho
người người đều phát triển lòng chân thật khoan thứ,
đối với nhau như anh em một nhà, dứt binh đao cùng
an ổn hưởng trọn tuổi trời, dùng lễ nghĩa làm giềng
mối luật tắc, yêu đức tốt mà xa lìa sắc dục, nên liền
1 Trong nguyên tác dùng các địa danh Linh Sơn (靈山) và Tứ Thủy
(泗水) để chỉ nơi phát tích của thiền tông Phật giáo và Lão giáo.
viết ra một quyển sách để ngăn việc sát sinh hại vật,
lấy tên là “Vạn thiện tiên tư” (萬善先資), và một quyển
khác để ngăn việc đam mê dâm dục, lấy tên là “Dục
hải hồi cuồng” (欲海回狂). Chỉ do người đời vốn tạo
nghiệp giết hại quá nhiều, lại gặp chuyện dâm dục thì
rất dễ phạm vào, nên tiên sinh thương xót chẳng ngại
nhọc nhằn lao khổ, không ngớt lời răn dạy.
Nhưng việc làm thiện của thế gian dẫu sao cũng
chỉ được phước báo trong hai cõi trời, người. Hưởng
tận phước rồi ắt phải đọa lạc vào những cõi thấp kém,
khổ não độc hại biết làm sao dứt được? Vì thế nên tiên
sinh đã tìm đọc qua các Kinh luận của tông Tịnh độ,
chọn lấy những lời thích hợp mà soạn thành một tập
sách lấy tên là “Tây quy trực chỉ” (西歸直指), truyền
rộng để giúp cho muôn người, dù thuộc hàng phú quý
cũng như hạ tiện, dù già trẻ nam nữ, dù kẻ trí người
ngu, hàng xuất gia cũng như kẻ tại gia, hết thảy đều
đồng niệm Phật A-di-đà, cầu sinh về thế giới Cực Lạc,
vượt thoát luân hồi, thẳng lên địa vị không còn thối
chuyển; dứt nỗi khổ của vọng nghiệp hư huyễn, hưởng
niềm vui của bản tâm thường tại.
Ba pho sách được kể trước, 1 tuy là giảng rõ pháp
tu hành thiện nghiệp thế gian, nhưng đồng thời cũng
1 Tức là 3 quyển Âm chất văn quảng nghĩa, Vạn thiện tiên tư và
Dục hải hồi cuồng.
An Sĩ toàn thư
20 21
Lời tựa viết năm Mậu Thân (1908)
có đủ pháp thấu triệt sinh tử. Một quyển sau cùng 1 tuy
giảng rõ pháp thấu triệt sinh tử, nhưng đồng thời cũng
dạy phải tu tập thiện nghiệp thế gian. Cho đến những
việc như thuận đạo lý ắt hưởng quả lành, nghịch đạo
lý ắt gặp tai ương, mỗi mỗi đều phân tích chi ly, biện
giải rành mạch, dứt điều nghi hoặc, làm rõ chỗ vướng
mắc, lý lẽ thật trọn vẹn thuyết phục, ngôn từ lại hay lạ
tuyệt diệu, có thể khai mở tâm tư người ngu độn hôn
muội, đủ sức mạnh mẽ như vớt người chết đuối, cứu
kẻ bị lửa thiêu. Chỗ chí thành có thể thấu suốt, hợp
với lý lẽ trong trời đất; phân biện việc quỷ thần, có thể
dứt sạch sự hoài nghi, càng thêm thanh thế Lục kinh, 2
giúp định rõ kỷ cương trên dưới, quả thật là một quyển
kỳ thư khuyến thiện bậc nhất trong thiên hạ, nếu so
với những quyển sách khuyến thiện tầm thường khác,
há có thể sánh cùng được sao? Lòng tôi vẫn tin chắc
rằng tiên sinh hẳn là bậc Bồ Tát theo bản nguyện mà
hiện thân cư sĩ để thuyết pháp độ sinh.
Tôi vốn người kém trí, thuở thiếu thời tuy có đọc
sách Nho nhưng không rõ được chỗ tinh yếu truyền
lại của Khổng Mạnh. Lại theo học Phật pháp đã lâu
1 Tức là sách Tây quy trực chỉ.
2 Lục kinh: 6 pho sách tinh yếu thời cổ của Nho gia, bao gồm kinh
Thi, kinh Thư, kinh Dịch, kinh Lễ, kinh Nhạc và kinh Xuân Thu.
Khi nói Ngũ kinh thì không đề cập đến kinh Nhạc.
nhưng vẫn chưa chứng ngộ được thể tánh Như Lai.
Thời gian thấm thoát, nay sắp bước vào tuổi “tri thiên
mệnh” 1 nhưng kiến thức nông cạn, chỉ có tấm lòng ưa
thích việc lành, thật không chút sức lực làm lợi lạc cho
người khác. Muốn đem quyển sách quý này khắc bản
rộng truyền nhưng chẳng biết làm sao, phận nghèo
không đất cắm dùi, lại thêm lười nhác trong việc hô
hào quyên góp, nên trải qua nhiều năm vẫn chưa
thành tựu tâm nguyện.
Có vị cư sĩ người đất Tây Thục là Lý Thiên Quế,
vốn sẵn căn lành, siêng tu thiện hạnh, mong đạt được
pháp Phật cao trổi, nhân tìm đến lễ bái nơi chùa Pháp
Vũ trên núi Phổ Đà nên tình cờ gặp gỡ. Quả thật là:
Nếu không tiền định nhân duyên,
Cớ sao không hẹn, cửa thiền gặp nhau?
Vị ấy liền cung kính thưa hỏi, mong được chỉ bày
chỗ tinh yếu của pháp môn vượt thoát luân hồi. Tôi
nhân đó khuyên ông trước hết phải nỗ lực giữ theo
giềng mối luân thường, chuyên cần tu tập tịnh nghiệp,
thường làm những việc lợi mình lợi người, noi theo
đó là chỗ thiết yếu nhất. Nếu có thể tự mình kiên trì
1 Tức gần 50 tuổi, do câu nói của Khổng tử “ngũ thập tri thiên
mệnh” (50 tuổi biết được mệnh trời) nên người sau thường dùng
thành ngữ này để chỉ độ tuổi ngũ tuần.
An Sĩ toàn thư
22 23
thực hành như thế không gián đoạn, ắt rồi sẽ có thể
cảm hóa mọi người chung quanh. Bằng như chỗ thực
hành của tự thân không phù hợp với lời nói ra, thì
việc truyền pháp sẽ ngược lại hóa thành hủy hoại giáo
pháp. Công đức thế gian nếu chẳng tu tập bồi đắp, thì
thiện tâm chẳng do đâu được chuyển biến. Công đức
không tu, thiện tâm không chuyển, ấy đều là do không
gặp được những bậc thầy hay bạn tốt để làm gương
sáng cho mình noi theo.
Nhân đó liền mang sách An Sĩ toàn thư này ra
tặng cho một bản, khuyên vị ấy hãy đọc qua trọn vẹn,
chú ý nơi nhất cử nhất động hằng ngày đều y theo
những lời khuyên dạy trong sách, thảy thảy đều tương
hợp, không chút sai lệch, hẳn có thể xem là thành tựu.
Người ấy hân hoan như được báu vật, vui mừng không
dứt, liền phát nguyện khắc bản in lại để rộng truyền
khắp nơi, lại thỉnh cầu tôi viết cho lời tựa để công bố
với mọi người.
Vì thế, tôi không ngại chỗ học kém cỏi, lược viết ra
đây nguyên do sự việc, lòng muốn đem sự lợi lạc đến
cho muôn người, tu sửa tự thân, xây dựng gia đình,
dạy dỗ cháu con theo gương các bậc thánh hiền, nhận
biết chân tâm bản tánh, thấu triệt lẽ tử sinh. Nếu ai
đọc kỹ rồi ra sức làm theo, ắt sẽ thấy đúng như lời tôi
nói, không chút sai dối.
Lời tựa của Trương Thủ Ân
Nhân dịp khắc bản in lại
vào năm Quang Tự thứ 7 (1881)
T
ôi lúc trước chưa từng học Phật. Ngày ấy,
nhân có người khách đến chơi mang bộ Toàn
thư của tiên sinh Chu An Sĩ đưa cho xem. Tôi mở sách
xem qua mấy phần, lập tức lộ vẻ bực dọc, không muốn
xem nữa. Khách ngạc nhiên gặn hỏi: “Ông vì sao lại có
thái độ như vậy?” Tôi đáp: “Những gì tiên sinh An Sĩ
nói ở đây hoàn toàn trái ngược với lời một vị tiên sinh
tôi đã biết. Ông cho rằng những lời của tiên sinh An Sĩ
là đúng, hẳn những lời vị tiên sinh kia là sai chăng?”
Vị khách ấy cười nói: “Tính khí ông thật nóng nảy
quá! Đây nào phải chuyện tranh đấu thắng thua? Chỗ
lập luận của vị tiên sinh kia với tiên sinh An Sĩ, thật
không phải chỗ mà những người như bọn tôi với ông có
thể theo kịp. Tôi đây không dám lấy sức con phù du để
cố làm lung lay đại thụ, còn như ông lại muốn lấy chút
lửa đom đóm để thiêu rụi núi Tu-di được sao? Chuyện
An Sĩ toàn thư
24 25
Lời tựa của Trương Thủ Ân (1881)
đúng sai thôi hãy khoan bàn kỹ, nay ví như có người
không hề biết đến đời sau, không tin chuyện nhân quả
nên hùng hổ làm nhiều việc ác. Lại ví như một người
khác thực sự biết có đời sau, tin có nhân quả, nên năng
nổ làm nhiều việc thiện. Vậy trong hai người ấy, theo
ông thì ai hơn ai kém?”
Tôi cũng cười, đáp lại rằng: “Ông xem tôi kém cỏi
đến thế sao? Nếu trong việc này mà không phân được
ai hơn ai kém, thì khác nào như có mũi mà không nhận
biết được mùi hương?”
Vị khách liền hỏi: “Nếu đã là như vậy, cớ sao ông
lại hoài nghi sách Toàn thư của tiên sinh An Sĩ?”
Tôi đáp: “Ông tuy giỏi biện luận, nhưng những
chuyện như thuận đạo lý thì được tốt lành, làm việc
trái nghịch ắt gặp việc dữ, hoặc nhà làm việc thiện ắt
có niềm vui, nhà làm nhiều việc ác ắt gặp tai ương...
thì nhà Nho chúng tôi đã nói quá nhiều rồi, cần chi
phải viện dẫn đến kinh Phật?”
Vị khách nói: “Ấy là ông vẫn còn chưa suy xét kỹ
đó thôi. Nói về lý nhân quả báo ứng, nếu không xét
đến cả 3 đời quá khứ, hiện tại và vị lai, ắt không thể
nào trọn vẹn thuyết phục. Nhưng có thể giảng giải
rõ ràng tường tận về nhân quả trong ba đời như thế,
duy nhất chỉ có Phật mà thôi. Vì thế, tiên sinh An Sĩ
chẳng ngại có người hiềm khích ganh ghét, hết lời răn
nhắc cảnh tỉnh, khiến cho người mê phải tỉnh. Như
thế cũng là cùng một tấm lòng như vị tiên sinh kia khi
viết sách truyền lại cho hậu thế đó thôi.”
Khi ấy, trong lòng tôi đã dần bình tĩnh lại, liền
cũng cười đáp: “Ấy là ông chỉ tự riêng mình suy đoán
chủ quan nói ra, quả nhiên là giấu đầu mà lại lòi đuôi.”
Khách liền nghiêm sắc mặt mà nói: “Những gì vị
tiên sinh kia viết ra chính là pháp của thế gian, còn
những điều tiên sinh An Sĩ viết ra lại là pháp thế gian,
suốt thông cùng pháp xuất thế gian, mỗi câu mỗi chữ
đều là lời tâm huyết, ý thiết tha, như dùng kim vàng
khơi mắt giúp người mù thấy được ánh sáng, 1 thật hết
sức nhọc nhằn, quyết lòng răn nhắc, cho dẫu là những
bậc cha anh yêu thương dạy dỗ con em mình cũng
không dốc lòng hơn thế được. Nay sách Toàn thư đang
sẵn có đây, nếu ông quay lại tìm đọc trong đó ắt gặp
được thầy, đâu cần tôi phải lắm lời biện giải lôi thôi dài
dòng như thế này.”
Vị khách nói rồi để tập sách lại tặng cho tôi. Tôi
kính cẩn nhận lấy, một lần nữa lại mở ra đọc. Ban đầu
còn phải dò tìm manh mối theo văn chương câu cú,
1 Y học Trung Hoa tin rằng các bậc đại danh y ngày xưa có khả
năng trị được chứng mù mắt bằng cách dùng một loại kim vàng
khơi vào võng mạc.
An Sĩ toàn thư
26 27
dần dần về sau mới thể hội được tông chỉ ý thú, hốt
nhiên bừng tỉnh thấu triệt thông suốt. Khi ấy buồn
vui lẫn lộn, như người lạc lối gặp kẻ dẫn đường, như
khi bệnh nặng gặp phương thuốc hay, như giữa giao lộ
tối tăm được bó đuốc sáng soi, như giữa biển khổ mênh
mông được gặp con thuyền từ cứu vớt, bất chợt không
kiềm được tiếng thở dài mà than rằng: “Than ôi! Nếu
không may mắn được đọc sách này, ắt một đời ta đã
phải luống trôi qua vô ích!”
Như vậy, nếu không gặp được bạn hiền như vị
khách ngày xưa, ắt hẳn hết một đời này tôi cũng không
biết được rằng còn có đời sau, cũng không tin được là
có nhân có quả.
Hỡi ôi! Được làm người là khó, được nghe pháp
Phật lại càng khó hơn. Chúng sinh chịu khổ trong ba
đường dữ, 1 thử hỏi do ai là người gây ra như thế? Xưa
có người nói rằng: “Ai đã từng trôi giạt lang thang,
hẳn mới biết cảm thông mà thương người lưu lạc!”
Nhân viết ra đây nhân duyên được đọc sách, nhắn
gửi với những ai về sau có duyên may gặp được sách
này.
1 Ba đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Do tạo ác nghiệp
mà phải sinh vào một trong 3 cảnh giới này.
Lời tựa đầu tiên
của sách Giảng rộng bài văn Âm chất
K
inh Dịch nói rằng: “Nhà nào thường làm việc
thiện, ắt sẽ được nhiều điều tốt đẹp.” Kinh
Thư viết: “Làm việc thiện được hưởng trăm điều tốt
lành.” Sách Tả thị xuân thu 1 cũng có nói: “Việc họa
phúc vốn không ai định trước, chỉ là do con người tự
chuốc lấy.” Thế nên biết rằng, những việc tốt lành hay
tai họa vốn là lẽ tất nhiên trong trời đất. Tôn chỉ của
Tam giáo 2 vốn không khác nhau, đều cùng một lý. Nhà
Nho khi nghe đến thuyết nhân quả là do nhà Phật
nói ra, liền quy cho những chuyện như thuận đạo tốt,
nghịch đạo xấu, nhân quả theo nhau như bóng với
hình, như tiếng vọng với âm thanh... hết thảy đều là
của nhà Phật. Lại cho rằng người chết rồi không còn
có đời sau, làm thiện làm ác đều không có báo ứng...
Nhưng ví như người không tin nhân quả thì chẳng có
gì phải sợ sệt, rốt cùng hẳn chỉ muốn làm kẻ tiểu nhân
mà thôi.
1 Cũng gọi là Tả truyện, hay Tả thị xuân thu truyện, do Tả Khâu
Minh viết ra nên gọi là Tả thị.
2 Tam giáo: chỉ Nho giáo, Phật giáo và Lão giáo (tức Đạo giáo).
An Sĩ toàn thư
28 29
Lời tựa đầu tiên của sách Giảng rộng bài văn Âm chất
Đức Văn Xương Đế Quân, hiện thân hiền thánh
trong đời để thuyết pháp, soạn ra bài văn Âm chất để
răn dạy người đọc sách, ngay từ đầu đã viết rằng: “Ta
trải qua mười bảy đời đều sinh ra làm kẻ sĩ...” Như vậy
rõ ràng đời này quyết còn có đời sau, chưa từng dứt
mất. Tiếp đó lại viết: “Người giữ lòng lành được như
ta, trời ắt ban phúc”, cho thấy chuyện thiện ác rõ ràng
là có báo ứng, không mảy may sai lệch. Đến cuối bài
lại viết: “Ngưỡng vọng thánh hiền xưa, thận trọng xét
mình không lầm lỗi; hết thảy việc ác quyết không làm,
hết thảy việc lành xin vâng theo.” Thật càng biểu hiện
rõ, chưa từng thấy ai có tấm lòng thương đời cứu người
hết sức khó nhọc, chân thành chí thiết đến như thế,
quả không phải việc nhà Nho chúng ta có thể gánh vác
chu toàn, chẳng sợ làm hỏng việc mất sao?
Tiên sinh Chu An Sĩ đọc qua hết các sách của Tam
giáo, chọn lọc các luận điểm của trăm nhà, rồi mang bài
văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân ra phân tích từng
câu từng chữ thật tường tận, đưa vào các chú giải, chú
thích, hết sức rõ ràng minh bạch, lại giảng rộng thêm
vào những chỗ ý thú chưa trọn vẹn, phát huy những
nghĩa lý mầu nhiệm trước đây chưa từng được nghe,
gạn lọc bỏ đi những chuyện tầm thường hủ bại, viễn
vông không đúng thật, dứt khoát phá trừ những kiến
thức thiển cận, hạn hẹp, như thế suốt thông hơn mười
vạn câu, lấy tên là Giảng rộng bài văn Âm chất. Tiên
sinh Tiêu Tụng Hy đọc qua hết sức ngợi khen thích thú,
chỉ lấy làm tiếc vì việc khắc bản in còn dở dang chưa
được nửa phần, lập tức đứng ra khởi xướng quyên góp
cho việc này. Tiếp theo lại được các ông Cố Thọ Kỳ, Kim
Nghiêu Phong, La Doãn Mai hợp lực hỗ trợ, huynh đệ
tiếp nối nhau cùng gắng sức nên việc được thành tựu.
Khi việc khắc bản hoàn tất, Chu Tiên sinh muốn
tôi viết cho lời tựa. Tôi đọc qua sách này rồi cảm thán
rằng: “Tiên sinh đã có thể thương xót dùng lời răn dạy
để sửa lỗi cho những kẻ sai lầm, các vị huynh đệ lại có
thể cùng nhau quyên góp giúp sức làm nên việc tốt đẹp
cho người đời. Tâm lành hội tụ, càng thêm huy hoàng
lợi lạc, chỉ mong sao những ai có duyên may được đọc
sách này đều tự thân ra sức thực hành, tự mình hướng
thiện rồi dẫn dắt người khác cùng nhau tiến lên.”
Những lời vàng ngọc của Đế Quân 1 không thể để
đi vào quên lãng, ắt phải được rộng truyền đến tất
cả những kẻ có lòng, đâu chỉ giới hạn ở năm ba người
quân tử. Tôi thật kỳ vọng ở việc này lắm thay!
Lâu Đông Đường Tốn Hoa 2 kính ghi
1 Nguyên tác dùng chữ Nguyên Hoàng (元皇) là một danh xưng
khác để chỉ Văn Xương Đế Quân.
2 Đường Tốn Hoa (唐孫華) tên tự là Thật Quân (實君), biệt hiệu Đông
Giang (東江), về già lấy hiệu là Tức Lư Lão nhân (息廬老人). Ông
sinh năm 1634, mất năm 1723, từng đậu tiến sĩ vào năm Khang Hy
thứ 27 (1688). Ông có để lại tập Đông Giang thi sao (東江詩鈔).
30 31
Bài văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân
Đ
ế Quân nói rằng: “Ta trải qua 17 đời sinh ra
làm kẻ sĩ có quyền thế, chưa từng bạo ngược
với dân, tàn khốc với thuộc cấp; thường cứu người khi
nguy nan, giúp người khi khẩn thiết, thương xót người
cô độc, khoan thứ kẻ lỗi lầm, rộng làm những việc
phúc thiện, tích âm đức, thấu tận trời xanh. Nếu ai có
thể giữ tâm hiền thiện như ta, ắt được trời ban phước
lành. 1 Do đó mà ta có lời răn dạy mọi người rằng:
1 Trời ban phước lành: là cách diễn đạt theo thuyết Thiên mệnh
hay Thiên định, cho rằng mọi việc họa phúc của mỗi người đều do
trời định, vốn là thuyết của Nho gia. Tuy nhiên, khi đạo Phật được
truyền rộng khắp Trung Hoa thì những người học Phật đã nhận
hiểu thuyết này theo cách hơi khác đi, rằng tuy mọi việc họa phúc
là do trời định, nhưng không phải một sự quyết định tùy tiện mà là
căn cứ vào những việc thiện ác mỗi người đã làm. Hiểu theo cách
này thì “ông trời” chỉ còn là một đại diện của nguyên lý nhân quả,
vốn theo Phật dạy là tự nó vận hành. Những người theo Lão giáo
(hay Đạo giáo) thì cụ thể hóa việc này qua niềm tin về sự ghi chép
những việc thiện ác của mỗi người trong sổ Nam tào, để Ngọc
hoàng căn cứ theo đó mà ban phúc giáng họa. Chính sự trộn lẫn
giữa Nho - Phật - Lão như thế đã giúp cho các thuyết thiên mệnh
và nhân quả đều đồng thời tồn tại mà không mâu thuẫn với nhau.
An Sĩ toàn thư
32 33
Bài văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân
Xưa Vu Công giữ việc xử án, xây cổng lớn đợi xe bốn
ngựa; họ Đậu giúp đỡ muôn người, một cội sinh năm
cành quế; Tống Giao cứu đàn kiến, trúng tuyển trạng
nguyên; Thúc Ngao chôn xác rắn, sau làm tể tướng. 1
Muốn tạo ruộng phước rộng sâu, ắt phải dựa vào một
tấm lòng này; ngày ngày thường dùng các phương tiện,
làm đủ mọi việc lành, tích âm đức; lợi người lợi vật, làm
thiện tích phước. Chính trực thay trời hành đạo dạy
người, mở rộng lòng từ, vì nước cứu dân.
Đối xử với người phải giữ lòng trung, với cha mẹ
ông bà phải hiếu thảo; với anh em phải giữ lòng kính
trọng, thương yêu lẫn nhau, với bạn hữu phải giữ lòng
tin cậy. Hoặc phụng chân triều đẩu, 2 hoặc thờ Phật
học kinh, thường nhớ nghĩ làm theo lời Phật dạy. Báo
đáp bốn ơn sâu, 3 thực hành rộng khắp theo Tam giáo.
1 Các sự tích này đều được Đại sư Ấn Quang trích lại từ các thư
tịch cổ đưa vào đầy đủ trong phần bổ khuyết.
2 Phụng chân triều đẩu: niềm tin của Đạo giáo cho rằng phải thờ
phụng các bậc chân nhân, lễ bái các vị tinh tú, cho rằng các vị ấy
được Ngọc Đế giao cho việc cai quản, dạy dỗ hoặc thưởng phạt
người đời.
3 Bốn ơn sâu (Tứ trọng ân): Kinh Phật dạy rằng mỗi người đều
có bốn ơn sâu phải báo đáp, bao gồm: 1. Ơn cha mẹ sinh thành
dưỡng dục, cũng bao gồm ông bà tổ tiên đã nhiều đời truyền nối
để có thân ta; 2. Ơn chúng sinh tương trợ tương tác, để ta có cuộc
sống như hiện nay, vì mỗi người quanh ta đều có sự đóng góp nhất
Giúp người khẩn cấp như cá mắc cạn; cứu người
nguy nan như chim bị lưới siết. Xót thương trẻ mồ côi,
giúp đỡ người góa bụa; kính trọng người già, thương
kẻ nghèo khó; chu cấp cơm ăn áo mặc cho người lỡ
đường đói rét; giúp quan quách cho nhà nghèo khó để
thi hài người chết được ấm cúng. Nhà giàu sang phải
nâng đỡ thân thích; mất mùa đói kém phải cứu giúp
lối xóm. Cân đo phải công bằng, không được bán ra
non, thu vào già. Với kẻ dưới phải khoan thứ, không
nên khắc nghiệt, soi mói.
Nên góp phần in ấn rộng truyền kinh sách, xây
dựng chùa chiền, tu viện. Giúp thuốc thang cứu người
bệnh khổ, giúp nước uống giải cơn khát cho người.
định cho sự sống của ta, cũng có thể hiểu đơn giản hơn là ơn cộng
đồng xã hội đã cho ta môi trường sống tốt đẹp; 3. Ơn quốc vương,
hiểu theo ngày nay tức là những người lo việc giữ gìn giềng mối,
trật tự trong xã hội, giữ cho đất nước ta được thanh bình, ổn định
và phát triển; 4. Ơn Tam bảo, đã chỉ ra cho chúng ta con đường
chân chánh để noi theo, để có thể làm người hiền thiện, đạt được
an vui trong cuộc sống và hướng đến sự giải thoát khỏi luân hồi.
Theo sách Thích thị yếu lãm (釋氏要覽) thì bốn ơn nặng của người
xuất gia được giải thích hơi khác biệt hơn, bao gồm: 1. Ơn cha
mẹ; 2. Ơn thầy tổ, sư trưởng; 3. Ơn quốc vương, người trị nước; 4.
Ơn thí chủ, những người chu cấp cho ta tu hành. Tuy nhiên, ở đây
cũng có thể hiểu ơn thí chủ tức là ơn chúng sinh như đã giải thích
trên, và ơn thầy tổ cũng chính là ơn Tam bảo. Như vậy thì 2 cách
giải thích này cũng có sự tương đồng chứ không mâu thuẫn.
An Sĩ toàn thư
34 35
Bài văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân
Hoặc bỏ tiền mua vật sống phóng sinh, hoặc ăn chay
từ bỏ sự giết hại. Mỗi khi cất bước, phải chú ý quan
sát để không giẫm đạp các loài côn trùng; không đốt
lửa gây cháy rừng cháy núi. Đêm tối giúp người đi
đường có đèn soi sáng; sông rộng giúp thuyền bè đưa
người qua lại. Không dùng lưới bắt các loài chim thú
trên cạn, không dùng thuốc độc bắt các loài cá tôm
dưới nước. 1 Không giết thịt trâu cày; không vất bỏ giấy
có chữ viết. Không mưu mô lấy tài sản người khác;
không ganh tỵ với người có tài năng kỹ xảo. Không tư
tình tà niệm với vợ người. Không xúi giục người trong
việc tranh tụng. Không hủy hoại đường danh lợi của
người khác, không làm tan vỡ chuyện hôn nhân của
người. Không vì chuyện thù oán riêng mà làm cho anh
em nhà người sinh chuyện bất hòa; không vì chút lợi
nhỏ cho riêng mình mà khiến cha con người khác trở
thành xung khắc. Không dựa vào quyền thế làm nhục
kẻ hiền lương; không ỷ mình giàu sang khinh rẻ người
cùng khốn.
Gặp người hiền thiện phải thân cận, gần gũi, vì có
thể giúp ta tăng thêm đức tốt của tâm, hạnh lành của
1 Tuy cũng là sát sinh hại vật, nhưng hai hình thức này tàn độc hơn
hẳn các hình thức săn bắt khác, vì giăng lưới thì chim thú các loài
đều bị bắt, đánh thuốc thì tôm cá lớn nhỏ đều bị sát hại. Đánh bắt
như vậy thì muôn vật trên cạn dưới nước đều phải nhanh chóng
cạn kiệt, môi trường cũng do đó bị tàn hại không dễ khôi phục.
thân. Gặp người xấu ác phải xa lánh ngay, vì chỉ trong
chớp mắt có thể mang đến cho ta tai họa khôn lường.
Thường phải tu tập dẹp trừ điều xấu ác, phát huy
những việc tốt lành; miệng nói ra những lời đúng thật
thì trong lòng không được nghĩ điều sai quấy. Phát
dọn gai góc lùm bụi chướng ngại đường sá, dọn sạch đá
gạch ngăn giữa lối đi. Đường sá gập gềnh đã lâu năm
thì góp sức tu sửa, san phẳng; sông rộng có ngàn vạn
người thường qua lại thì ra công bắc cầu.
Lấy tình thương ngỏ lời dạy bảo, sửa lỗi cho người.
Quyên góp tiền bạc giúp người thành tựu những điều
tốt đẹp. Làm việc gì cũng noi theo đạo lý, nói ra lời nào
cũng thuận với lòng người. Kính ngưỡng bậc thánh
hiền tiên triết, dù đi đứng nằm ngồi vẫn thường nghĩ
nhớ; cẩn thận giữ gìn phẩm hạnh để lúc một mình
tĩnh tâm không thấy có gì phải hổ thẹn với lòng. Hết
thảy việc ác quyết không làm, hết thảy việc lành xin
vâng theo.
Vĩnh viễn không gặp điềm dữ, thường thường được
thiện thần giúp đỡ. Phước báo đến nhanh thì tự thân
được hưởng, chậm thì lưu lại đến cháu con. Trăm điều
phúc lành đồng thời đến, ngàn việc tốt đẹp hội tụ về,
chẳng phải nhờ việc tích tạo âm đức mà được như thế
đó sao?
37
Phần bổ khuyết
36
Phần bổ khuyết
T
iên sinh An Sĩ biên soạn sách này, từ những
lý lẽ, sự kiện cho đến văn chương ý nghĩa đều
trọn vẹn, chu đáo. Tuy nhiên, có 5 sự việc đáng lưu ý là:
1. Hóa thân sau cùng của Đế Quân
2. Vu Công giữ việc xử án
3. Đậu thị giúp đỡ muôn người
4. Tống Giao cứu kiến
5. Thúc Ngao chôn xác rắn
Tiên sinh khi khảo xét các chuyện này, hoặc vì
có những chuyện chưa từng được chính thức ghi chép,
hoặc vì có những chuyện thấy đã đăng tải đầy đủ nơi
các sách khác, người đời sau đều rõ biết, nên lược bỏ đi.
Thế nhưng, như thế thì những người chưa từng
đọc qua nhiều sách vở hẳn không thể biết được những
chuyện này. Đây quả thật là một điều hết sức đáng tiếc
cho đời sau. Vì vậy, nay căn cứ vào các bản chú thích,
dẫn chứng của bài văn Âm chất để ghi chép thêm vào
bản in lần này các chuyện nói trên, khiến cho sự thật
được rõ ràng.
Nhưng cũng chỉ là y theo nguyên văn mà chép lại,
không sửa đổi gì cả.
Thích Ấn Quang kính ghi
Hóa thân sau cùng của Đế Quân
Đ
ế Quân sinh vào đời nhà Tấn, 1 họ Trương,
tên Á, tổ tiên vốn người đất Việt, sau dời về
đất Thục, sống ở Tử Đồng (Tứ Xuyên). Ngài lớn lên
tuấn tú nho nhã, tánh tình phóng khoáng, độ lượng,
văn chương diễm tuyệt, sáng rõ mà khoáng đãng, trở
thành bậc thầy nơi đất Thục. Cảm khái trước thời cuộc
bất ổn lúc bấy giờ, ngài lên đường chu du phương xa.
Về sau, những môn nhân đã từng theo học liền cùng
nhau lập đền thờ ngài, đề tên là Văn Xương Quân.
Vào đời nhà Đường, hai vị vua là Đường Huyền
Tông 2 và Đường Hy Tông 3 nhân khi tránh giặc loạn
1 Triều đại nhà Tấn kéo dài từ năm 266 đến năm 420, phân ra làm
2 thời kỳ là Tây Tấn (266–316) và Đông Tấn (317–420). Phần sau
nói rõ hơn rằng Đế Quân sinh vào năm 287, tức khoảng gần cuối
thời kỳ Tây Tấn.
2 Đường Huyền Tông trị vì từ năm 712 đến năm 756, gặp loạn An
Lộc Sơn tạo phản vào năm 755.
3 Đường Hy Tông trị vì từ năm 873 đến năm 888, gặp loạn Hoàng
Sào vào khoảng năm 874. Khoảng cuối năm 880 phải bỏ kinh
thành Trường An chạy đến Thành Đô, sang đến năm 885 mới về
lại Trường An. Năm 886 ông lại gặp nội loạn giữa các tướng lãnh,
phải bỏ Trường An chạy đến Hưng Nguyên, đến năm 888 mới trở
về lại Trường An chỉ được một tháng thì mất.
An Sĩ toàn thư
38 39
Phần bổ khuyết
chạy vào đất Thục, đều được ngài hiển linh bảo vệ,
giúp đỡ. Giặc yên, vua xuống chiếu phong ngài là Tấn
vương. 1 Người đời sau tôn xưng là Đế, đều là do nơi
lòng tôn kính đối với ngài.
Vu Công xử án, xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa
V
u Công sinh vào thời nhà Hán, người quận
Đông Hải, 2 giữ chức quan coi việc xử án trong
huyện. Quận Đông Hải có người thiếu phụ góa chồng
hết sức hiếu thảo, quyết lòng ở vậy thủ tiết thờ chồng,
nuôi dưỡng mẹ chồng vô cùng chu đáo. Mẹ chồng
thương, sợ mình làm cản trở việc tái giá của con dâu,
liền treo cổ tự vẫn. Đứa con gái bà lại vu cáo rằng cô
con dâu đã bức tử mẹ chồng. Người góa phụ kia không
sao tự mình biện bạch.
Vu Công biết là án oan, cố sức bảo vệ, nhưng quan
1 Hai vua sống cách nhau hàng thế kỷ, ở đây không thấy nói rõ
vua nào xuống chiếu phong. Tuy nhiên, xét rằng nếu Huyền Tông
đã có chiếu phong thì Hy Tông phải gia phong mới đúng, do đó
chiếu phong Tấn vương có lẽ của Đường Hy Tông.
2 Thuộc Đàm huyện, ngày nay là Đàm thành thuộc tỉnh Sơn Đông.
Cách phân chia địa giới hành chánh của Trung Hoa thời ấy là mỗi
tỉnh chia thành các huyện, mỗi huyện chia thành các quận.
thái thú khi ấy chẳng nghe lời. Người góa phụ bị xử tội
chết. Liền sau đó quận Đông Hải bị hạn hán suốt 3 năm.
Nhân khi có quan thái thú mới đến thay, Vu Công
mang vụ án oan trình lên. Quan thái thú nhờ ông đến
trước mộ người góa phụ hiếu thảo bị oan mà cúng tế.
Ngay sau đó trời đổ mưa lớn.
Vu Công làm việc, mỗi khi đưa ra nhận định, phán
đoán quyết án đều được người dân kính phục nghe
theo. Cổng lớn nhà ông bị đổ, các vị phụ lão hương
thân cùng kéo đến bàn việc xây lại. Vu Công nói: “Nên
làm cổng sao cho xe bốn ngựa sau này có thể đi qua
được. 1 Ta giữ việc xử án, tích chứa nhiều âm đức, chưa
từng quyết xử oan uổng, con cháu sau này ắt phải
hưng thịnh.”
Sau con trai ông có công lớn với nước nhà, quả
nhiên làm đến chức Thừa tướng, được phong tước
Bình Tây Hầu, con cháu đời đời được nối truyền giữ
chức Ngự sử Đại phu.
1 Xe do bốn ngựa kéo là loại xe lớn, xưa chỉ các quan chức bậc
cao, nhà quyền thế mới có được. Nhà Vu Công khi ấy không có xe
bốn ngựa, nhưng ông tin rằng mình làm nhiều việc thiện, lợi lạc
dân chúng, tích chứa âm đức, nên con cháu sau này chắc chắn sẽ
được hưng thịnh như thế.
An Sĩ toàn thư
40 41
Phần bổ khuyết
Họ Đậu giúp đỡ muôn người, một cội sinh năm
cành quế
T
hời Ngũ đại, 1 Đậu Vũ Quân người Yên Sơn, 2
đã hơn 30 tuổi mà chưa có con. Một hôm nằm
mộng thấy ông nội đã mất hiện về dạy rằng: “Con chẳng
những là không có con, mà còn yểu mạng nữa. Nên sớm
lo tu dưỡng phước đức, cầu chuyển mệnh trời.”
Đậu Vũ Quân do chuyện ấy mà nỗ lực làm nhiều
việc thiện. Có người giúp việc trong nhà lấy trộm của
ông hai trăm ngàn đồng tiền, chuyện vỡ lở, liền tự viết
giấy bán đứa con gái nhỏ để bồi hoàn. Giấy viết rằng:
“Tôi bán đứa con gái này vĩnh viễn, để bồi thường vào
khoản tiền thiếu nợ.” Về sau, người này lại trốn đi
mất. Đậu Vũ Quân thương xót, liền đốt giấy nợ, nhận
đứa con gái ấy làm con nuôi, lớn lên lại lo chu đáo việc
chọn nơi gả chồng. Những người thân thích nội ngoại,
nhà ai có tang mà nghèo túng không thể lo liệu, ông đều
xuất tiền giúp việc mai táng; nhà ai có con gái không đủ
tiền lo việc cưới gả, ông cũng xuất tiền giúp cho.
Ông tính toán thu nhập trong mỗi năm, giữ lại
1 Ở đây chỉ thời Hậu chu, Ngũ đại của Trung Hoa lúc bấy giờ bao
gồm các triều Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán và Hậu
Chu.
2 Nay thuộc huyện Mật Vân, tỉnh Hà Bắc.
vừa đủ chi dùng trong năm, còn bao nhiêu đều mang
ra giúp đỡ người khác hết. Sinh hoạt trong gia đình lại
hết sức cần kiệm, không vàng ngọc trang sức, không
thê thiếp nàng hầu. Ông lập một thư viện ở góc phía
nam trong nhà, sưu tập được đến hơn ngàn quyển
sách, rồi mời thầy đến mở lớp dạy học cho những học
trò mồ côi hoặc nghèo khó ở khắp nơi, cung cấp đầy đủ
mọi nhu cầu ăn học. Những người nhờ ông giúp đỡ như
thế về sau được hiển đạt rất nhiều.
Chẳng bao lâu sau, ông liên tiếp sinh được 5 người
con trai, tất cả đều thông minh tuấn tú. Sau đó, ông
lại nằm mộng thấy ông nội hiện về nói: “Từ nhiều năm
nay, con làm được những việc công đức lớn lao lắm.
Tên con nay đã được ghi trên sổ thiên tào, con sẽ sống
thêm được 3 kỷ nữa. 1 Năm đứa con rồi đầy đều sẽ được
vinh hiển. Con nên cố gắng làm việc thiện nhiều hơn,
không được lười nhác, thối thất tâm lành xưa nay.”
Về sau, con trưởng của ông là Đậu Nghi làm đến
chức Lễ Bộ Thượng Thư. Con thứ là Đậu Nghiễm làm
đến Lễ Bộ Thị Lang. Con thứ ba là Đậu Khản làm
quan Tả Bổ Quyết. Con thứ tư là Đậu Xưng làm Tả
Gián Nghị Đại phu, được tham gia những việc chính
sự quan trọng. Con thứ năm là Đậu Hy làm quan Khởi
1 Theo cách tính ngày xưa thì mỗi kỷ là 12 năm, do đó 3 kỷ là 36
năm.
An Sĩ toàn thư
42 43
Phần bổ khuyết
Cư Lang. Tám người cháu sau đó cũng đều được vinh
hiển phú quý.
Ông thọ đến 82 tuổi, một hôm không bệnh, trong
lúc đang cùng thân quyến trò chuyện cười nói, bỗng an
nhiên mà đi.
Bậc danh sĩ là Phùng Đạo có bài thơ tặng ông như
sau:
燕山竇十郎,
敎子有義方。
靈椿一株老,
丹桂五枝芳。
Yên Sơn Đậu Thập lang,
Giáo tử hữu nghĩa phương.
Linh xuân nhất chu lão,
Đan quế ngũ chi phương.
Tạm dịch:
Yên Sơn có Đậu Vũ Quân,
Dạy con theo đạo nghĩa nhân chí tình,
Cha lành một cội uy linh,
Sinh con hiển hách năm cành quế thơm. 1
1 Do điển tích này mà người đời sau thường dùng “năm cành quế”
để chỉ việc tích âm đức sinh con cháu hiển vinh.
Tống Giao cứu kiến, trúng tuyển trạng nguyên
Đ
ời nhà Tống, có hai anh em là Tống Giao,
Tống Kỳ. Một hôm đang cùng ngồi đọc sách,
có vị tăng nhìn thấy, xem tướng mạo rồi nói: “Người em
sẽ chiếm bảng khôi nguyên, người anh cũng sẽ đậu cao.”
Mùa xuân năm sau, vị tăng ấy gặp lại, vui mừng
nói với người anh là Tống Giao rằng: “Con hẳn đã từng
cứu sống được trăm vạn sinh mạng!” Tống Giao bật
cười nói: “Con là học trò nghèo khổ, có sức đâu làm
được việc như thế!”
Vị tăng nói: “Không nhất thiết phải là việc cứu
người, dẫu muôn loài trùng bọ có sự sống đều kể là
sinh mạng.”
Tống Giao nói: “Có một tổ kiến bị mưa lớn tràn
ngập, con lấy cành trúc làm cầu cứu sống đàn kiến. Có
lẽ là việc ấy chăng?”
Vị tăng nói: “Quả đúng vậy rồi. Do chuyện này mà
năm nay em con tuy vẫn chiếm khôi nguyên, nhưng
cuối cùng rồi con không thể kém nó.”
Đến kỳ công bố kết quả thi, quả nhiên Tống Kỳ
đậu trạng nguyên. Triều đình lập biểu chương trình
lên Thái hậu. Thái hậu xem qua, cho rằng em không
thể đặt trên anh, liền phóng bút sửa bài Tống Giao
An Sĩ toàn thư
44 45
thành đệ nhất, còn Tống Kỳ thì từ đệ nhất (一) thêm
vào một nét thành đệ thập (十).
Khi ấy mới biết lời vị tăng đã nói quả nhiên không
sai.
Thúc Ngao chôn rắn, sau làm tể tướng
T
ôn Thúc Ngao người nước Sở, thuở thiếu thời
thường đi chơi đó đây. Một hôm nhìn thấy con
rắn có hai đầu, liền giết đi rồi đem chôn. Về nhà lo
buồn bỏ ăn. Người mẹ gạn hỏi sự việc, Thúc Ngao khóc
mà nói rằng: “Con nghe người ta nói rằng ai nhìn thấy
rắn hai đầu ắt phải chết. Hôm nay con đã nhìn thấy,
sợ rằng phải chết mà bỏ mẹ.”
Người mẹ hỏi: “Hiện giờ con rắn ấy ở đâu?”
Thúc Ngao đáp: “Con sợ có người khác nhìn thấy
nó mang hại nên đã giết mang chôn đi rồi.”
Người mẹ nói: “Đừng lo, mẹ nghe nói rằng người
làm việc tích âm đức ắt được báo ứng tốt đẹp. Con
ngày sau ắt sẽ được hưng vượng nơi đất Sở này.”
Quả nhiên, về sau Tôn Thúc Ngao làm Lệnh Doãn, 1
giữ quyền chính nước Sở.
1 Chức Lệnh Doãn của nước Sở tương đương với Tể Tướng, là quan
đứng đầu trong triều đình.
Thư mục kinh sách tham khảo trong Tam giáo
1. A-dục vương kinh
2. A-xà-thế vương thọ quyết kinh
3. Bắc ngụy sử
4. Bách duyên kinh
5. Bà-sa luận
6. Bộ hư kinh
7. Bút thừa
8. Cảm ứng thiên khuyến trừng lục
9. Cát an phủ cựu chí
10.  Chánh pháp niệm xứ kinh
11.  Chiết phục la-hán kinh
12.  Chu lễ
13.  Chu thư dị ký
14.  Cổ sử đàm uyển
15.  Côn sơn huyện chí
16.  Công quá cách
An Sĩ toàn thư
46 47
Thư mục kinh sách tham khảo trong Tam giáo
17.  Danh thần ngôn hành lục
18.  Di-lặc hạ sanh kinh
19.  Đại A-di-đà kinh
20.  Đại Bảo Tích kinh
21.  Đại Bát Niết-bàn kinh
22.  Đại Bát-nhã kinh
23.  Đại phương quảng tổng trì kinh
24.  Đại quyền Bồ tát kinh
25.  Đại tạng nhứt lãm
26.  Đại tập kinh
27.  Đại Trí độ luận
28.  Đạo tạng pháp luân kinh
29.  Đạo tạng toàn tập chú
30.  Đồng nhơn phủ chí
31.  Đường thư
32.  Giải thoát yếu môn
33.  Hán pháp bổn nội truyện
34.  Hán thư
35.  Hiền ngu nhơn duyên kinh
36.  Hiện quả tùy lục
37.  Hộ pháp luận
38.  Hoa nghiêm kinh
39.  Hoang chánh bị lãm
40.  Hoằng minh tập
41.  Hoàng minh thông kỷ
42.  Học sĩ yếu châm
43.  Khởi thế nhơn bổn kinh
44.  Khổng tử tập ngữ
45.  Kim cang kinh giải
46.  Kim sử
47.  Kim thang biên
48.  Kinh luật dị tướng
49.  Lăng nghiêm kinh
50.  Lão tử thăng huyền kinh
51.  Lập thế A-tỳ đàm luận
52.  Lâu thán chánh pháp kinh
53.  Lâu-chí trưởng giả kinh
54.  Lễ ký
An Sĩ toàn thư
48 49
Thư mục kinh sách tham khảo trong Tam giáo
55.  Liệt tử
56.  Linh bảo kinh
57.  Lương Cao tăng truyện
58.  Lương hoàng bảo sám
59.  Lương thư
60.  Mặc tử truyện
61.  Minh báo thập di
62.  Minh tường ký
63.  Mộng khê bút đàm
64.  Nam xương phủ chí
65.  Nghiệp báo sai biệt kinh
66.  Ngũ mẫu tử kinh
67.  Nhật minh Bồ tát kinh
68.  Nhật tri lục
69.  Phân biệt công đức kinh
70.  Pháp cú dụ kinh
71.  Pháp giới an lập đồ
72.  Pháp hoa kinh
73.  Pháp hỷ chí
74.  Pháp uyển châu lâm
75.  Phát giác tịnh tâm kinh
76.  Phật tổ thông tải
77.  Phó pháp tạng kinh
78.  Phước báo kinh
79.  Quần tiên châu ngọc
80.  Quảng nhơn lục
81.  Quảng từ biên
82.  Sa-di luật
83.  Sử ký chánh nghĩa
84.  Sử lâm
85.  Tả truyện
86.  Tam giáo bình tâm luận
87.  Tam thiên phật danh kinh
88.  Tấn thư
89.  Tạp bảo tạng kinh
90.  Tạp thí dụ kinh
91.  Thái thượng thanh tịnh kinh
92.  Thánh học tông truyện
An Sĩ toàn thư
50 51
Thư mục kinh sách tham khảo trong Tam giáo
93.  Thiền bí yếu kinh
94.  Thiên nhơn cảm thông kỷ
95.  Thọ đề già kinh
96.  Thư kinh
97.  Thượng phẩm đại giới kinh
98.  Thượng thanh kinh
99.  Thượng trực thượng lý biên
100.  Thụy châu phủ chí
101.  Thủy sám duyên khởi
102.  Tiểu học
103.  Tiêu ma an chí kinh
104.  Tịnh minh chơn kinh
105.  Tô châu phủ chí
106.  Tỏa vi quản kiến
107.  Tống sử
108.  Triều dã thiêm tải
109.  Trúc song tam bút
110.  Trường sanh yếu chỉ
111.  Truy môn sùng hành lục
112.  Truyền đăng lục
113.  Tú hổ hiên thứ tập
114.  Tứ phần luật
115.  Tư trị thông giám
116.  Tùng giang phủ chí
117.  Tùy đường kỷ sự
118.  Tùy thư
119.  Ưu-bà-tắc giới kinh
120.  Vân cấp thất tiên
121.  Văn hiến thông khảo
122.  Vận ngữ dương thu
123.  Văn Xương hóa thư
124.  Viên châu phủ chí
125.  Xuất diệu kinh
126.  Xương lê văn tập
52 53
Giảng rộng bài văn Âm chất
Quyển thượng
Côn Sơn Chu Mộng Nhan hiệu An Sĩ trước thuật
54 55
Ta trải qua mười bảy đời
sinh ra làm kẻ sĩ có quyền thế
Giảng rộng
- Phải tin có đời sau 1
T
rong bài văn này, thảy đều là lời của đức Đế
Quân hiện thân thuyết pháp, nên xưng là “ta”
để mở đầu. Nói “trải qua mười bảy đời”, là đặc biệt
muốn đem phần bản lai diện mục tiềm ẩn trong cái gọi
là “thân của ta” này, từ xưa đến nay, trải qua bao kiếp
sinh tử vẫn chưa từng hư hoại, mà chỉ rõ cho người sau
được biết.
Người đời chỉ vì sinh ra chẳng biết mình từ đâu
đến, chết đi cũng chẳng biết về đâu, nên cho rằng chết
đi thì thân tâm đều dứt mất, không có đời sau. Do đó
mà buông thả mọi hành vi, không chút e dè sợ sệt.
Đế Quân vì hết sức lo sợ cho hạng người mê lầm như
thế, tự mình sai lầm rồi lại dẫn dắt người khác sai
lầm theo, khiến cho sự si mê độc hại ấy không khi nào
1 Một số đề mục nhỏ do chúng tôi thêm vào để người đọc tiện
theo dõi.
An Sĩ toàn thư
56 57
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
dứt được, nên đem chuyện của chính tự thân mình đã
“trải qua mười bảy đời” mà chính thức nói rõ cho mọi
người đều biết. Nếu Đế Quân đã trải qua mười bảy đời,
hẳn nhiên tất cả chúng ta cũng từng trải qua mười
bảy đời như thế. Do đó, nếu siêng làm việc thiện, nghĩ
đến đời sau sẽ được phước báo, ấy là điều tất nhiên.
Nếu không làm việc thiện mà nghĩ đến đời sau sẽ được
phước báo, ắt là việc không thể có.
Quả thật là:
Người đời chỉ biết đến xuân sau,
Cỏ hoa sinh từ hạt giống cũ.
Nếu biết còn có đời sau nữa,
Nhân thiện tự nhiên gắng sức trồng.
Nếu hiểu đúng được câu mở đầu của bài văn này như
trên, xem như đã hiểu được hơn phân nửa bài văn rồi.
- Ta là chủ, thân là khách
Người đời đọc kinh sách, thường do tâm thô thiển,
ý vọng động, nên không thể suy xét sâu xa mà tự nhiên
lãnh hội. Đối với khái niệm về những danh xưng như
“thân” và “ta”, thường không khỏi rơi vào chỗ hoang
mang lẫn lộn. Nếu có thể nhận rõ được rằng “thân” có
thể chỉ cho “ta” nhưng “ta” không thể chỉ cho “thân”, thì
có thể hiểu được rằng “ta” mới chính là chủ, còn “thân”
chỉ là khách tạm. Đã là “chủ” thì tất nhiên sẽ thường còn
qua muôn kiếp, không hề có sinh có tử; còn đã là “khách
tạm” thì hẳn phải có đến có đi, thay hình đổi dạng.
Ví như người đi xa, có lúc chèo thuyền, có lúc
ngồi kiệu, lại có lúc cưỡi ngựa, có lúc lái xe... phương
tiện thay đổi đủ loại, nhưng người không hề thay đổi.
Thuyền, kiệu, ngựa, xe... ấy chính là thân, là khách,
mà người chèo thuyền, ngồi kiệu, cưỡi ngựa, lái xe, ấy
chính là ta, là chủ.
Lại ví như người được phân vai đóng kịch, có lúc
giả làm vua chúa, có lúc giả làm quan lại, cũng có lúc
giả làm người ăn mày... thường thay đổi đủ hình dạng,
nhưng người thật không thay đổi. Vua chúa, quan lại,
ăn mày... ấy chính là thân, là khách; mà người đóng
vai vua chúa, quan lại, ăn mày... ấy chính là ta, là chủ.
Nếu chỉ lấy trong một thân hiện tại này mà nói, thì
cái khả năng “thấy hình nghe tiếng” chính là thuộc về
thân, là khách, mà người “thấy hình nghe tiếng” mới
chính là ta, là chủ. Vì thân có sinh có tử, nên về già thì
mắt dần mờ, tai dần điếc. Ta là chủ thật không sinh
không tử, nên mắt tuy có mờ mà người thấy không mờ,
tai tuy có điếc nhưng người nghe không điếc. Cho nên
quyết rằng:
Nếu nói thấy, nghe là ta,
Khác nào nhận giặc vào nhà làm con?
An Sĩ toàn thư
58 59
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Cho nên, người có trí tuệ nương theo tánh thể như
lớn lao, có thể sử dụng thân giả tạm này làm phương
tiện tu tập. Ngược lại, kẻ si mê tự che mờ tánh thể, trở
thành nhỏ hẹp, đánh mất đi vị thế chủ nhân nên luôn
bị thân giả tạm này sai sử.
- Sống chết qua nhiều đời
Nếu như đã có 17 đời qua, ắt có thể có 70 đời, 70
kiếp sống, thì cũng có thể có vô lượng vô số kiếp sống.
Như vậy, cái “ta” của Đế Quân nói đến ở đây là vô
cùng, mà cái “ta” của tất cả chúng ta cũng là vô cùng
tận. Và nếu Đế Quân đã có thể sinh ra làm “kẻ sĩ”, làm
bậc “đại phu”, thì cũng có thể sinh ra làm thân trời,
thân rồng... trong 8 bộ, 1 cũng có thể sinh làm thân
trong địa ngục, ngạ quỷ... Thân của Đế Quân như thế
là không nhất định, thì thân của tất cả chúng ta cũng
là không nhất định.
Đế Quân đã thác sinh nhiều đời như thế, tất nhiên
mỗi đời đều có cha mẹ, thân thích quyến thuộc, số ấy
1 Tám bộ, hay tám bộ chúng, thường được đề cập trong Kinh điển
bao gồm: chư thiên, hay chúng sinh cõi trời (deva), rồng (naga),
a-tu-la (asura), dạ-xoa (yakwa), ca-lâu-la (garuda), càn-thát-bà
(gandharva), khẩn-na-la (kimnara) và ma-hầu-la-già (mahoraga).
Trong 8 loài chúng sinh này thì trời và rồng được xem là hơn hết,
nên thường gọi chung là thiên long bát bộ.
phải là rất nhiều. Đế Quân đã có thân thích quyến
thuộc đời trước nhiều như thế, ắt tất cả chúng ta cũng
đã có rất nhiều thân thích quyến thuộc trong đời trước,
không khác.
Cho nên, nói “ta” đó chính thật là chủ nhân ông;
nói “mười bảy đời qua” đó chính là vô thường sớm tối;
nói “làm” thân này thân khác, đó chính là nhân duyên
tan hợp; nói “kẻ sĩ có quyền thế” đó chỉ là khái niệm
tốt xấu do người dựng lên, khác nào pho tượng gỗ; nói
“thân” đó chỉ là cái túi da đựng xương thịt, quả thật
rất khó chỉ rõ cho người đời biết được.
- Vì sao nên có thuyết về đời sau
Chuyện đời trước đời sau khác nào như ngày lại
ngày qua, mặt trời mọc lặn; chúng sinh lặn ngụp trong
luân hồi vốn là sự thật như thế, hoàn toàn không phải
do nhà Phật mà có. Ví như các cơ quan lục phủ ngũ
tạng đều là sẵn có trong người bệnh nhân, lẽ đâu chỉ
vì nghe những tên gọi ấy được nói ra từ miệng thầy
thuốc rồi lại cho rằng những thứ ấy hẳn nằm trong giỏ
thuốc?
Nếu người ta thật không có đời sau, không lưu
chuyển luân hồi, ắt là trong thế gian phải thấy có lắm
sự bất bình, mà bao nhiêu luận thuyết của các bậc
thánh hiền thảy đều không đủ bằng chứng để tin nhận.
An Sĩ toàn thư
60 61
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Chẳng hạn như đức Khổng tử nói rằng: “Người có lòng
nhân được sống lâu”, rồi ngài cũng hết lời ngợi khen
Nhan Hồi là người có lòng nhân, thế nhưng Nhan Hồi
lại yểu mạng! 1 Kẻ trộm cướp tàn độc như Đạo Chích
thật hết sức bất nhân, nhưng lại được sống lâu! Thế
thì bậc hiền nhân độ lượng dù nỗ lực làm người hiền
thiện cũng chỉ luống công vô ích, mà những kẻ xấu xa
nhỏ mọn lại vui mừng hể hả làm người xấu ác. Như
vậy có còn gì là nề nếp, trật tự trong đời?
Chỉ nêu lên thuyết về đời sau mới giải tỏa được
tất cả những điều đó, vì như vậy thì kẻ làm thiện mới
được khuyến khích, kẻ làm ác mới bị trừng trị; trời
xanh cũng không mang tiếng là bất công hồ đồ, mà
Khổng tử cũng không bị chê bai là người vô trí. Lớn lao
thay, chỉ một câu “trải qua mười bảy đời” do Đế Quân
nói ra đã nêu rõ thuyết ấy!
- Những cách hiểu sai lầm về đạo Phật
Giáo thuyết “hư vô tịch diệt”, rỗng không vắng
lặng của nhà Phật, chẳng phải là chỗ đau đớn căm hận
của nhà Nho đó sao? Vì đã căm hận, nên không thể tự
mình học hỏi noi theo. Ngày nay, những người mang
1 Nhan Hồi, tức Nhan Uyên, là một học trò giỏi và đức hạnh vượt
trội của đức Khổng tử, thường được ngài ngợi khen. Tuy nhiên,
Nhan Hồi chết khi còn rất trẻ, chỉ mới 31 tuổi.
giáo lý nhà Phật ra giảng giải để khuyên dạy người đời
ắt thường nói rằng: “Làm việc thiện được hưởng phước
báo, làm việc ác phải gặp tai họa, rõ ràng có nhân có
quả, rằng trong chỗ vô hình thật có quỷ thần. Những
gì đã qua, ấy là kiếp trước; tương lai chưa đến, ấy là
đời sau.” Từng bước từng bước trình bày như thế, đều
là có căn cứ đúng thật. Nhưng thử hỏi, đối với hai chữ
“hư vô” làm sao có thể thêm gì vào đó?
Những người bài bác đạo Phật thường cho rằng
thiên đường địa ngục chỉ là hoang đường bịa đặt, kiếp
trước kiếp sau thật mơ hồ mù mịt không thể biết, rằng
thân này khi sinh ra chẳng quan hệ gì đến trước đó,
chết đi cũng chẳng để lại dấu vết gì. Bình tâm suy xét
kỹ, cách nghĩ như thế thật trùng khớp với căn bệnh đã
nằm ngay trong hai chữ “hư vô”.
Người học Phật thực sự nói rằng: “Thân tứ đại này
tuy có hư hoại, nhưng chân tánh không hề có sinh tử.”
Những người bài bác đạo Phật lại nói khác đi rằng:
“Không có kiếp trước, chẳng có đời sau.” Phàm khi nói
rằng bỏ thân này ắt thọ thân khác, ấy là tuy có “tịch”
nhưng không phải dứt mất, tuy có “diệt” nhưng chẳng
phải hoại diệt hoàn toàn. Nếu như bỏ một thân này
mà sau không thọ thân khác, thì đó là một lần “tịch”
sẽ mãi mãi dứt mất, một lần “diệt” sẽ vĩnh viễn không
còn. Bình tâm tự xét lại, thử hỏi hai chữ “tịch diệt” đó,
An Sĩ toàn thư
62 63
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
rốt cuộc thì ai là người thọ nhận? Than ôi! Thân hình
quá to lớn cục mịch, trở lại chê trách phòng lớn của
người là nhỏ hẹp, thật sai lầm thái quá!
- Tác hại của việc không tin có đời sau
Cầm dao giết người, bất quá cũng chỉ chém được
vào da thịt người. Nếu nói rằng không có đời sau, đó
chính là chặt đứt mạng căn trí tuệ của người khác.
Chém vào da thịt thì chỉ làm hại một kiếp sống này
thôi, nhưng chặt đứt mạng căn trí tuệ là giết người
trong nhiều đời nhiều kiếp. Cho nên phải biết rằng,
khuyên người bỏ ác làm lành là chuyện thứ yếu, mà
trước tiên cần phải biện minh làm rõ rằng có đời nay
ắt phải có đời sau, đó mới là lời căn bản thiết yếu nhất.
Nếu kẻ xấu ác tiểu nhân nói ra lời phản bác rằng
không có đời sau, ắt người nghe thảy đều khinh thường
bỏ qua. Cũng giống như kẻ muốn hại người nhưng đem
thuốc độc bỏ vào thức ăn đã bốc mùi ôi thiu, ắt chẳng
mấy ai chịu ăn, nên tai hại cũng không đáng kể.
Nhưng nếu những lời phản bác không có đời sau
lại do người có uy tín học thức nói ra, ắt sẽ có nhiều
người tôn trọng mà tin theo. Cũng ví như đem chất
kịch độc mà bỏ vào các món cao lương mỹ vị, ắt phải
có nhiều người ăn, nên tác hại thật là ghê gớm. Như
người có khả năng biện bác cứng cỏi rành mạch, một bề
giữ tâm cứu người giúp đời, quyết không theo hùa với
những lời như thế, ắt sẽ được công đức hết sức lớn lao.
- Lợi ích của việc tin có đời sau
Những người từng học sách Nho, không khỏi vẫn
còn ảnh hưởng trong tâm tính. Vì thế, khi nghe nói
đến thuyết luân hồi, bất luận có tin theo hay không
cũng chẳng tự mình nói ra. Nay được nghe thuyết
“trải qua mười bảy đời” được ghi trong chính những lời
giáo huấn của Đế Quân, quả thật như trải cả gan ruột
mà nói với người đời.
Vì sao vậy? Chỉ nói đối với những người không biết
có đời sau, bấm tay tính đếm tương lai, ắt thấy chẳng
còn được bao lâu. Nay nghe biết rằng thân xác thịt này
tuy có chết nhưng chân tánh không diệt mất, có thể
ngay đó hiểu rằng tuổi thọ của ta từ xưa đến nay thật
dài lâu như trời đất. Cho nên, có thể thay đổi từ thọ
mạng ngắn ngủi trở thành trường thọ, chính là thuyết
“trải qua mười bảy đời” này.
Lại nói đối với những người không biết có kiếp
trước, ắt khi nhìn qua các bậc thiên đế, thiên tiên,
đế vương, khanh tướng... trong đời, tự nhiên quay lại
thấy mình thật quá nhỏ nhoi hèn kém. Nay được nghe
An Sĩ toàn thư
64 65
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
biết có sáu đường 1 luân hồi, cao thấp qua lại lẫn nhau,
thì biết rằng những cảnh hào quý cao sang hẳn mình
cũng đã từng trải qua trong bao kiếp trước. Cho nên,
có thể làm cho phú quý với bần tiện được bình đẳng
như nhau, chính là thuyết “trải qua mười bảy đời” này.
Lại nói đối với những người không hiểu được là
mọi việc đều có nhân từ trước, hẳn mỗi khi gặp điều
trái ý đều không khỏi sinh tâm oán hận. Nay hiểu ra
được rằng mọi điều vinh nhục, được mất... trong đời
đều do nghiệp đã tạo từ trước mà có, thì cho dù có gặp
phải những điều trái nghịch nhiều hơn nữa, cũng có
thể an nhiên nhẫn chịu. Cho nên, có thể làm tiêu tan
sự tức tối oán hận mà khiến tâm được an hòa bình ổn,
chính là thuyết “trải qua mười bảy đời” này.
Lại nói đối với những người không hiểu chuyện
họa phước nên không từ bất cứ việc xấu ác nào, nay
biết được rằng làm việc thiện thì tự thân được an vui,
gây hại cho người khác chính là tự hại mình, ắt là
trong chỗ tối tăm mù mịt tự nhiên khởi tâm run sợ
trước việc ác, mà ưa thích làm điều lành. Cho nên,
có thể biến kẻ tham ác hung tàn thành người lương
thiện, chính là thuyết “trải qua mười bảy đời” này.
1 Sáu đường, tức lục đạo, bao gồm các cảnh giới chư thiên, loài
người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Lại nói đối với những người không tin nhân quả,
nên khi thấy người hiền gặp tai họa, kẻ ác được phước
lành, liền cho rằng đạo trời chẳng công bằng. Nay nếu
suy xét kỹ chuyện kiếp trước đời sau, ắt sẽ thấy rằng
mọi việc thiện ác, phúc họa, căn bản đều không một mảy
may sai lệch. Cho nên, có thể chuyển hóa ngu si thành
trí huệ, chính là thuyết “trải qua mười bảy đời” này.
Quả thật là:
Một lời, hiểu thấu ý chân thật,
Đâu cần nhọc sức học muôn câu?
Trưng dẫn sự tích 1
Trời giúp đạo Nho hưng khởi
Đ
ế Quân kể rằng: Ta dạo chơi trong chốn nhân
gian, đến vùng Hội Kê, Sơn Âm, 2 nhìn thấy
một người ở ẩn, 3 khoảng ngoài năm mươi tuổi, đang
1 Các bài sau đây đều được trích từ sách Văn Xương Hóa Thư.
(Chú giải của soạn giả) Phần lớn các chú giải trong bản Việt dịch
này đều do người dịch biên soạn, những chú giải nào do soạn giả
(tiên sinh An Sĩ) đặt trong nguyên bản sẽ được chúng tôi ghi rõ để
người đọc tiện phân biệt.
2 Nay là vùng Triết Giang, Thiệu Hưng.
3 Tức sau là thân phụ Đế Quân. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
66 67
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thắp hương khấn trời cầu sinh con nối dõi. Khi ấy là
giữa mùa xuân, nhằm lúc giữa đêm, tinh tú sáng rực,
sao Trương Túc chiếu sáng trên cao, mà người ở ẩn
này tình cờ lại mang họ Trương, nên ta hạ sinh vào
nhà ấy.
Nơi thôn xóm ta hạ sinh, dân chúng thường cắt
tóc xăm mình, vốn theo tập tục thời chưa khai hóa. Ta
đến tuổi mười lăm, trong lòng hết sức không vui, liền
tìm mũ đội, dép mang, tự mình học làm theo lễ nghĩa
văn minh. 1 Người trong làng thấy ta như vậy đều cho
là khác lạ, nhưng lâu dần rồi thì số người học làm theo
giống như ta ngày càng nhiều hơn, mười phần có đến
bảy, tám.
Ngày kia, có một cụ già đến xin gặp cha ta, miệng
tụng đọc nhiều lời giáo huấn của Đường Ngu, 2 lại nói
rằng: “Trong nước hiện nay có vị sứ giả truyền bá
những văn chương này.” Ta thích lắm, theo cụ ấy mà
học, chỉ nghe đọc qua liền ghi nhớ không hề bỏ sót. Từ
đó, lại có nhiều người nguyện theo cầu học, nên ta trở
thành bậc thầy.
1 Mũ áo của nhà Nho bắt đầu do đây mà có. (Chú giải của soạn
giả)
2 Tức thiên Cố mệnh do Chu Thành Vương trước tác, nằm trong
phần Chu thư của Kinh Thư.
Lời bàn
Đức Khổng tử ra đời, ấy là mẹ ngài từng cầu đảo
tại Ni Sơn; Đế Quân ra đời, ấy là cha ngài đã khấn
nguyện với trời cao. Bậc thánh nhân ra đời, thảy đều
khác hẳn kẻ tầm thường. Đức Khổng tử khua vang mõ
gỗ 1 vào thời triều Chu suy yếu, nhưng hiển bày những
lời sâu xa vi diệu đến tận muôn đời; Đế Quân phô bày
văn chương đạo lý lễ nghĩa lúc triều Chu đang hưng
thịnh, mà ngấm ngầm ảnh hưởng đến chuyện thiện ác
tốt xấu của ngàn năm sau. Đó chẳng phải là sự khác
biệt trong phương tiện giáo hóa nhưng cuối cùng vẫn
đưa đến một mục đích chung là làm cho thiên hạ được
tốt đẹp hơn đó sao?
Can vua giữ tròn đạo nghĩa
Đ
ế Quân kể rằng: Vào đời Chu Thành Vương,
ta mang tên họ là Trương Thiện Huân.
Thành Vương dùng ta làm quan can gián. Bấy giờ tuy
đang thời hưng thịnh, nhưng vì lo nghĩ cho dân cho
nước nên ta chưa từng biếng trễ. Lúc Thành Vương
1 Chỉ việc đức Khổng tử tích cực truyền dạy đạo lý nhân nghĩa, lại
đi khắp thiên hạ cảnh tỉnh thiên hạ lúc ấy đang loạn lạc. Ngày
xưa dùng tiếng mõ gỗ đánh lên như một cách để gợi sự chú ý của
nhiều người.
An Sĩ toàn thư
68 69
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
còn nhỏ tuổi, Chu Công thay quyền xử lý việc nước, về
sau Thành Vương thường lộ ý bất mãn. Ta sợ những kẻ
thân cận Thành Vương thừa cơ gièm pha Chu Công,
nên thường đem những lẽ tinh tế trong đạo quân thần,
họa phúc trước sau mà răn nhắc, nhưng các biểu thư
can gián ấy phần nhiều đều đốt cả, nên không ai nhìn
thấy. Vì thế, lúc Chu Công đi chinh phạt phương đông,
tuy các nước chư hầu có lắm điều tiếng thị phi khiến
ông không vui, nhưng cuối cùng rồi tình nghĩa vua tôi
vẫn được gìn giữ vẹn toàn. Ta cũng có chút công lao
trong việc ấy.
Lời bàn
Họ Trương vốn là hậu duệ của Hoàng Đế. Đế Quân
giáng sinh đời Chu Thành Vương vào năm Ất Tỵ, từ
đó về sau nhiều lần chuyển thế vẫn thường giữ họ
Trương. Người đời truyền rằng ngày 3 tháng 2 là ngày
đản sinh của ngài, đó là căn cứ chỉ một lần tái sinh của
ngài vào đời Tấn Vũ Đế, niên hiệu Thái Khang năm
thứ 8. 1 Nếu xét rằng từ xưa đến nay Đế Quân đã nhiều
lần tái sinh, hẳn từ đầu năm cho đến cuối năm, liệu có
ngày nào không phải ngày sinh của ngài?
1 Tức năm 287 theo Tây lịch.
Thương yêu giúp đỡ thân tộc
Đ
ế Quân kể rằng: Ta ở Kinh đô nhà Chu 1 mười
năm, xa quê hương đã lâu. Một hôm, đọc bài
thơ “Chim cú” 2 của Chu Công, trong lòng xúc động,
liền nhân đó xin cáo lão về quê. Về đến quê hương
rồi, thấy người trong gia tộc hương thôn đa số nghèo
khó, liền xây dựng điền trang lấy thu nhập để giúp
đỡ, gọi là nghĩa điền. Từ đó thường cứu giúp những
người khốn khó, trị liệu cho người tật bệnh, trai gái
đến tuổi trưởng thành thì giúp việc dựng vợ gả chồng,
trẻ em thông minh có năng khiếu thì nuôi dưỡng cho
học hành.
Nhiều người nghe biết việc làm tốt đẹp như vậy,
rủ nhau làm theo. Từ đó việc xây dựng các nghĩa điền
ngày càng phát triển khắp nơi.
Lời bàn
Thuở ấy, Đế Quân dùng y thuật trị bệnh cứu
người, còn việc xây dựng quản lý các điền trang để lấy
thu nhập giúp người, thảy đều do con ngài đảm trách.
1 Tức Cảo Kinh (鎬京) thời Chu Vũ Vương, nay là vùng Tây An
thuộc tỉnh Thiểm Tây.
2 Tức bài Si hiêu (鴟鴞) được chép lại trong Kinh Thi, mượn lời một
con chim muốn bảo vệ tổ chim mà gọi nói với chim cú, bảo đừng
phá tổ của nó, để ví với tấm lòng tác giả yêu mến quê hương mình.
An Sĩ toàn thư
70 71
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Buổi đầu học Phật
Đ
ế Quân kể rằng: Khi ta còn làm quan ở triều
đình, từng nghe có người từ phương xa đến
nói rằng: “Ở một nước về phía tây, 1 có bậc đại thánh
nhân 2 không giới hạn ở lời nói mà người khác tự được
giáo hóa, không trói buộc trong việc làm mà tự nhiên
thấu triệt chân lý; lấy từ bi làm chủ trương, lấy phương
tiện làm cửa vào, lấy việc giữ gìn giới luật làm đạo
thường, lấy tịch diệt làm niềm vui, xem chuyện sống
chết chỉ như sáng tối thay đổi, ngày qua đêm lại, xem
ân oán thân thù đều bình đẳng như nhau, chỉ như sự
nhận biết trong giấc mộng, dứt sạch không còn những
tình cảm thế tục như buồn, lo, mừng, giận, luyến ái...
Thấu biết cõi đời là giả tạm nên chỉ cầu chứng quả vô
sanh.”
Ta được nghe rồi, lòng rất ngưỡng mộ bậc thánh
nhân ấy. Đến khi ta từ quan về quê, giữa đường bỗng
gặp một vị ẩn sĩ, vừa đi vừa hát nơi chốn đông người
qua lại. Trong lời ca ta nghe có nhiều điều sâu xa uyên
áo thầm khế hợp, liền lập tức dừng xe, đến bái lễ người
ấy xin được chỉ dạy. Vị ẩn sĩ ngước mặt nhìn trời rồi
truyền tâm ấn, dạy nghĩa lý chân chánh cho ta, lại nói
1 Chỉ nước Ấn Độ, xưa cũng thường gọi là Tây Thiên Trúc.
2 Chỉ đức Phật Thích-ca Mâu-ni. (Chú giải của soạn giả)
rằng: “Đây là giáo pháp của bậc thánh nhân phương
Tây, dạy người đạt đến cảnh giới vắng lặng tịch diệt.
Nếu ông luôn nhớ nghĩ mà tu tập theo thì có thể vượt
thoát sinh tử, đạt đến cảnh giới của Phật Vô Lượng
Thọ. Như đã đạt đến bến bờ giải thoát, ắt có thể viên
thành Chánh giác. Bằng như nửa đường thối thất,
cũng có thể vào cảnh giới của thần tiên.”
Ta thọ nhận giáo pháp ấy rồi, từ đó về sau duyên
trần dứt sạch, trăm mối lo phiền đều nguội lạnh. Ngày
kia, vừa đúng kỳ trung thu, ta cho mời thân quyến
bằng hữu cùng đến, lưu lại một bài tụng rồi ra đi. 1
Lời bàn
Có người ngờ rằng đến thời Hán Minh Đế thì Phật
giáo mới truyền vào Trung Hoa. Như vậy, vào thời của
Đế Quân, làm sao có thể nghe được lời người phương
xa như thế? Nhưng xem khắp các ghi chép trong sách
sử thì biết rằng vào thời Tây Chu, 2 tại Trung Hoa vốn
đã biết đến Phật pháp.
1 Bài tụng này được ghi lại trong sách Hóa thư (化書). (Chú giải
của soạn giả)
2 Nhà Chu do Chu Vũ Vương sáng lập, lật đổ vua Trụ nhà Thương
mà lên ngôi. Về sau nhà Chu suy vi, dời đô về phía đông, chư hầu
loạn lạc, tức là thời Đông Chu liệt quốc. Vì thế, để phân biệt với
Đông Chu nên gọi thời Chu sơ là Tây Chu.
An Sĩ toàn thư
72 73
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Vào đời Chu Chiêu Vương, ngày mồng 8 tháng 4
năm thứ 26, 1 chính là ngày đức Phật Thích-ca Như Lai
đản sinh. Khi ấy, nhìn lên mặt trời thấy có rất nhiều
quầng sáng, hào quang ngũ sắc sáng soi, chiếu thẳng
vào bên trong triều nội, tỏa rạng bốn phương, cung điện
chấn động, nước trong sông hồ ao giếng đều tự nhiên
dâng tràn. Chiêu Vương sai quan Thái sử bói quẻ, được
quẻ Càn, cửu ngũ, 2 tâu lên rằng: “Đây là điềm hiện có
bậc thánh nhân ở phương tây đản sinh. Sau ngàn năm
nữa, giáo pháp của ngài sẽ truyền đến đây.”
Vua sai khắc chuyện này lên đá, đặt phía trước
điện thờ Nam Giao. 3
1 Ở đây y theo nguyên bản mà chuyển dịch, nhưng theo những kết
quả khảo cổ gần đây nhất thì Chu Chiêu Vương trị vì trong giai đoạn
từ năm 995 trước Công nguyên đến năm 977 trước Công nguyên.
Như vậy, ông chỉ ở ngôi 18 năm, không có năm thứ 26. Ngoài ra,
theo những hiểu biết được công nhận hiện nay thì đức Phật Thích-ca
đản sinh vào khoảng năm 624 trước Công nguyên, tức vào khoảng
thời gian trước niên đại của Khổng tử (551-479 trước Công nguyên)
ít lâu, nhưng đã thuộc vào thời Đông Chu chứ không thể rơi vào thời
của Chu Chiêu Vương, vốn trước đó quá xa. Căn cứ theo lịch sử Trung
Hoa thì thời gian đức Phật đản sinh là vào đời Chu Tương Vương
(651 đến 619 trước Công nguyên) thuộc nhà Đông Chu.
2 Tức là quẻ tốt nhất, tượng trưng cho ngôi vua chí tôn.
3 Trích từ các sách Chu thư dị ký -  周書異記 - và Kim thang biên
-  金湯編  (Chú giải của soạn giả) Điện thờ Nam Giao tức điện thờ
thiên địa, là nơi nhà vua thay mặt thiên hạ tế cáo trời đất.
Sang đời Chu Mục Vương, 1 có người truyền đạo
từ Tây Vực đến, có khả năng đi vào lửa nước, xuyên
qua vật cứng như kim loại, vách đá, dời núi lấp biển,
chuyển dịch thành ấp. Mục Vương cho xây đài Trung
Thiên mời vị ấy đến ở. (Trích từ sách Liệt tử - 列子)
Vì thế đến nay có rất nhiều chỗ như núi Ngũ Đài,
núi Chung Nam thuộc Sơn Tây, Thương Hiệt Tạo Thư
Đài (cách kinh đô Hàm Dương của nước Tần 20 dặm
về phía nam), núi Đàn Đài (nằm về phía nam cung
Ngọc Hoa đời Đường)... đều còn lưu lại dấu tích của
việc Mục Vương xây chùa thờ Phật.
Trong thiên Trọng Ni (仲尼篇) của sách Liệt tử (列
子) cũng thấy dẫn lời Khổng tử rằng: “Ta nghe phương
tây có vị đại thánh nhân, không trị mà dân không
loạn, không nói mà dân tự tin, không giáo hóa mà dân
tự làm đúng. Thật lớn lao vĩ đại thay, dân không biết
dùng tên gì mà gọi.” 2
1 Theo những kết quả nghiên cứu mới đây nhất thì Chu Mục Vương
trị vì trong khoảng từ năm 976 đến 922 trước Công nguyên.
2 Khổng tử cũng có viết một quyển sách tên là Tam bị bốc kinh -
三備卜經 – trong đó ở thiên thứ hai có nhiều chương đề cập đến
những chuyện về vị thánh nhân phương tây, tức là đức Phật. Đời
Đường Hiến Tông còn thấy có người trích dẫn, đề cập đến sách
này. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
74 75
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Ngoài ra, khảo chứng lại vào đời Tần Mục Công, 1
có người ở Phù Phong (thuộc Thiểm Tây) tìm được
một pho tượng đá. Mục Công không biết là tượng gì,
sai người đem vất trong chuồng ngựa. Ngay sau đó,
Mục Công bỗng thình lình ngã bệnh, nằm mộng thấy
bị thiên thần trách mắng. Mục Công đem việc ấy hỏi
triều thần, Do Dư tâu rằng: “Tôi nghe nói vào thời Chu
Mục Vương có người truyền đạo đến, nói là đệ tử Phật.
Mục Vương tin tưởng vị ấy, cho xây đài Trung Thiên
cao hơn ngàn thước 2 mời đến ở, chỗ nền đài ấy hiện
nay vẫn còn. Ngoài ra, ở gần Thương Hiệt Đài lại có
xây chùa Tam Hợp. Nay bệnh của bệ hạ có liên quan
đến việc ấy chăng?”
Mục Công nói: “Gần đây có tìm được một pho tượng
đá, y phục không giống như người thời nay, hiện đang
bỏ trong chuồng ngựa, chẳng biết có phải là tượng
Phật chăng?” Liền cho người mang đến, Do Dư nhìn
thấy kinh hãi nói: “Quả đúng rồi!” 3
1 Tần Mục Công là vua chư hầu của nhà Chu, ông trị vì nước Tần
trong khoảng thời gian 659 – 621 trước Công nguyên.
2 Thước cổ của Trung Hoa, bằng khoảng 0, 3 mét.
3 Tại Triều Tiên, Nhật Bản, những năm đạo Phật chưa truyền đến,
từ trong lòng đất bỗng hiện mây lành mạnh mẽ bay lên, những
chỗ ấy đều khai quật được tháp của vua A-dục tạo xưa kia. (Chú
giải của soạn giả)
Mục Công lập tức thỉnh tượng Phật đặt lên chỗ
sạch sẽ. Tượng đột nhiên phóng hào quang sáng rực.
Mục Công cho là thần nhân nổi giận, liền giết đủ 3
loài vật là trâu, dê và lợn mang đến cúng tế. Khi ấy có
thiện thần xuất hiện mang những vật cúng tế ấy vất
ra ngoài xa. Mục Công hết sức hoảng sợ, đem việc ấy
hỏi Do Dư.
Dư nói: “Tôi nghe rằng đức Phật là bậc thanh tịnh,
không được dâng cúng rượu thịt. Ngài thương xót bảo
vệ sinh mạng tất cả chúng sinh như con đỏ. Bệ hạ
muốn dâng cúng, xin dùng bánh trái là được.”
Mục Công vui mừng khôn xiết, phát tâm muốn
tạo tượng Phật, nhưng không biết tìm người tạc tượng
ở đâu. Do Dư liền nói: “Xưa Mục Vương xây chùa tạc
tượng, ắt những vùng chung quanh đó có thể tìm được
thợ giỏi.”
Quả nhiên, sau đó tại Nam thôn gần Thương Hiệt
Đài tìm được một cụ già tên Vương An, đã thọ đến 180
tuổi, kể lại rằng đã từng chính mắt được thấy việc tạc
tượng ở chùa Tam Hợp, nhưng nay già quá không thể
làm được nữa. Liền tìm kiếm trong cùng thôn ấy, thuê
được 4 người thợ, tạo thành một tượng Phật bằng đồng.
Mục Công vui mừng, liền cho xây dựng một tòa
lầu gác trên nền đài, cao đến 300 thước để cúng dường
An Sĩ toàn thư
76 77
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tượng Phật, thuở ấy gọi là Cao Tứ Đài. (Trích từ các
sách Thiên nhân cảm thông ký -天人感通記 - và Pháp
uyển châu lâm - 法苑珠林)
Thật ra, vào thời Tây Hán, 1 Dương Hùng, Lưu
Hướng trong khi sưu tầm các tàng thư cũng rất thường
gặp kinh Phật được cất giữ trong đó. Có thể thấy rằng
những lời của Khổng tử cùng với những gì Đế Quân đã
được nghe đều không phải là vô căn cứ. Chỉ tiếc là thời
ấy kinh điển Phật giáo chưa được chính thức truyền
đến, nên những sự việc ghi chép lại đều quá sơ lược.
Động lòng nhập thai
Đ
ế Quân kể rằng: Ta rời bỏ nhân gian rồi, liền
hướng về phương Tây. Vừa đi đến Quân sơn
ở hồ Động Đình, 2 nhìn thấy phong cảnh xinh đẹp khởi
tâm ưa thích, liền lưu lại đó một lúc. Trong lòng ta lúc
bấy giờ, trên không bị uy thế của thiên tử, triều quy
khống chế, dưới cũng không thân quyến cốt nhục buộc
ràng, hốt nhiên vượt thoát ra ngoài vòng trần thế, thật
1 Nhà Tây Hán do Lưu Bang khởi nghiệp, bắt đầu vào năm 202
trước Công nguyên, kéo dài đến khoảng năm 25 (đầu Công
nguyên).
2 Địa danh này nay nằm về phía đông bắc tỉnh Hồ Nam. Quân
sơn thật ra là một hòn đảo lớn nằm giữa lòng hồ, phong cảnh rất
xinh đẹp.
là một niềm an lạc không cùng tận. Được một lúc lâu,
bỗng có hai tiên đồng từ trời cao giáng hạ, bảo ta từ
nay làm chủ Quân sơn, kiêm luôn việc cai quản hồ
Động Đình.
Ngày nọ, có một thiếu phụ khoảng hơn ba mươi
tuổi, khóc lóc tìm đến núi cúng tế rồi khấn rằng:
“Chồng tôi bất hạnh đắc tội với vua, bị đày ra phương
nam xa xôi đến chết, đường xa vạn dặm khó lòng đưa
quan quách về. Đau đớn trong lòng, thương cho cha
mẹ chồng già yếu, hiện tôi lại đang mang thai. Nguyện
sơn thần linh thiêng xét rõ, chồng tôi vốn chỉ vì lòng
trung mà bị kết tội, thương cho cha mẹ chồng tôi nay
tuổi đã xế chiều, không người nương tựa, xin cho tôi
sinh hạ một đứa con trai để nối dòng họ Trương, dẫu
tôi có chết cũng không phải hối tiếc.”
Ta đang ở trên mây cao, nghe lời khấn ấy bỗng
khởi tâm thương cảm, xúc động không kiềm lại được,
nước mắt chảy ròng. 1 Ngay khi đó bỗng nhiên cảm
thấy thân thể nặng nề, lập tức rơi xuống, nhập vào
bào thai của người thiếu phụ, tối tăm không còn biết
1 Kính cẩn cứu xét việc này, thấy rằng thân của chư thiên vốn
không có nước mắt, nước mũi. . . chỉ khi sắp mạng chung mới có
5 tướng suy hiện ra, lúc ấy phía dưới nách bắt đầu có mồ hôi chảy
ra rất ít. Đế Quân lúc này có nước mắt chảy ra, có thể biết là ngài
đang ở trong cảnh giới của chư thần. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
78 79
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
gì nữa cả. Một thời gian lâu sau, bỗng nghe có tiếng
người kêu lên: “Là con trai, con trai!” Ta mở mắt nhìn,
thấy thân thể đang nằm trong chậu tắm, vậy là đã tái
sinh nơi trần thế.
Lời bàn
Biển sinh tử mênh mông, một lần qua không khỏi
khởi tâm đam mê, ái nhiễm, do đó mà thành đọa lạc.
Nếu không phải bậc tu hành chân chánh vĩ đại, ắt
không thể riêng mình tự đến tự đi giữa vòng sinh tử
mà không bị mê lấp chân tánh.
Đế Quân trước đó được nghe đạo pháp, trong lòng
vốn dĩ muốn về Tây phương, chỉ vì một niệm khởi sinh,
lưu luyến cảnh trời mây non nước mà bị trói giữ nơi
Quân sơn, hồ Động Đình. Tuy trong tâm tuyệt nhiên
không có ý tưởng muốn được làm sơn thần thủy bá, mà
bỗng dưng do niệm khởi đã rơi vào cảnh giới của thần
minh, hưởng đồ cúng tế.
Cho đến khởi tâm thương xót thiếu phụ nhà họ
Trương, vốn dĩ cũng là một niệm lành, nhưng hẳn
không hề dự tính đến việc sinh làm con bà ấy. Nhưng
một khi tình khởi đã hướng đến, lập tức đọa lạc nhập
vào bào thai. Rồi khi biết thân mình đã ở trong chậu
tắm, thì dù có quyết lòng muốn thoát ra cũng chẳng
còn được nữa.
Đến như Đế Quân mà còn không tự chủ được
như thế, huống chi những kẻ còn chìm sâu trong biển
nghiệp mông lung!
Hiếu thảo không thẹn với lòng
Đ
ế Quân kể rằng: Thân phụ ta họ Trương, tên
húy là Vô Kỵ, làm quan Bảo Thị 1 dưới triều
Chu Lệ Vương. 2 Khi ấy, vua đàn áp những người chỉ ra
lỗi lầm của mình, thậm chí giam cầm. Vua giận cha ta
thẳng thắn can gián, đày đi Phiên Dung 3 cho đến chết.
Khi ấy ta còn nhỏ, theo mẹ đến Phiên Dung đưa di thể
cha ta về an táng ở Hà Sóc. 4
Năm ta được mười tuổi đến trường học, lấy tên tự
Trung Tự, là có ý muốn nối theo chí hướng cha ta. Đến
tuổi trưởng thành, khi ông nội ta qua đời, tên tự của
1 Là chức quan giữ việc giúp vua giữ đúng theo lễ nghĩa, chính
đạo, kiêm việc dạy dỗ con em trong hoàng tộc.
2 Chu Lệ Vương (周厲王), niên đại chưa thể xác định chắc chắn,
nhưng thời gian trị vì rơi vào khoảng sớm nhất là năm 878 trước
Công nguyên, và chấm dứt muộn nhất cũng vào khoảng năm 842
trước Công nguyên. Ông tên thật là Cơ Hồ (姬胡), là vua thứ 10
của nhà Tây Chu.
3 Nay thuộc tỉnh Giang Tây.
4 Nằm về phía bắc sông Hoàng hà.
An Sĩ toàn thư
80 81
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
ta là Trọng. 1 Mẹ ta hiền thục sáng suốt, hết lòng dạy
dỗ cho ta. 2
Đến khi Chu Tuyên Vương 3 lên nối ngôi, ban chiếu
xem xét lại đối với hậu duệ của những người trước đây
bị chết vì sai lầm của vua trước. Ta vâng lời dạy của
mẫu thân, đến kinh thành dâng biểu minh oan cho
cha. Tuyên Vương ban chiếu khôi phục quan chức cho
cha ta, ban tên thụy là Hiến, 4 lại phong ta làm quan
Bảo Thị, nối chức cha ta.
Ta có người anh trai tên Trương Doãn Tư, không
may mất sớm, mẹ ta đau buồn khôn nguôi. Ta thường
lấy việc con thứ có thể kham nhận nối dõi thay cho
huynh trưởng để an ủi mẫu thân.
Khi bà nội ta là Triệu thị qua đời, không lâu sau
ông nội cũng tạ thế, ta lấy danh phận là cháu nội, thay
cha chịu tang ông bà trong 3 năm. Do bi thương quá độ
1 Chữ Trọng (仲) thường được dùng cho người con thứ. Vì Đế Quân
có người anh đã chết sớm.
2 Theo lời Đế Quân kể lại thì mẹ ngài mỗi ngày đều tụng Quán
kinh (觀經), tức kinh Quán Vô Lượng Thọ, về già không bệnh, an
nhiên ngồi mà thị tịch. Như thế có thể tin được rằng vào thời ấy
đã có Phật pháp truyền đến. (Chú giải của soạn giả)
3 Chu Tuyên Vương cai trị trong khoảng từ năm 827 đến năm 782
trước Công nguyên.
4 Hiến (獻) có nghĩa là người hiền.
nên thân thể suy kiệt, trong triều ngoài nội đều nghe
biết, ngợi khen ta là hiếu thảo. Do đó mà người đời hết
lòng kính trọng, mỗi khi gặp ta chỉ gọi bằng tên tự,
không dùng tục danh.
Lời bàn
Đây chính là Trương Trọng hết lòng hiếu thảo được
đề cập trong kinh Thi. 1 Người mẹ của Đế Quân chính
là thiếu phụ ngày trước đến cầu đảo ở Quân sơn. Ngày
ấy bà chưa làm mẹ, nên Đế Quân là người được bà lễ
bái; đến khi đã là mẹ con rồi, bà ấy lại nhận sự lễ bái
của Đế Quân. Nhưng rốt lại thì ai là người nên lễ bái,
ai không nên lễ bái? Cho nên, xét kỹ theo đạo Nho thì
thấy năm mối luân thường là vuông vức, chính trực,
mà xét thông suốt cả đạo Phật rồi thì mới thấy năm
mối luân thường là tròn trịa, viên thông.
Trị tội dâm thần
Đ
ế Quân kể rằng: “Khi ta đã là vua cai quản
các núi, 2 phàm hết thảy những việc thuộc về
núi sông khe lạch phát sinh như lũ lụt, hạn hán, mùa
1 Kinh Thi có bài thơ ca ngợi Đại tướng Cát Phủ, trong đó có 2 câu
cuối là: “Hầu thùy tại hĩ? Trương Trọng hiếu hữu.” - 侯誰在矣?張
仲孝友。 (Khách đến dự có những ai? Có Trương Trọng là người
hết lòng hiếu thảo, tốt với anh em.)
2 Vào những năm cuối triều Chu. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
82 83
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
màng được thất, những điềm báo lành dữ cát hung,
cho đến xét công luận tội các thuộc cấp, đều do ta cai
trị điều hành.
Thần núi Thanh Lê là Cao Ngư Sanh, có lòng ưa
thích một cô thôn nữ trong vùng, liền bắt hồn về làm
việc cưỡng bức dâm loạn. 1 Sự việc bị long thần ở hồ
Bạch Trì gần đó xét rõ cáo giác. Ta tra soát, gọi cả hồn
dân nữ đến đối chất, Cao Ngư Sanh nhận tội. Sau đó
trả hồn dân nữ, cô ấy liền sống lại. Ta phạt Cao Ngư
Sanh 300 roi đánh vào sống lưng, cách chức.
Khi ấy dưới chân núi có người con hiếu thảo là Ngô
Nghi Kiên đã qua đời, trước đây từng vì cha mà trích
máu chép kinh Lăng-già, 4 quyển. 2 Người này chết đã
3 năm, chưa nhận trách nhiệm gì. Ta liền tấu trình
lên Ngọc Đế xin cho thay vào chỗ Cao Ngư Sanh, được
chấp thuận. Từ đó, chư thần lớn nhỏ đều biết danh ta,
hết lòng kính sợ.
1 Nếu có thể bắt hồn về để cưỡng bức làm việc dâm loạn, thì cũng
có thể bắt hồn về để trừng trị tội lỗi. Như vậy, nếu cho rằng những
hình phạt ở cõi âm như vạc nấu, lửa thiêu, cối giã, xay nghiền. . .
đều là không thể thực hiện, chẳng phải là luận cứ của trẻ con đó
sao? (Chú giải của soạn giả)
2 Theo đây mà xét thì thấy việc Dương Hùng, Lưu Hướng nói là
thường tìm được kinh Phật trong các tàng thư lại càng đáng tin
cậy hơn. (Chú giải của soạn giả)
Lời bàn
Trong Dục giới, chư thiên ở 6 cảnh trời 1 đều vẫn
còn dục niệm, chỉ là vì phước đức sâu dày nên giữ
phần nặng, mà chuyện ưa thích nhục dục trở thành
nhẹ hơn. Thần núi phạm tội, đại để hẳn là do phần
tham dục vượt trội hơn, ưa thích nữ sắc mà làm việc
bắt hồn, về lý mà xét cũng là điều có thể xảy ra.
Nối dòng Xích Đế
Đ
ế Quân kể rằng: Ta thấy nhà Tần 2 trị dân
theo lối tàn khốc, xem dân như cỏ rác, liền
tấu trình lên Ngọc Đế, xin được hóa thân xuống trần
thế để dẫn dắt thiên hạ trong chốn lầm than, đưa
người người đến chỗ an cư lạc nghiệp.
Ý trời khó biết, lại khiến ta làm người nối dõi của
Xích Đế Tử. 3 Uy trời đáng sợ, ta không dám cưỡng
1 Sáu cảnh trời trong Dục giới bao gồm Tứ thiên vương thiên, Đao-
lợi thiên, Dạ-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa
tự tại thiên.
2 Tức vào lúc Tần Thủy Hoàng vừa thống nhất thiên hạ.
3 Chỉ Hán Cao Tổ Lưu Bang, người dựng nghiệp nhà Hán. Sau khi
cùng Hạng Vũ diệt nhà Tần, Lưu Bang và Hạng Vũ quay sang đối
địch với nhau, tạo thành cuộc chiến tranh Hán Sở tranh hùng.
Cuối cùng, Lưu Bang chiến thắng và lập nên nhà Hán, khởi đầu
vào khoảng năm 202 trước Công nguyên.
An Sĩ toàn thư
84 85
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
mệnh. Chợt có vị Đại thần Cửu Thiên Giám Sanh đến
buộc ta phải thác sanh xuống trần thế ngay. Giữa điện
Vân Tiêu, ta nhìn xuống thấy lửa cháy thiêu cung A
Phòng của nhà Tần đã tàn rụi, trong cung điện mới lại
thấy Hán Đế vừa cùng Thích cơ gặp gỡ thân mật. Đại
thần Giám Sanh bảo ta: “Đó chính là Xích Đế Tử.” Ta
vừa đưa mắt nhìn cho rõ, liền bị Đại thần Giám Sanh
đẩy xuống. 1 Ta ngã nhào, rơi xuống bên cạnh Hán Đế,
nhằm bụng Thích Cơ. 2 Hốt nhiên đến lúc nhận biết thì
đã thành người.
Hán Đế từ lúc sinh ta, được cùng ta thần cốt tương
tợ nên hành vi cử chỉ đều lộ vẻ phi phàm, về sau hết
sức thương yêu ta. Đến khi tuổi già, có ý muốn lập
ta làm thái tử, nhưng việc ấy cuối cùng không thành
tựu. 3 Hán Đế mất rồi, ta bị Lã Hậu sát hại. Mẹ ta cũng
1 Lúc ấy chính là giai đoạn thân trung ấm, riêng Đế Quân lúc đó
chưa được biết. (Chú giải của soạn giả)
2 Người phàm khi thác sanh ắt nhìn thấy cha mẹ giao hợp. Nếu là
con trai, tự nhiên khởi tâm sân hận với cha, ái luyến với mẹ; nếu
là con gái thì ngược lại. Cho đến từ Nam Thiệm Bộ châu thác sinh
đến 3 châu khác, hoặc từ 3 châu khác thác sinh đến Nam Thiệm
Bộ châu, hoặc từ nhân gian sinh lên các cõi trời, từ các cõi trời
sinh hạ nhân gian, từ các thiện đạo sinh vào ác đạo hay ngược
lại, hết thảy đều có hình tướng. Trong Đại tạng kinh có ghi chép
tường tận, ở đây không thể nói rõ hết được. (Chú giải của soạn giả)
3 Hán Đế sủng ái Thích Cơ, sinh con trai là Lưu Như Ý, thông
bị Lã Hậu giết chết một cách tàn độc đáng sợ. 1 Ta vì
quá mức oán hận, mỗi khi nghĩ đến việc này chỉ muốn
hóa làm loài đại mãng xã suất nhiên 2 để nuốt sống hết
toàn gia tộc họ Lã vào bụng mới thỏa lòng. 3
minh phi phàm, nên có ý bỏ thái tử Lưu Doanh mà lập Như Ý
làm thái tử. Lã Hậu là mẹ thái tử Lưu Doanh, nhờ em là Lã Trạch
đến cầu Trương Lương giúp. Trương Lương nhận lời, mời được 4
vị hiền nhân danh tiếng thời bấy giờ là Đông Viên Công, Giác
Lý tiên sinh, Ỷ Lý Quý và Hạ Hoàng Công (thời bấy giờ xưng là
Thương Sơn Tứ Hạo - 商山四皓) cùng về giúp khuông phò thái tử
Lưu Doanh. Hán Đế Lưu Bang trước đã từng nhiều lần mời bốn
vị này về giúp, nhưng họ đều từ chối, trốn tránh. Nay thấy bốn
người cùng đồng ý theo phò thái tử, Hán Đế liền đổi ý không thay
đổi ngôi vị thái tử nữa. Vì vậy, sự trợ giúp của Trương Lương và bốn
người này cũng có thể xem là nguyên nhân dẫn đến quyền lực rơi
vào tay Lã Hậu, và sau đó là những thủ đoạn tàn độc mà bà thực
hiện sau khi Hán Đế mất để báo thù sự sủng ái trước đây của Hán
Đế với Thích Cơ. Bà cho chặt hết tay chân Thích Cơ, khoét mắt cho
mù, đốt tai cho điếc, đổ thuốc độc cho câm, rồi bỏ vào nhà xí và
gọi đó là “người lợn”. Thích Cơ bị hành hạ như thế cho đến chết.
1 Theo đây có thể biết rằng Trương Lương và bốn vị Đông Viên
Công, Giác Lý tiên sinh, Ỷ Lý Quý, Hạ Hoàng Công cùng với mẹ
con Đế Quân hẳn có oán cừu từ nhiều đời trước. (Chú giải của
soạn giả)
2 Suất nhiên (率然): tên một loài rắn cực kỳ to lớn. (Chú giải của
soạn giả)
3 Về sau quả nhiên hóa làm rắn. Cho nên có thể thấy rằng tất cả
các pháp đều do tâm tạo thành. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
86 87
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Tôi ngày trước mới bắt đầu đọc kinh sách đạo
Phật, nghe đến thuyết “oán thân bình đẳng” cũng như
“oán từ thân khởi” thì hết sức lạ lùng hoài nghi. Đến
khi có thể tĩnh tâm quán xét lẽ xoay chuyển tuần hoàn
của mọi sự việc, mới biết rằng những lập luận như thế
nếu không phải bậc thánh nhân xuất thế ắt không thể
đủ sức nói ra.
Lấy như việc Thích Cơ mà nói, theo lẽ thông
thường thì phải xem Lã Hậu là kẻ oán, mà Hán Cao
Tổ là người ân. Thế nhưng, Lã Hậu oán hận Thích Cơ
hoàn toàn là do Cao Tổ trước đã sủng ái bà. Sự sủng ái
ngày càng nhiều hơn, cho đến đã có ý muốn thay đổi
thái tử, thì sự oán hận ngấm ngầm của Lã Hậu khi
ấy cuối cùng không thể nào hóa giải được nữa. Giả sử
như lúc Cao Tổ còn sống mà lấy tâm bình đẳng đối với
cả hai người, không sủng ái Thích Cơ đến mức ấy, thì
Thích Cơ đâu phải chịu tai họa tàn khốc như vậy? Do
đó mà xét thì tuy Lã Hậu cố nhiên là kẻ oán cừu của
Thích Cơ, nhưng Hán Cao Tổ há có thể xem là người
ân hay sao? Than ôi! Đó chính là cái nguyên lý “oán
tùng thân khởi”. 1 Phàm sự oán cừu đều từ chỗ thân
ái mà sinh khởi, hiểu như vậy rồi thì dù không muốn
1 Hiểu được nguyên lý này, cũng chính là cái học “cách vật” của
nhà Nho. (Chú giải của soạn giả)
thực hành sự quán chiếu lẽ bình đẳng oán thân cũng
không thể được.
Hóa rồng tại Cung Trì
Đ
ế Quân kể rằng: Ta từ sau khi gặp cái họa
Lã Hậu, trong lòng luôn nghĩ đến chuyện trả
thù báo hận, không nhớ gì đến quá khứ đã từng tu tập
chánh đạo. Tuy nhà họ Lã sau khi chết đã phải chịu
sự trừng phạt khổ sở nơi âm ti, nhưng mối oan nghiệt
với ta vẫn chưa dứt hết, nên lại thác sinh gặp nhau ở
một bến sông vùng Đông Hải, thuộc huyện Cung Trì.
Con ngựa của quan huyện lệnh chính là Lã Hậu
tái sinh. Mẹ ta là Thích Cơ ngày trước, cũng sinh ra
tại huyện này, vẫn mang họ Thích, nhưng do đời trước
thụ hưởng phước báo quá đáng nên đời này phải chịu
cảnh nghèo cùng, tiều tụy. Bà lấy chồng họ Trương,
lớn tuổi rồi vẫn chưa có con, vợ chồng nương nhau làm
nghề cắt cỏ mà sống.
Một hôm, bà ra cắt cỏ ngoài đồng trống, chợt nghĩ
đến việc mình tuổi tác đã cao mà vẫn chưa có con,
trong lòng hết sức bi thương, rơi lệ khóc than, cầu
nguyện với trời cao, lại cắt tay lấy máu nhỏ lên một
hòn đá trong ao nơi đó rồi khấn rằng: “Nếu như dưới
hòn đá này có con vật nào đang sinh sống, xin hãy về
làm con ta.” Ta lúc ấy xúc động vì tấm lòng thành, bất
An Sĩ toàn thư
88 89
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
giác thần thức lập tức chuyển nhập vào chỗ máu tươi.
Hôm sau bà trở lại nhìn nơi hòn đá thì thấy vết máu
đã hóa thành một con rắn thân dài một tấc, màu vàng
lấp lánh, chính là ta đã thác sinh.
Mẹ ta mang ta về nuôi dưỡng, qua một năm thì
trên đầu rắn bỗng mọc ra sừng, dưới bụng mọc chân,
lại có khả năng biến hóa. Mỗi khi trời muốn mưa, ta
lại dùng sức biến hóa cùng hỗ trợ. Thân ta ngày càng
dài to, bụng càng lớn, mỗi khi gặp các loài dê, ngựa,
chó, lợn... liền ăn nuốt cả.
Quan huyện có một con ngựa hay, chính là Lã Hậu
tái sinh, ta bắt được cắn chết. Quan huyện liền bắt cha
mẹ ta giam vào ngục, kỳ hạn trong 3 ngày nếu chưa
bắt được ta sẽ xử 2 người tội chết. Hôm sau, ta liền
hóa thành một nho sinh tìm đến xin gặp quan huyện,
khuyên ông ta thả người. Quan huyện nói: “Vợ chồng
lão họ Trương nuôi dưỡng con yêu xà, ăn nuốt gia súc
dân làng đã lâu, nay lại ăn cả ngựa của ta. Ta muốn vì
dân trừ hại, nhưng họ không chịu giao nó ra. Đó là họ
tự làm yêu nghiệt, phải xử tội chết.” Ta nói với quan
huyện: “Vật mạng bồi thường cho nhau, đều do nghiệp
đời trước mà thành. Nay ông muốn vì súc vật mà giết
mạng người, như vậy được chăng?” Quan huyện quát
đuổi ta ra. Ta nói: “Trên mặt ông đã hiện tử khí, hãy
khéo tự lo cho mình đi.” Nói rồi biến mất. Quân hầu
đứng quanh đó đều cho là yêu ma.
Ta liền trình lên Ngọc Đế kêu oan, kể lại việc đời
trước mẹ con ta vô tội mà bị người nhà họ Lã hại chết,
nay muốn báo thù rửa hận. Sự việc trình lên chưa
được Ngọc Đế trả lời, nhưng ta khí hận ngút ngàn
không kiềm chế được, liền biến hóa làm mưa gió, kéo
mây đen vần vũ mù mịt, lại mượn nước biển lớn đổ vào
thành ấp, trong vòng bốn mươi dặm đều ngập chìm
mênh mông. Trước đó ta đã hóa hiện vào trong ngục
thất, đưa cha mẹ ta thoát ra. Việc này xảy ra vào thời
Hiếu Tuyên Đế 1 của triều Tây Hán, trong sử sách có
ghi lại trận lụt Hãm Hà (陷河) chính là việc này.
Lời bàn
Đế Quân tuy nhiều đời làm người hiếu thuận với
cha mẹ, thương yêu anh em, chuyên cần làm thiện,
nhưng rốt lại cũng chỉ là những phước báu nhỏ nhoi
trong cõi trời người, chưa tu tập được Chánh pháp
xuất thế. Chính vì vậy mà tuy thác sinh vào hoàng
tộc, cũng không được an ổn vững vàng. May mắn về
sau được gặp Phật pháp, hướng về giải thoát. Nếu
không thì việc oán cừu vay trả qua lại sẽ nối nhau còn
mãi, chẳng bao giờ dứt! Cho nên, Bồ Tát muốn cứu
độ chúng sinh thì trước hết phải tự mình ngồi trên
thuyền Bát-nhã, tu tập trí tuệ giải thoát, sau đó mới
có thể vào biển sinh tử.
1 Hán Tuyên Đế trị vì từ năm 74 đến năm 49 trước Công nguyên.
An Sĩ toàn thư
90 91
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Gặp Phật được cứu độ
Đ
ế Quân kể rằng: Ta mang việc oán cừu với
Lã Hậu trình lên Ngọc Đế, chưa nhận được
ý trời mà đã tự hành động, tuy nhất thời rất thích ý,
nhưng ngay sau đó bình tâm nghĩ lại liền hối hận.
Hôm sau, Ngọc Đế hạ thánh chỉ, nhân vì hải thần là
Triều Hoành tâu lên việc ta tự ý sử dụng nước biển,
hại chết hơn 500 hộ dân thường, tính ra đến hơn hai
ngàn mạng người, trừ ra trong đó 80 người là có thù
oán với ta, còn lại bao nhiêu đều là chết oan uổng cả.
Ngọc Đế trách phạt, bắt ta làm con rồng ở Cung
Trì, giam hãm trong một vùng nước đọng. Do hạn hán
nhiều năm, sông ngòi cạn kiệt, nước hóa thành bùn.
Thân ta khi ấy to lớn, không hang lỗ nào chui lọt. Mặt
trời từ trên không ngày ngày chiếu xuống thiêu đốt
thân ta, nóng bức khổ não; trên thân thì tám mươi
bốn ngàn cái vảy đều có loài trùng nhỏ sinh ra trong
đó, cắn rứt không thôi. Ta khốn khổ cùng cực như vậy,
không còn biết đến ngày qua tháng lại. 1
Một buổi sáng sớm kia, ta nghe khí trời chuyển
sang mát dịu, như có gió lành thổi đến, rồi bỗng nhiên
1 Có câu rằng: Địa ngục nhất trú dạ, nhân gian ngũ bách niên (Một
ngày đêm trong địa ngục bằng năm trăm năm cõi nhân gian),
chính là chỉ những trường hợp như thế này. (Chú giải của soạn giả)
ánh trời tỏ rạng, mây lành năm sắc hiện ra trôi qua
bầu trời, trong mây hiện các điềm lành, tỏa chiếu
những quầng sáng màu tía, màu vàng, lại hiện nhiều
tướng trạng vi diệu, hào quang rực rỡ xưa nay chưa
từng thấy. Lại thấy các vị sơn thần, thủy thần, cho
đến tất cả thần thánh đều tề tựu đến khấu đầu lễ bái,
hoan hỷ tán thán. Lại có hương thơm cõi trời lan tỏa,
hoa trời rơi xuống khắp nơi, những chỗ hoa rơi chạm
đất đều hóa thành cảnh sắc tươi tốt như mùa xuân.
Khi ấy ta bỗng nghe thân hình thay đổi, mắt sáng
tai thính, các giác quan đều trở nên tinh tường, tâm
được thanh thản, miệng lưỡi tươi nhuận, có thể phát
được thanh âm. Ta lập tức ngẩng đầu kêu khóc, cầu xin
được cứu độ. Các vị thần thánh đều bảo ta rằng: “Đó
là bậc Đại Giác Thế Tôn ở Tây Thiên Trúc, đức Phật
Thích-ca Mâu-ni. 1 Nay mang giáo pháp lưu hành về
phương đông này. Ông đã được gặp Phật, nghiệp xấu
trước đây có thể được hóa giải.”
Ta liền tung người nhảy vọt lên, bay vào giữa ánh
hào quang, mang hết những sự việc nhân quả báo ứng
đã qua bạch rõ lên đức Phật. Thế Tôn liền dạy: “Lành
thay! Ông xưa nay thường là con hiếu tôi trung, làm
lợi lạc cho rất nhiều người, chỉ vì chấp tướng nhân ngã
mà buông thả tự thân làm việc tàn hại. Nay có còn
1 Đấng Điều ngự Trượng phu tất nhiên phải hiện thân như thế.
An Sĩ toàn thư
92 93
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
ôm giữ sự phân biệt kẻ oán người thân, khởi sinh tâm
niệm ngu si sân hận nữa chăng?”
Ta nghe lời Phật dạy chí lý, tâm địa tức thời khai
thông sáng suốt, không còn phân biệt nhân ngã, hết
thảy vọng niệm nhất thời dứt sạch. Tự nhìn lại thân
mình, hốt nhiên đã theo các vọng niệm mà cùng lúc
mất đi, 1 trở lại thân nam nhi ngày trước, đạt được trí
quán đảnh, liền quy y Phật.
Lời bàn
Rồng có đủ 4 loài: sinh ra từ thai bào (thai sinh),
sinh ra từ chỗ ẩm ướt (thấp sinh), sinh ra từ trứng
(noãn sinh) và sinh ra do biến hóa (hóa sinh); trong
các loài đó, chỗ khổ vui sâu cạn đều khác biệt. Vì thế,
Sa-kiệt-la Long vương có nói: “Cùng trong loài rồng,
có khi được hưởng phước báo như các vị thiên thần, có
khi chịu khổ não như địa ngục, cũng có khi đồng như
loài người hoặc súc sinh, ngạ quỷ, mỗi mỗi đều tùy
theo nghiệp đời trước mà thọ báo ứng.”
Xưa kia, đức Thế Tôn có lần đang thuyết pháp với
1 Đây quả thật là: Tội tùng tâm khởi tương tâm sám, tâm nhược
diệt thời tội diệc vong. Tội vong tâm diệt lưỡng câu không, thị tắc
danh vi chân sám hối -罪從心起將心懺, 心若滅時罪亦亡。罪亡
心滅兩俱空, 是則名為真懺悔. (Tội từ tâm khởi, đem tâm sám; tâm
đã diệt rồi tội cũng tiêu. Tội tiêu tâm diệt không không cả, đó mới
thật là chân sám hối. )
vô số vị Bồ Tát, bỗng có một con rồng mù sống trong
vùng nước nóng bức, khắp trên thân các vảy rồng đều
có các loài trùng nhỏ sống trong đó cắn rứt thân rồng
mà ăn, kêu khóc cầu xin cứu độ. Lại có vô số những con
rồng đói, nước mắt như mưa, đều thưa hỏi về nghiệp
duyên của mình đời trước. Đức Phật vì tất cả mà khai
mở tâm đạo, khiến cho đều nhận thọ Tam quy, Ngũ
giới. Sau đó, những con rồng ấy thảy đều được thoát
khổ. 1
Chẳng phải đúng thật vậy sao? Đức Phật là bậc
đạo sư trong ba cõi, 2 là đấng cha lành của bốn loài, 3 là
bó đuốc sáng soi thấu vô minh, có thể khiến cho kẻ mù
được thấy, kẻ điếc được nghe, người què được đi, người
câm được nói. Đế Quân trước đây từng nghe lời ca hàm
chứa Phật pháp mà xúc cảm, phải dừng xe xuống lễ
1 Xin xem chi tiết chuyện này trong Đại Chánh tân tu Đại tạng
kinh, tập 13, kinh số 397, Đại phương đẳng Đại tập kinh, quyển
44 (大方等大集經 - 卷第四十四), phẩm thứ 12 – Nhật tạng phần
trung tam quy tế long phẩm - 日藏分中三歸濟龍品第十二. (Chú
thích của soạn giả, có bổ sung)
2 Ba cõi (tam giới), tức Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Tất cả
chúng sinh trong luân hồi, tùy nghiệp lực lưu chuyển đều tái sinh
lên xuống qua lại trong 3 cõi này.
3 Bốn loài, tức các loài thai sinh, thấp sinh, noãn sinh và hóa sing.
Tất cả chúng sinh tùy theo nghiệp lực đều sinh ra bởi một trong
bốn cách này.
An Sĩ toàn thư
94 95
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
bái cầu đạo, đủ biết đã sẵn có trí tuệ căn lành trồng
sâu từ đời trước. Do đó mà vừa được gặp Phật đã nhất
thời dứt sạch ác nghiệp đời trước.
Hai cõi âm dương giao nhau
Đ
ế Quân kể rằng: Ta nhờ nhiều đời trước
thường làm lành lánh dữ, trải qua ngàn năm
lại tái sinh vào đời Thuận Đế, niên hiệu Vĩnh Hòa. 1
Trong sách Hậu Hán thư có đề cập đến tên Trương
Hiếu Trọng, chính là ta. Ấy cũng vì ta không quên hẳn
danh xưng trong đời trước.
Trong đời ấy, ta tuy không ra làm quan, nhưng
thừa mệnh Ngọc Đế nên ngày lo việc dương gian, đêm
đêm lại phụ trách công việc nơi âm ti địa phủ. Người
đời có những việc ẩn khuất tinh tế, khéo che giấu
không ai biết, ta cũng đều biết rõ và ghi chép tường
tận, cho đến những việc của bọn yêu ma tà đạo cũng
không ngoài vòng soát xét của ta.
Lời bàn
Huyện Thái Thương ở Giang Tô có một người, từng
bị bắt làm sai dịch nơi địa phủ. Cứ vào lúc giữa đêm
thì thân thể cứng đờ, lạnh ngắt, liền thấy mình được
âm ti giao cho một tấm thẻ bài và một cây gậy. Trên
1 Niên hiệu Vĩnh Hòa rơi vào các năm từ 136 – 141 theo Tây lịch.
thẻ bài ghi tên những người bị âm ti tróc nã. Người ấy
một khi vừa cầm gậy vào tay, chớp mắt đã thấy mình
có khả năng xuyên núi vượt biển, đến đúng ngay nơi
có người bị tróc nã, bắt lấy người đó treo lên đầu gậy.
Thường mỗi lần bắt đến 10 người, nhưng quảy lên đầu
gậy chỉ thấy nhẹ như lông hồng. Đến khi trời sáng liền
trở lại như người thường không khác. Người ấy sợ lắm,
tìm đủ mọi cách vẫn không sao trốn tránh được việc
ấy. Có vị tăng khuyên ông xuất gia. Ông nghe lời, từ
đó về sau không còn bị âm ti sai khiến như trước nữa.
Mưa tên xuyên thân
Đ
ế Quân kể rằng: Ta nhờ tu thiện tích đức
trong nhiều đời, dần dần được phục hồi thần
chức, nhưng những mối oan trái xưa kia vẫn chưa trả
dứt nên chưa được yên. Vì lẽ đó mà lại tái sinh tại
vùng Hà Sóc ở phía bắc sông Hoàng Hà. 1
Vào lúc tướng Đặng Ngãi mang quân đánh Thục,
ta ở trong quân giữ chức Hành quân tư mã. Ta khuyên
Đặng Ngãi theo đường nhỏ trong núi mà đi để tránh
gặp địch. Khi vào sâu đất Thục rồi, gặp tướng Thục là
1 Trong kinh có dạy rằng: “Bao nhiêu kiếp đã qua của mỗi người
chúng ta, nếu gom xương cốt lại thành đống ắt lớn hơn núi Tu-di,
sữa mẹ đã uống hẳn nhiều như nước trong đại dương.” (Chú giải
của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
96 97
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Gia Cát Chiêm. Đặng Ngãi dụ hàng Gia Cát Chiêm,
hứa sẽ phong cho tước vương ở đất Lang Gia. Chiêm
không nghe theo, quân hai bên giao chiến. Gia Cát
Chiêm hết sức trung kiên, chống cự cùng ta, bắn tên
như mưa khiến ta trúng tên toàn thân. Gia Cát Chiêm
cuối cùng cũng bị bắt giam lại. Ta có ý tìm cách cứu
Chiêm, nhưng thân thể bị thương quá nặng. Ấy chính
là món nợ trước kia ở Cung Trì, nay phải chịu báo ứng
vậy.
Lời bàn
Kinh Lăng nghiêm dạy rằng: “Báo ứng của nghiệp
giết hại, ví như trải qua số kiếp nhiều như số hạt bụi
nhỏ, vẫn cứ qua lại ăn giết lẫn nhau, như bánh xe xoay
tròn không lúc nào ngừng.” 1 Xét theo đó mà nói thì báo
ứng của sự việc ở Cung Trì quả là nhanh như chớp mắt
mà thôi. Nếu như nhận hiểu được điều này, có thể từ
nay về sau biết sợ báo ứng mà không còn dám phạm
vào nghiệp giết hại nữa.
1 Đoạn này trích từ kinh Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhơn Tu
Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm (大
佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經), được xếp vào Đại
Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 19, kinh số 945, do ngài Bát-
thích-mật-đế dịch vào đời Đường. Kinh gồm 10 quyển, xem ở
quyển thứ 8, từ dòng thứ 14, trang 145, tờ b.
Chấp chưởng việc khoa bảng
Đ
ế Quân kể rằng: Ngọc Đế thấy ta nhiều đời
học đạo Nho, chuyên tâm tận ý nghiên cứu
tam phần ngũ điển, 1 liền giao phó cho ta chấp chưởng
quản lý sổ bộ của thiên đình ghi chép việc khoa bảng
ở nhân gian.
Hết thảy mọi việc liên quan đến sĩ tử từ các khoa
thi nơi quận huyện, cho đến những việc lớn lao như
quy chế thi cử, quan phục, bổng lộc, ngạch trật, phong
thưởng... đều phải trình lên ta, cho đến việc bổ nhiệm
hay bãi chức các vị thừa tướng, ngự sử cũng đều do ta
chưởng quản.
Lời bàn
Người thế gian nghe biết ai đó được làm quan
khảo thí, liền tìm đủ mọi cách để mua chuộc, cầu cạnh,
mong được chiếu cố. Nhưng vị quan ấy cũng chỉ nắm
được một phần quyền hạn, không có quyền quyết định
tất cả, cũng chỉ giữ quyền trong một lần bổ nhiệm,
1 Tam phần ngũ điển: các thư tịch cổ phổ biến và được xem là
mẫu mực để trau giồi kiến thức. Tam phần là các sách của 3 vua
cổ đại: Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế. Ngũ điển là các sách
của 5 vị: Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Nghiêu và Thuấn.
Vào thời cổ, người thông thạo cả tam phần ngũ điển có thể xem
là uyên bác.
An Sĩ toàn thư
98 99
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
không thể kéo dài quá 3 năm. Lại như quan chủ khảo
cấp dưới, cũng không có quyền tham dự các kỳ thi
cấp trên; quan coi về quy chế khoa cử cũng không thể
tham dự vào phần việc của quan khảo tuyển. Như vậy,
việc thành tựu hay thất bại trong khoa cử, vẫn là do
chính mình quyết định trước nhất, tuy rằng cũng có
lúc không được như mong muốn. Do có nhiều quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau, nên việc mua chuộc đút lót quả
thật là rất khó.
Giả sử như có một vị quan khảo thí, hết sức sáng
suốt, chí công vô tư, không bệnh không già, không có
những việc tang chế trong nhà khiến phải tạm nghỉ
việc, không thiên lệch cất nhắc học trò của riêng mình,
không tham muốn tiêu pha tiền bạc, không phải theo
ý muốn người khác mà hành xử, đảm trách từ việc
thi cử nơi quận huyện cho đến tại kinh đô, từ quan
viên lớn nhỏ cho đến tể tướng, đại thần đều giao cho
vị ấy quyết định việc bổ nhiệm hoặc bãi chức. Ví như
có người muốn mua chuộc cầu cạnh, vị ấy cũng không
nghe theo. Ví như làm theo người như vậy, có thể gọi
là sáng suốt chăng? Bằng cách nào có thể làm theo
người như vậy? Xin thưa, chỉ cần cung kính học làm
theo như đức hạnh của Đế Quân, góp sức lưu hành
những lời răn dạy quý báu của Đế Quân là được.
Ngày sau chứng quả
Đ
ế Quân kể rằng: Ta học theo lời Phật dạy,
tức thời chứng đắc pháp vô phân biệt, sống
trên núi cao an ổn thanh tịnh, nghĩ thương nhân dân
tật bệnh khổ não. Bấy giờ, đất Thục gặp nạn lụt lớn,
dân chúng nhiều người phải trôi giạt ly tán, lại khổ vì
dịch bệnh truyền nhiễm, cho đến ung nhọt, lao sái đủ
các loại bệnh. Ta biến hóa thành thường dân, làm một
người lái thuyền, cứu thoát cả ngàn người bị đuối nước;
lại hóa làm thầy thuốc, đích thân chẩn bệnh cứu sống
rất nhiều người. Tại pháp hội trên đỉnh Linh Thứu,
đức Phật Thích-ca thọ ký cho ta rằng: “Ông ngày sau
sẽ thành Phật, hiệu là An Lạc Bất Động Địa, Du Hý
Tam-muội Định Tuệ Vương Bồ Tát, Thích-ca Phạm
Chứng Như Lai. 1
Lời bàn
Trong bản văn dùng “Thứu phong Cổ Phật” (鷲峰
古佛), đó là chỉ đức Thích-ca Như Lai trên đỉnh Linh
Thứu. Đức Thích-ca là vị Tôn Phật thứ 4 trong ngàn
vị Phật của Hiền kiếp hiện tại, nhưng dùng chữ “Cổ
Phật” là ý nói ngài đã nhập Niết-bàn. Thánh hiệu An
1 Như biết rằng Đế Quân trong tương lai chắc chắn thành Phật,
thì cũng biết rằng tất cả chúng ta tương lai rồi sẽ thành Phật. (Chú
giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
100 101
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lạc Bất Động là hiệu của Đế Quân trong tương lai
khi thành Phật, chỉ là không biết còn phải trải qua
bao nhiêu hằng sa số kiếp, cúng dường phụng sự bao
nhiêu đức Phật, rồi mới chứng đắc được quả vị Phật
ấy. Đâu phải nói rằng hiện nay đã đủ 32 tướng tốt, 80
vẻ đẹp trang nghiêm, ngồi dưới cội bồ-đề mà thành
tựu Chánh giác được ngay? Xét vị trí của Đế Quân
trong hiện tại còn dưới Ngọc Đế, mà chính như Ngọc
Đế muốn hướng đến quả vị Bồ Tát đã rất là xa xôi khó
được, huống là Đế Quân hướng đến quả Phật? Nếu
như nói rằng Đế Quân hiện nay đã thành Chánh giác,
ấy là tưởng như muốn tôn trọng Đế Quân hóa ra lại vu
khống bịa đặt cho ngài.
Phụ đính 5 mục hỏi đáp về luân hồi
1. Làm sao tin được thuyết luân hồi?
Hỏi: Về thuyết luân hồi, hiện chỉ thấy nói trong
kinh Phật, Khổng Tử chưa bao giờ thấy nói rõ về việc
này?
Đáp: Nếu là lý lẽ đúng đắn thì nên tin nhận, cần
gì phải luận việc đó là trong kinh Phật hay trong sách
Nho? Nếu chỉ những gì do Khổng tử nói ra mới tin
theo, thử hỏi tất cả lời Khổng tử đã nói trong suốt một
đời, nay còn truyền lại hậu thế được bao nhiêu? 1 Nếu
chỉ vì không thấy ghi chép liền cho rằng đó không phải
đạo của nhà Nho, thì cứ xét như trong Lục kinh, Tứ
thư, 2 không thấy Khổng tử có một lời nào đề cập đến
cha mẹ mình. Có lẽ nào là một nhà Nho mà cả đời
chẳng có một lời nào nói đến song thân phụ mẫu hay
sao? Đó là chưa nói đến cái thuyết “Tinh khí vi vật,
di hồn vi biến - 精氣為物, 遊魂為變” trong Kinh Dịch
(Hệ từ thượng) cũng chính là lý luân hồi đó thôi. Sách
Trung Dung luận về chữ “thành”, không nói “vật có
trước sau” (始終), mà nói “vật có sau trước” (終始); 64
quẻ trong Chu Dịch, 3 quẻ cuối cùng không phải quẻ
ký tế (既濟 - đã xong) mà lại là quẻ vị tế (未濟 - chưa
xong), những điều đó đều hàm chứa lẽ xoay chuyển,
tuần hoàn không có điểm kết thúc của muôn vật. Nếu
không có khả năng thấu hiểu tường tận rõ ràng như
1 Một bộ Luận ngữ, không quá mười hai ngàn bảy trăm chữ, mà
những lời do Không tử thực sự nói ra trong đó chỉ có tám ngàn
năm trăm lẻ ba chữ mà thôi. (Chú giải của soạn giả)
2 Lục kinh bao gồm: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc,
Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu. Tứ thư bao gồm các sách Đại học,
Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử. Trong nguyên bản dùng chữ
Tứ tử (四子) để chỉ Tứ thư (四書), đó là cách gọi có từ đời Hán trở
về sau.
3 Kinh Dịch được Chu Văn Vương chỉnh lý, bổ khuyết, gọi là Chu
Dịch.
An Sĩ toàn thư
102 103
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
trong kinh Phật, chỉ dựa vào các bậc thánh nhập thế,
ắt không thể thấy hết được những việc quá khứ, vị lai,
cùng những việc trong các cõi thiên thượng, nhân gian.
Sách Trung Dung, chương 12 nói rất rõ rằng: “Đến chỗ
cùng cực ấy, tuy thánh nhân cũng có chỗ còn chưa biết
được”, sao lại rơi vào bệnh hoài nghi như thế?
Cây đào cây mận, tuy gặp tiết xuân mới đơm hoa,
nhưng vốn đã manh nha tiềm phục mầm hoa từ trước
lúc thu sang lá rụng; khí trời ấm áp tuy xuân về mới
thấy, nhưng dương khí vốn đã bắt đầu phát khởi từ
sau tiết đại hàn, đông chí. Trong thế gian muôn vật
đều tự nhiên như thế, sao chỉ riêng đối với con người
lại nghi rằng không có luân hồi? 1
2. Thuyết luân hồi có từ bao giờ?
Hỏi: Phật giáo bắt đầu truyền đến Trung Hoa vào
đời Đông Hán, nên thuyết luân hồi đa phần là từ đời
Hậu Hán về sau, còn vào thời Đường Ngu, Tam đại 2
đều chưa nghe nói đến.
Đáp: Ôi, nói như thế quả là uổng công đọc sách
của người xưa! Há không nghe chuyện vua Nghiêu
1 Đây cũng lại là một ứng dụng từ cái học “cách vật” của nhà Nho.
(Chú giải của soạn giả)
2 Tam đại: chỉ 3 triều đại là Hạ, Thương và Chu trong lịch sử Trung
Hoa.
giết ông Cổn nơi Vũ sơn, thần thức hóa làm con gấu
vàng, vào sống trong vực sâu đó sao? 1 Há không nghe
chuyện Vệ Khang Thúc báo mộng cho người thiếp hầu
của Vệ Tương Công đó sao? 2 Há không nghe chuyện Tề
Tương Công nhìn thấy con lợn thật lớn, người hầu đều
nói đó là công tử Bành Sinh đó sao? 3 Há không nghe
chuyện Đỗ Bá hiện hình, dùng cung đỏ tên đồng mà
1 Trích từ sách Sử ký chính nghĩa, 30 quyển, của Trương Thủ
Tiết, đời Đường, dựa theo sách Sử ký của Tư Mã Thiên mà bình
giải, chú thích thêm. (Chú giải của soạn giả, có bổ sung) Sách
Tả truyện, phần Chiêu công – năm thứ 7, chép rằng: “Xưa vua
Nghiêu giết ông Cổn (cha của vua Vũ nhà Hạ) nơi Vũ Sơn, thần
thức ông hóa làm con gấu vàng, vào sống trong khe núi sâu.”
2 Trích từ sách Sử ký của Tư Mã Thiên. (Chú thích của soạn giả có
bổ sung) Theo Sử ký, trong phần Vệ Khang thúc thế gia, Vệ Tương
công là con cháu của Vệ Khang Thúc, có một người thiếp yêu.
Người thiếp một hôm nằm mộng thấy có đứa trẻ tự xưng là Vệ
Khang Thúc nói mình sẽ đầu thai làm con bà và muốn được đặt
tên là Nguyên. Sau đó bà mang thai. Người thiếp đem việc này
nói với Vệ Tương công. Vệ Tương công cho là ý trời, bèn đặt tên
cho đứa bé là Nguyên. Sau Vệ Tương công mất, Cơ Nguyên lên
nối ngôi, tức là Vệ Linh Công.
3 Trích từ Tả truyện. (Chú giải của soạn giả) Công tử Bành Sinh là
người trung nghĩa, bị gian thần hại chết. Tề Tương Công đi săn ở
núi Cô Phần, bỗng gặp một con vật quái lạ, to lớn như con trâu mà
hình dung nửa giống cọp, nửa giống lợn. Người hầu đi theo đều
nói nhìn rất giống công tử Bành Sinh.
An Sĩ toàn thư
104 105
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
bắn Chu Tuyên Vương đó sao? 1 Chẳng nghe chuyện
Hồ Đột gặp thái tử Thân Sanh đã chết nơi đất Khúc
Ốc; 2 ông già đã chết báo ơn Ngụy Khỏa bằng cách kết
cỏ đó sao? 3 Há chẳng nghe chuyện hai đứa bé hiện
1 Trích từ Mặc Tử truyện. (Chú giải của soạn giả) Chu Tuyên Vương
có người thiếp rất đẹp là Khiêu nữ, muốn làm chuyện lẳng lơ với
quan đại phu là Đỗ Bá. Đỗ Bá không thuận theo, cô này liền bịa
chuyện gièm pha với Chu Tuyên Vương. Tuyên Vương nghe lời bắt
tội Đỗ Bá, đày ra Vu Tiêu rồi sai người hại chết. Về sau Chu Tuyên
Vương nhìn thấy Đỗ Bá hiện hình cầm cung tên bắn mình. Vua sợ
quá ngã bệnh rồi chết.
2 Thái tử Thân Sanh nước Tấn, đã bị cha là Tấn Hiến Công nghe
lời người thiếp là Ly Cơ hại chết, nhưng vào đời vua Hi công năm
thứ 10, mùa thu, Hồ Đột lại gặp thái tử ở đất Khúc Ốc, là đất
phong cho thái tử trước kia.
3 Danh tướng Ngụy Thù có người thiếp yêu là Tố Cơ, chênh lệch
tuổi tác rất lớn. Sợ mình chết đi rồi nàng không nơi nương tựa, nên
dặn 2 con trai là Ngụy Khỏa và Ngụy Kỳ rằng, sau khi ông chết
hãy tìm nhà tử tế mà giúp nàng tái giá. Ít lâu sau ông bệnh nặng,
lúc hấp hối lại bảo 2 con hãy chôn sống Tố Cơ theo để bầu bạn
cùng ông. Tuy vậy, sau khi ông mất, Ngụy Khỏa không làm như lời
ông trăn trối, mà vẫn tìm nhà danh giá giúp nàng Tố Cơ tái giá,
được sống an ổn giàu sang. Ngụy Kỳ thắc mắc hỏi anh sao không
làm theo lời cha trăn trối, Ngụy Khỏa nói: “Cha nói lúc tỉnh táo
mới là lời phải nghe theo, còn lúc bệnh nặng hấp hối, thần trí rối
loạn, đó đâu phải thật là ý muốn của cha.” Cha nàng Tố Cơ nhớ
ơn Ngụy Khỏa đã không chôn sống con ông lại lo cho có cuộc
sống tử tế, nên về sau khi Ngụy Khỏa đánh nhau với tướng Tần là
hình nấp hai bên sườn Tấn hầu, chính là hai người
Triệu Đồng, Triệu Quát đã bị ông giết trước đó? 1 Há
chẳng nghe chuyện Ngô Vương Phù Sai giết Công Tôn
Thánh nơi Tư sơn, về sau Thái Tể Phỉ tại núi này 3
lần hô tên ông đều nghe tiếng đáp đủ 3 lần đó sao? 2
Há chẳng nghe chuyện quân nước Việt cúng tế Ngũ Tử
Tư, nhìn thấy chén rượu tự nhiên lay động rồi cạn dần
như có người uống đó sao? 3
Đối với những việc được ghi chép như trên, thử hỏi
là việc trước thời Hán Minh Đế, hay là sau thời Hán
Minh Đế? Quý Tử người nước Ngô có nói rằng: “Thân
thể bằng xương thịt này rồi sẽ quay về với lòng đất, đó
là mạng sống hết; nhưng hồn phách thì không thể như
thế được.” Trong một câu nói này có thể thấy ra được
là có thuyết luân hồi hay không.
3. Thánh nhân có khác với người phàm?
Hỏi: Những bậc trung thần hiếu tử xưa nay, cố
nhiên là ngàn năm chẳng mất, nên việc Đế Quân tái
thế hơn mười bảy đời, không có gì phải nghi ngờ cả.
Đỗ Hồi, ông lúc đó đã chết, liền hiển linh kết cỏ lại thành dây làm
vướng chân ngựa Đỗ Hồi. Hồi ngã ngựa, bị Ngụy Khỏa bắt được.
1 Các tích trên đều trích từ sách Tả truyện. (Chú giải của soạn giả)
2 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm. (Chú giải của soạn giả)
3 Trích từ sách Ngô tục truyện. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
106 107
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Nhưng với những kẻ phàm phu tục tử, khí chất tầm
thường, một khi đã chết thì hồn phách ắt là tiêu tán,
làm sao có thể muôn kiếp vẫn tồn tại?
Đáp: Hình hài có lớn nhỏ, lanh lợi hay ngu độn,
nhưng chân tánh không có lớn nhỏ, lanh lợi hay ngu
độn. Nếu cứ cho rằng những người tầm thường sau khi
chết sẽ hoàn toàn diệt mất, thử hỏi vào lúc Đế Quân bỏ
mạng ở Cung Trì, bất quá cũng chỉ là một con rắn mà
thôi, nếu theo lý ấy hẳn đã diệt mất rồi, làm sao ngày
sau còn có Đế Quân?
4. Sao có người nói rằng sau khi chết thần thức
tiêu tán mất?
Hỏi: Xem qua những chuyện ghi chép trong nhiều
triều đại đã có thể tin rằng thật có chuyện tái sinh
qua nhiều kiếp, nhưng gần đây xem trong sách Tiểu
Học của Chu Hy thấy có nói rằng, con người ta sau khi
chết, hình hài đã hư hoại thì thần hồn cũng theo đó
mà tiêu tán mất. Vì thế nên có chút hoài nghi?
Đáp: Sách Tiểu Học ấy cũng có dẫn lời của Phạm
Văn Chánh Công, 4 nói rằng những ai chỉ biết riêng
mình thụ hưởng giàu sang phú quý mà không biết
4 Tức Phạm Trọng Yêm (范仲淹), sinh năm 989, mất năm 1052,
tên tự là Hy Văn, tên thụy là Văn Chánh.
chia sẻ giúp đỡ người trong tộc họ thì ngày sau làm
sao nhìn mặt tổ tông nơi địa phủ. Đó có phải lời Chu
Hy ghi chép lại chăng?
- Quả đúng là lời của Chu Hy.
Thế nhưng nếu quả thật hình hài hư hoại, thần
thức phiêu tán, vậy rốt lại còn ai là người nhìn mặt tổ
tông? Lại như tổ tông cũng đã hình tiêu thần tán, thì
còn ai là người thấy biết kẻ kia không giúp đỡ thân
tộc? Lời nói của Chu Hy trước sau bất nhất, tự mâu
thuẫn với nhau rồi vậy. 1
Phàm người muốn ăn trái cây, trước phải loại bỏ
hạt, muốn ăn thịt, trước phải loại bỏ xương. Nay ông
đọc sách Tiểu Học, cớ sao lại chỉ riêng chọn lấy phần
“hạt”, phần “xương” mà “ăn”?
Đến như vua Nghiêu, vua Thuấn, Chu Công,
Khổng Tử đều là những đỉnh Thái Sơn, những sao Bắc
đẩu trong đạo Nho, mà trong Ngu thư, thiên Ích Tắc
cũng có nói rằng: “Tổ tiên về chứng giám.”
Lại như trong Chu thư có chép chuyện Chu Công
nói với ba vị vua 2 rằng: “Ta bắt chước theo điều nhân
nghĩa của vua cha, nên có thể cúng kính quỷ thần.”
1 Ý nghĩa của đoạn này vốn là ở trong sách Thượng trực biên (尚
直編) của Đại sư Không Cốc. (Chú giải của soạn giả)
2 Ba vị vua ở đây là Thái Vương, Vương Quý và Chu Văn Vương.
An Sĩ toàn thư
108 109
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Khổng tử có nói chuyện tại Đạn Cầm gặp Chu Văn
Vương, trong giấc mộng lại thân thiết với Chu Công Đán.
Những điều đó đều cho thấy rõ rằng thần thức của
các bậc tiền nhân ngày trước không hề tiêu tán, diệt
mất. Nếu cho rằng lời nói của các bậc hiền Nho ngày
trước ắt đáng tin, thì những lời của các vị Nghiêu,
Thuấn, Chu, Khổng lại càng đáng tin hơn rất nhiều.
Còn nếu nói rằng những lời của Nghiêu, Thuấn, Chu,
Khổng chẳng đủ để tin cậy, thì sao vẫn được các hiền
Nho ngày trước lưu truyền?
Huống chi, nếu cho rằng người chết quả thật thần
thức tiêu tán, diệt mất, ắt là các vị hiền Nho ngày
trước tuy nhiều, nay cũng phải nằm trong số bị tiêu
tán, diệt mất ấy, vậy cần gì phải có 2 kỳ tế lễ mùa xuân
và mùa thu mỗi năm? Nếu như nay vẫn thực hiện việc
tế lễ hằng năm vào hai mùa xuân, thu, thì cái thuyết
thần thức tiêu diệt đó, hậu thế ắt không thể tin được,
vậy thì lấy gì để thuyết phục các thế hệ mai sau?
Mạnh Tử khi đọc thiên Vũ Thành trong Kinh Thư
còn chỉ chọn lọc tin theo trong đó vài ba phần, huống
gì là sách Tiểu Học của Chu Hy!
5. Người sao có thể tái sinh làm thú vật?
Hỏi: Thần thức như vậy là không diệt mất, sẽ trở
lại tái sinh. Nay đã được nghe thuyết về sinh mạng
như thế, nhưng nếu nói người chết lại hóa làm thú
vật, thú vật lại có thể tái sinh làm người, điều ấy tôi
không tin.
Đáp: Hình hài vốn tùy theo tâm thức mà biến
hiện. Một niệm nhân từ, tức đồng trong cảnh giới trời,
người. Một niệm hung ác, tức mầm mống ma quỷ, súc
sinh đã bắt đầu manh nha. Việc lành việc dữ đã có sự
tương tác qua lại với nhau mà không thuần nhất, tất
nhiên hai cảnh giới người và thú vật cũng thay đổi
biến hóa mà không cố định. Nếu như nói rằng hễ cứ là
người thì nhất định làm người mãi, thú vật cũng nhất
định làm thú vật mãi, thì ngay lúc bắt đầu phân chia
người và thú, chẳng phải đã là quá bất công sao?
Có người đến hỏi một vị tăng rằng: “Vì sao thân
thể con người thì đứng thẳng mà đi, còn thân hình loài
thú lại phải nằm ngang mà đi?” Vị tăng đáp: “Sinh ra
làm người, ấy là trong kiếp trước có tâm chính trực,
ngay thẳng, nên kiếp này thân thể đứng thẳng mà
đi. Sinh ra làm thú, ấy là trong kiếp trước tâm không
chính trực, không ngay thẳng, nên kiếp này thân thể
phải nằm ngang mà đi.”
Tâm ngay thẳng hoặc không ngay thẳng, vốn biến
đổi trong từng khoảnh khắc, nên hình thể cũng theo
đó mà biến đổi, nay sinh làm người, mai sinh làm thú,
chẳng phải chính là lẽ vô thường điên đảo đó sao?
An Sĩ toàn thư
110 111
Lại chỉ riêng con người mới có sự hổ thẹn, do đó
mà biết sử dụng y phục. Loài thú không biết hổ thẹn,
mắc cở, nên không dùng y phục. Con người lại nhờ có
phước báo nên hai mùa nóng lạnh biết thay đổi dùng y
phục thích hợp khác nhau, còn loài thú do thiếu phước
báo nên chỉ biết chịu đựng nóng lạnh hai mùa với bộ
lông sẵn có.
Lại nữa, sinh ra làm người là trong đời trước thường
nói những lời từ hòa, những lời lợi ích, những lời thành
thật, những lời tôn trọng, kính tin Tam bảo, nên trong
đời này tùy tâm biến hiện mà miệng có thể nói ra đủ
điều; còn sinh ra làm thú là trong đời trước thường
nói ra những lời ác độc, những lời dối trá, những lời
bới móc, soi mói việc riêng tư của người khác, những
lời tranh chấp thị phi, những lời nhơ nhớp xấu xa, phỉ
báng Phật, phỉ báng Chánh pháp, không tin nhân quả,
vì thế nên đời này tuy có miệng mà không thể nói được
thành lời, dù chịu cảnh đói khát cũng không thể mở
miệng xin cứu giúp, dù bị hành hạ giết chóc, bị lóc da
xẻ thịt cũng phải cam chịu chứ không thể nói lời biện
bạch, kêu oan hay cầu xin tha mạng. 1
1 Hiểu được như vậy cũng có thể xem là biết vận dụng cái học
“cách vật” của nhà Nho. (Chú giải của soạn giả)
Chưa từng bạo ngược với dân,
tàn khốc với thuộc cấp
Giảng rộng
T
ừ câu này cho đến trước câu “thấu tận lòng
trời”, đều là những lời do Đế Quân tự kể ra
về công hạnh của ngài trong 17 đời qua, để làm căn cứ
cho những lời răn dạy bên dưới.
Sáu câu tiếp theo có nghĩa là, đã tự mình làm được
rồi mới khuyên người khác nên làm theo như thế. Riêng
một câu “chưa từng bạo ngược với dân, tàn khốc với
thuộc cấp” có nghĩa là nếu mình chưa tự làm được, thì
không do đâu mà người khác có thể bắt chước làm theo.
Kẻ làm quan được dân chúng xưng tụng là quan
phụ mẫu, xem như cha mẹ của dân, nếu đối xử bạo
ngược với dân, đó là bất nhân. Những quan viên thuộc
cấp đều lo việc phụng sự, giúp việc cho ta, cũng không
khác nào phụng sự nhà vua hay quan trên, nếu đối xử
tàn khốc với họ, đó là bất nghĩa.
Nói về sự bạo ngược, không nhất thiết phải là hình
luật khắt khe, chế định quá nghiêm ngặt, mà có thể
là những việc như khi thu thuế tiền, thuế ruộng của
An Sĩ toàn thư
112 113
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
dân lại thúc bách, ép buộc bất hợp lý; hoặc tùy ý tăng
thêm danh mục để thu về dư thừa; hoặc gặp khi thiên
tai hạn hán mất mùa không kịp thời báo lên để miễn
giảm cho dân; hoặc dân có điều ẩn ức, thỉnh cầu lại che
giấu, ém nhẹm mà không trình lên trên; hoặc phân xử
án kiện, quyết đoán việc tù ngục mà không thận trọng
lắng nghe dân trần tình đã vội vã kết án; hoặc xử sai
lầm liên lụy đến quá nhiều người vô tội; hoặc sự việc
nhỏ nhặt mà cường điệu, phóng đại lên thành sự việc
lớn lao, quan trọng; hoặc thay vì kết thúc đúng hạn
kỳ, lại kéo dài dây dưa đến nhiều ngày sau. Hết thảy
những việc như thế, xét theo lời dạy của Đế Quân đều
có thể xem là bạo ngược với dân.
Nói về sự tàn khốc, không nhất thiết phải là mặc
sức dùng roi vọt hình trượng đánh đập, hành hạ, mà
có thể là những việc như nhân lỗi nhỏ nhặt mà trách
phạt; hoặc nhân sự sai lầm, nhầm lẫn không cố ý mà
khiển trách; hoặc do tâm tình mừng giận chi phối mà
đối xử khác biệt chẳng công bình; hoặc tin theo những
lời sàm nịnh sai sự thật mà tùy ý thưởng đây phạt kia,
bất công với thuộc cấp; hoặc khi đi xa dùng quá nhiều
người theo hầu hạ, phục dịch; hoặc sai sử người khác
mà không quan tâm đến chuyện đói rét thiếu thốn của
họ. Hết thảy những việc như thế, xét theo lời dạy của
Đế Quân đều có thể xem là tàn khốc với thuộc cấp.
Than ôi! Khi đang nắm quyền hành chức tước mà
không biết sử dụng như phương tiện để làm lợi cho
dân, thì có khác gì vào được kho báu mà lại quay
về với hai tay trắng! Trong mười bảy đời đã qua, Đế
Quân thật chưa từng bạo ngược với dân, khốc hại với
thuộc cấp!
Trưng dẫn sự tích
Kẻ bạo ngược, người tàn khốc đều có thể đổi tính
Đ
ế Quân kể rằng: Huyện Ngưu Tỳ ở quận Thục 1
có quan huyện lệnh Công Tôn Vũ Trọng, tuy
là quan thanh liêm nhưng đối đãi với người không có
sự khoan thứ. Những thuộc hạ giúp việc có chút lỗi
nhỏ đều bị ông tùy ý dùng hình phạt roi vọt. Ông đến
nhậm chức ở huyện qua một năm thì thuộc hạ hết thảy
đều bị đánh, không ai còn giữ được da thịt lành lặn,
những thuộc cấp của ông đều hết sức oán hận.
Quan huyện lệnh của huyện Tư Thủy là Lại Ân,
tánh tình tham lam keo kiệt, thường nhận của hối lộ,
chuyện ăn uống hằng ngày đều bòn rút từ của dân, lại
để mặc cho thuộc cấp tùy tiện đàn áp bức bách, dân
chúng hết sức khổ sở.
1 Đời nhà Tần thống nhất thiên hạ, bỏ nước Thục mà định lại là
Thục quận, chia ra nhiều huyện.
An Sĩ toàn thư
114 115
Ta vì thương những thuộc hạ và dân chúng ở hai
huyện này rơi vào cảnh khốn khổ, liền hóa làm quan
Quận thừa Trương Tôn Nghĩa, giả cách đi kinh lý các
huyện trong quận, xem xét dân tình, phong tục các
nơi, nhân đó vạch tội quan huyện Vũ Trọng tàn khốc
với thuộc hạ, quan huyện Lại Ân bạo ngược với dân
chúng. Hai vị quan đều khấu đầu van lạy xin tha tội.
Ta dùng lời răn nhắc cảnh tỉnh, khuyến khích hai
người cải ác tùng thiện, xong thu hình biến mất.
Về sau hai vị quan huyện mới biết rằng Quận thừa
không hề có việc đi kinh lý đến các huyện lần ấy, nên
cả hai đều cho đó là thần minh hiện hình. Vì thế, Vũ
Trọng sau đổi tính thành khoan dung tha thứ, còn Lại
Ân trở thành vị quan thanh liêm.
Lời bàn
Đế Quân đã căm giận những kẻ bạo ngược, tàn
khốc như thế, thì phẩm hạnh của ngài đối với dân
chúng và thuộc cấp như thế nào có thể suy ra mà biết
được. Đọc sách Cư quan thận hình điều (居官慎刑條)
của tiên sinh Tưởng Tân Điền, có thể nói rằng mỗi chữ
mỗi câu đều là lời khuyên răn thẳng thắn, như thuốc
giải độc. Người làm quan nên cho khắc rõ bài ấy lên
tường vách trong nha môn, sớm tối thường chú tâm
đọc lại, từ đó có thể luôn biết tự nhắc nhở mình giữ
theo đạo từ hòa trung chính, tạo công đức vô lượng.
Cứu người lúc nguy nan
Giảng rộng
S
ự nguy nan có rất nhiều hình thức, nhưng nói
đại lược không ra ngoài 7 việc: một là nạn nước
lụt, hai là nạn lửa cháy, ba là bị tù ngục oan uổng, bốn
là nạn trộm cướp, năm là nạn chiến tranh binh lửa,
sáu là nạn mất mùa đói thiếu, bảy là nạn dịch bệnh
truyền nhiễm.
Gặp người bị nạn nước lụt, lửa cháy, có thể tìm
cách bảo toàn tính mạng cho người, đó gọi là cứu. Gặp
người bị tù ngục oan uổng, có thể tìm cách giúp người
minh oan gọi là cứu. Gặp người bị nạn trộm cướp, binh
lửa chiến sự, có thể tìm cách giúp người an ổn thoát ra
gọi là cứu. Gặp người đói rét vì mùa màng thất bát, có
thể giúp cho cơm ăn áo mặc gọi là cứu. Gặp người mắc
phải dịch bệnh, có thể dùng thuốc men điều trị gọi là
cứu.
Hết thảy những sự cứu giúp ấy đều phải phát xuất
từ tấm lòng chân thành, thấy người bị nạn cũng tưởng
như chính mình đang bị nạn, nên dốc hết tâm lực, trí
An Sĩ toàn thư
116 117
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tuệ để tìm đủ mọi phương cách mà cứu giúp, sao cho
người ấy được hoàn toàn thoát nạn mới thôi.
Khi người gặp nạn rồi mới đến cứu, đó là sự cứu
giúp có thể nhìn thấy được, giống như Khổng tử nói:
“Người có nạn, phải đặt mình vào trường hợp của
người mà giúp.” Lại có một phương pháp khác, khiến
cho người tự nhiên không gặp sự nguy nan. Cứu giúp
theo cách này công đức lớn hơn bội phần, như Khổng
tử nói: “Khiến cho người không gặp phải nguy nan.”
Như vậy là thế nào? Đó là vì, người gặp phải hoạn
nạn, thảy đều do nghiệp đời trước tạo ra. Đời này
không gieo nhân xấu, đời sau tự nhiên không gặp quả
xấu. Nếu có thể khuyên người không phạm vào các
nghiệp giết hại, trộm cắp, tà dâm, gian dối, đó chính là
cứu được rất nhiều sự nguy nan cho người. Vì thế, cứu
người khi sự nguy nan đã xảy ra thì việc cứu giúp đó
là có giới hạn, mà cứu người từ lúc sự nguy nan chưa
xảy ra thì sự cứu giúp đó mới là vô cùng tận.
Cứu người khi đã gặp nạn, đó là việc thiện của
người bình thường; cứu người bằng cách khuyên dạy
khiến cho không bao giờ phải gặp nạn khổ, đó là phẩm
hạnh của hàng Bồ Tát. Cả hai việc ấy đều có thể cùng
lúc thực hiện, không hề trái nghịch nhau.
Trưng dẫn sự tích
Làm rõ oán an kỳ lạ
Đ
ế Quân kể rằng: Có người tên Hà Chí Thanh
sống dưới chân núi Quy Sơn, sinh được 2 con
trai, đặt tên con trưởng là Hà Vô Phương, con thứ là
Hà Lương Năng.
Con trưởng lớn lên lấy vợ là con gái Hầu Phủ.
Qua một năm, Hầu Phủ có bệnh, con gái xin được về
thăm, lúc về cùng đi với chồng. Trong lòng bối rối nên
khi đi để quên cái vòng ngọc hồi môn. Lúc sực nhớ ra,
còn đang phân vân chưa biết làm sao thì Hà Lương
Năng đã mang vòng ngọc đuổi theo trao cho, lại nói:
“Mẹ cũng đang có bệnh, mong anh sớm trở về.” Hà
Vô Phương nghe vậy thì dặn dò em mình hãy bảo vệ
chị dâu trên đường về thăm nhà, còn tự mình gấp rút
quay lại thăm bệnh mẹ.
Đi được một đoạn, chị dâu ái ngại nên bảo em
chồng rằng: “Nhà chị cũng chẳng bao xa, không dám
phiền chú nhọc sức đi theo.” Vì thế, Lương Năng liền
quay về nhà.
Đêm đó, nhà họ Hầu chờ mãi không thấy con gái
về. Sáng ra theo đường mà tìm, thấy một thi thể con
gái nằm chết, bị chặt mất đầu. Hầu Phủ đau lòng quá
An Sĩ toàn thư
118 119
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
mà qua đời. Nhà họ Hầu nghi ngờ rằng Lương Năng
giữa đường muốn cưỡng bức chị dâu, do nàng không
thuận theo nên giết đi, liền đưa đơn kiện lên quan
phủ. Lương Năng bị tra tấn bức cung không chịu đựng
nổi, cuối cùng đành phải nhận tội oan, chịu xử tội chết.
Bấy giờ, thần núi Quy Sơn là Ngải Mẫn mang nổi
oan đó báo lên, ta liền xem xét sự việc. Hóa ra trong
đêm ấy có tên cướp hung bạo là Ngưu Tư, cùng vợ là
Mao thị có chuyện cãi vả, trong lúc nóng giận lỡ tay
giết chết vợ. Khi ấy, tình cờ lại gặp con gái nhà họ Hầu
đang đi một mình trên đường, liền bắt về cưỡng bức,
lại lấy quần áo của nàng tráo đổi với xác chết của Mao
thị. Mao thị với Hầu thị tuổi tác cũng suýt soát gần
nhau nên thân hình giống nhau. Ngưu Tư liền chặt
đầu Mao thị giấu đi, mang xác vất ra bên đường, rồi
bắt Hầu thị mang về nhà mình, chẳng ai nhận biết
được chuyện ấy cả.
Ta liền truy tìm hồn phách của Mao thị, khiến cho
tạm nhập vào thân xác của Ngưu Tư, lại mượn chính
miệng của Ngưu Tư để nói ra những chuyện đã xảy
đến cho nàng. Quan phủ nghe qua thấu rõ sự thật,
truyền mang Ngưu Tư ra chém tại chợ. Con gái họ
Hầu được trả về nhà, mối oan của Hà Lương Năng
được sáng tỏ.
Lời bàn
Người phàm mắt thịt chỉ có thể nhìn thấy hình
dạng bên ngoài của con người, nhưng quỷ thần có thể
nhìn thấu cả tâm can. Vì thế nên pháp luật của dương
gian có thể oan sai, còn sự khiển trách trong chỗ vô
hình thì không thể nào chạy thoát.
Trừ bạo loạn, cứu người hiền
Đ
ế Quân kể rằng: Ở làng Bắc Quách có một
phú ông tên Trí Toàn Lễ. Nhân tiết Trọng
Xuân làm lễ tế tự, sau đó thì cả nhà lớn nhỏ đều uống
đến say mềm. Có tên cướp hung bạo là Vương Tài dẫn
theo đồng đảng đến cướp nhà họ Trí, trói chặt cả thảy
nam nữ là 9 người, lại thêm tỳ thiếp 7 người nữa. Chỉ
có người vợ Toàn Lễ với 2 cô con gái là Thuấn Anh,
Thuấn Hoa còn chưa bị trói. Hai cô gái ôm mẹ mà
khóc. Vương Tài muốn hãm hiếp, cô em liền lớn tiếng
chửi rằng: “Bọn giặc đói chúng mày dám cướp nhà tao,
thần minh họ Trương đã biết rõ tội bọn bay rồi.”
Nói vừa dứt lời thì vị thần tư mệnh trong nhà cùng
với tổ tiên dòng họ Trí đã cùng nhau đến cấp báo lên
ta. Ta lập tức phái công tào dẫn trăm âm binh đi giải
cứu. Ngay khi đó, Toàn Lễ với tất cả mọi người trong
nhà đều bỗng dưng thấy dây trói tự mở, liền cùng
nhau xông ra bắt hết bọn cướp trói lại. Quan phủ nghe
An Sĩ toàn thư
120 121
chuyện mang quân đến, liền bắt toàn bộ bọn chúng về
trị tội.
Lời bàn
Vương Tài sở dĩ dám đến cướp là vì nhân lúc tất
cả người nhà đều say khướt, không sức chống cự. Mà
cả nhà Toàn Lễ đều say khướt, là do trước đó ham vui
uống quá chén. Ví như chủ nhà biết giữ sự tỉnh táo
không rối loạn, ắt kẻ lớn người nhỏ trong nhà cũng
đều duy trì được sự cảnh giác, đâu để phải chuốc lấy
tai họa từ bên ngoài? Đáng sợ lắm thay! Người làm
chủ trong gia đình không thể không luôn giữ sự tỉnh
giác! Nếu người không có trí tuệ chân chánh, hiểu biết
đúng đắn, ắt sẽ bị sáu tên giặc chuyên cướp công đức
là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý dẫn theo bọn đồng
đảng là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự
xúc chạm và các ý tưởng, tự cướp lấy hết những của
báu trong nhà mình, nào phải chỉ riêng Toàn Lễ bị
cướp mà thôi đâu!
Giúp người khi khẩn thiết
Giảng rộng
N
hững trường hợp gọi là khẩn thiết không
giống với những trường hợp gọi là nguy nan.
Ta thường nói nguy nan để chỉ những chuyện không
may bất ngờ gặp phải, nhưng sự khẩn thiết thông
thường là chỉ chung cho những trường hợp thiếu thốn
quá nhiều về vật chất.
Người đời thường xem tiền bạc như sinh mệnh,
ấy là muốn giữ cho trong đời sống không bị thiếu ăn
thiếu mặc, khi bệnh tật ốm đau không thiếu thuốc
thang, đều là những chuyện khẩn thiết. Nhà có con
trai, con gái đến tuổi trưởng thành, thì chuyện lo liệu
hôn nhân cưới gả là khẩn thiết. Nhà có người chết thì
chuyện tang ma quan quách là khẩn thiết. Tùy theo
khả năng, sức lực của mình mà trong những trường
hợp khẩn thiết đó có thể hỗ trợ, phụ lực cho người vượt
qua, đó gọi là giúp người.
Khổng tử nói: “Thực hành theo đạo lớn thì là
người của cả thiên hạ. Cho nên, không chỉ yêu lấy
người thân của riêng mình, không chỉ hiếu kính riêng
với cha mẹ mình.”
An Sĩ toàn thư
122 123
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lại cũng nói rằng: “Đối với tài vật, ghét sự phung
phí vất bỏ, cũng không nhất thiết phải giữ làm của
riêng. Có sức lực, ghét sự lười nhác không ra sức, cũng
không nhất thiết chỉ làm việc cho riêng mình.” 1
Chân thành nhận hiểu thấu đáo những lời trên, thì
chuyện thiếu thốn khẩn thiết tuy ở người khác nhưng
cũng không nỡ xem đó là việc của người, mà sẽ nhận
như là của chính mình. Nếu như có thể xem sự thiếu
thốn khẩn thiết của người giống như của chính mình,
ắt đời đời kiếp kiếp về sau, tự thân mình sẽ chẳng bao
giờ rơi vào hoàn cảnh thiếu thốn nữa.
Tiên sinh Trần Kỷ Đằng có nói: “Người đời gọi kẻ
giàu có là tài chủ, ý muốn nói rằng người ấy có thể
làm chủ, biết sử dụng hợp đạo lý tài sản của mình.” Sự
nghiệp gia đình tuy vẫn phải phát triển, nhưng cũng
nên biết tùy sức mình mà giúp đỡ, chu cấp cho người
khác. Ngày nay, những người có nhiều tài sản thường
trở thành nô dịch cho tài sản ấy. Có thể tích lũy tài
sản, cũng có thể tùy ý sử dụng tài sản, như vậy mới
đáng gọi là tài chủ. Nếu chỉ biết tích lũy cho nhiều tài
sản mà không thể tùy ý sử dụng, thì bất quá chỉ nên
gọi là tài nô, tức kẻ nô dịch của tài sản mà thôi.
Kinh Ưu-bà-tắc giới dạy rằng: “Nếu bố thí y phục
1 Những lời này của Khổng tử được trích từ thiên Lễ vận trong
Kinh Lễ.
cho người, ngày sau sẽ được hình sắc đẹp đẽ diễm
tuyệt; nếu bố thí thức ăn cho người, ngày sau sẽ được
sức mạnh vô cùng; nếu giúp người phương tiện soi
sáng, tự thân mình sẽ được mắt sáng trong sạch nhiệm
mầu; nếu giúp người phương tiện đi lại, tự thân mình
sẽ được an vui; nếu giúp người có chỗ ở an ổn, tự thân
mình sẽ luôn được đầy đủ không đói thiếu.” 1
Lại cũng dạy rằng: “Nếu giúp đỡ người khác các
nhu cầu như cơm ăn, áo mặc, nhà ở... với tấm lòng
thương yêu, hoan hỷ, sẽ được phước đức nhiều không
thể đo lường.” 2
Trưng dẫn sự tích
Nghèo giàu chỉ trong thoáng chốc
Đ
ế Quân kể rằng: Khi Thục đế vừa lên ngôi,
năm ấy mùa màng mất sạch, đói kém nặng
nề lan tràn khắp nơi, riêng ở quận Ba Tây lại càng hết
sức nghiêm trọng. Có người phú nông là La Mật, tích
1 Đoạn trích này bắt đầu từ dòng thứ 5, trang 1059, tờ a, quyển
5 của kinh Ưu-bà-tắc giới (優婆塞戒經). Tổng cộng kinh này có
7 quyển, được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh thuộc tập
24, kinh số 1488, do ngài Đàm Vô Sấm dịch vào đời Bắc Lương.
2 Đoạn trích này bắt đầu từ dòng thứ 19, trang 1059, tờ a trong
kinh vừa dẫn trên.
An Sĩ toàn thư
124 125
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
chứa được hơn năm ngàn hộc thóc, 1 đóng cửa kho giữ
chặt không chịu bán ra. Lại có người đầy lòng hiệp
nghĩa là Hứa Dung, dốc hết tài tản ra cứu giúp người
nghèo. Đến lúc không còn khả năng tiếp tục giúp nữa,
suốt đêm ông lại thắp hương khẩn cầu trời cao cứu
giúp. Vị thần trong huyện là Lai Hòa Tôn mang việc
ấy trình báo lên ta.
Ta tấu trình lên Ngọc Đế, có chỉ ban xuống thu lấy
số thóc trong nhà La Mật phân bổ ra để cứu dân nghèo.
Ta liền ra lệnh cho thần gió thổi tung nhà của La Mật,
khiến cho tất cả những bao chứa thóc bên trong đều bị
gió cuốn bay đi, rồi từ trên không trung mà rơi xuống
khắp nơi, tự gom thành từng đống. Người trong huyện
đều được một phen no đủ. Riêng nhà họ La, tài sản
tích chứa chỉ trong một ngày bị mất sạch. Người trong
huyện nhớ ơn Hứa Dung trước đây cứu giúp, nên có
nhiều người mang thóc đến hoàn trả cho ông.
Đó cũng là do họ La thấy người gặp tai họa mà
khoanh tay đứng nhìn hả hê, không ra sức giúp đỡ.
Khi ấy, Thục Đế phong Hứa Dung làm Huyện tá. 2 La
Mật nghe được chuyện ấy, tự thấy hổ thẹn quá mức,
liền tự treo cổ mà chết.
1 Hộc: đơn vị đo lường thời cổ, bằng 10 đấu, mỗi đấu tương đương
khoảng 5 lít.
2 Huyện tá: chức quan phụ giúp, trợ lý cho huyện lệnh.
Lời bàn
Như thế gọi là thần thông du hí. Chuyện làm mưa
thóc từ trời xuống, tuy là nhân sự tấu trình của Đế
Quân, nhưng cái cách bỡn cợt đùa vui với người đời
như thế, thật ra thì trời cao vẫn thường làm. Xin ghi
lại đây chuyện ông trưởng giả Lô Chí ngày trước để
người đọc tiện tham khảo thêm.
Ở Ấn Độ xưa có trưởng giả Lô Chí, hết sức giàu
có nhưng lại vô cùng keo kiệt, bủn xỉn. Vợ con, tôi tớ
trong nhà đều khổ sở vì sự keo kiệt của ông. Một hôm
trời đẹp, Lô Chí liền lẻn mang bốn đồng tiền đi mua
rượu thịt, mang ra chỗ một bãi tha ma hoang vu vắng
vẻ, một mình ăn uống. Nhưng Lô Chí vốn không quen
uống rượu, nên vừa uống đã say. Trong lúc say rượu
cao hứng, liền cất lên một bài ca rằng:
Nay ta gặp đủ điều may mắn,
Nhấm rượu ngon khoái lạc cực kỳ.
Thật hơn xa vua Tỳ-sa-môn, 1
Vượt trội cả vua trời Đế Thích. 2
Khi ấy, Đế Thích nghe qua lời hát, bật cười nói
rằng: “Thức ăn của người này bất quá chỉ đáng giá bốn
1 Tỳ-sa-môn Thiên vương, là vị Thiên vương ở cõi này, cung điện
đặt tại khoảng lưng chừng núi Tu-di.
2 Vua trời Đế Thích (Thiên Đế Thích), là vị Thiên vương ở cung
trời Đao-lợi.
An Sĩ toàn thư
126 127
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đồng tiền, thế mà dám nói là khoái lạc hơn ta. Ta phải
tìm cách quấy phá hắn mới được.”
Nghĩ thế, liền hóa hình giống như Lô Chí, hiện
đến nhà ông ta rồi gọi tất cả người trong nhà đến nói
rằng: “Ta từ trước đến nay đối xử tệ bạc với các người,
vốn là do bị một con quỷ keo kiệt bám theo trong người
mà khiến ra như vậy. Hôm nay ta may mắn trong lúc
đi chơi bên ngoài đã thoát được nó rồi. Nay tất cả các
người nếu cần gì trong nhà này xin cứ tùy ý lấy sử
dụng.” Nói rồi liền mở cửa kho, phân phát tất cả cho
mọi người, lại nói rằng: “Con quỷ keo kiệt ấy hình
dạng giống hệt như ta, trong chốc lát nữa thế nào nó
cũng đến. Các người phải đánh đuổi nó đi, nếu để nó
vào nhà, ắt sẽ nhập vào khiến ta trở lại keo kiệt, bủn
xỉn như xưa.”
Người trong nhà đều vâng dạ nghe theo. Bỗng
nhiên thấy Lô Chí tỉnh rượu quay về, người giữ cửa
liền đuổi đi, không cho vào. Lô Chí lớn tiếng gọi vợ con.
Hóa ra cả vợ con ông cũng cầm gậy gộc xông ra đánh
đuổi ông đi. Lô Chí hết sức kinh hoảng, liền đến chỗ
mấy người bạn thân than khóc kể lại. Những người
bạn ấy liền cùng nhau đưa ông về nhà. Vợ con Lô Chí
nhìn thấy lại nói: “Không phải đâu, nó chính là con
quỷ keo kiệt, sao các ông lại tin lời nó.”
Mấy người bạn nhìn vào trong nhà thấy Đế Thích
giả hình Lô Chí, cho rằng Lô Chí quả thật vẫn đang ở
trong nhà, liền quay sang quát mắng Lô Chí: “Mày là
con quỷ keo kiệt, sao dám gạt bọn ta.”
Lô Chí khi ấy có miệng không nói thành lời, khó
lòng biện bạch, liền xoay xở mượn của người quen được
một khúc vải lụa, định dâng lên vua để kể lể oan tình. 1
Người giữ cửa không nhận, không cho vào, Lô Chí bèn
la lớn: “Tôi muốn dâng tài sản, tôi muốn dâng tài sản.”
Vua nghe thấy, truyền cho ông vào.
Lô Chí vào trước điện, vừa muốn dâng khúc vải
lụa lên để kêu oan, bỗng nhiên hai nách khép chặt giữ
khúc vải lụa lại, dù gắng hết sức lực vẫn không dang
tay ra được. Khi ấy, Đế Thích lại biến hóa khúc vải lụa
thành một bó cỏ. Lô Chí thấy vậy hết sức xấu hổ. Vua
liền cười lớn mà nói: “Thôi thôi, ông không cần dâng
vải lụa, có gì oan ức cứ nói nhanh ra đi.”
Lô Chí rơi nước mắt, khóc lóc kể hết sự tình. Vua
nghe qua rồi, truyền cho đòi cả 2 ông Lô Chí cùng với
vợ con đều đến trước điện. Vua nhìn thấy cả hai người,
từ giọng nói cho đến hình dạng đều y hệt như nhau,
1 Theo quy định trong thời ấy, người dân muốn khiếu kiện, kêu
oan, trước tiên đều phải dâng lên một khúc vải lụa để sung vào
công quỹ.
An Sĩ toàn thư
128 129
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
liền ra lệnh cởi áo để trần cánh tay ra mà so sánh
nốt ruồi nhận dạng, nhưng vẫn thấy giống hệt nhau,
không thể phân biệt được. Vua liền lệnh đưa hai người
đến hai nơi riêng biệt, yêu cầu mỗi người tự tay viết ra
những điều ẩn khuất, bí mật nhất trong đời mình. Kết
quả chẳng những nội dung đều tương đồng như nhau,
mà cả nét chữ cũng không khác biệt.
Khi ấy, đức vua than rằng: “Ta người phàm mắt
thịt, trong chuyện này dễ bị mê hoặc, không phân biệt
được. Nay ta nên đến thưa hỏi đức Thích-ca Như Lai.”
Nói rồi lên xe cùng đi với hai ông Lô Chí đến tinh
xá Kỳ Viên. Đức Phật nhìn thấy liền hướng đến chỗ
Lô Chí giả mà gọi một tiếng, Đế Thích lập tức hiện
nguyên hình vua trời. Vua nhìn thấy Đế Thích, lập tức
quỳ xuống bái lạy, rồi quay sang bảo Lô Chí hãy quay
về nhà. Lô Chí nói: “Nay tôi quay về nhà thì tài sản đã
mất sạch hết rồi.”
Đế Thích nói: “Ông làm việc bố thí, tài sản trong
kho chẳng xê xích gì.”
Lô Chí nổi giận, nói: “Tôi chỉ tin lời Phật, không
tin lời Đế Thích.”
Đức Phật bảo: “Ông hãy quay về nhà, lời Đế Thích
nói đó không sai.”
Lô Chí quay về nhà, quả nhiên thấy tài sản trong
kho vẫn còn y nguyên không mất mát gì. Từ đó dần
dần đổi tính, thường làm việc bố thí giúp người, không
còn keo kiệt bủn xỉn như trước nữa. 1
Thương xót người cô độc
Giảng rộng
Đ
áng thương thay! Thiên hạ có biết bao nhiêu
người cô độc, những trẻ em mồ côi, yếu đuối
không nơi nương tựa. Xưa cha mẹ còn sống, cũng
từng được thương yêu chiều chuộng, chăm sóc đủ
điều, thương quý như ngọc ngà; cũng từng được bồng
ẵm nâng niu, ôm ấp bảo bọc, chỉ lo con nóng lạnh bất
thường. Nào ngờ cha mẹ nửa đường vắn số, sớm nẻo
quy tiên, khiến cho cốt nhục chia lìa, chắc hẳn nơi
chín suối cha mẹ không khỏi phải ôm lòng đau đớn
khôn nguôi.
1 Sự trừng phạt của Ngọc Đế khiến cho La Mật mất sạch tài sản,
bị dồn vào đường cùng đến phải xấu hổ mà tự vẫn. Sự đùa cợt của
Đế Thích tuy có làm cho Lô Chí khổ sở vì tưởng rằng tài sản đã
mất hết, nhưng kết cục lại hoàn trả như cũ cho ông ta, khiến La
Mật phải tự tâm có sự cải hối, chuyển đổi thành người tốt. Thế mới
biết pháp Phật nhiệm mầu thay!
An Sĩ toàn thư
130 131
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Than ôi, làm người quan trọng nhất là phải có tấm
lòng suy mình thương người, mới đáng gọi là nhân từ
khoan thứ. Thử tưởng tượng nếu như con cái mình
phải lênh đênh phiêu dạt, cô độc khổ sở, bỗng gặp có
người nhân từ độ lượng giúp đỡ bảo bọc cho, mình sẽ
cảm niệm ơn đức ấy nói sao cho xiết! Cho nên nói rằng,
người ta ai cũng sẵn có tấm lòng bất nhẫn, nhìn thấy
kẻ khác khổ sở đớn đau thì không thể khoanh tay vô
sự đứng nhìn; thường thường nuôi dưỡng được tâm
niệm như thế, đó gọi là người có lòng nhân.
Còn ít tuổi mà cha mẹ mất sớm, tất nhiên phải
trở thành côi cút, cô độc. Nhưng theo đó mà suy rộng
ra, thì những kẻ mà trong họ hàng không có chú bác,
trong gia đình hiếm hoi anh chị em, cũng đều có thể gọi
là cô độc. Những gia đình suy vi ít phước, tuổi già mà
con cái còn nhỏ dại, cũng gọi là cô độc. Lại như những
người vì việc quan trường bận rộn, hoặc bon chen chốn
doanh thương, phải trôi dạt tha hương không người
thân thích, đó cũng gọi là cô độc. Thậm chí như những
người đạo hạnh cao khiết nhưng bị người khác vu
khống làm nhục, người đức cao vọng trọng nhưng bị
người báng bổ, khiến cho mọi người xa lánh, cũng gọi
là cô độc.
Những trường hợp gọi là cô độc như thế rất nhiều,
sự khởi tâm thương xót giúp đỡ cũng có nhiều phương
thức đa dạng. Dưới đây đưa ra một bài của Đế Quân,
có thể giúp nhận hiểu và phân biệt rõ hơn.
Trưng dẫn sự tích
An ủi lòng bạn nơi chín suối
Đ
ế Quân kể rằng: Quan Sư Thị là Vi Trọng
Tương, bạn đồng sự cùng ta trong triều, biết
nhau đã lâu. Sau khi ông chết, không có con trai, chỉ
để lại năm đứa con gái côi cút không nơi nương tựa. Ta
lo lắng trọn vẹn việc hôn nhân cho ba đứa đã lớn, còn
lại hai đứa nhỏ gửi gắm ở nhà quan Tư Gián là Cao
Chi Lượng, sau đón về làm vợ hai con ta là Minh và
Mậu Dung.
Lời bàn
Con trai mồ côi được người nuôi dưỡng cũng thường
gặp, nhưng con gái côi cút được người lo lắng chu toàn
thật ít có. Nhà họ Vi thật may mắn có được người bạn tốt.
Về hai người con của Đế Quân là Minh và Mậu
Dung, sau vào đời Tây Tấn lại tái sinh làm con Tạ
Đông Sơn. Sang đời Đường có Thừa tướng Trương Cửu
Linh, đời Tống có Thừa tướng Trương Tề Hiền, lại như
Tư Mã Quang, đều là những hậu thân của hai người.
133
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
132
Khoan thứ kẻ lỗi lầm
Giảng rộng
K
hổng tử nói rằng: “Khắc phục chỗ xấu của
chính mình, không công kích chỉ trích chỗ
xấu của người khác.” Lại nói rằng: “Nghiêm khắc với
chính mình mà giảm bớt sự chê trách người khác.”
Các bậc hiền thánh xưa nay có muôn câu ngàn lời
răn nhắc, thảy đều khuyên ta phải tự xét lỗi mình.
Biết tự xét lỗi, ắt lúc nào cũng luôn tự lo việc sửa mình,
chẳng còn thời gian đâu mà chê trách lỗi người khác.
Lỗi lầm của người ta có khi là cố ý, cũng có lúc chỉ
là vô tình. Những lỗi vô tình rất dễ tha thứ, những lỗi
cố ý thật khó dung tha. Nhưng người học đạo quyết
chí nuôi dưỡng lòng khoan thứ lại nên chú ý đến việc
dung thứ cho những lỗi cố ý của người khác. Nếu người
phạm lỗi cố ý còn có thể tha thứ được, huống chi là kẻ
phạm lỗi vô tình?
Khi sự việc nghiêm trọng đến mức không thể dung
thứ mà ta muốn dung thứ thì quả nhiên sẽ rất khó
khăn, nhưng cũng không thể không cố gắng hết sức.
Vậy có thể dùng cách nào để khởi tâm tha thứ trong
những trường hợp này?
Một là hãy nghĩ đến người việc người phạm lỗi
kia chỉ vì không đủ trí tuệ. Thiên hạ đa phần đều là
những người tầm thường dung tục, sao ta lại muốn
đem những chuẩn mực của bậc hiền thánh mà trách
cứ người khác? Nếu không tha thứ được cho người kém
hiểu biết, thì hóa ra chính ta mới là người thiếu trí tuệ.
Hai là nghĩ đến việc mạng người ngắn ngủi. Người
sống trong đời này, ngày qua tháng lại khác nào như
bóng câu qua song cửa, một ngày trôi qua là tuổi thọ
đã ít đi một ngày; khác nào tử tù đang trên đường
ra pháp trường, mỗi bước đi là một bước đến gần cái
chết. Đối với mạng người ngắn ngủi như thế, sao có
thể không khởi lòng thương xót?
Ba là nghĩ đến sự sai lầm của người khác chính là
phương thuốc giúp ta sửa lỗi của chính mình. Từ trước
ta dù có lỗi cũng thường không tự biết được, nay nhìn
thấy lỗi của người, nhờ đó có thể tự soi xét phản tỉnh
trong lòng. Cho nên, người ấy có thể xem như thầy ta,
sao dám đem lòng xét nét trách cứ?
Nếu khởi tâm suy xét như trên, ắt sẽ có thể tha
thứ cho cả những điều rất khó tha thứ. Cho nên, khi
chưa thể khởi tâm tha thứ thì tâm tánh thường nóng
An Sĩ toàn thư
134 135
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
nảy, bực dọc; sau khi đã tha thứ được cho người thì
tự nhiên trong lòng được an ổn, bình thản. Tâm tánh
nóng nảy thì trước mắt tự thấy đầy dẫy chông gai, dù
con sâu con kiến cũng đủ làm chướng ngại trên đường.
Tâm an ổn thì rào chắn không tự dựng lên, tự nhiên
rộng mở tâm hồn, dù kẻ xung khắc với ta cũng có thể
cùng chung đường tiến tới.
Hơn nữa, nếu không thể dung tthứ cho người có
lỗi, ắt phải cùng người ấy tranh biện hơn thua, khiến
cho động lòng tự ái, phải tìm mọi cách để biện bạch,
vì thế nên muốn người ấy không mắc lỗi nữa nhưng
thực tế họ càng phạm lỗi nhiều hơn. Ngược lại, nếu có
thể tha thứ lỗi của người, ắt sẽ khiến người ấy tự thấy
xấu hổ, dù ta không cầu cho người ấy không mắc lỗi,
nhưng người ấy cũng tự nhiên ít phạm lỗi hơn.
Cho nên nói rằng, nhìn thấy lỗi của người khác là
cửa ngỏ của mọi điều xấu ác, mà nhìn thấy được lỗi
của mình chính là cửa ngỏ của mọi điều thiện. 1
1 Kinh Đại Bát Niết-bàn dạy rằng: “Thường tỉnh kỷ quá, bất tụng
bỉ đoản.” (Thường tự xét lỗi mình, không nói chỗ khiếm khuyết
của người khác. ) Xem ra ý nghĩa rất tương đồng.
Trưng dẫn sự tích
Tiến cử kẻ thù
Đ
ế Quân kể rằng: “Cha ta chết, 1 vốn là do lời
gièm pha vu khống của Nam Phong Thành,
trong triều đình ai ai cũng biết rõ việc ấy. Mối thù hận
trọn kiếp đó ta vẫn còn chưa quên. Sau Nam Phong
Thành chết, con trai ông là Nam Ôn Thúc lại là người
tài năng đức độ. Quan Sư Thị họ Vi thường nói với ta:
“Con trai của Nam Phong Thành tính ham học không
chán, nói ra lời nào cũng đều hợp với đạo lý, phép tắc,
thật hiếm có trong số con em quý tộc hiện nay.”
Ý trời thật khó biết, ai ngờ Nam Phong Thành lại
có được người con như thế. Lúc bấy giờ, tuy ta đang có
mối thù không đội trời chung với nhà họ Nam, nhưng
nghe đến sự đức độ hiền lương của Ôn Thúc thì vẫn
thường mến mộ, yêu thích. Khi ta thăng chức làm
quan Đại phu, chức quan Bảo thị còn chưa có người
thay, ta liền tiến cử Ôn Thúc. Sau quả nhiên Ôn Thúc
đảm nhận chức quan ấy vô cùng xuất sắc.
Lời bàn
Vua Nghiêu giết ông Cổn vì tội trị thủy không
thành công, nhưng con trai ông là Vũ vẫn giúp vua
1 Đây nhắc lại việc Trương Vô Kỵ bị Chu Lệ Vương lưu đày chết
tại đất Phiên Dung. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
136 137
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Nghiêu kế tục công việc trị thủy và thực hiện thành
công. Quản Thúc và Sái Thúc là anh em với Chu Công,
đều bị lệnh vua giết, 1 nhưng Chu Công vẫn là người phụ
chính giúp Chu Thành Vương. Đế Quân không vì thù
cha mà khiến cho đất nước mất đi bậc hiền tài, khiến
người đức hạnh phải bị che lấp không được dùng đến,
có thể nói là đã rất khéo léo vận dụng đúng chữ hiếu.
Khi tôi đọc sách Lễ ký thấy có câu rằng: “Kẻ thù
giết cha không thể đội trời chung.” Sau lại đọc Kinh
điển đạo Phật, thấy có câu rằng: “Hết thảy oán thù
đều không thể báo hết.” Hai thuyết như thế có vẻ như
hoàn toàn trái ngược, nhưng mỗi thuyết đều có chỗ
hợp lý.
Nhà Nho chỉ căn cứ vào đời sống hiện tại này, nên
có thù cha mà không báo tức là đã quên ơn dưỡng dục.
Vì thế cho rằng việc nuôi dưỡng cái tâm “không đội
trời chung” ấy là hiếu thảo.
Đức Phật hiểu thấu nhân quả trong ba đời, quá
khứ, hiện tại và vị lai, thấy được rằng những chúng
1 Trong nguyên bản chép là ”管、蔡為戮” (Quản, Sái vi lục),
nghĩa là cả Quản Thúc và Sái Thúc đều bị tội chết. Nhưng theo
một số sử liệu khác thì khi Chu Công mang quân chinh đông, chỉ
giết Quản Thúc Tiên, còn Sái Thúc Độ thì lưu đày. Sái Thúc Độ
còn có người con là Cơ Hồ, là người hiền đức, sau được Chu Công
cho nối nghiệp làm vua đất Sái.
sinh từng làm cha mẹ của ta trong quá khứ thật không
thể tính đếm hết, lại những kẻ có thù với cha mẹ ta
cũng là vô số. Như vậy, chính trong số những chúng
sinh từng là cha mẹ của ta, lại cũng chính là những
cừu địch của nhau, nhiều đến vô số. Số nhiều như vậy,
nếu mỗi mỗi đều không đội trời chung, làm sao có thể
báo thù rửa hận đối với tất cả?
Huống chi chỉ xét trong đời này, thêm một mối cừu
thù, là cha mẹ phải thêm một sự đối nghịch oán hận,
cho nên vì muốn dứt nhân duyên đối nghịch oán hận
cho cha mẹ mà nhẫn nhục không báo thù, xem đó mới
là hiếu thảo.
Xét như khi Vũ vương đánh vua Trụ, Thái Công 1
vác kích theo ra trận, Bá Di cản trước đầu ngựa quyết
can ngăn, 2 như vậy chẳng phải hai người ấy trái
nghịch nhau như nước với lửa đó sao? Nhưng Mạnh
tử khi nhắc đến chuyện này lại nói: “Hai ông già ấy,
1 Thái Công, hay Thái Công Vọng, hay Khương Thái Công, tức là
Khương Tử Nha, người cầm quân giúp Vũ Vương đánh Trụ.
2 Bá Di là hiền sĩ thời đó. Ông nguyên là con vua nước Cô Trúc,
chư hầu của nhà Thương, tức là bề tôi vua Trụ. Ông được em là
Thúc Tề nhường cho ngôi vua nhưng không nhận vì không muốn
làm trái ý cha, liền bỏ nước Cô Trúc mà đi, sau đến với Văn
Vương. Khi Văn Vương cất quân đánh Trụ, ông cản đầu ngựa, hết
lời can ngăn vì cho như vậy là bất trung.
An Sĩ toàn thư
138 139
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đều là những ông già đáng tôn kính nhất trong thiên
hạ.” Lại cũng chưa từng dám phê phán hai người ấy
ai tốt, ai xấu. Đối với hết thảy những chỗ khác biệt
hay giống nhau giữa Nho gia với Phật giáo, đều nên
quán xét theo lẽ ấy. Được như vậy thì càng đọc nhiều
kinh Phật, lại càng tinh tường lý lẽ của nhà Nho. Đế
Quân khuyên người thực hành rộng khắp theo Tam
giáo chính là vì thế.
Rộng làm những việc phúc thiện,
tích âm đức, thấu tận lòng trời
Giảng rộng
T
rong văn trước, từ chỗ “chưa từng bạo ngược
với dân” đến đây là 5 câu, đều nói những việc
mà Đế Quân đã làm, tích tụ âm đức, nhưng thật ra
không thể nào kể hết được, nên dùng hai chữ “rộng
làm” là để nói khái quát hết thảy.
Nguyên bản dùng chữ “âm chất” (陰騭), nguyên có
xuất xứ từ thiên Hồng Phạm (洪范) trong sách Thượng
Thư (尚書). Căn cứ theo chú thích của Sái Trầm (蔡
沈) đời Tống thì đó là những việc đã “mặc định” (默定),
nghĩa là trong chỗ u mặc âm thầm, con người không
thấy không biết, nhưng đã có sự âm thầm định đoạt
quyết định sự việc phải như thế. Nhưng theo nghĩa ấy
thì không thích hợp với câu văn ở đây, mà nên hiểu
nghĩa là “âm đức” (阴德) mới đúng. 1
Nguyên bản dùng chữ “thương khung” (蒼穹),
nghĩa là “cao xanh”, để chỉ trời cao. Chữ “thương” (蒼)
nói về màu sắc, chữ “khung” (穹) nói về sự cao rộng.
Nếu nói theo màu sắc, như cung điện mà chư thiên ở,
thì hợp với chữ “thương”, vì trong kinh nói là có màu
lấp lánh như ngọc lưu ly xanh. Nếu nói theo hình thể
đo lường cao rộng, thì hợp với chữ “khung”, vì như
tầng trời Đao-lợi quả thật cách mặt đất chúng ta đến
84. 000 do-tuần.
Trưng dẫn sự tích
Làm vị quan tốt ở Thanh Hà
Đ
ế Quân kể rằng: Ta từ sau khi lìa bỏ đường
ác, 2 sinh ra tại nước Triệu làm con trai
Trương Vũ, được đặt tên là Trương Huân, sau trưởng
thành làm huyện lệnh Thanh Hà.
1 Chính theo ý này của tiên sinh An Sĩ mà khi Việt dịch chúng tôi
cũng thường dịch theo nghĩa “âm đức”, rất hạn chế dùng lại chữ
“âm chất” như nguyên bản.
2 Ý nói từ sau khi Đế Quân được gặp Phật, nghe Pháp.
An Sĩ toàn thư
140 141
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Ta từ lúc làm quan luôn giữ tâm sáng suốt, khoan
hậu nhân từ, không nỡ xem thường kẻ dưới; đối với
thuộc cấp như bạn hữu, đối với dân chúng như người
thân trong gia đình. Thuộc cấp có điều sai trái lầm
lạc, ta giúp sửa đổi cho chính đáng; đối với người lười
nhác giải đãi thì dùng lời khích lệ, khuyên bảo; đối với
người thô lỗ cộc cằn thì nhẫn nại dạy dỗ, khiến cho cải
hối; đối với kẻ quỷ quyệt xảo trá thì tra xét tận tường,
làm rõ tất cả; đối với kẻ so đo hơn thiệt chuyện bổng
lộc thì đem đạo nghĩa ra dạy dỗ; đối với kẻ tranh biện
chê bai chuyện lễ nghĩa pháp chế thì đem lẽ tình cảm
mà hiểu dụ; đối với kẻ giặc loạn trộm cướp, ta liền làm
rõ mà bắt phải bồi hoàn tiền bạc đúng mực; đối với kẻ
gây thương tổn cho người khác, ta bắt phải nhận lỗi
và bồi thường thiệt hại; đối với kẻ lần đầu phạm lỗi có
thể khoan dung, ta khuyên răn rồi tha thứ; đối với kẻ
phạm tội không xuất phát từ bản tâm có thể dung thứ,
ta cũng tha bổng; cạn hết lời lẽ, dốc hết sức lực mà dạy
dỗ răn nhắc mọi người noi theo đạo lý, phép tắc. Nếu
như xảy ra sơ xuất trong việc xử án kết tội, có người
vì thế chê bai là dung túng kẻ xấu, ta đều chấp nhận
lắng nghe.
Ta giữ chức huyện lệnh trong 5 năm, mưa thuận
gió hòa, dịch bệnh không phát sinh, dân chúng mỗi
khi cúng tế trời đất đều xưng tán ngợi khen ta.
Lời bàn
Đời nhà Hán có nhiều vị quan tốt, nhưng liệu có ai
được từ hòa, thương yêu chia sẻ nỗi khổ của dân, đau
xót với nỗi đau của dân như Đế Quân chăng? Khảo
cứu trong thư tịch ghi chép về quan lại, chỉ thấy có
Trương Vũ là ông quan tà vạy hư hỏng, không thấy
nói đến người con là Trương Huân làm quan đức độ,
vậy thư tịch ghi chép liệu có nên tin tưởng hoàn toàn
được chăng?
Đại tiên núi Tuyết Sơn
Đ
ế Quân kể rằng: Ta vào triều Chu U Vương, 1
do thẳng thắn can gián mà bị bắt tội chết, 2
hồn phách không có chỗ về, lẩn quất nơi cung điện
than khóc trong 3 ngày. Vua nghe tiếng khóc cho là
yêu quái, lệnh cho quan Đình thị cứ nghe theo tiếng
1 Chu U Vương là vị vua cuối cùng của nhà Tây Chu, trị vì từ
năm 781 trước Công nguyên đến năm 771 trước Công nguyên. U
Vương bạo ngược vô đạo, mê đắm Bao Tự, phế bỏ thái tử và hoàng
hậu, bị cha của hoàng hậu là Thân hầu khởi binh hợp với nước
Tằng và quân Khuyển, Nhung kéo về đánh, phải bỏ chạy rồi bị
giết ở Ly Sơn. Sau lập con trưởng của ông là thái tử Nghi Cửu lên
kế vị, tức Chu Bình Vương, mở đầu nhà Đông Chu, vì thiên đô về
phương đông.
2 Khi ấy U Vương giận Đế Quân thẳng thắn can ngăn, bắt phải
uống rượu độc mà chết. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
142 143
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
kêu khóc mà bắn tên. Ta khi ấy mới bỏ nước của U
Vương mà đi, một lòng hướng về phương tây.
Ta đi qua Mân sơn, Nga Mi sơn, rồi rời xa đất
Thục, bay vượt qua nhiều ngọn núi cao vút, xa trông
về hướng tây thấy có một đỉnh núi, vừa cao vừa rộng
ước đến hơn trăm dặm, tuyết phủ giá lạnh, thật không
phải cảnh nơi trần thế. 1 Sơn thần là Bạch Huy nói với
ta: “Núi ấy tên là Tuyết Sơn. Xưa đức Đa Bảo Như Lai
tu hành ở đó, qua 8 năm thì thành đạo, 2 sao ông không
lưu lại nơi núi ấy?”
Ta nghe theo lời sơn thần, ở lại núi ấy. Không lâu
sau Ngọc Đế có chỉ ban xuống phong ta làm Tuyết Sơn
Đại tiên.
Lời bàn
Đế Quân chấp chưởng việc khoa bảng của nhân
gian, ngang hàng với chư tiên, đều nhờ những việc
1 Núi này đã nằm về biên giới với Thiên Trúc (Ấn Độ), gần nước
tên là Phạm-diễn-na. Pháp sư Huyền Trang từng đến nơi này.
(Chú giải của soạn giả)
2 Đức Thích-ca Như Lai từng ở núi này tu hành khổ hạnh 6 năm.
Nếu nói Đa Bảo Như Lai thì tức là vị Cổ Phật trước đây của Hiền
kiếp này, sơn thần làm sao biết được? Hơn nữa, danh hiệu của
chư Phật còn tùy theo mỗi nơi một khác, chẳng giống nhau. Trong
kinh có nói rằng: “Một danh hiệu có vô số Phật, một vị Phật có vô
số danh hiệu.” Do đó, chắc hẳn ở đây sơn thần nói Đa Bảo Như
Lai là chỉ đến đức Thích-ca Như Lai. (Chú giải của soạn giả)
làm phúc thiện thật sự thấu tận lòng trời, chỉ riêng
một việc này khác biệt.
Những người được Ngọc Đế ban phong, đều phải
nghe theo mệnh trời. Trời đã có thể ban cho vinh hiển,
thì cũng có thể bắt phải bần tiện. Chỉ riêng bậc tu
hành xuất thế, hoặc được vãng sinh về Tây phương
Tịnh độ, hoặc tạm tái sinh nơi các cõi trời Tứ thiền
thuộc Sắc giới, mới có thể tự do tự tại, không phải nghe
theo mệnh lệnh từ Ngọc Đế.
Nếu ai có thể giữ tâm hiền thiện như ta
Giảng rộng
T
rước hết phải hiểu rõ ý nghĩa của hai chữ “giữ
tâm”, sau đó mới giảng đến ý nghĩa “có thể
như ta”. Hơn nữa, trước hết cần hiểu được “tâm” là
gì, sau đó mới xét lại ý nghĩa của việc “giữ tâm” với
“không giữ tâm”. Cũng giống như dạy người giữ gìn
vật báu thì trước hết phải chỉ rõ vật báu ở đâu.
Sự phân biệt giữa “lòng người” với “tâm đạo”, từ
xưa đến nay trong đạo Nho được các bậc hiền thánh
truyền nối cho nhau, xem đó là mạng mạch chân chính.
Nhà Nho nói rằng: “Đạo là cội nguồn lớn lao phát xuất
An Sĩ toàn thư
144 145
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
từ trời”, 1 nhưng bất quá đó cũng chỉ là một cách nói
rất mơ hồ, trừu tượng, lại cũng không phải là tông chỉ
của cái gọi là “đạo” theo như từ Khổng, Nhan 2 truyền
lại. Thế mà các nhà Nho lại có ý báng bổ đạo Phật,
hoàn toàn vô cớ tự đưa ra thuyết “Phật gốc ở tâm, Nho
gốc ở trời”, đâu biết rằng như vậy là đã tự hủy hoại đi
chính cái “tâm học” rất uyên áo sâu sắc ban đầu của
Nho giáo, tự nguyện mang bảo vật quý giá nhất của
đạo Nho mà quy về cho đạo Phật, thật hết sức đáng
tiếc. Lại có những kẻ hậu học mù mịt không hiểu biết,
lại hùa theo thuyết ấy mà phụ họa. Biết bao giờ mới có
được bậc đại thánh hiền đủ sức chấn chỉnh sự sai lầm
như thế?
Học vấn thánh hiền truyền dạy, không ngoài việc
giúp ta được tâm tự do tự tại, thoát khỏi mọi sự ràng
buộc. Tâm đã thoát khỏi mọi ràng buộc, có ai còn trở
lại cầu điều chi nữa? Một tâm cầu, một tâm thoát,
dường như là có hai tâm riêng biệt. Nếu không có hai
tâm riêng biệt, sao lại phân biệt gọi là cầu với thoát?
Chính ở chỗ này phải tận lực nghiên cứu nghiền ngẫm,
không thể chỉ xem xét qua loa mà được.
1 Khái niệm này được Đổng Trọng Thư, một nhà Nho danh tiếng
vào thời Tây Hán đưa ra.
2 Khổng, Nhan, tức Khổng Tử và Nhan Hồi, được xem như những
vị tiên thánh của đạo Nho.
Nho giáo luận về tâm, đạt đến thuyết “rỗng rang
sáng suốt không mê mờ, trọn đủ lý lẽ, ứng hóa thành vạn
sự”, có thể xem là tinh vi thuần khiết đến mức cùng cực.
Thế nhưng, ý tưởng đó vốn có xuất xứ từ những giảng
giải trong các kinh Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm của đạo
Phật. Xét từ sau thời Khổng Tử, Mạnh Tử cho đến trước
thời Trình Hạo, Trình Di, Chu Đôn Di, 1 thì trong Nho
giáo không hề có thuyết này. Chu Hy 2 phát khởi thuyết
này, 3 có thể xem là có công đóng góp cho Nho gia.
Năm 18 tuổi, Chu Hy tìm đến theo học với Lưu
Bình Sơn. Lưu Bình Sơn có ý cho rằng ông muốn theo
đường khoa cử công danh, liền bảo mở rương sách của
ông ra xem, chỉ thấy trong đó duy nhất một bộ Đại Huệ
Thiền sư ngữ lục (大慧禪師語錄), không còn gì khác. 4
1 Chu Đôn Di, cũng thường được gọi là tiên sinh Liêm Khê (濂溪),
là nhà Nho nổi tiếng vào đời Tống, sinh năm 1017 và mất năm
1073, là người học theo lý thuyết của Trình Hạo (1032-1085) và
Trình Di (1033-1107). Cả ba người đã có những đóng góp đáng
kể vào học thuyết cũng như tư tưởng của Nho giáo.
2 Chu Hy tên tự là Nguyên Hối, tự Hối Am, sinh năm 1130, mất
năm 1200, là người kế thừa lý thuyết của Chu Đôn Di nhưng đã
phát huy đến mức hoàn chỉnh hơn nhiều.
3 Ở đây muốn nói đến những ý tưởng mới của Chu Hy trong sách
Đại học chương cú (大学章句).
4 Việc này có thể xem ở Thượng trực biên (尚直編) và Kim thang
biên (金湯編). (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
146 147
Chu Hy thường cùng Lữ Đông Lai và Trương Nam
Hiên tìm đến tham bái nhiều vị thiền lão thạc đức
khắp nơi, riêng đối với thiền sư Đạo Khiêm có quan hệ
hết sức mật thiết. Ngài Đạo Khiêm nhiều lần khai thị,
thường răn nhắc cảnh tỉnh ông trong sự tu tập. 1 Vì thế,
trong những chú thích, giảng giải của Chu Hy về các
sách Đại học, Trung dung, khi luận về tâm tánh thì
phần cốt yếu đều rất gần với tư tưởng của nhà thiền.
Chu Hy về già sống ẩn dật trong nhà tranh vách đất,
thường tụng kinh Phật, có sáng tác tập thơ “Trai cư
tụng kinh” (齋居誦經詩). Nếu nói rằng Chu Hy hoàn
toàn không biết đến kinh Phật thì quả là sai lầm. 2
1 Khi thiền sư Đạo Khiêm viên tịch, Chu Hy có soạn một bài văn
tế, được chép lại trong Hoành giáo tập (宏教集). (Chú giải của
soạn giả)
2 Có lần Lỗ công đàm luận cùng Khổng Tử, nói ra nhiều điều hay.
Khổng Tử khen ngợi, Lỗ công nói: “Đó không phải ý tôi nghĩ ra
được, chỉ là tôi nghe được từ thầy.” Khổng Tử đáp rằng: “Đó là vua
đang làm theo đúng đạo. Tâm ngay thẳng chính trực là đạo.” Xét
theo như việc này thì những người yêu kính Chu Hy cũng không
cần phải che giấu sự thật là Chu Hy học hỏi theo kinh Phật. (Chú
giải của soạn giả)
Luận giải về tâm
Tâm không ở trong
N
hững người mê muội thường cho rằng tâm ở
trong thân này, đó chỉ là do nhận lầm cái tâm
thuộc về lục phủ ngũ tạng bên trong cơ thể là tâm, hay
trái tim, lại cho đó chính là thể rỗng rang linh diệu,
mà không biết rằng có một tâm hữu hình, hay trái
tim, tùy thuộc thân xác này thường sinh thường tử,
lại có một tâm vô hình, hay tâm thức, không tùy thuộc
thân xác này nên không có sinh tử.  1
Tâm hữu hình, hay trái tim, ở trong thân thể, còn
tâm vô hình, hay tâm thức, không ở trong thân thể.
Nếu như nói hai tâm ấy chỉ là một, ắt là tâm nhân
từ thương dân của Nghiêu, Thuấn với tâm bạo ngược
ác độc của Kiệt, Trụ phải cách xa nhau như trời với
đất. Lại vì sao cùng mắc phải tâm bệnh, mà có trường
1 Những biện luận như thế này dường như chỉ có giá trị nhiều
trong nguyên tác, bởi chữ Hán dùng cùng một chữ tâm (心) cho
trái tim và tâm thức. Trong tiếng Việt thì sự phân biệt giữa trái tim
hữu hình với tâm thức vô hình là quá rõ ràng và không thể gây
nhầm lẫn.
An Sĩ toàn thư
148 149
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hợp phải chẩn đoán dùng thuốc men, có trường hợp lại
phải dùng các phương pháp điều trị tâm lý? Do đó mà
biết là cái tâm cần phải dùng thuốc men với cái tâm
thiện ác vốn rõ ràng là hai tâm khác nhau.
Tâm không ở ngoài
Lại có người ngờ rằng, cái tâm hữu hình kia đã
chẳng phải tâm thức, ắt hẳn cái khả năng thấy, khả
năng biết của ta chính là tâm. Nhưng những đối tượng
của sự thấy, biết đều là ở bên ngoài, như vậy cho thấy
cái tâm có thể thấy, có thể biết đó cũng ở bên ngoài.
Những người này thường ví như việc nhắm mắt quay
nhìn bên trong không thấy, chỉ có khả năng nhìn thấy
những vật đối diện mình, không thể từ những chỗ bên
trong như chân mi, đáy mắt, da mặt mà tự thấy được
hình thể. Lại ví như thân ở bên ngoài căn nhà, tất
nhiên chỉ có thể nhìn thấy được tường vách, cửa sổ...
từ bên ngoài, mà không thể từ ngoài nhìn vào thấy
được những chỗ ẩn khuất bên trong. Xin thưa, không
đúng như thế. Cái khả năng biết khổ, biết đau, chính
là tâm ta. Như người khác uống vị thuốc hoàng liên, ta
không thể cảm thấy đắng miệng; như muỗi chích trên
da thịt, ta liền kêu đau, vậy có thể nói rằng tâm ở bên
ngoài được chăng?
Tâm không ở khoảng giữa
Lại có người ngờ rằng, tâm đã chẳng ở trong, cũng
chẳng ở ngoài, vậy nhất định là nó có lúc vào trong,
có lúc ra ngoài, nên phải ở nơi khoảng giữa. Xin thưa,
không đúng như thế. Nếu có vào ra, tức chẳng phải ở
khoảng giữa. Nếu xác định ở khoảng giữa, ắt không có
vào ra. Hơn nữa, biết dựa vào đâu mà gọi là khoảng
giữa? Nếu cho rằng khoảng giữa đó nằm bên trong
da, thì vẫn giống như thuyết cũ là tâm ở bên trong.
Nếu cho rằng khoảng giữa đó nằm bên ngoài da, thì
vẫn giống như thuyết cũ là tâm ở bên ngoài. Lại tiến
xa hơn để tìm khoảng giữa, thì bất quá trong các nếp
nhăn của da cũng chỉ là những cáu ghét dơ bẩn, đó lại
là tâm của ta được sao?
Tâm không phải vừa có hiện hữu,
vừa không hiện hữu
Hoặc có người nói rằng: “Nếu tâm không hiện hữu,
ắt là nhìn không thể thấy, nghe không thể nghe, ăn
cũng chẳng biết mùi vị. Còn nếu như nhìn có thể thấy,
nghe có thể nghe, ăn có thể biết được mùi vị, đó tức là
tâm có hiện hữu. Như vậy, tất nhiên là tâm phải vừa
có hiện hữu, vừa không hiện hữu?”
An Sĩ toàn thư
150 151
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Đáp rằng: “Sáu thức đó, 1 chẳng phải là tâm. Ví như
khi nhìn thấy người con gái đẹp, tâm liền khởi sinh ái
nhiễm, đó là do con mắt (nhãn căn) với hình sắc (sắc
trần) tiếp xúc nhau mà thành nhận biết (nhãn thức).
Nghe nói đến trái mơ chua thì tự nhiên sinh nước dãi
trong miệng, đó là do lưỡi và vị chua tương cảm với
nhau mà thành thức. Từ nơi rất cao nhìn xuống thấp,
hai chân tự nhiên run rẩy, đó là do thân với cảm xúc
thúc bách nhau mà thành thức. Nếu nhận những thức
ấy là thể tánh rỗng rang linh diệu không mê muội của
tâm, đó là sai chỉ hào ly mà lệch đi ngàn dặm. Người
xưa nói rằng:
Cội nguồn sinh tử trong muôn kiếp,
Người mê không biết nhận chân tâm.
Chính là nói đến ý nghĩa này.
Tâm bao trùm hư không
Trong kinh Lăng nghiêm, đức Phật bảo ngài A-nan
rằng: “Cả mười phương hư không sinh khởi trong tâm
ông, chẳng qua cũng chỉ như đám mây nhỏ điểm giữa
bầu trời mênh mông.”
Đức Phật bảo ngài A-nan bảy lần chỉ ra nơi chốn
của tâm; bảy lần hỏi, bảy lần đáp, phá sạch tất cả
1 Tức nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
những nhận thức sai lầm hư vọng, sau đó mới dần
dần hiển lộ chân tâm nhiệm mầu sáng suốt, khiến cho
ngài A-nan được nhất thời tỏ ngộ, có thể nói là một
cuộc hiển bày hết sức tường tận sâu xa uyên áo.
Lời bàn
Chữ “tâm” vốn dĩ đã mang nghĩa mơ hồ không rõ
rệt, chữ “giữ” lại càng không xác định. Nếu vẫn quyết
lòng phải nói ra cho rõ cái ý nghĩa “giữ tâm”, hẳn chỉ
càng thêm sai lệch, chỉ nên hướng đến những việc từ
“chưa từng bạo ngược với dân” cũng như “cứu người
lúc nguy nan” v.v... mà hiểu rằng đó là chỗ “giữ tâm
hiền thiện” của Đế Quân, liền cung kính nỗ lực làm
theo như vậy là được.
Ắt được trời ban phước lành
Giảng rộng
C
âu trên nói “giữ tâm hiền thiện như ta”, đó là
nhân; câu này nói “trời ban phước lành”, đó
là quả. Chữ “ắt được” có nghĩa xác quyết, như người
trồng dưa ắt được hái dưa, trồng đậu ắt được hái đậu,
nhất định không thể có mảy may sai lệch. Hoàn toàn
không phải như thuyết của những kẻ uổng đọc sách
An Sĩ toàn thư
152 153
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thánh hiền, rằng: “Ý trời tự muôn thuở có thể biết; ý
trời trong đời suy mạt này không thể biết.”
Chữ “trời” có thể chỉ hình sắc thể chất nhìn thấy,
tức là bầu trời; cũng có thể chỉ vị chủ tể của vạn vật.
Khi dùng chỉ vị chủ tể của vạn vật, thì “trời” có nghĩa
là thượng đế chí tôn, hay Ngọc Đế. Các nhà Nho về sau
tránh né không muốn dùng danh xưng “thượng đế”,
nên dùng chữ “lý” (理) để thay thế, nhưng chữ ấy thật
chưa đủ nghĩa. Bởi vì người đời nói đến “thượng đế”
đều có ý kính sợ, nếu chỉ dùng một chữ “lý” để thay,
đâu có ai kính sợ?
Ví như có người con gái xinh đẹp trong căn phòng
kín. Có người bước vào phòng ấy, tâm ham muốn
nhục dục bỗng dưng bùng phát. Chợt nghe có người
bảo rằng: “Trong phòng này có thánh tượng của Ngọc
Hoàng Thượng Đế, cô gái ấy đến đây để dâng hương.”
Khi ấy, cho dù là kẻ cực kỳ xấu ác ắt cũng phải sinh
lòng kính sợ, chưa hẳn ở ngay trước tượng Ngọc Đế
mà dám buông thả làm càn. Nhưng nếu thay vì thế lại
nghe có người bảo rằng: “Nếu ông làm việc càn rỡ như
thế là hoàn toàn không theo đúng lý. Mà trái nghịch
với lý, tức là đắc tội với chính danh thánh giáo, không
thể gọi là người quân tử.” Thử hỏi người ấy trong lúc
lòng ham muốn nhục dục đang bùng phát mạnh mẽ, có
thể nghe qua lời ấy mà đột nhiên dập tắt ngay chăng?
Cho nên biết rằng, việc dùng chữ “trời” để chỉ
Ngọc Đế có thể khuyên răn giáo hóa người học, thật
là có công với Nho giáo. Nếu chỉ dùng một chữ “lý”
mà nói, ấy là mở tung cánh cửa buông thả không còn
e dè sợ sệt cho người trong thiên hạ, nên không thể
dùng đó mà dạy dỗ giáo huấn được. Nên người xưa có
lời rằng: “Người người đều biết kính sợ vâng theo đạo
lý, đó là đầu mối để thiên hạ được an trị. Người người
đều không biết e dè sợ sệt, đó là đầu mối khiến thiên
hạ đại loạn.”
Huống gì trong thế gian này, muôn sự muôn vật
đều không chỗ nào ra ngoài chữ lý. Nếu nói “trời” là
lý, 1 thì “tính” cũng là lý; các nhà Nho gọi mệnh trời là
“tính”, rốt lại thì “lý mệnh” cũng gọi là lý. Suy xét ra
như vậy thật không thể không bật cười.
1 Khái niệm về “lý” là một trong những phát triển về nội dung triết
học trong Nho giáo qua nỗ lực tiếp thu và hoàn chỉnh của các
nhà Nho từ Trình Hạo, Trình Di trở về sau. Trình Hạo chủ trương:
“Thiên tức lý dã”, qua đó xem lý là cội nguồn, bản thể của vũ trụ,
nên đó tức là trời. Trình Di lại nói: “Tính dã lý dã” và hiểu khái
niệm tính ở đây tức là tính thiện của con người. Đoạn này tiên
sinh An Sĩ đưa ra các lập luận đều để chỉ rõ các khái niệm còn
chưa rõ nghĩa của các nhà Nho về “lý”, “tính” v.v. . .
An Sĩ toàn thư
154 155
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Đời Tống, tiên sinh Lục Tượng Sơn 1 năm lên 6
tuổi, một hôm bỗng khởi sinh thắc mắc không biết tận
cùng của vũ trụ trời đất này là nơi đâu. Suy nghĩ mãi
về điều này đến nỗi suốt đêm không ngủ được. Đến khi
đã thành một ông già tóc bạc, mỗi ngày vẫn luôn suy
nghĩ mà không biết “ông trời” mình vẫn đội trên đầu
đó thật ra là gì, lại có thể an bày sắp xếp hết thảy các
loại hữu tình có sinh mạng như thế.
Tiên sinh Y Xuyên 2 tham vấn Thiệu Khang Tiết, 3
chỉ cái bàn ăn trước mặt mà hỏi: “Như cái bàn này là
nằm trên mặt đất; không biết cả vũ trụ trời đất này
thật ra là nằm ở đâu?” Thiệu Khang Tiết hết lời luận
giải lý lẽ về trời đất vạn vật cùng với lục hợp. 4 Y Xuyên
kinh hãi thán phục rằng: “Trong đời ta xưa nay chỉ
1 Lục Tượng Sơn tức Lục Cửu Uyên, sinh vào năm 1139 và mất
năm 1192, là người tiếp nối những tư tưởng của Trình Di, Trình
Hạo nhưng đưa ra rất nhiều phát kiến giúp cho hệ thống tư tưởng
này được hoàn chỉnh hơn.
2 Tiên sinh Y Xuyên (伊川), tức Trình Di (程頤).
3 Thiệu Khang Tiết (邵康節) tên thật là Thiệu Ung (邵雍), tự là
Nghiên Phu, hiệu là Khang Tiết, sinh năm 1011, mất năm 1077.
4 Lục hợp: chỉ trời đất và bốn phương đông, tây, nam, bắc.
được biết duy nhất có Chu Mậu Thúc 1 biện luận được
đến như thế này.” 2
Than ôi, ai dám nói chắc rằng các bậc đại nho xưa
không hề để tâm nghiên cứu về vũ trụ trời đất? Con
phù du tuy không biết đến sáng tối trong ngày, 3 con ve
sầu tuy chẳng biết được xuân thu trong năm, 4 nhưng
cái chu kỳ sáng tối với bốn mùa có bao giờ lại vì thế mà
mất đi chăng? Thế nên phải biết rằng, trong Ba cõi 5
quả thật có 28 cảnh trời, rất nên phụ đính vào đây sau
các thuyết của Liêm Khê,  6 Khang Tiết, để giúp cho
những ai có sự thắc mắc cầu học giống như tiên sinh Y
Xuyên cũng có thể tìm được lời giải thích.
1 Chu Mậu Thúc: chỉ Chu Đôn Di.
2 Xem chuyện này trong sách Thánh học tông truyền (聖學宗傳).
(Chú giải của soạn giả)
3 Đời sống con phù du quá ngắn ngủi chỉ trong phút chốc nên
không thể biết đến chu kỳ sáng tối của trọn một ngày đêm.
4 Con ve sầu sống trong mùa hè nên không biết đến mùa xuân
trước đó và mùa thu sau đó.
5 Ba cõi (Tam giới): theo kinh Phật thì tất cả chúng sinh trong luân
hồi đều không ra ngoài ba cõi là cõi Dục (Dục giới), cõi Sắc (Sắc
giới) và cõi Vô sắc (Vô sắc giới).
6 Liêm Khê: tức Chu Đôn Di.
157
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
156
Tên gọi các cảnh trời
Sáu cảnh trời thuộc cõi Dục
K
ể từ bên dưới tầng đất nước của thế gian trở
lên cho đến cảnh trời Tha hóa tự tại đều gọi
chung là cõi Dục, vì chúng sinh trong cõi này đều có
tham dục. Từ dưới đếm lên có cả thảy sáu cảnh trời
tuần tự kể ra như sau:
1. Cảnh trời Tứ vương ( 四王天 - Tứ vương thiên)
Do bốn vị Đại thiên vương phân chia cai quản bốn
Đại bộ châu, mỗi châu rộng 42.000 do-tuần. Cung điện
cư trú của mỗi vị đều nằm trong phạm vi của một mặt
trời, một mặt trăng.
2. Cảnh trời Đao-lợi ( 忉利天 - Đao-lợi thiên)
Tiếng Phạn Trāyastrṃśa, dịch âm là Đao-lợi, mang
nghĩa là ba mươi ba, nên cũng gọi là cảnh trời 33 (Tam
thập tam thiên). Giữa trung tâm là nơi cư trú của vị
Đế Thích, tám phương chung quanh, 1 mỗi phương đều
có bốn vị Đại thần phụ giúp, hợp thành đủ số 33 nên
có tên gọi như vậy, không phải là từ dưới lên trên có
1 Tám phương: bao gồm 4 phương chính là đông, tây, nam, bắc và
4 phương phụ là đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.
33 tầng trời. Từ mặt đất lên đến cảnh trời Đao-lợi là
84.000 do-tuần.
3. Cảnh trời Dạ-ma (夜摩天 - Dạ-ma thiên)
Từ cảnh trời này trở lên, những người tu tiên
không hề biết đến, nên các sách của Đạo gia không
nhắc đến các tên này.
4. Cảnh trời Đâu-suất (兜率天 - Đâu-suất thiên)
5. Cảnh trời Hóa Lạc (化樂天 - Hóa Lạc thiên)
6. Cảnh trời Tha Hóa Tự Tại (他化自在天 - Tha
Hóa Tự Tại thiên)
Sáu cảnh trời này, trải qua thời gian mỗi một kiếp
rồi đều sẽ bị nạn lửa hủy hoại. Trong thời gian tồn tại
thì thọ mạng dài ngắn cho đến cung điện thành ấp
như thế nào, hình thể, y phục nặng nhẹ ra sao, đều có
ghi rõ trong Đại tạng kinh, ở đây không thể kể ra hết.
Lời bàn
Đế Quân nói rằng “ắt được trời ban phước lành”,
như vậy là ai ban? Chính là vị Đao-lợi Thiên vương.
Nho gia tôn xưng là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Đạo gia
tôn xưng là Ngọc Đế hoặc Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn,
trong kinh Phật thường gọi là Tam thập tam Thiên
vương, hoặc Đế Thích, hoặc Thích-đề-hoàn-nhân, thật
ra cũng chỉ đến một vị thượng đế, có quyền uy thống
nhiếp hết bốn vị Đại thiên vương.
An Sĩ toàn thư
158 159
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Mười tám cảnh trời thuộc cõi Sắc
Bên trên cõi Dục có cõi Sắc. Gọi tên như vậy vì
chúng sinh trong cõi này chỉ có thân thể mang hình
sắc nhưng không có ái dục nam nữ. Từ dưới tính lên có
cả thảy là 18 cảnh trời, tuần tự kể ra như sau:
1. Cảnh trời Phạm Chúng (梵眾天 - Phạm chúng
thiên)
2. Cảnh trời Phạm Phụ (梵輔天 - Phạm Phụ thiên)
3. Cảnh trời Đại Phạm (大梵天 - Đại Phạm thiên)
Ba cảnh trời này đều gọi chung là các cảnh trời Sơ
thiền (初禪天 - Sơ thiền thiên). Mỗi cảnh trời này sau
khi trải qua thời gian một kiếp cũng đều bị nạn lửa
hủy hoại.
4. Cảnh trời Thiểu Quang (少光天 - Thiểu Quang
thiên)
5. Cảnh trời Vô Lượng Quang (無量光天 - Vô
Lượng Quang thiên)
6. Cảnh trời Quang Âm (光音天 - Quang Âm thiên)
Ba cảnh trời này đều gọi chung là các cảnh trời
Nhị thiền (二禪天 - Nhị thiền thiên). Mỗi cảnh trời này
sau khi trải qua thời gian bảy kiếp đều sẽ bị nạn hồng
thủy hủy hoại.
7. Cảnh trời Thiểu Tịnh (少淨天 - Thiểu Tịnh
thiên)
8. Cảnh trời Vô Lượng Tịnh (無量淨天 - Vô Lượng
Tịnh thiên)
9. Cảnh trời Biến Tịnh (遍淨天 - Biến Tịnh thiên)
Ba cảnh trời này đều gọi chung là các cảnh trời
Tam thiền (三禪天 - Tam thiền thiên). Mỗi cảnh trời
này sau khi trải qua thời gian 64 kiếp đều sẽ bị nạn
gió hủy hoại.
10. Cảnh trời Phước Sanh (福生天 - Phúc Sanh
thiên)
11. Cảnh trời Phước Ái (福愛天 - Phúc Ái thiên)
12. Cảnh trời Quảng Quả (廣果天 - Quảng Quả
thiên)
13. Cảnh trời Vô Tưởng (無想天 - Vô Tưởng thiên)
Bốn cảnh trời này, cho đến cảnh trời Sắc Cứu
Cánh sẽ nói bên dưới, cộng chung là 9 cảnh trời, đều
gọi chung là các cảnh trời Tứ thiền (四禪天 - Tứ thiền
thiên), không còn bị các nạn lửa, nước và gió (gọi chung
là tam tai) làm hại được nữa.
14. Cảnh trời Vô Phiền (無煩天 - Vô Phiền thiên)
15. Cảnh trời Vô Nhiệt (無熱天 - Vô Nhiệt thiên)
16. Cảnh trời Thiện Kiến (善見天 - Thiện Kiến
thiên)
17. Cảnh trời Thiện Hiện (善現天 - Thiện Hiện
thiên)
An Sĩ toàn thư
160 161
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
18. Cảnh trời Sắc Cứu Cánh (色究竟天 - Sắc Cứu
Cánh thiên)
Năm cảnh trời này cũng được gọi chung là năm
cảnh trời Bất Hoàn (五不還天 - Ngũ Bất Hoàn thiên).
Cả 18 cảnh trời như trên, chư thiên ở đó đều tu tập
Phạm hạnh thanh tịnh cùng các pháp thiền định phước
lạc, chỉ là mức độ nhiều ít, sâu cạn không giống nhau.
Lời bàn
Bên trên cảnh trời Sắc Cứu Cánh là cảnh trời Ma-
hê-thủ-la, uy quyền cao nhất, là chủ tể cai quản thế
giới Ta-bà này, thống nhiếp cả thảy vạn ức chư thiên
cảnh trời Tha Hóa, vạn ức chư thiên cảnh trời Hóa
Lạc, vạn ức chư thiên cảnh trời Đâu-suất, vạn ức chư
thiên cảnh trời Dạ-ma, vạn ức chư thiên cảnh trời
Đao-lợi, vạn ức chư thiên cảnh trời Tứ vương, vạn ức
các vị Nhật thiên tử, vạn ức các vị Nguyệt thiên tử,
nhưng chư thiên trong cõi Dục đều không được nghe
biết đến danh hiệu, không được nhìn thấy hình tướng.
Bốn cảnh trời thuộc cõi Vô sắc
Bên trên cõi Sắc lại có bốn cảnh trời. Một là cảnh
trời Không Vô Biên, hai là cảnh trời Thức Vô Biên, ba
là cảnh trời Vô Sở Hữu, bốn là cảnh trời Phi Tưởng Phi
Phi Tưởng. Chư thiên ở các cảnh trời này chỉ thọ hưởng
kết quả do tu các pháp thiền định vô sắc, không còn
nghiệp quả có hình sắc, nên gọi chung là cõi Vô Sắc.
Lời bàn
Cảnh trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng là cao nhất
trong Ba cõi, chư thiên ở đó có tuổi thọ đến 84.000
đại kiếp, nhưng thảy đều chưa thấu rõ được chân tâm
sáng suốt mầu nhiệm, nên một khi phước trời đã hết
vẫn phải trở lại lưu chuyển trong luân hồi. Nếu nhìn
từ góc độ nhà Phật thì đó vẫn là hàng phàm phu chưa
giải thoát ra khỏi thế gian. Đạo gia tuy cũng nói đến
Tam giới, nhưng là Thượng giới, Trung giới và Hạ giới,
không giống như Tam giới hay Ba cõi trong Kinh Phật.
Phụ đính 2 mục vấn đáp
1. Vì sao có nhiều cảnh trời?
Hỏi: Nói về trời, đó là danh xưng của bậc chí tôn,
không ai bằng được mới có thể gọi là trời, làm sao lại
có nhiều loại danh xưng, hình sắc khác nhau như thế?
Đáp: Con người cũng được xem là linh giác trong
vạn vật, lẽ nào chỉ có thể gọi chung là người mà không
phân biệt kẻ hiền người ngu, kẻ cao quý, người hạ tiện?
Trong Kinh dạy rằng: “Giữ tròn Năm giới thì được sinh
trong cõi người, tu Mười thiện nghiệp thì được sinh lên
An Sĩ toàn thư
162 163
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
cõi trời.” Tuy nhiên, trong việc làm theo Năm giới với
Mười thiện nghiệp, lại cũng có những mức độ nhiều
ít, sâu cạn khác nhau. Cho nên trong cõi người, phước
đức của mỗi người cũng không giống nhau. Chư thiên
trong các cảnh trời cũng vậy, phước đức của mỗi vị
cũng không giống nhau.
2. Sự phân chia phàm thánh ở các cảnh trời
Hỏi: Trong 28 cảnh trời đã kể trên, cảnh trời nào
là phàm, cảnh trời nào là thánh?
Đáp: Có 2 cảnh trời thuộc về phàm, 5 cảnh trời
thuộc về thánh. Còn lại 21 cảnh trời khác đều là chỗ
phàm thánh cùng cư trú.
Hai cảnh trời thuộc về phàm là cảnh trời Đại Phạm
Thiên thuộc Sơ thiền thiên và cảnh trời Vô tưởng thuộc
Tứ thiền thiên.
Vì sao như vậy? Vì ở cảnh trời Đại Phạm, Đại
Phạm Thiên Vương không hề biết rằng tất cả chúng
sinh trong sáu đường 1 thảy đều là do nghiệp đã tạo mà
phải lưu chuyển sinh tử, lại tự cho rằng mình là cao
quý, chỉ có chính mình mới có khả năng kiến tạo ra hết
thảy trời đất, người, vật... do đó mà sinh khởi tà kiến.
1 Sáu đường: bao gồm 3 đường lành là cõi người, cõi a-tu-la và cõi
trời; 3 đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
Còn ở cảnh trời Vô Tưởng, chư thiên ở đó toàn là
những kẻ ngoại đạo trước đây tu tập pháp định Vô
tưởng mà sinh về đó, được hưởng quả báo 500 kiếp
tâm thức rỗng không, không có tư tưởng gì, rồi tự cho
đó là Niết-bàn. Chư thiên cảnh trời này sau khi thọ
hết quả báo sẽ khởi sinh tà kiến rồi sinh vào địa ngục.
Năm cảnh trời thuộc về các bậc thánh nằm trên
cảnh trời Quảng Quả, bao gồm các cảnh trời Vô Nhiệt,
Vô Thiền, Thiện Kiến, Thiện Hiện và Sắc Cứu Cánh,
được gọi chung là Ngũ Tịnh Cư thiên hay Ngũ Bất
Hoàn thiên. Chư thiên ở năm cảnh trời này đều là các
vị thánh đã chứng đắc Thánh quả thứ ba là quả vị
A-na-hàm mới được sinh về.
Ngoài 7 cảnh trời kể trên, còn lại 21 cảnh trời khác
đều là nơi có đủ hai bậc phàm, thánh, có thể suy ra
mà biết đều là do được hưởng phước báo từ việc tu tập
nghiệp lành trong hai cõi trời, người.
165
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
164
Do đó mà ta có lời dạy người
Giảng rộng
H
ai chữ “do đó” nếu xét theo ý nghĩa trước đó
là do “chưa từng bạo ngược với dân...” thì chữ
“dạy” sẽ mang ý nghĩa ngăn ngừa điều ác, làm nền
tảng chuẩn bị cho câu “hết thảy việc ác quyết không
làm” ở gần cuối bài. Lại nếu xét theo ý nghĩa của 6 câu
kể từ “cứu người khi nguy nan”, thì chữ “dạy” sẽ mang
ý nghĩa khuyến khích điều lành, làm nền tảng chuẩn
bị cho câu “hết thảy việc lành xin vâng theo”.
Đế Quân sở dĩ thương mà dạy dỗ nhắc lại nhiều
lần như thế, vì hy vọng rằng chúng ta đều là những
con người có thể cải hối. Nhưng liệu chúng ta quả thật
không có gì phải hổ thẹn với lòng chăng? Mạnh Tử nói:
“Không có lòng trắc ẩn thì không phải là người. Không
có tâm hổ thẹn ghét bỏ điều ác, khiêm cung nhường
nhịn, cũng không phải là người.” Theo đó mà nói thì
làm người quả thật khó!
Muôn vật đều gồm đủ, con người thật đáng tôn
trọng! Có thể xưng đế xưng vương, con người cao quý
thay! Sinh ra không vật mang theo, chết đi vẫn hoàn
tay trắng, con người cùng khổ thay! Món ngon vật lạ
qua miệng rồi đều thành phẫn dơ hôi thối, con người
nhơ nhớp thấp hèn thay! Ai cũng từng ở trong bào thai
rồi từ đó sinh ra, con người kém cỏi thay! Ăn nuốt hết
thảy muôn loài trên cạn dưới nước, con người tàn nhẫn
thay! Bên ngoài trang sức lụa là xinh đẹp, trong lòng
ẩn giấu tên độc gươm sắc, con người xảo trá thay! Gia
đình thân quyến ràng buộc sai sử, con người thật như
nô dịch! Chỉ hướng vào thân thể hạn hẹp này mà nhận
đó là nhà, con người nhỏ bé thay! Dưới ánh mặt trời
thì rỡ ràng nhân nghĩa, đêm tối ám muội thì việc xấu
xa nào cũng không từ, con người thật đáng hổ thẹn
thay! Sống ngày nay không chắc chắn được ngày mai,
con người thật mong manh thay! Thở ra không hẹn
thở vào, con người thật yếu đuối thay!
Luận A-tỳ-đàm nói: “Chữ ‘người’ có 8 nghĩa.”
Kinh Lâu Thán Chánh Pháp dạy rằng: “Người trong
cõi Diêm-phù-đề nhiều chủng loại khác biệt nhau, cả
thảy có 6.400 chủng loại.” Thế thì chữ “người” đó nào
phải dễ nhận hiểu đâu?
An Sĩ toàn thư
166 167
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Các thuyết về con người
Con người từ cảnh trời Quang Âm đến
K
inh Khởi thế nhân bản 1 dạy rằng: “Vào thuở
ban đầu của kiếp này, tất cả con người đều từ
cảnh trời Quang Âm giáng xuống, có thể bay lượn trên
không trung, không từ bụng mẹ sinh ra. Từ khi biết
dùng lúa gạo làm thức ăn, con người mới bắt đầu có
gân cốt xương tủy... phân chia thành hình thể nam nữ
khác nhau, từ đó mà khởi sinh ái dục.”
Lời bàn
Giống loài con người từ một cảnh trời thuộc cõi Sắc
mà ra, 2 nên khi tạo tác các hình tượng thiên thần đều
phỏng theo như hình người.
1 Kinh Khởi Thế Nhân Bản (起世因本經), được xếp vào Đại Chánh
tân tu Đại tạng kinh, thuộc Tập 1, kinh số 25, tổng cộng có 10
quyển, do ngài Đạt-ma-cấp-đa dịch sang Hán ngữ vào đời Tùy.
Xem từ dòng thứ 6, trang 413, tờ b của quyển 9. Đoạn này không
trích nguyên văn kinh, chỉ viết lại và có lấy thêm ý cuối từ kinh
Đại Lâu thán (大樓炭經), quyển 6, dòng 14, trang 308, tờ a.
2 Cảnh trời Quang Âm là cảnh trời thứ 6 từ dưới lên thuộc cõi Sắc.
Con người từ bốn đại mà sinh ra
Vạn vật ở thế gian bất quá không ra ngoài bốn đại
là địa, thủy, hỏa, phong, nên con người là do khí chất
của bốn đại ấy mà thành hình. Xương thịt là từ địa
đại; các chất dịch như nước mắt, nước mũi, đàm dãi...
là từ thủy đại; hơi ấm là hỏa đại; mọi sự vận động là
từ phong đại. 1
Lời bàn
Luận theo Ngũ hành 2 thì có thêm hai yếu tố là kim
(kim loại) và mộc (cây gỗ) mà không đề cập đến phong
đại. Riêng địa đại có thể hiểu là bao gồm cả kim và
mộc, nhưng thiếu phong đại thì không thể có sự vận
động. Ví như có dùng ngũ tạng phối với ngũ hành, thì
ngoài ngũ tạng còn có thân xác, hóa ra có vẻ như tương
phản, thiếu căn cứ thuyết phục. Vì thế, thuyết ngũ
hành đã bị thuyết tứ đại đánh đổ.
1 Thật ra, sự phân chia tất cả các yếu tố bao gồm trong sự vật thành
bốn đại chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Ta có thể hiểu như địa đại
tượng trưng cho tất cả các chất rắn, thủy đại tượng trưng cho tất
cả các chất lỏng, độ ẩm, hỏa đại tượng trưng nhiệt độ, nhiệt năng,
và phong đại tượng trưng cho sự vận động, lưu chuyển.
2 Thuyết Ngũ hành của Nho giáo và Đạo giáo bao gồm 5 yếu tố
là kim (kim loại), mộc (cây gỗ), thủy (nước), hỏa (lửa) và thổ (đất).
An Sĩ toàn thư
168 169
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Con người là một trong bốn cách sinh ra
thuộc sáu đường
Bốn cách sinh ra bao gồm: thai sinh (sinh ra từ
bào thai), noãn sinh (sinh ra từ trứng), thấp sinh (sinh
ra từ môi trường ẩm ướt) và hóa sinh (sinh ra từ sự
biến hóa). Con người thuộc về loại thai sinh.
Sáu đường bao gồm các cảnh giới: trời, người, a-tu-
la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Cảnh giới con người
được xếp thứ hai trong số đó.
Lời bàn
Con người vốn không hề có sự quyết định trước
chắc chắn sẽ thuộc loại thai sinh, mà là do nghiệp
duyên thúc đẩy vào loài thai sinh, lại cũng không hề
có sự quyết định trước chắc chắn sẽ sinh ra làm người,
mà là do nghiệp duyên thúc đẩy mới sinh làm người.
Dù mang tên họ thế này thế khác, chẳng qua chỉ là
tạm thời trong cõi thế; dù cung trời hay địa ngục,
chẳng qua cũng chỉ là chốn nương thân trong một kiếp
phù du ngắn ngủi như chớp mắt mà thôi.
Con người có mười thời kỳ
Sách Pháp uyển châu lâm 1 nói rằng: “Con người có
mười thời kỳ. Thứ nhất là thời kỳ hình thành màng tế
1 Xem Pháp uyển châu lâm ( 法苑珠林 ) - Đại Chánh tân tu Đại
tạng kinh, tập 53, kinh số 2122, quyển 5, bắt đầu từ dòng 5 trang
307, tờ b.
bào, thứ hai là thời kỳ hình thành tế bào dạng bọc, thứ
ba là thời kỳ hình thành dạng khối nhỏ, thứ tư là thời kỳ
hình thành khối thịt tròn, thứ năm là thời kỳ hình thành
tay chân, thứ sáu là thời kỳ hài nhi, thứ bảy là thời kỳ
thơ ấu, thứ tám là thời kỳ niên thiếu, thứ chín là thời kỳ
thanh niên cường tráng, thứ mười là thời kỳ già yếu.” 1
Lời bàn
Năm thời kỳ trước là nói các giai đoạn còn ở trong
bào thai, năm thời kỳ sau là nói giai đoạn từ sau khi
ra khỏi bào thai.
Hình dạng mặt người giống như hình dạng cõi đất
Kinh Khởi thế nhân bản 2 nói rằng: “Cõi Nam
Diêm-phù-đề rộng 7.000 do-tuần, hướng bắc mở rộng,
hướng nam hẹp lại. Vì thế, khuôn mặt con người ở cõi
ấy cũng có hình thể tương tự như hình dạng cõi đất.”
1 Thật ra sách Pháp uyển châu lâm đã trích lại toàn bộ đoạn này
từ kinh Đại Bát Niết-bàn ( 大般涅槃經 ), bản dịch Hán văn của
ngài Đàm-vô-sấm, quyển 38, phẩm thứ 12 - Bồ Tát Ca-diếp, phần
6. Xem nguyên bản trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 12,
kinh số 374, bắt đầu từ dòng 16 trang 588, tờ b. Xem bản Việt
dịch của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến (NXB Tôn giáo –
2009), tập 7, quyển 38, trang 173-174.
2 Kinh Khởi thế nhân bản (起世因本經) đã dẫn chú trên. Xem
đoạn trích này từ dòng thứ 24, trang 366, tờ b của quyển 1.
An Sĩ toàn thư
170 171
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Địa hình châu Bắc-câu-lô có hình vuông nên
khuôn mặt người ở cõi ấy cũng vuông vắn. Châu Đông
Thắng Thần có địa hình tròn, nên khuôn mặt người
ở cõi ấy cũng tròn trịa. Châu Tây Ngưu Hóa có địa
hình như nửa mặt trăng, nên khuôn mặt người ở cõi
ấy cũng phát triển to lớn ở phần trên não mà bên dưới
nhỏ hẹp lại. Do đó suy rộng ra, như chim đậu trên
cây, lông cánh hình giống cây; thú đi trên cỏ, lông trên
thân giống như cỏ.  1
Người có sáu căn, sáu trần, sáu thức
Sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; sáu trần
là hình sắc, âm thanh, mùi hương, vị nếm, sự xúc
chạm và các pháp. Khi mắt thấy hình sắc, tai nghe âm
thanh, căn và trần đối nhau mà khởi sinh thức từ đó.
Lời bàn
Cùng là sáu căn đó, khi kẻ phàm phu sử dụng thì
khởi sinh thành sáu tình, 2 sáu nhập, sáu cảm thọ, sáu
ái nhiễm, ấy là sáu tên giặc; nhưng với hàng Bồ Tát
thì đó là sáu thần thông. Chẳng đủ để hiểu ra việc chư
1 Đây cũng có thể xem là ứng dụng cái học “cách vật” của Nho
gia. (Chú giải của soạn giả)
2 Sáu tình: khởi sinh từ sáu căn, thành nhãn tình, nhĩ tình v.v. . .
thiên thấy nước là lưu ly, còn ngạ quỷ thấy nước là
máu mủ, vốn cũng là một lẽ như vậy đó sao?
Làm người nên học giáo pháp Mười hai nhân duyên
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Vô minh duyên nơi
hành, 1 hành duyên nơi thức, 2 thức duyên nơi danh
sắc, 3 danh sắc duyên nơi sáu nhập, 4 sáu nhập duyên
nơi xúc, 5 xúc duyên nơi thọ, 6 thọ duyên nơi ái, 7 ái
1 Vô minh chỉ những phiền não si ám từ đời trước, duyên chỉ
những nhân tố do đó mà sinh ra, hành là những nghiệp đã tạo,
chỉ cho các nhân ngu si hôn ám từ đời trước, do đó mà tạo nghiệp.
(Chú giải của soạn giả)
2 Thức ở đây chỉ vọng niệm vừa sinh khởi lúc ban đầu, muốn vào
thai mẹ. (Chú giải của soạn giả)
3 Danh sắc ở đây chỉ sau khi vào thai mẹ, các căn bắt đầu hình
thành. (Chú giải của soạn giả)
4 Khi đã có sáu căn, về sau tất nhiên phải nhập với sáu trần, do đó
mà gọi là sáu nhập. (Chú giải của soạn giả)
5 Ở đây chỉ vào độ tuổi lên ba, lên bốn, khi tiếp xúc với các trần
còn chưa biết gì nên chỉ gọi là xúc. (Chú giải của soạn giả)
6 Ở đây chỉ thời kỳ khoảng 5, 6 tuổi đến 12, 13 tuổi, đã có khả
năng thọ nhận, thâu nạp các trần cảnh vào tâm thức. (Chú giải
của soạn giả)
7 Ở đây chỉ từ độ tuổi 14, 15 cho đến 18, 19 tuổi, do tham muốn
chạy theo âm thanh, hình sắc mà khởi tâm ái nhiễm. (Chú giải
của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
172 173
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
duyên nơi thủ, 1 thủ duyên nơi hữu, 2 hữu duyên nơi
sinh, 3 sinh duyên nơi già chết, khổ não, buồn đau. 4 Vô
minh diệt ắt hành phải diệt, hành diệt ắt thức phải
diệt, thức diệt ắt danh sắc phải diệt, danh sắc diệt ắt
sáu nhập phải diệt, sáu nhập diệt ắt xúc phải diệt, xúc
diệt ắt thọ phải diệt, thọ diệt ắt ái phải diệt, ái diệt ắt
thủ phải diệt, thủ diệt ắt hữu phải diệt, hữu diệt ắt
sinh phải diệt, sinh diệt ắt già chết, khổ não, buồn đau
phải diệt.” 5
1 Ở đây chỉ từ sau độ tuổi 20, tham dục càng mạnh mẽ, nên chạy
đuổi mong cầu nơi trần cảnh không lúc nào ngừng. (Chú giải của
soạn giả)
2 Ba cõi (Tam giới) cũng được gọi là Ba cảnh có (Tam hữu), vì đời
này đã có cảnh giới thiện ác, nhất định đời sau phải có sinh tử.
(Chú giải của soạn giả)
3 Đây muốn nói là trong tương lai nhất định lại phải tái sinh trong
sáu đường. (Chú giải của soạn giả)
4 Đây chỉ trong đời sống vị lai rồi cũng phải chịu cảnh già, chết.
(Chú giải của soạn giả)
5 Tuy nguyên bản nói là trích từ kinh Pháp Hoa nhưng chính xác
là đoạn này được trích từ Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh
(添品妙法蓮華經), được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh,
thuộc tập 9, kinh số 264. Kinh này có tổng cộng 7 quyển, do các
ngài Xà-na-quật-đa và Cấp-đa cùng dịch. Đoạn trích này bắt đầu
từ dòng thứ 2, trang 159, tờ c của quyển 3.
Lời bàn
Chỉ biết rằng thân này do mẹ sinh ra mà không
biết cha cũng góp phần, ấy là trẻ con. Chỉ biết rằng
thân này do cha mẹ trời đất sinh ra, mà không biết
còn do nghiệp duyên đời trước, ấy là kẻ dung tục tầm
thường.
Tôi hết sức phản đối thuyết “trời sinh thánh
nhân”. Nếu quả trời có thể sinh được thánh nhân, ắt
phải thường sinh thánh nhân. Như trời đã sinh vua
Nghiêu, vua Thuấn, tại sao lại còn sinh vua Kiệt, vua
Trụ? Nếu trời không ngăn được việc vua Kiệt, vua
Trụ sinh ra, thì cũng không thể quyết định việc vua
Nghiêu, vua Thuấn ra đời. Thế thì làm sao nói rằng
trời có thể sinh ra người?
Có những kẻ cưới thêm thê thiếp, cầu khẩn nhiều
nơi mà vẫn không có con; lại có những kẻ chưa kịp cưới
xin, quan hệ bừa bãi, trong lòng chỉ sợ có thai, nhưng
rồi vẫn cứ có thai; xem đó thì biết việc sinh con không
chỉ là riêng do cha mẹ mà thành.
Tuổi thọ con người xưa nay có khác biệt
Trong kinh nói rằng: “Vào thời tăng kiếp, khởi đầu
tuổi thọ trung bình của con người được 10 năm, sau đó
cứ trải qua 100 năm thì tuổi thọ lại tăng thêm được
An Sĩ toàn thư
174 175
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
1 năm; cứ như vậy tăng mãi cho đến khi tuổi thọ con
người đạt đến 84.000 năm thì dừng. Từ đó về sau cứ
trải qua 100 năm thì tuổi thọ lại giảm đi 1 năm, cứ
như vậy giảm mãi cho đến khi tuổi thọ chỉ còn 10 năm
là thấp nhất. Khi tuổi thọ trung bình của con người là
10 năm, lại bắt đầu tăng dần như trước. Sự biến đổi
tăng giảm này cũng giống như trong năm có những lúc
ngày dài đêm ngắn, lại có những lúc ngày ngắn đêm
dài, cứ như vậy mà tuần hoàn mãi mãi không dứt.” 1
Lời bàn
Đức Thích-ca Như Lai ra đời vào lúc tuổi thọ trung
bình của con người là 100 năm, nên vào đời vua Thành
Khang rất nhiều người sống thọ đến gần trăm tuổi,
như Vũ Vương thọ 93 tuổi, Văn Vương thọ đến 97 tuổi.
Thời Đường Ngu trước Văn Vương hơn ngàn năm, nên
tuổi thọ tăng hơn 10 năm, 2 nên vua Vũ thọ 106 tuổi,
vua Thuấn thọ 110 tuổi, vua Nghiêu thọ đến 117 tuổi.
Đế Khốc trị vì đến 70 năm, như vậy có thể đoán là tuổi
1 Ở đây không nói rõ là kinh nào, nhưng chúng tôi tìm thấy nội
dung tương tự trong sách Phật Tổ thống kỉ (佛祖統紀) do ngài Chí
Bàn soạn vào đời Tống, tại trang 299, tờ a, quyển 30. Sách này
có tổng cộng 54 quyển, được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng
kinh ở tập 49, kinh số 2035.
2 Theo đây mà xét thì chúng ta đang ở trong giai đoạn tuổi thọ
giảm dần.
thọ cũng rất cao. Chuyên Húc trị vì đến 78 năm, so với
Đế Khốc còn cao hơn. Thiếu Hạo trị vì 84 năm, so với
Chuyên Húc lại cao hơn nữa. Hoàng Đế trị vì 100 năm,
so với Thiếu Hạo là tuổi thọ phải cao hơn. Viêm Đế ở
ngôi đến 140 năm, so với Hoàng Đế lại càng cao hơn
nhiều. Từ đó suy ra trước thời Phục Hy có kỷ Nhân
Đề, kỷ Tuần Phỉ, kỷ Tự Mệnh v.v... 1 trở ngược đến thời
Nhân Hoàng 2 trị dân, chẳng biết đã mấy mươi vạn
năm qua, nên anh em Nhân Hoàng có 9 người, cộng
chung cả triều đại truyền đến 45.600 năm. Trở ngược
đến thời Địa Hoàng rồi Thiên Hoàng, cũng không biết
là bao nhiêu vạn năm, nên cả 2 vị ấy đều có tuổi thọ
đến 18.000 năm.
Những điều trên đều được truyền lại trong sử
sách, có thể khảo chứng rõ ràng. Các nhà Nho đời sau
thấy nói về tuổi thọ ngày xưa đến mấy vạn năm cho
là hoang đường, liền hết sức nỗ lực chỉnh sửa, loại bỏ
1 Các tên kỷ ở đây thuộc về 10 kỷ (Thập kỷ). Theo truyền thuyết
từ thời cổ đại thì từ khi trời đất mới hình thành, Nhân Hoàng giữ
ngôi trị dân, cho đến năm thứ 14 triều Lỗ Ai Công vào đời Xuân
Thu (480 trước Công nguyên), cộng cả thảy là 2.760.000 năm,
phân chia thành 10 kỷ, bao gồm các kỷ mang tên: Cửu Đầu, Ngũ
Long, Nhiếp Đề, Hợp Lạc, Liên Thông, Tự Mệnh, Tuần Phỉ, Nhân
Đề, Thần Thông, Sớ Cật.
2 Nhân Hoàng là vị vua thứ ba trong truyền thuyết Trung Hoa.
Trước ông là Địa Hoàng (thứ hai) và Thiên Hoàng (thứ nhất).
An Sĩ toàn thư
176 177
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đi những điều như thế, quả thật là kiến thức quá hẹp
hòi. Những người viết sử thời xưa ghi chép truyền lại
các điều ấy không phải là vô căn cứ. Khổng Tử sinh
vào thời nhà Chu suy vi, vẫn có thể thấy được những
chỗ thiếu sót của người chép sử, huống chi các vị sử
thần từ thời Đường Ngu về trước, lẽ nào lại dối trá ghi
chép những điều vô nghĩa vào chánh sử hay sao?
Than ôi, mắt không nhìn thấy con gấu to, lại cho
đó là con ba ba có 3 chân, ấy thật không phải vật quái
lạ, mà do kiến thức của người chưa đầy đủ. Từ thời
Chu Chiêu Vương đến nay lại đã trải qua 3.000 năm
nữa, tuổi thọ trung bình của con người giảm thêm 30
năm, vì thế nên hiện nay xét thấy những người có tuổi
thọ cao cũng đều ở mức trên dưới 70 tuổi. Đọc qua
nhiều sách vở, mới thấy những lời trong kinh Phật là
đúng thật.
Hàn Xương Lê 1 trong bài “Phật cốt biểu” nói rằng:
“Đời thượng cổ không có Phật mà người ta sống thọ,
1 Tức Hàn Dũ (韓愈), một người có văn tài nhưng phản bác đạo
Phật. Ông nổi tiếng với bài văn tế đuổi được cá sấu. Bài Phật cốt
biểu ông viết năm 819, dâng lên vua Đường Hiến Tông để can
ngăn việc vua tổ chức rước Xá-lợi Phật. Hiến Tông nổi giận ra
lệnh xử tử, nhờ có một số các quan hết sức xin cho nên mới thoát
chết, nhưng bị giáng chức xuống làm Thứ sử ở Triều Châu, một
vùng rất xa xôi hẻo lánh.
đời sau có Phật mà người ta yểu mạng hơn.” Nói như
vậy là đâu biết rằng hiện nay đang thời giảm kiếp?
Vào thời tuổi thọ con người đến 80.000 năm thì 500
tuổi mới tính chuyện dựng vợ gả chồng. Thời đầu nhà
Chu, 30 tuổi mới lập gia đình. Hiện nay, chưa quá tuổi
15 đã tơ tưởng chuyện ái tình, miệng còn hôi sữa đã
nói ra toàn những lời tục tĩu.
Thân người xưa nay có khác biệt
Trong thời giảm kiếp, cứ trải qua 100 năm thì
thân thể lại ngắn đi 1 tấc, qua 1.000 năm ắt ngắn đi
1 thước. 1 Vào thời đức Thích-ca Như Lai ra đời, thân
người cao trung bình 8 thước. 2 Đến nay 3 đã trải qua
hơn 2.000 năm, thân người ngắn đi 2 thước, nên hiện
nay chiều cao trung bình chỉ vào khoảng trên dưới
6 thước. Nói chung, khi tuổi thọ trung bình tăng lên
ắt thân người cũng theo đó mà cao lớn hơn, khi tuổi
thọ trung bình giảm, ắt thân người cũng theo đó mà
thấp bé hơn. Cho đến sau thời kỳ phát sinh thiên tai
dịch bệnh, tuổi thọ con người càng gần mức thấp nhất,
1 Các đơn vị, tấc, thước, trượng được dùng ở đây là đơn vị đo lường
thời cổ của Trung Hoa. Mỗi trượng bằng 10 thước, mỗi thước bằng
10 tấc. Mỗi tấc chỉ tương đương khoảng 3 cm.
2 Hóa thân của đức Phật cao 1 trượng 6 thước. (Chú giải của soạn
giả)
3 Tức vào thời tiên sinh An Sĩ (1656-1739).
An Sĩ toàn thư
178 179
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thân người lại càng thấp bé hơn, chỉ khoảng hai gang
tay, hoặc ba gang tay, có thể dùng những loại lúa đề,
lúa bại 1 mà cho là lương thực tốt nhất; để tóc dài che
thân, xem đó là y phục đẹp nhất; những dụng cụ dùng
thường ngày đều chế tác theo hình dạng của binh khí
như đao kiếm, côn trượng... 2
Lời bàn
Có người khai quật ngôi mộ cổ trước thời Tùy
Đường, tìm thấy bộ xương người rất lớn, so với bộ
xương của người đời nay dài hơn đến 2 thước. Tôi có
khảo cứu trong sách “Thiên nhân cảm thông ký”, thấy
viết rằng: “Di chỉ nền kinh đô nước Thục trước đây,
nằm trên núi Thanh Thành, hiện nay là đất Thành
Đô, xưa kia vốn là một vùng biển cả.”
Xưa vào thời đức Phật Ca-diếp, 3 có người đi theo
dòng sông Tây Nhĩ, 4 khi thuyền ngang qua vùng này
1 Lúa đề (稊), lúa bại (稗), là những giống lúa có hạt cực nhỏ.
2 Hiện nay, những trâm cài tóc, bông tai. . . của phụ nữ cũng
thường được làm theo hình dạng như cây đao, lưỡi búa. . . (Chú
giải của soạn giả)
3 Đức Phật Ca-diếp là một trong 7 vị Phật quá khứ, ra đời trước
đức Phật Thích-ca, vào lúc tuổi thọ trung bình của con người là
20. 000 năm.
4 Xưa kia gọi là đầm Diệp Du, ngày nay là Nhị Hải, cũng gọi là
Tây Nhị Hải, nằm về phía đông huyện Đại Lý, tỉnh Vân Nam.
bỗng thấy trên bờ có một con thỏ, liền giương cung bắn,
không biết rằng thỏ ấy vốn là thần biển hóa thành.
Thần biển nổi giận, liền quật tung chiếc thuyền ấy
lên, lật úp xuống, khiến cho đất cát lấp cạn khúc sông
ấy mà thành đất bằng. Đến triều Tấn, có vị tăng thấy
vùng đất ấy có nhiều kẻ nứt, liền theo vết nứt mà đào
xuống tìm được nhiều bộ xương người cùng với đáy
thuyền. Những bộ xương người đều dài đến hơn 3
trượng. Đó là vì vào thời đức Phật Ca-diếp thì tuổi thọ
trung bình của con người đến 20.000 năm.
Tôi cũng có đọc sách “Khổng lý ký”, thấy có đoạn
viết: “Đôi dép của Khổng Tử, theo đơn vị đo lường hiện
nay dài một thước ba tấc.” Như vậy có thể thấy, bàn
chân của Khổng Tử hoàn toàn không giống như bàn
chân của người hiện nay. Tôi lại đọc thấy trong sách
“Chu lễ” nói rằng “cán rìu dài 3 thước, bề ngang 3 tấc”,
như vậy cho thấy cánh tay của người thời đó không
giống với cánh tay của người thời nay. Cho đến y phục,
dụng cụ, chén bát... của con người cách nay trăm năm,
chắc chắn cũng đều to lớn hơn so với hiện nay. Há
chẳng phải là do thân người dần dần nhỏ đi nên vật
dụng cũng theo đó mà nhỏ hơn đó sao?
Phước báo của con người xưa nay có khác biệt
Con người quan trọng nhất là đức hạnh, nhờ đó mới
có phước báo. Sau khi tuổi thọ trung bình giảm dần thì
An Sĩ toàn thư
180 181
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hết thảy mọi điều khác đều sút giảm, đức hạnh cũng
theo đó mà suy giảm, phước báo mất dần đi. Có thể kể
sơ lược ra đây như là bảy món báu 1 sẽ mất dần đi; ngũ
cốc thu hoạch dần dần ít hơn; chuyện ăn mặc ngày
càng khó kiếm đủ hơn; hình thể dung nhan ngày càng
xấu xí hơn; năng khiếu bẩm sinh ngày càng hôn ám,
ngu muội hơn; tinh thần dần suy nhược hơn; phong
tục ngày càng cao ngạo hơn; thân quyến ngày càng ít
hòa thuận nhau hơn; thuế khóa, sai dịch ngày càng
nặng nề, khắc nghiệt hơn; các tai nạn như lửa cháy,
nước lụt, trộm cướp ngày càng hoành hành mạnh mẽ
hơn; pháp Phật dần dần bị suy tàn; người hiền ngày
càng suy tổn; các nhà Nho chân chính ngày càng hiếm
thấy; những kẻ báng bổ Phật pháp ngày càng phát
triển mạnh; những người giàu có ngày càng keo kiệt,
bủn xỉn hơn...
Lời bàn
Sách vở ngôn từ của thế tục hẳn có những lúc
không đúng thật, nhưng những gì được trích ra từ
Kinh điển thì mỗi chữ mỗi câu luôn được chứng minh
đúng đắn. Xét như vào thời Tam đại, người người đều
sử dụng vàng ngọc để trao đổi tính toán, số lượng rất
nhiều, chưa từng sử dụng toàn bạc nén. Cho đến triều
1 Bảy món báu: gồm vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và
mã não.
Hán về sau mới bắt đầu dùng bạc làm tiền tệ. 1 Nhưng
lúc đó các nước nhỏ cũng vẫn còn sở hữu được các loại
trân bảo quý giá như ngọc dạ quang, châu chiếu thừa,
2 không đến nỗi quá hiếm thấy như ngày nay. Ngày
nay phải sử dụng loại bạc phẩm chất kém, lại thường
cho đồng đỏ vào bên trong, ấy là vì bạc trắng tốt không
đủ dùng nên phải dùng thêm đồng thay bạc. Như thế
chẳng phải đúng là bảy món báu mất dần đi đó sao? 3
Một trăm mẫu 4 ruộng vào đời nhà Chu chỉ tương
đương với 22 mẫu thời nay. 5 Số lượng thu nhập từ 22
1 Đại thần thời Hán Vũ Đế là Tang Hoành Dương dùng bạc đúc
thành tiền. (Chú giải của soạn giả)
2 Ngọc dạ quang, châu chiếu thừa đều là những loại châu ngọc có
khả năng tự phát sáng.
3 Người xưa nói bách kim (百金) tức là chỉ 100 nén vàng. Hán
Văn Đế nói rằng: “Tài sản của 10 hộ dân thuộc loại trung bình
là 100 nén vàng.” (mỗi nén là 10 lượng) Xem trong sách “Tôn tử
binh pháp”, quyển thượng, có viết rằng: “Sử dụng 100. 000 quân,
mỗi ngày chi phí hết ngàn vàng.” Nếu như ngàn vàng đó mà hiểu
là ngàn lượng vàng, thì tài sản trung bình của mỗi người dân đời
Hán chỉ đạt số 10 lượng vàng, mà chi phí lương thực khí giới cho
mỗi một người lính trong một ngày chỉ dùng đến một phần mười
lượng vàng, liệu như vậy có hợp lý chăng? (Chú giải của soạn giả)
4 Đơn vị đo lường ngày xưa, mỗi mẫu là một diện tích vuông vức
4 cạnh đều bằng 60 trượng, không giống như mẫu tây hay hecta
ngày nay.
5 Tức vào thời tiên sinh An Sĩ.
An Sĩ toàn thư
182 183
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
mẫu đó có thể nuôi ăn được 9 người. Sức ăn của mỗi
người thời xưa lên đến một đấu gạo, 1 số lượng mỗi một
người ăn hết trong một năm ước chừng hơn 70 thạch
của ngày nay, 2 9 người phải mất hơn 600 thạch, tính
ra mỗi mẫu ruộng có thể thu hoạch được khoảng hơn
30 thạch. Ngày tôi còn nhỏ được biết ở quê tôi mỗi mẫu
ruộng chỉ thu hoạch được khoảng 3 hay 4 thạch. Kể
từ năm Quý Hợi 3 đời Khang Hy trở về sau, mỗi mẫu
ruộng trước đây thu hoạch được 3 thạch đều sút giảm,
không còn thu hoạch được đến số ấy. Như thế chẳng
phải đúng là ngũ cốc thu hoạch dần dần ít hơn đó sao? 4
Vào thời cổ, nước nào không tích chứa nhu yếu
đủ dùng được đến 10 năm thì gọi là “không sung túc”,
không đủ dùng được đến 6 năm thì gọi là ở mức “nguy
cấp”. Như vào thời hưng thịnh của hai triều Hán
1 Mỗi đấu bằng 10 thăng.
2 Mỗi thạch bằng 10 đấu. Nếu tính theo như giai đoạn về sau thì mỗi
thăng tương đương khoảng 1 lít, nên mỗi thạch bằng khoảng 100 lít.
Nhưng nếu tính theo trọng lượng thì mỗi thạch bằng 120 cân.
3 Tức năm 1683.
4 Vào khoảng các niên hiệu Long Khánh, Vạn Lịch triều Minh,
có người trong lúc tu sửa chùa Tiến Nghiêm ở Côn Sơn, tìm được
trong đống ngói cổ một vật tượng hình bó lúa, quả thật là cổ vật
từ đời Đường. Bông lúa nhìn thấy dài đến hơn một thước, theo đó
mà ước tính thì mỗi mẫu ruộng phải thu hoạch đến hơn 10 thạch.
Bông lúa ngày nay không dài quá 4 tấc. (Chú giải của soạn giả)
Đường, so ra cũng chỉ là “không sung túc”. Còn như
hiện nay, chỉ cầu mong cho được đến mức “nguy cấp”
của xưa kia mà còn không thể được! Như thế chẳng
phải đúng là chuyện ăn mặc ngày càng khó kiếm đủ
hơn đó sao?
Vào thời cổ, các bậc vua chúa công hầu cao quý
vẫn thường hạ mình tìm đến giao du với các bậc ẩn sĩ
nơi thâm sơn cùng cốc; hàng khanh tướng được người
tôn kính vẫn chịu khó nhọc đi bộ mà không ngồi xe.
Hiện nay thì khác, người vừa mới phụng mệnh làm
quan đã lập tức lên mặt khinh miệt những kẻ tri giao
bằng hữu, còn bọn sai nha tiểu tốt cũng ngang nhiên
ngồi xe che lọng. Như thế chẳng phải đúng là phong
tục ngày càng cao ngạo hơn đó sao?
Vào thời cổ, các bậc cao tăng khi đến gặp vua, vua
không dám gọi thẳng bằng tên, mà khi ban chiếu thư
cũng tôn kính gọi là thầy. Đường Thái Tông soạn bài
tựa “Tam tạng Thánh giáo tự”, hết lòng bày tỏ sự khâm
phục, tôn sùng Phật giáo. Khi Pháp sư Huyền Trang
thị tịch, Đường Cao Tông hay tin liền nói với các quan
hầu cận rằng: “Trẫm đã mất đi một báu vật của quốc
gia.” Liền ngưng việc triều chính trong 5 ngày. 1 Niên
hiệu Cảnh Long năm thứ 2 đời Đường Trung Tông, 2
vua sắc cho Cao An sai Thôi Tư Lượng lo việc nghênh
1 Xem Cao tăng truyện. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức năm 708.
An Sĩ toàn thư
184 185
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tiếp Đại sư Tăng-già đến kinh đô, nhà vua cùng với
trăm quan đều cúi đầu tự xưng là đệ tử.  1 Niên hiệu
Hiển Khánh năm thứ nhất đời vua Đường Cao Tông, 2
vua ban sắc chỉ rằng, tất cả tăng ni trong nước nếu có
vi phạm vào pháp luật, phải áp dụng theo giới luật nhà
Phật mà xử trị, không được xử giống như dân thường. 3
Vào triều Tống Chân Tông, vua ban chiếu lệnh cho
dân trong nước phải tránh không được gọi tên húy của
thiền sư Chí Công, phải xưng là Bảo Công. 4
Đời Tống, các vua Thái Tổ, Thái Tông, Chân Tông,
Nhân Tông, Cao Tông, Hiếu Tông thảy đều ủng hộ
phát triển mạnh mẽ Phật pháp, có lúc các vua thân
hành lễ bái nơi chùa chiền, có khi lại cung thỉnh chư
tăng vào hoàng cung thuyết pháp, đều là những việc
làm hưng thạnh Phật pháp. Ngày nay những kẻ trí
thức thường cao ngạo bướng bỉnh, đa số khi gặp tượng
Phật không tham bái, gặp bậc cao tăng cũng không
kính lễ. Như thế chẳng phải đúng là pháp Phật dần
dần bị suy tàn đó sao?
1 Trích từ các sách “Kim thang biên” và “Thống kỷ”. (Chú giải của
soạn giả)
2 Tức năm 656.
3 Trích từ sách “Đường thư”.
4 Xem trong sách “Chí Công thiền sư hậu hành trạng” (誌公禪師後
行狀). Sách này do thân phụ của Trương Nam Hiên là Trung Hiếu
Công biên soạn.
Khổng Tử, Nhan Hồi xây dựng sự nghiệp giáo hóa
chỉ quý trọng việc tự thân thực hành, không xem trọng
việc nói nhiều; nhấn mạnh ở việc tự sửa đổi hoàn thiện
bản thân, xem nhẹ việc chỉ trích người khác. Mạnh Tử
phản bác Dương Chu, Mặc Địch, đó là chuyện vạn bất
đắc dĩ, cũng ví như các vị thuốc đại hoàng, ba đậu, 1
thầy thuốc giỏi chỉ thỉnh thoảng mới dùng đến một lần,
không thể mỗi ngày đều dùng. Ngày nay, những kẻ thư
sinh còn chưa đỗ đạt, góp nhặt được năm ba câu nghị
luận phỉ báng Phật pháp đã tự xem mình như Trình,
Chu 2 tái thế. Lại có những đám trẻ con miệng còn hôi
sữa, chỉ quen thói khoa trương khoác lác lại tự ý chủ
trương lập ra học phái này nọ. Như thế chẳng phải đúng
là các nhà Nho chân chính ngày càng hiếm thấy đó sao?
Nay chỉ nêu lên mấy việc như thế, còn những điều
khác đều có thể so sánh suy luận để thấy rõ.
Người chết có sáu điều nghiệm biết được
Nếu muốn biết một người sau khi chết sinh về
đâu, chỉ cần quan sát vùng hơi ấm cuối cùng trên thân
thể lúc lâm chung.
1 Đại hoàng và ba đậu là những vị thuốc phải thận trọng khi dùng
vì có thể gây các tác dụng không tốt nếu dùng thường xuyên. Hai
vị này có thể kết hợp để trị chứng kiết lỵ đi tiêu ra máu.
2 Chỉ cho hai anh em Trình Di, Trình Hạo và Chu Hy.
An Sĩ toàn thư
186 187
Nếu phần dưới thân thể lạnh dần trước, hơi ấm
dồn lần lên đỉnh đầu, ắt đó là người đã chứng đắc quả
vị, quyết định thoát khỏi sinh tử.
Nếu hơi ấm dồn lại nơi khoảng giữa hai chân mày,
người ấy ắt sẽ tái sinh lên cõi trời.
Nếu hơi ấm dồn lại nơi khoảng vùng bên trên trái
tim, người ấy sẽ tái sinh cõi người.
Nếu phần trên thân thể lạnh dần trước, hơi ấm
dồn về nơi vùng bụng, người đó ắt sinh vào cảnh giới
ngạ quỷ.
Nếu hơi ấm dồn lại nơi hai đầu gối, ắt phải sinh
làm súc sinh.
Nếu hơi ấm dồn lại dưới hai lòng bàn chân, ắt phải
sinh vào địa ngục.
Luận về đời trước
Người sinh ra ở đời, hoặc từ các cõi trời sinh đến,
hoặc từ trong cõi người tái sinh, hoặc từ các loài vật
khác, hoặc từ các cảnh giới a-tu-la, ngạ quỷ, địa ngục
mà tái sinh. Chỉ cần quan sát tướng mạo, thân hình,
cung cách nói năng động tịnh thì có thể biết rõ được.
Chỉ sợ rườm rà nên không nêu rõ chi tiết ở đây.
Vu Công xử án, xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa
Giảng rộng
T
rong 6 câu từ đây trở đi, Đế Quân lựa chọn
ngẫu nhiên đưa ra 4 trường hợp chứng minh
về nhân quả để làm nền tảng cho 2 câu dưới là: “Muốn
tạo ruộng phước rộng sâu, ắt phải dựa vào một tấm
lòng này.”
“Giúp người, cứu kiến” là gieo trồng ruộng phước
theo cách thuận; “Xử án, chôn xác rắn” là gieo trồng
ruộng phước theo cách nghịch. Xử án vốn là việc mang
điều dữ đến cho người, nhưng ngược lại có thể giúp
“xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa”, là vì sao? Đó là vì Vu
Công giữ chức quan coi ngục xử án, nhưng tấm lòng
của ông lại không phải là tấm lòng hung hăng trong
việc coi ngục xử án. “Cổng lớn” của nhà ông vốn được
xây nên chính từ tấm lòng hiền thiện của ông.
Mạng người có quan hệ đến ý trời, việc đưa ra phán
quyết xử án là cực kỳ quan trọng, nếu xem lại dù chỉ
có chút sai sót nhỏ thì hối tiếc cũng không còn kịp nữa.
Trong chúng ta nếu có ai phải vâng lệnh làm công việc
An Sĩ toàn thư
188 189
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
xử án, ắt phải hết sức lưu tâm tỉnh táo trong từng giây
phút, xử sự phải cẩn trọng như đứng bên bờ vực, như
giẫm trên lớp băng mỏng, nguy hiểm chết người; phải
biết sợ sệt như có trời đất quỷ thần đang đưa mắt giận
dữ theo dõi mình; như cha mẹ, vợ con, thân quyến của
bị cáo đang kêu gào khóc lóc oán hận nhìn mình.
Không thể khinh suất theo ý riêng mà lạm dụng
các điều luật quá tàn khốc, nghiêm khắc; không thể dễ
dàng nghe theo lời nói sai lầm của thuộc cấp; không
thể lạm dụng nhục hình tàn khốc bức bách tội nhân
phải nhận tội; không thể hối hả phân xử qua loa rồi
kết án một cách vụng về tắc trách; không thể ỷ vào sự
sáng suốt thông minh của mình mà ức đoán sự việc;
không thể vì nhận lời ủy thác, nhờ cậy hay thỉnh cầu
của người khác mà bẻ cong lý lẽ, lạm dụng hình luật
nghiêm khắc; không thể vâng lệnh hoặc thuận theo ý
muốn của cấp trên; không thể chỉ hoàn toàn dựa theo
những lời bẩm báo từ cấp dưới.
Không thể vì sự ngay thẳng chính trực của nguyên
cáo mà khởi tâm thiên vị nổi giận với bị cáo; không thể
nhân lúc có men rượu mà lạm dụng quyền uy, hình
phạt. Nếu không chứng minh được bị cáo vô tội, theo
luật phải thọ án, không được tùy tiện tăng thêm hình
phạt roi vọt. Nếu không phải tội thực sự nghiêm trọng,
không được khinh suất tống giam tù ngục.
Đối với các trường hợp cố tình vu cáo người khác,
phải theo đúng luật nghiêm trị để răn dạy. Phân xử
dứt khoát rạch ròi những trường hợp thực sự liên lụy
đến vụ án để làm yên lòng những người lương thiện.
Bị cáo triệu tập đến lúc nào thì thẩm vấn, tra xét ngay
lúc ấy, không được để dây dưa kéo dài, hẹn sang ngày
khác, khiến người phải đi lại nhiều lần. Đối với những
vụ kiện có người đứng trung gian khiếu tố thì thẩm
tra tìm hiểu xong phải lập tức tiến hành tạm giữ, tra
xét, không tạo điều kiện dây dưa để đôi bên nguyên, bị
tiếp tục đấu đá nhau khiến cho người ngoài được thủ
lợi.
Tốt nhất là bất cứ lúc nào có thể được thì nên
khuyến khích sự thương lượng hòa giải giữa đôi bên,
lấy đó làm biện pháp để giải trừ tội lỗi. Trên công
đường làm vẻ mặt nghiêm khắc là vì muốn cho kẻ sai
lầm phải hồi tâm thú nhận tội lỗi, thật không phải giả
dối. Làm quan được xưng tụng thanh liêm là điều cao
quý, lại càng phải thêm đức khoan thứ nhân hậu. Có
thể giữ được sự điềm tĩnh tự chế là khí độ lớn lao, lại
càng phải thêm đức tinh chuyên cần mẫn.
Học theo đức độ khoan nhân khi sử dụng hình
phạt, nên giảm nhẹ sự đau đớn cho người. Thấy người
đang bị giam cầm lao ngục phải khởi lòng thương, nên
nghiêm cấm và trừng phạt những thuộc cấp đối xử
An Sĩ toàn thư
190 191
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tàn bạo hung ác với tội nhân. Phải quan tâm đến việc
ăn uống của tội nhân, luôn được đầy đủ và đúng giờ,
không trễ nãi. Đối với những tội nhân đã phán quyết
tử hình, phải dốc lòng hết ý tìm cầu chứng cứ có thể
giúp miễn tội chết; không được đối với những trường
hợp có thể giữ mạng sống lại cố phán tội chết.
Đối với tội nhân đã cao niên, nên khởi tâm xem
như chú, bác của mình; đối với tội nhân xấp xỉ tuổi
mình, nên khởi tâm xem như anh em một nhà; đối với
những tội nhân còn ít tuổi, nên khởi tâm xem như con
cháu của mình. Trên thì luôn suy ngẫm phải hành xử
thế nào để hài lòng ông bà tổ tiên đời trước; dưới thì
luôn nhớ nghĩ phải làm sao để tích lũy âm đức che chở
cho con cháu đời sau.
Tuy chỉ tạm mượn chức quan, nhưng tận tâm tận
lực hành xử được như thế ắt có thể cứu nhân độ thế,
đâu chỉ là “xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa” mà thôi? 1
1 Nguyên bản có đưa vào đây mục Thận hình đồ nói về những
trường hợp cần hạn chế các biện pháp tra tấn, nhục hình, nhưng
xét vì ngày nay trên thế giới cũng như Việt Nam đều theo khuynh
hướng hủy bỏ hoàn toàn mọi hình thức tra tấn (qua Công ước
chống tra tấn) nên nội dung này không còn phù hợp nữa, chúng
tôi đã lược đi.
Trưng dẫn sự tích
Xử án công bình khoan thứ 1
N
iên hiệu Trinh Quán thứ nhất đời nhà Đường, 2 ở
Thanh Châu có vụ mưu phản, người bị bắt giam
đầy trong ngục, vua ban chiếu sai Tiết Nhân Sư tra xét
vụ án này.
Nhân Sư vừa đến liền truyền tháo bỏ hết gông
cùm, cho phạm nhân ăn uống no đủ, tắm gội sạch sẽ,
sau đó chỉ trừng trị một số tên cầm đầu trong vụ ấy
mà thôi. Tôn Phục Già ngờ rằng số người được tha
bổng quá nhiều, Nhân Sư liền nói: “Trong việc xử án
cần phải lấy điều nhân nghĩa khoan thứ làm căn bản,
sao có thể chỉ vì muốn tránh tội cho bản thân mình mà
biết người khác bị oan không cứu? Nếu quả như làm
thế mà trái ý hoàng thượng, thì dù phải hy sinh mạng
sống này tôi cũng vui lòng.”
Sau vua cho người thẩm tra lại vụ án ấy lần nữa,
quả nhiên những người được Nhân Sư tha bổng đều
đã bị bắt oan.
Lời bàn
Quan Tư Khấu cai quản hình ngục là Cung Chi
Lộc dâng sớ tâu lên rằng: “Xưa nay việc xử án sai lầm
1 Trích từ sách Đường thư. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức là năm 627.
An Sĩ toàn thư
192 193
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
xử nhẹ hơn so với tội trạng, so ra không nghiêm trọng
bằng việc kết án oan sai người vô tội. Nay vâng mệnh
khảo xét quan lại phụ trách xử án, thấy trưng dẫn điều
luật không phù hợp, kết án qua loa khinh suất thì lập
tức luận tội. Xét thấy quan lại chỉ nghĩ đến đường công
danh của bản thân họ mà không hề nghĩ đến tính mạng
người khác, đối với những vụ án cần phải xem xét nghị
án lần nữa, thì lại chọn cách an ổn cho mình nên đẩy
phạm nhân vào chỗ chết. Như khi thừa mệnh tra xét
quan lại mà thấy quả thật đã để tình riêng làm sai lệch
phép nước thì nên trị tội. Còn những trường hợp phán
quan xử nhẹ hơn hoặc quyết định tha bổng chưa thỏa
đáng thì nên tha thứ, miễn xử phạt. Như vậy có thể
khiến cho quan lại bớt đi mối lo lắng khi xử án, mà việc
xử án cũng thêm phần nghiêm minh và hợp với đạo lý.”
Tiên sinh Cung Chi Lộc quả thật nhân hậu biết
bao! Ngày sau ắt sẽ được hưng long thịnh vượng.
Biện giải cho tù bị oan 1
L
ưu Túc làm quan vào triều Kim, 2 có người ăn
trộm lụa là, châu báu trong công khố. Kẻ trộm
còn chưa bị bắt, nhưng lại bắt được người môi giới bán
1 Trích từ sách Kim sử - 金史. (Chú giải của soạn giả)
2 Triều Kim do tộc người Nữ Chân sáng lập, cầm quyền vào khoảng
những năm 1115 đến 1234, tồn tại song song với triều Nam Tống
ở Trung Hoa.
châu báu cùng thuộc hạ giữ kho liên đới cả thảy 11
người. Hình bộ thụ lý, quyết định xử tử hình tất cả.
Lưu Túc nói: “Trong vụ này vẫn chưa bắt được tội phạm
chính, giết những người này như vậy là oan uổng.”
Vua Kim nổi giận không muốn nghe. Lưu Túc nỗ
lực hết sức để biện giải sự việc, nhờ đó mà không một
người nào phải chết. Về sau Lưu Túc được phong Hình
Quốc Công.
Lời bàn
Việc hóa giải oan tình cho kẻ bị hàm oan, có ai lại
không muốn? Chỉ là vì không khỏi lo sợ chọc giận cấp
trên, lại sợ trái ý gây hiềm khích với quan viên cộng
sự, vì thế mà trong lòng muốn nói nhưng không dám
nói ra. Huống chi là việc can gián trái ngược ý vua,
khác nào như vuốt râu hùm, dám động đến oai trời?
Tấm lòng cương trực của Lưu Túc khi dám làm việc ấy,
quả không mấy ai sánh nổi.
Ba con đều vinh hiển 1
T
hạnh Cát làm quan Đình Úy vào triều Minh,
việc xử án chưa từng để vụ nào phải kéo dài
hay oan uổng. Mỗi độ đông về là lúc định lại danh sách
tù nhân, người vợ cầm đuốc đứng bên soi cho, Thạnh
1 Trích từ sách Khuyến trừng lục -勸懲錄. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
194 195
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Cát tay cầm sổ ghi tên tù nhân mà rơi nước mắt. Người
vợ bảo ông rằng: “Ông vì thiên hạ giữ việc thi hành
pháp luật, không được kết tội oan uổng cho người, mới
tránh cho con cháu mai sau không phải gặp tai ương.”
Làm quan Đình Úy được 12 năm, dân chúng đều
xưng tụng là công bình, khoan thứ. Một hôm bỗng có
con chim khách trắng đến làm tổ nuôi con trên cây đại
thụ ngay trước sân nhà Thạnh Cát, mọi người đều cho
đó là điềm lành. Sau Thạnh Cát sinh được 3 người con
trai, thảy đều vinh hiển.
Lời bàn
Đường Thái Tông từng nói với các quan hầu cận
rằng: “Thời xưa khi phải tử hình tội nhân thì bậc quân
vương ngưng việc tấu nhạc trong cung, giảm bớt món
ăn thường nhật. Ta vốn đã không thường tổ chức vũ
nhạc trong cung, nhưng mỗi lần như vậy đều bỏ không
ăn thịt uống rượu.” Những kẻ đang làm quan, sao có
thể không biết đến việc ấy?
Không bắt bớ phụ nữ 1
Vương Khắc Kính làm quan Diêm Vận Sứ 2 vùng
Lưỡng Triết. 3 Vùng Ôn Châu cho áp giải tội phạm
1 Trích từ sách Bất khả bất khả lục -不可不可錄. (Chú giải của
soạn giả)
2 Quan chủ quản việc liên quan đến sản xuất và vận chuyển muối.
3 Lưỡng Triết: chỉ chung 2 tỉnh Triết Đông và Triết Tây.
đến, trong số đó có một phụ nữ cũng bị áp giải chung.
Vương Khắc Kính nổi giận quát: “Sao có thể áp giải
phụ nữ cùng đi trên đường xa ngàn dặm, phải chung
đụng với quân binh sai dịch hỗn tạp như thế này? Từ
nay về sau không được bắt bớ phụ nữ nữa.” Sau đó liền
cho bổ sung thành điều lệnh như thế.
Lời bàn
Một cơn giận của Vương Khắc Kính thật đầy lòng
nhân hậu, bảo toàn được cho rất nhiều phụ nữ không
phải chịu cảnh ô nhục. Từ đó mà suy ra, không chỉ
riêng phụ nữ, mà cả những đối tượng như người già
yếu, suy nhược, bệnh tật, tàn phế, cho đến tăng ni, đạo
sĩ, những người có danh phận thể diện, hết thảy đều
không nên đối đãi khinh suất.
Hành pháp nghiêm khắc không con nối dõi 1
V
ào cuối đời nhà Minh, châu Cao Bưu có người
họ Từ, làm quan đến chức Quận thủ, 2 thanh
liêm chính trực, nghiêm giữ theo pháp luật. Thuộc cấp
dưới quyền mỗi khi sai hạn một ngày đều phải bị phạt
chịu đánh 5 trượng. Có một người trễ hạn 6 ngày, theo
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格 (Chú giải của soạn giả)
2 Quận thủ: chức quan đứng đầu một quận, là đơn vị hành chánh
cấp trên của huyện.
An Sĩ toàn thư
196 197
luật phải chịu 30 trượng, van xin không được, cuối
cùng bỏ mạng trong khi bị đánh. Người ấy có đứa con
còn nhỏ tuổi, nghe tin kinh hãi, xúc động quá mà chết.
Người vợ đau buồn thảm thiết, treo cổ tự vẫn.
Đến khi họ Từ mãn quan về quê, chỉ có một đứa
con, hết sức thương yêu. Bỗng nhiên đứa con ngã bệnh,
nói với cha: “Có người đuổi bắt con.” Trong chốc lát lại
đổi giọng chửi mắng: “Tao có tội gì lớn chứ? Sao giết cả
nhà tao ba mạng?” Vừa nói xong thì chết. Họ Từ sau
đó không con nối dõi.
Lời bàn
Các quan thanh liêm phần lớn không để lại phước
đức cho con cháu, đại thể thường là do giữ theo hình
pháp quá nghiêm khắc. Họ Từ khi còn đang làm quan,
lẽ nào chẳng tự cho mình là thưởng phạt hết sức
nghiêm minh? Thế mà kết quả thuộc cấp dưới quyền
cả nhà 3 người phải chết thảm, rồi chính đứa con mình
cũng chết theo. Đáng thương thay!
Họ Đậu giúp đỡ muôn người,
một cội sinh năm cành quế
Giảng rộng
G
iúp người cũng có rất nhiều phương thức.
Người đói thiếu thì giúp cho thức ăn, kẻ rét
mướt thì giúp quần áo mặc, người có bệnh thì cấp phát
thuốc men, người túng quẫn thì giúp cho tiền bạc, gặp
khi tối tăm thì giúp đèn lửa, gặp người đấu đá sát
phạt nhau thì khuyến khích hòa giải, gặp kẻ ngu khờ
thì dẫn dắt theo đường trí tuệ... những việc như vậy
đều gọi là giúp người. Mỗi giây mỗi phút đều khởi tâm
nhân từ khoan hậu hướng đến muôn người muôn vật,
như thế thì không chỉ riêng người giàu sang phú quý
mới có khả năng cứu giúp, mà dù nghèo khó cũng vẫn
có thể khởi tâm giúp người.
An Sĩ toàn thư
198 199
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Bán ruộng giúp người 1
V
ào triều Minh, đất Dự Chương 2 có một thư sinh
tên là Nhiêu Thường. Một hôm giữa đường
gặp một người cùng quẫn phải bán vợ cho người khác
mang đi phương xa, đang lúc vợ chồng từ biệt nhau
khóc lóc thảm thiết. Nhiêu Thường động lòng thương,
gạn hỏi số tiền người kia đang cần là bao nhiêu, rồi lập
tức về nhà bán ruộng mang tiền đến giúp. Nhờ đó mà
vợ chồng người kia lại được đoàn tụ.
Đến khoa thi năm đó, vị quan chủ khảo bỗng nhiên
nằm mộng thấy một vị thần mặc áo giáp vàng hiện ra
bảo rằng: “Vì sao ông lại không chấm đậu cho kẻ bán
ruộng giúp người kia?” Quan chủ khảo giật mình tỉnh
giấc, lập tức kiểm lại thì quả nhiên phát hiện mình đã
bỏ sót một quyển bài thi, bèn mang ra chấm. Bài thi
ấy trúng tuyển, được xếp thứ ba, chính là bài thi của
Nhiêu Thường. Đến khi dự yến tiệc mừng các vị tân
khoa, quan chủ khảo được biết việc Nhiêu Thường bán
ruộng giúp người, qua đó mới hiểu được lời của thần
nhân trong mộng.
1 Trích từ sách Ý hành lục - 懿行錄. (Chú giải của soạn giả)
2 Nay là Nam Xương thuộc Giang Tây.
Về sau, Nhiêu Thường có 3 người con trai là Cảnh
Huy, Cảnh Diệu, Cảnh Vỹ, đều nối tiếp nhau đỗ đạt.
Lời bàn
Tiền tài ruộng đất, người đời đều quý tiếc như
mạng sống của mình, nhưng trong kinh Phật luôn ví
những thứ ấy như bóng trăng trong nước, như dáng
hoa trong gương, như châu báu trong giấc mộng. Vì
sao vậy? Bởi vì trước mắt chỉ tạm thời ôm giữ sử dụng,
một mai khi từ bỏ cõi đời sẽ không thể mang theo được
gì. Ngày nay, mỗi khi viết giấy bán ruộng đất hẳn đều
phải ghi rằng: “Thuận theo giấy làm bằng, vĩnh viễn
làm chủ tài sản này.” Than ôi, tài sản hóa ra là chủ,
mà thân này chỉ là khách tạm. Chủ nhân còn không
thể vĩnh viễn lưu giữ được khách, huống chi là khách
làm sao có khả năng giữ mãi được chủ? Nhưng nếu
như quả thật muốn mang theo sau khi chết thì vẫn
có cách để mang theo. Ấy là hãy dùng tài sản mà làm
việc thiện, bố thí cho người, tạo được phước đức thọ
sinh trong cõi trời người, ắt sẽ luôn giữ được sự an ổn,
giàu có, tôn trọng, hiển vinh. Hiểu rõ được điều ấy ắt
thấy rằng việc Nhiêu Thường bán ruộng giúp người,
hóa ra chính là cách để giữ gìn sản nghiệp.
Người nào biết giữ gìn sản nghiệp theo cách đó
mới có thể nói là “vĩnh viễn làm chủ tài sản này”. Hơn
nữa, ai ai cũng có thể làm được như vậy cả.
An Sĩ toàn thư
200 201
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Thoát chết lại đỗ Giải nguyên 1
T
ỉnh Hà Nam có vị Giải Nguyên họ Phan. Lúc
trước, khi lên tỉnh dự kỳ thi Hương, Phan
sinh cùng đi với hai người bạn. Đến chỗ trọ lại, có một
thầy tướng rất giỏi nói riêng với hai người bạn rằng:
“Tôi xem tướng Phan sinh sắp gặp đại nạn, tốt nhất
hai người nên khuyên anh ấy lánh đi nơi khác.”
Hai người bạn nghe vậy liền lấy cớ chỗ trọ chật
chội quá, mỗi người tặng cho Phan sinh 2 đỉnh bạc rồi
bảo anh đi tìm chỗ trọ khác.
Phan sinh nghe lời, đi tìm được một chỗ trọ khác.
Đến đêm lại đi dạo ven bờ sông thì bỗng nhìn thấy
một người phụ nữ sắp nhảy xuống sông tự vẫn. Phan
sinh liền ngăn lại, gạn hỏi nguyên nhân, người phụ
nữ ấy kể rằng: “Chồng tôi buôn bán vải lụa, thu gom
được một số khá nhiều. Gặp lúc anh ấy vừa đi vắng,
có người vào mua tôi bán hết được 4 đỉnh bạc, chẳng
ngờ sơ ý không xem kỹ, đều là bạc giả. Chồng tôi trở
về nhất định thế nào cũng trách mắng, nên tôi chỉ còn
cách tìm đến cái chết mà thôi.”
Phan sinh liền lấy trong tay áo ra 4 đỉnh bạc đưa
cho cô ấy để bù vào chỗ bạc bị lừa mất. Sau đó trở về
1 Trích từ Cảm ứng thiên tiên chú -感應篇箋註. (Chú giải của soạn
giả)
nhà trọ, thiếu tiền chi trả liền bị chủ quán trọ nhiếc
mắng nhiều lời khó nghe, đành phải dọn đi, tìm đến
xin trú ngụ trong một ngôi chùa.
Đêm ấy, có vị tăng trong chùa mộng thấy nhiều vị
thần từ trời hiện xuống. Một vị nói: “Bảng vàng khoa
này đã định, nhưng người được chọn đậu Giải nguyên
gần đây lại làm việc tổn đức nên bị Ngọc Đế xóa tên
rồi, hiện vẫn chưa có người thay thế.”
Một vị thần khác nói: “Phan sinh đang ngụ trong
chùa này có thể thay thế được.” Lại nghe tiếng một vị
nói: “Tướng của Phan sinh là sắp chết bất đắc kỳ tử,
làm sao có thể chọn thay Giải nguyên?” Một thần khác
đưa hai tay xoa mặt Phan sinh rồi nói: “Bây giờ chẳng
phải đã là tướng Giải nguyên rồi sao?”
Vị tăng ghi nhớ những lời đã nghe, sau đó khoản
đãi Phan sinh hết sức trọng hậu.
Sau khi dự thi xong, Phan sinh tìm đến chỗ hai
người bạn để cảm ơn. Người thầy tướng hôm trước vừa
nhìn thấy Phan sinh đã kinh hãi kêu lên: “Ông làm
được công đức gì mà tướng mạo đổi khác thế này? Giải
nguyên khoa thi Hương này, ngoài ông ra không thể
là ai khác.”
Khi công bố kết quả kỳ thi, quả nhiên đúng vậy.
An Sĩ toàn thư
202 203
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Làm một việc thiện, nên tưởng như nước vỡ bờ
đê, cuồn cuộn chảy không thể ngăn lại, gấp rút quyết
định, như thế mới thành tựu. Phan sinh nếu có mảy
may suy đi tính lại chuyện bản thân mình, hiện đang
ứng thí mà tiền bạc không đủ, chắc gì đã không bỏ dở
việc thiện muốn làm, nửa chừng ngưng lại? Trong lúc
ấy Phan sinh thật chỉ biết có người đang cần được cứu,
mà không suy tính đến việc riêng của mình, nên việc
cứu người mới thành tựu. Nhưng rồi hóa ra chỉ với 4
đỉnh bạc mà thoát được một cái chết bất đắc kỳ tử, sau
lại đỗ Giải nguyên.
Nhân đây nhớ lại hồi mùa đông năm Kỷ Tỵ thuộc
niên hiệu Khang Hy, 1 tôi đến Trừng Giang 2 dự khoa
tiểu thí. 3 Khi ấy, có một người giúp việc ở chỗ các quan
khảo thí tên là Chu Quân Ngọc làm mất số tiền lớn
của người khác gửi, thật khó có khả năng bồi hoàn
nên đau khổ cơ hồ không còn muốn sống nữa. Tôi nghe
chuyện như vậy hết sức thương xót, trong lòng muốn
trợ giúp cho ông ta đôi chút, nhưng khổ nỗi thấy tiền
mang theo chi dụng còn ít quá, nên rốt lại không giúp.
Không bao lâu sau, tôi quay về huyện Côn Sơn. Lúc
1 Tức là năm 1689.
2 Nay là Giang Âm thuộc tỉnh Giang Tô.
3 Khoa thi ở cấp huyện, trước khi lên thi Hương ở cấp tỉnh.
quan khảo thí phân phát quyển bài thi phúc thí 1 của
Trường Châu, 2 tôi vốn đã được chấm đỗ hạng nhì, nhưng
chỉ được biết thứ hạng, chưa chính thức công bố tên tuổi
nên mọi người chưa ai được biết. Rốt lại đến kỳ phúc thí
tôi cũng chưa được chính thức nhìn thấy tên mình. Thời
bấy giờ ở huyện Côn Sơn không có ai giữ quyển thi của
Trường Châu ngoài Chu Quân Ngọc. Họ Chu với tôi lại
không quen biết nhau, cũng không biết người đỗ thứ hai
chính là tôi. Giá như ngày trước tôi không quá quan tâm
đến chuyện sở phí của riêng mình mà quyết lòng dành
được chút tiền ít ỏi để giúp đỡ họ Chu, ắt hẳn ông ấy sẽ
vì cảm ân nghĩa đó mà lấy quyển thi phúc thí đưa cho tôi
xem. Tôi mãi vẫn không được thấy tên mình cho đến 2
năm sau đó. Đem trường hợp của mình mà so với chuyện
của họ Phan, tôi thật lấy làm xấu hổ!
Giúp người sau được đỗ đạt 3

Hoa Đình 4 có người nho sĩ là Lý Đăng Doanh,
nhà nghèo chỉ có 2 mẫu ruộng. Người thuê
ruộng ấy bị bệnh nên ruộng bỏ hoang, buộc phải bán
1 Kỳ thi xưa phân làm 2 lần, lần đầu gọi là sơ thí, lần sau gọi là
phúc thí.
2 Nay là Tô Châu.
3 Trích từ sách Vị toản Công quá cách - 彙纂功過格. (Chú giải của
soạn giả)
4 Nay nằm về phía tây huyện Tùng Giang, thuộc Thượng Hải.
An Sĩ toàn thư
204 205
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đứa con để có thể nộp tiền thuê ruộng cho Đăng Doanh.
Đăng Doanh nghe biết chuyện động lòng thương, nói
với người ấy: “Ông vì bị bệnh nên mới không cày ruộng
được, chẳng có lỗi gì. Tôi đây tuy nghèo nhưng vẫn còn
có thể tự sinh sống, sao có thể để cho cha con ông phải
chia lìa? Ông mau mau mang tiền đến chuộc con về.”
Nhưng người chủ đã mua đứa con lại không đồng ý
cho chuộc lại. Đăng Doanh liền nói: “Tôi chỉ là nhà nho
nghèo túng mà còn có thể không lấy tiền thuê ruộng;
nhà ấy giàu có ắt phải biết chuyện tu nhân tích đức,
tôi sẽ vì ông mà đến đó thuyết phục.” Nói rồi cùng đi
với người thuê ruộng đến nhà chủ đã mua đứa con,
liền giúp chuộc được về, cha con đoàn tụ.
Người thuê ruộng cảm ơn đức ấy, ngày đêm thành
tâm cầu trời khẩn Phật gia hộ cho Lý Đăng Doanh.
Trong khoảng niên hiệu Khang Hy, vào năm Giáp Tý
(1684), Lý Đăng Doanh trúng tuyển khoa thi Hương,
sang năm Ất Sửu (1685) lại đỗ tiếp luôn kỳ thi Hội.
Lời bàn
Ôi, thật thương thay cho nhà nông, quanh năm
quần quật chẳng lúc nào nhàn hạ; cả nhà cùng khó
nhọc, không ai được an ổn; hai vai gánh nặng bao gánh
phân từ nhà ra ruộng, lại cũng hai vai gánh nặng bao
gánh thóc từ ruộng về nhà; năm nắng hạn tát từng
gàu nước cứu lúa, ngày đau ốm vẫn phải gắng gượng
cày bừa; khom lưng dầu dãi nắng mưa, thắt ruột lắm
phen đói thiếu; một khi lúa chín gặt về, nào thuế nào
tô đong sạch; nhà bốn vách tiêu sơ, cảnh nghèo không
đổi, tám miệng ăn rồi biết dựa vào đâu? Nếu là người
có lòng nhân hậu nhìn thấy cảnh này, làm sao có thể
chẳng động lòng thương?
Xưa có Chư Cảnh Dương, mỗi lần nghe nhà tá điền
có tang sự đều rơi nước mắt, lập tức xuất tiền giúp đỡ.
Đinh Thanh Huệ Công đối đãi với tá điền làm ruộng
của mình như tình cha con. Tiên sinh Lục Bình Tuyền
mỗi năm đến ngày sinh nhật đều cho tá điền được
giảm rất nhiều số thóc phải nộp, hoặc mỗi khi được
thăng quan tiến chức, hoặc sinh con đẻ cháu, cũng đều
có lệnh miễn tô cho tá điền. Những tá điền thuê ruộng
cảm ơn đức ấy của tiên sinh nên không khi nào để bê
trễ, thiếu hụt các khoản phải nộp. Những điền chủ
nhỏ nhen so tính từng ly từng tý với tá điền, trước mắt
cứ ngỡ mình thu lợi được nhiều, đâu biết rằng trong
chỗ mờ mịt kia còn có sự tính toán cực kỳ tinh vi chính
xác của nhân quả, lẽ nào lại không vì thế mà dứt sạch
đi bao phước lộc của họ? Xem lại như trường hợp của
Lý Đăng Doanh, tuy trước mắt không thu số tiền tô
của 2 mẫu ruộng mà về sau lại thu hoạch được quá
nhiều hơn số ấy.
An Sĩ toàn thư
206 207
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Ngược ý trời, hại dân lành 1
Đ
ời nhà Tống, trong khoảng những năm đầu
niên hiệu Thuần Hy, 2 quan Tư Nông Thiếu
Khanh là Vương Hiểu, sáng sớm đến hỏi việc nơi chức
quan cấp sự là Lâm Cơ. Vợ Lâm Cơ vốn là cháu gái
của Vương Hiểu, rơi nước mắt nói với Vương Hiểu: “Họ
Lâm sắp diệt mất rồi.” Vương Hiểu nghe nói kinh hãi,
gạn hỏi nguyên do, vợ Lâm Cơ nói: “Lúc trời vừa gần
sáng, cháu nằm mộng thấy một thần nhân mặc áo đỏ,
cầm cờ hiệu của Ngọc Đế, hiện xuống bảo rằng: ‘Lâm
Cơ làm ngược ý trời, hại dân lành, nay Ngọc Đế có sắc
chỉ tiêu diệt cả nhà. ’ Cháu tỉnh dậy rồi đến giờ vẫn
còn như phảng phất nhìn thấy mọi việc.”
Vương Hiểu nói: “Chuyện mộng mị đã chắc gì là
tai họa mà cháu phải sợ.” Nhân đó liền ở lại dùng cơm,
đợi họ Lâm về rồi gạn hỏi về nội dung tấu thư đã trình
lên triều đình trong những ngày gần đây. Lâm Cơ nói:
“Đất Thục (Tứ Xuyên) gần đây bị hạn hán, quan địa
phương có biểu tấu trình lên xin 100.000 thạch 3 lúa để
cứu tế. Triều đình đã có chiếu chỉ chấp thuận y theo
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格 (Chú giải của soạn giả)
2 Niên hiệu Thuần Hy đời Tống Hiếu Tông, bắt đầu từ năm 1174
và kéo dài đến năm 1189.
3 Thạch: đơn vị đo lường, tính trọng lượng thì bằng 120 cân, tính
dung tích thì bằng 100 thăng, tương đương khoảng 100 lít.
số đó, nhưng cháu xét thấy số lượng lương thực quá
lớn, đường đi đến đất Thục rất khó khăn, nên đề nghị
hãy tạm ngưng thi hành chờ khảo sát đúng thực tế rồi
sau đó hãy cho vận chuyển lương thực. Hoàng thượng
nghe lời đã truyền lệnh cho Tể tướng rằng: ‘Đường
sang đất Thục xa xôi, đi về hơn vạn dặm, nếu đợi cho
người tra xét sự thật rồi báo về thì e là không kịp việc
cứu tế, thôi hãy tạm cấp một nửa số ấy thôi.’ Gần đây
chỉ có duy nhất một việc ấy.”
Vợ Lâm Cơ nghe xong thì khóc lớn, đem việc nằm
mộng kể lại. Lâm Cơ nghe qua rồi trong lòng lo sợ bồn
chồn không yên, chẳng bao lâu vì thế mà sinh bệnh,
từ quan về quê. Trên đường về đến Phúc Châu thì qua
đời. Hai đứa con sau đó cũng theo nhau chết sớm, nhà
họ Lâm không còn ai nối dõi.
Lời bàn
Lòng trời vì dân lành mới lập nên vua chúa. Vua
chúa lại vì dân mà lập ra quan viên các địa phương.
Dân là con đỏ của quốc gia, là nền tảng căn bản của
sơn hà xã tắc. Giá như vua nói không cứu tế cho dân,
quan cấp sự cũng phải thuyết phục vua phải cứu tế.
Giá như vua nói chỉ nên cứu tế ít thôi, quan cấp sự
cũng phải thuyết phục vua cứu tế nhiều hơn. Giá
như vua nói sưu thuế không thể thiếu hụt, quan cấp
sự cũng phải thuyết phục vua giảm nhẹ. Làm quan
An Sĩ toàn thư
208 209
giúp mưu lược cho vua được như vậy có thể nói là tận
trung, đem phước lành đến cho khắp cả thiên hạ, lưu
tiếng thơm đến muôn đời sau. Người như vậy tuy đã
được sống lâu trường thọ, hưởng phước an vui, cháu
con nhiều đời vinh hiển, nhưng vẫn chưa đủ xứng với
phần công đức đã tạo.
Ngược lại, ví như vua nói việc thúc giục sưu thuế
nên hòa hoãn giảm nhẹ, quan giúp việc lại khuyên
nên đổi ý vì nhu cầu của quốc gia không thể thiếu;
vua nói rằng dân quá khốn khổ nên linh hoạt giảm
bớt số lượng sưu thuế, quan giúp việc lại nói rằng hạn
mức đã định rất khó thay đổi; làm quan mà hành xử
như thế gọi là siểm nịnh, là muốn bảo vệ chức quan,
chỉ lo cho gia đình, vợ con của riêng mình. Người làm
quan như vậy là kết thành oán thù với dân, chính là
mang tai họa đến cho đất nước; cho dù tự thân có chịu
cảnh lưu đày, dòng họ bị tuyệt diệt, cũng chưa đủ đền
bù cho tội lỗi đã gây ra. Vết xe đi trước bị đổ còn rành
rành ra đó, người đi sau phải thận trọng né tránh chớ
đi vào.
Tống Giao cứu đàn kiến,
trúng tuyển trạng nguyên
Giảng rộng
C
huyện của Tống Giao, nhiều người cho rằng
chẳng qua chỉ một việc thiện nhỏ mà được
báo ứng quá lớn lao nên sinh ra nghi ngờ. Thế nhưng,
nghĩ như thế là thật chẳng biết rằng, đó mới chỉ là nêu
việc trước mắt, thấy cứu đàn kiến thì nói cứu đàn kiến,
thấy đỗ trạng nguyên thì nói đỗ trạng nguyên. Nếu
luận việc này cho rốt ráo thì việc làm của Tống Giao
đã cứu sống ít nhất là hàng vạn sinh linh, nên đời sau
ắt phải có hàng vạn sinh linh cảm ơn cứu mạng mà ra
sức báo đáp. Như thế thì chỉ riêng một việc đỗ trạng
nguyên làm sao xứng tận được phước báo của việc làm
ấy? Huống chi việc đỗ trạng nguyên bất quá cũng chỉ
là một chút hư danh bên ngoài; ba tấc hơi vừa dứt,
mạng sống không còn, liệu có còn trạng nguyên nữa
chăng? Cho nên, nếu ai nói việc báo ứng như vậy là
quá lớn lao, quả thật đã sai lầm.
Đặt cành trúc làm cầu cứu đàn kiến, ấy chính là
cứu nạn lũ lụt. Nhưng mạng sống của loài kiến không
An Sĩ toàn thư
210 211
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
chỉ riêng chết vì lũ lụt, nên việc cứu kiến cũng không
chỉ giới hạn nơi việc đặt cành trúc làm cầu. Ví như
có người giúp việc trong nhà mình muốn dùng nước
sôi, lửa nóng để diệt tổ kiến, thì phương cách để cứu
sống đàn kiến lúc ấy là phải dùng đạo lý giảng giải cho
người nghe, lại cũng dùng thế lực của mình để ngăn
cấm không cho làm.
Chó, mèo trong nhà cũng có thể giết hại loài kiến,
khi có thức ăn như thịt, cá... rơi vãi trên mặt đất làm
cho kiến đánh hơi tụ tập bám vào rồi bị chó mèo ăn lẫn
với thức ăn đó. Vì thế, để cứu loài kiến không bị giết
hại thì sau mỗi bữa ăn nên quét dọn sạch sẽ thức ăn
rơi vãi trên mặt đất, chôn lấp đi để không trở thành
mồi nhử kiến.
Đốt vàng mã, giấy... các thứ cũng có thể làm chết
loài kiến, phần lớn là vì đốt vào sáng sớm không nhìn
thấy rõ. Để cứu loài kiến không bị chết vì cách này, nên
quét sạch mặt đất trước khi đốt, rải nhiều tro nguội
lên trước làm nền rồi mới đốt bên trên nền tro ấy.
Khi uống trà có thể làm chết loài kiến, phần lớn là
do đổ nước thừa lên mặt đất. Để cứu loài kiến không
bị chết vì cách này, nên dùng bồn, chậu để chứa nước
thừa mà không đổ lên mặt đất.
Gần bếp nấu ăn cũng thường có nhiều tổ kiến, vì
chúng ngửi thấy mùi thức ăn mà tụ tập đến rồi làm
hang ổ. Để cứu loài kiến không bị chết vì cách này, khi
làm bếp nấu ăn nên dùng đá vôi lót kín mặt đất chung
quanh...
Chỉ đơn cử một vài trường hợp, có thể từ đó suy
rộng ra việc bảo vệ sinh mạng cho hết thảy các loài côn
trùng, sâu kiến... cũng đều phải có lòng từ bi thương
xót như thế.
Trưng dẫn sự tích
Cứu kiến được tăng tuổi thọ 1
V
ào thời đức Phật còn tại thế, có một vị tỳ-kheo
đã chứng đắc lục thần thông, 2 quán sát thấy
trong số đệ tử mình có một chú sa-di chỉ trong 7 ngày
1 Trích từ Phước báo kinh - 福報經. (Chú giải của soạn giả)
2 Lục thần thông: sáu khả năng phi thường của người tu tập đã
chứng đắc, bao gồm: 1. Thần Túc Thông - 神足通, là tên gọi
chung của các năng lực siêu nhiên như bay trên trời, hóa thân,
v.v. . . 2. Thiên Nhãn Thông - 天眼通, năng lực biết được trạng
thái chuyển sanh của chúng sanh. 3. Thiên Nhĩ Thông - 天耳通,
năng lực nghe được tất cả các âm thanh. 4. Tha Tâm Thông - 他
心通, năng lực biết được suy nghĩ của người khác. 5. Túc Mạng
Thông - 宿命通, năng lực nhớ rõ trạng thái sinh tồn trong đời quá
khứ. 6. Lậu Tận Thông - 漏盡通, năng lực biết được phiền não của
bản thân đã dứt sạch.
An Sĩ toàn thư
212 213
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
nữa ắt phải chết. Vì lòng từ bi, ngài liền bảo chú sa-
di ấy về quê thăm cha mẹ, đến ngày thứ 8 hãy trở lại
chùa. Đó là thầy muốn cho chú sa-di ấy được gặp cha
mẹ trước khi chết cũng như được chết tại quê nhà.
Không ngờ đúng ngày thứ 8 chú sa-di vẫn còn sống
trở lại chùa.
Vị tỳ-kheo liền nhập định quán sát nguyên do,
mới biết chú sa-di lúc đang trên đường về quê bỗng
gặp một tổ kiến sắp bị nước dâng tràn vào, lập tức cởi
áo cà-sa đắp chặn xung quanh để cứu, nhờ đó mà cả
đàn kiến được thoát chết. Nhờ việc này mà chú sa-di
chẳng những không chết yểu, về sau lại sống thọ đến
80 tuổi, chứng quả A-la-hán.
Lời bàn
Chuyện sống lâu hay yểu mạng của con người, có
thể là yếu tố quyết định trước mà cũng có thể không
định trước. Ví như Nhan Uyên, Bá Ngưu đều chết sớm,
đó là những trường hợp mà thọ mạng đã quyết định
do nghiệp quả. Văn Vương thọ trăm tuổi, Võ Vương
sống đến chín mươi, những trường hợp ấy là nghiệp
quả chưa định trước. Chư thiên cõi trời hiện năm dấu
hiệu suy vi hoặc lớn hoặc nhỏ, cũng giống như vậy. Lại
nói như trường hợp trong bốn cõi thiên hạ, phần lớn
chúng sinh trong ba châu đều không có nghiệp quả
quyết định, chỉ riêng ở châu Bắc Câu-lô là tất cả đều
phải chịu nghiệp quả quyết định trước. Việc chú sa-di
được tăng thêm tuổi thọ, tất nhiên là thuộc trường hợp
nghiệp quả không quyết định trước.
Vua kiến trả ơn 1
H
uyện Phú Dương thuộc đất Ngô có người tên
Đổng Chiêu, một hôm đi thuyền qua sông
Tiền Đường bỗng nhìn thấy dưới sông có con kiến bò
trên một thân cây lau trôi giữa dòng nước, muốn vớt
thân cây lau lên thuyền để cứu con kiến nhưng không
làm được, liền dùng một sợi dây buộc vào cây để kéo đi
theo thuyền, cuối cùng đưa được con kiến vào bờ.
Đêm đó, Đổng Chiêu nằm mộng thấy một người
mặc áo đen đến gặp mình để tạ ơn, nói rằng: “Ta là
vua kiến, do bất cẩn mà rơi xuống sông, hôm nay nhờ
được ông cứu giúp. Sau này ông có lúc nguy cấp, xin
hãy đến báo cho ta biết.”
Trải qua hơn mười năm sau, Đổng Chiêu bị người
khác vu cáo là ăn trộm, bị bắt giam vào ngục. Chiêu
nhớ lại lời vua kiến đã nói trước đây trong giấc mộng,
trong lòng muốn báo tin nhưng chẳng biết cách nào.
Có người biết chuyện liền bảo: “Sao ông không bắt lấy
vài ba con kiến, đặt trong lòng bàn tay rồi nói chuyện
1 Trích từ sách Cổ sử đàm uyển - 古史談苑. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
214 215
này với chúng thử xem.” Đổng Chiêu làm theo lời, quả
nhiên đêm ấy mộng thấy người mặc áo đen đến bảo:
“Ông hãy gấp rút trốn đi, tìm đến núi Hàng Sơn của
ta, có thể thoát được nạn này.”
Đổng Chiêu thức giấc, lập tức bỏ trốn. Quả nhiên
trốn thoát được, rồi chẳng bao lâu sau có lệnh triều
đình đại xá, nhờ đó được miễn tội.
Lời bàn
Một con rùa khi còn sống vốn chẳng tự biết được
chuyện sống chết của chính mình. Thế mà sau khi chết
thịt da hư hoại, chỉ để lại riêng cái mai rùa lại có khả
năng dự đoán được những chuyện tốt xấu, lành dữ cho
người đời. Bàn về lý lẽ của những chuyện như thế, dẫu
đến thánh nhân cũng có chỗ vẫn còn chưa biết, huống
chi như chuyện vua kiến trả ơn thì có gì đáng ngờ?
Thúc Ngao chôn xác rắn, sau làm tể tướng
Giảng rộng
L
oài rồng có 4 tính độc làm chết người. Có khi
do bị cắn mà chết; có khi do chạm phải mà
chết; cũng có khi do nhìn thấy mà chết; hoặc có khi do
nghe âm thanh của chúng phát ra mà chết. Loài rắn
cũng có 4 tính độc tương tự như thế. Con rắn mà Thúc
Ngao nhìn thấy đó ắt là thuộc loại có thể khiến người
ta nhìn thấy mà chết.
Cứ theo lời của người nước Sở nói lại thì đến nay
loài rắn hai đầu đó vẫn còn tồn tại. Rắn này có thân
hình màu vàng, dài chừng một thước, khi di chuyển có
thể bò tới hoặc bò lui đều được, rất giống với loài giun
đất. Thoạt nhìn thấy nó cũng không có hại, hẳn nay
đã là một loài khác đi rồi, bởi muôn loài đều theo thời
gian mà biến hóa. Chẳng hạn như các loài cầm thú
vào thời thượng cổ đều nói được tiếng người nhưng
ngày nay chẳng có loài nào biết nói. Trong tâm thức
hàm chứa những sự ác độc thì đa phần sẽ biến hiện ra
thành các loài rắn, rết, bò cạp... Người có tâm từ bi lân
mẫn, ắt không thể bị các loại độc làm hại. Nếu không
An Sĩ toàn thư
216 217
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
được vậy, ắt là khi bên ngoài có điều độc hại, ta cũng
dùng sự độc hại để đáp lại, đó là một con rắn bên ngoài
lại thêm một con rắn trong tâm. Ta đã không có khả
năng cảm hóa rắn độc, lẽ nào lại để cho bản thân mình
bị rắn độc đồng hóa, trở thành độc hại như rắn?
Rắn độc là con vật hại người, vì thế mà Thúc Ngao
chôn rắn đi để tránh cho người khác không nhìn thấy.
Ví như theo đó mà suy rộng ra, thì hết thảy những
gì làm hại người khác đều có thể xem như rắn độc.
Khi chúng ta làm được những việc trừ tàn diệt bạo, ấy
chính là chôn đi những con rắn độc biết đi bằng hai
chân. Cố gắng sửa đổi những sai lầm đã phạm trong
quá khứ, tu tập hướng đến những việc hiền thiện trong
tương lai, đó chính là chôn đi con rắn độc trong tự tâm
mình.
Kể từ câu “Vu Công xử án” cho đến câu này trong
chính văn, Đế Quân lược nêu lên những trường hợp
làm việc thiện được hưởng phước báo để chỉ dạy cho
người đời. Một người làm thiện được hưởng phước
báo, thì tất cả mọi người làm thiện cũng đều sẽ được
hưởng phước báo. Cũng giống như nếm thử một quả
trên cây thấy ngọt thì biết tất cả những quả trên cây
ấy đều ngọt, đâu cần phải nếm thử tất cả quả trên
mỗi cành cây?
Trưng dẫn sự tích
Tùy phương tiện phạm giới sát 1
V
ào thời đức Phật Nhiên Đăng, có 500 thương
nhân ra biển tìm châu báu. Cùng đi với họ lại
có một kẻ xấu ác, rất giỏi võ nghệ, xưa nay vẫn thường
làm những việc trộm cướp. Tên này có ý muốn giết hết
500 thương nhân để một mình lấy hết số châu báu đã
có được trên thuyền. Nhưng 500 thương nhân này đều
là những vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ-đề không còn thối
chuyển, 2 nếu giết các vị thì tội ác sẽ cực kỳ lớn lao đến
1 Trích từ kinh Đại Bảo Tích - 大寶積經 (Chú giải của soạn giả)
Câu chuyện này bắt đầu từ dòng thứ 24, trang 604, tờ b, thuộc
quyển 108 của kinh Đại Bảo Tích (kinh số 310, được xếp vào
tập 11 trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh). Ở đây không trích
nguyên văn mà chỉ ghi lại đại ý.
2 Nguyên tác ghi là: 五百人皆不退菩薩 (... ngũ bách nhân giai Bất
thối Bồ Tát - ... năm trăm người này đều là các vị Bất thối Bồ Tát).
Tuy nhiên, trong kinh văn đoạn này ghi là: 此五百人皆是向阿耨
多羅三藐三菩提不退轉菩薩 (Thử ngũ bách nhân giai thị hướng
A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề bất thối chuyển Bồ Tát - Năm
trăm người này đều là những vị Bồ Tát đã phát tâm hướng đến quả
vị Vô thượng Bồ-đề. ) Vì thế, xét ra thì đây là những vị đã phát
tâm Bồ-đề không thối chuyển, thuộc hàng Bồ Tát sơ phát tâm, chứ
không phải là Bất thối Bồ Tát, vốn là một quả vị đã gần đạt đến
quả vị Phật.
An Sĩ toàn thư
218 219
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
mức không thể đo lường, do đó mà phải đọa vào địa
ngục rất lâu. 1
Bấy giờ, trên thuyền có người hoa tiêu dẫn đường 2
tên là Đại Bi, đoán biết được ý niệm của kẻ xấu ác kia,
liền tự nghĩ rằng: “Nếu giết kẻ xấu ác này, ắt ta phải
chịu quả báo đọa vào đường dữ. 3 Nhưng nếu ta không
giết ông ấy, ắt 500 người hiền lương này đều sẽ bị hại,
mà tự thân ông ta rồi cũng sẽ đời đời bị đọa trong địa
ngục. Bằng như ta nói rõ việc này ra với mọi người,
ắt sẽ khiến cho cả 500 thương nhân đều khởi lên tâm
sân hận xấu ác, do đó rồi cũng sẽ phải thọ quả báo khổ
1 Trong kinh văn đoạn này ghi rõ ràng hơn như sau: 若此惡人殺諸
菩薩。以此業緣障礙罪故。一一菩薩從初發心。乃至成阿耨多羅
三藐三菩提。爾時惡人於其中間常在地獄。 (Nhược thử ác nhân
sát chư Bồ Tát, dĩ thử nghiệp duyên chướng ngại tội cố, nhất nhất
Bồ Tát tùng sơ phát tâm, nãi chí thành A-nậu-đa-la Tam-miệu
Tam-bồ-đề, nhĩ thời ác nhân ư kỳ trung gian thường tại địa ngục.
– Nếu kẻ xấu ác kia giết hại các vị Bồ Tát, thì do nghiệp duyên
cản trở các bậc tu đạo, nên trong suốt thời gian mà các vị Bồ Tát
ấy tu tập, từ lúc sơ phát tâm cho đến khi chứng đắc quả Vô thượng
Bồ-đề, thì kẻ xấu ác kia phải luôn ở trong địa ngục. ) Câu kinh này
cũng làm rõ ý vừa nêu trên, rằng đây là các vị Bồ Tát sơ phát tâm
chứ không phải đã đạt quả vị Bất thối chuyển.
2 Nguyên văn là đạo sư (導師) được dùng với nghĩa là người dẫn
đường hoặc lái tàu trên biển (hoa tiêu).
3 Ở đây chỉ 3 đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.
não.” Suy tính như vậy rồi liền sinh tâm thương xót
tất cả, quyết định tự mình nhận lấy tội lỗi để cứu vớt
nhiều người. Liền đâm chết kẻ xấu ác kia.
Đức Phật Thích-ca kể chuyện này xong, dạy rằng:
“Đạo sư tên Đại Bi đó, chính là tiền thân của ta; 500
thương nhân ngày ấy, chính là 500 vị Bồ Tát trong
Hiền kiếp này.”
Lời bàn
Việc này gọi là tùy theo cơ duyên mà phải phạm
vào việc giết hại, nhưng điều quan trọng nhất là trước
hết đã khởi lên tâm niệm thà tự mình nhận lấy tội lỗi
để có thể cứu vớt người khác, thì sau đó mới có thể tùy
phương tiện mà hành xử theo phương thức quan trọng
này. Ngược lại, nếu như khởi tâm tham muốn công
đức, lại muốn tránh không phải chịu quả báo tội lỗi,
thì tâm niệm như thế vốn đã là không thể chấp nhận,
làm sao còn có được phước báo?
Giết rắn phải đền mạng 1

huyện quê tôi, trước đây có một người làm
quan Lễ bộ Thượng thư tên Cố Tích Trù, sống
tại Ôn châu, bị viên phó tướng là Hạ Quân Nghiêu giết
1 Trích từ sách Hiện quả tùy lục - 現果隨錄. (Chú giải của soạn
giả)
An Sĩ toàn thư
220 221
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hại. Không lâu sau, người ấy giáng cơ nơi nhà của một
gia nhân là Trương Điều Đỉnh, nói rằng: “Trong đời
trước ta có lỡ tay giết chết một con rắn. Con rắn ấy nay
chính là Hạ Quân Nghiêu, vào ngày 16 tháng 6 vừa
qua đã hại chết ta ở giữa dòng sông. Việc nhân quả đời
trước nay phải gánh chịu, hãy nói với 2 con ta đừng
nghĩ đến việc báo thù.”
Họ Trương khi ấy chưa hề nghe tin Cố Tích Trù
đã chết, nên lập tức cho người đến Ôn châu tìm hiểu
tin tức. Khi ấy có Ngô Quốc Kiệt là người huyện Thái
Thương, đang ở tại Ôn châu, có mời Cố Tích Trù đến
dự tiệc trên thuyền ở giữa sông. Sáng sớm nghe tin Cố
Tích Trù đã bị hại chết, liền sai rất nhiều ngư dân lặn
xuống dò tìm thi thể, nhưng không tìm được. Đêm ấy
nằm mộng thấy Cố Tích Trù đứng thẳng trong nước
mà nói rằng: “Ta ngày trước là một vị tăng ở núi Thiên
Đài, có đánh chết một con rắn, nay phải đền mạng.
Ông có ý tốt với ta, vì trong đời trước vốn từng là môn
đồ của ta. Nay ông chỉ cần cho người đến tìm bên ngoài
dòng nước xoáy ở chỗ này, chỗ này... thì sẽ tìm được.”
Ngô Quốc Kiệt y theo lời chỉ dẫn trong mộng, quả nhiên
tìm được xác, liền đưa linh cữu về Côn Sơn mai táng.
Lời bàn
Cố Tích Trù ngày trước là một vị tăng ở núi Thiên
Đài, nay tái sinh làm quan đến chức Lễ Bộ Thượng thư,
tất nhiên văn chương tiết tháo, đức hạnh nghĩa khí
đều phải trác tuyệt hơn người, đáng để lưu truyền hậu
thế. Như thế mà còn khó tránh được quả báo của việc
giết rắn ngày trước, huống chi những kẻ tầm thường,
so ra còn kém xa họ Cố đến muôn vạn lần? Người đời
khởi tâm xấu ác giết rắn, chớ nên đem chuyện Thúc
Ngao ra mà biện hộ cho việc làm của mình.
Muốn tạo ruộng phước rộng sâu, phải dựa vào
một tấm lòng này
Giảng rộng
C
âu này chính là nêu lên một cương lĩnh thiết
yếu. Trước đó đã kể rõ những sự kiện có thật
về nhân quả báo ứng, đến câu này mới làm sáng tỏ
đạo lý nhân quả. Tâm địa, hay lòng người, đó chính là
nhân, mà ruộng phước kia chính là quả. Các nhà nho ở
đời chẳng tin nhân quả, chẳng qua chỉ vì chưa đủ khả
năng nhận hiểu đúng được sách vở của Nho gia. Chính
vì thế mà khi nói đến những việc như “nhà làm việc
thiện ắt có niềm vui, nhà làm nhiều việc ác ắt gặp tai
ương” thì có thể tin nhận, nhưng khi bàn đến những
chuyện nhân quả báo ứng thì lại không tin. Như thế có
An Sĩ toàn thư
222 223
khác nào chỉ biết gọi là “mặt trời” mà không biết mặt
trời ấy cũng còn được gọi là vầng thái dương!
Người tin nhân quả thì tâm lo sợ quả báo của việc
ác nên không dám phạm vào. Người không tin nhân
quả thì tâm thường buông thả nên không kiêng sợ bất
kỳ việc ác nào. Một người vì tin nhân quả, sợ quả báo
nên làm một việc lành, vạn người như vậy thì thế giới
này tăng thêm được vạn điều lành. Một người không
tin nhân quả, buông thả phóng túng nên làm một việc
xấu ác, vạn người như vậy thì thế giới này tăng thêm
vạn điều xấu ác. Cho nên nói rằng: “Người người đều
rõ biết nhân quả, đó là con đường an lành tốt đẹp cho
xã hội. Người người đều không tin nhân quả, đó là con
đường đại loạn của xã hội.”
Biểu đồ ruộng phước do tâm tạo
Ba loại ruộng phước
Ruộng báo ân Ruộng công đức Ruộng bần cùng
Cha mẹ, các
bậc sư trưởng,
hòa thượng
Chư Phật, Bồ
Tát, các bậc hiền
thánh tăng
Người hay vật
đang lúc đói
thiếu, khốn khổ
Hai loại, tám thứ ruộng phước
Chư
Phật
Chánh
Pháp
Tăng
già

Tăng
Bần
cùng
Bệnh
tật
Súc
sinh
Cha
Mẹ
Phương tiện
Ruộng cung
kính
Ruộng bi
mẫn
Đào giếng
cấp nước
Xây dựng
cầu cống
Tu sửa
đường sá
Hiếu thảo
cha mẹ
Cung kính
Tam bảo
Phụng sự
người bệnh
Cứu giúp
khốn cùng
Bố thí
bình đẳng
225
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
224
Trong thế gian có 7 việc chẳng đồng,
đều do tâm tạo ra
1. Tuổi thọ
- Tuổi thọ ngắn ngủi là do: mong cầu cho người
khác phải chết, giết hại chúng sinh, xây dựng
đền thờ dâm thần.
- Tuổi thọ lâu dài là do: thương yêu hết thảy các
loài, phóng sinh cứu vật, sống thanh tịnh tích tụ
phước đức.
2. Bệnh tật
- Thân thể nhiều bệnh là do: gây hại cho chúng
sinh, không giúp đỡ người bệnh khổ.
- Thân thể được ít bệnh là do: thường lễ bái
Tam bảo, cung cấp thuốc men cho người bệnh
khổ.
3. Dung mạo
- Thân hình, dung mạo xấu xí là do: thường
khởi tâm sân hận, tranh chấp với người khác;
che lấp, ngăn cản ánh sáng Phật pháp; cười
nhạo hình dung xấu xí của người khác.
- Thân hình, dung mạo đoan trang, đẹp đẽ
là do: thường khởi tâm nhẫn nhục, nhu hòa; tu
sửa, kiến tạo hình tượng chư Phật; bố thí thức
ăn cho người khác.
4. Uy thế đối với người khác
- Không tự có uy thế đối với người khác là
do: đối với sở hữu của người khác sinh lòng ghen
ghét, đố kỵ; không thường tu tích phước.
- Tự có uy thế đối với người khác là do: không
ôm lòng ghen ghét, đố kỵ người khác; luôn giữ
lòng thành tín, không dối gạt người.
5. Thân phận cao quý hay hèn mọn
- Thân phận sinh ra hèn mọn, bị người khinh
miệt là do: kiêu ngạo, lăng nhục người khác;
thiếu nợ tiền bạc, tài sản của người khác không
trả; khinh rẻ, không kính trọng chư tăng ni.
- Thân phận sinh ra cao quý, được người tôn
kính là do: kính tín, phụng sự Tam bảo; thường
nỗ lực làm việc thiện; đối xử khiêm cung, hòa
nhã với mọi người.
An Sĩ toàn thư
226 227
6. Sở hữu tài vật
- Chịu cảnh nghèo khó bần cùng là do: keo
kiệt, bủn xỉn, không tu hạnh bố thí; trộm cướp,
lường gạt tài sản của người khác.
- Được hưởng giàu sang phú quý là do: thường
khởi tâm hiền thiện bố thí cho người; không nợ
nần người khác.
7. Tri thức tốt xấu
- Tri thức xấu ác, tà kiến là do: gần gũi những
người xấu ác; ngợi khen, tán dương các pháp xấu
ác; xan lận không chia sẻ, thuyết giảng Chánh
pháp cho người khác.
- Tri thức hiền thiện, chân chánh là do:
thường tu tập trí tuệ chân chánh, gần gũi các
bậc sa môn, thọ nhận và hành trì Chánh pháp.
Chánh báo và dư báo do 10 điều ác chiêu cảm
C
hánh báo 1 của 10 điều ác 2 chính là ba đường
dữ. 3 Nếu được sinh làm người thì sẽ chiêu
cảm 2 loại nghiệp báo nặng hoặc nhẹ theo như mô tả
dưới đây.
Ba điều ác của thân:
(1) giết hại, (2) trộm cướp, (3) tà dâm
Chiêu cảm nghiệp báo:
- Thường chịu bệnh tật
- Tuổi thọ ngắn ngủi
- Nghèo khổ túng thiếu
- Sở hữu tài sản chung cùng, không được tự do
quyết định
1 Chánh báo: quả báo quyết định các yếu tố trực tiếp tạo nên đời
sống con người, như thân thể, thọ mạng, sức khỏe...
2 Mười điều ác (Thập ác), là mười điều trái ngược với Mười điều
lành hay Thập thiện, bao gồm: 1. Sát sanh, 2. Trộm cắp, 3. Tà
dâm, 4. Vọng ngữ, 5. Ỷ ngữ, 6. Lưỡng thiệt, 7. Ác khẩu, 8. Tham
dục, 9. Sân khuể, 10. Tà kiến.
3 Ba đường dữ: tức ba cảnh giới xấu ác, gồm địa ngục, ngạ quỷ và
súc sanh.
An Sĩ toàn thư
228 229
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
- Vợ (hoặc chồng) không chung thủy, chân thành
- Thân bằng quyến thuộc không được như ý muốn
Bốn điều ác của khẩu:
(1) nói dối, (2) nói thêu dệt, (3) nói hai lưỡi gây
hiềm khích chia rẽ, (4) nói lời ác độc
Chiêu cảm nghiệp báo:
- Thường bị người khác phỉ báng
- Thường bị người khác khinh miệt
- Lời nói ra không được người khác tin nhận
- Lời nói không rõ ràng, minh bạch
- Thân bằng quyến thuộc thường chịu cảnh ly tán
- Sinh ra trong gia tộc xấu ác, tồi tệ
- Thường phải nghe những âm thanh khó chịu,
xấu ác
- Lời nói ra thường bị tranh cãi, kiện tụng
Ba điều ác của ý:
(1) tham lam, (2) sân hận, (3) si mê
Chiêu cảm nghiệp báo
- Trong lòng chẳng bao giờ biết đủ
- Những điều mong cầu thường bị thiếu thốn, dứt
tuyệt
- Chỗ đòi hỏi của người khác khó đáp ứng
- Thường bị người khác gây khó khăn, làm hại
- Sinh ra trong gia đình chịu ảnh hưởng của tà
kiến
- Tâm ý gian trá, dua nịnh, không trung thực
231
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
230
27 loại quả báo thiện ác khác biệt
Luận giải về tâm địa
Có quả báo tốt đẹp nhưng không thể thụ hưởng
M
ột số người tuy có lụa là gấm vóc chất đầy
trong rương, nhưng trên thân thể chẳng
qua chỉ khoác lên đôi ba mảnh vải thô xấu, có vàng
ngọc châu báu chứa đầy trong tủ, nhưng miếng ăn
hằng ngày chẳng qua cũng chỉ dùng những món hơn
kẻ bần hàn đôi chút, cho rằng như thế là an nhàn; lại
ưa thích những việc làm lụng cực nhọc, cho đó là thích
thú, khoái lạc. Những người như thế, chỉ thấy họ suốt
ngày ưu tư phiền muộn, rõ ràng có được phước báo tốt
đẹp nhưng không thể hưởng dụng như người khác. Đó
Được làm người Là do
1.Tôn quý, được kính ngưỡng Lễ kính, phụng sự Tam bảo
2. Giàu sang vô hạn Thực hành bố thí
3. Tuổi thọ dài lâu Thực hành trì giới
4. Dung mạo đoan chánh Thực hành nhẫn nhục
5. Chuyên cần tu tập Thực hành tinh tấn
6.Thấu suốt nghĩa lý Thực hành trí tuệ
7.Tiếng nói trong trẻo Xưng tán Tam bảo
8. Trong sạch thanh khiết Tu tập tâm từ mẫn
9.Dơ nhớp, không thanh khiết Tái sinh từ loài lợn
10. Keo lận, bủn xỉn Tái sinh từ loài chó
11. Ương ngạnh, bạo ngược Tái sinh từ loài dê
12. Nhanh lẹ, nóng nảy Tái sinh từ loài khỉ
13. Nhạy cảm với mùi vị Tái sinh từ loài cá, rùa...
14. Độc ác, thường hại người Tái sinh từ loài rắn
15. Không có tâm từ mẫn Tái sinh từ hổ báo, lang sói
16. Ngu ngốc, đần độn Không dạy bảo người khác
17. Câm điếc Phỉ báng, làm nhục người
18. Thấp hèn, bị sai khiến Thiếu nợ không trả
19. Xấu xí, đen đúa Ngăn cản Phật pháp
20. Sinh vào loài hươu nai Khủng bố, đe dọa người
Được làm người Là do
21. Sinh vào loài rồng Thường pha trò, chọc cười
22. Thân thể sinh ung nhọt độc Đánh đập, hành hạ người
23. Người được gặp vui mừng Niềm nở, tiếp đón người
24. Thường bị kiện thưa Giam nhốt, buộc trói người
25. Thân thể thấp bé Khinh miệt người khác
26. Mặt mũi xấu xí khó coi Thường sân hận, nóng nảy
27. Ngu si, thiếu trí Không ham học hỏi
An Sĩ toàn thư
232 233
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
là do đời trước tuy làm việc bố thí nhưng không phát
tâm chí thành, hoan hỷ, chỉ do có người khuyến khích,
khuyên bảo nên mới miễn cưỡng mà bố thí. Hoặc nếu
không phải thế thì là sau khi bố thí lại sinh tâm tiếc
nuối, hối tiếc việc đã làm. 1
Được thụ hưởng nhưng không có quả báo tốt đẹp
Có những người gia cảnh bần hàn, nhưng lại
thường được sống trong nhà cao cửa rộng của người
khác; bữa ăn ở nhà mình thì canh rau qua bữa, nhưng
lại thường được dùng những món sơn hào hải vị do
người khác chiêu đãi. Người như thế tuy được hưởng
thụ nhưng không gọi là có phước báo. Đó là do đời
trước không tự mình làm việc bố thí, chỉ biết khuyên
bảo, khuyến khích người khác làm việc phước thiện;
hoặc do khi nhìn thấy người khác làm việc bố thí liền
sinh tâm hoan hỷ, ngợi khen tán thán.
Trước giàu sau nghèo
Kinh Nghiệp báo sai biệt 2 dạy rằng: “Nếu có chúng
1 Đoạn này lấy ý trong kinh Di-lặc sở vấn - 彌勒所問經. (Chú giải
của soạn giả)
2 Tên kinh đầy đủ là Phật vị Thủ Ca Trưởng giả thuyết Nghiệp báo
sai biệt kinh - 佛為首迦長者說業報差別經, do ngài Cù Đàm Pháp
Trí dịch vào đời Tùy. Phần trích dẫn này là lược ý, không phải
sinh nào, trước nghe theo lời khuyên của người khác
mà làm việc bố thí, sau lại sinh tâm hối tiếc; do nhân
duyên như thế, người ấy đời sau sẽ được giàu có một
thời gian, nhưng sau đó lại phải chịu cảnh bần hàn.”
Trước nghèo sau giàu
Kinh cũng dạy rằng: “Lại nữa, nếu có chúng sinh
nào, do nghe lời khuyên của người khác mà làm việc
bố thí nhỏ nhoi, nhưng sau khi bố thí rồi sinh tâm
hoan hỷ. Người ấy đời sau sinh ra làm người, trước
chịu nghèo khổ nhưng sau được giàu có.” 1
Giàu có nhưng phải lao nhọc
Giàu có là nhờ gieo nhân giàu có; nhưng phải lao
lực khổ nhọc cũng là do gieo nhân lao khổ. Như trong
kinh dạy rằng: “Người cúng dường trai tăng 2 ắt sẽ
được giàu có vô hạn, ấy là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, nếu
nguyên văn kinh. Nội dung trích dẫn được bắt đầu từ dòng thứ
22, trang 893, tờ c, thuộc kinh số 80, được xếp vào tập 1 của Đại
Chánh tân tu Đại tạng kinh.
1 Trong nguyên bản không có chú giải riêng cho đoạn này, nhưng
chúng tôi có đối chiếu và thấy nội dung cũng được trích từ kinh
Nghiệp báo sai biệt.
2 Trai tăng: nghi lễ cung thỉnh chư tăng để cúng dường đầy đủ các
món nhu yếu như thuốc men, y phục, thức ăn uống...
An Sĩ toàn thư
234 235
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
có người thỉnh chư tăng đến nhà mình để cúng dường,
khiến cho chư tăng phải nhọc sức đi lại vất vả, rồi sau
mới dâng cúng thức ăn, người ấy đời sau tuy vẫn được
giàu có vô hạn, nhưng lại phải lao nhọc cần khổ.”
Nhàn hạ mà được giàu có
Nếu người phát tâm cúng dường chư tăng, mang
thức ăn đến tận am viện, chùa chiền, khiến cho chúng
tăng có thể an nhàn thọ dụng, người ấy sẽ được phước
báo đời sau sinh ra trong hai cõi trời người, tự nhiên
được thụ hưởng mọi điều khoái lạc.
Nghèo khổ nhưng có thể bố thí
Kinh văn cũng dạy rằng: “Nếu có chúng sinh
nào, 1 trước đây từng làm việc bố thí nhưng không gặp
được những bậc là ruộng phước của thế gian, 2 mãi lưu
chuyển trong luân hồi sinh tử. Những chúng sinh ấy
khi được sinh ra làm người, do không được gặp bậc
1 Ở đây nói là chúng sinh, không chỉ riêng loài người. Dùng chữ
chúng sinh để chỉ cho khắp hết muôn loài trong sáu đường (trời,
người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh).
2 Ruộng phước của thế gian: chỉ những bậc đạo cao đức trọng, là
nơi cho mọi người cung kính, quy ngưỡng, nếu ai cúng dường các
bậc như thế sẽ được phước báo lớn lao, như người gieo thóc giống
vào đám ruộng tốt sẽ thu hoạch được rất nhiều; do đó mà gọi các
ngài là ruộng phước của thế gian (phước điền).
phước điền nên việc bố thí chỉ mang lại phước báo rất
nhỏ nhoi, thoạt có thoạt không chẳng lâu bền. Tuy
nhiên, do đã từng tu tập quen theo hạnh bố thí, nên
khi sinh ra dù sống trong cảnh nghèo khó vẫn thường
có thể làm việc bố thí.” 1
Giàu có nhưng không bố thí
“Lại có những chúng sinh vốn không thường làm
việc bố thí, nhân gặp bậc thiện tri thức khuyên bảo
nên nhất thời cũng bố thí được một lần, may mắn lại
gặp được bậc phước điền đức cao đạo trọng. Nhờ công
đức cúng dường bậc phước điền cao trọng, nên đời sau
sinh ra được giàu có sung túc. Tuy nhiên, bởi không
tập quen hạnh bố thí, nên dù sống trong cảnh giàu
sang mà tâm thường keo lận, không làm việc bố thí.” 2
Bố thí nhiều, được phước ít
Kinh Bồ Tát bản hạnh dạy rằng: 3 “Nếu có chúng
sinh làm việc bố thí nhưng không hết lòng, hoặc cúng
1 Đoạn này trích từ kinh văn đã dẫn trên, bắt đầu từ dòng 5, trang
894, tờ a.
2 Đoạn này trích từ kinh văn đã dẫn trên, bắt đầu từ dòng 8, trang
894, tờ a.
3 Đoạn này không trích nguyên văn mà chỉ ghi lại ý từ kinh Bồ Tát
bản hạnh - 菩薩本行經, quyển 2, thuộc kinh số 155, được xếp vào
tập 3 của Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh. Nội dung này bắt đầu
từ dòng 7, trang 114, tờ a.
An Sĩ toàn thư
236 237
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
dường mà không có lòng cung kính; hoặc khi bố thí,
cúng dường mà tâm không hoan hỷ; hoặc khi bố thí
lại khởi tâm kiêu mạn, tự cao tự đại; hoặc bố thí cúng
dường cho những kẻ theo tà kiến điên đảo. Bố thí cúng
dường như thế cũng giống như người gặp phải mảnh
ruộng cằn cỗi bạc màu, tuy gieo giống xuống rất nhiều
mà thu hoạch chẳng được bao nhiêu.”
Bố thí ít, được phước nhiều
Trong kinh này lại cũng dạy rằng: “Nếu vào lúc
thực hành bố thí có thể khởi tâm hoan hỷ, tâm cung
kính, tâm thanh tịnh, chẳng mong cầu được phước
báo, hoặc được cúng dường cho các bậc Bồ Tát, thánh
tăng. Bố thí cúng dường được như thế cũng giống như
người gặp đám ruộng tốt, tuy gieo giống ít cũng thu
hoạch được rất nhiều.” 1
Buồn phiền như nhau, thọ báo khác nhau
Sách Pháp uyển châu lâm 2 nói rằng: “Ví như có
hai người, một người nghèo khổ, một người giàu có.
1 Đoạn này vẫn trích ý từ kinh Bồ Tát bản hạnh như đã dẫn trên.
Nội dung bắt đầu từ dòng 10, trang 114, tờ a.
2 Sách Pháp uyển châu lâm (法苑珠林) – do ngài Đạo Thế soạn
vào đời Đường, được xếp vào tập 53 của Đại Chánh tân tu Đại
tạng kinh, kinh số 2122, cả thảy có 100 quyển. Nội dung đoạn
này không trích nguyên văn mà lấy ý từ trong quyển 81 của sách,
bắt đầu từ dòng 10, trang 888, tờ c.
Có kẻ đến cầu xin được giúp đỡ, cả hai người này đều
sinh tâm buồn phiền. Người giàu có nhiều của cải
buồn phiền vì sợ người kia nài nỉ xin xỏ, hao tốn tiền
bạc của mình. Người nghèo khổ lại buồn phiền vì rất
muốn giúp người mà không có tiền bạc để giúp. Về
sau, người nghèo khổ ấy được sinh lên cõi trời, còn
người giàu có kia phải đọa vào cảnh giới ngạ quỷ. Tuy
cả hai người đều sinh tâm buồn phiền nhưng lại thọ
quả báo khác nhau.”
Tuổi thọ khác nhau, quả phước giống nhau
Ví như một người sống vào thời tuổi thọ lên đến
ngàn năm, suốt đời thọ trì Năm giới, thực hành Mười
điều lành, so với một người sống vào thời tuổi thọ chỉ
được mười năm, cũng suốt đời thọ trì Năm giới, thực
hành Mười điều lành, thì phước báo của cả hai người
này đều giống như nhau, không khác.
Làm việc ác cuối đời được kết quả tốt đẹp
Ví như có người làm việc ác nhưng cuối đời lại được
hưởng kết quả tốt đẹp, ấy là vì nghiệp quả của việc ác
đã làm trong đời này còn chưa chín muồi, mà nghiệp
quả của những việc thiện đã làm trong đời trước lại
chín muồi trước. Xưa có một người trong 7 đời đều làm
việc giết dê, không đọa vào ba đường dữ. Nhưng sau đó
An Sĩ toàn thư
238 239
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
rồi thì tất cả những tội giết hại đã tạo ấy đều dần dần
phải chịu quả báo thường bồi, không sót một trường
hợp nào. 1
Thông thường, khi thấy có những người làm việc
ác mà được hưởng phước báo thì nên hiểu là như vậy.
Làm việc thiện cuối đời chịu kết quả xấu ác
Có người suốt đời thường làm việc thiện, nhưng
cuối đời phải gánh chịu những kết cục bi thảm, ấy là vì
nghiệp quả của những việc thiện đã làm trong đời này
còn chưa chín muồi, mà nghiệp quả của những việc ác
đã làm trong đời trước lại chín muồi trước. Hơn nữa,
tuy thấy có vẻ như đang chịu quả xấu mà thật ra chẳng
phải quả xấu. Như xưa kia có chú bé chăn trâu, một
hôm hái hoa dâng cúng Phật, trở về giữa đường bị trâu
húc chết, thần thức lập tức sinh lên cảnh trời Đao-lợi. 2
Lại có một con khỉ nhìn thấy vị tăng, sinh tâm hoan
hỷ, liền đến gần mượn lấy áo cà-sa thử khoác lên thân,
ngay lúc ấy bất ngờ sẩy chân ngã xuống vực sâu mà
chết, thần thức lập tức sinh lên cõi trời. 3
1 Xem trong Đại tạng nhất lãm - 大藏一覽. (Chú giải của soạn giả)
2 Trích từ kinh Thí dụ - 譬喻經. (Chú giải của soạn giả)
3 Xem trong sách Kinh luật dị tướng - 經律異相. (Chú giải của soạn
giả)
Nói tóm lại, nếu do làm việc thiện mà phải bỏ
mạng, chưa hẳn đã là không được quả báo tốt lành,
chỉ là trong nhất thời mắt thịt của người phàm không
thể thấy biết mà thôi.
Thân an vui, tâm không vui
Người phàm tục tu phước, trong đời này mọi việc
đều được như ý, có thể gọi là thân được an vui. Tuy
nhiên, không học pháp xuất thế, chưa thoát khỏi luân
hồi, rốt lại trong tâm vẫn không tránh khỏi mối lo rơi
vào ba đường dữ.
Tâm an vui, thân không vui
Bậc chứng quả A-la-hán đã chấm dứt không còn
phải tái sinh, có thể xem như vĩnh viễn thoát ba đường
dữ, ra khỏi sáu cõi luân hồi, có thể gọi là tâm được an
vui. Tuy vậy, ví như trước đây không thường tu phước
thì sẽ không nhận được sự cúng dường như ý muốn.
Bố thí lớn lao, phước báo nhỏ
Kinh Bát-nhã dạy rằng: “Nếu vị Bồ Tát chỉ buông
xả tài bảo trân quý nhưng không phát tâm cầu quả
Phật để cứu độ tất cả chúng sinh, thì dù tu tập trải
An Sĩ toàn thư
240 241
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng cũng chỉ được
phước báo rất ít.” 1
Bố thí nhỏ nhoi, phước báo lớn lao
Kinh Bát-nhã cũng dạy rằng: “Nếu vị Bồ Tát trong
khi thực hành bố thí có thể hồi hướng cầu quả Vô
thượng Bồ-đề để cứu độ tất cả chúng sinh trong mười
phương, thì cho dù việc bố thí có nhỏ nhoi cũng vẫn
được phước đức vô lượng.” 2 Đối với vị Bồ Tát này, từ
lúc phát tâm cho đến khi thành tựu quả Phật, tâm địa
không có gì tăng thêm, mà ruộng phước cũng không có
gì tăng thêm, vì vốn đã viên mãn.
Gặp hoàn cảnh thuận lợi, chính là lúc nên tu
phước
Khi gặp hoàn cảnh thuận lợi, nên tự suy nghĩ như
thế này: “Nhà ta nay được giàu có, nhất định là đời
trước đã thường tu hạnh bố thí, nên đời này lại càng
phải cứu người giúp vật nhiều hơn nữa. Thân thể ta
1 Ở đây phước báo thật ra không phải là ít, nhưng ý muốn nói rằng
nếu so với vị Bồ Tát đã phát tâm Bồ-đề (cầu quả Phật để cứu độ
tất cả chúng sinh) thì phước báo của vị này là ít. (Chú giải của
soạn giả)
2 Hai đoạn trên đây có hàm ý tương đồng với các đoạn “Bố thí
nhiều được phước ít”
không có bệnh tật, nhất định là đời trước đã thường tu
tập từ bi, nên đời này lại càng phải tránh sự giết hại
và làm việc phóng sinh nhiều hơn nữa.” Cũng giống
như khi đã thắp lên một ngọn đèn sáng, cần phải tiếp
tục châm thêm dầu thì mới có thể duy trì ánh sáng.
Gặp hoàn cảnh trái nghịch vẫn có thể tu phước
Khi gặp hoàn cảnh trái nghịch, nên tự suy nghĩ
như thế này: “Ta nay gặp cảnh khốn khổ tai ách này,
đều là do nghiệp đời trước chiêu cảm mà có, nếu vui
lòng nhận chịu ắt là đền trả hết được nợ nần xưa kia.”
Cũng chẳng riêng việc ấy, nếu mình gặp cảnh nghèo
túng khốn cùng, thường cầu mong cho tất cả mọi
người đều được giàu sang sung túc; nếu mình phải
chịu nhiều bệnh khổ, thường cầu mong cho tất cả mọi
người đều được khỏe mạnh an ổn; nếu mình thường
gặp cảnh đấu tranh giành giật, thường cầu mong cho
tất cả mọi người đều được hòa hợp an vui; nếu tự mình
ngu si hôn ám, thường nguyện cho tất cả mọi người
đều được trí tuệ sáng suốt; nếu tự mình không được
trọn đủ các giác quan, thường cầu mong cho tất cả mọi
người đều được thân tướng tốt đẹp.
Mỗi khi gặp một hoàn cảnh hoạn nạn nào đó, liền
nguyện trong đời vị lai sẽ cứu độ cho người gặp hoạn
nạn như thế. Như vậy chẳng phải là ngay nơi phiền
An Sĩ toàn thư
242 243
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
não tức hiện Bồ-đề, độc dược hóa thành cam lộ đó sao?
Nếu người không biết tu phước thì ắt là ngược lại.
Người khác làm việc thiện, ta có thể được phước
Khi người khác làm việc thiện chưa thành tựu mà
mình tùy theo để khuyến khích, thúc đẩy, đó gọi là
khuyến khích được phước. Khi người khác làm việc
thiện đã thành tựu, mình cũng tùy theo mà vui mừng
hoan hỷ, đó gọi là tùy hỷ được phước. Thường ngợi
khen xưng tán điều thiện, khiến người khác bắt chước
làm theo, đó gọi là tán thán được phước. Suy cho cùng
thì khắp cả trên trời dưới đất, từ xưa đến nay, hết thảy
các điều thiện trong thiên hạ đều có thể tạo phước cho
ta.
Cho nên, Bồ Tát Phổ Hiền phát khởi 10 nguyện lớn
thì nguyện thứ 5 chính là “tùy hỷ công đức”. Trên từ
vô lượng phước báo nhiều đời nhiều kiếp của chư Phật,
Bồ Tát; dưới cho đến chỉ một việc thiện nhỏ nhoi của
bất kỳ chúng sinh nào trong sáu cõi luân hồi, khi mình
biết được thì đối với tất cả đều phát tâm tán thán,
tùy hỷ. Làm được như thế rồi thì bao nhiêu phước báo
trong tận cùng hư không, rộng khắp pháp giới, đâu
đâu cũng có thể trở thành phước báo của mình, mà
tự thân mình cũng được như Bồ Tát Phổ Hiền không
khác.
Người khác làm việc xấu ác, ta có thể được phước
Khi người khác làm việc ác chưa thành mà mình
gắng sức khuyên bảo, khiến người ấy ngưng lại, ắt
mình sẽ được phước. Khi người khác làm việc ác đã
xong, mình thấy vậy sinh tâm buồn lo, không vui, ắt
cũng sẽ được phước. Khi việc ác chưa truyền rộng,
mình cố gắng tìm mọi phương cách để chặn đứng,
ngăn cản, ắt sẽ được phước. Nếu việc ác đã lan truyền,
nên lấy đó làm bài học để răn ngừa, cảnh giác không
phạm vào, ắt cũng sẽ được phước.
Nếu việc xấu ác làm hại đến mình mà có thể nhẫn
nhục chịu đựng, ắt sẽ được phước. Nếu việc xấu ác
làm hại đến người khác mà mình có thể khuyên người
nhẫn nhục chịu đựng, ắt cũng sẽ được phước.
Trưng dẫn sự tích
Năm dặm bồn đồng
N
gày xưa, tại nước Câu-lưu-xa có vị vua tên
là Ác Sinh. Một hôm, vua nhìn thấy có con
mèo vàng từ phía đông bắc của đại sảnh đi vào rồi chui
xuống đất chỗ góc tây nam. Vua liền ra lệnh khai quật
ngay chỗ góc nhà ấy lên, tìm được một cái bồn bằng
đồng, trong có 3 hộc, đều chứa đầy những đồng tiền
An Sĩ toàn thư
244 245
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
vàng. Từ chỗ cái bồn ấy đào sâu xuống một chút lại
gặp một cái bồn bằng đồng nữa, cũng có 3 hộc và cũng
chứa đầy tiền vàng bên trong như vậy. Tiếp tục đào
xuống thì tìm được thêm cái bồn thứ ba, cũng giống hệt
như vậy. Lại từ chỗ đào được ấy, tiếp tục tìm ra quanh
đó thì cứ cách khoảng một bước đi lại tìm được bồn đồng
chứa tiền vàng, như vậy rộng ra đến 5 dặm đều tìm
được rất nhiều bồn đồng chứa tiền vàng như vậy.
Vua cho là việc quái dị, trong lòng sinh nghi, liền
tìm đến chỗ Tôn giả Ca-chiên-diên thưa hỏi. Tôn giả
đáp rằng: “Vào đời quá khứ cách nay 91 kiếp, có đức
Phật ra đời hiệu là Tỳ-bà-thi. 1 Sau khi đức Phật ấy
nhập Niết-bàn, có một vị tỳ-kheo đi khất thực đến
chỗ ngã tư đường liền ngồi xuống, muốn giáo hóa mọi
người nên chỉ tay vào bát mà nói rằng: ‘Nếu có ai biết
mang tiền bạc cất vào trong thành quách kiên cố này, 2
thì bất luận là vua chúa, kẻ trộm cướp, cho đến các
nạn lớn như lũ lụt, hỏa tai, cũng đều không thể cướp
mất đi tài sản của người ấy. ’
“Có một người nghèo nghe vị tỳ-kheo nói thế thì hết
sức hoan hỷ phấn khích, nhân lúc ấy lại vừa bán củi ở
chợ được 3 đồng tiền, liền cúng dường tất cả vào trong
1 Tức là vị Phật thứ 998 trong số 1000 vị Phật của kiếp Trang
nghiêm. (Chú giải của soạn giả)
2 Ý ngài chỉ đến việc dùng tài vật, tiền của để cúng dường vào bát.
bát. Cúng dường xong, người ấy quay về nhà cách đó 5
dặm, cứ mỗi bước đi trên đường đều sinh tâm hoan hỷ.
Về đến trước cửa nhà rồi, trước khi vào nhà lại quay
về hướng vị tỳ-kheo mà thành tâm đảnh lễ, phát tâm
bố thí rồi mới vào. Người nghèo khổ ngày xưa ấy, nay
không phải ai khác, chính là đại vương đó.” 1
Lời bàn
Khi đức Phật đang ở tại thành Xá-vệ, có người
phụ nữ với tâm chí thành dâng cúng một bát cơm. Đức
Phật dạy rằng phước đức của người phụ nữ ấy rất lớn.
Chồng của người phụ nữ ấy nghe rồi trong lòng rất
1 Phần này trích từ Tạp bảo tạng kinh - 雜寶藏經. (Chú giải của
soạn giả) Tuy nhiên, khi tra cứu lại chúng tôi không tìm thấy câu
chuyện này trong Tạp bảo tạng kinh (Đại Chánh tân tu Đại tạng
kinh, tập 4, kinh số 203, tổng cộng 10 quyển, do 2 ngài Kiết-ca-
dạ và Đàm Diệu cùng dịch), mà chỉ thấy có ghi trong sách Pháp
uyển châu lâm (法苑珠林 - Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập
53, kinh số 2122, tổng cộng 100 quyển, do ngài Đạo Thế soạn
vào đời Đường) với câu mở đầu là Tạp bảo tạng kinh vân - 雜寶
藏經云. Có thể tiên sinh An Sĩ đã căn cứ câu này mà cho là câu
chuyện nằm trong Tạp bảo tạng kinh. Ngoài ra, sau khi đối chiếu
thấy một vài chi tiết không hoàn toàn giống với trong nguyên bản
sách Pháp uyển châu lâm, chúng tôi cũng đã điều chỉnh lại trong
khi dịch để nội dung được rõ ràng, mạch lạc hơn. Nội dung trích
dẫn này được bắt đầu từ dòng thứ 26, trang 887, tờ c của sách
Pháp uyển châu lâm, quyển thứ 81.
An Sĩ toàn thư
246 247
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hoài nghi, không tin rằng chỉ cúng dường một bát cơm
nhỏ bé mà lại được phước rất nhiều như lời Phật dạy.
Đức Phật liền gọi người ấy đến hỏi rằng: “Ông thấy
cây ni-câu-đà 1 cao lớn như thế nào chứ?”
Người kia thưa: “Dạ thấy, cây ấy cao chừng 4 đến
5 dặm, mỗi năm rụng quả xuống ước chừng vạn hộc.” 2
Đức Phật lại hỏi người ấy hạt cây ni-câu-đà lớn
hay nhỏ, người ấy đáp: “Chẳng qua cũng chỉ nhỏ bằng
hạt cải.”
Đức Phật dạy: “Lòng đất chẳng qua chỉ là sự vật
vô tình, mà gieo vào đó một hạt giống nhỏ bằng hạt
cải, về sau có thể thu được mỗi năm đến vạn hộc quả,
huống chi con người vốn có tâm thức, có thể chí thành
dâng cúng lên đức Như Lai một bát cơm, sao lại nghi
ngờ là không thể được phước báo lớn lao?”
Hai vợ chồng người kia nghe lời Phật dạy tâm ý
liền thông suốt thấu rõ, không còn hoài nghi nữa.
Những người phước mỏng sinh vào thời mạt pháp,
kiến giải hết sức hẹp hòi, nghe chuyện “năm dặm bồn
đồng” này làm sao có thể không khởi lên mối nghi “bát
cơm nhỏ, phước lớn” như người xưa?
1 Tên một loài cây ở Ấn Độ. (Chú giải của soạn giả)
2 Đơn vị đong lường ngày xưa, mỗi hộc bằng 10 đấu.
Cúng dường được một tháng 1
T
rong thành Xá-vệ có một nhà kia hết sức nghèo
khổ, trong sân nhà có một cây nho, muốn hái
một chùm để dâng lên cúng dường các vị tỳ-kheo. Lúc
ấy, nhằm khi quốc vương đã có lời cầu thỉnh chư tăng
thọ nhận cúng dường trong suốt một tháng, ngày nào
vua cũng dâng cúng đồ ăn thức uống. Vì vậy, người
nhà nghèo không có cơ hội để cúng dường, phải chờ đợi
hết một tháng đó mới có thể mang chùm nho đến dâng
cúng lên một vị tỳ-kheo. Vị tỳ-kheo thọ nhận rồi bảo
rằng: “Ông đã cúng dường được một tháng rồi.” Người
nghèo không hiểu, thưa hỏi lại: “Con chỉ dâng cúng
một chùm nho, sao ngài lại nói đã cúng dường được
trọn một tháng?”
Vị tỳ-kheo dạy: “Tuy chỉ một chùm nho này, nhưng
ông đã khởi tâm từ một tháng trước, luôn nghĩ nhớ
đến việc cúng dường không lúc nào gián đoạn, như vậy
chẳng phải là đã cúng dường được một tháng rồi sao?”
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của
soạn giả) Nội dung đoạn này lược ý chứ không trích nguyên văn,
bắt đầu từ dòng thứ 14, trang 609, tờ b, quyển 41 của sách Pháp
uyển châu lâm. Sách này ghi trích dẫn từ Tạp thí dụ kinh và có
nội dung khác biệt đôi chút. Chúng tôi trong lúc Việt dịch đã căn
cứ nguyên bản này để thêm vào một số chi tiết giúp đoạn văn trên
được rõ ràng hơn.
An Sĩ toàn thư
248 249
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Xét về sự việc thì bố thí cúng dường vốn có thể
gián đoạn, nhưng tâm niệm bố thí cúng dường thì
không nên gián đoạn, phải giữ cho niệm niệm nối
nhau không dứt thì mới có thể vun bồi được hạt giống
Bồ-đề. Việc cúng dường cơm nước cho các chùa chiền,
tự viện... mang lại lợi ích lớn lao nhất, vì nó giúp cho
người cúng dường kia trong chỗ tự mình không hay
biết mà tự nhiên mỗi ngày đều cúng dường Tam bảo.
Gieo trồng phước đức trên đầu ngón tay 1
X
ưa có người trưởng giả tên là A-cưu-lưu, vốn
không tin rằng sau khi chết còn có kiếp sau,
cũng không tin lẽ nhân quả, thiện ác. Ngày kia, A-cưu-
lưu với 500 người khách buôn mang theo rất nhiều
vàng ngọc châu báu, dự định cùng nhau thực hiện một
chuyến buôn xa. Không may cả đoàn người lạc vào một
1 Trích từ kinh Thí dụ - 譬喻經. (Chú giải của soạn giả) Tuy nhiên,
kinh Thí dụ là một bản kinh ngắn và chúng tôi đã xem qua, hoàn
toàn không có câu chuyện này, có lẽ đã có sự nhầm lẫn. Chúng
tôi lại tìm thấy đúng câu chuyện này trong kinh Phật thuyết A-cưu-
lưu - 佛說阿鳩留經, được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh,
tập 14, kinh số 529, bắt đầu từ dòng thứ 28, trang 804, tờ a. Trong
nguyên bản kinh thì đây là một câu chuyện dài với nhiều chi tiết
hơn, soạn giả đã lược ý từ đó mà viết lại chứ không trích nguyên
văn kinh.
con đường hết sức hiểm trở, đi suốt ba, bốn ngày qua
mà chẳng nhìn thấy một ngọn cỏ, không tìm được một
giọt nước, trong khi lương thực, nước uống mang theo
đều đã cạn hết. Tình thế vô cùng nguy ngập, ắt không
thể tránh khỏi phải chết vì đói khát.
Khi ấy, trưởng giả A-cưu-lưu trong lúc đi loanh
quanh tìm nguồn nước bỗng gặp một vị thần cây, liền
đem việc nguy khốn đói khát của mình nói với thần.
Vị thần đưa cánh tay phải lên, từ các ngón tay của ông
liền hóa ra rất nhiều thức ăn, nước uống, cung cấp đầy
đủ cho A-cưu-lưu và cả những người cùng đi đều thoát
khỏi cơn đói khát.
Trưởng giả A-cưu-lưu liền thưa hỏi: “Thần nhờ
phước đức gì mà có khả năng biến hóa từ ngón tay ra
thức ăn, nước uống như thế?”
Vị thần đáp: “Trước đây vào thời đức Phật Ca-diếp,
ta là một người nghèo, thường ngồi bên lề đường nơi cửa
thành chuyên làm việc lau kính cho người. Mỗi khi thấy
có vị sa môn nào vào thành khất thực, ta liền đưa cánh
tay phải lên chỉ đường, chỉ rõ cho vị ấy biết nhà nào
trong thành có thể đến khất thực được. Lại khi thấy vị
ấy khất thực được đầy bát trở về, ta liền sinh tâm hoan
hỷ vô cùng. Ta làm như thế không chỉ một hai ngày mà
là rất lâu dài. Nhờ phước báo đó mà ngày nay mọi thứ
cần dùng chỉ đưa ngón tay chỉ ra là có.”
An Sĩ toàn thư
250 251
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưởng giả A-cưu-lưu nghe qua câu chuyện của vị
thần cây, trong lòng sáng tỏ, thấu rõ lẽ nhân quả, từ
đó về sau hết lòng tu tập hạnh bố thí, mỗi ngày đều
cúng dường cho rất nhiều vị tăng. Sau khi chết ông
liền được sinh lên tầng trời thứ hai, cung trời Đao-lợi,
làm vị thiên nhân rải hoa trời.
Lời bàn
Người không có trí tuệ thì dù có nhiều tài sản cũng
không thể gieo trồng phước báo. Người có trí tuệ thì
dù không có tài sản cũng có thể gieo trồng phước báo.
Nếu học làm theo như vị thần cây kia, ắt là tài sản
của người khác cũng có thể trở thành hữu dụng cho
ta. Khi chỉ đường làm lợi lạc cho người khác, ruộng
phước từ nơi ngón tay chỉ mà được rộng sâu; ngợi khen
khuyến khích người khác làm việc thiện, ruộng phước
từ nơi lời nói mà được rộng sâu; bôn ba xuôi ngược giúp
người, ruộng phước từ nơi đôi chân mà được rộng sâu...
Quay nhìn lại khắp thân thể mình, từ tai, mắt đến tay,
chân... thật không bộ phận nào lại không thể giúp ta
gieo trồng ruộng phước. Thật vĩ đại lắm thay! Phật
pháp quả thật mang lại lợi ích cho muôn người, những
kẻ phàm tục tầm thường làm sao có được trí tuệ sáng
suốt hiểu được như thế?
Thân hình xấu xí, thanh âm tốt đẹp 1
V
ua Ba-tư-nặc một hôm dẫn quân đi ngang tinh
xá Kỳ Viên, nghe tiếng một vị tỳ-kheo tụng
kinh, thanh âm hết sức hay lạ, thu hút. Vua liền tìm
đến khấu đầu lễ Phật xin được diện kiến vị tỳ-kheo ấy,
dâng cúng 10 vạn đồng tiền. Đức Phật dạy: “Nhà vua
hãy cúng tiền trước rồi sẽ gặp thầy ấy sau. Nếu vua gặp
thầy ấy trước, ắt sẽ không khởi tâm cúng dường nữa.”
Vua liền mang tiền đến cúng dường trước. Sau đó
được gặp vị tỳ-kheo mới thấy vị này hình dung cực kỳ
xấu xí, lại thấp bé vô cùng. Vua quả nhiên sinh tâm
hối tiếc việc cúng dường. Vua liền thưa hỏi, muốn biết
nhân duyên đời trước.
Đức Phật dạy: “Ngày xưa, sau khi đức Phật Ca-
diếp nhập Niết-bàn, có một vị vua dựng tháp thờ Phật,
giao cho 4 vị quan cùng lo đốc thúc việc xây dựng.
Trong đó có một vị lười nhác không tận lực, liền bị vua
quở trách. Vị quan ấy bị quở trách thì giận lắm, thốt
ra lời rằng: “Cái tháp quái này to lớn quá, biết chừng
nào mới xây cho xong được!” Do phát ra lời bực dọc oán
1 Trích từ kinh Hiền ngu nhân duyên - 賢愚因緣經. (Chú giải của
soạn giả) Đoạn này không trích nguyên văn mà chỉ lược ý từ kinh
văn, bắt đầu từ dòng thứ 10, trang 424, tờ b, thuộc quyển 11 của
kinh Hiền ngu (13 quyển), được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại
tạng kinh, tập 4, kinh số 202.
An Sĩ toàn thư
252 253
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hận đối với việc xây dựng tháp Phật, nên trong suốt
500 kiếp sinh ra đều phải chịu hình dung cực kỳ xấu
xí, thấp bé. Lại sau khi xây dựng xong tháp Phật, vị
ấy tự hối lỗi trước, mang một cái chuông nhỏ đến cúng
dường đặt trong tháp. Nhờ phước báo ấy mà trong suốt
500 kiếp về sau mỗi khi sinh ra đều có được thanh âm
hay lạ, thu hút người khác.
Lời bàn
Các nhân do sáu căn tạo thành, thiện ác xen lẫn
nhau, tùy theo đó mà chúng sinh phải thọ nhận quả
báo khác nhau, khổ vui lẫn lộn. Xưa có người đi du lịch
xa, lúc đến một ngọn núi giữa đảo xa ngoài biển, gặp
một người dung nhan tỏa sáng phi thường, diện mạo
đoan chánh, thường được nghe nhạc trời khiến tâm
vui vẻ, chỉ riêng có cái miệng là cực kỳ xấu xí, giống
như mõm lợn. Tìm hiểu nguyên nhân mới biết đó là
người đời trước thường tu phước, chỉ hay mắc lỗi nơi
lời nói, thường nói những lời thô tục, bẩn thỉu. Ôi, thật
đáng sợ lắm thay!
Mười hạt thóc được thoát nghèo 1
Đ
ời Tùy, ở núi Chung Nam có vị thánh tăng
là Thích Phổ An. Mỗi khi ngài đến chỗ đông
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả)
người, thiên hạ lại tranh nhau thiết lễ cúng dường
thỉnh ngài thọ trai.
Ngày kia, ngài đến thôn Đại Vạn. Trong thôn có
người tên Điền Di Sanh, nhà nghèo đến mức chẳng có
gì ngoài bốn bức vách trơ vơ. Ông có bốn người con gái,
quần áo chẳng đủ che thân. Cô con gái lớn nhất tên là
Hoa Nghiêm, khi ấy đã được 20 tuổi, ngoảnh nhìn lại
gia sản chẳng có gì ngoài hai thước vải thô xấu. Nghĩ
mình nghèo khổ thật quá đỗi, chẳng biết lấy gì để làm
việc bố thí tạo phước, chỉ biết ngửa mặt nhìn lên mái
nhà đau xót, bất chợt nhân đó thấy trên cây xà ngang
có một lỗ hỗng nhỏ, bên trong có một nhúm thóc nằm
vương vãi. Cô tìm cách lấy xuống, xem kỹ nhặt ra được
mười hạt thóc vàng. Liền đem mấy hạt thóc ấy lột vỏ
trấu, chà sạch lớp cám bên ngoài, định mang cùng với
hai thước vải thô dâng lên cúng dường thánh tăng.
Thế nhưng khi cô nhìn lại mình, chẳng còn mảnh
vải che thân nên không thể ra khỏi nhà được. Liền chờ
lúc đêm tối mới ra khỏi nhà, không dám đứng thẳng
đi mà bò sát dưới đất, hướng về chỗ vị tăng đang trú
ngụ, mang hai thước vải thô bỏ nơi bên ngoài phương
trượng, còn mười hạt gạo thì tự tay mang đến bỏ vào
nồi cơm đang nấu, trong lòng thầm khấn nguyện rằng:
“Tôi đời trước do tham lam bỏn xẻn nên nay phải chịu
quả báo nghèo khổ cùng khốn. Nay đối trước chư Phật
An Sĩ toàn thư
254 255
xin thành tâm sám hối, nguyện đem chút vật phẩm
nhỏ nhoi này cúng dường chư tăng. Nếu như nghiệp
báo nghèo khổ khốn cùng của tôi đến nay đã dứt, xin
cho tất cả những hạt cơm đang nấu trong nồi này đều
hóa thành sắc vàng.” Khấn nguyện rồi gạt nước mắt
mà quay về nhà.
Sáng sớm hôm sau, chư tăng đều thấy trong cái
nồi ấy nấu đến năm thạch gạo mà toàn bộ cơm trong
nồi đều hóa thành sắc vàng. Không ai biết vì sao, chỉ
có Đại sư Phổ An quán biết nhân duyên sự việc liền
nói rõ cho mọi người biết. Ai nấy nghe qua xúc động
không kiềm được, đều cho cô gái họ Điền là người có
tâm địa tốt. Nhân đó, rất nhiều người mang tài vật
đến giúp đỡ cho gia đình Điền Di Sanh. Cô gái ấy sau
lại phát tâm xuất gia học đạo.
Lời bàn
Tuy chỉ là vài thước vải thô với mấy hạt gạo, nhưng
đối với cô gái họ Điền kia đã là dốc hết tài sản mà cúng
dường rồi vậy. Những nghiệp xấu đã tạo đời trước, biết
đâu chẳng là nhờ đó mà cũng được dứt sạch?
Ngày ngày thường dùng các phương tiện, làm
đủ mọi việc lành, tích âm đức
Đ
oạn văn từ đây trở xuống nêu sự việc nên làm
để khuyến khích, thúc giục, tổng quát những
chỗ cương yếu đều là nhằm nuôi dưỡng căn lành trong
tâm thức. Những cách nói như “ngày ngày thường” với
“làm đủ mọi việc lành” vốn không cần phải diễn giải
mở rộng gì thêm, mà nói “dùng các phương tiện” hay
“tích âm đức” thì cũng đã quá rõ ràng như vậy. Khi
thực hành các phương tiện, điều quan trọng là phải
thường xuyên không gián đoạn; việc làm việc lành,
tích âm đức, điều quan trọng là phải cố gắng làm đủ
mọi điều, không xem thường, bỏ sót, dù chỉ là việc nhỏ.
Nếu nói theo pháp thế gian thì quả thật rất khó có
khả năng làm được như thế. Nhưng nếu biết vận dụng
thông suốt Phật pháp thì rốt lại cũng chẳng có gì là
khó cả. Nếu thấy việc thiện mà sức mình có thể làm
được, liền hăng hái xông vào nỗ lực làm ngay. Nếu
thấy việc thiện mà sức mình không thể kham nổi thì
hãy phát khởi thệ nguyện lớn lao, và đợi đến đời sau
khi mình có đủ khả năng ắt sẽ thực hiện điều ấy.
257
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
256
Luận giải về sự phát nguyện
Nguyện lành của thế tục
N
ếu ở chốn quan quyền điều hành chính sự,
nguyện cho mọi chính sách tốt đẹp đều được
đến với người dân khắp nước; nếu ở chốn thôn quê,
nguyện cho người người đều được mãi mãi an hưởng
thái bình. Đối với tình cha con của người, nguyện cho
được cha lành con thảo; đối với tình anh em của người,
nguyện cho luôn giữ được sự thân ái, lễ độ. Khi bản
thân mình có được miếng ăn, nguyện cho những kẻ
đói thiếu trong thiên hạ đều được no đủ. Khi bản thân
mình có được y phục, nguyện cho những kẻ đang chịu
cảnh rách rưới lạnh lẽo đều được ấm áp với đầy đủ
chăn mền quần áo. Đi qua nơi phố chợ, nguyện cho
khắp thảy mọi nhà đều được dư dật no đủ; đi qua
đường đê lối ruộng, nguyện cho năm nào cũng được
mưa thuận gió hòa. Thấy người qua sông vượt biển,
nguyện cho đừng gặp phải sóng to gió lớn; thấy người
đi vào núi rừng hiểm trở, nguyện cho không gặp phải
rắn rết hổ báo làm hại. Nhìn thấy kẻ nghèo cùng khốn
khó, nguyện cho người ấy được giàu sang phú quý;
nghe biết người bệnh tật khổ đau, nguyện cho người
ấy được mạnh mẽ an ổn. Thấy người được thành tựu
cũng tỷ như chính mình thành tựu; thấy người bị thất
bại cũng xem như chính mình thất bại. Như có thể
trong mỗi một niệm tưởng đều thường nhớ nghĩ đến
những tâm nguyện như thế, không để dứt mất, thì
việc mở rộng lòng thương yêu người trong bốn biển
như anh em một nhà, hòa hợp vạn vật với chính mình
như đồng một thể cũng đâu có gì là khó?
Lời bàn
Đây chỉ là những nguyện lành của thế tục mà thôi.
Vì sao vậy? Vì tuy biết nghĩ suy việc thiện trong một
đời sống này, nhưng không biết là còn có nhiều kiếp
sống khác; chỉ lo đời này không đủ sức giúp người,
nhưng không biết rằng chỉ cần giữ vững tâm nguyện
thì trong những kiếp về sau ắt sẽ có ngày thành tựu.
Hơn nữa, những nguyện như trên chỉ giới hạn trong
phạm vi cõi người, không rộng mở đến các cõi trời, cho
đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Chẳng qua như thế,
ví dầu tất cả những sở nguyện trên mỗi mỗi đều được
thành tựu như ý, chúng sinh trong sáu cõi đều được
hưởng nhờ ơn đức, thì bất quá cũng chỉ là tạo được
chút quả báo nhỏ nhoi để thọ hưởng trong phạm vi
hai cõi trời người, không thể có khả năng nhổ bật cội
rễ của sinh tử luân hồi. Chính vì thế mà người có trí
tuệ lớn lao thì không thể không phát khởi tâm nguyện
xuất thế rộng sâu.
An Sĩ toàn thư
258 259
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Bốn tâm nguyện xuất thế rộng sâu
Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ khắp.
Phiền não vô tận, thệ nguyện dứt sạch.
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện tu học.
Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành tựu.
Lời bàn
Đây là bốn tâm nguyện rộng sâu của hàng Bồ Tát,
trong mỗi câu đều hàm chứa vô số ý nghĩa sâu xa mầu
nhiệm. Người nào có khả năng thể hội được bốn câu
này, sao cho trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi đều không
lúc nào dứt mất, thì ngay nơi đó đã chính là Bồ-đề rồi.
Trong kinh dạy rằng: “Tu hành mà không phát tâm Bồ-
đề, khác nào như cày ruộng mà không dẫn nước vào, dù
có cố công gắng sức để phát khởi nguyện lành của thế
gian, trải qua số kiếp như số cát sông Hằng, chẳng bằng
như người chỉ tạm thời phát khởi được tâm Bồ-đề.”
Dẫn chứng
Ba người cùng phát nguyện 1
V
ào thời quá khứ cách đây vô số kiếp, có đức
Phật ra đời hiệu là Nhất Thiết Độ Như Lai.
Bấy giờ, một gia đình quý tộc giàu sang có 3 đứa con
1 Trích từ kinh A-xà-thế - 阿闍世經. (Chú giải của soạn giả)
nhỏ. Một hôm, cả ba em mang ba hạt châu đến cúng
dường Phật. Một em nói: “Con muốn sau này được như
vị tỳ-kheo đứng bên phải đức Phật.” Một em khác lại
nói: “Con muốn sau này được như vị tỳ-kheo đứng bên
trái đức Phật.” Em thứ ba nói: “Con muốn sau này
được như đức Phật ngồi giữa đại chúng.”
Đức Phật Thích-ca kể lại chuyện này rồi dạy rằng:
“Em bé phát nguyện làm Phật, chính là ta ngày nay.
Em bé muốn được như vị tỳ-kheo đứng bên trái Phật,
nay là Xá-lợi-phất. Em bé muốn được như vị tỳ-kheo
đứng bên phải Phật, nay là Mục-kiền-liên.”
Đồng hiệu với Cổ Phật 1
Đ
ức Thế Tôn thuở xưa, từ vô số kiếp về trước
nhiều như số cát sông Hằng, nghe biết vị
Phật thuở ấy hiệu là Thích-ca Văn Phật đang thuyết
giảng kinh Niết-bàn, liền tự bán thân mình để có tiền
sắm sửa hương hoa đến dâng lên cúng dường Phật.
Nhân được nghe một bài kệ trong kinh Niết-bàn mà
phát nguyện rằng: “Nguyện trong đời vị lai ta sẽ thành
Phật, cũng đồng một hiệu như đức Phật này.” Do phát
nguyện như thế nên ngày nay đức Thế Tôn có hiệu là
Thích-ca Văn Phật.
1 Trích từ kinh Niết-bàn - 涅槃經. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
260 261
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Phát nguyện độ người trước hết 1
Trong vô số kiếp về trước, đức Thế Tôn lại có lần
sinh ra làm một vị tiên nhân nhẫn nhục. Một hôm, tiên
nhân đang ngồi trong núi sâu, bỗng gặp lúc đức vua đi
săn đến đó, đuổi một con thú chạy ngang qua chỗ tiên
nhân. Vua thấy ngài ngồi đó liền hỏi xem con thú chạy
hướng nào. Tiên nhân suy nghĩ: “Nếu nói thật là hại
chết con thú, nếu không nói thật tức phạm lỗi nói dối.”
Trầm ngâm như vậy hồi lâu không đáp. Vua nổi giận,
chặt đứt một cánh tay ngài. Lại hỏi lần nữa, vẫn trầm
ngâm không đáp, vua lại chặt luôn cánh tay còn lại.
Ngay khi ấy, tiên nhân liền phát nguyện: “Người này
độc ác, sau này khi ta thành Phật, nguyện trước tiên
sẽ hóa độ ông ta, không để người đời lại bắt chước theo
ông ta làm việc ác.” Quả nhiên khi đức Phật Thích-
ca vừa thành đạo, trước hết thuyết pháp hóa độ cho
Kiều-trần-như, chính là vị vua ngày trước.
Bốn mươi tám đại nguyện 2
Đức Phật A-di-đà trong vô số kiếp về trước có một
tiền thân là tỳ-kheo Pháp Tạng, từng phát khởi 48
1 Trích từ sách Kim cang kinh giải - 金剛經解. (Chú giải của soạn
giả)
2 Trích từ kinh Đại A-di-đà - 大阿彌陀經. (Chú giải của soạn giả)
đại nguyện, trong đó có lời rằng: “Khi ta thành Phật,
nguyện cho cõi nước ấy thanh tịnh quý báu, đẹp đẽ
trang nghiêm. Chúng sinh trong mười phương, nếu ai
có nguyện sinh về cõi nước ta, chỉ cần trì niệm danh
hiệu ta thì đến khi lâm chung ta sẽ hóa hiện thân
Phật, Bồ Tát đến tiếp độ, khiến cho người ấy được hóa
sinh nơi cõi nước ta, sinh ra từ hoa sen, chứng được
quả vị không còn thối chuyển.”
Vì thế, ngày nay bất kỳ ai có thể nhất tâm niệm
Phật A-di-đà đều sẽ được vãng sinh về thế giới Cực
Lạc của ngài.
Nhờ có nguyện nên dễ hóa độ 1
Vào thời đức Phật còn tại thế, có một xóm làng kia
toàn những người buông thả theo tà kiến, không tin
lời Phật dạy. Đức Phật bảo ngài Mục-kiền-liên đến
giáo hóa, cả làng lập tức nghe theo lời dạy của ngài,
thay đổi tâm niệm hướng về Phật pháp.
Nhân đó, đức Phật dạy: “Những người làng ấy với
Mục-kiền-liên vốn có nhân duyên. Thuở xưa Mục-
kiền-liên từng là một người tiều phu lên núi kiếm củi.
Một hôm gặp phải tổ ong, cả bầy ong cùng bay ra hăm
1 Trích từ sách Kinh luật dị tướng - 經律異相. (Chú giải của soạn
giả)
An Sĩ toàn thư
262 263
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hở muốn chích. Người tiều phu khi ấy liền dạy rằng:
‘Tất cả chúng bay đều sẵn có tánh Phật, đừng nên
làm việc độc hại. Ngày sau khi ta thành đạo, sẽ hóa
độ tất cả bọn bay.’ Bầy ong nghe lời ấy đều bay đi tứ
tán, không làm hại người tiều phu. Dân làng ngày nay
chính là bầy ong ngày trước, nhân nơi việc Mục-kiền-
liên đã từng phát nguyện hóa độ họ, nên nay chỉ cần
một lần đến dạy dỗ họ liền nghe theo.”
Vừa phát tâm đã vượt trên Nhị thừa 1
Có một vị A-la-hán đã chứng Lục thần thông, một
hôm dẫn chú sa-di mang túi đựng y bát của ngài đi
theo sau. Khi ấy, chú sa-di trong lòng khởi lên tâm
nguyện rằng: “Ta phải chuyên cần nỗ lực tu tập tinh
tấn để cầu được quả Phật.” Vị A-la-hán ngay khi ấy
liền quay lại nhận lấy túi đựng y bát để tự mình mang
đi, lại bảo chú sa-di đi lên phía trước.
Chỉ trong chốc lát sau, chú sa-di lại khởi lên ý
niệm rằng: “Cầu quả Phật thật xa xôi khó được, chẳng
bằng ta nên cầu quả Thanh văn, sẽ sớm được tự giải
thoát.” Vị A-la-hán khi ấy liền đặt túi đựng y bát lên
vai chú sa-di, bảo chú đi ra phía sau.
Cứ như vậy lặp lại đến 3 lần, chú sa-di liền nói:
1 Trích từ luận Trí độ - 智度論. (Chú giải của soạn giả)
“Hòa thượng già quá lú lẫn rồi, cớ sao lại bảo con khi
thì đi trước, lúc lại đi sau?”
Vị A-la-hán đáp: “Ta không hề lú lẫn, chỉ vì lúc
trước con phát tâm cầu quả Phật, tức đứng vào hàng
Bồ Tát, vị thế ắt cao hơn ta, nên ta phải đi sau mà tự
mang túi xách, không dám để con mang. Ngay sau đó
con lại khởi tâm ưa thích quả Thanh văn, không còn
tâm niệm cứu độ chúng sinh, vị thế đã thấp hơn ta, tất
nhiên phải đi theo sau mang túi xách cho ta.”
Chú sa-di nghe nói đúng tâm ý mình, trong lòng
kinh hãi, từ đó tâm ý kiên định, hết lòng chuyên cần
tinh tấn cầu quả Phật.
Lời bàn
Kinh Ưu-bà-tắc giới (優婆塞戒經) dạy rằng: “Khi
có một người phát tâm Bồ-đề, 1 tất cả chư thiên đều vô
cùng kinh ngạc vui mừng, cho rằng nay đã có được một
bậc thầy trong hai cõi trời, người.” 2
Chỉ nói rằng vừa mới phát tâm, tất nhiên có thể
1 Phát tâm Bồ-đề, tức phát tâm cầu quả Phật để cứu độ tất cả
chúng sinh.
2 Kinh Ưu-bà-tắc giới (優婆塞戒經), thuộc Đại Chánh tân tu Đại
tạng kinh, tập 24, kinh số 1488, tổng cộng 7 quyển, do ngài Đàm
Vô Sấm dịch sang Hán ngữ vào đời Bắc Lương. Đoạn trích này
thuộc quyển 1, trang 1035, tờ b, bắt đầu từ dòng thứ 14.
An Sĩ toàn thư
264 265
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
hiểu là chưa từng trải qua sự tu tập chứng đắc, như
vậy mà đã vượt trên quả vị A-la-hán. 1 Đó là vì đã phát
tâm nguyện, ắt ngày sau sẽ được thành tựu. Cũng
giống như vị thái tử vừa mới sinh ra, tuy hãy còn nằm
trong nôi nhưng tất cả các vị lão thần quan chức trong
triều đình đều phải cung kính lễ bái.
Lợi người lợi vật
Giảng rộng
N
ói “lợi vật”, đó là công đức đủ để làm lợi lạc
cho muôn vật; nói “lợi người”, đó là công đức
đủ để làm lợi lạc cho mọi người. Có thể làm lợi ích cho
muôn người muôn vật, ấy là đã sống một đời không
uổng phí.
Chữ “lợi” mang hàm nghĩa cực xấu, lại cũng mang
hàm nghĩa cực tốt, nhưng không phải cùng lúc mang
hai nghĩa ấy. Nếu kẻ vì tự thân mình mà cầu được lợi,
đó là ý riêng, ắt là không tốt. Nếu có kẻ vì cứu giúp
muôn người mà cầu lợi, đó là công tâm, ắt là rất tốt.
1 Ở đây phải hiểu là quả vị A-la-hán của Thanh văn thừa, không
phải A-la-hán trong Thập hiệu của chư Phật.
Trưng dẫn sự tích
Kẻ phá bia và người khắc bia 1
Đ
ời nhà Đường có vị danh y là Tôn Tư Mạc, học
được 30 bài thuốc hay của Long cung, mang
ra sử dụng bao giờ cũng hiệu nghiệm, liền ghi chép
thành sách Thiên kim phương (千金方), lại khắc thành
bia đá để truyền lại đời sau.
Có người kia in ra được rất nhiều bản sách này rồi,
liền phá nát bia đá để mong bán sách trục lợi. Sau đó
liền bị sét đánh chết.
Lại có một người khác y theo sách ấy khắc lại vào
bia đá, liền nằm mộng thấy Tôn Tư Mạc bảo rằng: “Số
ông vốn không có con, nay nhờ công đức khắc sách
Thiên kim phương vào bia đá, ắt sẽ sinh được quý tử.”
Sau người ấy quả nhiên sinh con quý hiển.
Lời bàn
Người phá nát bia đá kia chỉ biết cầu lợi cho riêng
mình, còn người khắc lại bia đá chỉ nghĩ đến lợi lạc
cho muôn người. Nhưng rốt lại thì kẻ cầu lợi cho riêng
mình chẳng bao giờ được lợi, mà người làm lợi lạc cho
muôn người bao giờ cũng được lợi.
1 Trích từ sách Cảm ứng thiên chú - 感應篇註 (Chú giải của soạn
giả)
An Sĩ toàn thư
266 267
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Hủy bỏ chính sách tệ hại 1
T
rong khoảng niên hiệu Tuyên Đức triều
Minh, 2 triều đình thường sai thái giám đưa
người sang phương Tây tìm châu báu, tiêu tốn tiền bạc
nhiều vô kể, lại khiến cho vô số người phải bỏ mạng
trên đường. Đến thời vua Anh Tông niên hiệu Thiên
Thuận, 3 có người tâu lên vua xin lặp lại. Hoàng đế liền
hạ lệnh cho Binh bộ Thượng thư là Hạng Trung tìm
lại quyển sách ghi việc ấy để thực hiện. Bấy giờ, Lưu
Đại Hạ đang giữ chức Lang trung, liền lẻn vào thư
khố trước giấu sách đi, các quan lại đến sau không tìm
được gì, việc ấy cuối cùng phải bãi bỏ. Về sau, Thượng
thư Hạng Trung đem việc sách bị mất ra khiển trách
các quan thuộc cấp, Lưu Đại Hạ liền cười mà nói rằng:
“Ấy là chính sách tệ hại. Ví như sách ấy hiện còn cũng
nên hủy đi để trừ bỏ cho tận gốc, huống chi lại còn truy
hỏi sách còn hay mất để làm gì?”
Hạng Trung nghe nói hoảng sợ, tạ lỗi rồi nói rằng:
“Âm đức của ông quả là cảm động thấu trời. Chức quan
của tôi nên thuộc về ông mới đúng.”
1 Trích từ sách Hoàng minh thông giám -皇明通鑒. (Chú giải của
soạn giả)
2 Niên hiệu Tuyên Đức là thời hoàng đế Minh Tuyên Tông, kéo dài
từ năm 1425 đến năm 1435.
3 Niên hiệu Thiên Thuận kéo dài từ năm 1457 đến năm 1464.
Quả nhiên về sau Lưu Đại Hạ làm đến chức quan
Thái Bảo Đại Tư Mã, con cháu nhiều đời sau cũng đều
được vinh hiển phú quý.
Lời bàn
Cứ theo như việc làm của Lưu Đại Hạ mà suy rộng
ra cho đầy đủ thì những sách vở thế gian có hại cho
người đều nên hủy đi, mà trong đó nguy hại nhất là
những tiểu thuyết khiêu dâm, những sách hủy báng
Phật pháp.
Thường bình ổn giá lương thực 1
L
úc Trương Quai Nhai làm quan tri phủ tại đất
Thành Đô, một hôm nằm mộng thấy Tử Phủ
Chân quân mời đến gặp mặt. Đến nơi chưa được bao
lâu chợt nghe tiếng báo rằng: “Có Hoàng Kiêm Tế ở
cửa thành phía tây đến.” Liền thấy một đạo nhân chít
khăn trên đầu bước vào, Tử Phủ Chân quân dùng lễ
tiếp đón người ấy hết sức cung kính.
Sáng hôm sau, Trương Quai Nhai sai người đến
cửa thành phía tây, quả thật có đạo nhân tên Hoàng
Kiêm Tế, liền mời vào gặp mặt, hóa ra rõ ràng giống
hệt như người đã gặp trong mộng. Trương Quai Nhai
liền gạn hỏi đạo nhân xem bình sinh thường làm những
1 Trích từ sách Khuyến trừng lục - 勸懲錄. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
268 269
việc thiện gì. Đạo nhân đáp rằng: “Tôi thật cũng chẳng
làm được gì nhiều, chỉ mỗi năm vào mùa lúa chín đều
bỏ ra 300 quan tiền mua lúa trữ lại, đến năm sau khi
còn chưa đến mùa lúa chín, dân nghèo phần đông rất
khó kiếm đủ miếng ăn, tôi liền bán số lúa ấy ra vẫn
nguyên giá cũ. Như vậy phần tôi cũng chẳng mất mát
gì, mà đối với dân nghèo lại được cứu giúp qua cơn
nguy cấp. Tôi chỉ làm được mỗi một việc như thế mà
thôi.”
Trương Quai Nhai nghe xong hết sức cảm phục
tán thán, sai người thỉnh đạo nhân ngồi lên tòa cao rồi
tự mình cung kính thi lễ.
Lời bàn
Việc giữ bình ổn giá lương thực như thế, nơi nào
cũng có thể làm theo. Chỉ cần một nơi dân chúng
được hưởng ân huệ, bốn phương đều nên noi theo đó
mà làm.
Làm thiện tích phước
Giảng rộng
N
hững gì người thế tục tích lũy được, có những
thứ người khác có thể cướp đoạt, mà bản thân
mình không thể mang theo khi chết. Lại có những thứ
người khác không thể cướp đoạt, nhưng bản thân mình
cũng không thể mang theo khi chết. Lại có những thứ
mà mình có thể mang theo khi chết nhưng người khác
không thể cướp đoạt.
Vàng bạc châu báu, nhà cửa ruộng vườn... đó là
những thứ người khác có thể cướp đoạt, mà ta không
thể mang theo khi chết. Học thức uyên bác, tài năng
xuất chúng, đó là những thứ người khác không thể
cướp đoạt, nhưng ta cũng không thể mang theo khi
chết.
Còn nói về những thứ mà ta có thể mang theo khi
chết nhưng người khác lại không thể cướp đoạt, thì
không gì khác hơn chính là những việc thiện đã làm,
phước đức đã tạo. Làm thiện đạt đến mức cao nhất thì
có thể giúp cho tổ tiên bảy đời đều được siêu thăng,
An Sĩ toàn thư
270 271
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thần thánh đều ủng hộ; tích phước đến mức cao nhất
thì có thể khiến cho các nạn lửa cháy nước trôi đều
không làm hại đến.
Làm việc thiện chính là nền tảng của sự tu phước,
mà phước đức có được lại chính là sự cảm ứng từ việc
làm thiện. Nếu chỉ tu phước mà không tu trí huệ, mỗi
khi hưởng phước lại nhân đó mà tạo thêm nghiệp xấu.
Nếu chỉ tu trí tuệ mà không tu phước, e rằng đời sau
phước mỏng, cuộc sống phải chịu nhiều khó khăn thiếu
thốn.
Xưa vào thời đức Phật Ca-diếp tại thế, có hai anh
em nhà kia đều xuất gia làm sa môn. Người anh trì giới
tham thiền, hết lòng cầu đạo, nhưng không tu hạnh bố
thí. Người em lại siêng tu phước nhưng thường phạm
vào giới luật. Về sau, khi đức Thích-ca Mâu-ni thành
Phật, người anh chứng đắc quả vị A-la-hán, nhưng vì
chưa từng tu phước nên thường đói thiếu, ăn chẳng
được no. Người em do thường phạm giới nên phải sinh
làm con voi. Tuy nhiên, do đời trước thường tu phước
nên tuy sinh vào loài súc sinh lại được đức vua yêu
thích, thường cho mang trên thân đầy những thứ vòng
ngọc châu báu, lại ban cho thực ấp đến trăm hộ, thức
ăn thường dư dật. Cho nên nói rằng: “Tu phước không
tu huệ, thân voi mang chuỗi ngọc. Tu huệ không tu
phước, La-hán thường đói thiếu.”
Chỉ duy nhất đức Phật được tôn xưng là bậc Lưỡng
túc tôn, ấy là vì cả hai mặt phước, huệ của ngài đều
đầy đủ.
Trưng dẫn sự tích
Tạo lập nhiều ruộng nhân nghĩa 1
V
ào đời nhà Minh, ở huyện Hoa Đình có người
tên là Cố Chánh Tâm, tên tự là Trọng Tu. Cha
ông là Cố Trung Lập làm quan Tham Nghị ở Quảng Tây.
Chánh Tâm thích làm việc thiện, thường quyên góp
đến số 104.700 lượng bạc, mua ruộng đến 40.800 mẫu,
dùng vào việc giúp đỡ người khác, gọi là nghĩa điền.
Những ruộng ấy nằm phân tán trong 2 huyện Hoa
Đình và Thanh Phố, lợi tức thu hoạch được đều dùng
để cung cấp các khoản sưu dịch thuế má cho nhà nông
gặp khó khăn, giúp họ không rơi vào cảnh khốn cùng.
Một năm nọ, vào khoảng gần cuối năm, có quan
tuần tra đến phủ Tùng Giang, hạ lệnh nghiêm cấm
người dân vào lúc giao thừa không được nhóm lửa,
đốt pháo... Có người dân trong phố vi phạm lệnh cấm,
quan sai người đến bắt, lại bắt nhầm Cố Chánh Tâm
giam vào ngục. Nhân đó ông gặp được những tù nhân
1 Trích từ sách Ý hành lục - 懿行錄. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
272 273
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
bị rách rưới rét lạnh, liền cấp phát quần áo cho; gặp
những người đói khát, liền cấp phát cơm gạo; những
người phạm tội có thể chuộc bằng tiền, liền xin nộp
tiền thay cho họ; khiến cho trong nhà ngục được cứu
ra hết gần như trống rỗng. Chánh Tâm lại còn giúp
tiền để tu sửa lại nhà ngục. Ông thường thi ân cho rất
nhiều người dù biết họ không có khả năng báo đáp.
Sau khi ông chết, các quan địa phương đem những
việc làm tốt đẹp ấy báo lên triều đình, Hoàng đế ban
chỉ hết lời khen ngợi, cho được đưa vào thờ tự chung
với các bậc tiền nhân hiền đức của địa phương.
Lời bàn
Đời nhà Tống, Phạm Trọng Yêm mua ruộng để sử
dụng hoa lợi thu hoạch vào việc giúp đỡ người trong họ
Phạm, gọi là nghĩa điền, để lại tiếng thơm muôn đời.
Nhưng nghĩa điền của họ Phạm chỉ giúp đỡ cho người
cùng họ Phạm, không giúp được đến những người khác
họ; ruộng ấy cũng chỉ khoảng trăm mẫu, không nhiều
đến số hơn bốn mươi ngàn. Việc làm cao đẹp của Cố
Chánh Tâm vượt xa người đi trước, thật hết sức phi
thường. Cứ theo như phước báo của việc làm ấy mà xét
thì hiện nay nhất định ông đang thọ sinh nơi cung trời
Lục dục, bay lượn tự tại giữa không trung, thọ hưởng
an lạc vô cùng tận.
Một mình đảm nhận việc nghĩa
V
ào đời nhà Minh, tại Hồ Châu thuộc tỉnh Triết
Giang có người tên Từ Nhữ Huy, nhà giàu có,
thích làm việc bố thí giúp người. Bấy giờ, có ngôi chùa
ở Hàng Châu tổ chức giới đàn, phí tổn rất lớn, quan
viên cả hai ty Bố chánh và Án sát cùng họp lại, kêu
gọi các nhà hào phú ở địa phương phát tâm đóng góp.
Từ Nhữ Huy tự nguyện xin được một mình lo liệu
tất cả. Vị Hiến trưởng là Dương Kế Tông gạn hỏi vì
sao ông làm như vậy, Từ Nhữ Huy đáp: “Người ta dẫu
có tích lũy được sản nghiệp, nếu có đứa con hư hỏng,
ắt rồi tất cả cũng sẽ về tay người khác, sao bằng đem
dùng vào việc tốt đẹp vượt trội này, đời sau sẽ mãi
mãi được thọ hưởng phước báo? Huống chi tiền tài
là đầu mối tụ tập oán thù, con tôi không có tiền tài
thì không phải nhận lãnh oán thù, hẳn sẽ được người
thương yêu.”
Nhữ Huy hiến cúng một ngàn nén bạc. Quan chức
hai ty Bố chánh và Án sát đều ngợi khen sự sáng suốt
hào phóng của ông, đặc biệt thiết đặt chỗ ngồi danh
dự nơi hậu đường mời ông đến, tất cả quan thuộc đồng
liêu cùng tụ họp chiêu đãi, lại kính tặng ông một bức
trướng lụa và đưa tiễn về đến tận nhà. Ai nghe đến
việc này cũng đều kính phục, ngưỡng mộ.
An Sĩ toàn thư
274 275
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Kinh Đại Bảo Tích dạy rằng: “Nếu ta không bỏ
được tiền tài, tiền tài cũng sẽ bỏ ta. Nay ta nên xả bỏ
tiền tài giả tạm, nên tạo tác tài bảo bền vững.” 1
Từ Nhữ Huy làm như thế chính là đã tạo tác tài
bảo bền vững.
Bố thí không mệt mỏi
V
ào cuối đời nhà Minh, vùng Triết Giang có
người họ Sử thích làm việc thiện, thường bố
thí giúp người, lại rất hoan hỷ tổ chức trai tăng cúng
dường. Bấy giờ có vị tăng hiệu là Đại Thành, thường
xuống núi hóa duyên rồi mang về chùa cúng dường
chúng tăng. Đường về chùa đi ngang qua nhà họ Sử,
hôm nào thấy hòa thượng quay về cơm không đầy bát,
Sử quân lập tức vào nhà lấy cơm thêm vào cho đầy. Cứ
như vậy trải qua nhiều năm, chưa bao giờ sinh lòng
chán nản mỏi mệt.
Ngày kia, người vợ của Sử quân sắp đến ngày
sinh nở, bỗng thấy hòa thượng Đại Thành đến nhà,
1 Trích từ kinh Đại Bảo Tích (大寶積經), thuộc Đại Chánh tân
tu Đại tạng kinh, tập 11, kinh số 310, tổng cộng 120 quyển, do
ngài Bồ-đề-lưu-chí dịch vào đời Đường. Đoạn trích này bắt đầu từ
dòng thứ 16 trang 475, tờ c của quyển 82.
xăm xăm đi thẳng vào phòng phu nhân. Mọi người
nhìn thấy đều lấy làm kinh dị, vội đuổi theo vào thì
không tìm thấy gì cả. Sau đó, phu nhân hạ sinh một
bé trai. Sử quân cấp tốc sai người lên chùa dò hỏi về
hòa thượng Đại Thành, mới hay trong cùng ngày hôm
đó ngài đã viên tịch. Sử quân nhân đó liền đặt tên cho
con trai là Sử Đại Thành. Đứa bé hết sức thông minh,
từ lúc ở trong thai đã khiến người mẹ chỉ ăn toàn thức
ăn chay lạt. Khi trưởng thành, văn chương ngày càng
trác tuyệt phi thường. Đến khoảng niên hiệu Thuận
Trị 1 thì thi đỗ Trạng nguyên.
Lời bàn
Chỉ biết làm việc thiện mà không tin Phật pháp,
cách tu phước như vậy, bậc thức giả xem là đầu mối
oan nghiệp của đời thứ ba. Vì sao vậy? Vì nhân việc
làm thiện đó, trong hai đời được hưởng phước báo ắt
không tránh khỏi tạo ra nhiều tội nghiệt, đến đời thứ
ba hẳn phải nhận lãnh nghiệp báo khổ đau. Sử quân
vốn là người trong Phật pháp, nên tuy được hưởng phú
quý vinh hoa vẫn không vì thế mà đắm say mê muội.
1 Niên hiệu Thuận Trị của nhà Thanh bắt đầu từ năm 1644 đến
năm 1661.
277
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
276
Chính trực thay trời hành đạo, dạy người
Giảng rộng
N
ói “chính” tức là không có gì tà vạy, sai trái;
nói “trực” tức không có gì yểm khúc, quanh
co tránh né. Cho nên, chính trực là chuẩn tắc của đạo
trời. Người tầm thường mà có thể hành xử chính trực,
đó chính là thuận theo lòng trời mà dạy dỗ người khác,
đâu cần phải là kẻ ngồi ở ngôi cao soi xuống muôn
dân? Nếu muốn thay trời hành đạo, không cần phải
là kẻ nắm quyền cai trị hoặc có nhiều thế lực, vì dẫu
muốn cũng không thể có được. Thay trời hành đạo dạy
người, chính là thuận theo trời đất mà cải hóa vạn vật,
cùng dự vào với trời đất mà thành một trong ba thành
tố của vũ trụ: thiên, địa, nhân. Muốn vậy thì trước
hết phải chú tâm nỗ lực ở một chữ “hành”. Trong chữ
“hành” đó, tất nhiên đã bao hàm hết thảy những việc
kinh doanh, trù tính, kế hoạch, tùy thời mà biết sắp
xếp, ứng dụng cho thích hợp. Bình tâm xét kỹ ý nghĩa
của câu tiếp theo bên dưới: “mở rộng lòng từ, vì nước
cứu dân”, thì đó cũng chính thật là thay trời hành đạo
dạy người, nhưng lại có vẻ như chỉ muốn nói riêng với
hàng quan gia khanh tướng đang giữ chức quyền.
Những người khi sống thông minh chính trực, sau
khi chết ắt sẽ là bậc thần linh, lý lẽ ấy đối với thế gian
là chắc chắn. Lại nói theo thế tục thì đó gọi là siêu
thăng, nhưng dùng sự thấu hiểu sáng suốt mà quán
xét thì đó chính là đọa lạc. Ấy là vì người thế tục chỉ
biết đời thứ hai mà không biết được đến đời thứ ba sau
đó. Một khi đã là thần linh, tất phải thọ hưởng những
phẩm vật cúng tế, mà phần nhiều là do người đời sát
sinh hại vật mà dâng cúng. Đã thọ hưởng những thứ
ấy, ắt đời sau không tránh khỏi đọa vào các cảnh giới
địa ngục, súc sinh, chỉ là việc đến ngay trong khoảng
chớp mắt mà thôi. Cho nên, trong lúc thay trời hành
đạo dạy người, phải luôn cảnh giác với mối nguy hiểm
tiềm tàng là tái sinh vào cảnh giới thần linh, phải gấp
rút cầu sinh Tịnh độ, xác lập rõ ràng định hướng cho
đời mình. Phải thường xuyên phát khởi thệ nguyện
rộng sâu, dựa vào đó mà làm kiên cố thêm nền tảng
tâm đạo Bồ-đề, có như vậy thì mới tránh được mối
nguy đọa lạc vào cảnh giới xấu ác.
Ngày ngày đều mong cho người khác làm được
nhiều việc thiện, tích âm đức, đó là thuận lòng trời.
Một lòng lo lắng, chỉ sợ người khác rơi vào lầm lạc, tạo
tác những nghiệp xấu ác, đó cũng là thuận theo lòng
trời. Người ngu mê chỉ nhìn thấy khoảng không gian
xanh thẳm trên cao kia mà cho đó là trời, đâu biết thật
An Sĩ toàn thư
278 279
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
có những vị trời như ở các cõi Tứ vương thiên, Đao-lợi
thiên, mỗi ngày đều quan sát theo dõi những việc làm
thiện, ác của người thế gian. Việc thay trời hành đạo
dạy người như thế, đâu dễ có lúc chấm dứt được sao?
Trưng dẫn sự tích
Soát xét việc thiện ác 1
C
ác vị Đế thích, Thiên vương cùng nhau lên
Thiện pháp đường, có chư thiên cùng theo
hầu chung quanh cung kính. Vào Thiện pháp đường
rồi, Đế thích lên ngồi trên tòa sư tử, hai bên tả hữu
mỗi bên có 16 vị thiên vương cùng an tọa, ngoài ra
tất cả chư thiên cũng đều phân theo ngôi thứ mà ngồi
xuống. Có 2 vị thái tử, một vị tên là Chiên-đàn, một vị
tên là Tu-tỳ-la, chính là 2 vị Đại tướng quân của cung
trời Đao-lợi, chia nhau ngồi hai bên tả hữu của 32 vị
thiên vương. Bốn vị thiên vương chia nhau ngồi nơi
bốn cửa.
1 Trích từ Lập thế A-tỳ-đàm luận - 立世阿毗曇論. (Chú giải của
soạn giả) Bản luận này gọi tên đầy đủ là Phật Thuyết Lập Thế
A-tì-đàm luận(佛說立世阿毘曇論), được xếp vào Đại Chánh tân
tu Đại tạng kinh thuộc tập 32, kinh số 1644, tổng cộng 10 quyển,
do ngài Chơn Đế dịch sang Hán ngữ vào đời Trần. Đoạn trích này
bắt đầu từ dòng thứ 25, trang 184, tờ a, quyển 2.
Bấy giờ, bốn vị thiên vương mang những việc thiện
ác của người thế gian mà tấu trình lên Đế thích. Nếu
nghe biết thế gian có nhiều người thọ trì Ngũ giới,  1
Bát giới, 2 hoặc đối đãi cung kính với cha mẹ, với các vị
sa môn, các bậc sư trưởng, thực hành bố thí, tu phước,
Đế thích liền hết sức hoan hỷ, biết rằng như vậy tương
lai sẽ có nhiều người sinh về các cõi trời, mà ít người
sinh vào cảnh giới a-tu-la. 3 Nếu không được như vậy,
Đế thích liền buồn rầu không vui. Vì thế, mỗi tháng
1 Ngũ giới hay Năm giới, là những giới căn bản của người cư sĩ
thọ trì sau khi quy y Tam bảo, bao gồm các giới: (1) không giết
hại, (2) không trộm cướp, (3) không tà dâm, (4) không nói dối và
(5) không uống rượu.
2 Bát giới hay Bát trai giới, Tám giới, bao gồm Năm giới như trên
cộng thêm 3 giới nữa là: (6) Không sử dụng các loại dầu thơm,
phấn sáp thoa phết lên thân thể, (7) Không xem, nghe các trò ca
nhạc, múa hát, (8) Không ngồi nằm trên giường ghế cao rộng. Tám
giới này thường được người cư sĩ phát nguyện thọ trì trọn vẹn trong
thời gian một ngày, gọi là ngày Bát quan trai.
3 Cảnh giới a-tu-la còn gọi là bán thần, gồm những chúng sinh ít
phước hơn chư thiên nên tuy cũng có thần thông biến hóa mà sự
thọ hưởng an lạc không bằng chư thiên. Chúng sinh cảnh giới này
đa phần nặng tâm sân hận nên thường gây sự đánh nhau với chư
thiên, khiến cho Đế thích cũng bị quấy nhiễu. Vì thế, khi thấy
chúng sinh làm việc thiện sinh về cõi trời nhiều hơn vào cõi a-tu-
la thì Đế thích vui mừng.
An Sĩ toàn thư
280 281
vào những ngày lục trai, 1 thập trai 2 đều sai khiến các
vị phi thiên thần tướng thường xuyên tuần du trong
chốn nhân gian, xem xét theo dõi các việc thiện ác của
người đời.
Lời bàn
Người thế gian cho rằng Ngọc Đế có khi giáng trần,
điều đó không đúng. Dưới mắt nhìn của chư thiên thì
cõi thế gian này thật vô cùng ô uế, dẫu cách xa hàng
trăm do-tuần cũng bốc mùi hôi thối đối với chư thiên,
thật khó đến gần. Những vị tuần sát việc thiện ác chốn
nhân gian chỉ riêng là những bậc quỷ thần nhiều phúc
đức mà thôi. Tuy nhiên, việc thưởng điều lành, phạt
điều ác luôn chính xác, không một mảy may sai lầm.
Đến như những cõi trời Dạ Ma, Đâu-suất trở lên nữa,
chư thiên đều vô cùng tôn quý, chẳng hề lưu tâm đến
những việc của thế tục.
1 Lục trai: giữ gìn trai giới thanh tịnh mỗi tháng 6 ngày, là các
ngày 8, 14, 15, 23, 29 và 30.
2 Thập trai: giữ gìn trai giới thanh tịnh mỗi tháng 10 ngày, là các
ngày mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30.
Mở rộng lòng từ, vì nước cứu dân
Giảng rộng
D
ân là gốc của đất nước. Gốc có vững thì nước
mới yên, cho nên muốn cứu giúp nhân dân
phải có lòng yêu nước; vì yêu nước nên phải tận trung
với minh quân. Câu văn trước là nêu tổng quát để giáo
huấn người đời, đến câu này là muốn răn nhắc riêng
những kẻ đang nắm trong tay quyền chính.
Người đời đều tôn kính gọi quan phủ là lão gia,
điều đó có ý nghĩa gì? Ấy là muốn dùng cách xưng hô
để nhắc nhở thức tỉnh kẻ làm quan, phải đối đãi với
dân như bậc cha mẹ đối với con cái.
Cha mẹ đối với con cái có bệnh thì lo âu. Sưu dịch
thuế má nặng nề, ấy là bệnh của dân. Trộm cướp côn
đồ ngày càng lộng hành, ấy là bệnh của dân. Mưa
nắng trái thời, mùa màng thất bát, ấy là bệnh của
dân. Kẻ giàu có bất lương thẳng tay bóc lột, bọn quan
chức gian xảo lạm quyền hại dân, ấy là bệnh của dân.
Khi dân phải gánh chịu một bệnh, kẻ làm quan
phải có ngay một phương pháp cứu giúp, chữa bệnh.
An Sĩ toàn thư
282 283
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Phải hết lòng tận lực lo lắng, tìm mọi phương cách
chữa dứt bệnh cho dân, có như vậy thì trên mới không
phụ lòng người đứng đầu đất nước, dưới không phụ
lòng muôn dân, mà tự bản thân mình cũng chẳng
luống công học hành trau giồi tri thức. Được như thế
thì “mở rộng lòng từ” đâu có gì là khó?
Trưng dẫn sự tích
Tìm cách cứu dân 1
Đ
ời vua Tuyên Tông triều Minh, 2 quan tuần
phủ Nam Trực là Chu Thầm (sau thụy hiệu
Văn Tương) yêu dân như con, quản lý việc chi tiêu
công thật chặt chẽ minh bạch không ai bằng. Lúc vừa
mới đến nhậm chức liền soát xét những chỗ khó khăn
khổ sở của dân tình, hết sức quan tâm lo lắng về việc
thuế má ở 2 vùng Tô Châu và Tùng Giang quá nặng.
Đến một năm được mùa, thu hoạch của dân chúng rất
nhiều, ông liền xuất công quỹ mua lúa vào, tích trữ
trong kho để phòng khi cần dùng cho việc cứu tế. Niên
hiệu Tuyên Đức năm thứ 8, 3 vào mùa đông dâng biểu
1 Trích từ sách Hoàng Minh thông kỷ -皇明通紀. (Chú giải của
soạn giả)
2 Tức trong khoảng thời gian từ năm 1425 đến năm 1435.
3 Tức là năm 1433.
xin chế định phương thức lập kho lúa cứu tế cho nông
dân. Hoàng đế có lệnh chuẩn y, ông liền cùng với các
vị thái thú Tô Châu là Huống Chung, tri phủ Tùng
Giang là Triệu Dự, tri phủ Thường Châu là Mạc Ngu,
cùng nhau bàn tính, nỗ lực thực hiện. Vùng Tô Châu
thu mua vào được 300.000 thạch lúa, cùng với Tùng
Giang, Thường Châu cũng thu vào rất nhiều, đều chia
ra tích trữ trong kho lương thực.
Năm sau đó vùng Giang Nam bị hạn hán, số dân
đói thiếu ở Tô Châu và Tùng Giang lên đến hơn 3 triệu
người, lúa cứu tế đã phân phát hết ra mà không đủ.
Nhân đó, Chu Thầm lại nỗ lực suy nghĩ tìm cách làm
sao để tích trữ dự phòng được nhiều lương thực hơn
nữa. Xét lại trước đó, các phủ khi thu lương thực vào
mùa lúa chín đều giao cho bọn lý trưởng ở các hương
thôn, đa phần họ chỉ thu lương thực từ dân thường,
không thu của những người có chức sắc trong làng. Do
đó dân phải nộp nhiều hơn, khiến cho mỗi năm đều có
rất nhiều người dân không đủ khả năng nộp thuế phải
bỏ trốn đi sinh sống nơi khác.
Chu Thầm liền thay đổi phương thức, ngay tại
các phủ khắp nơi đều thiết lập những điểm thu lương
thực, chọn người phụ trách từ việc thu vào cho đến vận
chuyển về kho. Nông dân trực tiếp mang lúa thóc đến
giao nộp tại các điểm thu, không còn thông qua bọn lý
An Sĩ toàn thư
284 285
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
trưởng các hương thôn, nhờ đó giảm hẳn chi phí đến
một phần ba so với trước kia.
Ngoài ra, xem lại quy định trước đây thì hằng năm
cả 3 phủ đều phải vận chuyển 1.000.000 thạch lương
thực về kho ở Nam Kinh, sau đó dùng vào việc chi
phí cũng như lương bổng hàng tháng cho quân binh
quan chức tại Bắc Kinh. Như vậy, chi phí cho việc vận
chuyển lương thực qua lại tính ra mỗi thạch lúa phải
mất đến 6 đấu. 1 Chu Thầm liền mời các ông Hứa Chung
v.v... đến cùng họp bàn, nói rằng: “Quan chức tại Bắc
Kinh nhận lương bổng sở phí đến từ Nam Kinh, tại sao
không thể để ở đây mà tự cung cấp? Nếu để lương thực
tại đây mà dùng vào việc cung cấp thì khỏi nhọc sức
dân, lại còn giảm được chi phí đến 600.000 thạch lúa,
có thể đưa nhập vào kho lúa cứu tế cho nông dân, giúp
dân thoát được hoạn nạn.” Các ông Hứa Chung v.v...
đều khen là ý kiến hay. Chu Thầm lập tức dâng biểu
lên triều đình xin chuẩn y thực hiện như vậy.
Riêng tại phủ Tô Châu, trước đó đã thu được
400.000 thạch lúa, cộng thêm số lúa mua vào lúc dân
được mùa, lên đến hơn 600.000 thạch. Chu Thầm lệnh
rằng: “Lúa ấy không chỉ dùng riêng cho việc cứu tế
nông dân. Trong việc thu và vận chuyển lương thực,
1 Mỗi thạch bằng 10 đấu, nếu tính toán ở đây là đúng thì chi phí
vận chuyển và hao hụt lên đến 60% là quá lớn.
nếu có xảy ra thất thoát, thiếu sót thì có thể tạm mượn
từ kho ấy mà điều tiết vào để giao nộp cho đủ số, đến
mùa lúa chín lại y số đó mà trả lại vào kho công. Trong
những trường hợp nông dân phải tu sửa đê điều, khai
thông kinh rạch, dẫn nước tưới tiêu, thì có thể căn
cứ vào số nhân khẩu của từng hộ mà cấp phát lương
thực.” Triều đình phê chuẩn y theo tất cả những kiến
nghị của Chu Thầm.
Năm sau, Giang Nam lại bị hạn hán lần nữa. Chu
Thầm lệnh cho tất cả các quận đồng loạt mở kho lúa
cứu tế cấp phát cho dân. Nhờ đó, tuy đồng ruộng không
thu được lúa mà nông dân không phải chịu cảnh đói
thiếu, trước sau cứu sống đến hơn triệu mạng người.
Vào năm đầu niên hiệu Chính Thống, 1 Chu Thầm
đặc biệt thẩm tra kiểm định việc quản lý ruộng đất
cũng như tiêu chuẩn thu giao lương thực vùng Nam
Kinh. Riêng một phủ Tô Châu, phát hiện việc thu
lương thực vào kho trong mùa lúa chín đã giảm đến
hơn 800.000 thạch so với quy định. Các địa phương
khác cũng đều có sai biệt thất thoát.
Vùng Tô Châu, Tùng Giang trong khoảng 300 năm
trở lại đây, số quan chức có thể ban ân trạch đến cho
muôn dân chỉ đếm được trên đầu ngón tay, trong đó
1 Tức năm 1436. Niên hiệu Chính Thống là vào đời vua Minh Anh
Tông, kéo dài từ năm 1436 đến năm 1449.
An Sĩ toàn thư
286 287
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
phải thừa nhận Chu Thầm là bậc nhất. Dù vậy, Chu
Thầm không tự hài lòng với những gì đã làm được,
thường đối xử hòa nhã, gần gũi với mọi người. Bản tính
ông ưa thích việc bố thí giúp người, mỗi khi chư vị tăng
ni các nơi có việc tu sửa, kiến tạo chùa chiền, tự viện
hay tô đắp tượng Phật, đều tìm đến ông quyên góp. Ông
chưa một lần từ nan, thậm chí có nhiều khi quyên góp
nhiều hơn cả số mà người ta mong đợi. Dù vậy, tiền
tài chi dụng của ông vẫn thường luôn được sung túc.
Người Giang Nam trong hơn 20 năm xem ông như vị
cứu tinh, giúp đỡ muôn dân. Người dân được sống trong
địa phương do ông cai quản thật may mắn biết bao!
Đế Quân ban sắc thư
V
ùng Giang Tô, ở huyện Thái Thương có Hoàng
Kiến An, tên húy là Lập Đức. Ông nhìn thấy
nhân dân hai địa phương là Tô Châu và Tùng Giang
phải khốn khổ rất nhiều vì sưu thuế quá nặng nên ngày
ngày buồn khổ, lo nghĩ không yên. Mỗi buổi sáng ông
đều thức dậy sớm lễ Phật, sau đó hướng lên trời cao
mà cầu khấn, nguyện cho nhân dân hai quận này sớm
thoát nạn sưu cao thuế nặng. Ông cũng đem nguyện
vọng viết đầy đủ thành văn bản gửi lên quan nha đương
thời, không một phương cách nào còn có thể mà không
cố sức làm. Mọi người thấy ông như vậy đều cười nhạo.
Vào mùa thu năm Canh Dần, Hoàng Kiến An ngã
bệnh. Sang mùa đông, bệnh tình càng thêm nghiêm
trọng. Đến ngày cuối tháng 11 thì Kiến An đã bỏ ăn bỏ
uống trong nhiều ngày rồi. Đêm đó, vào khoảng canh
năm, Kiến An hốt nhiên mộng thấy Đế Quân truyền
ông đến dưới điện mà dạy rằng: “Số mạng của ông lẽ
ra đã dứt rồi, nhưng nhờ ông một lòng cầu mong việc
giảm sưu thuế cho dân, nên nay tuổi thọ được kéo dài
thêm.” Nói rồi truyền cho một đạo sắc thư, Kiến An
đọc lại ba lần thì nhớ hết.
Kiến An khi ấy bỗng giật mình tỉnh giấc, mở mắt
nhìn thấy thân đang nằm trên giường bệnh nhưng
tinh thần tự nhiên sảng khoái mạnh mẽ, cơn bệnh vừa
qua bỗng như đã hoàn toàn tiêu tan hết. Kiến An lập
tức vùng dậy rửa tay rửa mặt, thắp đèn lên, lấy nghiên
mực ra mài rồi cầm bút viết. Lúc ấy, người em gái Kiến
An là Hoàng Tiết Mẫu vừa qua đời, người trong nhà
đều theo đưa đám tang, chỉ còn duy nhất một bà cụ già
giúp việc ở lại giữ nhà. Bà cụ nhìn thấy ông chủ nhà
từ cả tháng qua nằm liệt trên giường bệnh, giờ bỗng
nhiên ngồi ngay ngắn trước bàn, thắp đèn cầm bút
viết, không khỏi một phen kinh ngạc đến sửng người.
Sáng hôm sau, có người em họ của Kiến An là
Quách Nhĩ Tiên cùng đi với Khổng Nhĩ Trung đến
thăm bệnh, nhìn thấy Kiến An hốt nhiên khỏe mạnh
An Sĩ toàn thư
288 289
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thì hết sức kinh hãi. Sau đó, Kiến An lại ngồi kiệu đến
nhà cô em gái để dự đám tang, cùng ngồi vào bàn thù
tạc với quan khách, bằng hữu. Trên đường đi phải trải
qua nhiều nơi vất vả nhưng ông không một chút gì
tỏ ra mệt mỏi, mà việc ăn uống cũng hoàn toàn bình
thường như trước đây. Những người biết chuyện, ai
nấy đều cho là một chuyện tốt đẹp lạ lùng đáng nói.
Đến năm 77 tuổi, Hoàng Kiến An dứt bỏ hết mọi
việc thế tục, chuyên tâm ăn chay niệm Phật, học hỏi
kinh điển trong nhiều năm nữa. Về sau không bệnh,
an nhiên qua đời.
Lời bàn
Đọc qua bản cáo sắc của Đế Quân, đại ý dạy rằng:
“Xét trường hợp của Hoàng Lập Đức, bất quá chỉ là
một kẻ thứ dân đơn độc, lại đang lúc tuổi già bóng xế,
nhưng phát tâm muốn giải cứu mối nguy khốn đã tích
lũy từ 300 năm qua, thề nguyện mong cầu sự lợi lạc
cho hàng vạn hộ dân cùng khổ, khác nào như đem sức
con phù du muốn lay động núi cao, 1 như chim tinh vệ
muốn lấp đầy biển lớn? 2 Tuy nhiên, muốn đắp thành
1 Nguyên bản dùng Thái Hoa (泰華) để chỉ Thái sơn và Hoa sơn,
hai ngọn núi lớn.
2 Theo truyền thuyết thì con gái vua Viêm Đế bị chết đuối ở biển
Đông, hóa thành loài chim tinh vệ ngày ngày bay đến núi Tây
ngậm đá tha về muốn lấp cho đầy biển.
gò cao muôn trượng cũng phải dựa vào từng sọt đất
nhỏ, kiên trì quyết sẽ thành công. Đạo lớn của trời đất
quan trọng ở sự chí thành không gián đoạn, ắt làm
nên công hạnh của bậc thánh hiền, chỉ tiến lên mà
không thối chí. Phải nên gắng sức kiên trì, đừng để
thối thất chỗ phát tâm ban đầu.”
Xét kỹ thì hiểu rằng, việc sưu thuế nặng nề có thể
giảm được hay không cũng là do sức người tác động,
nhưng giống như việc leo núi, muốn thành tựu thì
mỗi người đều phải tự nỗ lực, chẳng ai có thể thay cho
người khác được.
291
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
290
Đối xử với người phải giữ lòng trung
Giảng rộng
C
hữ “trung” đó là do nơi trong lòng người,
không thể xem dáng vẻ cung kính bên ngoài
mà biết được. Cho nên giúp người hạn chế tai ương,
ngăn ngừa hoạn nạn, đó là trung. Giúp người phô bày
điều thiện, ngăn cấm sự tà vạy sai trái, đó cũng là
trung. Vì người bôn ba xuôi ngược, đó là trung. Đem
hết sức mình phụng sự người lãnh đạo đất nước, đó
cũng là trung.
Bằng như kẻ giúp việc điều hành đất nước mà chỉ
biết trên nói sao dưới nghe theo vậy, bất kể đúng sai
đều phụ họa, dua nịnh; nhân dân có điều khổ sở oán
thán thì ém nhẹm không trình báo lên; chính sách có
điều tốt đẹp, lợi lạc cho nhân dân cũng tránh né không
mang ra thi hành; chỉ biết quan tâm riêng việc thôi
thúc giao nộp thuế má, gọi đó là chấp hành pháp luật;
lấy sự khắt khe soi mói người dân để gọi là công minh
sáng suốt; đó chính là trường hợp mà Mạnh Tử từng
hết lời phản bác đối với những kẻ luôn ngụy biện rằng
“vua của ta không thể làm được như thế”. Như vậy sao
có thể gọi là trung?
Đối tượng của “lòng trung” không hẳn chỉ là riêng
với người lãnh đạo đất nước. Như quan hệ cấp dưới đối
với cấp trên, người giúp việc đối với chủ thuê, cho đến
mọi quan hệ ứng xử giữa người với người, đều phải giữ
lòng trung. Dưới đây lược cử 2 trường hợp để nêu lên ý
nghĩa của lòng trung.
Trưng dẫn sự tích
Tận tụy báo ơn chủ 1
V
ào đời nhà Minh, huyện Thuần An thuộc tỉnh
Triết Giang có nhà họ Từ, anh em trong nhà
cùng phân chia tài sản. Người anh cả được một con
ngựa, anh kế được một con trâu. Người em út đã mất
để lại vợ góa, chỉ được hai anh chia cho một người nô
bộc tên A Ký.
A Ký khi ấy đã hơn 50 tuổi. Người vợ góa liền khóc
mà nói rằng: “Ngựa có thể dùng để cưỡi, trâu có thể
dùng để cày ruộng, phần tôi nhận lão bộc này chỉ tốn
cơm nuôi thôi.”
A Ký liền hỏi lại: “Bà chủ nói như thế là cho rằng
tôi đây không được bằng như trâu, như ngựa chăng?”
Từ đó liền thay bà chủ nghĩ cách làm ăn sinh sống.
1 Trích từ sách A Ký truyện (阿寄傳) của Điền Thúc Hòa. (Chú giải
của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
292 293
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Người vợ góa mang hết những đồ trang sức của mình
bán đi, được cả thảy 12 lượng bạc. A Ký mang số bạc
ấy đi lên vùng núi mua nhựa cây sơn về bán lại, chỉ
trong một năm số vốn ấy đã tăng gấp 3 lần. Lại buôn
bán trong 20 năm nữa, tích lũy gia sản cho người vợ
góa lên đến hàng vạn lượng bạc. A Ký thay bà chủ
gả chồng cho 3 người con gái, lại mời thầy giỏi về
dạy học cho 2 người con trai, về sau đều kết thông
gia với các gia đình có danh vọng, sính lễ lên đến
hàng ngàn lượng bạc, lại dựa theo thông lệ xin được
cho vào Thái học.
A Ký mỗi khi gặp người trong họ Từ, dù nhỏ tuổi
cũng kính trọng chắp tay thi lễ. Suốt đời luôn giữ cung
cách nghiêm trang, không bao giờ liếc nhìn bà chủ. Đối
với những cô con gái của chủ, cho dù nhỏ tuổi nhưng
ông vẫn giữ lễ không bao giờ đứng chung ngang hàng.
Đến khi lâm bệnh nặng biết mình không qua khỏi,
ông mang hết sổ sách quản lý giao lại cho bà chủ, nói
rằng: “Hai vị tiểu chủ giờ đã có thể thay thế cai quản
gia nghiệp, lão già này đem hết sức trâu ngựa báo đền
ơn chủ, đến nay xem như đã xong.”
A Ký qua đời, xem lại nơi ông sống tuyệt nhiên
không một chút tiền bạc của cải gì của nhà chủ. Vợ
ông với một người con trai cũng chỉ vừa đủ y phục che
thân mà thôi.
Lời bàn
Giữ được tấm lòng như A Ký, làm tròn bổn phận
như A Ký, vì chủ nhân mà mưu tính việc làm ăn sinh
sống như A Ký, cho dẫu là bậc đại hiền cũng không thể
làm hơn thế. Người như vậy mà rốt lại chỉ là một kẻ
dân thường nơi xóm thôn vắng vẻ, quả thật đáng kinh
ngạc lắm thay!
Chủ nhân vẽ tượng lễ bái 1
Đ
ời nhà Thanh, vào niên hiệu Thuận Trị
năm thứ nhất, 2 vùng An Huy, huyện Thanh
Dương, nhà Ngô Lục Phòng có người giúp việc tên là
Ngô Mao, thường giữ Năm giới, làm nhiều việc thiện,
niệm Phật không gián đoạn. Gặp lúc Tả Lương Ngọc
đưa quân vượt Trường giang, cả nhà Ngô Lục Phòng
đều phải đi lánh nạn, chỉ để lại một mình Ngô Mao
thay chủ giữ nhà, rốt lại bị quân giặc bắt gặp đâm
vào người 7 nhát mà chết. Vừa khi ấy có người em của
Ngô Mao đến, Ngô Mao chợt tỉnh lại nói với em: “Anh
đời trước tạo nhiều tội nghiệp, lẽ ra phải thọ sinh làm
thân lợn trong 7 kiếp. Nay nhờ công đức trì giới niệm
Phật nên chịu 7 nhát dao đâm mà giải trừ hết sạch
1 Trích từ sách Công quá cách - 功过格. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức là năm 1644.
An Sĩ toàn thư
294 295
oan nghiệp đời trước. Từ nay anh được vãng sinh về
thế giới Tây phương Cực Lạc.”
Về sau, người chủ là Ngô Lục Phòng có lần hốt
nhiên nhìn thấy Ngô Mao trên đường thẳng đến, phía
trước phía sau đều có cờ xí trang nghiêm che rợp. Ngô
Mao đến trước Ngô Lục Phòng thi lễ rồi nói rằng: “Tôi
là Ngô Mao, nhân có việc phải đến cõi trời, tình cờ
ngang qua đây.” Nói xong thì biến mất.
Ngô Lục Phòng liền cho người vẽ lại hình tượng
Ngô Mao, mỗi ngày đều cung kính lễ bái.
Lời bàn
Chịu 7 nhát dao đâm thay đổi được 7 kiếp làm
thân lợn, đó gọi là nghiệp báo nặng mà thọ báo nhẹ,
dứt được tội đời trước. Nhờ công đức niệm Phật mà
được vãng sinh, đó gọi là chuyển đổi thân phàm phu
nhập vào dòng thánh, do nền tảng tu tập chân chánh
mà được hưởng quả siêu việt.
Với cha mẹ ông bà phải hiếu thảo
Giảng rộng
C
hỉ một chữ “hiếu thảo” đó, thật khó nói cho
hết ý nghĩa! Kinh Thi có câu rằng: “Muốn báo
đáp hết ân đức của cha mẹ, nhưng ân đức ấy thật mênh
mông rộng lớn như trời cao không cùng tận.” Quả thật,
con cái báo đáp công ơn cha mẹ, bất luận như thế nào,
liệu có thể vượt quá trời cao được chăng? Sách vở từ
xưa nay khuyên dạy, khuyến khích sự hiếu thảo thì
hiện có rất nhiều, nay chỉ đơn cử những trường hợp ít
thấy, hiếm nghe nói đến mà thôi.
Người ta nếu không biết có đời sau, không tin
nhân quả, thật cũng giống như người mù không thể
nhìn thấy, người điếc không thể nghe được âm thanh.
Người như vậy quả thật là hạng thứ dân cùng khổ mà
không thể kêu cầu với ai được cả. Vì sao vậy? Tự mình
không biết có đời sau, tất nhiên cũng không biết cha
mẹ mình còn có đời sau, nên dù có hết lòng thương yêu
báo đáp song thân, chẳng qua cũng chỉ là trong một
thời gian tạm thời, ngắn ngủi mà thôi. Tự mình không
tin nhân quả, đương nhiên cũng không biết rằng cha
mẹ sau này còn có nhân quả, nên dù có muốn vì cha
An Sĩ toàn thư
296 297
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
mẹ mà dứt trừ khổ não, chẳng qua cũng chỉ làm được
đôi điều nhỏ nhặt, giới hạn mà thôi.
Có lần tôi nhìn thấy gà mẹ che chở cho đàn con
mà thường lấy đó làm bài học nhắc nhở, tự cảnh tỉnh
mình. Khi gà mẹ giương cánh che chở bảo vệ đàn con,
quả thật tình cảm mẹ con lúc ấy sâu đậm lắm. Thế mà
trải qua một thời gian rồi thì lần lượt bị người giết hại,
khiến cho mẹ con chẳng còn có dịp gặp lại nhau.
Chúng ta làm người thật ra cũng không khác mấy.
Cha con, vợ chồng đang lúc cùng nhau sum họp, quả
thật rất khó lòng chia cắt, lìa xa nhau. Nhưng một khi
đến lúc sinh tử phân ly, thân mang bệnh khổ đớn đau,
thì dù là người thân thiết nhất cũng không thể thay
mình chịu đựng; cho đến bao nhiêu nghiệp ác đã tạo,
cũng không ai có thể thay mình gánh chịu. Thậm chí
đến lúc xả bỏ thân này đi vào cảnh giới trung ấm, đối
mặt với ngàn vạn điều thống khổ, thì nơi chốn dương
gian có thể là những người thân của ta trong gia đình
lại đang cùng nhau mừng vui yến ẩm. Chăn mền còn
đó, dẫu có muốn sớm chiều tận tâm chăm sóc cũng
không còn được nữa; món ngon vật lạ không biết dâng
ai, dù học theo Vương Tường “nằm băng bắt cá” 1 nào
1 Xưa có người con hiếu là Vương Tường. Mẹ ông thích ăn cá tươi,
năm ấy trời lạnh quá nước đóng thành băng không sao bắt được
cá. Vương Tường muốn có cá dâng lên mẹ, nên ra sông cởi áo nằm
có ích gì? Người xưa nói rằng: “Người con hiếu không
thể chịu được việc cha mẹ chết mất.” Như thế chính là
cha mẹ của ta thật ra chưa từng chết mất. Nói như thế
lẽ đâu lại chỉ là chuyện hư dối sao?
Đức Phật dạy rằng: “Công ơn sinh thành dưỡng
dục của cha mẹ, người thế gian không thể báo đáp
hết được. Ví như có người đặt cha lên vai trái, đặt mẹ
lên vai phải, rồi đi như thế trong trăm năm, lại dâng
lên cha mẹ đủ mọi nhu cầu, cũng không báo đáp hết
được công ơn cha mẹ.” 1 Như vậy, nếu chỉ theo những
phương cách của thế tục thì dù có nỗ lực đến đâu cũng
không thể báo đáp được hết công ơn cha mẹ! Do đây
mà suy xét, có thể biết chắc rằng trong đạo Phật nhất
định phải có phương cách hoàn hảo để giúp người báo
đáp công ơn cha mẹ.
lên băng, muốn lấy hơi nóng của thân thể mà làm cho băng tan
để bắt cá. Lòng hiếu thảo của ông cảm động thấu trời, khiến băng
giá tự nhiên tan ra, có một cặp cá từ dưới sông nhảy vọt lên cho
ông bắt về dâng mẹ.
1 Vì đây là trích dẫn Phật ngôn nên chúng tôi đã thận trọng tìm
được nội dung đoạn trích này trong Tạp bảo tạng kinh (雜寶藏經),
ở quyển 2, bắt đầu từ dòng thứ 22, trang 455, tờ c (Đại Chánh tân
tu Đại tạng kinh, tập 4, kinh số 203). Chúng tôi căn cứ kinh văn
để dịch đoạn này hơi khác với nguyên bản của An Sĩ toàn thư.
Đây là nội dung kinh văn: 假使左肩擔父右肩擔母,行至百年復種
種供養,猶不能報父母之恩。
An Sĩ toàn thư
298 299
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Năm người mẹ bi thương 1
X
ưa có chú sa-di, năm 7 tuổi đã xin mẹ rời nhà
xuất gia học đạo. Chuyên cần tu tập, đến năm
8 tuổi đã chứng được đạo quả, thấy biết việc đời trước.
Nhân khi nhìn thấy việc đời trước liền than rằng: “Chỉ
một thân này của ta mà làm khổ lụy đến 5 người mẹ!
Trong đời thứ nhất, khi ta ra đời thì bên nhà hàng xóm
cũng có người sinh con. Ta lại chết sớm, mẹ ta nhìn
thấy con của người hàng xóm trưởng thành mà đau
buồn khổ sở. Qua đời thứ hai ta sinh ra chưa được bao
lâu thì chết, mẹ ta mỗi khi nhìn thấy người khác cho
con bú thì lại nhớ đến ta, đau buồn khôn xiết. Sang
đời thứ ba, ta được 10 tuổi thì chết. 2 Mẹ ta mỗi khi
1 Trích từ kinh Ngũ mẫu tử - 五母子經. (Chú giải của soạn giả)
Kinh này được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, thuộc tập
14, kinh số 555, hiện có 2 dị bản là 555a và 555b, đều là bản
dịch của cư sĩ Chi Khiêm vào đời Ngô. Nội dung chuyện này bắt
đầu từ dòng 24 trang 907, tờ a trong bản 555a và từ dòng 29 trang
906, tờ b trong bản 555b. Đoạn này chỉ lược kể nội dung, không
trích nguyên văn kinh.
2 Theo bản 555b thì không có chi tiết 10 tuổi, chỉ nói là chết sớm.
Căn cứ theo đây có thể biết là tiên sinh An Sĩ đã sử dụng bản kinh
555a.
thấy những đứa trẻ cùng tuổi ăn uống thì lại nhớ đến
ta, đau khổ vô cùng. Sang đời thứ tư, ta chưa đến tuổi
lấy vợ thì đã chết. Mẹ ta mỗi khi nhìn thấy những
người bằng tuổi ta cưới vợ thì lại nhớ ta mà sinh tâm
đau buồn. Nay là đời thứ năm, ta vừa được 7 tuổi đã
xin xuất gia học đạo, mẹ ta ở nhà nhớ mong, lại cũng
sinh tâm đau buồn. Cả năm người mẹ đều giống nhau
ở một điểm là đau buồn sầu khổ vì mong nhớ ‘con của
tôi’, 1 đều nói rằng mình bị mất con mà sinh tâm bi
thương buồn khổ không thôi. Ta quán xét cõi luân hồi
sinh tử thật mê lầm như thế, phải chuyên cần tinh tấn
tu tập Chánh đạo để thoát ra.”
Lời bàn
Tinh lực khí huyết một đời của cha mẹ, quá nửa
đều là vì con cái mà hao tổn. Nhưng nếu xét theo những
nỗi khổ như chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm,
1 Chỗ này trong An Sĩ toàn thư chép là “五母聚會” (ngũ mẫu tụ
hội – năm người mẹ cùng hội lại) tương tự như trong bản 555b là “
今五母共會” (kim ngũ mẫu cộng hội – nay năm người mẹ cùng hội
lại), đều không chính xác và cũng không hợp lý. Bản 555a chép
là “愁毒言念我子是五母適共一會” (sầu độc ngôn niệm ngã tử, thị
ngũ mẫu đích cộng nhất hội – sầu khổ nói rằng nhớ mong ‘con tôi’
chính là chỗ mà 5 bà mẹ đều giống nhau). Chỉ với ý nghĩa này
thì đoạn tiếp theo mới hợp nghĩa. Như chi tiết ở đoạn trên thì tiên
sinh An Sĩ đã sử dụng bản 555a, không biết vì sao ở đoạn này lại
ghi sai theo bản 555b?
An Sĩ toàn thư
300 301
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
cho đến bên ướt mẹ nằm chỗ ráo con lăn, thì sự khó
nhọc chịu đựng của người mẹ lại có phần nhiều hơn.
Tự xét lại hình hài này quả thật đáng trách, mang đến
hệ lụy khó nhọc cho cha mẹ quá nhiều, mà báo đáp lo
lắng cho cha mẹ lại quá ít.
Chúng ta từ vô số kiếp đến nay, nếu đong lường
lượng sữa mẹ đã dùng ắt là nhiều hơn nước trong biển
cả; cho đến đại tiểu tiện làm nhơ nhớp trên thân cha
mẹ, thật cũng nhiều hơn nước trong biển cả; thậm chí
những khi sinh ra rồi chết sớm khiến cho cha mẹ phải
buồn đau than khóc, nước mắt ấy cũng lại nhiều hơn
nước trong biển cả.
Hết thảy những việc ấy, thảy đều do nơi sinh tử
luân hồi, khiến chúng ta luân chuyển đầu thai qua
nhiều kiếp sống. Ví như đời này sang đời khác đều có
thể hết lòng hiếu thảo, đều có thể khiến cho cha mẹ vui
lòng, cũng chẳng bằng là không làm khổ lụy đến cha
mẹ. 1 Khổng tử nói rằng: “Phân xử việc tranh tụng của
người đạt đến sự công minh, cũng không bằng khiến
cho người không khởi việc tranh tụng.” Chẳng phải
cũng là cùng một ý nghĩa như vậy đó sao?
1 Ý nói cố gắng tu tập thoát khỏi luân hồi, không còn trở lại tái
sinh, tất nhiên không làm khổ lụy đến cha mẹ nào nữa.
Cả nước đều biết hiếu dưỡng 1
C
ách đây vô số kiếp về trước, có một vương quốc
nhiều điều tệ ác tên là Khí Lão. Theo luật của
vua nước ấy, người ta đến tuổi già nua đều bị xua đuổi
đi xa, không được sống trong nước nữa. Có một vị đại
thần cực kỳ hiếu thảo, người cha đến tuổi già không
nỡ đuổi đi, liền làm một gian mật thất để giấu cha nơi
đó, hết lòng cung phụng nuôi dưỡng.
Ngày kia, có một vị thiên thần mang đến 2 con
rắn, hỏi quốc vương nước ấy rằng: “Nếu ông phân biệt
được giữa 2 con rắn này, con nào là rắn đực, con nào là
rắn cái thì ta sẽ bảo vệ cho đất nước này được an ổn.
Bằng không, ta sẽ hủy diệt cả nước.”
Nhà vua hết sức lo lắng, hỏi khắp trong triều không
ai biết được câu trả lời. Vị đại thần kia liền mang câu
hỏi ấy đến mật thất hỏi cha. Người cha bảo: “Hãy thả
hai con rắn ấy lên trên một tấm thảm thật mềm mại rồi
quan sát. Con nào co duỗi nhanh gấp, đó là rắn đực; con
nào chịu nằm yên, chỉ cử động chậm chạp là rắn cái.”
Đại thần liền y theo lời ấy trả lời với thiên thần.
1 Trích từ kinh Tạp bảo tạng - 雜寶藏經. (Chú giải của soạn giả)
Kinh Tạp bảo tạng được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh,
thuộc tập 4, kinh số 203, tổng cộng có 10 quyển, do ngài Kiết-ca-
dạ và ngài Đàm Diệu dịch sang Hán ngữ vào đời Bắc Ngụy. Đoạn
trích này bắt đầu từ dòng thứ 4, trang 449, tờ b, quyển 1.
An Sĩ toàn thư
302 303
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Thiên thần lại hỏi: “Người nào trong lúc mê mà
gọi là tỉnh, trong lúc tỉnh mà gọi là mê?” Vị đại thần
lại về hỏi cha, người cha nói: “Đó là vị tỳ-kheo đang tu
tập. So với kẻ phàm phu, vị ấy là người tỉnh; so với vị
A-la-hán, tỳ-kheo ấy là người còn mê.” Liền đáp với
thiên thần như vậy.
Thiên thần lại chỉ vào con voi của quốc vương, hỏi
voi ấy nặng bao nhiêu cân. Cả triều đình đều mù mịt
không nói được. Đại thần lại đến hỏi cha, người cha
dạy: “Cho voi ấy lên thuyền rồi đánh dấu mức nước
bên mạn thuyền. Sau đó cho đá lên cùng thuyền ấy
cho đến khi thuyền chìm xuống đến đúng mức đã đánh
dấu. Cân số đá ấy thì biết voi nặng bao nhiêu cân.” 1
Liền dùng cách ấy đáp với thiên thần.
1 Kinh này được dịch sang Hán ngữ vào đời Bắc Ngụy, tức khoảng
cuối thế kỷ 4, đầu thế kỷ 5. Nước ta có lưu truyền câu chuyện
Trạng nguyên Lương Thế Vinh (1441-1496) cân voi bằng cách
giống như trong câu chuyện này. Người Trung Hoa lại có truyền
thuyết rằng Tào Xung, con của Tào Tháo cũng từng dùng cách này
để cân voi vào năm mới được 6 tuổi, nhưng điều đó chưa xác thực,
nhiều người không tin. Nay xét thấy chuyện này có nguồn gốc
trong kinh Phật, mới biết đạo Phật đã đi vào đời sống từ xa xưa, và
có rất nhiều câu chuyện trong kinh Phật được truyền rộng lâu đời
đến mức người ta không còn biết đến xuất xứ của nó nữa. Như câu
chuyện “người mù sờ voi” đã trở thành một điển cố rất nổi tiếng,
nhưng rất ít người biết nó có xuất xứ từ kinh Đại Bát Niết-bàn.
Thiên thần lại hỏi: “Làm thế nào để một chén nước
có thể nhiều hơn nước trong biển cả?” Đại thần lại hỏi
cha, người cha đáp: “Nếu có thể khởi tâm chí thành
đem một chén nước ấy cúng dường lên đức Phật, hoặc
chư tăng, hoặc cha mẹ, hoặc người đang bị bệnh khổ
nguy khốn, ắt sẽ được thọ hưởng phước báo không
cùng tận. Biển cả tuy nhiều nước, bất quá cũng chỉ tồn
tại trong một kiếp, 1 so ra không bằng phước ấy.” Nhà
vua y theo như vậy trả lời với thiên thần.
Thiên thần liền hóa thành một người ốm đói gầy
còm chỉ còn da bọc lấy xương rồi hỏi: “Trong đời còn có
người nào thê thảm hơn ta nữa chăng?” Mọi người lại
không ai biết câu trả lời. Đại thần về hỏi cha, người
cha dạy phải trả lời với thiên thần rằng: “Nếu có người
tham lam bủn xỉn, ganh ghét đố kỵ với người khác,
đời sau ắt sẽ đọa vào cảnh giới ngạ quỷ, trong trăm
ngàn vạn năm không được nghe đến tên gọi các loại
nước, huống hồ là được uống, mỗi khi cử động thì các
đốt xương đều sinh ra lửa nóng tự thiêu đốt. Người
chịu cảnh đói khổ lửa thiêu như thế, tất nhiên còn thê
thảm hơn ông gấp trăm ngàn vạn lần.”
Thiên thần lại hóa thành một người tay chân đều
bị xiềng xích cùm khóa, trên cổ đeo gông nặng khóa
1 Mỗi một thế giới khi trải qua trọn một kiếp đều có đủ 4 giai đoạn
là thành, trụ, hoại, diệt. Biển cả nằm trong thế giới ấy nên đến
giai đoạn diệt thì cũng không còn nữa.
An Sĩ toàn thư
304 305
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
chặt, trong thân hình bốc ra lửa nóng tự thiêu cháy
toàn thân đỏ rực, đến hỏi quốc vương: “Thế gian này có
người nào khổ sở đến mức như ta đây chăng?” Đại thần
lại nghe theo lời cha mà trả lời rằng: “Nếu ai bất hiếu
với cha mẹ, ngỗ nghịch làm hại bậc sư trưởng, khinh
chê báng bổ Tam bảo, đời sau ắt phải đọa vào địa ngục,
trong mỗi một ngày đêm chết đi sống lại đến vạn lần,
cảnh ấy còn khổ sở hơn ông đến trăm ngàn vạn lần.”
Thiên thần lại hóa thành một người con gái đoan
trang xinh đẹp không ai bằng, đến hỏi quốc vương:
“Thế gian này có ai xinh đẹp hơn ta chăng?” Đại thần
lại theo lời cha mà đáp rằng: “Nếu có người cung kính
tin theo Tam bảo, hiếu thuận với cha mẹ, thường thực
hành các pháp bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn, trì giới,
ắt sẽ được sinh lên cõi trời, thân hình đoan nghiêm
thù thắng, vượt xa hơn cô trăm ngàn vạn lần. Nếu lấy
hình thể của cô thế này mà so sánh với người ấy thì
chẳng qua chỉ như con khỉ chột mắt mà thôi.”
Thiên thần lại đưa ra một cây gỗ chiên-đàn đã đẽo
gọt bốn bề vuông vức bằng nhau rồi hỏi: “Phần nào là
gốc, phần nào là ngọn?” Người cha của đại thần liền đưa
ra câu trả lời rằng: “Chỉ cần thả cây xuống nước, phần
chìm xuống thấp hơn là gốc, phần nổi cao hơn là ngọn.”
Thiên thần liền mang đến hai con ngựa cái hình
dáng giống hệt như nhau, hỏi rằng: “Trong hai con
ngựa này, con nào là ngựa mẹ, con nào là ngựa con?”
Đại thần lại đến hỏi cha, người cha trả lời rằng: “Hãy
mang cỏ đến cho ăn. Ngựa mẹ sẽ nhường cho con nó
ăn trước.”
Cứ như vậy lại đưa ra rất nhiều câu hỏi, quan đại
thần đều nhờ có sự hướng dẫn của người cha mà đối
đáp thông suốt tất cả. Thiên thần hài lòng, hứa sẽ bảo
vệ cho đất nước này. Nhà vua khi ấy rất vui mừng,
liền hỏi vị đại thần: “Ông tự biết được những điều ấy
chăng? Hay có ai dạy cho ông biết?”
Vị đại thần liền nói thật mọi điều. Vua lập tức cho
đón người cha của vị đại thần đến để phụng dưỡng, tôn
làm bậc thầy. Đại thần liền tâu lên rằng: “Bệ hạ nên
truyền lệnh cho người khắp nước từ nay không được
xua đuổi người già nữa. Những kẻ bất hiếu với cha mẹ
nên xử tội nặng.”
Vua chuẩn y theo lời ấy. Từ đó điều luật xấu ác kia
được xóa bỏ, người trong khắp nước ấy đều biết hiếu
thảo phụng dưỡng cha mẹ.
Lời bàn
Đức Phật kể lại chuyện này rồi nói rằng: “Người
cha của đại thần thuở ấy, nay chính là ta. Đại thần thuở
ấy, nay là Xá-lợi-phất. Quốc vương thuở ấy, nay là vua
A-xà-thế. Vị thiên thần thuở ấy, nay chính là A-nan.”
An Sĩ toàn thư
306 307
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Hương lạ bay xa 1
Đ
ời nhà Đường, quan thứ sử Từ Châu là Vương
Thiên Thạch, tính tình nhân ái, từ hòa, hiếu
thuận, nổi tiếng là người điềm tĩnh, thận trọng, lại tinh
thông kinh điển Phật giáo. Niên hiệu Trinh Quán năm
thứ 6, 2 người cha của ông qua đời, ông buồn thương
đau đớn quá độ. Sau khi lập phần mộ, ông dựng một
lều tranh nhỏ bên trái phần mộ, mỗi đêm đều ở đó
tụng kinh Phật, hồi hướng phước báo cho cha. Người
trong vùng ấy thường nghe có tiếng gõ khánh ngân
vang, âm thanh cực kỳ trong trẻo êm tai, lại có hương
thơm lạ lùng bay xa ra quanh đó rất nhiều dặm.
Lời bàn
Những người vừa mới qua đời, thần thức trong
trạng thái trung ấm giống như hôn mê, phía trước
không thấy ánh sáng, nhìn quanh không có ai là bạn
bè thân thích. Trong khoảng thời gian 7 tuần thất, mỗi
tuần thất là 7 ngày, cả thảy 49 ngày, luôn ở trong tâm
trạng kinh khiếp sợ hãi, nỗi khổ ấy thật khôn lường,
lúc nào cũng hướng đến những người thân nơi dương
thế, cầu mong họ làm điều phước thiện hồi hướng cho
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả)
2 Tức năm 632.
mình để giảm bớt tội lỗi. Vì thế, con cháu hiếu thảo với
ông bà cha mẹ, không chỉ lo cho thi hài được có nơi an
táng chu đáo, mà còn phải lo sao cho thần thức người
quá cố được có chỗ quay về nương dựa an ổn nữa. Ví
như hạt đào hạt mận, có thể dùng để tiếp nối sinh sản
không dứt chính là nhờ nơi cái nhân bên trong. Người
đời nay chỉ biết lo việc chí thành phụng dưỡng cha
mẹ lúc sinh tiền, an táng chu đáo lúc qua đời, nhưng
không biết đến việc lo cho thần thức cha mẹ có chỗ
quay về nương dựa an ổn, như vậy há chẳng phải là
chỉ lo giữ gìn bảo vệ phần vỏ bên ngoài mà lại vất bỏ đi
cái nhân bên trong rồi sao?
Xuất gia báo đáp ơn cha 1
V
ào đời Đường, có người họ Tạ, cha làm nghề
đánh cá, một hôm rơi xuống nước mà chết.
Người ấy nghĩ, cha mình tạo nghiệp giết hại quá nhiều,
nay chết chắc chắn phải đọa vào đường dữ. Nghĩ vậy
liền xuống tóc xuất gia làm một vị tăng, pháp danh là
Sư Bị. Ông dốc lòng tu tập chuyên cần, khó nhọc, giữ
hạnh đầu đà.
Một hôm, Sư Bị cùng chúng tăng có việc ra khỏi
núi, rủi ro vấp phải cục đá cắt thành vết thương nơi
1 Trích từ sách Truy môn sùng hành lục - 緇門崇行錄. (Chú giải
của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
308 309
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
chân, máu tuôn lênh láng, ngay khi nhìn thấy máu
chảy hốt nhiên đại ngộ. Sau đó, ngài mộng thấy người
cha hiện về tạ ơn, nói rằng: “Nhờ có con xuất gia, liễu
ngộ tâm tánh, nên ta đã được sinh về cõi trời, nay đến
đây để báo cho con được biết.”
Lời bàn
Trong kinh Hiền ngu nhân duyên (賢愚因緣經) 1 có
dạy rằng: “Ví như có một thầy thuốc giỏi, chữa trị cho
100 người mù đều được sáng mắt. Lại có một người đủ
thế lực, ra sức cứu thoát cho 100 người khỏi tội móc
mắt, không bị mù lòa. Tuy rằng cả 2 người ấy đều được
phước báo vô lượng, nhưng vẫn không bằng phước báo
của người tạo điều kiện cho người khác xuất gia hoặc
tự mình xuất gia tu tập.”
1 Chúng tôi không tìm thấy đoạn trích này trong kinh Hiền ngu (賢
愚經), thuộc Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 4, kinh số 202,
do nhóm của ngài Huệ Giác dịch sang Hán ngữ vào đời Bắc Ngụy.
Tuy nhiên, nguyên văn đoạn này lại được tìm thấy trong sách
Pháp Uyển Châu Lâm (法苑珠林), thuộc tập 53, kinh số 2122
trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (tổng cộng 100 quyển, do
ngài Đạo Thế soạn vào đời Đường. Đoạn trích này bắt đầu từ dòng
thứ 18, trang 448, tờ a, quyển 22, với câu mở đầu là “Hựu Hiền
ngu kinh vân” (又賢愚經云 - Trong Kinh Hiền ngu lại có nói rằng).
Như vậy, tiên sinh An Sĩ đã trích lại từ sách Pháp uyển châu lâm
và do đó mà nguồn dẫn chú cũng bị sai theo.
Như vậy, việc con cái xuất gia tu tập mà cha mẹ
nhờ phước ấy được sinh cõi trời thật không có gì phải
nghi ngờ cả.
Tu sám pháp tìm được mẹ 1
Đ
ời nhà Tống có người tên Chu Thọ Xương, là con
của quan Hình bộ Thị Lang Chu Tốn. Mẹ ông
xuất thân từ gia tộc thấp hèn. Năm Thọ Xương lên 7 tuổi,
Chu Tốn đến trấn nhậm vùng Ung châu, sắp đặt cho mẹ
ông kết hôn với người khác trong dân gian. Đến khi ông
lớn lên không có mẹ, buồn thương không dứt, cuối cùng
từ bỏ chức quan để đi tìm mẹ. Tìm khắp bốn phương, trải
qua nhiều gian khổ mà vẫn không gặp được mẹ.
Chu Thọ Xương trích huyết chép một bộ Thủy Sám,
lại khắc bản in lưu hành khắp nơi, ngày đêm thường
trì tụng bộ sám ấy không ngừng nghỉ. Sau ông đi đến
Đồng châu, bỗng nhiên được gặp lại mẹ. Mẹ con ôm
nhau khóc, người đi đường ai nấy nhìn thấy đều cảm
động. Ông liền đón mẹ về nhà phụng dưỡng. Không bao
lâu sau ông lại ra làm quan, nhận chức Tư nông Thiếu
khanh. Hàng trí thức đương thời rất nhiều người đem
chuyện của ông viết lại thành truyện để lưu truyền.
1 Trích từ sách Mộng khê bút đàm - 夢溪筆談. (Chú giải của soạn giả)
Sách này do Thẩm Quát biên soạn hoàn tất vào khoảng năm 1088,
được xem như một bộ từ điển bách khoa đầu tiên của Trung Quốc về
lĩnh vực khoa học tự nhiên, triết học và khoa học thường thức.
An Sĩ toàn thư
310 311
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Trích huyết chép sám pháp, lại ngày đêm trì tụng,
thật chí thành biết bao! Nhờ việc ấy mà mẹ con được
gặp lại nhau, đó cũng là lẽ đương nhiên. Chu Hy sau
này khi biên soạn sách Tiểu học có đưa vào sự tích
Chu Thọ Xương tìm mẹ, nhưng lại lược bỏ mất chi tiết
này, khiến cho người đọc không thể hiểu được nguyên
nhân vì sao?
Tích âm đức cho cha mẹ 1
L
âm Thừa Mỹ người ở Phúc Kiến, mồ côi cha
từ thuở bé, người mẹ ở vậy thủ tiết thờ chồng,
vất vả nuôi con. Thừa Mỹ lớn khôn ngày đêm buồn
khổ than khóc, không biết làm cách nào để báo đáp
công ơn cha mẹ.
Nhân có một vị thiền sư bảo ông rằng: “Người con
hiếu thảo nghĩ đến công ơn cha mẹ, buồn khổ khóc lóc
cũng chỉ vô ích thôi. Phải tìm cách mà báo đáp mới được.”
Rồi lại dạy rằng: “Làm việc thiện thì cha mẹ được
lợi lạc, làm việc xấu ác thì cha mẹ phải buồn lo. Kẻ làm
con muốn báo đáp công ơn cha mẹ, nên tự mình tránh
việc giết hại, cứu vật phóng sinh, rộng tích âm đức,
như vậy có thể báo đáp được công ơn cha mẹ.”
1 Trích từ sách Cảm ứng thiên quảng sớ - 感應篇廣疏. (Chú giải
của soạn giả)
Thừa Mỹ nghe lời tỉnh ngộ, từ đó phát nguyện giới
sát phóng sanh, rộng làm nhiều điều phước thiện. Sau
ông sống thọ đến 96 tuổi, bình sinh trong việc khoa
bảng cũng từng đỗ đầu ở Phúc Kiến.
Lời bàn
Ở đời có người khéo biết cách hiếu thuận, lại cũng
có người không biết cách hiếu thuận. Nếu mình hết sức
chí thành và có thể làm cho cha mẹ thật sự nhận được
sự lợi lạc, như vậy gọi là khéo biết cách hiếu thuận.
Nếu mình cũng hết sức chí thành nhưng không thể
làm cho cha mẹ thật sự nhận được sự lợi lạc, như vậy
gọi là không biết cách hiếu thuận.
Nếu lấy sự buồn đau khóc lóc mà gọi là hiếu thuận,
thì ví như có khóc đến hai mắt tuôn lệ thành sông, liệu có
ích lợi gì cho cha mẹ chăng? Nếu lấy việc mặc áo vải thô
để tang cha mẹ mà gọi là hiếu thuận, thì ví như có gom
những tang phục bằng vải thô đó thành núi lớn, nằm
ngồi đều ở trong đó, liệu có ích lợi gì cho cha mẹ chăng?
Cho nên, những việc như khóc thương hay để tang
cha mẹ chỉ là phương cách để người con hiếu biểu lộ
tình cảm đối với cha mẹ, còn nếu thực sự muốn báo
đáp công ơn trời biển của cha mẹ, ắt phải dùng theo
cách thiền sư đã chỉ dạy như trên, chứ không thể dựa
vào những hình thức thường tình của thế tục.
313
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
312
Với anh em phải giữ lòng kính trọng,
thương yêu lẫn nhau
Giảng rộng
A
nh em trong một nhà, tuy hình hài có khác
biệt, nhưng nếu xét theo tình thương của cha
mẹ thì không khác gì nhau. Cho nên, anh em có chuyện
bất hòa, chia cách, ắt không khỏi làm cho cha mẹ đau
buồn, khổ tâm. Nếu anh em biết tương trợ giúp đỡ,
thương yêu lẫn nhau, đó gọi là thuận theo đạo, vốn
cũng là một yếu tố nằm trong đạo hiếu. Nguyên văn
chỉ nói “em phải kính anh”, không nói đến “anh phải
thương yêu em”, ấy chỉ là vì cách nói giản lược, thật ra
vẫn hàm ý trong đó.
Anh em tình thân như chân với tay, nhưng xưa nay
thông thường bị chia cách, tình nghĩa tổn thương phần
nhiều là khi có thêm người vợ. Người phụ nữ hiền thục
đức hạnh tuy vẫn có, nhưng những người hẹp hòi kém
đức cũng không phải ít. Những người ấy thường chỉ
thấy biết việc nhỏ nhen mà không hiểu thấu ý nghĩa
lớn lao, chỉ biết thu vén điều lợi về mình mà không
biết đến người khác, do đó mà sự tranh chấp, xung
đột rất dễ xảy ra. Lại thêm khuynh hướng thường gặp
ở người đàn ông là rất dễ tin theo lời vợ. Anh em dù
có trăm tiếng ngàn lời hết sức giải bày, thường cũng
không bằng một vài lời tỉ tê bên tai của vợ. Ấy thế nên
có nhiều người tính tình cứng rắn nóng nảy, mà trước
mặt vợ thì mềm mỏng yếu ớt; có nhiều người mạnh mẽ
cương cường, mà trước mặt vợ thì nhút nhát sợ sệt; có
nhiều người hết sức sáng suốt khôn ngoan, mà trước
mặt vợ thì hóa ra hôn ám mê muội; có nhiều người
hết sức sang cả tôn quý, mà trước mặt vợ bỗng như
hóa thành người sai vặt; có nhiều người hết sức quyết
đoán tự tin, nhưng trước mặt vợ bỗng trở thành do
dự, trù trừ; có nhiều người hết sức keo kiệt bủn xỉn,
mà trước mặt vợ bỗng trở nên hào phóng rộng rãi; có
nhiều người hết sức cao ngạo bướng bỉnh, mà trước
mặt vợ bỗng trở thành ngoan ngoãn khuất phục; có
nhiều người hết sức công minh chính trực, mà trước
mặt vợ bỗng trở nên tà vạy, dua nịnh.
Cho nên, có những người dẫu vẫn biết tôn trọng
việc nước đạo nhà, nhưng không thể hết lòng giữ theo
trung, hiếu. Ấy là vì trong chốn khuê phòng có kẻ ngày
đêm tỉ tê to nhỏ những chuyện khác hơn, cứ dần dần
nghe mãi mà thành bị khuất phục. Thật đáng thương
An Sĩ toàn thư
314 315
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thay! Tình anh em trong cõi đời có năm sự ô trược 1 xấu
ác này, biết làm sao để nhà nhà đều có được những
người con dâu hiền thảo đức hạnh, giúp cho anh em
đều biết hòa thuận thương yêu đối xử tốt đẹp, không
oán thù xung đột với nhau.
Trưng dẫn sự tích
Cung kính chuyển giao tài sản 2
Đ
ời nhà Minh có người tên Triệu Ngạn Tiêu,
sau khi cha mẹ mất rồi, cùng với người anh
là Triệu Ngạn Vân làm ăn sinh sống với nhau đến 12
năm. Sau đó, Ngạn Vân thường ăn chơi lười nhác, bỏ
phế cơ nghiệp, Ngạn Tiêu liền xin với anh phân chia
gia sản để mỗi người tự lập.
Vừa qua được 5 năm, gia sản của Ngạn Vân đã hết
sạch. Một hôm, Ngạn Tiêu bày tiệc rượu mời anh đến
chơi rồi nói: “Em trước đây vốn không có ý muốn phân
chia gia sản, chỉ vì anh không biết tự kiềm chế lo việc
1 Cõi đời có năm sự ô trược xấu ác (ngũ trược ác thế): tức thế giới
Ta-bà chúng ta đang sống. Năm sự ô trược đó là: kiếp trược, kiến
trược, chúng sinh trược, mạng trược và phiền não trược.
2 Trích từ sách Cảm ứng thiên giải - 感應篇解. (Chú giải của soạn
giả)
làm ăn, nên em vì thương anh mà buộc phải phân chia
ra để tự mình có thể giữ gìn được phân nửa sản nghiệp
cha mẹ để lại, dẫu có bề gì cũng còn có thể tạm duy trì
sự sống cho anh em mình. Nay mời anh quay trở lại
nhà, xin giao quyền làm chủ gia đình này cho anh.”
Ngạn Vân nói rồi đem chứng từ phân chia gia sản
ngày trước ra đốt sạch, lấy chìa khóa nhà kho giao hết
cho anh, lại hỏi tất cả các khoản nợ nần hiện nay của
anh rồi thay anh thanh toán hết. Ngạn Vân hết sức
xấu hổ, nhận lời em rồi từ đó nỗ lực hối cải, chí thú lo
việc làm ăn, không còn ham chơi như ngày trước.
Năm sau, cả hai cha con Triệu Ngạn Tiêu cùng lúc
thi đỗ Tiến sĩ.
Lời bàn
Khi chạm đến vấn đề phân chia tài sản, anh em
trong một nhà thường rất dễ trở thành chia cách, ly
tán. Khi còn sống dựa vào cha mẹ, nhờ cậy qua lại
mọi việc rồi cũng qua; đến lúc thực sự phân chia tài
sản riêng tư, mới thường nảy sinh chuyện tranh chấp,
giành giật lẫn nhau.
Lành thay, sách Công quá cách (功過格) có câu
rằng: “Phận làm con trong khi nuôi dưỡng cha mẹ,
hoặc lo việc tang ma, nên nghĩ tưởng rằng cha mẹ chỉ
sinh ra được mỗi một mình ta; đến lúc phân chia gia
An Sĩ toàn thư
316 317
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
sản, nên nghĩ tưởng rằng cha mẹ sinh ra anh em đông
đúc, chẳng riêng gì mình ta.”
Đến như quán xét việc làm của Triệu Ngạn Tiêu,
nào thấy ông ta có nghĩ tưởng gì đến việc tranh giành
tài sản đâu?
Tình cảm chí thành cảm hóa được người 1
Đ
ời nhà Minh, tại Quy An thuộc vùng Triết
Giang 2 có người tên Nghiêm Phụng, tánh
tình hiếu thuận, luôn thương yêu đối xử tốt với anh
em bằng hữu, người đời thường tôn xưng là Khê Đình
Tiên sinh. Một hôm cùng với người bạn đồng hương
là Thí Dực đi thuyền dạo chơi. Thí Dực than phiền
với ông rằng người anh phân chia tài sản với mình
chẳng công bằng. Nghiêm Phụng nghe rồi buồn bã nói:
“Tôi có người anh sức khỏe yếu kém, đó là điều làm
tôi khổ tâm nhất. Giá như anh tôi mà được mạnh mẽ
như anh của ông, dẫu có đoạt hết ruộng đất tài sản,
tôi cũng không buồn.” Nói dứt lời, nước mắt tuôn tràn
không dứt. Thí Dực nghe vậy hết sức cảm động, nhân
đó trong lòng có chút tỉnh ngộ.
Nguyên Thí Dực có người anh là Thí Tương Chi.
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
2 Nay thuộc thành phố Hồ Châu.
Cả hai đều là bậc nhân sĩ trí thức vùng Tri Châu, chỉ
do việc phân chia tài sản ruộng đất mà anh em hóa ra
hiềm khích với nhau đã nhiều năm rồi. Kể từ sau lần
đó, anh em nhà họ Thí quay lại làm hòa, nhường nhịn
lẫn nhau, suốt đời không một lời nào phân cách nữa.
Lời bàn
Khê Đình Tiên sinh khi từ quan về quê, có người
anh rất nghèo khổ lại già yếu, liền đón về nhà mình
nuôi dưỡng. Mỗi khi có dịp đãi khách tại nhà, đều
cung kính mời anh ngồi trên, còn bản thân mình cầm
đũa đứng hầu phía sau anh. Một hôm nhân bước tới
trước gắp chút thức ăn, anh cho là vô lễ, giận tát vào
mặt, ông vui vẻ đón chịu, suốt bữa tiệc ấy lại tỏ ra vẻ
vô cùng hứng khởi, hân hoan. Tan tiệc, ông cung kính
đưa anh vào phòng nghỉ. Hôm sau, trời chưa sáng đã
đến bên giường anh đứng chờ vấn an. Chẳng bao lâu
sau người anh mất. Ông than khóc, chu toàn việc tống
táng theo đúng lễ nghi.
Qua việc tiên sinh đối với anh tận tình như thế, có
thể biết rằng những lời tiên sinh đã nói với Thí Dực
thảy đều là xuất phát từ nội tâm chân thật.
319
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
318
Với bạn bè phải giữ lòng tin cậy
Giảng rộng
C
ứ y theo ý nghĩa của chữ “bằng hữu” vẫn
thường dùng, thì một nhóm bạn cùng chơi với
ta sẽ gọi là “bằng”, nếu chỉ một người bạn thì gọi là
“hữu”, cũng có thể xem là tương đương với cách nói “bạn
bè” trong tiếng thuần Việt. Tuy nhiên, ở đây không
cần thiết phải gượng ép phân tích, có thể nói chung
hết thảy những ai cùng ta chung lý tưởng phụng sự,
hoặc cùng chung công việc, hoặc cùng chung lớp học
v.v... đều có thể xem là bạn.
Nói “giữ lòng tin cậy” cũng hàm nghĩa đối xử với
nhau tương kính, không có sự khinh khi, chứ không
chỉ hạn hẹp trong ý nghĩa giữ đúng lời đã hứa. Cho
nên, lo việc giúp bạn mà không tận tâm hết sức, ấy là
không giữ lòng tin cậy. Vay mượn của bạn không hoàn
trả đủ, ấy cũng là không giữ lòng tin cậy. Trước mặt
bạn ngợi khen xưng tán, lúc vắng mặt thì chê bai phỉ
báng, ấy là không giữ lòng tin cậy. Gặp lúc bạn nguy
cấp không cùng chia sẻ giúp đỡ, ấy cũng là không giữ
lòng tin cậy. Thấy bạn có lỗi lầm sai trái mà không
chỉ ra để khuyên bạn cải hối, ấy là không giữ lòng tin
cậy... Tránh được tất cả những điều “không tin cậy”
như trên, đó chính là giữ được lòng tin cậy với bạn bè.
Trưng dẫn sự tích
Vượt ngàn dặm để giữ lời hứa 1
T
hời Tam quốc, 2 nước Ngô có người tên Trác
Thứ. Nhân lúc từ Kiến Khang 3 sắp về Hội
Kê, 4 đến từ biệt Thái phó là Gia Cát Khác. Thái phó
hỏi khi nào trở lại, Trác Thứ nói đến ngày ấy tháng
ấy... ... sẽ trở lại.
Đúng ngày hẹn, Thái phó bày tiệc đãi khách.
Quan khách đều đến đủ nhưng vẫn chưa đãi ăn uống,
có ý muốn đợi Trác Thứ. Mọi người đều nói: “Đường từ
Kiến Khang đến Hội Kê, đi về cả ngàn dặm, lại thêm
sông hồ cách trở gian nan, chắc gì ông ấy trở lại kịp?”
Bỗng nhiên thấy Trác Thứ đột ngột xuất hiện, tất cả
mọi người trong tiệc đều kinh ngạc.
1 Trích từ sách Sử lâm - 史林. (Chú giải của soạn giả)
2 Thời Tam quốc: là giai đoạn lãnh thổ Trung Hoa bị phân chia
chủ yếu bởi 3 phe là Ngô, Thục và Ngụy, kéo dài trong khoảng từ
năm 220 đến năm 263.
3 Nay là Nam Kinh.
4 Nay là vùng Thiệu Hưng thuộc tỉnh Triết Giang.
An Sĩ toàn thư
320 321
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Đây chỉ là một trong các khía cạnh của việc giữ lòng
tin cậy. Tuy nhiên, vượt đường xa ngàn dặm mà không
để sai lời đã hẹn, đủ biết người xưa giữ tín như thế nào.
Giữ lời hứa hóa độ bạn 1
T
hời Đông Hán, ở Lạc Dương có vị cao tăng là
An Thế Cao, vốn là thái tử của quốc vương
nước An Tức, 2 từ thuở nhỏ đã nổi tiếng là người chí
hiếu. Ngài thông minh trí tuệ hơn người, đọc hiểu
thấu suốt sách vở trong thiên hạ, thông thiên văn,
hiểu rành y học, có khả năng thông hiểu được ý nghĩa
trong âm thanh của các loài chim thú...
Ngài An Thế Cao tự kể lại rằng, trong đời trước
ngài cũng xuất gia học đạo, có người bạn đồng tu tính
tình nóng nảy sân hận, can ngăn nhiều lần nhưng
không thay đổi. Ngài có lời hứa đến đời này sẽ hóa độ
cho người ấy.
Khoảng cuối đời Hán Linh Đế, ngài quyết định đến
Giang Nam hoằng hóa, cũng là để hóa độ cho người
bạn đời trước. Ngài đi đến một cái miếu ở hồ Cung
1 Trích từ sách Lương Cao tăng truyện - 梁高僧傳. (Chú giải của
soạn giả)
2 Ngày nay chính là nước Iran.
Đình, nổi tiếng rất linh thiêng, khách buôn vãng lai
đến đó cầu khấn đều có thể biết trước được hướng gió
thuận hay nghịch, vì thế nên người cầu đảo cúng tế ở
đây không lúc nào ngớt. Khi ngài An Thế Cao còn chưa
đến, người giữ miếu nghe tiếng thần giữa hư không
bảo rằng: “Trên thuyền sắp đến kia có một vị cao tăng,
nên thỉnh vào miếu.”
Người giữ miếu theo lời mách bảo của thần, đón
thuyền mời ngài An Thế Cao vào miếu. Cùng đi trên
thuyền có hơn 30 người cũng đều đi theo. Khi vào miếu
liền nghe tiếng thần nói rằng: “Tôi ngày trước ở đất
nước khác, cùng với thầy học đạo, nay tôi làm thần ở
miếu này. Trong phạm vi ngàn dặm quanh đây đều do
tôi cai quản. Nhờ đời trước tu hạnh bố thí nên đời này
được hưởng phước rất lớn, nhưng do tâm nhiều sân
hận nên phải đọa trong cảnh giới quỷ thần. Mạng tôi
nay sắp dứt, chỉ còn trong sớm tối. Do những người vì
tôi cúng tế cầu đảo thường giết hại sinh linh rất nhiều
nên tôi sợ rằng sau khi chết không khỏi đọa vào địa
ngục, xin thầy từ bi cứu độ. Tôi có được ngàn cây vải
lụa cùng nhiều đồ vật quý báu ở đây, xin thầy vì tôi
dùng những thứ ấy lo việc phụng sự Phật pháp.”
Ngài An Thế Cao bảo thần hiện thân gặp mặt,
thần nói: “Thân hình tôi cực kỳ xấu xí, nếu hiện ra
nhất định sẽ làm hại mọi người ở đây vì kinh sợ.”
An Sĩ toàn thư
322 323
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Ngài Thế Cao nói: “Không sao, mọi người đã biết,
sẽ không lấy làm sợ hãi đâu.”
Thần liền từ phía sau điện thờ hiện thân, đưa phần
đầu ra, thật là một con mãng xà cực lớn, không biết
được phần thân với đuôi dài đến mức nào. Mãng xà bò
đến sát bên gối của ngài An Thế Cao. Ngài hướng về
phía mãng xà tụng chú nhiều lần, rồi dặn dò dạy bảo
nhiều điều. Mãng xà lắng nghe rồi rơi lệ như mưa,
thân hình sau đó dần dần biến mất.
Ngài An Thế Cao nhận lấy vải lụa và những vật
quý của thần miếu đã gửi gắm rồi từ biệt ra đi, mang
những thứ ấy vì thần miếu mà xây dựng ngôi chùa
Đông Tự, hồi hướng phước báo cho thần miếu trong
cảnh giới tái sinh.
Chẳng bao lâu sau, ngày nọ bỗng thấy có một thiếu
niên đến quỳ gối lễ tạ trước mặt ngài Thế Cao, sau đó
biến mất. Ngài Thế Cao bảo người chung quanh rằng:
“Đó là thần miếu hôm trước, nay đã thoát được hình
thể xấu xí rồi.”
Sau đó có người nhìn thấy trong một cái đầm
rộng lớn nổi lên xác con mãng xà cực lớn, thân dài
nhiều dặm. Chỗ ấy nay chính là Xà thôn thuộc quận
Tầm Dương. 1
1 Ngày nay là quận Cửu Giang, thuộc vùng Giang Tây.
Lời bàn
Những quỷ thần trên cạn dưới nước, nói chung
nếu thọ hưởng những vật thực do người đời sát hại
sinh linh mà dâng cúng, đều không khỏi phải đọa vào
địa ngục. Người thế tục không biết điều này, mỗi khi
gặp phải tật bệnh liền bói toán cầu thần, buông thả
làm việc giết hại sinh linh, càng gây hại thêm cho
người bệnh, khiến tội nghiệt chất chồng tội nghiệt, từ
khổ càng thêm khổ. Hạng quỷ thần này chính thật chỉ
là những quỷ quái yêu tinh, nếu nhờ đến bọn họ ban
phước, bảo vệ hay giúp tăng thêm tuổi thọ, rốt cùng
đều là chuyện không thể được.
Vào khoảng trước đời Đường, Đông Nhạc Thánh
Đế cũng từng vô tình thọ hưởng tế vật sát sinh, liền
phải gấp rút khẩn cầu thiền sư Nguyên Khuê truyền
giới, 1 huống chi là vị thần miếu này.
Chuyện này cũng chỉ nói lên một khía cạnh của
việc giữ lòng tin cậy, nhưng có thể giữ được lời hứa từ
kiếp trước, đủ thấy các vị cao tăng thời xưa xem trọng
việc giữ chữ tín đến như thế nào.
1 Chuyện này có chép trong Đường Cao tăng truyện - 唐高僧傳.
(Chú giải của soạn giả)
325
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
324
Hoặc phụng chân triều đẩu
Giảng rộng
C
hân, là nói đến các bậc thiên tiên; đẩu, là
danh xưng tinh tú. Ấy là những vị thường ghi
chép việc thiện ác, theo dõi số mạng sống chết của con
người, sao có thể không cung kính phụng thờ lễ bái?
Nếu như muốn truy tìm đến tận chỗ ban sơ, ắt các vị
thiên tiên là trước, tinh tú phải đặt sau. Vì thuở ban
đầu thế giới hình thành chưa có các vị tinh tú, Phạm
thiên Đế Thích nhân theo lời cầu thỉnh của Lư Thần
Đại tiên nên sau đó mới tạo lập 28 vị tinh tú ở 4 cửa
trời đông, tây, nam, bắc. Đẩu là tinh tú thứ năm ở cửa
tây, thuộc sao Đẩu, nên dùng các loại lúa gạo, hương
hoa, mật ong... mà cúng tế mới thích hợp.
Kinh Lâu Thán Chánh Pháp (樓炭正法經) 1 có nói
rằng: “Tinh tú lớn thì chu vi bảy trăm dặm, tinh tú
hạng vừa thì chu vi bốn trăm tám mươi dặm, tinh tú
1 Hiện được đưa vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh với tên Đại
Lâu Thán Kinh (大樓炭經), thuộc tập 1, kinh số 23, tổng cộng 6
quyển, do các ngài Pháp Lập và Pháp Cự dịch sang Hán ngữ vào
đời Tây Tấn.
nhỏ thì chu vi một trăm hai mươi dặm, bên trong đều
có các vị thiên nhân cư trú.” Người thế gian gọi là sao
rơi, thật ra chỉ là những tảng thiên thạch lớn, chẳng
phải tinh tú; thậm chí có người còn vẽ ra hình tượng
bảy con lợn bên dưới tượng Đẩu Mẫu, như thế thật là
vô cùng bất kính.
Các vị chân nhân, đẩu mẫu, đều là những người
đời trước kính tin Tam bảo, tu theo Mười điều lành, 1
nên ngày nay mới được hưởng phước cõi trời, có khả
năng bay lượn tự do giữa không trung, sống trong
cung điện tốt đẹp của cõi trời, chiếu soi xuống chốn
nhân gian. Cho nên, những người ngày nay tin theo
Đạo giáo mà quay lại phỉ báng Phật pháp thì làm sao
có thể phụng chân triều đẩu?
Đời Hán, Ngụy trở về trước, người ta thường tôn
xưng đức Phật là Thiên Tôn, gọi các vị tăng là đạo
sĩ, còn những đạo sĩ của Đạo gia chỉ gọi là tế tửu, tức
1 Mười điều lành hay Thập thiện, tức trái ngược với Mười điều ác
hay Thập ác, bao gồm: 1. Giới sát phóng sanh, 2. Bố thí, không
trộm cắp, 3. Giữ phạm hạnh thanh tịnh, không tà dâm, 4. Nói lời
chân thật, không dối trá, 5. Nói lời mang lại lợi lạc, không nói
lời trau chuốt, vô nghĩa, 6. Nói lời hòa giải, không gây chia rẽ, ly
tánm 7. Nói lời hiền thiện, ôn hòa, không nói lời hung dữ, độc
ác, 8. Không khởi tâm tham dục, 9. Không khởi tâm sân hận, 10.
Không khởi tâm si mê, tà kiến.
An Sĩ toàn thư
326 327
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
là người giữ lễ dâng rượu cúng mà thôi. Kể từ Khấu
Khiêm đời Bắc Ngụy trở về sau, Đạo giáo mới tiếm
xưng các danh hiệu Thiên Tôn và đạo sĩ, nên từ đó
không còn xưng Phật là Thiên Tôn, mà các vị tăng
cũng gọi là tỳ-kheo, không gọi là đạo sĩ nữa. Riêng
danh xưng “tế tửu” trước dùng để gọi đạo sĩ, sau đi vào
thế tục mà đổi lại là “đại tư thành”.
Trưng dẫn sự tích
Bảy vị tinh quân cứu lửa 1
V
ào đời nhà Minh, ở Hề Phố, Thường Thục
thuộc vùng Giang Tô có họ Tiền, người trong
họ cùng sống với nhau trong một vùng riêng biệt. Có
một gia đình 4 người, mẹ chồng với nàng dâu đều góa
bụa, thường ngày kính phụng Đẩu quân. Vào năm
Bính Dần niên hiệu Chánh Đức, 2 nhà kế bên rủi ro
phát hỏa, đám cháy kéo dài đến 3 ngày đêm. Trong lúc
ấy bỗng mơ hồ nhìn thấy có 7 người mặc áo đỏ, đứng
phía trước mái nhà phất ống tay áo, ngọn lửa theo đó
bỗng tắt, chung quanh bốn phía nhà đều hóa thành
tro lạnh.
1 Trích từ sách Khuyến trừng tập - 勸懲集. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức là năm 1506.
Lời bàn
Kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ môn 1 dạy
rằng: “Dù có vào trong lửa dữ, lửa cũng không thiêu
đốt được.” 2 Cứ theo sự việc trên mà xét thì câu kinh
này thật rất đáng tin.
Kính lễ Đẩu mẫu thoát nạn trộm cướp 3
Vào đời nhà Thanh, ở huyện Cú Dung thuộc tỉnh
Giang Tô có người tên Nghiêm Cận Sơn. Năm Khang
Hy thứ nhất, 4 Cận Sơn đi đến các quận Kinh Châu,
Tương Dương thuộc Hồ Bắc, gặp một vị đạo nhân dạy
nên kính lễ Đẩu mẫu. Cận Sơn tin tưởng làm theo
trong suốt 3 năm.
Một hôm, Nghiêm Cận Sơn đang đi thuyền dọc
theo ven sông, bỗng trời kéo mây đen tối sầm, lại gặp
1 Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (妙法蓮華經), được xếp vào Đại
Chánh tân tu Đại tạng kinh, thuộc tập 9, kinh số 262, tổng cộng
7 quyển, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch sang Hán ngữ. Phẩm Phổ
môn là phẩm thứ 25 trong kinh, bắt đầu từ dòng thứ 7, trang 198,
tờ b, quyển thứ 7.
2 Kinh văn: 設入大火, 火不能燒。 - Thiết nhập đại hỏa, hỏa bất
năng thiêu.
3 Trích từ sách Lăng tử chánh thuật - 淩子正述. (Chú giải của soạn
giả)
4 Tức là năm 1662.
An Sĩ toàn thư
328 329
phải thuyền bọn giặc cướp. Cận Sơn sợ hãi quá liền chí
thành niệm Đẩu mẫu tâm chú. Chẳng bao lâu, bỗng
thấy như có một đám mây đen kịt trùm xuống bao bọc
lấy thuyền của ông. Lần ấy Nghiêm Cận Sơn được an
toàn vô sự, mà tất cả các thuyền cùng đi đều bị bọn
cướp làm hại.
Lời bàn
Có người cho rằng Đẩu mẫu chính là đức Bồ Tát
Quán Âm, như vậy là không đúng. Bồ Tát tuy tùy theo
chủng loại chúng sinh mà hóa thân cứu độ, nhưng
thông thường đều ẩn tàng kín đáo chứ không lộ liễu.
Nếu cho đó là Bồ Tát Quán Thế Âm mà lại xếp vào
vai vế thấp hơn Ngọc đế, quả thật là vô cùng điên đảo.
Lại có người cho rằng Đẩu mẫu chính là chư thiên cõi
trời Ma-lợi-chi, 1 chẳng thể biết được là có đúng hay
không?
1 Ma-lợi-chi thiên (摩利支天), Phạn ngữ là Marīci-deva, Hán dịch
là Uy Quang thiên hay Dương Diệm thiên, được tin là một vị trời
thường cứu hộ nhân gian, có được nhắc đến trong kinh Ma-lợi-chi
Bồ Tát Đà-la-ni (摩利支菩薩陀羅尼經).
Phụ đính trích dẫn
Nguồn gốc kinh sách của Đạo giáo
Đ
ạo giáo vốn thật không có kinh sách đủ gọi là
“tạng”, duy nhất chỉ có một quyển Đạo Đức
kinh (道德經) gồm 5.000 chữ của Lão Tử là xác thật
mà thôi. Khi tôi khảo cứu sách Nguyên đô mục lục (
元都目錄), thấy hết thảy đều do người đời sau giả tạo,
mượn từ nội dung của sách Nghệ văn chí (藝文志) rồi
thêm vào các chú giải, thành ra 884 quyển, gọi đó là
tạng kinh sách của Đạo giáo.
Lại như việc tuyển chọn sai lầm các sách của Đạo
giáo qua các triều đại thật khó nói ra cho hết. Nay chỉ
xin lược cử một số trường hợp, như vào đời Tiền Hán
có Vương Mậu làm ra sách Động nguyên kinh (洞元
經); đời Hậu Hán có Trương Lăng làm ra sách Linh
bảo kinh (靈寶經) cùng với các nghi lễ cúng tế, cả thảy
40 quyển. Thời Tam quốc, nước Ngô có Cát Hiếu Tiên
làm ra sách Thượng thanh kinh (上清經). Đời Tấn có
đạo sĩ là Vương Phù làm ra sách Tam hoàng kinh (三
皇經), đạo sĩ nước Tề là Trần Hiển Minh làm ra sách
Lục thập tứ chân bộ hư phẩm kinh (六十四真步虛品
An Sĩ toàn thư
330 331
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
經). Đời nhà Lương có Đào Hoành Cảnh làm ra sách
Thái thanh kinh (太清經).
Vào đời Vũ Đế thời Bắc Chu lại có đạo sĩ ở Hoa
Châu là Trương Tân vâng chiếu nhận chức thứ sử Hoa
Châu, đạo sĩ ở Trường An là Trương Tử Thuận được
tuyển làm chức Khai phủ, quận Phù Phong có Mã Dặc
đỗ Tiến sĩ, Ung châu có quan Biệt giá là Lý Thông, cả
thảy 4 người này vào niên hiệu Thiên Hòa thứ 5 1 họp
lại tại chùa Thủ Chân ở Cố thành, cùng sao chép tuyển
soạn từ kinh điển nhà Phật mà làm thành những kinh
giả của Đạo giáo gồm đến hơn ngàn quyển. 2
Đời nhà Tùy, năm cuối niên hiệu Đại Nghiệp, 3 có
đạo sĩ Ngũ Thông Quán là Phụ Huệ Tường sửa đổi
kinh Niết-bàn (涅槃經) thành Trường An kinh (長安
經). Quan Thượng thư là Vệ Văn Thăng tâu việc này
lên triều đình, vua lập tức hạ lệnh bắt giải đến bên
ngoài Kim quang môn chém đầu răn chúng.
Vào năm đầu niên hiệu Lân Đức, 4 đạo sĩ Tây Kinh
là Quách Hành Chân, đạo sĩ Đông Minh Quán là Lý
Vinh, đạo sĩ Hội Thánh Quán là Điền Nhân Huệ, lại
1 Tức là năm 570.
2 Việc trang trí trình bày số kinh giả này do một người ở huyện
Vạn Niên tên là Tác Hiệu (索皎) thực hiện. (Chú giải của soạn giả)
3 Tức là năm 618.
4 Tức là năm 664.
cùng nhau mang những ngụy kinh từ trước ra thêm
thắt sửa chữa, lấy thêm nội dung từ kinh điển của Phật
giáo mà tráo đổi đưa vào, từ đó trong Đạo giáo mới có
thêm các danh từ như tam giới (ba cõi), lục đạo (sáu
đường), ngũ ấm (năm ấm), thập nhị nhập (mười hai
nhập), thập bát giới (mười tám giới), tam thập thất trợ
đạo phẩm (ba mươi bảy phẩm trợ đạo) cùng với các danh
xưng như đại tiểu pháp môn, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di...
Đây quả thật đúng như lời Khổng tử nói: “Chư
hầu tế lễ nên hướng đến thiên tử nghiêm trang kính
cẩn, sao lại nhận lấy nơi tế tự của hàng quan tước Tam
công mà cho đó là tôn kính nhất?” Xét cho cùng, chỗ
thâm trọng nhất của Đạo gia bất quá cũng chỉ đến cõi
trời, cõi tiên là hết, sao có thể đạt được đến như pháp
môn tu hành của hàng Bồ Tát?
Trích dẫn kinh sách Đạo gia
P
háp luân kinh của Đạo giáo nói rằng: “Đức
Thiên Tôn ban sắc dạy hàng đạo sĩ rằng: Nếu
thấy hình tượng Phật, khởi tâm vô lượng, nên nguyện
cho hết thảy chúng sinh cùng thể nhập pháp môn.”
Kinh Thái thượng thanh tĩnh nói: “Nếu thấy bậc
sa-môn, nên nguyện cho tất cả chúng sinh thấu rõ
được pháp môn giáo hóa, cùng đắc đạo như Phật.”
An Sĩ toàn thư
332 333
Kinh Lão tử thăng nguyên nói: “Đạo sĩ thiết lễ
cúng thanh tịnh, nếu có các vị tỳ-kheo hoặc tỳ-kheo ni
đến, phải mời lên tòa cao ngồi.”
Sách Phù tử nói rằng: “Bậc thầy của Lão tử chính
là đức Thích-ca Văn Phật.”
Kinh Linh bảo tiêu ma an chí nói rằng: “Đạo lấy
sự thanh tịnh trai giới làm đầu, chuyên cần thực hiện
ắt sẽ thành Phật.” 1
Kinh Thượng phẩm đại giới nói rằng: “Cúng dường
nơi tháp miếu của Phật, được phước báo gấp ngàn lần.
Cúng dường các vị sa-môn, được phước báo gấp trăm
lần.”
Kinh Lão tử đại quyền Bồ Tát nói rằng: “Lão tử
chính là Bồ Tát Ca-diếp, đến giáo hóa nơi đất Trung
Hoa.”
Lời bàn
Thời xưa Đạo giáo cúng tế thường dùng thịt nai
khô, rượu trắng, nay đã thay đổi dùng táo khô với
nước thơm.
1 Kinh này trước đây chép rằng: 勤行當作佛 - cần hành đương
tác Phật, về sau thấy sửa lại là: 勤行登金闕 - cần hành đăng kim
khuyết (chuyên cần thực hiện được lên đài vàng).
Hoặc thờ Phật học kinh,
thường nhớ nghĩ làm theo lời Phật dạy
Giảng rộng
D
anh xưng Phật mang ý nghĩa giác ngộ. Tự
mình đã giác ngộ rồi, lại giáo hóa người khác
giúp cho cũng được giác ngộ, đạt đến chỗ giác ngộ và
giáo hóa đều rốt ráo viên mãn thì được tôn xưng là
Phật. Vì trong tự tâm mỗi người đều sẵn có phẩm tính
giác ngộ, nên đều sẵn có tánh Phật.
Nếu nói rằng những tượng đất tượng gỗ mà người
đang lễ bái kia là Phật, ắt đó chỉ là Phật của hạng
phàm nhân ngu muội. Nếu nói thánh thần ban phước
giáng họa là Phật, thì đó chỉ là Phật của một số nhà
Nho thời Đường, Tống.
Hạng phàm nhân ngu muội suốt ngày nói đến
Phật, nhưng thật ra Phật chưa từng được cung kính;
các nhà Nho thời Đường Tống suốt ngày báng bổ Phật,
nhưng Phật thật chưa từng bị hủy báng; ấy là vì những
hạng người như thế đều không hề biết rằng trong tự
thân mình thật sự có Phật.
An Sĩ toàn thư
334 335
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Phật là bậc thầy lớn của Ba cõi, tất nhiên hết thảy
hàng chư thiên, thần tiên, Phạm vương, Đế thích, đều
phải cung kính lễ bái, huống chi là hạng phàm phu
đang chìm đắm trong vòng trói buộc?
Kính lễ một vị Phật, nên quán tưởng đang kính lễ
vô số Phật; kính lễ đức Phật trong hiện tại, nên quán
tưởng như đang lễ bái chư Phật quá khứ cùng chư
Phật trong đời vị lai; ví như đối trước chư Phật ba đời
trong khắp mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ,
đều nguyện đem thân mình cúng dường đến hết thảy
các vị, được như thế mới có thể gọi là khéo tu pháp lễ
kính Phật.
Kinh điển của chư Phật so với các sách khuyến
thiện của thế gian có chỗ không giống nhau. Thế gian
chỉ biết mưu cầu lợi lạc cho bản thân, gia đình mình;
kinh Phật lại nhắm thẳng đến việc cứu độ, khai mở
trí tuệ cho hết thảy chúng sinh. Thế gian chỉ có khả
năng luận bàn việc trong hiện tại, kinh Phật lại nhắm
thẳng đến những phước báo lợi lạc cho nhiều đời nhiều
kiếp. Thế gian này nếu không có kinh điển của chư
Phật, ắt là khắp hai cõi trời người, thiên hạ đều phải
chìm trong đêm dài tăm tối. Cho nên, kinh Thắng
thiên vương dạy rằng: “Nếu như có bậc thầy thuyết
giảng Phật pháp đi qua nơi nào, hàng thiện nam tín
nữ nên phát nguyện đem thân xác mình trải lót trên
đường đi, không để chút bụi bặm nào bay lên làm bẩn
chân Pháp sư.” 1 Chí thành cúng dường đến mức như
vậy cũng chưa đủ gọi là nhiều.
Tụng đọc kinh Phật, nghĩ nhớ và thấu hiểu ý nghĩa
sâu xa, lại có thể y theo lời dạy trong kinh mà thực
hành tu tập, đó là cao quý nhất. Nếu như không hiểu
được ý nghĩa sâu xa, chỉ giữ lòng cung kính ngưỡng mộ,
cũng được hưởng vô lượng phước báo. Giống như đứa
trẻ ngây thơ dùng thuốc, tuy chưa hiểu gì về phương
thuốc ấy, nhưng vẫn có thể trị được bệnh tật.
Phụ đính về sự sâu xa uyên áo của Phật pháp
Ngài A-nan kết tập kinh điển 2
S
au khi đức Phật nhập Niết-bàn, vì muốn kết
tập lại tất cả những lời thuyết giảng của Phật
1 Tên gọi đầy đủ của kinh này trong Đại Chánh tân tu Đại tạng
kinh là Thắng Thiên Vương Bát Nhã Ba La Mật Kinh (勝天王般若
波羅蜜經), được xếp vào tập 8, kinh số 231, tổng cộng 7 quyển,
do ngài Nguyệt-bà-thủ-na dịch sang Hán ngữ. Đoạn trích này bắt
đầu từ dòng thứ 5, trang 725, tờ c của quyển thứ 7.
2 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả) Sách này thuộc Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 53,
kinh số 2122, tổng cộng 100 quyển, do ngài Đạo Thế soạn vào
đời Đường. Đoạn này lược thuật dựa theo sách, không phải trích
nguyên văn. Xem phần nội dung này tại quyển 12, bắt đầu từ
dòng thứ 15, trang 376, tờ a, phần Thất bách kết tập bộ - đệ tứ.
An Sĩ toàn thư
336 337
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
trong 49 năm, nên hai cõi trời, người cùng nhau hội
tập. Ngài A-nan lên tòa cao ngồi, thân đắp y của Như
Lai. Đại Phạm Thiên vương cầm lọng làm bằng bảy
món báu, theo hầu che bên trên ngài A-nan. Thiên
Đế thích dâng lên bàn bảy báu, bày trước mặt ngài
A-nan. Vua La-hầu của loài a-tu-la hay tay bưng lò
hương bảy báu đến trước ngài A-nan. Thiên vương cõi
trời Tha hóa tự tại cũng dâng lên bảy món báu, số
lượng rất nhiều. Ma vương Ba-tuần cầm cây phất trần
bằng bảy báu dâng cho ngài A-nan, sau đó cùng với Đế
thích đứng hầu hai bên tả hữu. Bốn vị Đại thiên vương
đứng hầu quanh bốn chân tòa báu.
Sau khi kết tập kinh điển thành tựu, vua A-xà-
thế sao chép được 5 bản, Phạm vương sao chép 3 bản,
Đế thích sao chép 7 bản, Long vương Bà-kiệt-la sao
chép được 80.000 bản, tất cả đều dùng vàng bạc, bảy
báu in ấn lưu truyền.
Lời bàn
Đức Phật dạy rằng: “Ở châu Diêm-phù này, chỉ có
32 nước 1 có chúng sinh căn lành lớn, có khả năng lưu
hành giáo pháp do Phật truyền lại. Châu Phất-bà-đề
phương đông có 260 nước, châu Cù-da-ni phương tây
1 Tổng cộng trong cõi Diêm-phù-đề có 16 nước lớn, 500 nước
trung bình và 100. 000 nước nhỏ. (Chú giải của soạn giả)
có 130 nước, chúng sinh ở đó cũng có khả năng thực
hành theo giáo pháp do Phật truyền lại. Còn hết thảy
chúng sinh ở những nơi khác đều bạc phước, 1 không
đủ sức để nghe và nhận lãnh Phật pháp.”
Kinh Phật đến Trung Hoa 2
T
riều Đông Hán, Minh Đế sai nhóm các ông Thái
Âm, Tần Cảnh, Vương Tuân... cả thảy 18 người,
sang nước Thiên Trúc, 3 khi trở về cung thỉnh được các
vị tăng người Thiên Trúc là Ma Đằng, Trúc Pháp Lan,
cùng với nhiều tranh tượng Phật và Kinh điển.
Hán Minh Đế hỏi: “Đấng Pháp vương ra đời, vì
sao giáo pháp không đến xứ này?” Ngài Ma Đằng đáp:
“Nước Thiên Trúc nằm giữa cõi Đại thiên thế giới này,
nên chư Phật ra đời đều chọn nơi ấy. Ngoài ra những
nơi khác đều là xa xôi thiên lệch nên Phật không ra
đời. Tuy nhiên, sau Phật nhập diệt trăm ngàn năm, sẽ
có các vị thánh nhân truyền giáo pháp đến để hóa độ
chúng sinh.” Bấy giờ, Hán Minh Đế hết sức vui mừng.
1 Chỉ chúng sinh ở châu Câu-lô ở phương bắc, (Chú giải của soạn
giả) và một số nước khác còn lại thuộc các châu đã kể.
2 Trích từ sách Pháp bản nội truyền - 法本內傳 đời Hán. (Chú giải
của soạn giả)
3 Tức tên gọi người Trung Hoa xưa dùng để gọi Ấn Độ.
An Sĩ toàn thư
338 339
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Vào sáng sớm ngày mồng một tháng Giêng niên
hiệu Vĩnh Bình năm thứ 14, 1 có một nhóm các đạo sĩ
từ năm ngọn núi lớn 2 như Chử Thiện Tín v.v... gồm
690 người, dâng biểu lên hoàng đế xin được cùng các
vị tăng sĩ Thiên Trúc tranh tài biện luận để phân biệt
những điểm đúng sai tốt xấu của Phật giáo và Đạo
giáo. Hán Minh Đế sai quan Thượng thư lệnh là Tống
Tường vào ngày rằm tháng Giêng năm ấy mở đại hội
nơi cửa phía nam chùa Bạch Mã.
Các đạo sĩ thiết lập 3 đàn tràng, mang kinh sách
Đạo giáo gồm 369 quyển đặt lên đàn tràng phía tây,
mang các sách được biên soạn bởi 27 vị danh gia đạo
sĩ gồm 235 quyển đặt ở đàn tràng trung tâm, bày biện
phẩm vật cúng tế trăm thần ở đàn tràng phía đông.
Hán Minh Đế cho lập hành cung, 3 đích thân ngự
tại phía tây chùa Bạch Mã, tôn trí xá-lợi Phật cùng với
Kinh điển Phật giáo tại đây.
Các đạo sĩ cho dùng cỏ khô, lau sậy chất kín quanh
đàn tràng có bày kinh sách của họ, rồi đứng trước kinh
1 Tức là năm 71 theo Tây lịch.
2 Tức Ngũ nhạc danh sơn của Trung Hoa, bao gồm 5 ngọn núi lớn
là: Hoa sơn, Thái sơn, Tung sơn, Hằng sơn và Hành sơn.
3 Hành cung: cung điện tạm thời để đức vua cư ngụ khi không ở
trong cung điện chính.
sách khóc tế rằng: “Hoàng đế hiện nay tin theo tà giáo,
thế đạo suy vi sắp mất. Nay chúng tôi xin đặt kinh
sách Đạo gia tại đàn tràng này, dùng sức lửa để chứng
minh thật giả.” Khấn vái như vậy rồi liền nổi lửa đốt
kinh sách. Kết quả tất cả đều cháy rụi thành tro, dù cả
bọn thi nhau niệm chú nhưng chẳng thấy hiệu nghiệm
gì. Các đạo sĩ đều hốt hoảng nhìn nhau tái mặt. Quan
Thái phó là Trương Diễn liền nói với bọn họ: “Chú
thuật của các ông hoàn toàn không linh nghiệm, nay
các ông nên xuống tóc xuất gia theo Phật.” Nhóm đạo
sĩ Chử Thiện Tín v.v... xấu hổ quá đành lặng thinh
không đối đáp gì được.
Lúc bấy giờ, xá-lợi Phật bỗng nhiên tỏa hào quang
năm sắc, phóng chiếu lên không trung hình thành
một quầng sáng như cái lọng, che khuất ánh mặt trời,
chiếu ánh sáng năm sắc từ đó xuống trùm khắp mọi
người trong đại hội, thật là việc xưa nay chưa từng
có. Thiền sư Ma Đằng khi ấy hóa thân bay lên không
trung, hiện các phép thần biến tự tại. Pháp sư Trúc
Pháp Lan lên tòa thuyết pháp, giảng dạy những điều
mà đại chúng từ trước đến nay chưa từng được nghe.
Khi ấy có Âm phu nhân ở hậu cung, quan Tư
không Lưu Tuấn, nhóm các ông đạo sĩ Lữ Huệ Thông
v.v... cộng cả thảy hơn ngàn người, đều xin xuất gia tu
hành theo đạo Phật. Hán Minh Đế chuẩn thuận tất
An Sĩ toàn thư
340 341
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
cả. Sau đó vua cho xây mới 10 ngôi chùa, rộng truyền
Phật pháp. 1
Lời bàn
Vào triều Tấn, trong khoảng niên hiệu Kiến An,
Đinh Đức Thận làm huyện lệnh ở huyện Ngưng Âm,
có một người phụ nữ ở Bắc Giới bỗng nhiên nói ra toàn
một thứ ngôn ngữ lạ như tiếng nước ngoài, người đến
xem vây quanh đông như họp chợ. Sau đó người này
lại yêu cầu mang giấy bút đến, rồi viết lên giấy cũng
bằng loại chữ viết lạ, thoắt chốc đã viết được 5 trang
giấy. Đưa cho mọi người đọc, nhưng không ai đọc hiểu
được gì. Có một đứa trẻ khi ấy đang tình cờ đứng gần,
người phụ nữ bỗng chỉ tay vào đứa trẻ mà nói: “Đứa
trẻ này có thể đọc hiểu.” Liền đưa mấy trang giấy cho
đứa bé, nó vừa xem bỗng đọc lên thành tiếng nước
ngoài. Những người chung quanh thấy vậy ai nấy đều
kinh ngạc.
Đinh Đức Thận liền sai người thu lấy 5 trang giấy
ấy, mang đến chùa Hứa Hạ, đưa cho một vị tăng người
Ấn Độ xem. Vị tăng xem qua kinh ngạc nói: “Đây chính
là những lời trong kinh Phật. Khi Kinh điển truyền
1 Cho đến nay tại Lạc Dương vẫn còn lưu lại di tích Phần kinh đài
- 燔經台 (tức phần nền của đàn tràng nơi Đạo gia đốt kinh sách
thuở trước). (Chú giải của soạn giả)
đến xứ này, ngẫu nhiên bị mất đi một số dòng, tôi đang
lo lắng vì đường quá xa e là không thể trở về Ấn Độ
chép lại những trang kinh bị mất.” Liền lưu lại những
trang giấy ấy rồi sao chép bổ sung vào chỗ bị thiếu mất
trong kinh Phật.
Thoát khỏi vào thai lừa 1
X
ưa có vị Thiên Đế thích, khi năm đức tốt mất
dần 2 không còn nơi thân, liền tự biết thọ mạng
của mình sắp hết, sau khi chết sẽ thác sinh làm con lừa
ở nhà một người thợ làm đồ gốm, vì thế nên hết sức lo
buồn. Đế thích lại suy nghĩ rằng, trong Ba cõi chỉ có đức
Phật là bậc duy nhất cứu thoát mọi khổ ách cho chúng
sinh. Nghĩ như vậy rồi, liền tìm đến chỗ đức Phật, cúi
đầu quỳ lạy sát đất, cung kính đảnh lễ quy y Phật, quy
y Chánh pháp, quy y thánh chúng Tăng-già.
Trong lúc quỳ lạy còn chưa đứng dậy thì đột nhiên
mạng sống chấm dứt, thần thức lập tức nhập vào thai
1 Trích từ kinh Pháp cú dụ - 法句喻經. (Chú giải của soạn giả)
2 Năm đức tốt mất dần, có nghĩa là năm tướng suy của một vị
thiên nhân bắt đầu hiển lộ. Năm tướng suy ấy là: 1. Quần áo
thường dơ bẩn; 2. Đầu tóc rối bời, hoa trên đầu tàn tạ; 3. Thân thể
hôi hám và nhơ nhớp; 4. Dưới nách thường ra mồ hôi; 5. Không
thấy ưa thích ngai vị, chỗ ngồi của mình.
An Sĩ toàn thư
342 343
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
lừa. Ngay lúc ấy, con lừa mẹ lại giẫm chân làm hư
hỏng một số đồ gốm chưa nung khiến người chủ nổi
giận đánh nó rất mạnh, liền bị sẩy thai. Thần thức Đế
thích do đó lại rời khỏi thai lừa, quay về nhập vào thân
cũ, trở thành Thiên Đế thích như trước. Đức Phật dạy:
“Lành thay, ông có thể ngay trong lúc sắp chết biết
quy y nương về Tam bảo.” Phật liền vì Đế thích mà
thuyết pháp. Nghe xong, Thiên Đế thích chứng quả
Tu-đà-hoàn. 1
Lời bàn
Kinh Đại Bát Niết-bàn dạy rằng: “Tuy được sinh
làm Phạm thiên, cho đến sinh vào các cõi trời Phi
tưởng phi phi tưởng, nhưng đến lúc mạng chung vẫn
có thể đọa vào ba đường dữ.” 2
1 Tu-đà-hoàn là quả vị đầu tiên trong bốn thánh quả: 1. Tu-đà-
hoàn, 2. Tư-đà-hàm, 3. A-na-hàm, 4. A-la-hán. Vì thế cũng
thường gọi là Sơ quả (quả vị đầu tiên) hay quả Nhập lưu (bắt đầu
nhập vào dòng thánh).
2 Kinh Đại Bát Niết-bàn, quyển 38, phẩm thứ 26 - Ca-diếp Bồ Tát.
Xem nguyên bản Hán văn trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh,
tập 12, kinh số 374, các dòng 14, 15, 16, trang 589, tờ b. Xem
bản Việt dịch của Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến (NXB
Tôn giáo, Hà Nội - 2009), Tập 7, trang 180, dòng thứ 24 -30.
Thoát khỏi vào thai lợn 1
T
ại cung trời Đao-lợi có một vị trời thọ mạng
sắp hết, năm tướng suy đã hiện, tự biết mình
sau khi chết sẽ thác sinh vào thai của một con heo nái
đang bị ghẻ lở, tại nước Câu-di-na-khát. Vị trời này
hết sức buồn khổ nhưng không biết phải làm gì để
thoát khổ nạn. Có một vị trời khác liền nói: “Hiện nay
đức Phật đang ở cung trời này vì mẹ 2 thuyết pháp, sao
ngài không đến cầu Phật cứu độ?”
Vị trời sắp chết kia lập tức tìm đến chỗ đức Phật,
cúi đầu sát đất chí thành kính lễ. Đức Phật liền vì vị
ấy mà truyền thọ Tam quy. Vị này lại y theo lời Phật
dạy mà chí thành thực hiện trong 7 ngày. Khi ấy, thọ
mạng cõi trời đã hết, mạng chung liền tái sinh làm con
một vị trưởng giả ở nước Duy-da-ly.
Lời bàn
Những người giàu sang phú quý tột cùng, đến lúc
lâm chung sắp phải từ bỏ quan tước, tiền tài, báu vật,
ruộng đất, vợ con... liền thấy đau đớn khó khăn như
cắt bỏ da thịt trên thân thể. Nỗi khổ ấy thật là vô cùng!
1 Trích từ kinh Chiết phục La-hán - 折伏羅漢經. (Chú giải của
soạn giả)
2 Chỉ Hoàng hậu Ma-da, sau khi sinh thái tử Tất-đạt-đa 7 ngày thì
mạng chung, sinh về cõi trời Đao-lợi. Đức Phật từng hóa hiện lên
cung trời Đạo-lợi thuyết pháp cho bà nghe.
An Sĩ toàn thư
344 345
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Chư thiên đến lúc thọ mạng sắp dứt cũng khổ sở
giống như vậy. Kinh Chánh pháp niệm dạy rằng: “Nếu
trong đời trước một vị trời có tạo nghiệp trộm cướp, khi
lâm chung liền thấy có các vị thiên nữ hiện ra cướp
đoạt hết những thứ trang nghiêm quý báu của mình,
trao cho các vị trời khác. Nếu trong đời trước có tạo
nghiệp nói dối, các vị thiên nữ liền nghe hiểu những
lời vị trời ấy nói ra một cách sai lệch, rồi buông lời thóa
mạ, mắng nhiếc. Nếu đời trước từng nhục mạ người trì
giới, hoặc tự mình phá giới, uống rượu, khi lâm chung
liền rơi vào trạng thái mê loạn, đánh mất chánh niệm,
đọa vào địa ngục. Nếu đời trước có tạo nghiệp giết hại
chúng sinh, thọ mạng liền ngắn ngủi, chẳng mấy chốc
đã phải qua đời. Nếu đời trước có tạo nghiệp tà dâm,
liền thấy các vị thiên nữ đều xa lánh mình mà đến với
các vị trời khác, cùng họ vui đùa thỏa thích. Những
điều hiện ra như thế gọi là năm tướng suy của chư
thiên.” 1
1 Đoạn trích này được tìm thấy trong sách Pháp uyển châu lâm -法
苑珠林, quyển 5, thuộc Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh tập 53,
kinh số 2122, bắt đầu từ dòng thứ 10, trang 302, tờ c. Sách này
ghi rõ là trích từ kinh Chánh pháp niệm - 正法念經, nên có lẽ
tiên sinh An Sĩ căn cứ vào đây mà ghi xuất xứ như vậy. Tuy nhiên,
chúng tôi không tìm thấy nội dung tương tự trong chánh văn kinh
này hiện nay.
Quyển kinh cứu thoát dân trong một thành 1
V
ào triều Tấn, có Lưu Độ là người Liêu Thành,
Bình Nguyên, thuộc Sơn Đông. Trong làng
ấy có đến hơn một ngàn gia đình, thảy đều cung kính
thờ phụng Phật pháp, cúng dường chư tăng ni. Bấy giờ
người của một bộ tộc từ phương bắc bỏ xứ trốn đến nơi
ấy rất nhiều, đa số đều trốn trong nội thành. Thủ lãnh
của bộ tộc ấy giận lắm, muốn kéo quân đến vây giết hết
cả thành. Lưu Độ vừa nghe biết việc ấy, liền chủ xướng
tất cả nhân dân già trẻ lớn bé trong thành, cùng nhau
đồng thanh niệm thánh hiệu đức Bồ Tát Quán Thế Âm.
Niệm như vậy chưa bao lâu thì viên thủ lãnh của
bộ tộc ấy bỗng nhìn thấy một vật gì đó từ trên không
trung rơi xuống, bay thẳng vào trong cung điện rồi
xoay quanh cây cột chính. Ông ta lập tức cho người
đến xem đó là vật gì, liền thấy đó là một quyển kinh
Phật, chính là phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn
trong kinh Pháp Hoa. Viên thủ lãnh gặp được việc này
thì trong lòng hết sức vui mừng, nhân đó bỏ ý định cũ,
nhân dân cả thành nhờ vậy mà được thoát chết.
Lời bàn
Lúc bình thường đã biết gieo trồng phước đức, khi
nguy nan lại có thể chí thành cầu khẩn Bồ Tát, viên
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả)
An Sĩ toàn thư
346 347
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thủ lãnh kia hồi tâm chuyển ý cũng là lẽ đương nhiên
phải vậy.
Gông cùm tự thoát 1
T
riều Tấn, đất Hà Nội có người tên là Đậu
Truyền. Trong khoảng niên hiệu Vĩnh Hòa
đời Tấn Mục Đế, ông làm chức bộ khúc trong quân
đội dưới quyền quan thứ sử Tịnh châu, 2 bị Lữ Hộ bắt
làm tù binh cùng với đồng đội khoảng 6, 7 người khác,
giam chung trong một nhà ngục, ấn định ngày rồi sẽ
mang ra giết.
Đậu Truyền nhất tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm
cầu cứu giúp, trong suốt 3 ngày 3 đêm không hề mỏi
mệt. Khi ấy, gông cùm trên thân thể bỗng tự nhiên
dần dần nới rộng, cho đến lúc rơi cả xuống, toàn thân
được tự do. Đậu Truyền tuy trong lòng hết sức mừng
rỡ, nhưng nhìn lại các bạn đồng ngục vẫn còn bị giam,
không nỡ một mình bỏ trốn. Liền khuyên bảo rồi cùng
với những người đồng ngục chí thành cầu nguyện. Đột
nhiên, gông cùm trên thân của mọi người khác cũng
nối nhau rơi xuống hết. Cả bọn liền mở cửa ngục cùng
nhau thoát ra, vượt thành đang đêm chạy trốn. Chạy
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả)
2 Nay là Thái Nguyên thuộc tỉnh Sơn Đông.
xa được khoảng 4, 5 dặm đường rồi mới tìm vào một
đám cây cối rậm rạp mà trốn.
Sáng hôm sau, Lữ Hộ cho người ngựa truy đuổi
lùng sục khắp nơi, lại nổi lửa đốt hết những chỗ cây cối
hoang dã rậm rạp, nhưng chỉ riêng bao quanh chỗ Đậu
Truyền đang trốn ước chừng một mẫu đất là không
người ngựa nào tìm đến, mà lửa cũng không cháy tới.
Lời bàn
Đây chính như lời kinh đã dạy: “Nhờ sức niệm
Quán Âm cứu độ, liền tự nhiên được thoát ngục tù.” 1
Đến như những trường hợp rơi xuống nước mà chẳng
chết chìm, gặp lửa dữ mà không chết thiêu, đủ điều
linh nghiệm, có thể xem trong các sách khác ghi chép
rất nhiều, ở đây không sao kể hết.
Vị tăng làm Thiên vương 2
Đ
ời Tùy, ở Tương Châu có Pháp sư Thích Huyền
Cảnh, tên Thạch, vốn là người Thương Châu
thuộc Hà Bắc. Sư ngưỡng mộ kinh điển Đại thừa,
1 Nguyên văn kinh: “念彼觀音力, 釋然得解脫.” - Niệm bỉ Quán
Âm lực, thích nhiên đắc giải thoát. Xem bản Việt dịch của Nguyễn
Minh Tiến, NXB Tôn giáo, Hà Nội - 2010, trang 46.
2 Trích từ sách Đường Cao tăng truyện - 唐高僧傳. (Chú giải của
soạn giả)
An Sĩ toàn thư
348 349
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tụng đọc không ngừng nghỉ. Sau, sư có bệnh nằm trên
giường suốt 3 ngày, bỗng nói với người thị giả: 1 “Ý ta
muốn được gặp Phật Di-lặc, sao nay lại phải làm Thiên
vương Dạ-ma?” Rồi lại tự nói rằng: “Khách đến đông
lắm, việc tiếp đãi phải lo chu đáo.” Tăng chúng thưa
hỏi là chuyện gì, liền nói: “Không phải việc các ông
biết được. Hiện có các vị thiên chúng đến đây nghênh
đón rồi.” Liền có mùi hương thơm lạ xông tỏa khắp
phòng, lưu lại rất lâu. Lúc ấy là vào tháng sáu, niên
hiệu Đại Nghiệp thứ hai. 2
Đại sư có để lại di ngôn, bảo mang thi hài ngài
táng vào sông Tử Bách, ở nơi nước sâu nhất. Ba ngày
sau trở lại xem, bỗng thấy giữa dòng nước nổi lên một
gò đất cao, khiến con sông phải chảy phân đôi thành
hai dòng.
Lời bàn
Các vị Bồ Tát ở Phát quang địa 3 vẫn thường hiện
thân làm Thiên vương Dạ-ma. Đã như vậy, chúng ta
làm sao biết được mà dám đo lường chỗ tu chứng của
Pháp sư?
1 Thị giả: vị tăng hay sa-di theo hầu cận một bậc thầy.
2 Tức là năm 606.
3 Phát quang địa (發光地) là địa vị tu chứng thứ ba trong Thập địa
của hàng Bồ Tát.
Người mù được thấy 1
V
ào đời Hậu Chu có Trương Nguyên, tên tự là
Hiếu Thủy, năm lên 16 tuổi thì ông nội bị mù
mắt. Trong suốt 3 năm, Trương Nguyên ngày đêm lễ
Phật, cầu phước đức. Một hôm đọc kinh Dược Sư, thấy
trong đó có nói đến việc “người mù được thấy”, liền y
theo trong kinh dạy, thỉnh 7 vị tăng, thắp 7 ngọn đèn,
trong 7 ngày 7 đêm liên tục tụng đọc kinh Dược Sư,
vừa bái lạy vừa khóc, khấn nguyện rằng: “Lạy đấng
Thiên Nhân Sư, 2 Trương Nguyên này làm đứa cháu
bất hiếu, khiến cho ông nội phải mù lòa. Nay nguyện
mang ánh sáng đèn rộng thí khắp cõi pháp giới, nguyện
cho chính con chịu mù lòa thay, để mắt ông nội được
sáng.” Tha thiết ân cần lễ bái khấn nguyện như vậy
trải qua 7 ngày, đêm ấy nằm mộng thấy có một ông lão
dùng kim vàng khơi vào tròng mắt cho ông nội mình,
lại bảo Trương Nguyên: “Con đừng lo, sau 3 ngày mắt
ông nội con sẽ sáng lại.”
Trương Nguyên trong mộng vui mừng phấn khích
vô cùng. Lúc tỉnh giấc liền đem sự việc kể lại với mọi
1 Trích từ sách Bắc sử - 北史. (Chú giải của soạn giả)
2 Thiên Nhân Sư: bậc thầy dạy của cả hai cõi trời, người. Đây là
một trong Thập hiệu của Phật: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
An Sĩ toàn thư
350 351
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
người trong nhà. Ba ngày sau, ông nội Trương Nguyên
quả nhiên được sáng mắt.
Lời bàn
Thầy thuốc giỏi ra tay trị bệnh, không ngoài việc
tùy bệnh chứng mà cho thuốc. Người bị mù lòa, phần
lớn đều là do đời trước phỉ báng Phật, phỉ báng Chánh
pháp. Cho nên, muốn cứu độ người mù quáng không
tin Phật pháp, ắt phải vì người ấy mà chỉ bày chánh
kiến chánh tín. Kinh Đại tập (大集經) 1 dạy rằng: “Nếu
có chúng sinh trong đời quá khứ hủy báng Chánh pháp,
hoặc hủy báng bậc thánh nhân; hoặc gây chướng ngại
khó khăn cho người thuyết giảng Chánh pháp; hoặc
khi sao chép kinh văn lại cẩu thả hay cố tình làm mất
mát câu chữ, sai lệch văn nghĩa; hoặc làm mất mát hư
hỏng những sách vở ghi chép giáo pháp, hoặc cố tình
che giấu những quyển kinh văn của người khác; 2 do
1 Đối chiếu nguồn trích dẫn là kinh Đại tập không có nguyên đoạn
trích này, nhưng tìm thấy trong sách Pháp uyển châu lâm (Đại
Chánh tạng tập 53, kinh số 2122), quyển 17, trang 415, tờ c, bắt
đầu từ dòng thứ 4, lại mở đầu bằng câu: “Lại như trong kinh Đại
tập có nói rằng” (又大集經云 – hựu Đại tập kinh vân). Chắc chắn
là An Sĩ toàn thư dựa vào câu này để ghi lại nguồn trích dẫn.
2 Dựa vào nguyên bản sách Pháp uyển châu lâm để khảo đính thì
thấy câu này nguyên văn An Sĩ toàn thư đã chép sai là: “或損壞他
法, 或暗藏他法.” (Hoặc tổn hoại tha pháp, hoặc ẩn tàng tha pháp)
những nghiệp đã tạo như thế, trong đời này sẽ bị
mù lòa.”
Ngoài ra, trong kinh Phó pháp tạng 1 cũng nói
rằng: “Nếu gây trở ngại cho việc xuất gia tu hành của
người khác, ắt phải đọa vào các đường dữ. Chịu đựng
xong tội nghiệp trong các đường dữ rồi, khi được sinh
trở lại vào cõi người lại phải chịu kiếp mù lòa.” 2
Trong trường hợp này, có thể nói là Trương Hiếu
Thủy đã tùy theo bệnh chứng mà cho đúng thuốc rồi vậy.
- sai lệch chữ cuối cùng, vì trong Pháp uyển châu lâm chép là: “
或損壞他法, 或闇藏他經.” (Hoặc tổn hoại tha pháp, hoặc ẩn tàng
tha kinh. ) Bản Việt dịch căn cứ nội dung đã khảo đính.
1 Thật ra đây không phải một bản kinh, mà là một quyển sách có
tên đầy đủ là Phó pháp tạng nhân duyên truyện - 付法藏因緣傳,
được đưa vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, thuộc tập 50, kinh
số 2058, tổng cộng có 6 quyển, do các ngài Kiết-ca-dạ và Đàm
Diệu cùng dịch.
2 Chúng tôi không tìm thấy đoạn trích này trong sách Phó pháp
tạng nhân duyên truyện như dẫn chú, nhưng lại tìm được nội dung
tương tự trong Chư kinh yếu tập, quyển 4 (Đại Chánh tạng tập 54,
kinh số 2123), do ngài Đạo Thế soạn vào đời Đường. Nội dung
này bắt đầu từ dòng thứ 23, trang 31, tờ a như sau: “若復有人障
他出家。此人罪報常在惡道, 受極苦痛無得解脫。惡道罪畢, 若生
人中生盲無目.” An Sĩ toàn thư rõ ràng là đã tóm gọn câu văn này
thành: “障人出家, 必墮惡道。惡道罪畢, 得生人中, 生盲無目.”
Tuy nhiên, không rõ tiên sinh An Sĩ đã dựa vào đâu mà ghi nguồn
trích dẫn bị sai lệch, không thể tìm thấy.
353
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
352
Báo đáp bốn ơn sâu nặng
Giảng rộng
B
ốn ơn sâu là: ơn cha, ơn mẹ, ơn Phật, ơn thầy
thuyết giảng pháp Phật. Cha mẹ sinh ra và
nuôi dưỡng ta để có được hình hài này; đức Phật và bậc
thầy thuyết giảng Phật pháp đã nuôi dưỡng trí tuệ chân
chánh của ta; đó đều là những ơn sâu nặng nhất, thật
khó báo đáp hết được. Kinh Quán Phật tướng hải 1 dạy
rằng: “Nếu có ơn mà không báo đáp, đó chính là nhân
đọa vào địa ngục A-tỳ.” Thế nhưng, việc báo đáp bốn ơn
sâu nặng, há có thể nhanh chóng sơ sài được sao?
1 Chúng tôi không tìm thấy kinh điển nào mang tên này, chỉ có
kinh Phật Thuyết Quán Phật Tam Muội Hải - 佛說觀佛三昧海經 -
được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh thuộc tập 15, kinh
số 643, tổng cộng 10 quyển, do ngài Phật-đà-bạt-đà-la dịch vào
đời Đông Tấn. Truy tìm nội dung được trích dẫn thì thấy xuất hiện
trong một bản sớ giải là Phật thuyết Vu Lan Bồn kinh sớ (佛說盂蘭
盆經疏), do ngài Tông Mật soạn vào đời Đường, được đưa vào Đại
Chánh tạng tập 39, kinh số 1792. Nội dung trích dẫn được tìm
thấy ở quyển 2, từ dòng thứ 27, trang 508, tờ a, mở đầu bằng câu:
Kinh Quán Phật tướng hải dạy rằng (觀佛相海經云 – Quán Phật
tướng hải kinh vân). Do đó, có thể khẳng định An Sĩ toàn thư dựa
theo đây để ghi nguồn trích dẫn.
Báo đáp ơn cha mẹ, phải hết lòng hết sức phụng
dưỡng, làm cho cha mẹ được vui lòng, lại phải dẫn
dắt cha mẹ vào đường tu tập giáo pháp xuất thế,
thoát khỏi luân hồi, được như vậy mới có thể xem là
trọn vẹn.
Báo đáp ơn thầy truyền dạy Chánh pháp, phải
nỗ lực làm đúng theo lời thầy dạy, lại phải cung kính
cúng dường hết thảy mọi nhu yếu như thực phẩm, y
phục, thuốc men, chỗ ở... được như vậy mới có thể xem
là trọn vẹn.
Đến như ơn đức của Phật, thật khó có thể nói đến
việc báo đáp cho trọn, chỉ biết phải nên phát tâm Bồ-
đề, lập nguyện sâu rộng cứu độ chúng sinh, cung kính
học theo hạnh nguyện của hàng Bồ Tát.
Đại sư Liên Trì dạy rằng: “Cha mẹ thoát ly được
sinh tử luân hồi thì đạo hiếu của người con mới có thể
được xem là thành tựu.”
Kinh Lăng nghiêm dạy rằng: “Đem tấm lòng thành
sâu xa này phụng sự hết thảy chúng sinh trong vô số
thế giới nhiều như số hạt bụi nhỏ, như vậy gọi là báo
đáp ơn Phật.” 1
1 Nguyên văn kinh là: 將此深心奉塵剎, 是則名為報佛恩。- Tương
thử thâm tâm phụng trần sát, thị tắc danh vi báo Phật ân.
An Sĩ toàn thư
354 355
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Lễ tháp Phật cứu độ mẹ 1
Đ
ời Đường có một người họ Phạm. Mẹ ông là
Vương thị vốn hoàn toàn không tin Tam bảo,
tuy ông đã nhiều lần khuyên giải nhưng mẹ ông không
chịu nghe theo. Sau ông đến Đông Đô theo Luật sư 2
Chỉ Khánh ở chùa Quảng Ái xuất gia tu hành, pháp
hiệu là Tử Lân. 3
Khi thầy Tử Lân trở lại quê nhà, người mẹ đã mất
trước đó 3 năm rồi. Nhân khi có đến miếu thờ Đông
Nhạc Đại Đế, thầy Tử Lân ở đó chí thành tụng kinh
Pháp Hoa, nguyện cho gặp được Nhạc Đế để hỏi xem
mẹ mình sau khi chết sinh về cõi nào. Một đêm nằm
1 Trích từ sách Truy môn sùng hành lục - 緇門崇行錄. (Chú giải
của soạn giả)
2 Luật sư: danh xưng này trong Phật giáo được dùng để gọi các vị
thầy theo Luật tông, trong sự tu học chú trọng nhiều đến Giới luật
và trong sự tu tập lấy việc trì giới là quan trọng nhất.
3 Xem trong nguyên bản sách Truy môn sùng hành lục thì Vương
thị không đồng ý cho họ Phạm xuất gia, ông phải bỏ nhà trốn đi
đến Đông Đô để xuất gia. Điều này hợp lý với đoạn sau là mẹ ông
mất mà ông không được biết, đến 3 năm sau mới về. Chính vì ông
bỏ nhà trốn đi nên mới không giữ được liên lạc với gia đình.
mộng thấy Nhạc Đế hiện đến nói rằng: “Mẹ ông hiện
ở trong địa ngục, chịu khổ vô cùng. Ông nên đến Mậu
sơn 1 lễ bái tháp vua A-dục 2 ở đó, có thể nhờ công đức
ấy cứu thoát được mẹ.” Thầy Tử Lân liền y lời đến lễ
tháp vua A-dục. Tại đó, thầy rơi nước mắt mà khấn
nguyện, lễ bái rất lâu. Bỗng nghe có tiếng người mẹ
tạ ơn rằng: “Nhờ sức con cầu nguyện, nay mẹ đã được
sinh lên cõi trời Đao-lợi.”
Lời bàn
Sau khi đức Phật nhập Niết-bàn hơn trăm năm,
vua A-dục ra đời, là vị Thiết luân vương cai quản một
cõi Diêm-phù-đề, có khả năng sai sử được quỷ thần.
Nhà vua đã tạo 84.000 bảo tháp để tôn trí phụng thờ
84.000 phần xá-lợi của đức Phật để lại. Theo sự phân
chia của vua thì cứ nơi nào có 100.000 dân sẽ xây dựng
một tháp. Tại Trung Hoa, theo những ghi chép được
thấy trong sách vở thì có cả thảy 19 tháp. Tháp ở Mậu
sơn là một trong số đó.
1 Thuộc huyện Ngân, tỉnh Triết Giang.
2 Tháp vua A-dục (A-dục vương tháp), thật ra là tháp thờ Xá-lợi
Phật, tương truyền do vua A-dục xây dựng. Các tháp ở Trung Hoa
(19 tháp) có nhiều khả năng hơn là được xây dựng dựa theo mô
thức các tháp thực sự do vua A-dục đã xây ở Ấn Độ.
An Sĩ toàn thư
356 357
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lòng thành cảm động di cốt của cha 1
V
ào đời Hậu Chu, tại làng Quý Trụ ở Trường An
có một người họ Lý, vốn thật là người thuộc
hoàng triều tông thất đời Đường. Người này lên 7 tuổi
đã xuất gia tu hành, pháp danh là Đạo Phi. Năm lên
19 tuổi, gặp lúc vua Đường Trang Tông dời đô về Lạc
Dương, Trường An lửa cháy khắp nơi, làng Quý Trụ bị
thiêu sạch. Ông liền cõng mẹ chạy vào Hoa sơn. Bấy
giờ là lúc lương thực khan hiếm đắt đỏ, Đạo Phi khất
thực được rất ít, tự mình không ăn chỉ mang về dâng
lên nuôi dưỡng mẹ. Khi mẹ hỏi đã ăn chưa, ông luôn
nói là đã ăn rồi.
Mẹ ông thường nói: “Cha con đi đánh trận chết
ở Hoắc sơn, hài cốt phơi giữa sương gió, con có thể
tìm đem về an táng được chăng?” Vì thế, về sau ông
liền tìm đến Hoắc sơn, thu nhặt những hài cốt nơi ấy
gom về một chỗ rất nhiều, rồi ngày đêm tụng kinh, vì
cha mà sám hối nghiệp giết hại. Ông lại đứng trước số
hài cốt đã thu nhặt được mà khấn rằng: “Trong số rất
nhiều hài cốt này, nếu quả có di cốt của cha ta thì xin
chuyển động.” Khấn như vậy rồi lại nhất tâm trì tụng
kinh điển, mắt nhìn vào đống hài cốt không lúc nào
xao lãng. Trải qua nhiều ngày như vậy, đến một hôm
1 Trích từ sách Cao tăng truyện - 高僧傳. (Chú giải của soạn giả)
bỗng có một cái sọ khô nảy vọt ra từ đống xương cốt,
rồi lay động rất lâu. Đạo Phi nhìn thấy đầu lâu ấy, đau
đớn thống thiết, liền thu nhặt đúng bộ hài cốt từ chỗ
đầu lâu nảy ra, rồi mang về. Đêm ấy, người mẹ nằm
mộng thấy chồng quay về, đến sáng ra quả nhiên Đạo
Phi mang hài cốt về tới.
Về sau, pháp sư Đạo Phi được Hoàng đế ban chiếu
triệu thỉnh vào kinh đô thuyết pháp hoằng hóa, danh
tiếng ngài vang dội khắp trong triều ngoài nội.
Lời bàn
Sự hiếu thảo có thể phân chia hai loại, hiếu thảo
theo pháp thế gian và hiếu thảo theo pháp xuất thế
gian. Trường hợp của Pháp sư Đạo Phi là đã bao gồm
cả hai loại đó. Đến như pháp sư Đạo Kỷ đời Bắc Tề mỗi
lần giảng pháp đưa mẹ đi theo nghe, pháp sư Pháp
Vân đời Lương để tang mẹ hình hài gầy ốm suy kiệt,
pháp sư Giám Tông đời Đường, vì trị bệnh cho cha mà
tự cắt thịt ở hai bắp đùi mình, pháp sư Trí Tụ đời Tùy
trong 3 năm để tang mẹ, khóc thương đến nỗi nước
mắt chảy ra toàn là máu... những trường hợp hiếu thảo
như thế thật rất nhiều, sách vở xưa nay không thể nào
ghi chép hết. Nếu nói rằng sau khi đã xuất gia tu hành
rồi thì không cần phải lo việc phụng dưỡng cha mẹ,
như vậy sao gọi là hiểu được ý nghĩa của câu “hiếu với
cha mẹ là trì giới” như trong kinh Phạm Võng đã dạy?
An Sĩ toàn thư
358 359
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Bảo vệ Chánh pháp để báo ân 1
Đ
ời nhà Tống có người tên Lữ Mông Chánh, tên
tự là Thánh Công. Vào thời Tống Thái Tông,
dự thi đỗ tiến sĩ, đứng đầu khoa ấy. Sau làm quan
trải qua nhiều lần thay đổi, thăng đến chức Tham tri
chính sự, được phong tước Hứa Quốc công.
Lữ công vào thuở thiếu thời hàn vi từng đến nương
náu trong tự viện, nhờ đó mới được chuyên tâm đọc
kinh thư sách sử. Sau khi đã ra làm quan trong vòng
mười năm, những lúc triều đình cấp cho bổng lộc phí
tổn để lo việc tế tự ông đều không nhận mà tự mình
bỏ tiền ra lo. Hoàng đế hỏi nguyên nhân, ông đáp: “Hạ
thần có chút ơn riêng còn chưa báo đáp.” Hoàng đế lại
muốn biết rõ nên gạn hỏi tiếp, ông liền đem sự thật
trình bày. Hoàng đế nói: “Trẫm thật không ngờ từ nơi
tự viện có thể phát xuất được bậc nhân tài như thế
này.” Liền truyền ban cho ông áo bào màu tía để tuyên
dương tưởng thưởng.
Lữ công nhận được bao nhiêu bổng lộc ân thưởng
của triều đình đều mang cúng dường tăng chúng
trong chùa để báo đáp ân đức ngày trước. Mỗi ngày
ông đều dậy sớm lễ Phật, khấn nguyện rằng: “Nếu là
người không tin Phật pháp, xin đừng sinh vào nhà tôi.
1 Trích từ sách Kim sương biên - 金湯編. (Chú giải của soạn giả)
Nguyện cho con cháu tôi đời đời thọ hưởng bổng lộc
phước đức đều sử dụng để hộ trì Tam bảo.”
Về sau, cháu ông là Lữ Di Giản được phong đến
tước Thân Quốc công, vào mỗi ngày đầu năm mới,
sau khi lễ bái trong nhà thờ gia tộc, đều không quên
đốt hương khấu lễ thiền sư Quảng Huệ Nguyên Liễn.
Con trai của Lữ Di Giản là Lữ Công Trước sau cũng
được phong tước Thân Quốc công, cũng cung kính đối
đãi với thiền sư Thiên Y Nghĩa Hoài giống như vậy.
Sau đến Lữ Hảo Vấn làm quan Tả thừa, lại cũng đối
đãi cung kính với thiền sư Viên Chiếu như vậy. Con
trai của Hảo Vấn là Lữ Dụng Trung cũng cung kính
đối với thiền sư Phật Chiếu như vậy... Quả đúng như
lời nguyện của Lữ Mông Chánh, con cháu đều đời đời
được phú quý vinh hiển, phụng sự Phật pháp.
Lời bàn
Kinh Phật dạy rằng: “Ơn đức chư Phật còn hơn cả
ơn cha mẹ.” Nhưng công ơn cha mẹ đã gọi là hết sức
sâu nặng, nay lại nói ơn đức chư Phật còn hơn thế nữa
là ý nghĩa gì?
Nói chung, công ơn cha mẹ tuy sâu nặng, nhưng
chỉ giới hạn trong một kiếp sống. Trong khi đó, ơn
đức của chư Phật còn xuyên suốt đến tất cả những
kiếp sống trong tương lai. Công ơn cha mẹ chỉ là nuôi
An Sĩ toàn thư
360 361
dưỡng thân thể này, còn ơn đức của chư Phật là cứu
giúp sinh mạng trí tuệ, tâm linh của chúng ta. Lại như
sự dạy dỗ giáo huấn của cha mẹ, bất quá cũng chỉ là
dẫn dắt ta đi lên trên đường danh lợi, nếu mê lầm mà
vận dụng sai lệch thì ngược lại tạo thêm nghiệp báo.
Chư Phật, Bồ Tát có thể chỉ dạy cho chúng ta pháp
môn giải thoát rốt ráo, chỉ cần làm theo lời dạy của
các ngài ắt sẽ nhanh chóng thoát khỏi luân hồi. Cha
mẹ nếu gặp phải đứa con ngỗ nghịch liền khởi tâm
sân hận. Chư Phật, Bồ Tát tuy có gặp những kẻ hủy
báng Phật, hủy báng Chánh pháp, vẫn khởi lòng từ
bi thương xót vô cùng. Không chỉ là như thế, mà đến
như cha mẹ thương yêu con cái cũng không tránh khỏi
sự kỳ vọng mai sau sẽ nuôi dưỡng, lo việc hậu sự tống
táng, tế tự cho mình. Còn chư Phật, Bồ Tát thì tuyệt
nhiên không có chút mong cầu nào, dù cứu độ cho hết
thảy chúng sinh, nhưng ngay từ đầu đã không hề thấy
có tướng trạng chúng sinh được độ.
Cho nên, trong thế gian này thì bội ân bạc nghĩa
nặng nề nhất không gì hơn những kẻ không tin Phật,
hủy báng Phật pháp. Lữ Mông Chánh phát lời nguyện
cho những kẻ như thế không sinh làm con cháu của
ông, quả thật đã có được một nhận thức vô cùng sáng
suốt sâu rộng hơn người.
Thực hành rộng khắp theo Tam giáo
Giảng rộng
H
ết thảy các bậc thánh nhân trong Tam giáo
đều có tâm niệm cứu giúp người đời, chỉ khác
nhau ở sự vận dụng các phương pháp khác nhau để
thi hành tâm niệm cứu thế đó mà thôi. Nho giáo vận
dụng theo những sự việc hòa nhập với thế tục, Phật
giáo dạy người thực hành các pháp môn vượt thoát ra
ngoài thế tục. Đạo giáo thì mới nhìn có vẻ như cũng
theo con đường vượt thoát thế tục, nhưng thật ra thì
chưa từng vượt thoát.
Khổng Tử, Nhan Hồi tuy đều là các bậc thánh nhân,
nhưng nếu dựa vào học thuyết của các vị ấy để trừ ma
diệt quỷ, ắt chỉ là chuyện viển vông không thật. Phật
giáo với Đạo giáo tuy là tôn quý cao minh, nhưng nếu
muốn dùng vào việc khoa cử để tiến thân trên quan
trường, ắt chỉ là chuyện hoang đường, không thể được.
Chính vì thế mà Tam giáo tất yếu phải hình thành
thế ba chân vạc, cùng hỗ trợ cho nhau trong việc cứu
thế. Con người vốn chẳng thể chỉ dùng duy nhất một
An Sĩ toàn thư
362 363
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
phương cách mà giáo hóa được, nên sự dạy dỗ của các
bậc thánh mới phải phân thành ba đường. Ví như ba
vị thầy thuốc giỏi, một người chuyên về nội khoa, một
người chuyên về ngoại khoa, một người nữa lại chuyên
về nhi khoa. Y thuật của 3 vị tuy khác nhau, nhưng
mục đích trị bệnh cứu người đều giống nhau. Nếu như
3 vị này cùng học chuyên một ngành giống nhau, ắt
việc trị bệnh cứu người không thể được rộng khắp. Cho
nên, sách Thượng thư có nói rằng: “Mỗi người làm việc
thiện theo cách khác nhau, nhưng tựu trung cũng đều
giúp cho thiên hạ được an ổn.”
Tôi từng đọc qua sách “Đồng Nhân phủ chí” (銅
仁府志) của đất Quý Châu, được biết rằng tên đất ấy
nguyên trước đây dùng chữ nhân (人) có nghĩa là con
người, vì trong địa phương ấy có núi Đồng Nhân (銅
人). Sau mới đổi chữ nhân (人) thành chữ nhân (仁) có
nghĩa là lòng nhân ái, nhưng tên đất với tên núi ấy từ
xa xưa vốn thật là Đồng Nhân (銅人).
Núi nằm giữa một cái đầm rất lớn, dưới chân núi
toàn là nước. Có một năm trời hạn hán kéo dài rất
lâu, nước khô sạch, người ta nhìn thấy bên dưới núi
ấy là khoảng không, có ba tượng người bằng đồng rất
lớn cùng đội tòa núi lên, sừng sững mà đứng thẳng
như thế. Những trang phục nhìn thấy trên thân 3 pho
tượng đồng ấy lại giống hệt như lễ phục phân biệt của
Tam giáo. Thiết nghĩ, ngọn núi ấy phải có từ thời khai
thiên lập địa, lúc đó cả Tam giáo thậm chí còn chưa
có tên gọi. Nhưng các pho tượng đồng vĩ đại như thế
quả thật sức người không thể đúc ra được. Thế mới
biết rằng Tam giáo vốn thật đã sẵn có từ khi trời đất
hình thành. Huống chi như vị thế của Đế Quân vốn
siêu việt trên nhân loại, lẽ đâu không biết rằng đạo
lớn luân thường của Khổng Nhan 1 vốn dĩ đã chói sáng
như mặt trời, mặt trăng đi qua bầu trời, vậy tại sao
vẫn muốn kiêm hợp gắn liền cả Phật giáo và Đạo giáo
để giáo huấn, răn dạy hàng nho sĩ?
Lại xét rằng, cõi Nam Diêm-phù-đề tuy gọi tên
chỉ là một châu, nhưng bao gồm rất nhiều đất nước
khác nhau. Mỗi một đất nước đều có các bậc thánh
hiền ra đời thiết lập giáo pháp để giáo hóa người đời.
Cho nên, những bậc thánh hiền như Khổng Tử, Lão
Tử... hẳn là nhiều không thể tính đếm hết, chỉ có điều
ở mỗi nước đều dùng danh xưng khác nhau để gọi mà
thôi. Đến như văn tự chữ viết, chí ít cũng có đến 64
loại, nay những gì các nhà Nho đọc qua, bất quá cũng
chỉ là những sách vở dùng trong khoa cử. Ngoài những
thứ ấy ra, chỗ kiến giải của họ liệu có được bao nhiêu?
1 Khổng Nhan: chỉ chung Khổng Tử và Nhan Hồi, dùng biểu trưng
cho học thuyết Nho giáo, vì đây được xem là là hai vị thánh ban
đầu khai sáng Nho giáo.
An Sĩ toàn thư
364 365
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Đến như ba tạng mười hai bộ kinh trong Phật giáo,
được cất giữ cẩn thận nơi cung điện của Long vương,
chẳng những là nhà Nho không thể được thấy, mà nếu
có thấy qua ắt cũng chỉ biết chê bai bài xích. Ấy chỉ
vì nếu không chê bai bài xích thì sợ rằng không được
xem là người noi theo và giữ gìn truyền thống Nho gia.
Những kẻ bài xích như thế, cũng không chỉ dùng lời
nói, mà còn trước tác, biên soạn thành sách vở, không
khỏi có những lời xuyên tạc lệch lạc, báng bổ, đem
thuyết “ý, tất, cố, ngã” 1 của Khổng Tử mà giảng giải
theo ý riêng sai lệch, quen thói cổ hủ chỉ biết công kích
những ai khác biệt với mình. Nhưng xét kỹ hành vi
mà những kẻ như thế ngày đêm thường làm, cho đến
những tâm niệm ẩn khuất thường khởi sinh lúc ngồi
một mình, thì tất thảy không ra ngoài chuyện tranh
danh đoạt lợi, dối đời hại người. Thậm chí còn bôn ba
1 Thuyết “ý, tất, cố, ngã” (意, 必, 固, 我): các nhà Nho thời Hán,
Tống đều cho rằng Khổng Tử có 4 điều dứt tuyệt (子絕四 – Tử tuyệt
tứ) là ý (chỉ ý nghĩ), tất (sự thiên lệch), cố (sự cố chấp) và ngã (bám
chấp vào bản ngã). Tuy nhiên, Trịnh Nhữ Hài trong sách Luận ngữ
ý nguyên (論語意原) lại giải thích rằng Khổng Tử không phải dứt
tuyệt “ý, tất, cố, ngã”, mà là dứt tuyệt “vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã”.
Về sau, Trình Thụ Đức trong sách Luận ngữ tập thích (論語集釋)
cũng tán thành, cho cách giải thích này là hợp lý hơn. Có thể thấy
rằng, chỗ giảng giải của các nhà Nho mỗi nơi, mỗi thời một khác
biệt nhau, nhưng vô hình chung khi các nhà Nho có chỗ nào nói
ra hợp lý thì dường như lại càng đến gần hơn với giáo lý nhà Phật.
xu nịnh kẻ quyền thế để mưu lợi danh, cờ gian bạc
lận đủ việc xấu ác không gì không làm. Những kẻ ấy,
đối với cái học sửa tâm chính đáng, rèn ý chân thành,
cứu đời giúp người của Nho gia thì họ chẳng bao giờ
nói đến, chỉ toàn làm tổn hại thanh danh tốt đẹp của
Nho gia, như vậy sao có thể làm sáng tỏ học thuật của
Nho gia? Lời dạy của Đế Quân về việc “thực hành rộng
khắp theo Tam giáo” quả thật có thể xem như một
tiếng chuông cảnh tỉnh giữa đêm dài mê muội.
Người đời có thể học làm đúng theo lời Khổng Tử,
ắt là Phật Thích-ca cũng lấy làm vui. Người đời có thể
học làm theo lời dạy của Phật, ắt Khổng Tử cũng lấy
làm vui. Nếu như cứ nhất định cho rằng chỉ làm theo
đúng như đạo của mình mà thành người hiền thiện thì
mới vui lòng, bằng như không làm theo đúng như đạo
của mình thì cho dù có thành người hiền thiện mình
cũng không vui; như thế ắt chỉ giống như tôi tớ quy
thuận chủ nhân, quân binh quy thuận tướng lãnh mà
thôi, sao có thể gọi là làm đúng theo ý nguyện các bậc
thánh nhân của Tam giáo?
Khi nói “thực hành rộng khắp”, đó là nói về phương
diện tâm ý, không phải nói về những biểu hiện hình
thức nơi vẻ ngoài. Người nào đối với lẽ nhân nghĩa có
thể luôn tu tập nghĩ nhớ đến, đó chính là thực hành
theo đạo Nho, không nhất thiết phải dựa vào hình
An Sĩ toàn thư
366 367
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thức áo xanh đai mực mới gọi là nho sĩ. Người nào có
thể chứng ngộ chân tâm, thấu triệt bản tánh, đó chính
là thực hành theo đạo Phật, không nhất thiết phải dựa
vào hình thức đầu tròn áo vuông mới gọi là tăng sĩ.
Những kẻ học Nho câu nệ theo cổ lệ, khi nghe
đến khái niệm “thực hành rộng khắp” ắt sẽ không hài
lòng mà cho rằng như thế là học vấn pha tạp, không
tinh thuần, nhưng lại không biết rằng trong sự pha
tạp cũng có những chỗ cần phân biệt rõ. Như trong
lẽ trời có pha tạp ý muốn con người, trong vương đạo
có pha tạp bá thuật, trong lúa gạo có pha tạp cám
trấu... những điều ấy nhất định không thể gọi là hỗn
tạp. Đến như những lời dạy của Tam giáo thì thảy
đều nhằm mục đích mang lại lợi lạc cho thân tâm con
người. Ví như Thái sơn không bỏ đất chọn đá, nên mới
hợp thành ngọn núi cao lớn sừng sững; biển lớn không
loại bỏ các dòng nước nhỏ, nên mới hình thành độ sâu
thăm thẳm, há có thể chê bỏ cho rằng những điều ấy
là pha tạp được sao? Xét trong một gia đình, ắt phải có
cơm ăn áo mặc, có tiền tài vật báu, có người giúp việc,
có ruộng vườn v.v... có thể nói là cực kỳ pha tạp. Thế
nhưng nếu không có đủ những thứ pha tạp như thế
thì nhà ấy chẳng thể gọi là giàu sang. Hoặc xét như
những thứ ta ăn vào bụng, ắt là có cơm có cháo, có món
canh món nướng, có giấm chua muối mặn, hẳn cũng
có thể gọi là cực kỳ pha tạp. Nhưng nếu không có đủ
những thứ pha tạp ấy, người ta không thể mạnh khỏe.
Vậy sao lại riêng khởi tâm nghi ngờ việc thực hành
rộng khắp theo Tam giáo mà cho là hỗn tạp?
Luận về lợi ích của sự thực hành rộng khắp
Giúp vào sự giáo hóa của vua
T
rong sự cai trị đất nước, việc giữ cho dân tình
yên ổn không dựa vào điều gì khác hơn là
khen thưởng và trừng phạt. Muốn làm sáng rõ hình
luật, trợ giúp việc giáo hóa nhân dân, ắt cần phải thực
hành rộng khắp theo Nho giáo. Thế nhưng, phạm vi
của sự thưởng phạt bất quá cũng chỉ giải quyết được
một phần trăm, phần ngàn các vấn đề xã hội mà thôi.
Như muốn trừ bỏ được những việc xấu ác trong chỗ ẩn
khuất mà người khác không ai biết, hay những tâm
niệm xấu ác vừa mống khởi, thì dẫu cho mỗi nhà đều
có một Khổng Tử, mỗi hộ giao cho một Cao Đào, 1 e rằng
cũng không thể làm nổi. Cho nên, người đời thường chỉ
sợ hình luật của quốc gia, phần lớn chẳng biết sợ sự
trách phạt của lẽ trời. Nhưng nói chung thì hình luật
của quốc gia còn có thể tìm cách lẩn trốn, tránh né, mà
1 Cao Đào: vị quan tư pháp giữ việc xét xử vào thời vua Thuấn,
vua Vũ.
An Sĩ toàn thư
368 369
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
sự trách phạt của lẽ trời thì không cách gì trốn tránh
được. Nếu người đời có thể thực hành rộng khắp theo
Phật giáo, Đạo giáo, khiến cho thuyết nhân quả được
tỏa sáng rực rỡ trong đời, ắt người thế gian từ nơi chỗ
nhỏ nhiệm sâu thẳm trong tâm thức cũng tự nhiên có
sự kiêng sợ không dám làm điều bất thiện. Được như
vậy thì so với việc Khổng Tử biên soạn sách Xuân Thu 1
khiến cho bọn loạn thần nghịch tử đều kinh sợ, ắt là
hiệu quả cũng không hề thua kém.
Lời bàn
Vào thời Lưu Tống, Tống Văn Đế có lần bảo Hà
Thượng: “Phạm Thái, Tạ Linh Vận thường nói rằng
Lục kinh 2 của Nho gia căn bản là nhằm cứu giúp thế
tục, chính đính lòng người. Nếu muốn cầu đạt đến tâm
tánh linh diệu sáng suốt, thấu rõ yếu nghĩa chân thật,
thì nhất định phải nương theo sự chỉ dẫn của Phật
giáo. Giá như nhân dân cả nước đều được Phật pháp
cảm hóa, ắt trẫm sẽ có thể ngồi yên mà hưởng cảnh
thiên hạ thái bình.”
1 Xuân Thu là bộ sách do Khổng Tử biên soạn, ghi chép sử nước
Lỗ trong khoảng thời gian 42 năm, từ năm thứ 49 đời Chu Bình
Vương đến năm thứ 39 đời Chu Kính Vương. Sách được Nho gia
tôn trọng xếp vào một trong Ngũ kinh, gọi là Kinh Xuân Thu.
2 Lục kinh: sáu pho sách quan trọng nhất của Nho gia, bao gồm
kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Nhạc, kinh Dịch và kinh Xuân
Thu.
Hà Thượng đáp rằng: “Từ khi nhà Tấn dời đô
qua sông về phương đông 1 đến nay, những người như
Vương Đạo, 2 Chu Nghĩ, Dữu Lượng, Tạ An, Đới Quỳ,
Hứa Tuân, Vương Mông, Hy Siêu, Vương Thản Chi, 3
cho đến các đời ông cha, anh em của thần không ai là
không quy y theo đạo Phật. Xét như trong một làng
trăm hộ, nếu có một người thọ trì Năm giới, tức là
có một người làm việc thiện; 10 người giữ Năm giới
tức có 10 người làm việc thiện. Có người làm một việc
thiện tức là trừ bỏ được một việc xấu ác. Trừ bỏ được
một việc xấu ác tức là bớt được một hình phạt trừng
trị. Mỗi nhà giảm bớt một hình phạt, thì cả nước giảm
được hàng vạn hình phạt. Bệ hạ nói rằng có thể ngồi
yên hưởng thái bình chính là như vậy. Các nhà Nho
sau này do húy kỵ với Phật giáo nên thay dùng những
khái niệm ‘quân tử, tiểu nhân’ để bổ trợ cho những chỗ
mà sự thưởng phạt không thể đạt đến. Thần cho rằng
cách làm như thế thật là thiển cận hẹp hòi.”
Phát triển Nho học chân chánh
C
húng ta đã có chí theo học Khổng Mạnh, 4 nên
học lấy chỗ bản lĩnh sâu sắc nhất. Chẳng hạn
1 Tức triều Đông Tấn, bắt đầu từ năm 317.
2 Vương Đạo (276 -339), giữ chức Tể tướng của triều Đông Tấn
trong 33 năm.
3 Vương Thản Chi: con trai Vương Đạo, mất năm 375.
4 Khổng Tử và Mạnh Tử, chỉ cái học Nho gia, bởi trước thuật của
2 người này chi phối phần lớn nội dung chủ yếu của Nho học.
An Sĩ toàn thư
370 371
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
như học theo quan điểm của Khổng Tử là “không có
một bậc thầy cố định nào”, 1 hoặc “đạo của ta chỉ dùng
một mối mà quán thông vạn pháp”, 2 hoặc như thuyết
“không ý, tất, cố, ngã”, 3 đó chính là những chỗ sâu sắc
nhất trong học thuyết của Khổng Tử. Còn như việc
nhận rõ và nêu ra các lẽ “tự chế phục bản thân, quay
về theo lễ nghĩa đạo lý” hay “chân thành và khoan
1 Nguyên văn: 無常師 – vô thường sư, ý nói nên học lấy những
điều hay lẽ phải từ bất cứ ai, bất cứ nơi đâu. Cũng theo quan điểm
tương tự, Khổng Tử từng nói: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã
sư.” (Trong 3 người cùng đi, ắt phải có một người có thể làm thầy
ta trong đó. )
2 Nguyên văn: 吾道一貫 - Ngô đạo nhất quán.
3 Nguyên văn: 無意必固我- vô ý tất cố ngã. Về thuyết “ý, tất, cố,
ngã” (意, 必, 固, 我), xin xem lại chú giải trước ở trang 364. Tuy
nhiên, theo cách hiểu với truyền thống “thế học” của Nho gia,
hầu hết các nhà Nho ban đầu (khi chưa có nhiều ảnh hưởng của
Phật giáo) thường hiểu về thuyết này như sau: vô ý, là không chủ
quan suy diễn sự việc theo ý riêng của mình; vô tất, là không giữ
theo quan điểm tuyệt đối về bất cứ vấn đề nào; vô cố, là không
cố chấp câu nệ theo những khuôn mẫu hay quy ước cũ; vô ngã, là
không tự nhận mình là đúng. Về sau, với ảnh hưởng của Phật giáo,
các nhà Nho cũng dần dần có khuynh hướng giải thích thuyết này
theo về gần với cách nhìn của đạo Phật hơn. Tuy nhiên, nếu xét kỹ
thì rõ ràng cái “vô ngã” của Khổng Tử không thể giống như giáo lý
“vô ngã” của đức Phật.
thứ”, 1 thì chính là chỗ bản lĩnh sâu sắc nhất của các vị
Nhan Hồi, Tăng Tử.
Học thuyết của Trọng Ni 2 chuyên nhắm đến sự
tự mình tu dưỡng, chế phục bản thân. Vì thế mới có
những lời như: “Đạo vốn ở tự tâm, lặng lẽ mà nhận
hiểu”, hoặc như: “Ta thật không có thời gian nhàn rỗi
để phê phán người khác”, hoặc là: “Thường nghiêm
khắc với lỗi lầm của chính mình mà khoan thứ, giảm
nhẹ sự trách cứ đối với người khác.” Những lời dạy
đầy lòng nhân ái như thế, trong sách Nho lưu lại rất
nhiều, một lần không thể kể ra được hết.
Vào thời của Mạnh Tử, tuy vẫn có các thuyết khác
của Dương Mặc, 3 nhưng Mạnh Tử đều cương quyết bác
bỏ, không chấp nhận. Đó chỉ là vì cho rằng chủ trương
lấy sự thương yêu nhường nhịn thay cho hình phạt
chế trị tuy rất tốt đẹp, lý tưởng, nhưng trong thực tế
không phải điều mà tất cả mọi người đều có thể làm
theo. Không giống như những kẻ đời sau đối với học
1 Nguyên văn: 克復忠恕 – khắc phục trung thứ. Hai chữ khắc
phục là nói tóm học thuyết khắc kỷ phục lễ (克己复礼). Trung và
thứ chỉ hai đức tính: trung thực, chân thành; và khoan dung đại
lượng, biết cảm thông tha thứ.
2 Trọng Ni: tức Khổng Tử.
3 Tức Dương Chu (杨朱) và Mặc Địch (墨翟). Dương Chu chủ
trương thuyết “vị ngã”, còn Mặc Địch chủ trương thuyết “kiêm ái”.
An Sĩ toàn thư
372 373
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thuyết nỗ lực tự hành của Trọng Ni thì tránh khó tìm
dễ, muốn cầu an ổn, nhưng chỉ riêng lấy việc bài xích,
chống lại Dương Mặc mà cho rằng như thế đã là hàng
môn đệ của thánh nhân, liền phấn khích vỗ tay nhảy
nhót; vốn thật đối với sự tu dưỡng thì bỏ khó tìm dễ,
ngược lại trong lòng tiếc hận rằng đời nay chẳng có
Dương, Mặc để cho mình bài xích. Nhân đó liền soi
mói tìm kiếm những điều nhỏ nhặt, khiên cưỡng có đôi
chút tương tợ thì lập tức cho đó là thuộc về học thuyết
của Dương Mặc. Rồi lại mang những điều thật trong
học thuyết của Dương Mặc mà gán cho Phật giáo, Đạo
giáo. Những kẻ ấy quả là phí công chạy theo cái học
giảng thuật, mà chỗ thực hành tu dưỡng đức hạnh tự
thân lại quá sơ sài, cạn cợt. Thật chẳng bằng noi theo
tâm lượng chí công vô tư của bậc thánh hiền, chỉ cần
nỗ lực hết sức mình, dẹp bỏ những sự công kích đối với
kẻ khác, như vậy ắt sẽ tự nhiên mà được thành tựu.
Lời bàn
Ngũ giới của đạo Phật, mới nhìn qua có vẻ như
tương tợ với Ngũ thường của Nho gia, nhưng chỉ nên
kết hợp để tán trợ cho nhau, không nên có sự công kích
hủy báng nhau. Có những nhà Nho không có sự suy
xét kỹ càng, vừa nghe giáo pháp “từ bi” xuất phát từ
đạo Phật liền lập tức phản bác, công kích, hóa ra chính
vì thế mà làm suy vi học thuyết về “đức nhân” của Nho
giáo. Lại vừa nghe đến những giới “không trộm cắp,
không tà dâm” là xuất phát từ đạo Phật, liền lập tức
phản bác, hóa ra vì thế mà làm tiêu vong học thuyết
về “nghĩa” của Nho giáo. Lại nghe nhà Phật răn cấm
sự nói dối, liền lập tức phản bác, hóa ra vì thế mà làm
diệt mất đạo “trung tín” của Nho gia. Như thế chẳng
phải là muốn bảo vệ đạo mình, hóa ra lại làm tổn hại
cho đạo đó sao?
Xưa có vị học giả cho rằng Phật giáo có hại, đem
việc ấy hỏi tiên sinh Tượng Sơn. Tiên sinh liền hỏi lại:
“Nếu nói có hại, vậy nói xem có hại ở điểm nào?” Kỳ
thật hiện nay gây tổn hại cho đạo lý chính là ở những
lời nhàn rỗi công kích của đám người tự khoe mình là
học giả đó thôi.
Ngấm ngầm trừ dứt tai họa
G
iữa vũ trũ mênh mông, thế nào cũng có lúc
xuất phát những bậc anh hùng tài năng kiệt
xuất. Điều quan trọng là phải biết vận dụng tài trí
hơn người theo những khuynh hướng chân chánh, ắt
sẽ thành những bậc cứu thế lưu danh như Trương
Lương, Chu Bột, Trần Bình, Tiêu Hà... 1 Bằng như vận
1 Đây đều là những bậc tài trí hơn người, là khai quốc công thần
của triều Hán, giúp Hán Cao Tổ bình định thiên hạ về một mối,
An Sĩ toàn thư
374 375
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
dụng vào chỗ tà vạy xấu ác, ắt sẽ trở thành những kẻ
như Vương Mãng, Đổng Trác, Tư Mã Ý, Tào Tháo... 1
Từ khi thiết đặt chế độ thi cử khoa bảng, tự nhiên
khiến cho người ta ngay từ thuở thiếu thời đã lao vào
những chuyện bút nghiên giấy mực, hết năm này sang
năm khác, bỗng chốc nhìn lại đã đến lúc tóc bạc răng
rụng. Trong suốt thời gian ấy, quả không ít người đè
nén được tính khí gian hùng, trừ bỏ được tâm tánh
giảo hoạt. Lại riêng có những bậc tài trí kiệt xuất hơn
người, công danh lợi lộc chẳng động tâm, liền lui về
những chốn tùng lâm tĩnh mịch, sớm chiều kinh kệ,
cầu học đông tây, xem công danh như áng mây trôi,
nhìn sống chết khác nào giấc mộng. Lại có những kẻ
tính khí ngang bướng ngỗ nghịch, nhưng nhờ niệm
Phật tu thiền mà được chuyển hóa, ngấm ngầm trừ dứt
được những nguyên nhân mang đến tai họa. Chẳng
thể biết được số người như thế đã lên đến hàng bao
nhiêu ngàn vạn vạn người, liệu có thể nói những lợi
lạc mang lại cho xã hội như thế là nhỏ nhặt được sao?
Lời bàn
Khổng Tử soạn thành sách Xuân Thu, khiến cho
bọn loạn thần nghịch tử khi xem đến đều rúng động
chấm dứt một thời kỳ loạn lạc chiến tranh kéo dài rất lâu.
1 Đây là những nhân vật tuy có tài mưu lược nhưng hành vi gian
ác, xảo trá gây hại rất nhiều người.
kinh sợ. Thế thì bọn chúng sợ những gì? Đó là sợ tiếng
xấu để lại muôn đời sau khi chết. Nhưng đó chỉ là
chuyện của thời đạo đức văn minh hãy còn hưng thịnh.
Nếu là bọn loạn thần nghịch tử của đời sau này, khi
đạo đức đã suy thoái, ắt cũng chẳng sợ gì việc tiếng
xấu truyền lưu. Hơn nữa, cũng chẳng riêng gì là kẻ
loạn thần nghịch tử, đến như rất nhiều người được
xưng là trí thức, đa phần cũng chẳng hề biết đến sách
Xuân Thu!
Vậy nên phải nương theo giáo lý nhà Phật mà chỉ
ra cho mọi người thấy rằng, đời sống này ngắn ngủi
không thường còn, sau khi chết nhất định phải thọ
lãnh nghiệp báo; những kẻ bất trung bất hiếu, tạo
nhiều ác nghiệp ắt phải đọa làm súc sinh, ngạ quỷ.
Khi ấy mới biết rằng suốt đời vất vả chạy theo bao tâm
niệm gian tà, lập nhiều mưu ma chước quỷ, rốt cuộc
cũng chẳng được gì, nhưng đời sau phải chịu muôn
điều khổ não, chung quy cũng chỉ do chính mình tự
tạo. Hồi tưởng lại những khi đấu tranh giành giật,
mưu bá đồ vương, nay hốt nhiên thảy đều tan nhanh
như sương sớm. Đáng mừng thay, từ khi có đạo Phật
đến nay, biết bao kẻ loạn thần nghịch tử phải run sợ,
biết bao kẻ gian trá xấu xa phải khiếp đảm, khiến cho
người người ngày càng hướng thiện, nhưng lắm kẻ
dường như chẳng biết nhờ ai mà được sự tốt đẹp như
An Sĩ toàn thư
376 377
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
thế. Bản thân tôi xem trong giáo pháp vĩ đại của đức
Như Lai mà nhận biết được hết thảy những điều ấy.
Trưng dẫn sự tích
Quả báo tức thời của kẻ hủy báng giáo pháp 1
Q
uan Tư đồ thời Bắc Ngụy là Thôi Hạo, 2 học
nhiều biết rộng, tài trí hơn người, được Thái
Vũ Đế 3 hết sức tin dùng, ưu ái. Nhưng ông vốn không
tin Phật pháp, thường khuyên vua làm những việc
hủy hoại giáo pháp, tiêu diệt Tăng-già. Ông thấy vợ là
Quách thị tụng kinh Phật thì nổi giận đốt kinh.
Thôi Hạo có 2 người em là Thôi Di và Thôi Mô, hết
sức kính tín Tam bảo. Mỗi khi nhìn thấy tượng Phật,
cho dù đang ở chỗ đất bùn cũng nhất định quỳ xuống
lễ lạy. Thôi Hạo thấy vậy thì cười nhạo, hết lời bài xích.
Về sau, Thôi Hạo vì liên quan trong việc chép quốc
sử mà làm cho Vũ Đế nổi giận, nhốt vào cũi trên xe
đưa ra thành phía nam, bị đánh đập tra tấn cực kỳ tàn
1 Trích từ sách Ngụy thư - 魏書. (Chú giải của soạn giả)
2 Thôi Hạo tên tự là Bá Uyên, quảng văn bác học, mưu trí hơn
người, giữ nhiều chức vụ quan trọng thời Bắc Ngụy. Không rõ năm
sinh của ông, nhưng mất vào năm 450.
3 Tức Ngụy Thái Võ Đế, sinh năm 408 và mất năm 452.
khốc. Lại cho 10 người vệ sĩ cùng lúc tiểu tiện lên người
ông, nhục nhã đau đớn, than khóc rất thê thảm, người
đi đường ai nấy đều nghe thấy. Từ xưa đến nay, thân
làm đến trọng thần chấp chính mà cuối cùng phải chịu
khổ nhục đến như Thôi Hạo thật là chưa từng có. Toàn
gia tộc họ Thôi bất luận già trẻ đều bị mang ra xử tử
hình, chỉ riêng Thôi Di và Thôi Mô do không cùng chí
hướng với Thôi Hạo nên đặc biệt được miễn tội. 1
Lời bàn
Sau khi Thái Vũ Đế hủy diệt Phật pháp, có vị
sa môn là Đàm Thủy chống tích trượng đi thẳng vào
hoàng cung. Thái Vũ Đế sai người bắt mang ra chém,
nhưng đao chém không gây được thương tích gì cho
ngài. Vua giận lắm, đích thân đến tận nơi rút đao
chém, vị sa môn ấy cũng không hề hấn gì. Vua sai
mang ném vào chuồng cọp. Cọp vừa nhìn thấy đại
sư bỗng khiếp sợ nằm mọp xuống sát đất, bất động.
Vua lại truyền đưa đạo sĩ Khấu Khiêm đến, bảo đi lại
gần chuồng cọp. Cọp lập tức gầm lên, nhe răng muốn
1 Về vụ án Thôi Hạo, không chỉ một họ Thôi bị tru diệt. Sách
Ngụy thư (魏書- sách viết về lịch sử thời Bắc Ngụy) ghi lại rằng:
“Tháng 6 năm Chân Quân thứ 11 (450) tru diệt Thôi Hạo, họ Thôi
ở Thanh Hà, họ Lư ở Phạm Dương, họ Quách ở Thái Nguyên, họ
Liễu ở Hà Đông, là thân nhân với Thôi Hạo nên đều bị giết hết
cả tộc.
An Sĩ toàn thư
378 379
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
cắn. Vua kinh sợ, liền thỉnh Đại sư Đàm Thủy lên đại
điện, lễ bái sám hối tội trước, xin hứa sẽ khôi phục
lại Phật giáo. 1
Than ôi! Các bậc thánh trong Tam giáo, vị nào cũng
chỉ muốn giáo hóa con người đến chỗ hiền thiện mà
thôi, lẽ nào lại có thể so sánh mà cho rằng chỗ lập giáo
của mỗi đạo có sự hơn kém nhau? Tần Thủy Hoàng
lầm tin mưu kế của Lý Tư, thực hiện chủ trương đốt
hết sách vở, chôn sống Nho sĩ, rốt cùng bỏ mạng tại Sa
Khâu, còn Lý Tư bị giết sạch cả họ. Các vua đời Đông
Hán như Hoàn Đế, Linh Đế, đời Đường như Chiêu
Tông, Tuyên Tông, đều do mê muội sủng ái tin lời bọn
hoạn quan mà giết hại những bậc danh sĩ trong thiên
hạ. Rốt cuộc những kẻ bày mưu đều gánh chịu tai họa
mất mạng, các vua ấy thì chịu họa mất nước. 2
Ngụy Thái Vũ Đế mê muội nghe lời Thôi Hạo, phá
chùa chiền, đốt kinh Phật, chưa được 3, 4 năm thì Thôi
Hạo mang họa cả họ bị tru diệt, cha con Thái Vũ Đế
đều chết không an ổn. 3
1 Xem trong Bắc sơn lục -北山錄. (Chú giải của soạn giả)
2 Xem những điều này trong sách Tư trị thông giám -資治通鑒.
(Chú giải của soạn giả)
3 Xem trong sách Ngụy thư - 魏書. (Chú giải của soạn giả)
Chu Vũ Đế lầm nghe theo lời Vệ Nguyên Tung mà
hủy diệt giáo pháp, chưa quá 3, 4 năm thì Nguyên
Tung bị giáng tội chết, Chu Vũ Đế mắc bệnh lạ, toàn
thân nóng nảy như lửa đốt, rốt lại chỉ mới 36 tuổi đã
bỏ mạng, trước giờ chết nhìn thấy vô số điều xấu ác
thảm thương, thật không nỡ kể ra đây. 1
Đường Vũ Tông tin theo Triệu Quy Chân, Lý Đức
Dụ, phá bỏ chùa chiền khắp nơi. Chưa được một năm,
Quy Chân bị tội chết, Đức Dụ cũng bị đày đến chết tại
Nhai Châu. Đường Vũ Tông thì chết lúc mới 32 tuổi,
không con nối dõi. 2
Các vua đời Ngũ quý, 3 không ai tài trí hơn Chu
Thế Tông, chỉ có điều là không biết tin kính Phật
pháp, thậm chí về sau cho nấu chảy tượng Phật lấy
đồng đúc tiền. Thế nên không quá 6 năm thì mất nước
về tay Triệu Khuông Dận của Bắc Tống. 4
Rốt cùng xem lại, nhà Tần hủy phá đạo Nho, chỉ
sau 30 năm thì Nho giáo hưng thịnh trở lại; các triều
Hán, Đường có những lúc khắt khe tàn hại các bậc
1 Xem trong sách Chu thư - 周書. (Chú giải của soạn giả)
2 Xem trong sách Đường thư - 唐書. (Chú giải của soạn giả)
3 Ngũ quý: chỉ 5 triều đại gồm Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn,
Hậu Hán và Hậu Chu.
4 Xem trong sách Thông giám -通鉴. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
380 381
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
danh sĩ trong thiên hạ, nhưng chẳng mấy năm sau
thì giới sĩ phu cũng dần dần phát triển như trước. Đời
Bắc Ngụy Thái Vũ Đế hủy phá Phật pháp, chỉ sau 7
năm thì đạo Phật được khôi phục; đời Chu Vũ Đế hủy
phá Phật pháp, chỉ sau 6 năm thì đạo Phật cũng được
khôi phục; Đường Vũ Tông hủy phá Phật pháp, không
quá 1 năm thì đạo Phật lại khôi phục; đó chẳng phải
là ngửa mặt lên trời phun nước bọt, hóa ra tự làm dơ
mặt mình đó sao?
Lý Tư và Thôi Hạo là hai kẻ nặng tội nhất trong
việc diệt Nho hủy Phật, nên ngay trong đời đã phải
chịu quả báo diệt thân cực kỳ lạ lùng thảm khốc. Tống
Huy Tông tuy làm việc sửa đổi chùa chiền Phật giáo
thành đạo quán của Đạo giáo, nhưng chưa đến nỗi
hủy diệt Chánh pháp, nên tự thân ông ta tuy chịu sự
nhục nhã, nhưng vận nước vẫn được nối dài. Đó đều là
những chuyện đời trước hết sức rõ ràng, có thể khảo
chứng được. Nguyện cho người người trong thiên hạ
đều có thể nhận hiểu được ý nghĩa của việc thực hành
rộng khắp theo Tam giáo, người theo Nho giáo, kẻ theo
Đạo giáo hay người tin Phật giáo, thảy đều thực hành
theo lời dạy của đạo mình, đồng tâm hiệp lực trong
việc giáo hóa, mang lại sự an ổn cho xã hội, không còn
xung khắc báng bổ lẫn nhau. Được như thế quả thật là
vô cùng may mắn cho tất cả chúng sinh.
Phụ đính 2 mục hỏi đáp về tăng sĩ
Hỏi: Các vị tăng sĩ không bỏ công cày ruộng dệt
vải, chỉ ngồi thọ hưởng cúng dường, thật là hao phí
lương thực, vải vóc trong xã hội, như vậy mang lại
những lợi ích gì?
Đáp: Trong xã hội có rất nhiều hạng người không
cày ruộng mà vẫn có cơm ăn, đâu chỉ riêng các vị tăng
sĩ? Ví như các vị ấy không xuất gia, chẳng lẽ lại không
tiêu tốn lương thực, vải vóc? Nếu tiêu tốn lương thực,
vải vóc, liệu có nhất định phải do các vị ấy tự cày ruộng,
dệt vải mà có chăng? Huống chi, nếu họ làm người thế
tục thì chẳng phải chỉ một thân một mình, ắt còn phải
có thêm vợ con quyến thuộc, tôi tớ giúp việc... nên sự
tổn phí còn hơn gấp nhiều lần, sao có thể so với cuộc
sống tăng lữ chỉ một y một bát, rày đây mai đó giáo
hóa người đời?
Người đời dùng da chồn lông cáo làm thành mão
quan tôn quý; gấm vóc trang điểm làm thành y phục
sang trọng; lên núi cao, xuống biển sâu tìm về đủ các
món ngon vật lạ, mà những người thọ hưởng các thứ
ấy, xét kỹ ra đều là những kẻ không cày mà có cơm ăn.
Vậy thử hỏi những kẻ ấy là ai? Là tăng sĩ chăng? Là
người thế tục chăng?
Trong chốn thế tục, những hầu thiếp được yêu
mến khi trang sức trên người thật chẳng tiếc gì châu
An Sĩ toàn thư
382 383
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
ngọc quý báu; những đào hát diễn viên chốn cung đình
cũng dùng toàn đai ngọc mũ vàng; hoặc như những
sòng bạc thâu đêm suốt sáng hoang phí bạc tiền; hoặc
những kẻ kết thành bè đảng ăn chơi, rượu thịt ê hề...
Những kẻ không làm mà ăn như thế quả thật nhiều
đến mức lấy xe mà chở, lấy đấu mà đong cũng không
hết được, sao không nhắm đến bọn họ mà trừ khử, lại
chỉ biết quy lỗi vào hàng tăng sĩ?
Lẽ nào những kẻ phàm tục, xấu ác, hèn kém lại
được thọ hưởng y phục gấm vóc, món ăn trân quý, còn
bậc hiền nhân thấy thật tánh, rõ chân tâm lại không
xứng đáng thọ dụng áo vải thô, cơm dưa muối hay sao?
Tôi thường nghe lắm kẻ chuyên đi công kích người
không đồng quan điểm với mình, thật không khỏi có
chút bất bình.
Hỏi: Xã hội ngày xưa có 4 thành phần là sĩ, nông,
công, thương. Xã hội ngày nay lại thêm 2 thành phần
nữa là tăng sĩ với đạo sĩ, thành cả thảy đến 6 thành
phần. Một nhà làm ruộng mà đến sáu nhà ăn, một
nhà sản xuất vật dụng mà đến sáu nhà dùng, như vậy
làm sao khỏi đi đến chỗ nghèo đói rồi sinh ra trộm cắp
khắp nơi?
Đáp: Nếu số người tiêu thụ lương thực giảm xuống,
lúa thóc ắt không bán ra được, nông dân tất nhiên bị
tổn hại. Nếu số người sử dụng vật dụng giảm đi, vật
dụng làm ra không bán được, ắt công nhân cũng bị tổn
hại. Cho nên, nguồn lợi của nông dân chính là ở chỗ có
nhiều người tiêu thụ lúa thóc, nguồn lợi của công nhân
chính là ở chỗ có nhiều người tiêu thụ vật dụng. Thử
hỏi, những người ăn lúa thóc của nông dân, dùng vật
dụng của công nhân làm ra, lại ngang nhiên mà lấy
không của họ được chăng? Hay là phải bỏ tiền ra mua?
Giá như không mua mà có thể lấy dùng, tất nhiên số
ấy càng đông càng tai hại. Còn nếu như người dùng
đều bỏ tiền mua mà vẫn cứ cho là gây hại cho xã hội,
thì lẽ nào như các nhà buôn bán lớn, mỗi ngày bán ra
hàng hóa trị giá cả ngàn nén bạc, cha mẹ vợ con họ
nhìn thấy như thế lại phải đau đớn khóc lóc chăng?
Những người thắc mắc như thế quả là cổ hủ, chẳng
hiểu gì việc đời, thật không đáng để nói đến.
385
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
384
Giúp người khẩn cấp như cá mắc cạn;
cứu người nguy nan như chim bị lưới siết
Giảng rộng
N
hững khái niệm “nguy nan” với “khẩn cấp”
mang ý nghĩa rất rộng, so với văn trước có nói
“cứu người khi nguy nan” cũng đồng nghĩa. Tuy nhiên,
trước là Đế Quân kể việc của ngài tự làm, còn ở đây là
răn dạy, khuyên bảo người đời nên làm. Chữ “như” được
dùng ở câu này mang 2 nghĩa. Một là dùng để so sánh
hai sự việc tương tự nhau, hai là dùng để so sánh tâm ý
cấp thiết trong hai trường hợp cũng giống nhau.
Trưng dẫn sự tích
Thoát nạn, cứu người 1
T
riều Đông Tấn, trong khoảng niên hiệu Thái
Nguyên, tại kinh thành Trường An có một
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả) Thuộc Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 53, kinh số 2122.
Sách có 100 quyển, do ngài Đạo Thế soạn vào đời Đường. Xem
chuyện này ở quyển 65, bắt đầu từ dòng thứ 4, trang 785, tờ b. Ở
đây thuật lại nội dung, không trích nguyên văn.
người tên Trương Sùng, ngày thường vẫn luôn tin
tưởng phụng sự Phật pháp. Từ sau khi Tuyên Chiêu
Đế của nhà Tiền Tần là Phù Kiên bị Đông Tấn đánh
bại, Trường An có đến hơn ngàn hộ dân lành muốn bỏ
chạy về phương nam quy thuận Đông Tấn, bị quân
binh trấn thủ biên giới bắt được, có ý muốn giết hết
đàn ông, còn phụ nữ thì bắt giữ rồi bán đi. Khi ấy,
Trương Sùng cũng bị bắt giữ, chân tay đều bị gông
cùm, nửa người bị chôn sống trong đất, hôm sau dự
tính sẽ cho bọn binh sĩ cưỡi ngựa chạy ngang dùng
cung tên bắn chết, xem đó là trò vui.
Trương Sùng nghĩ mình chắc chắn không thoát
khỏi cái chết, chỉ biết đem hết lòng thành niệm danh
hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm. Khoảng nửa đêm, gông
cùm bỗng tự mở, thân thể hốt nhiên bay vọt ra khỏi
đất, liền nhân lúc đêm tối chạy trốn. Nhưng lúc ấy
chân bị đau quá cơ hồ không chạy được, liền tiếp tục
trì niệm danh hiệu Bồ Tát, thành tâm lễ bái, rồi đặt
một tảng đá trước mặt mà phát nguyện rằng: “Nay tôi
muốn vượt sông Trường giang về phía đông, đem nỗi
oán hận này tố giác lên hoàng đế nhà Tấn, mong cứu
thoát được hết những người đang bị giam giữ ở đây.
Nếu tâm nguyện của tôi có thể thành tựu, xin cho tảng
đá này vỡ ra làm đôi.” Khấn như vậy rồi, liền nhấc
tảng đá lên mà thả rơi xuống đất. Quả nhiên, tảng đá
An Sĩ toàn thư
386 387
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
vỡ đôi. Trương Sùng liền nỗ lực hết sức chạy về được
đến kinh đô nhà Tấn, đem mọi việc trình lên Tấn đế.
Tấn đế sai quân đến giải cứu cho số người đang bị
giam giữ; có một số phụ nữ đã bị bán đi, liền xuất tiền
chuộc lại đưa về hết.
Lời bàn
Tự mình chưa thoát được mà đã khởi tâm muốn
cứu thoát người khác, ấy là phát tâm của hàng Bồ Tát.
Tâm nguyện của Trương Sùng vốn đã tương ưng với
tâm nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, nên sự cầu
nguyện của ông đương nhiên phải được linh ứng.
Từ xa cứu nạn giảng đường sụp đổ  1
Đ
ời Bắc Chu, chùa Đại Truy Viễn ở kinh thành
có vị tăng hiệu Tăng Thật, vốn họ Trình, quê
ở Hàm Dương, là bậc chân tu đạo hạnh. Một hôm, vào
lúc giữa trưa ngài bỗng lên lầu gióng chuông rất gấp, tụ
tập chúng tăng, dặn tất cả chúng tăng đều phải chuẩn
1 Trích từ sách Đường Cao tăng truyện - 唐高僧傳. (Chú giải của
soạn giả) Chúng tôi lại tìm thấy câu chuyện này ở Tục Cao tăng
truyện (續高僧傳) do ngài Đạo Tuyên soạn vào đời Đường, được
xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, tập 50, kinh số 2060.
Sách này có 30 quyển, xem chuyện này ở quyển 16, bắt đầu từ
dòng 13, trang 558, tờ a. Ở đây kể lại nội dung, không phải trích
nguyên văn.
bị hương trầm. Mọi người mang hương trầm đến, thưa
hỏi nguyên nhân, ngài liền dạy: “Trong giờ khắc này, tại
Giang Nam ở chùa... ... có một giảng đường sắp bị sụp đổ,
có thể đè chết cả ngàn người. Nếu mọi người ở đây cùng
nhau đồng tâm trì niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế
Âm, có thể cứu được nạn ấy.” Chúng tăng vâng lời, cùng
nhau niệm Phật hiệu, âm thanh vang rền cả vùng.
Mấy ngày sau có tin từ Giang Nam đến, quả nhiên
đúng là trong giờ ngọ ngày hôm trước đó, có giảng
đường tại Dương Châu đang tổ chức thuyết pháp,
thính chúng ngồi chật bên trong đến cả ngàn người.
Bỗng thấy từ hướng tây bắc có đám khói hương lạ bay
đến, cùng với tiếng nhạc trong trẻo ngân nga. Mây
hương từ cửa phía bắc của giảng đường bay vào, rồi
bay thẳng ra cửa phía nam. Người trong giảng đường
lấy làm kinh dị, tất cả đều đổ xô chạy theo đám mây
hương ấy mà ra khỏi giảng đường. Mọi người vừa ra
hết thì giảng đường cũng vừa sụp đổ. Nhờ đó mà không
ai bị thương tổn gì.
Vua nhà Lương nghe biết chuyện này, ba lần
xuống chiếu thỉnh ngài triều kiến nhưng ngài đều
không đến. Niên hiệu Bảo Định năm thứ 3, 1 vào ngày
18 tháng 10, ngài thị tịch, trong triều ngoài nội ai ai
cũng đều thương tiếc.
1 Tức là năm 563.
An Sĩ toàn thư
388 389
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Một niệm chí thành có thể tạo thành khói hương,
âm nhạc, chỉ trong chớp mắt đã đến được nơi xa ngàn
dặm, từ đó có thể hiểu ra được ý nghĩa “tất cả đều do
tâm tạo”. Thế thì, sao lại có thể cho rằng việc tu phước
cầu siêu thoát cho hương linh không thể trong một
chớp mắt thông suốt chốn u minh địa phủ; rằng người
niệm Phật cầu vãng sinh không thể trong một sát-na
thẳng đến cảnh giới Tây phương Cực Lạc?
Bỏ chức quan, cứu thuộc cấp 1
T
riều Nam Tống, trong khoảng niên hiệu Chiêu
Hưng, vùng Lư Lăng 2 có người tên Chu Tất
Đại, làm quan vùng Lâm An thuộc Triết Giang, trong
đó có một xưởng bào chế thuốc. Một hôm, kho chứa
thuốc bị hỏa hoạn, cháy lan sang nhà dân chúng quanh
đó. Người nhân viên phụ trách giữ kho thuốc ấy, theo
đúng luật phải xử tội chết. Chu Tất Đại gọi người ấy
đến hỏi: “Nếu hỏa hoạn ấy là do lỗi của quan thì xử tội
gì?” Người ấy đáp: “Bất quá cũng chỉ bị cách chức thôi.”
Chu Tất Đại liền nhận tội về mình, bị cách chức quan.
Người nhân viên kia nhờ đó thoát chết. Chu Tất Đại đến
thăm cha vợ, ông nghe việc Tất Đại bị cách chức, trong
1 Trích từ sách Tống sử - 宋史. (Chú giải của soạn giả)
2 Nay thuộc thành phố Cát An, tỉnh Giang Tây.
lòng giận lắm. Bấy giờ gặp lúc tuyết rơi rất nhiều, có đứa
trẻ đang quét tuyết trong sân nhà, cha vợ ông nhìn thấy
bỗng sực nhớ lại đêm qua nằm mộng thấy mình quét
tuyết trong sân để nghênh đón quan tể tướng, nhân đó
mới giữ Tất Đại ở lại chơi, tiếp đãi trọng hậu.
Về sau, quả nhiên Tất Đại dự khảo thí khoa Bác
học hoành từ 1 trúng tuyển, ra làm quan thăng dần
đến chức Tể tướng, được phong tước Ích Quốc Công.
Lời bàn
Tự mình có tội, người thế gian còn muốn đổ vạ cho
người khác, huống chi tội của người khác lại khẳng
khái nhận lấy về mình, đến nỗi phải mất chức quan?
Độ lượng của quan Tể tướng quả thật rộng sâu không
thể đo lường!
Giúp người chuộc tội được sinh con 2
V
ào đời Minh, huyện Quảng Bình thuộc tỉnh
Hà Bắc có người tên Trương Tú, nhà nghèo
lại không có con. Trương Tú đặt một cái bình đất trong
nhà, tiền dành dụm được đều cho vào đó, trải qua 10
năm thì vừa đầy bình.
1 Bác học hoành từ (博學宏辭): tên một khoa thi có từ đời Đường,
được tổ chức để chọn người học rộng, văn chương quảng bác.
2 Trích từ sách Ý hành lục - 懿行錄. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
390 391
Có người hàng xóm của ông sinh được 3 đứa con
còn nhỏ, phạm vào pháp luật, buộc phải bán người
vợ đi để lấy tiền chuộc tội. 1 Trương Tú biết chuyện,
sợ người mẹ bị bán đi ắt 3 đứa con nhỏ không người
chăm sóc, liền mang hết số tiền dành dụm của mình
ra chuộc tội cho người kia. Vì số tiền ấy vẫn còn thiếu,
nên vợ ông liền mang cả chiếc trâm cài đầu của bà bán
đi để thêm vào cho đủ số.
Đêm ấy, Trương Tú mộng thấy có vị thần bế một
đứa bé kháu khỉnh đến trao cho ông. Sau đó vợ ông
liền có thai, sinh được con trai đặt tên là Trương Quốc
Ngạn. Quốc Ngạn về sau làm quan đến chức Hình Bộ
Thượng Thư. Hai người cháu là Trương Ngã Tục và
Trương Ngã Thằng sau cũng đều làm đến các chức
quan Bố chính sử và Án sát sử.
Lời bàn
Thương yêu con người khác, cuối cùng tự mình
sinh được quý tử. Như vậy có thể biết được rằng nếu
làm hại con cái người khác thì sẽ phải nhận lãnh kết
quả như thế nào.
1 Trong xã hội phong kiến ngày xưa, cha mẹ có quyền bán con,
chồng có quyền bán vợ. Người bỏ tiền mua về xem như có toàn
quyền đối với người bị mua, được pháp luật bảo vệ quyền sở hữu
đó. Đây cũng có thể xem là một hình thức nô lệ cổ xưa.
Xót thương trẻ mồ côi, giúp đỡ người góa bụa
Giảng rộng
M
ồ côi, tức những trẻ không còn cha mẹ; góa
bụa, tức phụ nữ không may mất chồng. Hai
đối tượng này đều đơn chiếc yếu đuối, thường dễ bị
người đời xem thường, khinh rẻ. Nếu như không xót
thương, giúp đỡ những kẻ ấy, quả thật là không có
lòng trắc ẩn, liệu có thể xứng đáng làm người chăng?
Dù sức mình không thể giúp đỡ, cũng nên thường khởi
tâm niệm thương xót muốn giúp đỡ. Nếu sức mình có
thể giúp đỡ, nên hết lòng tận lực mà thực sự ra tay
giúp đỡ.
Thương xót giúp đỡ, không nhất thiết phải là chu
cấp tiền bạc. Có thể là chỉ bày những điều chưa biết,
dạy dỗ những điều chưa làm được, răn nhắc những
điều không nên làm, thậm chí có thể là giúp người
vượt qua hoạn nạn, giải trừ những việc rối rắm, hoặc
vì người mà làm rõ những sự oan uổng, những việc
như thế cũng đều là xót thương giúp đỡ.
An Sĩ toàn thư
392 393
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Giúp mẹ góa con côi về tận quê nhà 1
Đ
ời Bắc Tống, khi Phạm Văn Chánh Công 2
đang làm tri phủ ở Việt châu, thuộc tỉnh Triết
Giang, có người tên Tôn Cư Trung chết trong lúc đang
làm việc cho nha môn. Nhà ấy nghèo túng, con còn thơ
ấu, thật khó khăn trong việc đưa về quê cũ. Phạm Văn
Chánh Công liền bỏ tiền ra thuê thuyền, lại phái một
viên chức đi theo đưa linh cữu về tận quê nhà. Trước
khi thuyền đi, ông lại làm một bài thơ trao cho viên
chức đi theo ấy và dặn rằng: “Khi qua các quan ải trên
sông, cứ đưa bài thơ này cho họ xem là được.”
Nội dung bài thơ ấy như sau:
十口相依泛巨川,
來時暖熱去淒然;
關津不用詢名氏,
此是孤兒寡婦船。
Thập khẩu tương y phiếm cự xuyên,
Lai thời noãn nhiệt, khứ thê nhiên.
Quan tân bất dụng tuân danh thị,
Thử thị cô nhi quả phụ thuyền.
1 Trích từ sách Ngôn hành lục - 言行錄. (Chú giải của soạn giả)
2 Phạm Văn Chánh Công: Phạm Trọng Yêm, thụy Văn Chánh.
Dịch nghĩa:
Mười người cùng nương tựa lẫn nhau, nổi trôi
trên dòng sông lớn.
Ngày đi sao ấm áp, ngày về thật lạnh lẽo thê
lương.
Quan ải các vị không cần phải hỏi tên họ người
trên thuyền,
Đây là thuyền của bà mẹ góa với đứa con côi.
Dịch thơ:
Một chục người nương tựa cùng nhau,
Thuyền trên sông rộng chở thương đau.
Ngày đi ấm áp, về lạnh lẽo.
Mẹ góa, con côi, hỏi thêm sầu!
Nhờ đó mà người trong nhà ấy đều được an toàn
về đến quê hương.
Lời bàn
Mẹ góa con côi xưa nay vẫn thường bị người ta
xem thường, khinh dễ. Giúp yếu trừ bạo, tất cả đều là
dựa vào lòng nhân ái.
An Sĩ toàn thư
394 395
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Vì chủ nuôi con mồ côi 1
V
ào đời Minh, có người tên Lý Tung, người vợ
làm vú nuôi cho nhà họ Cung. Vợ ông chết,
đứa trẻ tên Cung Tích Tước vừa lên 5 tuổi lại mất cha.
Gia nhân trong nhà họ Cung khi ấy có ý muốn giết
Tích Tước để chiếm đoạt gia sản chia nhau. Lý Tung
biết chuyện, đang đêm liền cõng Tích Tước đi trốn.
Chạy ra đến cửa thành vẫn còn đang đóng vì còn quá
sớm, Lý Tung quỳ xuống kêu khóc. Viên quan giữ cửa
thành thương xót, mở cửa cho ra. Lý Tung chạy suốt
5 ngày đêm trong tuyết lạnh, đến được nhà người cậu
của Tích Tước là Trầm Triệu.
Trầm Triệu thấy cả vợ chồng Lý Tung đều có ơn
nuôi dưỡng, hết sức bảo vệ cháu mình nên vô cùng
cảm động, đối đãi với Lý Tung như người nhà. Những
người giúp việc cho nhà họ Trầm, đều giao cho Lý Tung
cai quản, sai khiến, lại chẳng bao giờ để cho ông phải
dùng những món cơm thừa canh cặn như hạng tôi
tớ, nhưng Lý Tung trước sau vẫn giữ đúng bổn phận
người giúp việc.
Về sau, Cung Tích Tước thi đỗ tiến sĩ, không một
lúc nào dám quên việc báo đáp ân đức của Lý Tung,
nhưng Lý Tung vẫn ngày ngày mặc áo ngắn, nỗ lực
1 Trích từ sách Ý hành lục - 懿行錄. (Chú giải của soạn giả)
làm việc cực nhọc, không khác với lúc gia cảnh còn bần
hàn. Sau khi Lý Tung qua đời, Cung Tích Tước có lời
dặn lại con cháu mình phải đời đời nối nhau thờ phụng
cúng tế vợ chồng Lý Tung, không được bỏ phế.
Lời bàn
Như muốn báo đáp ơn sâu của Lý Tung, nên làm
nhiều việc phước đức mà hồi hướng cầu siêu thoát cho
ông, ắt là ông sẽ thực sự được lợi ích. Bằng như nói
rằng chỉ lo việc cúng tế, thì việc ông có được thọ hưởng
sự cúng tế ấy hay không, rốt cuộc cũng không thể biết
chắc được. Tuy nhiên, cái biết của người thế tục thì bất
quá cũng chỉ đến như thế mà thôi. Ví như đứa trẻ con,
trong cơn giận dữ dù có hết sức muốn biểu lộ cũng chỉ
biết la hét khóc lóc mà thôi. Ngoài việc la hét khóc lóc
ra, đứa trẻ ấy nào có biết làm gì khác hơn?
Cưỡng bức người chịu quả báo tức thời 1
Đ
ời nhà Minh, vào năm cuối niên hiệu Sùng
Trinh, 2 vùng Ngô Giang thuộc tỉnh Giang
Tô có người tên Trương Sĩ Bách, mất sớm, để lại
người vợ họ Trần có nhan sắc xinh đẹp, tuổi còn trẻ,
quyết thủ tiết thờ chồng.
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức là năm 1644, đời Minh Tư Tông.
An Sĩ toàn thư
396 397
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Người anh của Sĩ Bách là Trương Sĩ Tùng mưu
tính việc đem bán cô em dâu họ Trần này về làm vợ lẽ
cho một tên hào phú đồng hương tên là Từ Hồng. Sĩ
Tùng biết Trần thị không thuận theo ý mình, bèn lập
kế bắt sống mang lên thuyền giao cho Từ Hồng. Trần
thị kêu la to tiếng, Từ Hồng sợ không dám xúc phạm.
Người cha của Trần thị là Trần Tuấn liền viết cáo
trạng tố cáo lên quan huyện. Quan huyện là Chương
Nhật Sí đang nghỉ trên gác, không thèm dậy. Trần
Tuấn tiếp tục viết cáo trạng, lần này dâng lên quan
Trực Chỉ 1 là Lộ Chấn Phi. Từ Hồng liền mang tiền hối
lộ cho viên quan phụ trách việc này. Tên này liền dối
trá báo lên quan Trực Chỉ là đã xem xét sự việc, thấy
không đúng như trong cáo trạng trình bày. Hắn ta lại
vu vạ cho Trần thị là nhục mạ chồng, xử theo tội ấy
bắt giam vào ngục.
Trần thị oan ức nuốt lệ, tuyệt thực suốt 3 ngày.
Vừa may gặp lúc có một viên quan họ Lý vừa đến,
nghe biết oan tình, liền đưa Trần thị đến gặp quan
Trực Chỉ Lộ Chấn Phi. Trần thị khóc lóc trình bày rõ
sự việc oan khuất của mình, vừa nói xong liền tự vẫn
ngay tại đó, chết không nhắm mắt. Lộ Chấn Phi từ án
1 Trực Chỉ (直指): một chức quan có từ đời nhà Hán, được triều
đình giao cho việc tuần sát các địa phương, thẩm tra xử lý các vụ
việc sai phạm.
đường bước xuống, đến trước thi thể Trần thị chấp tay
cung kính thi lễ, hứa sẽ làm rõ vụ việc này. Khi ấy, đôi
mắt Trần thị mới từ từ nhắm lại.
Ngay trong hôm đó, Lộ Chấn Phi viết một bản tấu
sớ gửi lên triều đình, báo rõ mọi việc. Triều đình lập
tức ban lệnh xử tử Trương Sĩ Tùng và Từ Hồng. Các
đồng phạm liên quan đều tùy theo tội nặng nhẹ mà
trừng phạt. Quan huyện Chương Nhật Sí lập tức bị
cách chức, trên đường đi thuyền về quận phủ bàn giao,
bỗng nghe trong thuyền vang rền những âm thanh
của ma quỷ, qua hôm sau thì chết. Viên chức trước
đây nhận hối lộ của Từ Hồng vu tội cho Trần thị, bỗng
nhiên mắc bệnh rồi cấm khẩu, từ đó suốt đời không
nói năng gì được nữa.
Lời bàn
Câu chuyện này về sau có người đưa vào nội dung
của một bài vãn ca, 1 người người đều cảm động, cho
rằng việc báo ứng quả là chỉ ngay trước mắt thôi.
1 Vãn ca: bài hát được hát trong các đám tang, thường để tỏ lòng
thương tiếc người đã chết.
399
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
398
Kính trọng người già, thương kẻ nghèo khó
Giảng rộng
G
ià yếu là chuyện tất nhiên phải đến, không
ai tránh khỏi, nhưng quả là thực trạng đáng
thương nhất. Người già rồi thì tóc bạc, răng rụng, thân
thể gầy yếu da bọc lấy xương. Gân mạch thì nổi rõ
chằng chịt trên da, lưng khòm cong như cánh cung,
mọi việc đã qua đều không thể nhớ lại hết được. Đã
vậy lại thêm mắt mờ tai điếc, mỗi lúc đứng lên ngồi
xuống đều phải nhờ cậy người khác dìu đỡ. Bởi thế,
nhìn thấy người già nên sinh lòng kính trọng, không
nên sinh lòng chán ghét. Nếu thấy người già yếu mà
sinh lòng chán ghét không tôn kính, nên biết rằng chỉ
trong chớp mắt thôi, bản thân ta rồi cũng sẽ già yếu.
Lại nếu như thấy người già mà sinh lòng chán ghét
không tôn kính, chỉ e tự mình không sống được đến
tuổi già!
Thương thay cho những người nghèo khó! Người
ta ai cũng muốn ăn ngon mặc đẹp, mà riêng họ phải
thường chịu cảnh đói thiếu, rét lạnh. Người ta ai cũng
muốn được vừa lòng thích ý, mà riêng họ phải thường
chịu cảnh khốn khổ. Tuy rằng nguyên nhân của sự
nghèo đói phần lớn cũng do nghiệp báo đời trước của
người ấy tự tạo, nhưng nếu như ta có khả năng cứu
giúp mà lại không ra tay cứu giúp, chẳng phải là dạy
cho con cháu sau này không biết thương yêu nhau đó
sao? Chu cấp cho người đói thiếu khốn cùng, đó là xót
thương cảnh ngộ trước mắt của người. Khuyên người
tùy khả năng thực hành bố thí, đó là từ bi thương xót
đến đời sau của người.
Trưng dẫn sự tích
Trâu hại chết ba người 1
V
ào thời đức Phật còn tại thế, có một thương
gia tên là Phất-già-sa, một hôm đi vào thành
La Duyệt, vừa vào bên trong cửa thành thì bị một con
trâu cái húc chết. Người chủ có trâu sợ quá, gấp rút
bán con trâu. Người mua trâu trong lúc dắt trâu đi
uống nước thì bị nó từ phía sau húc tới, mất mạng. Gia
quyến người ấy giận quá, giết chết con trâu, làm thịt
1 Trích từ kinh Pháp cú dụ - 法句喻經. (Chú giải của soạn giả)
Trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh kinh này có tên là Pháp
cú thí dụ kinh (法句譬喻經), được xếp vào tập 4, kinh số 211, do
hai ngài Pháp Cự và Pháp Lập dịch vào đời Tấn, tổng cộng có 4
quyển. Câu chuyện này được tìm thấy ở quyển 1, phẩm Ngôn ngữ
- thứ 8, bắt đầu từ dòng thứ 23, trang 582, tờ a. Nội dung ở đây
được kể lại, không phải trích nguyên văn kinh.
An Sĩ toàn thư
400 401
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đem bán. Có một nông dân mua cái đầu trâu mang về,
trên đường tình cờ đi ngang một cây lớn thì dừng lại
nghỉ ngơi, treo cái đầu trâu lên cành cây. Vừa ngồi nghỉ
mệt trong chốc lát thì bất ngờ sợi dây buộc bị đứt, đầu
trâu rơi xuống, người ấy liền bị sừng trâu đâm chết.
Bấy giờ, vua Bình Sa nghe biết mọi chuyện lấy
làm lạ, liền đến thưa hỏi đức Phật. Phật dạy: “Thuở
xưa có 3 người thương nhân, cùng thuê phòng trọ ở
nhà một bà lão. Ba người này thấy bà già yếu cô độc,
cho rằng không có sức làm gì được mình, bèn nhân lúc
bà vắng nhà liền bỏ đi mà không trả tiền thuê phòng
trọ. Bà lão biết chuyện lập tức đuổi theo kịp, ba người
lại to tiếng mắng rằng: ‘Bọn ta đã trả tiền trước rồi,
sao giờ còn theo đòi?’ Bà lão chẳng làm gì được, chỉ
biết ôm mối hận thấu xương quay về, thề độc rằng đời
sau gặp lại sẽ giết chết cả ba người mới hả giận. Bà lão
thuở đó, nay chính là con trâu cái. Ba người thương
nhân thuở đó, nay chính là Phất-già-sa với hai người
kia, trong một ngày cùng bị giết chết bởi con trâu ấy.”
Lời bàn
Đó thật là đã già lại còn nghèo khó. Bọn ông Phất-
già-sa... 3 người ấy chính là đã khinh thường người
già yếu, lại cũng không biết thương người nghèo khó.
Đến lúc đủ nhân duyên gặp nhau, nếu như món nợ cũ
không trả thì còn đợi đến bao giờ?
Người chết cứu lửa 1
V
ào đời Thanh, ở Hàng châu có người tên Viên
Ngọ Quỳ, tên húy là Tư, bình sinh ưa thích
làm việc bố thí. Gặp khi có loạn Tam phiên, 2 vùng Triết
Giang rất nhiều phụ nữ bị bắt giam giữ, Viên Ngọ Quỳ
từng dốc hết tiền bạc để chuộc nhiều người ra. Ông cũng
thường cho khắc in và lưu truyền những bài thuốc hay
để trị bệnh, cùng với những câu cách ngôn nói về nhân
quả để khuyên người đời bỏ ác làm lành.
Vào niên hiệu Khang Hy năm thứ 5, 3 có người hầu
gái của Viên Ngọ Quỳ lo việc pha trà, chứa than trong
một cái thùng gỗ. Có cục than chưa tắt hẳn, lửa lan
dần ra cả thùng. Thùng lại đặt bên một giường gỗ trên
gác cao, rất ít người lui tới chỗ ấy. Viên Ngọ Quỳ tuy có
người con gái đang bị bệnh nằm trong phòng chỉ cách
đó một bức tường, nhưng không hề hay biết. Khi ấy,
người con gái này bỗng nhiên nhìn thấy một cụ bà đã
chết hiện ra ngay giữa ban ngày, dùng móng tay khều
vào mặt cô. Cô gái kinh sợ quá, kêu thét vang trời.
1 Chuyện này soạn giả được nghe từ chính người trong chuyện.
(Chú giải của soạn giả)
2 Chỉ 3 phiên vương làm phản thời ấy là Ngô Tam Quế, Thượng
Khả Hỷ (và con là Thượng Chi Tín) cùng với Cảnh Tinh Trung. Cuộc
chiến tranh này xảy ra trong khoảng năm 1673 đến năm 1681.
3 Tức là năm 1666.
An Sĩ toàn thư
402 403
Nhờ đó, người trong nhà mới vội vã kéo nhau chạy lên
thì nhìn thấy cái thùng gỗ đã cháy thành tro, giường
gỗ bên cạnh đã cháy hết một nửa, thế lửa đang bốc lên
ngày càng lan rộng ra. Mọi người phải cùng nhau tận
lực mới kịp thời dập tắt được ngọn lửa.
Cụ bà đã chết hiện hình hôm ấy vốn trước đây khi
tìm đến nhà Viên Ngọ Quỳ thì đã 60 tuổi. Viên Ngọ
Quỳ thấy bà không con cái nên dùng lời an ủi, cho trú
ngụ trong nhà mình. Cụ bà ở lại được mấy năm thì
người chồng của bà cũng tìm đến, Viên Ngọ Quỳ cũng
thu nhận cho ở trong nhà nuôi dưỡng. Hai vợ chồng
này vì thế hết sức biết ơn Viên Ngọ Quỳ. Cả hai người
đều sống cho đến khoảng 80 tuổi mới qua đời.
Những người biết chuyện này đều cho rằng cụ bà
đã hiện hình giúp họ Viên thoát nạn cháy nhà, đó là
để báo đáp ân đức của Viên Ngọ Quỳ.
Lời bàn
Những trường hợp này là già yếu lại thêm nghèo
khó. Đã thương người già, lại xót người nghèo, giúp
cho cả hai vợ chồng người kia đều được chu cấp đầy đủ,
âm đức như thế chẳng phải là to lớn lắm sao?
Chu cấp cơm ăn áo mặc
cho người lỡ đường đói rét
Giảng rộng
N
gười lỡ đường đói rét không giống như người
nghèo khổ khốn cùng nhưng vẫn đang được ở
tại nhà mình. Nếu không phải là những kẻ ngụ cư nơi
đất khách, lương tiền đã hết, ắt cũng là người gặp phải
hoạn nạn khó khăn đang hết sức cần đến sự giúp đỡ.
Những người như vậy là đang nằm trong hoàn cảnh
nếu được giúp cho cơm ăn áo mặc thì sống, bằng không
được giúp ắt phải chết. Ví như có thể vì họ mà chu cấp
giúp đỡ thì tuy giá trị vật chất giúp đỡ là giới hạn,
nhưng ân đức ấy quả thật vô cùng.
Trưng dẫn sự tích
Liều mạng trả ơn cứu đói 1
V
ào đời Xuân Thu Chiến Quốc, Triệu Tuyên
Tử 2 là quan nước Tấn, có lần đi săn ở núi Thủ
Dương, bỗng nhìn thấy dưới bóng mát cây dâu có một
người đói lả nằm thoi thóp, hỏi ra đã 3 ngày không có
1 Trích từ sách Tả truyện - 左傳. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức Triệu Thuẫn.
An Sĩ toàn thư
404 405
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
gì ăn. Tuyên Tử liền mang thức ăn cho ăn. Người ấy ăn
xong, chừa lại một nửa phần thức ăn. Tuyên Tử thấy
vậy hỏi, đáp rằng: “Xin dành phần này cho mẹ già.”
Tuyên Tử liền bảo người ấy cứ ăn hết, rồi đưa tặng một
giỏ thức ăn với thịt để mang về.
Về sau, Tấn Linh Công muốn giết Triệu Tuyên
Tử, 1 cho quân giáp sĩ phục sẵn trong cung, đợi Triệu
Tuyên Tử vào thì xông ra đánh giết. Tuyên Tử cô thế
lâm nguy, sắp bị giết. Bỗng nhiên có một người xông
ra, liều mạng múa giáo đánh giúp, cứu Tuyên Tử thoát
chết lần ấy.
Tuyên Tử hỏi tên, người ấy đáp: “Tôi là người sắp
chết đói nằm dưới gốc dâu năm xưa.” Lại muốn hỏi cho
rõ tên họ, nơi ở, người ấy không đáp mà bỏ đi. Sau có
người biết được nói rằng: “Người ấy tên Linh Chiếp.”
Lời bàn
Làm ơn cho người một bữa ăn, nhờ đó mà được cứu
sống; tặng người một manh áo, liền được niệm tình
tha chết. 2 Ai dám xem thường cho rằng giúp cơm áo
1 Tấn Linh Công ham mê tửu sắc, Triệu Tuyên Tử (Triệu Thuẫn)
nhiều lần thẳng thắn can ngăn nên vua căm ghét, nhiều lần muốn
giết Triệu Tuyên Tử nhưng đều không thành.
2 Tặng người một manh áo, liền được niệm tình tha chết: Cũng vào
thời Chiến quốc, quan đại phu nước Ngụy là Tu Cổ từng vu cáo hãm
hại Phạm Thư, cho là tư thông với nước Tề. Phạm Thư bị bức hại
đó, chẳng qua chỉ là việc giúp kẻ đói rét giữa đường
mà thôi sao?
Mau sinh quý tử 1
T
hân phụ của Phùng Trác Am ngày thường
luôn vui vẻ ưa thích làm nhiều việc thiện. Một
hôm giữa mùa đông, sáng sớm ông ra đường bỗng gặp
một người té ngã nằm ngất trong tuyết lạnh, sờ vào
thấy đã tê cứng nửa người. Ông liền cởi áo ấm lông cừu
của mình mặc vào cho người ấy, đưa về cho ăn uống
đầy đủ, lo lắng chu đáo mọi bề.
Không lâu sau, ông nằm mộng thấy Đông Nhạc Đế
hiện đến bảo rằng: “Số mạng của ông vốn dĩ không có
con, nay nhờ cứu sống mạng người, do lòng thành đó
mà Ngọc Đế đặc biệt có lệnh cho Hàn Kỳ 2 đến làm con
phải giả chết rồi trốn sang nước Tần, đổi tên là Trương Lộc. Nước
Tần tin dùng Trương Lộc làm Tướng quốc. Sau Tu Cổ có việc sang
nước Tần, Phạm Thư vờ mặc áo cũ rách đến xin gặp. Tu Cổ thấy
mặc áo cũ rách thì thương xót, lập tức sai người mang ra tặng một
bộ y phục. Đến khi biết được Phạm Thư bây giờ chính là Tướng
quốc nước Tần, Tu Cổ hết sức kinh hãi, quyết định phen này chắc
chắn không thể thoát chết. Không ngờ Phạm Thư cảm động việc
Tu Cổ có lòng nhân từ tặng áo nên khoan thứ, tha chết cho Tu Cổ.
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
2 Hàn Kỳ (1008-1075) vốn là một vị Tể tướng có tài văn võ song
toàn vào đời Tống.
An Sĩ toàn thư
406 407
trai nhà ông.” Sau đó liền sinh được con trai, nhân nơi
giấc mộng mà đặt tên là Phùng Kỳ, 1 sau mới lấy tên
hiệu là Trác Am.
Phùng Kỳ từ thuở thiếu niên đã tài trí hơn người,
20 tuổi được liệt vào hàng văn sĩ tài danh, 36 tuổi thì
đã phụ tá cho quan Tể tướng. 2
Lời bàn
Ở quê tôi trước đây cũng có tổ chức một hội Đồng
Thiện, ngoài việc giúp đỡ tiền bạc, lương thực cho
những người cùng khổ, mỗi mùa đông chúng tôi đều
mua rất nhiều chăn bông cũ để giúp cho những người
thiếu thốn chăn mền. Hội này ban đầu do Viên Ngọ
Quỳ người Triết Giang đề xướng thành lập. Sau Viên
Ngọ Quỳ trở về Triết Giang, bọn chúng tôi vẫn theo
nếp cũ mà làm, chỉ riêng nhóm ông Cao Điện Cửu có
một số người không tham gia nữa mà thôi.
1 Phùng Kỳ sinh năm 1558, đến năm 18 tuổi (1576) đã đỗ đầu
khoa thi Hương vùng Sơn Đông, sang năm sau (1577) lại đỗ tiếp
Tiến sĩ. Ông từng làm đến các chức quan như Lễ bộ hữu thị lang,
Lễ bộ thượng thư...
2 Tức là chức quan Lễ bộ hữu thị lang, phụ tá cho quan Thượng
thư.
Giúp quan quách cho nhà nghèo khó
để thi hài người chết được ấm cúng
Giảng rộng
Máu mủ, thịt xương... một đãy da.
Điên đảo mê lầm nhận thân ta.
Tắt hơi mới biết toàn hư ngụy,
Bao nhiêu xú uế thảy bày ra.
Đ
ó chẳng qua cũng chỉ là chỗ tâm bệnh hết sức
thông thường của phần lớn người đời.
Như gặp người có hoàn cảnh bất hạnh, gia đình
cùng khốn, không có tiền bạc lo việc an táng người đã
chết, hoặc phải để lại qua 3 ngày, hoặc 5 ngày, cho đến
6 tháng, 7 tháng, hình hài thối rửa chẳng còn gì, đến
mức người thấy nghe đều không sao chịu nổi... nếu có
thể giúp cho họ một cỗ áo quan, giúp đỡ chi phí để an
táng thi hài người chết, như vậy đâu phải chỉ riêng
người chết thực sự hàm ân kết cỏ ngậm vành mà thôi
sao? Xét như tâm niệm an táng thi hài người chết,
phàm bất kỳ ai nghe biết đến sự việc ắt cũng đều nên
thay người mà lo việc chôn cất.
An Sĩ toàn thư
408 409
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Mai táng hài cốt, hưởng quả tức thì 1
Đ
ời Nguyên, ở Hội Kê thuộc tỉnh Triết Giang có
người tên Đường Giác, nhà nghèo khó, nhận
dạy học trò để sinh sống. Năm Mậu Dần, 2 tướng lãnh
nhà Nguyên khai quật lăng tẩm họ Triệu (hoàng gia
triều Tống), di cốt đứt đoạn vất bỏ trong chỗ rậm rạp
hoang dã. Đường Giác biết việc ấy hết sức đau lòng,
liền gom hết tiền bạc trong nhà được một ít, mua rượu
thịt mời bọn thiếu niên trong làng cùng ăn uống. Đợi
khi cả bọn đều say sưa, mới bí mật nhờ chúng chôn lấp
hài cốt họ Triệu. Cả bọn đều nghe theo. Sau khi làm
được việc nghĩa như thế, tên tuổi của Đường Giác được
rất nhiều người biết đến.
Sang năm sau Kỷ Mão, 3 vào ngày 17 tháng giêng,
Đường Giác đang ngồi bỗng dưng chết giấc. Hồi lâu
sống lại, kể chuyện vừa rồi đi đến một ngôi bảo điện,
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
2 Tức là năm 1278.
3 Tức là năm 1279. Bản gỗ khắc chỗ này là乙卯 - Ất Mão, nhầm
chữ 己 (kỷ) thành chữ ất (乙). Vì năm trước là Mậu Dần nên năm
tiếp theo tất nhiên phải là Kỷ Mão.
trên điện có một người đội vương miện, bước xuống
chào nói: “Nhờ ơn ông chôn lấp hài cốt, sẽ báo đáp ân
đức. Ông số mệnh kém lắm, nghèo khổ không có vợ
con, nay lòng trung nghĩa cảm động thấu trời, Ngọc
Đế truyền ban cho ông sẽ thành gia thất, sinh được 3
người con, ruộng đất được 300 mẫu.” Đường Giác bái
tạ lui ra, liền giật mình sống lại.
Không lâu sau bỗng có Viên Tuấn Trai đến Hội Kê
tìm thầy dạy cho con, vừa xuống xe liền gặp người giới
thiệu Đường Giác. Viên Kính Trai được biết Đường
Giác trước đây từng nổi tiếng làm việc nghĩa nên đặc
biệt hết sức kính lễ. Sau đó liền đứng ra lo việc hôn
nhân, giúp Đường Giác kết hôn với một người con gái
của Quốc công, được thừa kế ruộng đất vua ban. Mọi
chi phí tốn kém đều do Viên Tuấn Trai bỏ ra lo liệu.
Sau Đường Giác sinh được 3 người con trai, quả đúng
như lời thần báo trước.
Lời bàn
Niên hiệu Sùng Ninh năm thứ 3 1 triều Bắc Tống,
có chiếu chỉ của triều đình yêu cầu tất cả các châu
huyện đều phải chọn chỗ đất cao thoáng không canh
tác được trong địa phương mình để lập thành khu mai
1 Tức là năm 1104, thuộc đời Tống Huy Tông.
An Sĩ toàn thư
410 411
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
táng công, gọi là Lậu trạch viên. 1 Những hài cốt không
thân nhân trước đây được gửi gắm nơi chùa chiền, đạo
quán, giờ cũng quy tập về chôn trong đất này. Ngoài
ra, triều đình cũng cho kiến lập Tăng xá để lo việc tế
cúng, cầu siêu độ cho các vong linh trong địa phương.
Đến niên hiệu Hồng Vũ triều Minh, 2 cũng có sắc chỉ
của triều đình yêu cầu thực hiện như trên, lại có chế
định thành điều lệnh rõ ràng.
Tôi cũng từng thấy bên trong thành Tô Châu, 3 ở
góc phía tây bắc có lập 2 gian thạch thất, hết sức kiên
cố, mỗi gian đều có ô cửa mở đường kính chừng một
thước, dùng để đưa hài cốt vào bên trong. Lại thấy
dùng màu sắc vẽ thành các ký hiệu bên ngoài để phân
biệt hài cốt đó là người xuất gia hay tại gia, nam hay
nữ... Nơi ấy được gọi là tháp Phổ Đồng. Ví như người
quân tử có lòng nhân ái, có thể mô phỏng làm theo như
thế, âm đức thật hết sức lớn lao.
1 Theo quy định của triều đình, khu đất Lậu trạch viên (漏澤園)
này dùng để mai táng những kẻ chết vô thừa nhận, không thân
thích, hoặc những người nghèo khổ đến mức không có tiền chôn
cất thân nhân. Chi phí mai táng những trường hợp này do quan
địa phương xuất công quỹ để lo liệu.
2 Tức là từ năm 1368 đến năm 1398, đời Minh Thái Tổ.
3 Nguyên bản ghi Cô Tô thành (姑蘇城) là tên khác của thành Tô
Châu, vì ở đó có núi Cô Tô nên cũng gọi như vậy.
Làm con để báo ân 1
T
hượng Lâm làm quan huyện lệnh Vu Sơn
thuộc tỉnh Tứ Xuyên, có viên huyện úy tên Lý
Chú bị bệnh mà chết. Thượng Lâm giúp tiền bạc đưa
người mẹ của Lý Chú cùng với thi hài của ông về quê
ở Hà Đông. Sau đó lại tìm một nhà danh giá mà đứng
ra gả con gái của Lý Chú về làm dâu.
Một đêm nọ, Thượng Lâm nằm mộng bỗng nhìn
thấy Lý Chú hệt như lúc còn sống, bái lạy ông mà khóc
rồi nói rằng: “Số mệnh ông vốn không có con, đội ơn
ông giúp đỡ nên tôi đã hết sức thỉnh cầu Ngọc Đế, ngài
cho tôi được làm con nối dõi nhà ông.” Trong tháng ấy,
quả nhiên vợ Thượng Lâm có thai.
Sang năm sau, Thượng Lâm từ quan về quê, một
hôm lại mộng thấy Lý Chú nói: “Ngày mai tôi sẽ ra
đời.” Quả nhiên hôm sau vợ Thượng Lâm sinh một
bé trai. Nhân đó liền đặt tên là Thượng Dĩnh. 2 Lớn
lên hiếu thảo, hiền hậu trung thực, sau làm quan đến
chức Tự thừa.
Lời bàn
Như thế gọi là làm con để trả nợ cho cha. Đời trước
của Lý Chú ắt hẳn cũng đã tu tích phước đức, nên
1 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
2 Chữ dĩnh (穎) có nghĩa là khác lạ, hết sức khác thường.
An Sĩ toàn thư
412 413
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
đời này tuy sinh ra để báo ân cho người, nhưng bản
thân cũng được hưởng phú quý. Cho dù nói thế, nhưng
trong biển nghiệp thức mênh mang mờ mịt, muốn tự
nhìn lại mình e cũng không có dịp.
Nhà giàu sang phải nâng đỡ thân thích
Giảng rộng
N
gười giàu sang nên tự có suy nghĩ rằng: “Đều
sinh làm người cả, vì sao người kia phải chịu
cảnh nghèo khổ, vì sao ta được giàu sang? Ắt hẳn là
do đời trước ta đã biết gieo trồng đôi chút phước lành,
còn người kia thì không. Ví như đời trước ta chưa từng
làm điều hiền thiện, đời nay làm sao được thọ hưởng
như thế này?”
Nghĩ như thế thì trong lúc đang được hưởng phước
ắt phải lo tính việc gieo trồng phước đức. Cũng giống
như ăn quả phải giữ lại hạt và gieo trồng cho năm
sau, hoặc cũng giống như thắp một ngọn đèn dầu, phải
nghĩ đến việc châm thêm dầu trước khi đèn tắt.
Người thế gian thường cho rằng sự giàu sang thể
hiện ra dung mạo con người, nếu gặp lúc nguy nan
gấp rút vẫn giữ được dung mạo ung dung, không lộ vẻ
quẫn bách ra mặt, ắt phải là người giàu sang. Nhưng
với những kẻ nô lệ cho tiền bạc, lúc nào cũng lo sợ những
người thân thích đến phiền nhiễu vay mượn nên trước
đã tự làm ra vẻ túng quẫn khốn khó, khiến người khác
dù muốn nhờ cậy cũng khó lòng mở miệng. Với những
kẻ ấy, nếu xét về tiền bạc của cải thì quả là giàu có, mà
xét theo dung mạo thì e rằng không đúng thật.
Trang nghiêm luận 1 nói rằng: “Người biết đủ là
người giàu có nhất.” Kinh Ưu-bà-tắc giới 2 dạy rằng:
“Nếu có nhiều tiền bạc của cải nhưng không thể làm
việc bố thí giúp người, thì vẫn chỉ là kẻ nghèo khốn mà
thôi.” Những lời ấy thật đúng lắm thay!
1 Trang nghiêm luận, nói đủ là Đại thừa Trang nghiêm kinh luận
(大乘莊嚴經論), được xếp vào Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh
thuộc tập 31, kinh số 1604, tổng cộng 13 quyển, do Bồ Tát Di-
lặc thuyết kệ, Bồ Tát Vô Trước tạo luận, ngài Ba-la-phả-mật-đa-la
dịch sang Hán ngữ vào đời Đường. Hiện đã có bản Việt dịch của
Quảng Minh, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính, NXB Tôn giáo, 2013.
2 Kinh Ưu-bà-tắc giới (優婆塞戒經), được xếp vào Đại Chánh tân
tu Đại tạng kinh thuộc tập 24, kinh số 1488, tổng cộng 7 quyển,
do ngài Đàm-vô-sấm dịch sang Hán ngữ vào đời Bắc Lương. Đoạn
này trích từ quyển 4, bắt đầu từ dòng thứ 27, trang 1056, tờ a.
Nguyên bản kinh nói chi tiết hơn: 若多財寶自在無礙有良福田,
內無信心不能奉施, 亦名貧窮。 (Nếu người có nhiều tiền bạc của
cải không thiếu món gì, nhưng gặp cơ hội gieo trồng ruộng phước
mà trong lòng lại không có đức tin, không thể làm việc bố thí cúng
dường, đó cũng gọi là kẻ nghèo khốn. )
An Sĩ toàn thư
414 415
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Trưng dẫn sự tích
Đãi canh rau thành tên gọi 1
Đ
ời Bắc Tống, vào thời Tống Thái Tông,
Trương Bí phụ trách Sử quán, 2 trong nhà lúc
nào cũng đãi ăn rất nhiều khách. Một hôm, Tống Thái
Tông hỏi Trương Bí: “Vì sao nhà ông lại nhiều khách
đến ăn uống thế?” Trương Bí đáp: “Đó đều là những
thân thích, bằng hữu của hạ thần nơi quê cũ. Họ là
những người nghèo khó, không kiếm đủ miếng ăn.
Thần được hưởng bổng lộc của triều đình, cũng xem là
có dư dả, nên các vị ấy thường đến nhà thần ăn uống,
bất quá cũng chỉ là cơm rau đạm bạc mà thôi.”
Một hôm, Tống Thái Tông sai người bất ngờ đến
nhà Trương Bí, đúng vào lúc khách đang ăn uống,
quan sát thấy quả đúng chỉ là cơm gạo thô với canh
rau mà thôi. Thái Tông hết lời khen ngợi, nhân đó gọi
ông là Trương Thái Canh. 3
1 Trích từ sách Tống sử - 宋史. (Chú giải của soạn giả)
2 Sử quán: cơ quan được triều đình giao cho việc ghi chép Quốc
sử.
3 Trương Thái Canh (張菜羹): hai chữ thái canh (菜羹) có nghĩa
là canh rau.
Lời bàn
Vào đời Xuân Thu, Án Anh làm Tể tướng nước Tề,
trong suốt 30 năm chỉ mặc mỗi một chiếc áo hồ cừu,
tế tự dùng một cái đùi lợn nhỏ không đủ che trọn đĩa,
thế mà người thân trong ba họ 1 đều được hưởng nhờ sự
giúp đỡ, chia sẻ. Phạm Văn Chánh Công tự mình suốt
đời sống nghèo thanh bạch, nhưng thân tộc nương dựa
vào ông để sống qua ngày có đến hơn trăm nhà. Do đó
mà có thể biết rằng, nếu muốn giúp đỡ cưu mang thân
tộc, thì trước tiên phải tự mình biết giữ theo nếp sống
kiệm ước thanh bần.
Chuyện vui thích nhất 2
V
ào lúc La Duy Đức nhận chức quan ở Ninh
Quốc thuộc tỉnh An Huy, một hôm đến yết
kiến Lưu Dần, sự vui mừng lộ ra nét mặt, nói rằng:
“Hôm nay tôi có một việc cực kỳ hân hoan thích ý.”
Lưu Dần gạn hỏi, Duy Đức đáp: “Trong gia tộc tôi có
hơn 10 người nghèo khổ, gặp lúc mất mùa tìm đến báo
với tôi. Hôm nay tôi mang hết tiền bạc dành dụm được
trong nhà ra giúp đỡ, hết thảy mọi người trong nhà tôi
đều hoan hỷ tán thành, không ai trở ngại. Vì thế mà
tôi hết sức hân hoan vui thích.”
1 Chỉ họ cha, họ mẹ và họ vợ.
2 Trích từ sách Công quá cách - 功過格. (Chú giải của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
416 417
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Sách Cảnh hành lục nói rằng: “Nhà giàu sang phú
quý, nếu như có người thân thích nghèo khó tìm đến,
ấy chính là khí tượng của người trung hậu có phước
đức.” Hiện nay lại có những kẻ ngược lại xem việc đó
như điều sỉ nhục nên lấy làm chán ghét, thật hẹp hòi
xấu xa biết bao!
Mất mùa đói kém phải cứu giúp lối xóm
Giảng rộng
X
ét về phương thức cứu tế giúp đỡ khi mất
mùa đói kém, có những biện pháp cứu giúp
khi đã xảy ra, lại cũng có những biện pháp cứu giúp
khi việc chưa xảy ra. Ví như xin giảm thuế má, ngăn
tàu thuyền chở lúa gạo đi nơi khác, khuyến khích mở
các điểm cứu tế phát lương thực cho người đói thiếu,
nghiêm cấm những kẻ đầu cơ mua lúa gạo vào để trục
lợi... Đó đều là những biện pháp khi đói kém đã xảy ra.
Khai thông kênh rạch, củng cố đê điều, khuyến khích
nông dân phát triển nông nghiệp, tiết kiệm nguồn
nước, tích trữ lúa thóc phòng khi cứu giúp, mộ dân
khai khẩn đất hoang, nghiêm cấm việc ngăn sông bắt
cá, giết thịt trâu cày... Đó đều là những biện pháp cứu
giúp khi việc đói kém còn chưa xảy ra.
Áp dụng các biện pháp khi việc đói kém còn chưa
xảy ra, ắt tổn phí ít mà hiệu quả được nhiều, dân được
ấm no mà nhà nước vẫn thu được đầy đủ thuế má.
Nếu đợi đến khi đói kém đã xảy ra, người đói chết đầy
đường, rồi sau mới tính chuyện quyên góp cứu tế, ắt là
tổn phí phải rất nhiều, mà người chết cũng không ít.
Ở đây chỉ nói đến việc cứu giúp “lối xóm”, thật
ra là cách nói biểu trưng cần phải hiểu thật rộng ra
nhiều đối tượng khác. Việc thiên tai mất mùa đói kém
vốn có nguyên nhân từ nơi tâm tham lam, bủn xỉn, keo
kiệt của con người, cho nên chính là do cộng nghiệp
của nhiều người mà chiêu cảm xảy ra. Nếu dùng tâm
lành để cứu giúp bằng cách cảm hóa người, thì những
thiên tai đói kém trong tương lai ắt có thể tránh được.
Kinh nói rằng: “Vào lúc tuổi thọ trung bình của
con người chỉ còn 30 tuổi, sẽ có nạn đói kém xảy ra.
Khi ấy kéo dài trong 7 năm 7 tháng 7 ngày đêm không
có mưa, trên mặt đất dù một cộng cỏ cũng không mọc
được, người chết phơi xương trắng đồng. Khắp hết cõi
Diêm-phù-đề, số người sống sót không quá một vạn.
Con số ấy chỉ là đủ để lưu lại nòi giống con người trong
tương lai.”
An Sĩ toàn thư
418 419
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Luận Bà-sa 1 nói rằng: “Nếu như có người phát
tâm đại bi bố thí một miếng ăn cho người đang đói,
thì trong tương lai người ấy nhất định không phải gặp
cảnh thiên tai đói kém.” Như dùng phương tiện này
để cứu trừ nạn đói, quả thật là có thể thành tựu mà
chẳng lưu chút dấu vết nào.
Trưng dẫn sự tích
Chuốc họa khi có nạn đói 2
N
hững năm cuối đời Tùy, 3 huyện Mã ở tỉnh
Sơn Tây gặp nạn đói kém. Quan Thái thú là
Vương Nhân Cung gấp rút khóa chặt kho lương, chẳng
nghĩ gì đến chuyện cứu tế cho trăm họ.
Có người tên Lưu Vũ Chu nói rằng: “Nay trăm họ
gặp nạn đói kém, người chết phơi thây đầy đường, họ
Vương quả thật vô tâm ngồi nhìn không lo đến, như
thế có thể gọi là quan phụ mẫu được chăng?”
1 Gọi đủ là Tỳ-bà-sa luận (鞞婆沙論), được đưa vào Đại Chánh tân
tu Đại tạng kinh, thuộc tập 28, kinh số 1547, tổng cộng 14 quyển,
do ngài Thi-đà-bàn-ni soạn, ngài Tăng-già-bạt-trừng dịch sang
Hán ngữ vào triều Phù Tần.
2 Trích từ sách Tùy thư - 隋書. (Chú giải của soạn giả)
3 Nhà Tùy tồn tại trong khoảng thời gian từ năm 581 đến năm
619.
Liền giết trâu lấy máu, họp những người đồng
tâm lại cùng lập lời thề rằng: “Bọn chúng tôi không
cam tâm ngồi chờ chết. Kho lương thực tích chứa trong
huyện quả thật là do mồ hôi của muôn dân khổ nhọc
mà có, mọi người có thể theo chúng tôi cùng đến đó lấy
mà chia nhau, có thể sống thêm được ít lâu nữa.”
Mọi người đều hưởng ứng, cùng kéo nhau đến giết
Vương Nhân Cung, mở kho lương thực cấp phát cho
dân. Do đó mà tất cả các địa phương lân cận trong
vùng cũng đều hưởng ứng.
Lời bàn
Lưu Vũ Chu nêu ra ý mình, bất quá cũng chỉ là
muốn kêu gọi những người dân đang bị đói nhân cớ ấy
mà nổi loạn thôi. Nhưng sự việc ra nông nỗi ấy, đều
là do Vương Nhân Cung cả. Vào đời Bắc Tống, Triệu
Thanh Hiến 1 làm tri phủ Việt châu, 2 gặp lúc khắp
vùng Ngô Việt bị hạn hán to, ông không đợi đến lúc
dân đói, đã sớm có sự quy hoạch, phủ dụ người dân,
chuẩn bị mọi việc cần làm, nên sau dù có đói thiếu,
lòng dân vẫn yên. Như đám cẩu quan chỉ biết lo bảo
toàn cho bản thân với vợ con mình, quả thật không
đáng để nhắc đến!
1 Tức Triệu Biện.
2 Nay là Thiệu Hưng thuộc tỉnh Triết Giang.
An Sĩ toàn thư
420 421
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Tăng giá lúa cứu nạn đói 1
Đ
ời Tống, Phạm Văn Chánh Công làm tri phủ
Hàng Châu, gặp năm mất mùa đói kém, mỗi
đấu lúa lên giá đến 120 đồng tiền, dân tình hết sức lo
lắng. Phạm Văn Chánh Công chẳng những không lo
giá lúa cao, ngược lại còn tăng thêm lên đến 180 đồng
tiền một đấu, đồng thời cho yết bảng nói rõ khắp nơi,
rằng Hàng Châu lúa thóc ít ỏi, nay bất chấp giá cao,
quyết lòng mua vào. Lại sai người truyền bá tin ấy đi
khắp nơi, các quan đồng liêu nghe biết việc này đều
không hiểu được vì sao.
Qua mấy ngày sau, thương nhân khắp bốn phương
nghe giá lúa ở Hàng Châu rất cao, ồ ạt tranh nhau
chở lúa đến. Khi ấy, giá lúa chẳng cần tác động mà tự
nhiên xuống thấp, thật vô cùng có lợi cho người dân.
Lời bàn
Cũng đồng một ý tưởng như thế này là vào năm
mất mùa đói kém lại gia tăng thật nặng nề chuyện sưu
dịch, sử dụng nhân công vào việc tu tạo chùa chiền tự
viện, xây dựng sửa sang cầu cống...
Người ta thảy đều biết rằng khi mùa màng thất
1 Trích từ sách Hoang chánh bị lãm - 荒政備覽. (Chú giải của
soạn giả)
bát ắt việc sưu dịch công ích nên bãi bỏ, nhưng lại
chẳng biết rằng những năm như thế thì người dân
nghèo thật không có việc gì để làm, chẳng phải lại
càng mau chết đói sao? Khi sưu dịch tăng cao, tất
nhiên những nhà hào phú không muốn đi làm, buộc
phải xuất tiền bạc lúa thóc ra thuê người làm thay, tự
nhiên lúa thóc được phân tán ra cho dân nghèo. Như
vậy cũng chẳng làm hại gì nhà giàu, nhưng mang lại
lợi ích cho dân nghèo.
Trồng đậu thay lúa 1
V
ào đời Tống, Trình Hướng làm quan tri phủ
Từ Châu, trời mưa dầm kéo dài ruộng lúa đều
hư hỏng. Trình Hướng tính toán thấy rằng khi nước
rút ruộng khô ráo thì cày bừa cấy lúa không còn kịp
nữa, liền vận động của các nhà giàu trong địa phương
được mấy ngàn thạch đậu giống, đem phân phát cho
nông dân, dạy họ mang rải trên ruộng nước. Nước còn
chưa rút hết thì đậu đã bắt đầu nảy mầm, kịp khi
nước khô hẳn thì ruộng lúa bị hư nay đã thành ruộng
đậu. Năm ấy tuy mất mùa lúa nhưng dân không đến
nỗi đói kém chính là nhờ thu hoạch được đậu.
1 Trích từ sách Văn hiến thông khảo - 文獻通考. (Chú giải của
soạn giả)
An Sĩ toàn thư
422 423
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Trước đây tôi có từng đọc qua sách “Tứ hữu trai
tùng thuyết”, thấy có nói đến một sách lược có thể
dùng cho năm mất mùa đói kém. Đó là yêu cầu tất cả
các phủ, châu, huyện đều áp dụng việc nộp tiền phạt
chuộc tội, rồi tận dụng số tiền thu được để mua lúa
thóc vào kho. Hết thảy những tội từ sung quân trở
xuống đều cho phép nộp lúa chuộc tội. Nếu như một
vùng gặp thiên tai hạn hán, nên liên lạc với những
vùng không gặp thiên tai hạn hán để tạm thời vay
mượn cứu dân, năm sau sẽ hoàn trả. Được như vậy
ắt là trăm họ sẽ không phải lưu lạc phương xa, triều
đình cũng không phải lo lắng nhiều. Những điều đúng
đắn như thế rất cần phải gấp gấp thi hành, mong rằng
những ai có thiện tâm sẽ cố gắng truyền bá đến với
những người đang giữ quyền cai trị các địa phương.
Kháng nghị cứu dân Liêu Dương 1
V
ào triều Minh, năm cuối niên hiệu Gia Tĩnh, 2
vùng Liêu Dương gặp nạn hạn hán đói kém
lớn, đến nỗi quân dân tàn hại lẫn nhau. Binh bộ Thị
1 Trích từ sách Tỏa vi quản kiến - 瑣闈管見. (Chú giải của soạn
giả)
2 Tức là năm 1566. Niên hiệu Gia Tĩnh kéo dài từ năm 1522 đến
năm 1566.
lang họ Vương dâng sớ lên triều đình xin cứu tế, đề nghị
giúp 2 vạn thạch thóc, lại tính toán việc vận chuyển
theo đường bộ đến Sơn Hải, chi phí mỗi một vạn thạch
ước đến 8.000 lượng bạc, quan viên địa phương đều
cho là việc hết sức khó khăn.
Bấy giờ, Hứa Bá Vân, người ở Côn Sơn, đang làm
quan Cấp sự, cho rằng người dân Liêu Dương mạng
sống mong manh chỉ còn trong sớm tối, nếu dùng
đường bộ để vận chuyển không chỉ là kéo dài ngày,
mà trên đường còn gây phiền nhiễu cho dân chúng,
như vậy không bằng tạm gỡ bỏ lệnh cấm đường biển,
cho dùng thuyền chở lương thực đến Liêu Dương, như
vậy ắt có thể giương buồm đến nơi nhanh chóng. Suy
tính như vậy rồi liền dâng sớ lên triều đình cực lực
kháng nghị, xin thay đổi việc vận chuyển đường bộ
sang đường thủy. Lại đem cả tánh mạng toàn gia của
mình ra để đảm bảo cho việc vận chuyển bằng đường
biển nếu có phát sinh bất kỳ vấn đề gì. Triều đình
chấp nhận thỉnh cầu của ông, chuẩn y theo số lương
thực trong bản sớ trước đó, lại lấy thêm lúa từ kho ở
Thiên Tân, số lượng tăng lên đến hơn 10 vạn thạch,
cấp tốc dùng thuyền vận chuyển theo đường biển đến
Liêu Dương. Trăm họ ở Liêu Dương được cứu tế, tiếng
hoan hô mừng vui kinh trời động đất. Nhờ đó, số người
thoát chết tính ra rất nhiều. Dân chúng Liêu Dương
lập đền thờ Hứa Bá Vân, đến nay vẫn còn.
An Sĩ toàn thư
424 425
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Lời bàn
Ấy thật là đem tâm chí thành thương xót mà lo
việc cứu tế, gấp rút như cứu người đang dầu sôi lửa
bỏng, dâng sớ hết lời trần tình, ân đức rộng đến lê
dân. Tuyệt vời thay Hứa Bá Vân! Ân đức ấy thật hết
sức lớn lao!
Đức độ không phô bày 1
V
ào đời nhà Minh, trong khoảng niên hiệu
Sùng Trinh, 2 có vị tiến sĩ quê ở huyện Thường
Thục là Tưởng Uyển Tiên, ngẫu nhiên ghé lại Côn Sơn
thăm nhà Chu Minh Viễn, vốn là bạn thi đỗ cùng khoa.
Năm ấy gặp nạn đói kém dữ dội, đến nỗi vợ chồng, cha
con trong một nhà cũng không còn khả năng lo cho
nhau. Bấy giờ có người họ Quách, muốn bán vợ mình
đi nhưng vì còn có đứa con quá nhỏ đang bế trên tay
nên không bán được. Suy tính không còn đường nào
khác, liền nói rằng: “Mỗi người phải tự lo tìm đường
sống thôi.” Rồi mang đứa con nhỏ đặt bên lề đường.
Tưởng Uyển Tiên thấy việc như thế hết sức đau
lòng, than rằng: “Sao có thể chỉ vì miếng ăn vào bụng
1 Xem trong sách Chu tử du bút ký - 周子愉筆記. (Chú giải của
soạn giả)
2 Niên hiệu Sùng Trinh thuộc đời vua Minh Tư Tông, bắt đầu từ
năm 1628 và kéo dài đến tháng 3 năm 1644.
mà trong phút chốc ly tán cả một gia đình?” Liền hỏi
người ấy cần bao nhiêu tiền. Đáp: “Mười lăm ngàn
đồng.” Uyển Tiên dốc hết túi riêng chỉ được mười ngàn
đồng, liền hỏi Minh Viễn vay năm ngàn đồng cho đủ
số. Minh Viễn nói: “Việc thiện ở thế gian nên để cho
mọi người cùng góp sức, ông sao nỡ vô tâm chỉ muốn
riêng mình làm người tốt?” Nói rồi liền góp vào số năm
ngàn đồng ấy. Nhờ đó mà người vợ không bị bán đi,
đứa con cũng được giữ lại.
Về sau, nhà họ Quách cũng gầy dựng được đôi chút
sản nghiệp, đưa con đến tìm Tưởng Uyển Tiên lạy tạ
ơn cứu giúp. Tưởng Uyển Tiên không cho lạy, lại cũng
không bao giờ nhắc đến việc ấy.
Lời bàn
Chu Minh Viễn chính là ông nội của Chu Tử Di sau
này, cùng với Tưởng Uyển Tiên giao du hết sức thân
thiết. Tôi có đọc sách của Chu Tử Di viết về những
công hạnh tốt đẹp của 3 đời nhà họ Tưởng, thật rất
đầy đủ. Nhân đó mới trích ra một số chuyện, chép vào
ở phần cuối của sách Bách phước biền trân (百福駢臻),
ở đây không kể ra nhiều.
427
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
426
Cân đo phải công bằng,
không được bán ra non, thu vào già
Giảng rộng

đây không nói đến hành vi hay lời nói, chỉ nói
nhấn mạnh đến việc “cân đo”. Đó là vì hành
vi hay lời nói đều có ý chủ quan. Đã có ý chủ quan, ắt
có ý muốn lợi riêng về mình. Chẳng bằng như dựa vào
sự “cân đo” vốn chẳng có ý riêng, luôn khách quan,
công bằng.
Nói công bằng, có nghĩa là vật nhẹ cho kết quả nhẹ,
vật nặng cho kết quả nặng, không hề phân biệt đó là
đang cân để bán ra hay cân để mua vào. Vua Thuấn
khi tuần du bốn phương, ấn định việc đong lường các
nơi đều phải như nhau. Chu Văn vương vừa lên ngôi,
trước tiên đã lo việc thẩm sát chuẩn mực cân đo xem
có thích hợp đúng đắn hay không. Nếu không trước
hết đề xuất lấy sự công bằng làm trọng, làm sao tránh
khỏi trong lúc cân đo người ta lại không tùy ý tăng
giảm làm sai lệch kết quả? Trong việc đong lường, ắt
phải tương đồng các đơn vị như thăng, hộc...; trong
việc đo đạc, ắt phải tương đồng về thước, tấc...; nói đến
sự lệch lạc nặng hay nhẹ, non hay già, đó là nói chung
về tất cả những kết quả cân đong đo đếm, như nhiều
hay ít, lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, tinh hay thô...
Việc cân đo phải công bằng, không có nghĩa là mỗi
khi cân đo đều phải yêu sách, đòi hỏi sự công bằng, mà
nên biết giữ sự công bằng tự trong thâm tâm, lúc nào
cũng phải xem trọng sự công bằng, lấy đó làm khuôn
thước. Được như vậy rồi thì tâm địa trở nên khoan
dung rộng lớn, tự nhiên mỗi lúc cần phải cân đo, dù
không lưu tâm cũng vẫn giữ đúng mực công bằng.
Trưng dẫn sự tích
Khiển trách không chịu tỉnh ngộ 1
Đ
ế Quân kể rằng: “Người dân vùng Thục quận
(Tứ Xuyên) khéo tùy cơ ứng biến, giỏi việc
mưu lợi cho riêng mình. Có người tên Lê Vĩnh Chánh,
nhà ở phía bên ngoài Đông Thành, vốn là thợ đóng xe.
Vĩnh Chánh chê việc đóng xe nặng nề mà làm ra rồi
bán rất chậm, bèn đổi nghề làm các dụng cụ đo lường
như đấu, hộc... sau lại làm cả cân với quả cân. Được
một năm, có người khách đến đặt hàng dặn phải làm
1 Trích từ sách Văn Xương hóa thư - 文昌化書. (Chú giải của soạn
giả)
An Sĩ toàn thư
428 429
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
cái đấu cho sâu hơn, quả cân nặng hơn, rồi trả thêm
cho nhiều tiền hơn. Ông ta có khả năng làm ra được
những quả cân non hoặc già, những cái đấu hơi nhỏ
hơn hoặc lớn hơn, rất tinh vi khó biết. Tay nghề của
ông ta càng cao thì lại càng có nhiều người sử dụng
các dụng cụ do ông làm ra, rộng rãi khắp nơi, tội lỗi
ác nghiệt ngày càng nặng nề hơn. Ta đã sai thần địa
phương là Đoàn Ngạn hiện ra trong giấc mộng trách
phạt, dùng roi đánh Lê Vĩnh Chánh, nhưng ông ta
tỉnh ra vẫn không hối cải. Ta liền phạt ông ta phải
mù hai mắt. Năm đó Vĩnh Chánh chưa được 40 tuổi,
vợ bỏ đi theo người khác, 2 đứa con sinh ra cũng mù
lòa, chịu đủ mọi điều khổ não. Nhưng ông ta bỏ nghề
thì chẳng biết làm gì để sống, nên vẫn cố dùng tay
thay mắt, ước chừng rộng hẹp, dài ngắn, lại tiếp tục
làm theo yêu cầu của khách hàng. Năm ngón bàn tay
trái của Vĩnh Chánh từ sáng sớm đã chịu đau đớn,
đến chiều gần như không thể cử động được nữa, máu
mủ thường chảy ra, hết sức khổ sở. Dần dần, các khớp
ngón tay rơi rụng, ông ta không còn cầm nắm bằng tay
được nữa, phải đi ăn xin ngoài chợ.
Vĩnh Chánh tự nói ra tội lỗi của mình với mọi
người, đến 3 năm sau thì chết, hai đứa con cũng nối
tiếp nhau chết vì đói. Do đó mà số người sử dụng
những dụng cụ đo lường sai lệch do Vĩnh Chánh làm
ra không còn nhiều nữa.”
Lời bàn
Đời nhà Thanh, vùng Thiệu Hưng thuộc tỉnh Triết
Giang có người đến Tô Châu thuê nhà ở. Người này có
nghề khéo nấu bạc đúc thành các loại đồ chứa. Trong
lúc nhận làm cho khách, ông ta lén lấy bớt đi số lượng
bạc của khách. Năm Bính Tý niên hiệu Khang Hy, 1
vào ngày mồng 3 tháng 7, đang trong lúc đúc đồ chứa,
bỗng nhiên có người dở miếng ngói trên mái nhà ông
ta trống ra. Ông lấy tay che lại, bỗng có tiếng sét đánh
xuống, làm đứt hẳn một nửa cánh tay. Tuy chưa đến
nỗi chết, nhưng thân thể khi ấy không còn khả năng
nhấc được vật gì lên nữa. Cho nên, đối với các loại đồ
dùng mà có sự gian lận, ắt không khỏi có sự liên quan
đến tạo vật.
Chịu phạt làm thân trâu 2
V
ào đời Đường, ở huyện Vạn Niên thuộc Ung
châu 3 có người họ Nguyên, cưới vợ họ Tạ. Hai
vợ chồng có đứa con gái gả cho Lai A Chiếu là dân ở
Long thôn. Niên hiệu Vĩnh Huy năm cuối 4 đời Đường
1 Tức là năm 1696.
2 Trích từ sách Minh báo thập di - 冥報拾遺. (Chú giải của soạn
giả)
3 Nay là tỉnh Thiểm Tây.
4 Tức là năm 655.
An Sĩ toàn thư
430 431
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Cao Tông, Tạ thị qua đời. Đến tháng 8 năm đầu niên
hiệu Long Sóc, 1 bà hiện về báo mộng cho đứa con gái, nói
rằng: “Mẹ lúc còn sống dùng đấu nhỏ hơn để đong rượu
bán, gian lận tiền của người khác quá nhiều, nay đang
phải chịu tội, làm con trâu ở nhà một người dưới chân
núi Bắc Sơn, gần đây lại bị bán về nhà Hạ Hầu Sư ở gần
bên chùa Pháp Giới để cày ruộng, khổ cực vô cùng. Mong
rằng con có thể mang tiền đến đó chuộc mẹ ra.” Đứa con
gái thức dậy, đem việc ấy khóc mà kể với chồng.
Tháng giêng năm sau, tình cờ gặp một vị ni sư ở
chùa Pháp Giới đến Long thôn, hỏi ra mới biết tường
tận mọi việc. Hai vợ chồng liền chuẩn bị tiền bạc tìm
đến nhà kia để chuộc trâu. Trâu nhìn thấy người con
gái thì khóc. Cô ta mua được trâu về, tận tâm nuôi
dưỡng. Vương phi và thị nữ của Vương Hầu ở kinh
thành nghe biết chuyện này, liền cho gọi người con gái
của Tạ thị, bảo dắt trâu đến cho Vương phi xem, rồi
ban cho tiền bạc, vải lụa.
Lời bàn
Dùng đấu nhỏ hơn để đong cho người là thói gian
lận thường gặp ở dân phố chợ, ắt phải chịu sự trừng
phạt đến như thế. Cho nên những kẻ gian lận của
người để thủ lợi, ỷ thế cưỡng bức mua lấy vật dụng của
người, nói chung đều không tránh khỏi sự nguy hiểm.
1 Tức là năm 661.
Nối nghiệp nhà tốt đẹp 1
Đ
ời Minh, ở Dương Châu có nhà giàu có, mở
một cửa hàng ở phía nam. Đến lúc sắp chết,
gọi con đến trao cho một cái cân mà nói: “Đây là vật đã
giúp ta dựng nên gia nghiệp.” Đứa con hỏi vì sao, ông
đáp: “Đòn cân này làm bằng gỗ mun, bên trong có giấu
thủy ngân. Khi cân bán ra thì trước đã nghiêng cho
thủy ngân chạy về đầu cân, người ta thấy tưởng rằng
vật đã đủ nặng, không biết rằng thật ra còn nhẹ. Khi
cân mua vào thì trước đã nghiêng cho thủy ngân chạy
về đuôi cân, người ta thấy tưởng rằng vật cân còn nhẹ,
nhưng không biết rằng thật ra đã nặng. Ta nhờ đó mà
giàu có.” Đứa con nghe như vậy thì trong lòng kinh sợ
nhưng không dám nói ra.
Người cha chết rồi, đứa con lập tức mang cái cân
ấy ra thiêu hủy. Khi đốt thấy trong đám khói bay lên
có vật gì hình giống như rồng, như rắn. Chẳng bao lâu
sau, có 2 người con trai đều chết cả. Khi ấy liền than
thở rằng đạo trời thật không công bằng, nhân quả đảo
điên trái ngược. Một hôm, nằm mộng thấy mình đi đến
một nơi, có quan phủ ngồi trên án đường, dạy rằng:
“Cha của ngươi vốn số mạng giàu có, thật chẳng cần
phải dùng đến cái cân gian lận. Nhưng vì ông ta có
1 Trích từ sách Cảm ứng thiên đồ thuyết - 感應篇圖說. (Chú giải
của soạn giả)
An Sĩ toàn thư
432 433
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
tâm bất chính, chẳng giữ lẽ công bằng, nên Ngọc Đế có
lệnh sai hai vì tinh tú là Phá tinh với Háo tinh 1 xuống
trần, đầu thai vào nhà để hủy hoại gia nghiệp nhà
ngươi. Sau khi gia nghiệp đã suy sụp rồi, ắt phải chịu
thêm hỏa hoạn. Nay xét thấy ngươi có thể sửa được
lỗi lầm của cha ngày trước, buôn bán giữ được lẽ công
bằng, nên Ngọc Đế đặc biệt cho triệu hồi Phá tinh với
Háo tinh về, sắp tới sẽ cho ngươi được có con ngoan
hiền, ngày sau được vẻ vang vinh hiển. Ngươi nên cố
sức làm điều thiện, chớ nên oán thán lẽ trời.”
Người kia tỉnh dậy hiểu ra mọi sự, từ đó càng kiên
trì làm thêm rất nhiều việc thiện. Sau quả nhiên ông
sinh được 2 người con, đều đỗ tiến sĩ.
Lời bàn
Theo đúng lý thì những chuyện tốt xấu, lành dữ
xảy ra với người đời đều có nguyên nhân tiềm ẩn, chỉ
là người phàm mắt thịt không có khả năng thấy biết
mà thôi. Nhưng luật nhân quả báo ứng, dù một mảy
may cũng không sai lệch.
Xưa ở Cô Tô (Tô Châu) có người họ Doãn sống bằng
nghề viết đơn kiện, xúi giục người khác kiện tụng lẫn
1 Phá tinh (破星) với Háo tinh (耗星): theo người Trung Hoa thời
xưa thì đó là 2 vì sao chiếu mệnh rất xấu. Phá (破) là phá hoại và
háo (耗) là hao tốn.
nhau. Trong nhà lúc nào cũng đông người đến nhờ
giúp, đông như họp chợ. Sau người ấy sinh được một
đứa con, dung mạo hết sức tuấn tú, thông minh tuyệt
trần. Nhân đó, họ Doãn tự hối hận lỗi lầm của mình,
bỏ không làm việc viết đơn từ cáo trạng nữa.
Chẳng bao lâu, đứa con trai hốt nhiên bị mù cả 2
mắt. Họ Doãn đau buồn uất hận lắm, trở lại viết đơn
kiện như trước. Chưa được một năm thì 2 mắt của đứa
con trai sáng ra. Do đó mà họ Doãn cho rằng đạo trời
chẳng công bằng, từ đó tuyệt đối không tin lẽ nhân
quả, họa phước gì nữa cả.
Đứa con trai họ Doãn tên Minh Đình, vào năm
Kỷ Sửu niên hiệu Thuận Trị 1 thì đỗ tiến sĩ. Nhưng rồi
chưa được mấy năm, nhân lúc đi nhận chức quan, giữa
đường gặp quân phiến loạn, cả nhà đều bị giết, không
sống sót một ai.
1 Tức là năm 1649.
435
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
434
Với kẻ dưới phải khoan thứ,
không nên khắc nghiệt, soi mói
Giảng rộng
C
hẳng thấy như lúc bỏ tiền mua nô tì, mẹ con
phải ly biệt đau khổ đến mức nào sao? Mẹ
hiền ruột gan như xé nát, vạn bất đắc dĩ mới phải
bước ra về, trước lúc ấy còn dặn dò lại con rằng: “Cha
mẹ nghèo làm khổ con rồi! Thôi hãy gắng sức, khéo
phụng sự chủ nhân. Chủ có gọi phải to tiếng dạ, chủ
có dạy phải lắng tai nghe. Cùng là tôi tớ với nhau chớ
tranh giành ganh ghét. Hình hài của con đó là máu
thịt mẹ cha, trước đây thương quý nâng niu như châu
ngọc, đâu ngờ phải gấp rút đến lúc chia lìa như hôm
nay. Mẹ nếu như có được tiền, nhất định sẽ đến chuộc
con về. Từ nay con phải tự lo cho thân mình, đừng để
đến nỗi phải chịu đòn roi đánh phạt.” Dặn dò cẩn thận
như vậy rồi, lời chưa dứt thì mẹ con đã không kiềm
được mà cùng ôm nhau khóc lớn. Cảnh ấy thật đau
đớn thay! Nếu biết nghĩ đến cảnh ấy thì xót thương
còn không hết, làm sao có thể nỡ lòng khắt khe, soi
mói tìm lỗi để trách phạt?
Trong Kinh dạy rằng: “Người đời đối với kẻ tôi tớ
giúp việc, phải giữ trọn theo năm điều. Một là, trước
phải xét hỏi xem có đói khát, rét lạnh hay không, sau
đó mới sai khiến công việc. Hai là, nếu tôi tớ có bệnh
phải lo việc cứu chữa, điều trị. Ba là, không được lạm
dụng đòn roi, trước hết phải hỏi rõ ngọn nguồn sự việc
rồi mới nghĩ đến việc trách phạt. Nếu là việc có thể tha
thứ thì nên tha thứ; nếu buộc lòng phải trách phạt, thì
nên vì sự dạy dỗ mà trách phạt. Bốn là, tôi tớ có chút
đỉnh tiền riêng, không được cậy quyền chiếm đoạt.
Năm là, cấp phát đồ dùng phải thực sự công bằng,
không được thiên vị kẻ nhiều người ít, kẻ tốt người
xấu.”
Trong thế gian, những kẻ làm thân tôi tớ ắt phải
là hết sức tối tăm, khổ sở. Bởi tối tăm nên ắt phải mau
quên khó nhớ, rối loạn mọi việc. Bởi khổ sở nên dung
mạo khó coi, thường nói lời vô nghĩa, nói ra đường đột
xúc phạm người trên nhưng vẫn thường tự cho mình
là đúng, gượng ép cãi cọ không thôi. Chính vì vậy mà
thường tự chuốc lấy đòn roi trách phạt. Nhưng đối với
những người tôi tớ như vậy mà khắt khe soi mói để
trách phạt họ, thì người chủ ấy rõ ràng là không sáng
suốt, lại thêm bụng dạ hẹp hòi. Nguyện sao cho những
người làm chủ đều là người nhân hậu, rộng lòng khoan
thứ, nên nghĩ đến những kẻ tôi tớ như con cái của
An Sĩ toàn thư
436 437
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
chính mình. Đang lúc phải dùng đòn roi, cũng nên dạy
dỗ rầy la; đang lúc dạy dỗ rầy la, cũng nên khuyên bảo
khích lệ. Được như vậy ắt là tự mình cũng không hao
tổn tinh thần, mà kẻ tôi tớ cũng không phải chịu đớn
đau thể xác. Không chỉ là trong hiện tại được danh
thơm tiếng tốt, mà còn có thể tạo thành nền nếp tốt
đẹp cho gia đình trong tương lai.
Trưng dẫn sự tích
Sau khi chết không có nô tì 1
T
hời Nam Bắc triều, ở Bắc Tề có viên quan
họ Lương, nhà hết sức giàu có. Lúc sắp chết
bảo vợ con rằng: “Ta bình sinh yêu thích một nô tỳ
với con ngựa hay, các người phải vì ta mà chôn theo
khi tống táng.”
Sau khi họ Lương chết, người nhà liền dùng bao
chứa đầy đất đè lên người đứa nô tỳ, ngạt thở mà chết.
Riêng con ngựa còn đợi đó, chưa giết. Nô tỳ chết được
4 ngày thì bỗng nhiên sống lại, kể rằng:
1 Trích từ sách Pháp uyển châu lâm - 法苑珠林. (Chú giải của soạn
giả) Xem Pháp uyển châu lâm – Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh,
tập 53, kinh số 2122, quyển 36, bắt đầu từ dòng 19 trang 577, tờ
c. Đoạn kể lại ở đây có lược bỏ một vài chi tiết nhỏ.
“Tôi chết rồi, hồn đi đến phủ Diêm vương, ở bên
ngoài cửa ngủ lại một đêm. Sáng hôm sau, nhìn thấy
ông chủ bị xiềng xích gông cùm, có người áp giải vào.
Ông chủ bảo tôi rằng: ‘Ta cứ tưởng sau khi chết cũng
cần dùng đến nô tỳ, nên mới dặn người nhà cho ngươi
xuống, đâu có ngờ đến hôm nay thì mỗi người đều tự
chịu khổ não, chẳng liên quan gì đến nhau. Ta sẽ thỉnh
cầu quan thả ngươi về. ’
“Ông chủ nói rồi phải vào trong điện. Tôi đứng bên
ngoài liền ghé mắt nhìn trộm vào, thấy có vị quan tra
hỏi quân lính rằng: ‘Hôm qua ép ra được nhiều ít mỡ?’
Quân lính thưa: ‘Được 8 đấu.’ Quan dạy rằng: ‘Tên họ
Lương đó cần phải ép tiếp, hãy ép cho ra đủ một thạch 1
sáu đấu mỡ.’ Ông chủ lập tức bị dẫn đi, không kịp mở
miệng nói điều gì.
“Hôm sau lại thấy ông chủ bị dẫn đến, nhưng vẻ
mặt có phần hoan hỷ. Quan tra hỏi: ‘Có ép được mỡ
không?’ Quân lính đáp: ‘Dạ không.’ Quan hỏi nguyên
do, quân lính thưa: ‘Người nhà ông ấy thỉnh chư tăng
tụng kinh lễ Phật, mỗi khi nghe tiếng kinh kệ thì đà
sắt tự gãy lìa, nên không ép ra được mỡ.’ Ông chủ nhân
lúc đó liền lên tiếng xin tha cho tôi về, lại nhờ nhắn lời
1 Pháp uyển châu lâm chép là “một hộc sáu đấu” (一斛六斗), tuy
cách gọi khác nhưng vẫn tương đồng, mỗi hộc hay mỗi thạch ở
đây đều được hiểu là 10 đấu.
An Sĩ toàn thư
438 439
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
về với người nhà rằng: ‘Nhờ các người làm điều phước
thiện nên ta được thoát nỗi khổ lớn, nhưng giờ thật
chưa thoát hết tội, mong các người tiếp tục vì ta tụng
kinh, tạo tác tượng Phật, ta nhờ đó có thể được giải
thoát. Từ nay về sau tuyệt đối không được sát sinh để
cúng tế, chẳng những ta không hề được hưởng những
thứ ấy, mà ngược lại còn phải chịu tăng thêm tội khổ.’”
Lời bàn
Sau khi chết rồi không thể sử dụng nô tỳ, cũng
giống như sau khi nghỉ việc quan thì không thể sai
khiến những kẻ giúp việc trong nha môn. Còn như
việc tụng kinh có thể tạo phước, làm việc sát sinh ắt
gây họa cho người chết, lẽ ấy cũng là đương nhiên.
Nô tỳ bình đẳng với người cao quý 1
T
ại Hồng Châu 2 có quan tư mã là Vương Giản
Dị bị chứng đau bụng, trong bụng thấy có một
khối cứng, tùy theo hơi thở mà di chuyển lên xuống.
Ông ấy đau quá đã chết đi, sau sống lại nói với vợ
rằng: “Ta bị triệu đến chốn âm ty, vì có đứa nô tỳ kiện
ta. Nó nói rằng vì bị ta kiềm chế mất tự do thái quá
1 Trích từ sách Cảm ứng thiên đồ thuyết - 感應篇圖說. (Chú giải
của soạn giả)
2 Nay là Nam Xương thuộc tỉnh Giang Tây.
đến nỗi phải tự vẫn. Nay cái khối cứng trong bụng ta
chính là nó đó. Âm ty tra xét sổ bộ thấy ta còn được
sống trên dương gian 5 năm nữa, vì thế thả cho ta về.”
Người vợ hỏi: “Đứa nô tỳ sao lại dám làm như vậy?”
Giản Dị đáp: “Thế gian phân chia kẻ sang quý, người
hạ tiện, chốn âm ty đều xem bình đẳng như nhau thôi.”
Năm năm sau, quả nhiên Vương Giản Dị bị tái
phát chứng đau bụng mà chết.
Lời bàn
Kẻ tôn quý với người thấp hèn, đều do sự phân
biệt đối xử mà thành; cha con chồng vợ, bất quá cũng
chỉ tạm thời giả hợp thành danh xưng, xét từ đầu vốn
không phải những vị trí, danh xưng rốt ráo. Như nhà ở
kề cận ta về phương đông, quay nhìn sang nhà ta ắt gọi
là phương tây; như từ chỗ nhà của người ở về phương
đông của ta mà nói, thì căn nhà kề cận về phương tây
của họ, đối với ta lại là phương đông. Cha ta gọi ta là
con, ấy là nhìn từ phía của người làm cha. Nếu như
nhìn từ phía con ta, ắt lại phải gọi ta là cha. Đường
xuống suối vàng vốn đã không còn nghe đến chuyện
cháu con vui vầy, huống chi đến chốn Quỷ môn quan
lại còn có nô tỳ phục dịch bên mình được sao?
An Sĩ toàn thư
440 441
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Nhẫn chịu được điều khó nhẫn 1
T
riều Minh có quan Tư đồ là Mã Sâm. Cha ông
đến năm 40 tuổi mới sinh con. Con lên 5 tuổi,
dung mạo xinh đẹp, cả nhà đều thương yêu trân quý
như châu ngọc. Một hôm, đứa tớ gái bế ra ngoài chơi,
sẩy tay làm té ngã bị một vết thương trên trán phía
bên trái mà chết. Cha ông lúc đó nhìn thấy mọi việc,
lập tức gọi đứa tớ gái bảo chạy trốn đi, rồi tự tay bế
xác con vào nhà. Mẹ ông đau đớn kinh hồn, nặng tay
xô đẩy cha ông té ngã nhiều lần, quyết tìm cho ra con
tớ gái mà đánh cho đến chết, nhưng nó đã chạy xa rồi.
Đứa tớ gái chạy về nhà cha mẹ, kể thật sự tình.
Cha mẹ nó vô cùng cảm động trước sự tha thứ của ông
chủ, ngày đêm thành tâm cầu nguyện cho ân nhân
mình sớm sinh quý tử. Năm sau, quả nhiên ông sinh
được Mã Sâm, trên trán nơi phía bên trái có một vết
sẹo màu đỏ rất rõ.
Lời bàn
Nô tỳ mắc lỗi, còn lỗi nào lớn hớn lỗi làm chết con
của chủ? Khoan dung tha thứ, còn có cách nào hơn là
buông thả cho đi mất? Kẻ đã làm chết đứa con hiếm
muộn lúc tuổi về già của mình, lại thả cho đi không
bắt tội, cũng xem như mất hẳn đứa nô tỳ. Nuôi dưỡng
1 Trích từ sách Khuyến trừng lục - 勸懲集. (Chú giải của soạn giả)
được tâm địa như thế, ví như đứa con mà chẳng đủ
phước làm đến chức quan Tư đồ, ắt người cha ấy cũng
đã thay con mà trồng được cội phước rồi. Bằng như
ngược lại, chủ nhân vì con cái mình mà đánh đập,
trách phạt tôi tớ, chẳng qua chính là làm tổn hại đến
phước thọ của con mình đó thôi.
Hung bạo sinh ra rắn 1
V
ào triều Minh, niên hiệu Sùng Trinh năm
thứ nhất,
2 vùng Gia Định có một người họ
Cảnh, làm nghề bán mì sợi mà sống. Người vợ ông
tính tình hung hãn, thường lăng nhục, ngược đãi đãi
tớ gái, khiến nó thật không chịu đựng nổi. Mùa xuân
năm Canh Thìn, 3 bà mang thai đến ngày sắp sinh nở,
chuyển bụng suốt 2 ngày mà không sinh được. Khi ấy,
có bà đỡ họ Vương, hết sức... ... ... ...
(Từ đây trở đi trong cổ bản Hán văn bị mất 21
dòng, mỗi dòng 20 chữ. )
1 Trích từ sách Tiên đại nhân bút ký - 先大人筆記. (Chú giải của
soạn giả)
2 Tức là năm 1628, đời Minh Tư Tông.
3 Tức là năm 1640.
An Sĩ toàn thư
442 443
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
... ... phong hóa suy vi kiêu bạc, 1 chỉ riêng các vùng
Thái Thương, Côn Sơn, Gia Định, Sùng Minh, Tùng
Giang là còn giữ theo phép sung quân có quan hệ đến
đời con cháu. 2 Một khi bị đưa vào, liền chẳng khác gì
những kẻ phạm tội phản nghịch.
Đem thân làm kiếp nô tỳ trong nhà những kẻ công
danh đại thần, xem như vĩnh viễn không thể thoát ra.
Chẳng riêng những kẻ suốt đời phải làm thân nô bộc,
cho đến những người theo lệ bắt phải sung quân vĩnh
viễn, đều khiến cho con cháu của họ mãi mãi không
thể trở thành con cái nhà tốt đẹp. Thật là thảm khốc
biết bao! Chẳng dám nghĩ đến việc tự mình làm chủ
một gia đình, chỉ riêng hiện nay chịu ơn nặng của mẹ
cha cũng đã tự mình không thể lo việc nuôi dưỡng báo
hiếu. Làm thân người nô bộc, bất quá chỉ nhận được
chút tiền bán thân, nay chủ nhân lại muốn bắt người
ta vĩnh viễn suốt đời nô lệ, như thế chẳng phải là trên
1 Câu này bị mất phần trước chỉ còn 3 chữ下澆風 (hạ kiêu phong)
nên không được rõ nghĩa. Có thể đoán phía trước là những chữ
mang nghĩa bài trừ, loại bỏ... chẳng hạn.
2 Theo Minh sử, phần Hình pháp chí, quyển nhất có ghi: “Bắt vào
quân đội có hai hạng, một hạng chung thân, một hạng vĩnh viễn.
Hạng sung quân vĩnh viễn là những người phạm tội liên can đến
con cháu, nói chung khi phạm vào tội chết nhưng được giảm nhẹ
thì sung vào quân đội vĩnh viễn.”
thì phạm đến hòa khí của trời đất, dưới thì xúc chạm
sự phẫn nộ của quỷ thần chốn u minh đó sao?
Trong đời tuy có phân ra kẻ cao quý người hạ tiện,
nhưng sinh con ra thì ai ai cũng đều thương yêu trân
quý. Thế mà chỉ riêng con cái của những nhà bần cùng
khi trở thành nô bộc trong các nhà có danh phận địa
vị, ắt là việc dựng vợ gả chồng đều phải phụ thuộc,
chẳng được tự do. Hoặc như nữ tỳ có chút nhan sắc,
bị ông chủ cưỡng bức chuyện phòng the; hoặc khi bà
chủ sinh tâm ghen ghét, thông qua kẻ môi giới mà
bán đi phương xa, khiến phải ôm lòng phẫn hận, xấu
hổ, oan ức thấu trời xanh mà không thể bày tỏ. Cho
đến chuyện còn sống hay đã chết, gia đình thân quyến
cũng không chút tin tức hay biết. Đó quả thật là chỗ bi
thảm không sao nói hết trong số phận của những đứa
con nhà cùng khổ, phải bán cho người làm thân nô bộc.
Ví như làm thân nô bộc lại không con nối dõi, ắt
khó nhọc suốt một đời có tích cóp được ít nhiều tài sản
đều sẽ bị người chủ công nhiên chiếm lấy, xem như tài
sản của ông ta. Thậm chí đến như người chồng của
đứa nữ tỳ, nếu có dành dụm được đôi chút tiền bạc,
chủ nhà liền nhận rằng cha của nữ tỳ ấy cũng là nô
bộc của mình, mượn cớ ấy mà dối trá cướp lấy, cho nên
cái họa của một người làm nô bộc suốt đời thật ảnh
hưởng đến cả người chung chăn gối.
An Sĩ toàn thư
444 445
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
Cũng chẳng riêng gì những việc như trên, khi
đã có người phải chịu cảnh nô bộc suốt đời, ắt lại có
những người bị giả mạo vu khống. Chính mắt tôi từng
thấy có những kẻ cường hào nhiều thế lực, khi dò xét
thấy nhà dân lành yếu đuối thế cô mà có chút tài sản,
ruộng vườn, nhà cửa, hoặc người vợ có chút nhan sắc,
hoặc có con gái xinh đẹp... liền thống suất gia nhân
của mình lên thuyền kéo đến, làm như thể đi bắt cướp
không khác, đột nhiên cưỡng bức mang về nhà mình,
rồi giải lên quan phủ yêu cầu trừng trị, vu cáo đó là
người phản chủ, hoặc mưu sát chủ, lại đưa ra khế thư
chứng minh việc bán thân từ nhiều năm trước đây,
mà thật ra chỉ là thứ giấy tờ ngụy tạo mà thôi. Đã
vậy, bọn quan lại thì nhận hối lộ trước rồi, cứ y theo
ý muốn của chúng mà xử, khép tội thật nặng. Sau đó
dùng danh phận chủ tớ mà áp đặt, nhận cho khế thư
ngụy tạo kia là đúng, xem tội phản chủ là thật, khiến
cho người thế cô yếu đuối chịu oan khuất mà không
thể bày tỏ, chẳng biết nơi nào để tố giác lên. Tiếp theo
lại cân nhắc tính toán theo gia cảnh của người kia, ép
phải mang tiền đến chuộc người về.
Thương thay cho người dân nghèo không hiểu
pháp luật, lo sợ ngày sau phải chịu sự bức hại, liền
mau mau tìm phương cách chạy vạy tiền bạc, lớp thì
vay mượn, lớp thì cầm cố để có tiền nhờ người đến biện
hộ. Thật không biết rằng quan phủ vốn đã nhận đủ
tiền bạc hối lộ, nên căn bản dù có mang tiền chuộc đến
rồi cũng không giao trả lại khế thư bán thân kia, chỉ
cấp ra một mảnh giấy làm bằng chứng mà thôi. Hóa
ra khi có thêm mảnh giấy này thì tờ khế thư ngụy tạo
trước kia giờ lại càng thêm tính xác thật, vì bản thân
đương sự đã đến xin nộp tiền chuộc thân, tức là thừa
nhận khế thư kia là đúng thật, không còn cách nào
có thể biện bạch cho ra lẽ được nữa. Quả nhiên đúng
vậy, đợi đến 3 năm hoặc 5 năm sau, lại y theo lối cũ gọi
người đến phục dịch. Bấy giờ, nếu nghe lời mà đến làm
tôi tớ thì số tiền chuộc năm xưa hóa ra uổng phí. Bằng
muốn cố sức giữ lấy chút thể diện, ắt là tài sản gia
nghiệp phải mất hết. Thậm chí gian dối bức hại cho
đến khi người kia chỉ còn lại tấm thân trơ trọi mà thôi!
Như thế quả thật là một lũ cường bạo đạo tặc núp
bóng cửa quan, một đám lang sói đội lốt lễ giáo. Chỉ vì
xã hội chưa trừ bỏ đi tục lệ bán thân làm tôi tớ suốt đời, 1
nên từ đó mà sinh ra vô số những điều hệ lụy xấu ác.
Theo như lẽ thường, như bán thân một lượng, nếu muốn
chuộc cũng phải mang đến một lượng, đối với người bán
thân mà nói thì một khi đem thân cúi đầu phục vụ cũng
đã xem như phó mặc số phận một đời. 2 Huống chi nếu
1 Thực chất đây chính là chế độ nô lệ kiểu phương Đông.
2 Ý nói cho dù một chỉ phải trả lại bằng số tiền bán thân cũng đã
quá khó khăn đối với người nô bộc.
An Sĩ toàn thư
446 447
Giảng rộng bài văn Âm chất - Quyển thượng
bỏ ra một lượng lại đòi hỏi người ta muốn chuộc phải
trả lại gấp nhiều lần, theo tôi như thế thật quá tham
lam, tổn hại đến đạo trời. Cớ sao cũng cùng là đồng
tiền, khi chủ mua nô bộc thì 3 lượng, 5 lượng đều to
lớn, xem nặng như Thái sơn; đến khi nô bộc muốn nộp
tiền chuộc thân thì lại tăng lên đến số trăm, số ngàn,
xem nhẹ như cỏ rác?
Mong sao những bậc quân tử giàu lòng nhân ái
đều phát khởi tâm nguyện đại từ đại bi, cùng nhau
dâng biểu tấu lên triều đình, sớm có sắc lệnh nghiêm
cấm không được gọi gia nhân của các nhà hào phú là
quân, 1 và những kẻ nô bộc bán thân nên có hạn kỳ,
không phải làm nô bộc suốt đời. Đối với người đã bán
thân, chỉ giới hạn với riêng người ấy thôi. Lại nên quy
định việc khi nô bộc cưới vợ hoặc theo chồng, người chủ
không được đứng ra thu nhận tiền tài lễ vật. Đối với số
tiền chuộc người, phải quy định không được nâng lên
cao hơn số tiền ban đầu. Ví như có người đến cửa quan
tố cáo người khác là nô bộc phản chủ, cần tra xét kỹ để
loại trừ trường hợp gian trá hại người.
Lại mong sao các địa phương trực thuộc đều tuân
thủ đúng theo sắc lệnh, cho khắc những điều lệnh này
1 Theo ý nghĩa câu này, có thể đoán rằng đoạn bị mất trước đây
(420 chữ) có lẽ nói về tệ nạn gia nhân các nhà cường hào tự xem
họ như quân binh, dùng thế lực ấy để bức hiếp dân lành.
lên bia đá, đặt ở chốn đông người. Làm được như vậy,
không chỉ giúp cho ngàn vạn bậc cha ông không để
khổ lụy đến đời con cháu, mà ngàn vạn cháu con cũng
sẽ không rơi vào cảnh phải oán trách cha ông; chẳng
những giúp cho ngàn vạn gia đình hiền lương trong
chốn dân dã thoát được tai họa do bọn cường hào dựng
chuyện vu cáo hãm hại, lại cũng giúp cho ngàn vạn cô
gái con nhà hiền lương thoát được cảnh sỉ nhục vì bị
bọn cường hào cưỡng bức thất thân.
Như vậy, đám con cháu của các nhà giàu sang
danh vọng mới biết tự lo lấy thân, không dám khởi
sinh những ý niệm tà ác, không cướp giật tiền tài phi
nghĩa, nhờ đó mà bồi đắp được tông miếu tổ tiên, như
vậy chẳng phải là tạo được phúc đức sâu dày lắm sao?
Giảng rộng bài văn Âm chất
Hết Quyển thượng
448 449
Phụ đính: Nghiêm cấm sách khiêu dâm 1
N
han Quang Trung nói rằng: “In ấn phổ biến
các sách khiêu dâm, dụ dỗ dẫn dắt kẻ ăn
chơi, đó là những việc giết người không cần đổ máu.
Khi có bậc thánh nhân ra đời, nhất định sẽ gấp rút
gồm thu thiêu hủy hết thảy các sách dâm ô tà đạo,
cũng như các bản gỗ 2 dùng để in ấn chúng. Những
kẻ tham gia việc in ấn lưu hành đều phải xử tội thật
nặng, xem đồng với tội phạm năm điều đại nghịch,
không thể miễn giảm tha thứ. Có như vậy thì phong
tục mới được thuần mỹ, mà nền nếp tri thức mới duy
trì được theo đường ngay nẻo chính.”
Viên Tử Phàm cũng có nói rằng: “Người nào làm
việc thu gom các sách dâm ô tà đạo, khích động bạo lực
1 Trích từ sách Gia đình bảo phạt. (Chú giải của soạn giả)
2 Việc in ấn ngày xưa được thực hiện bằng cách khắc chữ ngược
lên các phiến gỗ, dùng mực bôi đều rồi in vào giấy. Vì thế, muốn
in một quyển sách trước hết phải thực hiện việc khắc bản gỗ. Bản
gỗ này cũng được lưu trữ để sử dụng nhiều lần.
An Sĩ toàn thư
450 451
Phụ đính: Nghiêm cấm sách khiêu dâm
để thiêu hủy hết đi, sẽ được phước báo con cháu nhiều
đời đều có lòng trung hiếu tiết nghĩa. Người nào ưa
thích đọc các tiểu thuyết khiêu dâm, lại mang những
sách khiêu dâm, bạo lực v.v... cất giữ cùng một nơi với
các sách của thánh hiền, sẽ chịu quả báo con cháu
nhiều đời ham mê dâm dục. Người nào làm việc in ấn
lưu hành hoặc mua bán các sách khiêu dâm, bạo lực...
để trục lợi, sẽ chịu quả báo con cháu nhiều đời hèn
kém hạ tiện.”
Tất Hiệu Lương nói: “Những quyển sách khiêu
dâm quả thật là lưỡi dao sắc bén giết chết người. Chỉ
mong sao cho các em thanh niên thiếu nữ con em
chúng ta, một khi nhìn thấy những loại sách độc hại
chết người ấy thì lập tức xé nát, thiêu hủy. Nếu gặp
bạn bè xấu đam mê những thứ ấy thì xa lánh không
giao du nữa. Phải giúp nhau nhắc nhở cảnh giác ngăn
ngừa, đừng để rơi vào cái nguy cơ giết người không
hình trạng đó.
“Nay tôi khẩn thiết cúi đầu có lời thưa trước chư
vị trong ngành xuất bản cùng giới văn nhân trước tác,
ai trong chúng ta cũng đều có con em, chồng vợ, sao
lại nhẫn tâm đẩy những người thân yêu ấy vào nơi tối
tăm u ám, vào con đường dẫn đến tử vong, dứt tuyệt
đường nối dõi dòng tộc?
“Tôi lại khẩn thiết cúi đầu xin thưa với các vị hiệu
trưởng, gia trưởng, các vị đang làm công tác thanh
tra, xin mỗi vị đều tùy lúc tùy thời mà luôn có sự
kiểm tra nghiêm ngặt, thường xuyên khuyên bảo dẫn
dắt, giúp cho những con em thanh niên thiếu nữ của
chúng ta đều tránh xa được chỗ tối tăm, không rơi
vào đường chết.
“Những điều mong mỏi ấy cũng đều tùy thuộc vào
sự thực hành đức độ của các vị trong ngành xuất bản,
các vị văn sĩ trước tác... Nếu như các vị có thể mạnh
mẽ quyết tâm đốt sạch những bản gỗ in sách dâm thư
tà đạo, ném bút không viết ra những sách như thế, tôi
dám chắc rằng hàng con em trong cả nước sẽ cảm kích
mà xem các vị như những bậc đại vĩ nhân, đại mô phạm.
“Nếu như nói rằng các sách khiêu dâm nào hàm
chứa sự báo ứng xấu xa thì người đọc ắt tự có khả
năng nhận biết mà cảnh giác, tránh xa; vậy xin hỏi có
sách khiêu dâm nào mà không hàm chứa quả báo xấu,
tại sao chỉ riêng thấy người đọc ngày càng bị lôi cuốn
đam mê đắm chìm trong đó?
“Vì thế, tôi lại khẩn thiết cúi đầu trước các vị họa
sĩ, văn sĩ tiểu thuyết gia, xin có lời thưa rằng: Dùng
ngọn bút để mưu sinh thì chọn cách nào mà chẳng
được, cần chi đã khó nhọc lại hoen ố thanh danh, lưu
An Sĩ toàn thư
452 453
Phụ đính: Nghiêm cấm sách khiêu dâm
truyền tiếng xấu, dẫn dắt xã hội vào con đường tối tăm
u ám, bẫy thanh niên vào chỗ tử vong; chỗ học rộng
sâu mà chạy theo mối lợi thật quá ư nhỏ nhoi vụn vặt.
Nói về thuyết âm đức, nhân quả, những kẻ thiển cận
ít học đều cho là mơ hồ khó thấy, nhưng trong sách vở,
truyện tích của chư vị thánh hiền, 24 bộ chính sử, 1 hết
thảy đều có ghi chép đầy đủ rõ ràng. Huống chi, các
bậc hiền nhân gần đây nghe thấy, ghi chép lại cũng
rất nhiều. Thế nên tiên sinh Đinh Phúc Bảo mới sưu
tập, lược ghi chép lại nhằm mục đích khuyên dạy răn
nhắc người đời.
“Trong mọi điều xấu tệ, dâm dục là nặng nhất,
hiện tiền không khỏi chịu nhiều báo ứng, sau khi chết
lại phải vĩnh viễn nhận chịu những sự đớn đau khổ sở.
Than ôi, người trong nước lẽ nào lại có thể không hết
sức lưu tâm kinh sợ đối với việc này được sao? Giá như
hiện nay trong nước có được bậc đạo cao đức trọng, đứng
ra tập hợp những người cùng chí hướng, cùng nhau mở
ra hội nghị bàn thảo hoạch định phương pháp bài trừ
các sách khiêu dâm, đồng thời cùng với các vị chức
1 Chỉ các bộ sách, sử được chính thức công nhận qua các thời
đại của Trung Hoa, bao gồm: Sử kí, Hán thư, Hậu hán thư, Tam
quốc chí, Tấn thư, Tống thư, Nam tề thư, Lương thư, Trần thư,
Ngụy thư, Bắc tề thư, Chu thư, Tùy thư, Nam sử, Bắc sử, Đường
thư (Cựu Đường thư), Tân đường thư, Ngũ đại sử(Cựu Ngũ đại sử),
Tân ngũ đại sử, Tống sử, Liêu sử, Kim sử, Nguyên sử và Minh sử.
sắc, chư tôn giáo phẩm, ban lời khuyên dạy khuyến
khích đọc những sách có nội dung tốt đẹp, lành mạnh,
góp sức lưu truyền rộng rãi, dùng nhiều phương thức
khác nhau để khen thưởng khích lệ, như vậy quả thật
là giúp cho xã hội quốc gia được thấm nhuần những
điều tốt đẹp vô cùng tận. Cứ nghĩ đến việc này, tôi thật
không sao ngăn được cảm xúc trong lòng, chỉ muốn
chí thành dâng hương lễ bái, cầu nguyện sao cho sớm
được thành tựu.”
454 455
Mục lục
Lời tựa nhân việc khắc bản in lại sách An Sĩ toàn thư ......5
Lời tựa viết năm Mậu Thân (1908) ................................15
Lời tựa của Trương Thủ Ân ............................................23
Lời tựa đầu tiên của sách Giảng rộng bài văn Âm chất ... 27
Bài văn Âm chất của Văn Xương Đế Quân .................... 31
Phần bổ khuyết ............................................................36
Hóa thân sau cùng của Đế Quân .......................... 37
Vu Công xử án, xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa ....... 38
Họ Đậu giúp đỡ muôn người ................................. 40
Tống Giao cứu kiến, trúng tuyển trạng nguyên ....... 43
Thúc Ngao chôn rắn, sau làm tể tướng ................. 44
Thư mục kinh sách tham khảo trong Tam giáo ....... 45
Giảng rộng bài văn Âm chất
Quyển thượng .............................................................53
456 457
Mục lục Mục lục
Ta trải qua mười bảy đời sinh ra làm kẻ sĩ ..................... 55
Trời giúp đạo Nho hưng khởi ................................65
Can vua giữ tròn đạo nghĩa ...................................67
Thương yêu giúp đỡ thân tộc .................................68
Buổi đầu học Phật ................................................69
Động lòng nhập thai ...........................................76
Hiếu thảo không thẹn với lòng ..............................79
Trị tội dâm thần ...................................................81
Nối dòng Xích Đế ................................................83
Hóa rồng tại Cung Trì ...........................................87
Gặp Phật được cứu độ ..........................................90
Hai cõi âm dương giao nhau .................................94
Mưa tên xuyên thân .............................................95
Chấp chưởng việc khoa bảng................................97
Ngày sau chứng quả .............................................99
Phụ đính 5 mục hỏi đáp về luân hồi ...................100
Chưa từng bạo ngược với dân .....................................111
Kẻ bạo ngược, người tàn khốc đều có thể đổi tính 113
Cứu người lúc nguy nan ..............................................115
Làm rõ oán an kỳ lạ ............................................117
Trừ bạo loạn, cứu người hiền ..............................119
Giúp người khi khẩn thiết ...........................................121
Nghèo giàu chỉ trong thoáng chốc ......................123
Thương xót người cô độc ............................................129
An ủi lòng bạn nơi chín suối ...............................131
Khoan thứ kẻ lỗi lầm ..................................................132
Tiến cử kẻ thù ...................................................135
Rộng làm những việc phúc thiện ................................138
Làm vị quan tốt ở Thanh Hà ...............................139
Đại tiên núi Tuyết Sơn ........................................141
Nếu ai có thể giữ tâm hiền thiện như ta ......................143
Luận giải về tâm.................................................147
Ắt được trời ban phước lành .......................................151
Tên gọi các cảnh trời ..........................................156
Phụ đính 2 mục vấn đáp ....................................161
Do đó mà ta có lời dạy người ......................................164
Các thuyết về con người .....................................166
Vu Công xử án, xây cổng lớn đợi xe bốn ngựa .............187
Xử án công bình khoan thứ .................................191
Biện giải cho tù bị oan .......................................192
Ba con đều vinh hiển .........................................193
458 459
Mục lục Mục lục
Không bắt bớ phụ nữ ..........................................194
Hành pháp nghiêm khắc không con nối dõi ........195
Họ Đậu giúp đỡ muôn người .......................................197
Bán ruộng giúp người .........................................198
Thoát chết lại đỗ Giải nguyên .............................200
Giúp người sau được đỗ đạt ................................203
Ngược ý trời, hại dân lành ..................................206
Tống Giao cứu đàn kiến, trúng tuyển trạng nguyên .....209
Cứu kiến được tăng tuổi thọ ................................211
Vua kiến trả ơn ..................................................213
Thúc Ngao chôn xác rắn, sau làm tể tướng .................215
Tùy phương tiện phạm giới sát ............................217
Giết rắn phải đền mạng .....................................219
Muốn tạo ruộng phước rộng sâu ..................................221
Biểu đồ ruộng phước do tâm tạo .........................223
Ba loại ruộng phước ...........................................223
Hai loại, tám thứ ruộng phước ............................223
Trong thế gian có 7 việc chẳng đồng ..................224
Chánh báo và dư báo do 10 điều ác chiêu cảm ...227
27 loại quả báo thiện ác khác biệt ......................230
Luận giải về tâm địa ...........................................231
Năm dặm bồn đồng ...........................................243
Cúng dường được một tháng ...............................247
Gieo trồng phước đức trên đầu ngón tay..............248
Thân hình xấu xí, thanh âm tốt đẹp ....................251
Mười hạt thóc được thoát nghèo ..........................252
Ngày ngày thường dùng các phương tiện ....................255
Luận giải về sự phát nguyện ...............................256
Ba người cùng phát nguyện ................................258
Đồng hiệu với Cổ Phật .......................................259
Phát nguyện độ người trước hết ...........................260
Bốn mươi tám đại nguyện ...................................260
Nhờ có nguyện nên dễ hóa độ ............................261
Vừa phát tâm đã vượt trên Nhị thừa ....................262
Lợi người lợi vật .........................................................264
Kẻ phá bia và người khắc bia .............................265
Hủy bỏ chính sách tệ hại ..................................266
Thường bình ổn giá lương thực ...........................267
Làm thiện tích phước .................................................269
Tạo lập nhiều ruộng nhân nghĩa .........................271
Một mình đảm nhận việc nghĩa .........................273
Bố thí không mệt mỏi .........................................274
460 461
Mục lục Mục lục
Chính trực thay trời hành đạo, dạy người ...................276
Soát xét việc thiện ác .........................................278
Mở rộng lòng từ, vì nước cứu dân ...............................281
Tìm cách cứu dân ..............................................282
Đế Quân ban sắc thư .........................................286
Đối xử với người phải giữ lòng trung ...........................290
Tận tụy báo ơn chủ.............................................291
Chủ nhân vẽ tượng lễ bái ...................................293
Với cha mẹ ông bà phải hiếu thảo ..............................295
Năm người mẹ bi thương ....................................298
Cả nước đều biết hiếu dưỡng ..............................301
Hương lạ bay xa .................................................306
Xuất gia báo đáp ơn cha .....................................307
Tu sám pháp tìm được mẹ ..................................309
Tích âm đức cho cha mẹ ...................................310
Với anh em phải giữ lòng kính trọng ..........................312
Cung kính chuyển giao tài sản ............................314
Tình cảm chí thành cảm hóa được người ............316
Với bạn bè phải giữ lòng tin cậy .................................318
Vượt ngàn dặm để giữ lời hứa .............................319
Giữ lời hứa hóa độ bạn .......................................320
Hoặc phụng chân triều đẩu ........................................324
Bảy vị tinh quân cứu lửa .....................................326
Kính lễ Đẩu mẫu thoát nạn trộm cướp ................327
Phụ đính: Nguồn gốc kinh sách của Đạo giáo .....329
Trích dẫn kinh sách Đạo gia ..............................331
Hoặc thờ Phật học kinh, làm theo lời Phật dạy ...........333
Phụ đính: sự sâu xa uyên áo của Phật pháp ........335
Ngài A-nan kết tập kinh điển .............................335
Kinh Phật đến Trung Hoa ...................................337
Thoát khỏi vào thai lừa ......................................341
Thoát khỏi vào thai lợn .......................................343
Quyển kinh cứu thoát dân trong một thành .........345
Gông cùm tự thoát .............................................346
Vị tăng làm Thiên vương ....................................347
Người mù được thấy ...........................................349
Báo đáp bốn ơn sâu nặng ...........................................352
Lễ tháp Phật cứu độ mẹ .....................................354
Lòng thành cảm động di cốt của cha .................356
Bảo vệ Chánh pháp để báo ân ............................358
Thực hành rộng khắp theo Tam giáo ...........................361
Luận về lợi ích của sự thực hành rộng khắp .........367
Quả báo tức thời của kẻ hủy báng giáo pháp .......376
Phụ đính 2 mục hỏi đáp về tăng sĩ ......................381
462 463
Mục lục Mục lục
Giúp người khẩn cấp như cá mắc cạn .........................384
Thoát nạn, cứu người ..........................................384
Từ xa cứu nạn giảng đường sụp đổ .....................386
Bỏ chức quan, cứu thuộc cấp ..............................388
Giúp người chuộc tội được sinh con ....................389
Xót thương trẻ mồ côi, giúp đỡ người góa bụa .............391
Giúp mẹ góa con côi về tận quê nhà ...................392
Vì chủ nuôi con mồ côi ......................................394
Cưỡng bức người chịu quả báo tức thời ................395
Kính trọng người già, thương kẻ nghèo khó .................398
Trâu hại chết ba người ........................................399
Người chết cứu lửa .............................................401
Chu cấp cơm ăn áo mặc cho người lỡ đường đói rét ....403
Liều mạng trả ơn cứu đói ...................................403
Mau sinh quý tử .................................................405
Giúp quan quách cho nhà nghèo khó ..........................407
Mai táng hài cốt, hưởng quả tức thì .....................408
Làm con để báo ân .............................................411
Nhà giàu sang phải nâng đỡ thân thích .....................412
Đãi canh rau thành tên gọi .................................414
Chuyện vui thích nhất ........................................415
Mất mùa đói kém phải cứu giúp lối xóm .....................416
Chuốc họa khi có nạn đói ...................................418
Tăng giá lúa cứu nạn đói ....................................420
Trồng đậu thay lúa .............................................421
Kháng nghị cứu dân Liêu Dương ........................422
Đức độ không phô bày .......................................424
Cân đo phải công bằng .............................................426
Khiển trách không chịu tỉnh ngộ .........................427
Chịu phạt làm thân trâu ......................................429
Nối nghiệp nhà tốt đẹp .....................................431
Với kẻ dưới phải khoan thứ .........................................434
Sau khi chết không có nô tì .................................436
Nô tỳ bình đẳng với người cao quý .....................438
Nhẫn chịu được điều khó nhẫn ..........................440
Hung bạo sinh ra rắn..........................................441
Phụ đính: Nghiêm cấm sách khiêu dâm ......................448

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét