PHẬT LỊCH 2557
NGHI THỨC
TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY
của hai giới
XUẤT GIA và TẠI GIA
HT. THÍCH THIỆN THANH
Soạn và Dịch
CHÙA PHẬT TỔ
905 Orange Avenue
Long Beach, California 90813
http://www.chuaphatto.com
Mục Lục
LỜI DẪN NHẬP ............................................................................................................ 5
LỢI ÍCH TỤNG KINH NIỆM PHẬT ....................................................................... 16
NGHI THỨC CÔNG PHU KHUYA .......................................................................... 19
NGHI THỨC CẦU AN .............................................................................................. 55
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ ................................................................... 88
NGHI THỨC SÁM HỐI .......................................................................................... 122
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN ........................................................................ 151
NGHI THỨC CÚNG NGỌ ....................................................................................... 173
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT ............................................................................... 187
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG .................................................................................... 206
NGHI THỨC CÚNG VONG .................................................................................... 222
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH ............................................................................ 240
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN .............................................................................. 256
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN .................................................................................. 273
NGHI THỨC LỄ VU LAN ....................................................................................... 286
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ .................................................................. 330
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG ................................................................ 383
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN .................................................................... 441
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ..................... 461
BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ ........................... 464
BÀI TỐNG TÁNG ..................................................................................................... 475
KHUYẾN TU ............................................................................................................. 480
CÁC NGÀY VÍA ....................................................................................................... 486
NHỮNG NGÀY TRAI .............................................................................................. 488
Danh Sách Hình Ảnh Minh Họa .............................................................................. 489
Bản Mục Lục Chi Tiết ............................................................................................... 491
LỜI DẪN NHẬP
Phật tử Trung Hoa sáng tác cái gì, trong vườn văn học Phật
giáo Việt Nam có cái nấy. Ngoài phần nhập cảng tư tưởng,
kinh sách từ Trung Quốc, nhiều học giả và thiền sư Việt Nam
sáng tác nhiều bài văn xuôi và văn vần rất hay, như Khóa Hư
Lục của Trần Thái Tông (1225-1258), Phật Tâm Ca của Tuệ
Trung Thượng Sĩ (1230-1291) và nhiều kệ và thơ như bài Mộc
Trung Nguyên Hữu Hỏa của Khuông Việt Thái Sư (933-1011),
hay Vạn Hạnh Thiền Sư (?-1018) với bài kệ Thân Như Điện
Ảnh Hữu Hoàn Vô vân vân, bài nào cũng văn hay ý đẹp, nói
lên được ý đạo nhiệm mầu. Một điều được nhấn mạnh nơi đây,
lời thơ đẹp văn hay, nhưng không được phổ biến rộng rãi, có
lẽ các bậc tiền bối của chúng ta bị trở ngại về văn tự, cách viết,
nói một nơi viết một ngả và thiếu phương tiện ấn loát. Tư tưởng
Việt, âm điệu Việt, nhưng phải viết bằng chữ Hán. Hán học hay
Nho học thuộc văn bác học, cũng như chữ Sankrit ở Ấn là ngôn
ngữ của hàng bác học, của giới trí thức, giới bình dân hay
người học ít làm sao hiểu cho nổi. Thành thử Tàng Kinh Các
của Phật giáo rất lớn, nhiều sách quý, nhưng người học Phật
càng ngày càng vơi đi. Lời dạy của Phật, lẽ ra, là món ăn bổ
ích cho tinh thần, nhưng vì thiếu sự hiểu biết cho đúng mức,
lời dạy đó trở thành “bùa hộ mạng”. Thật vậy, lời hay ý đẹp
của Phật dạy để minh tâm kiến tánh, không mấy ai để ý đến,
nhưng Kinh Cứu Khổ được in và ấn tống quá nhiều, nhiều đến
nỗi không có chỗ để. Nói như thế để quý vị thấy rằng, càng
ngày người hiểu Đạo càng ít, nhưng người cầu lợi quá nhiều,
dù cái lợi đó dựa vào những lời đồn đãi vu vơ.
Từ hậu bán thế kỷ thứ XIX đến nay, chữ viết của người Việt
được thay hình đổi dạng, từ gốc Hán, đổi thành gốc Hy
5
LỜI DẪN NHẬP
La (North semetic + Geek + Latin). Ngày xưa, Trung Hoa có
tư tưởng hay danh từ nào, thì Việt Nam có danh từ đó; ngày
nay Tây phương có sáng chế máy chữ, máy in, computer, thì
Việt Nam sẽ dùng được máy đó, nếu cần thay đổi, chỉ cần thay
đổi một bộ phận nhỏ, vì cùng một nguồn gốc chữ viết. Trong
khi đó, các dân tộc không cùng một nguồn gốc chữ viết, dù có
tiến bộ nhiều nhưng vẫn bị trở ngại. Hay nói một cách khác,
người Việt Nam, nhất là những người ở hải ngoại có nhiều
phương tiện ấn loát. Vậy thì, nhân dân Việt Nam nói chung,
hay Phật tử nói riêng không nên đắm mình trong “hủ nho nhập
cảng” bị rỉ sét lâu đời, từ thời Hán tộc xa xưa, thiếu dinh dưỡng
để vun vén cây Bồ Đề Việt Nam. Nói cho dễ hiểu, Phật tử nên
tụng kinh tiếng Việt để hiểu rõ ý nghĩa kinh mình đang tụng,
lấy lời dạy quý báu đó để sửa tâm tánh cho được thanh tịnh.
Muốn hiểu rõ ý kinh, không ngôn ngữ nào hơn là tiếng mẹ đẻ,
là tiếng Việt. Chữ Hán khó lắm, nên cất kỹ trong viện bảo tàng.
Từ thuở Phật giáo du nhập vào Việt Nam đến nay, các tu sĩ
cũng như cư sĩ đều tụng kinh bằng tiếng Hán Việt (1). Dĩ nhiên,
trong những thời Phật giáo thịnh hành, các tăng sĩ sáng tác
nhiều bài sám nguyện thật hay, nhưng bằng chữ Nôm, một thứ
chữ khó hơn chữ Hán, nên không thể phổ biến sâu rộng được
trong giới bình dân. Tình trạng này kéo dài cho đến đầu thế kỷ
XX, có ba tờ báo Phật giáo rất có giá trị ra đời - tờ Đuốc Tuệ
ở Bắc, tờ Hải Triều Âm ở Trung, và tờ Từ Bi Âm ở Nam - được
viết bằng Việt ngữ. Trong những số báo đó, có nhiều bài bình
luận về giáo lý của Phật, thơ đạo, dĩ nhiên có nhiều đoạn kinh
được dịch từ Hán văn cũng được đăng tải. Cách diễn dịch,
miêu tả hay chấm phết theo tinh thần Tây phương, người đọc
cảm thấy thoải mái và dễ hiểu. Đến đây được xem như khúc
quanh lớn trong văn học Phật giáo Việt Nam. Từ Trung, Nam,
6
LỜI DẪN NHẬP
Bắc có nhiều kinh, sách, báo ra đời, viết bằng Việt ngữ. Đặc
biệt về kinh tụng, chúng ta thấy: Khóa Tụng Bồ Đề do Chùa
Bà Đá, Hà Nội ấn hành năm 1938, Nhị Thời Nhật Tụng do
chùa Hòa Giai, Hà Nội ấn hành năm 1950, Nghi Thức Tụng
Niệm Việt ngữ do Hòa thượng Thích Trí Hải biên soạn, ấn
hành tại Hà Nội năm 1950. Tại miền Nam, quyển Tam Bảo, do
Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch âm và nghĩa, Liên Hải Phật
Học Đường xuất bản năm 1949. Sau đó vài tháng, quyển Tam
Bảo Thường Thức, ai soạn không đề tên, Hòa thượng Trường
Thạnh chứng minh. Quyển này, chỉ có dịch âm, không có dịch
nghĩa, và có nhiều bài sám nguyện bằng Việt ngữ phụ đính ở
sau. Hai quyển này là căn bản kinh tụng cho các chùa ở miền
Nam sau này. Đến năm 1960, Kinh Nhật Tụng do Phật Học
Đường Nam Việt ấn hành, không đề tên ai soạn, có lẽ do Hòa
thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa thượng Trí
Quang, Hòa thượng Phước Huệ, và Thượng tọa Nhất Hạnh
chủ trương. Các nghi thức được trình bày trong quyển nầy
ngắn gọn, có phần canh tân, phần cúng hương, kỳ nguyện, và
quán tưởng Phật bằng Việt ngữ, phần kinh tụng vẫn là tiếng
Hán Việt, nhưng thỉnh thoảng xen vào một vài bài sám nguyện
bằng Việt ngữ rất hay, như bài Sám Vu Lan, sám Phát Nguyện,
và bài Sám Hối Phát Nguyện… không đề tên ai sáng tác, và
bài Khuyến Tu của Thầy Trí Hiền, văn hết sức hay. Đọc xong,
chả muốn làm gì cả.
Nghi thức tụng niệm của Phật Giáo Việt Nam tuy có chuyển
mình từ tiếng Hán Việt ra Việt ngữ, có tiến bộ, nhưng chỉ trong
phạm vi nhỏ hẹp, trong một vài Phật Học đường, hay những
chùa ở tỉnh thành, còn các chùa ở miền quê, hay những chùa
thuộc các tông phái khác đều có nghi thức tụng niệm riêng.
Nhưng nội dung kinh tụng, cầu siêu vẫn là Kinh Di Đà, cầu an
vẫn là Kinh Phổ Môn, vân vân, bằng tiếng Hán Việt. Từ năm
7
LỜI DẪN NHẬP
1975, Phật tử di cư ra nước ngoài tụng niệm theo nghi thức
nào, và như thế nào?
Cũng giống như trong nước vậy, mỗi chùa có mỗi nghi thức
khác nhau. Nhưng có hai quyển nghi thức được nhiều chùa ở
ngoại quốc dùng nhiều nhất đó là quyển Nghi Thức Tụng Niệm
của Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam, do Hội Phật Học Nam Việt
ấn hành. Nay, được Tự Viện Linh Sơn ở Pháp và Phật Học
Viện Quốc Tế ở Los Angeles tái bản. Quyển thứ hai là Chư
Kinh Nhật Tụng và nghi thức thông dụng, xuất xứ từ Kinh Nhật
Tụng đã nói trên, được Hòa thượng Thiên Ân thêm hay bớt
những phần không cần thiết, phóng lớn ra và tái bản, để đáp
ứng nhu cầu cho nhiều chùa Việt Nam trên thế giới, sau năm
1975. Đến năm 1983, vì nhu cầu quá nhiều, quyển Chư Kinh
Nhật Tụng được Chùa Phật Tổ tái bản, và thêm Kinh Kim
Cang, Kinh Báo Hiếu, Kinh Vu Lan và nhiều bài Sám. Kỹ thuật
in tốt, rõ ràng, nên được đa số Phật tử chiếu cố. Hiện nay,
Chùa không còn một quyển để tụng. Cũng quyển Chư Kinh
Nhật Tụng nầy, nay được Phật Học Viện Quốc Tế in lại. Nội
dung cũng giống như Chùa Phật Tổ in trước đây, không có gì
mới lạ (2).
Qua lời phi lộ trên đây, độc giả biết sơ qua Nghi Thức Tụng
Niệm của Phật Giáo Việt Nam đã chuyển biến qua từng giai
đoạn. Thành thật mà nói, có một sự hình thành đổi mới qua
từng giai đoạn, nhưng đà tiến triển quá chậm chạp, không theo
kịp nhịp tiến hóa của xã hội văn minh hiện nay. Trước nhu cầu
thiết yếu của giới Phật tử hải ngoại, ngôn ngữ phải được rõ
ràng, không có thì giờ để chơi chữ. Trước sức lớn mạnh của
dân tộc, không thể nào khép mình trong cái “kẹt” của văn tự.
Do đó, tôi cố gắng hết sức mình, trong khả năng học vấn thô
8
LỜI DẪN NHẬP
thiển, mạo muội dịch và soạn tất cả 16 NGHI THỨC TỤNG
NIỆM HẰNG NGÀY của hai giới Xuất Gia và Tại Gia. Đây là
quyển Nghi Thức Tụng Niệm đầu tiên đầy đủ nhất bằng Việt
ngữ của Phật Giáo Việt Nam. Về nội dung quyển NGHI THỨC
TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY nầy giống như quyển Chư Kinh
Nhật Tụng và Các Nghi Thức Thông Dụng mà quý vị đã trì
tụng từ trước đến nay. Có khác là quyển NGHI THỨC TỤNG
NIỆM HẰNG NGÀY hoàn toàn bằng Việt ngữ, là tiếng của mẹ
Việt Nam, từ đầu quyển kinh cho đến hết, từ bài Nguyện Hương
cho đến Tự Quy Y, trong suốt 17 Nghi Thức, và những bài phụ
đính như 12 câu nguyện của Đức Quán Thế Âm, 48 lời nguyện
của Đức Phật A Di Đà, và nhiều bài Sám Nguyện của Chư Tổ
đều được dịch ra Việt ngữ. Cú pháp rõ ràng, lời văn bình dị,
âm điệu nhẹ nhàng thanh thoát để tất cả mọi người tụng niệm
lãnh hội được ý nghĩa một cách dễ dàng. Hoàn toàn không có
đoạn Hán Việt, chen vào một đoạn Việt ngữ như trong một vài
quyển Nghi Thức Tụng Niệm vào buổi giao thời. Dĩ nhiên,
trong lãnh vực nào cũng có một số danh từ đặc biệt của lãnh
vực đó. Muốn hiểu tường tận, độc giả phải làm quen một thời
gian mới hiểu rõ được. Đặc biệt về Phật học, môn học có trước
kỷ nguyên Dương Lịch, đồng thời với tiếng Hán Việt, đã thấm
nhuần vào tư tưởng và ngôn ngữ Việt Nam. Tuy quyển Kinh
nầy hoàn toàn bằng Việt ngữ, nhưng một số danh từ Hán Việt
đã được Việt hóa lâu đời, nên dịch giả vẫn để nguyên như là
tiếng mẹ Việt Nam nguyên chất vậy. Nếu dịch ra, khi tụng niệm,
âm thanh nghe không được chỉnh.
Tôi cũng xin thưa cùng chư Tôn Đức Tăng, Ni và Phật tử
bốn phương rõ, về phương pháp dịch thuật và sắp xếp. Thoạt
tiên, tôi nghĩ là dịch ra văn vần hết, Phật tử tụng dễ nhớ, nhưng
nghĩ lại có một vài điều không hay. Những kinh nghĩa lý sâu
xa như Bát Nhã, Kim Cang, khi dịch dùng thể văn xuôi diễn đạt
9
LỜI DẪN NHẬP
chưa lột hết ý nghĩa kinh, nếu dùng văn vần e khó diễn đạt hết
ý nghĩa sâu xa của Phật. Do đó, kinh văn vần, tôi dịch ra văn
vần, văn xuôi, tôi dịch ra văn xuôi. Vả lại, nếu dịch ra văn vần
hết cả, e rằng không tránh khỏi mùi vị cải lương.
Khi dịch tôi nhớ lời dạy của chư Tổ: “y kinh giải nghĩa,
tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự, tức đồng ma thuyết.” Qua
bao năm trở ngại, tôi cố gắng hết sức, đôi khi muốn bỏ cuộc
chỉ vì một vài câu mất cả tháng trời, dịch thì được, nhưng chả
có khí văn; không phải không hiểu ý kinh, nhưng không tìm ra
từ để diễn đạt. Nếu căn cứ vào nghĩa của từng câu từng chữ để
dịch, như câu: “thân phi nhứt lủ” trong nghi thức Quá Đường,
nếu dịch “thân mang 1 sợi chỉ”, khi phục nguyện, quý thầy
chắc không khỏi bụm miệng. Có nhiều câu trong Hán văn, tác
giả đi quá trớn, như đoạn: “hồi hướng Tam Bảo chúng long
thiên, thủ hộ Già Lam chư Thánh chúng” – thiên là trời, trời
có thể gìn giữ đất chùa, rồng là con vật của tiền sử, có ai thấy
đâu, rồng được giữ đất chùa (già lam), được người tụng kinh
hồi hướng công đức để đền ơn. Ngày xưa, động đất
(earthquake), các cụ không biết, cho là cù dậy. Cũng theo như
quan niệm xưa, tu chưa thành thì làm cù nằm trong lòng đất,
khi thành rồng thì được bay lên trời. Đây không phải là bài
bình luận văn chương, hay phê bình trúng trật, dịch giả chỉ
đưa ra một vài điều khó khăn trong khi dịch cho có chút xíu
ánh sáng khoa học. Còn nhiều chỗ nữa, không dám nói nhiều,
sợ tội.
Còn về các thần chú thì sao? - Cả sự huyền bí và phức tạp.
Phức tạp ở chỗ, khi Phật tử Việt Nam tụng, người Ấn Độ, Trung
Hoa, ngay cả người Việt Nam có học chữ Nho, không biết quý
vị tụng tiếng gì, chỉ có quý Thầy thuộc lòng chú, mới biết quý
vị tụng chú mà thôi. Từ trước đến nay, Phật tử tụng chú, không
10
LỜI DẪN NHẬP
theo nghĩa (đã là chú không ai dịch nghĩa, vì là mật ngôn), lại
không theo âm vận của tiếng Sanskrit, mặc dầu tất cả chú đều
được sáng tác bằng tiếng Sanskrit. Người Trung Hoa dịch âm
ra tiếng của họ (đồng với chữ Hán hay chữ Nho của chúng ta).
Họ tụng, âm vận gần tiếng Sanskrit hơn người Việt, vì người
Việt tụng theo âm tiếng Hán Việt. Ngay người Trung Hoa, một
chữ viết giống nhau, như chữ 食, nhưng phát âm lại khác nhau.
Người Quảng Đông phát âm “Sực 食” không giống người Hải
Nam phát âm “chía 食”, lại khác với tiếng Phổ Thông
(Mandarin) là “sư 食” và Việt Nam là “thực 食” vân vân (3).
Vả lại, chúng ta không biết những vị dịch ra như Ngài Nghĩa
Tịnh, Ngài Huyền Trang vân vân, thuở xưa phát âm theo miền
nào, chỉ biết các ngài ở Trường An mà thôi. Người Việt đọc
tiếng Hán Việt có nhiều âm na ná với tiếng Trung Quốc. Do
đó, sự tụng niệm kinh chú của Phật Giáo đồ Việt Nam là một
vấn đề nan giải cho những người có trách nhiệm. Sau đây tôi
xin nêu chú Chuẩn Đề, về cách phát âm giữa Phật tử Việt Nam
và Phật tử Trung Quốc, và cách phát âm mới bằng Việt ngữ,
được viết trực tiếp từ tiếng Sanskrit, không phiên âm qua tiếng
Hán Việt, để quý vị có cái nhìn trung trực, đâu là trúng và đâu
là sai:
Nguyên văn chữ Sanskrit:
“Namo bhagavate bhaisajyaguru-vaidurya prabhàràjàya
tathàgatàya arhate samyak-sambuddhàya tadyathà. Om
bhaisajye bhaisajye bhaisajya-samudgate svàhà.”
Âm của người Trung Hoa:
“Na mwo bwo chye fa di, bi sha she, jyu lu bi lyou li, bwo
la pwo, he la she ye, da two jye dwo ye, e la he di, san myau
san pu two ye, da jr two. Nan, bi sha shr, bi sha shr, bi sha she,
san mwo jye di swo he.”
11
LỜI DẪN NHẬP
Đọc theo âm tiếng Hán Việt:
“Nam mô Bạt dà phạt đế, bệ sát xả lu lô thích lưu ly, bát
lặt bà hắt ra xà dã, đát tha yết đa da, a ra ha đế, tam miệu tam
bột đà da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã, tam
một yết đế tá ha.”
Đọc theo âm Việt ngữ, dịch thẳng từ tiếng Sanskrit, không
qua tiếng Hán Việt:
“Na mô bha ga va tê, bhai sát gia gu ru- vai đu ri da, pra
bha ra gia da, ta tha ga ta da, a ra ha tê, sam dát sam bút đa
da, ta dy da tha, Um, bhai sát giê, bhai sát giê, bhai sát gia,
sam mu ga tê soa ha” (4).
Nghĩa của Chú Chuẩn Đề: (chỉ tạm dịch thôi, đã là chơn
ngôn, mật ngữ không nên dịch, để vậy tụng có nhiều công năng
hơn.)
“Con xin tỏ lòng tôn kính Đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương Như Lai, bậc A La Hán, bậc Giác Ngộ Tối Thượng, xin
cầu nguyện cho sự trị bệnh, xin cầu nguyện cho sự trị bệnh, và
xin được sự trị bệnh tối thắng của Đức Dược Sư.”
Qua sự so sánh trên, độc giả thấy cách đọc theo âm Việt
ngữ thật sát với âm vận của tiếng Sanskrit. Người có học
Sanskrit, nghe Phật tử tụng là biết Sanskrit ngay. Tôi có tụng
thử cho Thầy Lokananda, người Ấn Độ nghe. Sau khi nghe,
Thầy ấy khen tiếng Việt Nam thật đầy đủ âm vận, một ngôn ngữ
âm thanh uyển chuyển dễ truyền cảm. Qua những thắng điểm
vừa nêu trên, cần phải có sự sửa đổi cách phát âm các Thần
Chú. Tôi xin mạnh dạn đề nghị, nên có một đại hội Văn Hóa
Phật Giáo Việt Nam toàn thế giới để chư Tôn Đức, chư thức
giả Phật giáo đồng thanh phiên âm các thần chú từ tiếng
Sanskrit ra thẳng âm Việt ngữ, không phải qua tiếng Hán Việt
như từ trước đến giờ, và để sửa đổi một vài chỗ không thống
12
LỜI DẪN NHẬP
nhất trong kinh tụng hằng ngày, khi thì Quán Tự Tại Bồ Tát,
khi thì Quán Thế Âm Bồ Tát vân vân, để đánh dấu một bước
tiến mạnh, tiến đúng mức của Phật Giáo Đồ Việt Nam. Mong
thay!
Còn cách tụng niệm các thần chú trong quyển NGHI THỨC
TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY nầy thì sao? – Xin thưa, biết sở
trường và sở đoản vừa nêu trên, nhưng dịch giả không dám
làm, vì những lý do như sau:
1. Không có sự đồng ý của đại đa số chư Tôn Giáo Phẩm,
và Phật tử bốn phương, e rằng khổ công làm ra chỉ gây xáo
trộn đức tin thiêng liêng của toàn thể quý vị.
2. Chờ sự tán đồng của đại đa số quý vị. Tuy chưa thực
hiện được trong quyển NGHI THỨC TỤNG NIỆM HẰNG
NGÀY nầy, nhưng dịch giả vẫn thao thức.
Đây không phải là một tác phẩm vĩ đại, chỉ là sự sưu tập,
dịch thuật, nhưng là NGHI THỨC CĂN BẢN, sự tiến bộ phi
thường để đánh dấu khúc quanh quan trọng trong giai đoạn
chuyển tiếp - từ cách tụng niệm bằng âm tiếng Hán Việt ra
cách tụng niệm bằng tiếng Việt nguyên chất – Dĩ nhiên, ở giai
đoạn đầu, chắc quý vị cũng như chúng tôi cảm thấy bỡ ngỡ khi
tụng niệm bằng tiếng Việt, nhưng về lâu về dài cảm thấy thích
hợp hơn. Vả lại, con em của chúng ta ở hải ngoại nói tiếng Việt
không rành, làm sao chúng hiểu được ý nghĩa kinh, khi vào
Chùa tụng niệm.
Trên cương vị dịch giả, soạn giả, tác tạo văn hóa, để đóng
góp vào vườn văn học Việt Nam, nên tôi nêu lên một vài điểm
có thể đúng, và có thể sai. Ngưỡng mong các vị thức giả chỉ
13
LỜI DẪN NHẬP
giáo cho, để khi tái bản được hoàn hảo hơn. Nhưng trên đường
giác ngộ, giải thoát, như lời Phật dạy:
“Nếu dùng sắc thấy ta
Dùng âm thinh cầu ta
Người ấy tu đạo tà
Chắc là không thấy ta.”
Hay là :
“Tất cả các pháp hữu vi
Như là mộng huyễn, khác chi bóng hình
Như sấm chớp, như âm thinh
Quán xem các pháp như hình ‘không hoa’.”
Có gì đâu…
Trước khi dứt lời, xin dâng lên chư Tôn Đức, Tăng Ni đã chỉ
dạy, đã dịch thuật, đã sáng tác, hay các Phật tử xa gần, hoặc
trực tiếp hay gián tiếp giúp tôi hoàn thành quyển NGHI THỨC
TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY nầy. Kính dâng công đức lên quý
vị hiện tiền được vạn sự an lành, và vạn duyên thắng ý.
Cầu nguyện hương linh Nguyễn Văn
Xướng, Huỳnh Thị Thâu, và toàn thể
chúng sanh, một thời đồng giác ngộ,
giải thoát.
Mùa Vu Lan 2532 – 1988
Sa Môn THÍCH THIỆN THANH
14
LỜI DẪN NHẬP
Ghi Chú :
(1) Trong quyển The Hindu Colonies of the Far East, theo
giáo sư R.C. Majumdar (Ramesh Chandra Majumdar), vào đầu
thế ký I, trước kỷ nguyên Tây lịch, có một số tu sĩ Ấn Độ giáo
và Phật giáo sang Champa, miền Trung Việt Nam, dạy người
Việt tụng Kinh bằng tiếng Sanskrit. Và vào đầu thế kỷ thứ VIII,
quân Hồi giáo tràn ngập xứ Ấn, có một số giáo sĩ lánh nạn sang
Na Khom Ba Thủm (Thái Lan), Camponsom (Cambodia), và
Chân Lạp (nay là các tỉnh miền Tây Nam Phần), có dạy tiếng
Sanskrit cho người địa phương. Cả hai lần đó đều không thành
công, vì ngôn ngữ cũng như văn hóa của người Việt đã ảnh
hưởng văn hóa người Trung Hoa rất nhiều.
(2) Đây không phải là bài phê bình văn học Phật giáo vào
thời chuyển tiếp, chỉ là lời dẫn nhập ngắn gọn, nguyên lũy, một
vài quyển Nghi Thức Tụng Niệm có trực tiếp hoặc gián tiếp
đến quyển NGHI THỨC TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY nầy mà
thôi. Vả lại, thư viện di cư nghèo nàn của Chùa Phật Tổ không
cho phép tôi viết gì đầy đủ hơn.
(3) Xin đọc theo tiếng Việt cho dễ phát âm.
(4) Xin đọc chữ « v » theo giọng của người miền Bắc.
Những phụ âm ghép, như bh, pr, xin đọc liền nhau, nếu có
nguyên âm ghép vào, xin đọc như Việt ngữ.
15
LỢI ÍCH
TỤNG KINH NIỆM PHẬT
Tụng Kinh Niệm Phật (Tụng là đọc, Niệm là nhớ) là
miệng đọc tâm nhớ, tâm và miệng hợp nhất, nhất tâm đọc
và nhớ lời Kinh và Danh Hiệu của Phật.
Tụng Kinh Niệm Phật của hàng xuất gia hay tại gia để
tỉnh thức tâm linh, và kiến tạo cho chính mình một cuộc
sống an hòa. Lợi ích của sự Tụng Kinh Niệm Phật – ngoài
công đức cho kẻ còn người mất – còn nói lên NẾP SỐNG
ĐẠO. Nếp sống cố hữu của tổ tiên chúng ta là Tụng Kinh
Niệm Phật để tích phước cho con cháu, mai nầy chúng sẽ
được phú quý vinh hoa. Hơn nữa, sự Tụng Kinh Niệm Phật
còn đem lại nhiều lợi ích thiết thực như sau :
∗ Tụng Kinh Niệm Phật giữ cho tâm được an lành, để
dễ cảm thông với các Đấng Thiêng Liêng. Tụng Niệm rất
dễ dàng huân tập các điều suy nghĩ tốt vào tâm thức.
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để ôn lại những lời dạy của
Phật. Lấy đó làm kim chỉ nam cho nếp sống đạo.
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để giữ cho thân, miệng và ý
được thanh tịnh, trang nghiêm và chính đáng.
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để cầu an, thì nghiệp
chướng tích lũy trong nhiều đời nhiều kiếp sẽ dứt trừ, và
tránh được những tai ương hạn ách có thể xảy ra trong
bất cứ lúc nào.
16
LỢI ÍCH TỤNG KINH NIỆM PHẬT
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để cầu siêu, nhờ sức chú
nguyện thanh tịnh, hoán đổi tâm niệm xấu của người chết
đã tạo, giúp họ xa lìa cảnh giới tối tăm, và được sanh về
thế giới An Lạc.
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để tỏ lòng ăn năn sám hối
trước Phật đài, và kể từ nay, tâm niệm của mình được
thanh tịnh, nghiệp chướng khổ đau không còn nữa.
∗ Tụng Kinh Niệm Phật để Pháp Âm ngân vang, để
cảnh tỉnh trần thế mê hoặc, và cảm hóa mọi người đang
sống trong cảnh u tối lầm than.
Vì những lợi ích trên, người đã tin Phật phải tụng kinh
niệm Phật, và tụng niệm cho đúng cách. Khi tụng niệm
nên giữ cho trang nghiêm, tránh mọi sự ồn ào phức tạp,
tránh mọi điều làm kích động tâm ý, đắm lợi mê danh,
tham luyến trần tục. Chỉ tụng niệm trước Tam Bảo, trong
Đạo Tràng thanh tịnh, hoặc nơi trang nghiêm, hoặc nơi
thích hợp chính đáng, không nên tụng niệm trước chỗ thờ
quỷ thần, cúng cá thịt, đốt vàng mã theo tục lệ mê tín dị
đoan, không thích hợp với Phật Pháp.
17
ĐỨC NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT
18
NGHI THỨC
CÔNG PHU KHUYA
[Kinh Lăng Nghiêm (Sùramgama Sùtra)]
GỒM CÓ :
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Kinh Lăng Nghiêm
∗ Đại Bi và Thập Chú
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Hồi Hướng Công Đức
∗ Sám Quy Mạng
∗ Tán Lễ
∗ Tam Quy
DÙNG CHO:
Người chân tu, trong đêm khuya vắng vẻ, trì tụng để dứt
hết oan khiên, nghiệp chướng sâu dày, đã tác tạo lũy kiếp
về trước. Hơn nữa người nhiều tối tăm, u mê ám chướng,
trì tụng nhiều Thần Chú sẽ được sáng láng minh mẫn, đời
sống được an lành hạnh phúc, không bị tà ma nhiễu hại.
19
CÔNG PHU KHUYA
Nghi Thức
CÔNG PHU KHUYA
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
20
CÔNG PHU KHUYA
CÚNG HƯƠNG
Nguyện dâng hương mầu nầy
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, chư Bồ Tát
Thinh Văn và Duyên Giác
Cùng các bậc Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Khắp xông mười phương cõi
Tỏa ngát các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ Đề
Xa lìa các vọng nghiệp
Trọn nên Đạo Vô Thượng
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma
Ha Tát, tác đại chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Đệ tử chúng con nguyện thập phương
thường trú Tam Bảo, Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà
Phật, từ bi gia hộ chúng con, bồ đề tâm
21
CÔNG PHU KHUYA
kiên cố, tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn, cùng pháp giới chúng sanh, một thời
đồng chứng vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
22
CÔNG PHU KHUYA
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
23
CÔNG PHU KHUYA
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
KINH LĂNG NGHIÊM
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG
PHẬT BỒ TÁT.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Tâm Chánh Định như như bất động
Phật Ba Thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
Vô minh dứt sạch, chứng liền Pháp Thân.
Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Độ chúng sanh như cát Sông Hằng
Thân, tâm nầy nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
(1 tiếng chuông)
24
CÔNG PHU KHUYA
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Đời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng Vô Sanh Niết
Bàn.
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn, phiền
Để sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi Đạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay
(1 tiếng chuông)
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
25
CÔNG PHU KHUYA
Lúc bấy giờ, từ nhục kế của Phật phóng
ra hào quang trăm báu với hoa sen ngàn
cánh. Trong mỗi hoa sen, có Hóa Phật
ngồi, từ đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo
hào quang trăm báu. Mỗi đạo hào quang
hiện ra nhiều Thần Kim Cang Mật Tích,
ông bưng núi, ông cầm xử vân vân, đứng
khắp cõi hư không. Đại chúng trông thấy,
vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót
che chở, và một lòng lắng nghe Phật nói
thần chú:
(1 tiếng chuông)
ĐỆ I
Nam mô tát đát tha tô già đa da a ra ha
đế tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha
Phật đà câu tri sắc ni sam. Nam mô tát bà
bột đà bột địa, tát đa bệ tệ. Nam mô tát đa
nẩm tam miệu tam bồ đà cu tri nẩm. Ta xá
ra bà ca tăng già nẩm. Nam mô lô kê a la
hán đa nẩm. Nam mô tô lô đa ba na nẩm.
26
CÔNG PHU KHUYA
Nam mô ta yết rị đà già di nẩm. Nam mô
lô kê tam miệu già đa nẩm, tam miệu già
ba ra để ba đa na nẩm. Nam mô đề bà ly
sắt nỏa. Nam mô tất đà da tỳ địa da đà ra
ly sắt nỏa. Xá ba noa yết ra ha ta ha ta ra
ma tha nẩm. Nam mô bạt ra ha ma ni. Nam
mô nhơn đà ra da. Nam mô bà già bà đế,
lô đà ra da, ô ma bát đế, ta hê dạ da. Nam
mô bà già bà đế, na ra dả noa da, bàn giá
ma ha tam mộ đà ra. Nam mô tất yết rị đa
da. Nam mô bà già bà đế, ma ha ca ra da,
địa rị bác lặc na già ra, tỳ đà ra ba noa ca
ra da, a địa mục đế, thi ma xá na nê bà tất
nê, ma đát rị già noa. Nam mô tất yết rị đa
da. Nam mô bà già bà đế, đa tha già đa cu
ra da. Nam mô bát đầu ma cu ra da. Nam
mô bạt xà ra cu ra da. Nam mô ma ni cu ra
da. Nam mô già xà cu ra gia. Nam mô bà
già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha
ra noa ra xà da, đa tha già đa da. Nam mô
bà già bà đế, nam mô a di đa bà da, đa tha
dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà
27
CÔNG PHU KHUYA
da. Nam mô bà già bà đế, a sô bệ da, đa tha
già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà
da. Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da, cu lô
phệ trụ rị da, bát ra bà ra xà da, đa tha già
đa da. Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư bí
đa tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da,
a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam
mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa
tha già đa tha, a ra ha đế, tam miệu tam bồ
đà da. Nam mô bà già bà đế, lặc đác na kê
đô ra xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế,
tam miệu tam bồ đà da. Đế biều, nam mô
tát yết rị đa, ế đàm bà già bà đa, tát đác tha
già đô sắc ni sam, tát đác đa bác đác lam.
Nam mô a bà ra thị đam, bác ra đế vương
kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha, ni yết ra ha
yết ca ra ha ni bạc ra bí địa da sất đà nể, a
ca ra mật rị trụ, bát rị đát ra da nảnh yết
rị, tát ra bà bàn đà na mục xoa ni, tát ra bà
đột sắc tra, đột tất phạp bát na nể phạt ra
ni, giả đô ra thất đế nẩm. Yết ra ha ta ha
tát ra nhã xà, tỳ đa băng ta na yết rị, a sắc
28
CÔNG PHU KHUYA
tra băng xá đế nẩm, na xoa sát đác ra nhã
xà, ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẩm, ma
ha yết ra ha nhã xà, tỳ đa băng tát na yết
rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhã xà, hô lam
đột tất phạp nan giá na xá ni, bí sa xá tất
đác ra, a kiết ni ô đà ca ra nhã xà, a bát ra
thị đa cu ra ma ha bác ra chiến trì, ma ha
điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xà bà
ra, ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nể a rị da
đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạc xà ra
ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đà dõng ca, bạt xà
ra chế hắt na a giá, ma ra chế bà bác ra
chất đa, bạc xà ra thiện trì, tỳ xá ra giá,
phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba,
ma ha thuế đa, a rị da đa ra, ma ha bà ra a
bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà, bạt
xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc
tát đa giá, tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca,
khuất tô mẫu bà yết ra đa na, bệ lô giá na
cu rị da, dạ ra thố sắt ni sam tỳ chiết lam
bà ma ni giá, bạt xà ra ca na ca ba ra bà,
lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thuế đa giá
29
CÔNG PHU KHUYA
ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu
đà ra yết noa, ta bệ ra sám, quật phạm đô,
ấn thố na mạ mạ tỏa.
(1 tiếng chuông)
ĐỆ II
Ô hồng, rị sắt yết noa, bác lặc xá tất đa,
tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng, đô
lô ung chiêm bà na. Hổ hồng, đô lô ung tất
đam bà na. Hổ hồng, đô lô ung ba ra sắc
địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng, đô
lô ung, tát bà dược xoa hắt ra sát ta, yết ra
ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ
hồng, đô lô ung, giả đô ra thi để nẫm, yết
ra ha, ta ha tát ra nẫm, tỳ đằng băng tát na
ra. Hổ hồng, đô lô ung, ra xoa, bà già phạm
tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà
kiết rị, ma ha ta ha tát ra, bột thọ ta ha tát
ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế lệ, a tệ đề
thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô
đà ra, đế rị bồ bà na, man trà ra; ô hồng,
30
CÔNG PHU KHUYA
ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ ấn thố na mạ
mạ tỏa.
(1 tiếng chuông)
ĐỆ III
Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ ni bà dạ,
ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tát đa ra bà
dạ, bà ra chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa
bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật rị trụ bà
dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ,
ô ra ca bà đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ,
na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ, tô ba ra noa
bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra
ha, tất rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha,
bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, bổ
đơn na yết ra ha, ca tra bổ đơn na yết ra
ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết
ra ha, ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra
ha, hê rị bà đế yết ra ha, xã đa ha rị nẩm,
yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, mang
ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha rị
31
CÔNG PHU KHUYA
nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỷ đa ha rị nẩm, tỳ
đa ha rị nẩm, bà đa ha rị nẩm, a du giá ha
ri nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ sam,
tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ
di, kê ra dạ di, ba rị bạt ra giả ca hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,
trà diễn ni hất rị đởm, ty đà dạ xà, sân đà
dạ di, kê ra dạ di, ma ha bát du bác đát dạ,
lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ
di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất ri đởm, ty
đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di, đát đỏa
già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân
đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị
già noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ
di, kê ra dạ di, ca ba rị ca hất rị đởm, tỳ đà
dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di, xà dạ yết
ra, ma độ yết ra tát bà ra tha ta đạt na hất
rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ
di, giả đốt ra bà kỳ nể hất rị đởm, tỳ đà dạ
xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương
hất rị tri, nan đà kê sa ra, dà noa bác đế,
sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà
32
CÔNG PHU KHUYA
dạ di, kê ra dạ di, na yết na xá ra bà noa
hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra
dạ di, a la hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân
đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ di, kê ra dạ di,
bạt xà ra ba nể, cu hê dạ cu hê dạ, ca địa
bát đế hất rị đởm, tỳ đà dạ xà, sân đà dạ
di, kê ra dạ di, ra thoa vỏng, bà dà phạm,
ấn thố na mạ mạ tỏa.
(1 tiếng chuông)
ĐỆ IV
Bà già phạm, tát đát đa bác đác ra, nam
mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba ra bà
tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bát đế rị, thập
Phật ra thập Phật ra, đà ra đà ra, tần đà
ra tần đà ra sân đà sân đà. Hổ hồng hổ
hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn
tra, phấn tra, ta ha, hê hê phấn, a mâu ca
da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra ba
ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát
33
CÔNG PHU KHUYA
bà đề bệ tệ phấn, tát bà na già tệ phấn, tát
bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ
phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ
đơn na tệ phấn, tát bà đột lang chỉ đế tệ
phấn, tát bà đột sáp tỷ lê hất sắc đế tệ
phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá
tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ
phấn, tát bà địa đế kê tệ phấn, tát bà đát
ma đà kê tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thệ giá
lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà
ra tha ta đà kê tệ phấn, tỳ địa dạ, giá lê tệ
phấn, giả đô ra, phược kỳ nể tệ phấn, bạt
xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma
ha ba ra đinh dương xoa tỳ rị tệ phấn, bạt
xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra
xà da phấn, ma ha ca ra da, ma ha mạt đát
rị ca noa. Nam mô ta yết rị đa dạ phấn, tỷ
sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ
phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ
phấn, yết ra đàn trì duệ phấn, miệc đát rị
duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà
duệ phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bác
34
CÔNG PHU KHUYA
rị duệ phấn, a địa mục chất đa ca thi ma
xá na bà tư nể duệ phấn, diễn kiết chất, tát
đỏa bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
(1 tiếng chuông)
ĐỆ V
Đột sắc tra chất đa, a mạt đát rị chất đa,
ô xà ha ra, già bà ha ra, lô địa ra ha ra, ta
bà ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thị tỷ
đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra,
bố sử ba ha ra, phả ra ha ra, bà tỏa ha ra,
bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà
ra chất đa, dược xoa yết ra ha, ra sát ta yết
ra ha, bế lệ đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha,
bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết ra ha, tất
kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa
dạ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha, trạch
khê trách trà kỳ ni yết ra ha, rị Phật đế yết
ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha,
lao đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết
ra ha, kiền độ ba ni yết ra ha. Thập phạt
35
CÔNG PHU KHUYA
ra yên ca hê ca, tri đế dược ca, đát lệ đế
dược ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra,
tỷ sam ma thập phạt ra, bạc để ca, tỷ để ca,
thất lệ sắt mật ca, ta nể bác đế ra, tát bà
thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt
lô chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm,
yết rị đột lô kiềm, yết ra ha yết lam, yết noa
du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam,
mạt mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ
lật sắc tra du lam, ô đà ra du lam, yết tri
du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam,
thường già du lam, hát tất đa du lam, bạt
đà du lam, ta phòng án già bác ra trượng
già du lam, bộ đa tỷ đa trà, trà kỳ ni thập
bà ra, đà đột lô ca, kiến đốt lô kiết tri, bà
lộ đa tỳ tát bác lô, ha lăng già, du sa đát ra,
ta na yết ra, tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca,
mạt ra bệ ra kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt
đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ rị sắc chất
ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ, yết ra rị
dược xoa, đác ra sô, mạt ra thị, phệ đế sam
ta bệ sam, tất đát đa, bác đát ra, ma ha bạc
36
CÔNG PHU KHUYA
xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ
lam, dạ ba đột đà, xá dụ xà na, biện đát lệ
noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù bàn
đàm ca lô di, bát ra tỳ đà bàn đàm ca lô di,
đác điệt tha.
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà
rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn.
Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma
ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án,
tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị da,
bà lô kiết đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam
37
CÔNG PHU KHUYA
mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bàn đa sa
mế, tát bà a tha đậu thâu bằng, a thệ
dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt
đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca
đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa,
tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê rị
đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô
phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra
đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá
ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di
hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá
lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô
hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra,
tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ,
bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn
trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha.
Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà
ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà
ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta
bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha.
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết
ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất
38
CÔNG PHU KHUYA
đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra
dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta
bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn
ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra,
bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
THẬP CHÚ
1. CHÚ NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG
Nam mô Phật Đà Da
Nam mô Đạt Ma Da
Nam mô Tăng Già Da.
Nam Mô Quán Tự Tại Bồ Tát Ma Ha
Tát, cụ đại bi tâm giả, đát điệt tha. Án,
chiết yết ra phạt để, chấn đa mạc ni, ma ha
bát đẳng mế, rô rô rô rô, để sắc tra, thước
ra a yết rị, sa dạ hồng, phấn ta ha. Án, bát
đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng.
Án, bát lặc đà, bát đẳng mế hồng.
(1 tiếng chuông)
39
CÔNG PHU KHUYA
2. CHÚ TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẫm, a
bát ra để, hạ đa xá, ta nẳng nẩm, đát điệt
tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng
hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra
nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá,
để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra,
ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ
ha.
(1 tiếng chuông)
3. CHÚ CÔNG ĐỨC BẢO SƠN
Nam mô Phật Đà Da
Nam mô Đạt Ma Da
Nam mô Tăng Già Da.
Án tất đế hộ rô rô, tất đô rô, chỉ rị ba, kiết
rị bà, tất đạt rị, bố rô rị, ta phạ ha.
(1 tiếng chuông)
4. CHÚ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ
Khể thủ quy y tô tất đế, đầu diện đảnh
lễ thất cu chi, ngã kim xưng tán Đại Chuẩn
Đề, duy nguyện từ bi thùy gia hộ. Nam mô
40
CÔNG PHU KHUYA
tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đề, cu chi
nẩm, đát điệt tha. Án, chiết lệ chủ lệ,
Chuẩn Đề, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
5. CHÚ THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUYẾT
ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG
Án nại ma ba cát ngỏa đế, a ba ra mật
đạp, a ưu rị a nạp, tô tất nể, thiệt chấp đạp,
điệp tả ra tể dã, đát tháp cả đạt dã, a ra ha
đế, tam dược tam bất đạt dã, đát nể dã
tháp. Án tát rị ba, tang tư cát rị, bót rị
thuật đạp, đạt ra mã đế, cả cả nại, tang mã
ngột cả đế, ta ba ngỏa, tỷ thuật đế, mã hát
nại dã, bát rị ngỏa rị tá hát.
(1 tiếng chuông)
6. CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH
Nam mô bạt dà phạt đế bệ sát xả lụ lô
thích lưu ly, bát lặc bà hát ra xà dã, đát tha
yết đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà
41
CÔNG PHU KHUYA
da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ,
bệ sát xã, tam một yết đế tá ha.
(1 tiếng chuông)
7. CHÚ QUÁN ÂM LINH CẢM
Án ma ni bát di hồng, ma hát nghê nha
nạp, tích đô đặt ba đạt, tích đặt ta nạp, vi
đạt rị cát, tát nhi cáng nhi tháp, bốc rị tất
tháp cát, nạp bổ ra nạp, nạp bốc rị, thưu
thát ban nạp, nại ma lô kiết, thuyết ra da,
tá ha.
(1 tiếng chuông)
8. CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra
ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nể đế, ma ha dà đế,
chơn lăng càng đế, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
9. CHÚ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
đa địa dạ tha, a di rị đô, bà tỳ, a di rị đa,
tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di
42
CÔNG PHU KHUYA
rị đa, tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa
ca lệ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
10. CHÚ THIỆN THIÊN NỮ
Nam mô Phật Đà
Nam mô Đạt Mạ
Nam mô Tăng Già
Nam mô thất lỵ, ma ha để tỷ da, đát nể
dã tha, ba lỵ phú lầu na, giá lỵ tam mạn đà,
đạt xá ni, ma ha tỳ ha ra dà đế, tam mạn
đà, tỳ ni dà đế, ma ha ca rị dã, ba nể, ba ra,
ba nể, tát rị phạ lạt tha, tam mạn đà, tu bác
lê đế, phú lệ na, a rị na, đạt ma đế, ma ha
tỳ cổ tất đế, ma ha Di Lặc đế, lâu phả tăng
kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà,
a tha a nậu, đà la ni.
(1 tiếng chuông)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
43
CÔNG PHU KHUYA
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
44
CÔNG PHU KHUYA
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Đại chúng hiện tiền tâm thanh tịnh
Phúng tụng các Chú và Lăng Nghiêm
Hồi hướng công đức đến nhân, thiên
Có công gìn giữ tôn nghiêm Phật đường,
Xa lìa khổ: ba đường, tám nạn
Đền ơn sâu: thầy, tổ, vua, cha
Quốc gia thế giới an hòa
45
CÔNG PHU KHUYA
Can qua dứt sạch, cửa nhà yên vui.
(1 tiếng chuông)
Đại chúng gắng tu cầu giải thoát
Chóng lên bờ Chánh Giác dễ dàng
Ba môn dứt hết tai nàn
Người tin theo Phật phước càng thâm sâu.
Có thể biết sát trần tâm niệm
Có thể uống nước cả đại dương
Hư không có thể đo lường
Công Đức chư Phật vô phương nghĩ bàn.
Trong vũ trụ không ai hơn Phật
Mười phương xa không thể sánh bằng
Thế gian con thấy hết rằng
Tất cả không có ai bằng Thế Tôn.
(1 tiếng chuông)
Chúng con nguyền theo đấng Đạo Sư,
thầy dạy khắp trời, người, cha lành chung
bốn loại, hiện trăm ngàn hóa thân, Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
46
CÔNG PHU KHUYA
(1 tiếng chuông, đại chúng vừa niệm Bổn Sư vừa đi
kinh hành, khi đứng lại, niệm mỗi danh hiệu Bồ Tát 3
lần, 1 tiếng chuông).
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
SÁM QUY MẠNG
Quy mạng mười phương Vô Thượng Giác
Pháp mầu vi diệu đã tuyên dương
Thánh Tăng tứ quả tam thừa độ
Hiển hiện tay vàng nguyện xót thương.
Ngược dòng chơn tánh từ lâu
Chúng con trôi nổi trên đầu sông mê
Biết đâu là chốn đường về
Bập bềnh sóng nước không hề đoái lui
Nguyên nhân hữu lậu gây rồi
Bao nhiêu nghiệp chướng lâu đời tạo ra
47
CÔNG PHU KHUYA
Biết đâu nẻo chánh đường tà
Oan khiên nghiệp chướng thật là nặng
sâu
Nay con khẩn thiết cúi đầu
Phơi bày sám hối cần cầu hồng ân
Chí thành cầu đấng Năng Nhơn
Từ Bi cứu vớt trầm luân mọi loài
Nguyện cùng thiện hữu ra khơi
Cùng lên bờ giác lìa nơi não phiền
Kiếp này xin nguyện xây thêm
Cao tòa phước đức vững bền đạo tâm
Chờ mong đạo nghiệp vun trồng
Từ Bi cứu độ nở mầm tốt tươi
Kiếp sau xin được làm người
Sanh ra gặp Pháp sống đời chân tu
Dắt dìu nhờ bậc minh sư
Nương vào chánh tín, hạnh từ xuất gia
Lục căn tam nghiệp thuận hòa
Không vương tục lụy theo đà thế nhân
Một lòng tấn đạo nghiêm thân
Giữ gìn phạm hạnh nghiệp trần lánh xa
Oai nghi phong độ chói lòa
48
CÔNG PHU KHUYA
Lòng từ hộ mạng trước là vị sanh
Lại thêm đầy đủ duyên lành
Bao nhiêu tai nạn biến thành hư không
Bồ Đề nguyện kết một lòng
Đài sen Bát Nhã chơn không hiện tiền
Nhờ công tu tập tinh chuyên
Đại thừa liễu ngộ chứng truyền chơn tâm
Thoát ngoài kiếp ải trầm luân
Hoằng khai lục độ hạnh môn cứu người
Pháp tràng dựng khắp nơi nơi
Lưới nghi phá hết trong ngoài sạch không
Tà ma hàng phục đến cùng
Truyền đăng Phật pháp nối dòng vô
chung
Vâng làm Phật sự mười phương
Không vì lao nhọc nản đường tinh chuyên
Bao nhiêu diệu Pháp thâm uyên
Thảy đều thông đạt siêu nhiên độ mình
Rồi đem khắp độ chúng sanh
Chứng nên Phật quả hoàn thành Pháp
thân
Tùy cơ ứng biến cõi trần
49
CÔNG PHU KHUYA
Phân thân vô số độ dần chúng sanh
Nước từ rưới khắp nhân thiên
Mênh mông bể hận lời nguyền độ tha
Khắp hòa thế giới gần xa
Diễn dương diệu Pháp trước là hiện thân
Những nơi khổ thú trầm luân
Hào quang chiếu diệu hiện thân tốt lành
Chỉ cần thấy dạng nghe danh
Muôn loài thoát khỏi ngục hình đớn đau.
Phát lời nguyện ước cao siêu
(1 tiếng chuông)
Muôn ngàn khổ địa thảy đều tiêu tan
Bao nhiêu nghiệp trái hàm oan
Bao nhiêu đau khổ trong hàng súc sinh
Bao nhiêu thần lực oai linh
Sương tan núi biếc bình minh rạng ngời
Thuốc thang cứu cấp cho đời
Áo cơm cứu giúp cho người bần dân
Bao nhiêu lợi ích hưng sùng
An vui thực hiện trong vòng trầm luân
Bao nhiêu quyến thuộc thân an
Cùng nguyền vượt biển trần gian nổi chìm
50
CÔNG PHU KHUYA
Xa lìa ái nhiễm liên miên
Đoạn trừ những nỗi phược triền chơn
tâm
Vun trồng đạo nghiệp thiện nhân
Cùng bao loài khác phát tâm hướng về
Hư không dù có chuyển di
Nguyện con muôn kiếp chẳng hề lung lay
Nguyện cầu vạn pháp xưa nay
Hoàn thành trí nghiệp đến nơi Bồ Đề.
(1 tiếng chuông)
TÁN LỄ
Xưng tán Đức Thế Tôn
Đấng vô thượng Năng Nhơn
Từng trải vô lượng kiếp
Tu nhân lành giải thoát
Từ Đẩu Xuất giáng thần.
(1 tiếng chuông)
Giã từ ngôi quốc vương
Ngồi gốc Đại Bồ Đề
Phá hết chúng ma quân
51
CÔNG PHU KHUYA
Một sáng, sao Mai hiện
Chứng nên Đạo Bồ Đề
Liền chuyển bánh xe Pháp
Độ muôn loài chúng sanh
Hàng Tam Thừa quy ngưỡng
Đạo Vô Sanh viên thành.
Đại chúng đang quy ngưỡng
Đạo Vô Sanh sẽ thành
Bốn loài, chín cõi đồng về
Mười phương cõi Phật bốn bề trang nghiêm
Ba đường, tám nạn đảo điên
Nương vào “biển tuệ” vô biên sáng ngời.
(1 tiếng chuông)
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
52
CÔNG PHU KHUYA
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
53
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
54
NGHI THỨC
CẦU AN
[Phẩm Phổ Môn (Avalokitesvara varga)]
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Dương Chi
∗ Chú Đại Bi
∗ Kệ Khai Kinh
∗ Phẩm Quán Thế Âm (Phổ Môn)
∗ Ngợi Khen Đức Quán Âm
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Nguyện An Lành
∗ Sám Cầu An
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, gia đình bình an. Phật tử nên phân
biệt, Kinh Dược Sư để cầu nguyện cho được bình an, dứt hết những
tật bịnh từ thân thể mình có ra, như đau yếu, chiêm bao vân vân. Tụng
Phẩm Phổ Môn để được bình an, vượt thoát những tai nạn do hoàn
cảnh bên ngoài tạo nên, như đụng xe, bị cướp giựt vân vân.
55
NGHI THỨC CẦU AN
Nghi Thức
CẦU AN
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
( Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
56
NGHI THỨC CẦU AN
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng
dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát
Ma Ha Tát.
( 3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, đệ tử chúng con, phụng trì di
giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
trì tụng Phổ Môn Kinh Chú, xưng tán
Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng
nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia
hộ… (quý danh hay đệ tử chúng đẳng ), phiền não
dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường
được an lành, xa lìa khổ ách, cùng hết thảy
57
NGHI THỨC CẦU AN
chúng sanh, một thời đồng chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy, chỉ chủ lễ xướng)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
58
NGHI THỨC CẦU AN
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đại chúng đồng tụng)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
59
NGHI THỨC CẦU AN
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
60
NGHI THỨC CẦU AN
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
61
NGHI THỨC CẦU AN
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
62
NGHI THỨC CẦU AN
PHẨM PHỔ MÔN
PHẬT NÓI KINH PHÁP HOA
PHẨM PHỔ MÔN THỨ HAI MƯƠI LĂM
Nam Mô Pháp Hoa Hội Thượng
Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát, liền
từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo vai mặt,
chắp tay hướng Phật và bạch rằng: “Thế
Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhơn
duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”
(1 tiếng chuông)
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện
nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn
ức chúng sanh chịu các sự khổ não, thoáng
nghe Quán Thế Âm Bồ Tát, hay một lòng
xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát liền được
giải thoát. Nếu có người trì danh hiệu
63
NGHI THỨC CẦU AN
Quán Thế Âm Bồ Tát, dầu vào trong lửa
lớn, lửa chẳng cháy đặng, nhờ sức oai thần
của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi,
xưng danh hiệu Bồ Tát liền đặng đến chỗ
cạn. Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng
sanh vì tìm các thứ châu báu, như: vàng
bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ
phách, trân châu, vân vân, vào trong biển
lớn. Giả sử gió bão thổi ghe thuyền của kẻ
kia trôi tắp nơi nước của quỉ La Sát. Trong
số đó, nếu có một người xưng danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát, thời những người
kia đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La Sát. Do
nhơn duyên đó, tên là Quán Thế Âm.
(1 tiếng chuông)
Nếu lại có người sắp bị hại, xưng danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy
của người kia cầm gãy từng khúc, liền
đặng thoát khỏi. Nếu quỉ Dạ xoa cùng La
Sát đầy trong cõi Tam Thiên Đại Thiên
muốn đến hại người; nghe người xưng
64
NGHI THỨC CẦU AN
danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, các quỉ
đó không thể dùng mắt dữ nhìn người
huống lại làm hại đặng. Lại có người hoặc
có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng
xích, trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu
Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền
đặng thoát khỏi.
(1 tiếng chuông)
Nếu có người thương gia dắt đoàn người
buôn, mang theo nhiều của báu, đi ngang
qua đường hiểm trở, nhiều kẻ oán tặc.
Trong số đó, có một người nói rằng: “Các
thiện nam tử, chớ có sợ sệt! Các ông phải
nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế
Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó, hay đem pháp Vô
Úy, thí cho chúng sanh, nếu các ông xưng
danh hiệu Ngài sẽ được thoát khỏi nơi oán
tặc này.” Đoàn người buôn nghe xong, đều
xưng niệm: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ
Tát.” Nhờ xưng danh hiệu Bồ Tát, nên họ
được thoát khỏi. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm
65
NGHI THỨC CẦU AN
Đại Bồ Tát có sức oai thần rộng lớn như
thế!
Nếu chúng sanh nhiều tham lam,
thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ
Tát, liền hết tham lam. Nếu người nhiều
giận hờn, thường cung kính niệm Quán
Thế Âm Bồ Tát, liền hết giận hờn. Nếu
người nhiều ngu si, thường cung kính niệm
Quán Thế Âm Bồ Tát, liền hết ngu si. Vô
Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức oai
thần rộng lớn, nhiều sự lợi ích như thế, cho
nên chúng sanh thường phải một lòng
tưởng nhớ đến Ngài.
(1 tiếng chuông)
Nếu có người nữ muốn cầu con trai, lễ
lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền
sanh con trai phước đức trí huệ; muốn cầu
con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh
đẹp, mọi người kính mến. Nếu chúng sanh
cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát,
phước đức chẳng mất, cho nên chúng sanh
đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm
66
NGHI THỨC CẦU AN
Bồ Tát. Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát
có sức oai thần như thế!
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự
của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại
trọn đời cúng dường thức ăn uống, y phục,
giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao?
Công đức của thiện nam tín nữ đó có nhiều
chăng?
(1 tiếng chuông)
Vô Tận Ý thưa: “Bạch Thế Tôn! Rất
nhiều.”
Phật dạy: “Nếu lại có người thọ trì danh
hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một
thời lễ lạy cúng dường, thời phước đức của
hai người đó bằng nhau không khác, trong
trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng
tận. Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán
Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên
phước đức lợi ích như thế.”
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi
67
NGHI THỨC CẦU AN
trong cõi Ta Bà như thế nào? Phương tiện
thuyết Pháp của Ngài ra sao?”
(1 tiếng chuông)
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: “Thiện nam
tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào
đáng dùng thân Phật để độ thoát, Quán
Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật để nói
pháp. Nơi đáng dùng thân Bích Chi Phật
để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Bích Chi
Phật để nói pháp. Nơi đáng dùng thân
Thinh Văn để độ thoát, Bồ Tát liền hiện
thân Thinh Văn để nói pháp. Nơi đáng
dùng thân Phạm Vương để độ thoát, Bồ
Tát liền hiện thân Phạm Vương để nói
pháp. Nơi đáng dùng thân Đế Thích để độ
thoát, Bồ Tát liền hiện thân Ðế Thích để
nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tự Tại
Thiên để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân
Tự Tại Thiên để nói pháp. Nơi đáng dùng
thân Đại Tự Tại Thiên để độ thoát, Bồ Tát
liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên để nói
68
NGHI THỨC CẦU AN
pháp. Nơi đáng dùng thân Thiên Đại
Tướng Quân để độ thoát, Bồ Tát liền hiện
thân Thiên Đại Tướng Quân để nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ Sa Môn để độ
thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tỳ Sa Môn để
nói pháp. Nơi đáng dùng thân Tiểu Vương
để độ thoát, Bồ Tát liền hiện thân Tiểu
Vương để nói pháp. Nơi đáng dùng thân
Trưởng Giả để độ thoát, Bồ Tát liền hiện
thân Trưởng Giả để nói pháp. Nơi đáng
dùng thân Cư Sĩ để độ thoát, Bồ Tát liền
hiện thân Cư Sĩ để nói pháp. Nơi đáng
dùng thân Tể Quan để độ thoát, Bồ Tát
liền hiện thân Tể Quan để nói pháp. Nơi
đáng dùng thân Bà La Môn để độ thoát, Bồ
Tát liền hiện thân Bà La Môn để nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni,
Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di để độ thoát, Bồ Tát
liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di để nói pháp. Nơi đáng dùng
thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể
Quan, Bà La Môn để độ thoát, Bồ Tát liền
69
NGHI THỨC CẦU AN
hiện thân phụ nữ để nói pháp. Nơi đáng
dùng thân Đồng Nam, Đồng Nữ để độ
thoát, Bồ Tát liền hiện thân Đồng Nam,
Đồng Nữ để nói pháp. Nơi đáng dùng thân
Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu
La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La
Dà, Nhơn cùng Phi Nhơn, vân vân, để độ
thoát, Bồ Tát liền hiện những thân đó để
nói pháp. Nơi đáng dùng thân Thần Chấp
Kim Cang để độ thoát, Bồ Tát liền hiện
thân Thần Chấp Kim Cang để nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát trọn nên
công đức như thế, dùng nhiều thân hình
dạo đi trong các cõi nước, để độ thoát
chúng sanh. Vì vậy, các ông phải một lòng
cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
Ở trong chỗ tai nạn, sợ sệt, Quán Thế
Âm Bồ Tát hay ban cho sự vô úy, nên trong
cõi Ta Bà này, Ngài có tên là Thí Vô Úy.
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng:
“Thế Tôn! Con nay xin cúng dường Quán
70
NGHI THỨC CẦU AN
Thế Âm Bồ Tát. Ngài liền mở chuỗi ngọc
bằng các châu báu, giá trị trăm nghìn
lượng vàng nơi cổ đem cúng dường cho
Ngài Quán Thế Âm, và nói rằng: “Xin
Ngài nhận chuỗi ngọc trân bảo pháp thí
này.”
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng
chịu nhận chuỗi.
Ngài Vô Tận Ý lại thưa Quán Thế Âm
Bồ Tát: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà
nhận chuỗi ngọc này.”
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát:
“Ông nên thương Vô Tận Ý và hàng Tứ
Chúng, cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn
Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na
La, Ma Hầu La Già, Nhơn và Phi Nhơn
vân vân, mà nhận chuỗi ngọc này.”
(1 tiếng chuông)
Tức thời, Quán Thế Âm Bồ Tát thương
hàng Tứ Chúng, Trời, Rồng, Nhơn và Phi
Nhơn vân vân, nhận chuỗi ngọc đó và chia
làm hai phần: một phần dưng cúng Đức
71
NGHI THỨC CẦU AN
Thích Ca Mâu Ni, một phần để vào tháp
của Đức Phật Đa Bửu. “Vô Tận Ý! Quán
Thế Âm Bồ Tát có sức oai thần tự tại hiện
thân khắp cõi Ta Bà như thế.”
Lúc đó, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát hỏi Phật
rằng:
(1 tiếng chuông)
“Thế Tôn đủ tướng tốt!
Con nay được thăm hỏi
Phật tử nhơn duyên gì
Tên là Quán Thế Âm?”
Đức Phật trả lời rằng:
“Này ông Vô Tận Ý
Ông nghe hạnh Quán Âm
Hiện thân khắp các nơi.
Lời thề sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn Đức Phật.
Phát nguyện thanh tịnh lớn
Ta vì Ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
72
NGHI THỨC CẦU AN
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các nơi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng.
Hoặc ở chót Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không.
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
(1 tiếng chuông)
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
73
NGHI THỨC CẦU AN
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gẫy từng đoạn.
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chơn bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã đặng thoát khỏi.
Nguyền rủa, các thuốc độc
Muốn hại đến kẻ khác
Do sức niệm Quán Âm
Trở lại nơi người hại.
(1 tiếng chuông)
Hoặc gặp La Sát dữ
Rồng độc, các loài quỉ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
74
NGHI THỨC CẦU AN
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc, khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Nghe tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian.
(1 tiếng chuông)
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết khổ
Lần lần đều dứt hết.
Chơn quán, thanh tịnh quán
75
NGHI THỨC CẦU AN
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sánh thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay phục tai gió lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa Pháp Cam Lộ
Dứt trừ lửa phiền não.
(1 tiếng chuông)
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bực Tịnh Thánh
76
NGHI THỨC CẦU AN
Nơi khổ não nạn chết
Ngài là nơi nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Chúng ta nên đảnh lễ.”
(1 tiếng chuông)
Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát, liền từ chỗ
ngồi đứng dậy, đến trước Phật và bạch
rằng: “Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào
nghe đạo nghiệp và sự thị hiện thần thông
tự tại của Quán Thế Âm Bồ Tát này, phải
biết công đức của người đó chẳng ít.”
(1 tiếng chuông)
Khi Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong
hội có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đều
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
77
NGHI THỨC CẦU AN
PHẬT NÓI
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
PHẨM PHỔ MÔN
CHƠN NGÔN VIẾT
Án, đa rị đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị,
ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN
Án, ma ni bát minh hồng.
(7 lần, 1 tiếng chuông)
NGỢI KHEN ĐỨC QUÁN ÂM
Phổ Môn thị hiện
Cứu khổ nhân sinh
Thuyền từ lướt sóng
Bốn biển điêu linh
78
NGHI THỨC CẦU AN
Trùng dương vọng tiếng hồn kinh
Quán Âm ứng hiện, chúng sinh thoát nàn.
Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
(Muốn tụng thêm 12 đại nguyện của Đức Quán Thế
Âm, xin mở trang số 461)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
79
NGHI THỨC CẦU AN
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
80
NGHI THỨC CẦU AN
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an
lành.
(1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp
an lành.
(1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Hộ pháp giúp
an lành.
(1 tiếng chuông)
81
NGHI THỨC CẦU AN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ
Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
SÁM CẦU AN
Con quỳ lạy Phật chứng minh
Hai hàng Phật tử tụng kinh cầu nguyền
Cầu cho tín chủ hiện tiền
Nội gia quyến thuộc bình yên điều hòa.
Thọ trường hưởng phước nhàn ca
Phổ Môn kinh tụng trong nhà thảnh thơi
Quán Âm phò hộ vui chơi
Mười hai câu niệm độ đời nên danh.
Thiện nam tín nữ lòng thành
Ăn chay niệm Phật làm lành vái van
82
NGHI THỨC CẦU AN
Quán Âm xem xét thế gian
Rước người chìm nổi mười phương phiêu
trầm.
(1 tiếng chuông)
Mau mau niệm Phật Quán Âm
Tai qua nạn khỏi định tâm sáng lòa
Đương cơn lửa cháy đốt ta
Niệm danh Bồ Tát hóa ra sen vàng.
Gió đông đi biển chìm thuyền
Niệm danh Bồ Tát sóng tan hết liền.
Tà ma quỉ báo khùng điên
Niệm danh Bồ Tát mạnh liền khôn ngoan.
Vào rừng cọp rắn nghinh ngang
Niệm danh Bồ Tát nó càng chạy xa.
Tội tù ngục tối khảo tra
Quán Âm tưởng niệm thả ra nhẹ nhàng.
Bị trù bị ếm mê man
Quán Âm niệm niệm vái van tịnh bình
Quán Âm thọ ký làm tin
Tùy duyên thuyết Pháp độ mình hết mê.
Nương theo Bồ Tát trở về
Thấy mình ngồi gốc Bồ Đề giống in
83
NGHI THỨC CẦU AN
Tay cầm bầu nước tịnh bình
Tay cầm nhành liễu quang minh thân vàng
Cam lồ rưới khắp thế gian
Tốt tươi mát mẻ mười phương thanh nhàn
Quán Âm cứu hết tai nàn
Độ đời an lạc mười phương thái bình
Quán Âm điểm đạo độ mình
Quán Âm Bồ Tát chứng minh độ đời.
(1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sinh trong pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ Đạo Mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
84
NGHI THỨC CẦU AN
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu
Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.
Tam Bảo chứng minh, oai thần hộ niệm,
hôm nay, đệ tử chúng con, một dạ chí
thành, trì tụng Kinh Chú xưng tán Hồng
Danh, cầu nguyện cho Phật tử (tên họ:…
pháp danh:… tại:…), đương đời phiền não
dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, tật bệnh
bình an, thân tâm thường lạc, gia đình
thịnh đạt, quyến thuộc khương ninh, pháp
giới chúng sinh, trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
85
NGHI THỨC CẦU AN
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
86
ĐỨC A DI ĐÀ TIẾP DẪN
87
NGHI THỨC
CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
[Kinh A Di Đà (Amitàyus Sùtra)]
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Hương Cúng Phật
∗ Chú Đại Bi
∗ Xướng và đọc sớ (nếu có)
∗ Quy Y Linh
∗ Pháp Ngữ Sám Hối
∗ Kệ Khai Kinh
∗ Kinh A Di Đà
∗ Thệ Nguyện Của Phật A Di Đà
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Chú Vãng Sanh
∗ Niệm Phật
∗ Sám Từ Vân
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cầu nguyện cho những người quá cố được siêu thoát cảnh khổ đau, sớm về nơi cõi
Phật. Vì vậy, khi cha mẹ hay thân nhân qua đời, là người con hiếu nên đưa hương
linh vào Chùa làm lễ cầu siêu.
Tịnh Độ (Tịnh là trong sạch, Độ là cõi hay nước) có nghĩa là cõi Phật. Ở đây, chữ
Tịnh Độ là một thời tụng kinh chỉ cầu nguyện sanh về cõi Tịnh Độ mà thôi. Thời
kinh này thường tụng vào mỗi tối. Thường thì chỉ tụng Kinh Di Đà, Bát Nhã, Chú
Vãng Sanh, Niệm Phật, Sám Nguyện, Hồi Hướng, và Tam Quy, các phần khác được
lược bớt.
88
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Nghi Thức
CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
89
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Nay có Phật tử tên là:…, tạ thế ngày:…,
tại:…, chúng con một dạ chí thành,
ngưỡng cầu Tam Bảo, Từ Bi gia hộ cho
hương linh, phát tâm Bồ Đề rộng lớn, dứt
sạch nghiệp chướng sâu dày, được sanh về
thế giới an lành.
90
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Nam Mô Tiếp Dẫn hương linh A Di Đà
Phật tác đại chứng minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
91
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh
Tăng, thường trú Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi
A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
92
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười
phương,
Quyện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,
Pháp thân ảnh hiện rành rành,
Chứng minh hương nguyện, tâm thành
kính dâng.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
93
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
94
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha.Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam
Bảo.
(2 lần, 1 tiếng chuông)
(Nếu có sớ, chủ lễ xướng rồi đọc, nếu không bớt phần này)
95
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
XƯỚNG SỚ
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay, dâng sớ cúng dàng
(cầu an, cầu siêu…)
Cúi xin Phật Tổ, lâm đàn chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUY Y LINH
Hương linh quy y Phật.
Hương linh quy y Pháp.
Hương linh quy y Tăng.
Hương linh quy y Phật,
Đấng phước trí vẹn toàn.
Hương linh quy y Pháp,
Đạo thoát ly tham dục.
Hương linh quy y Tăng,
Bậc tu hành cao tột.
(1 tiếng chuông)
96
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Hương linh quy y Phật,
nguyện đời đời kiếp kiếp,
không quy y thiên, thần, quỉ, vật.
Hương linh quy y Pháp,
nguyện đời đời kiếp kiếp,
không quy y ngoại đạo tà giáo.
Hương linh quy y Tăng,
nguyện đời đời kiếp kiếp,
không quy y tổn hữu ác đảng.
Hương linh đã quy y Phật.
Hương linh đã quy y Pháp.
Hương linh đã quy y Tăng.
(1 tiếng chuông)
Hương linh vốn tạo các nghiệp ác,
Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Tất cả, hương linh đều sám hối.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ nguyện)
Nguyện: Nam Mô Tận Hư Không Biến
Pháp Giới Quá, Hiện, Vị Lai, Thập
97
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Phương Chư Phật, Tôn Pháp, Hiền
Thánh Tăng, Thường Trú Tam Bảo, tiếp
độ hương linh.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng hòa)
Vãng sanh Cực Lạc Quốc.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
Hương linh vốn tạo các nghiệp ác,
Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra,
Tất cả, hương linh đều sám hối.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ nguyện)
Nguyện: Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ
Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù
Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát,
Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội
Thượng Phật Bồ Tát, tiếp độ hương linh.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng hòa)
Vãng sanh Cực Lạc Quốc.
98
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
Hương linh vốn tạo các nghiệp ác,
Đều bởi vô thỉ tham, sân, si,
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Tất cả, hương linh đều sám hối.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ nguyện)
Nguyện: Nam Mô Tây Phương Cực Lạc
Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại
Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ
Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát,
Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát, tiếp độ
hương linh.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng hòa)
Vãng sanh Cực Lạc Quốc.
(Chủ lễ, tay trái bưng bát nước Cam Lồ,
tay mặt bắt ấn, và xướng)
PHÁP NGỮ SÁM HỐI
Hương linh hãy lắng nghe:
Tội do tâm tạo bao đời,
99
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Đem tâm sám hối, tội thời diệt vong,
Tội vong, tâm diệt đều không,
Chơn tâm sám hối, tội đồng tiêu tan.
Nam Mô cầu sám hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
(Làm phép sái tịnh cho tang chủ, chỉ chủ lễ xướng)
Nguyện hương linh từ vô thỉ đến ngày nay.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng hòa)
Tội tiêu diệt.
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
100
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
PHẬT NÓI KINH A DI ĐÀ
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức
Phật ở vườn Kỳ Thọ, Cấp Cô Độc nước Xá
Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm
mươi vị Đại Tỳ Kheo, đều là bậc Đại A La
Hán, như là: Trưởng lão Xá Lợi Phất, Mục
Kiền Liên, Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Ma Ha
Câu Hy La, Ly Bà Đa, Châu Lợi Bàn Đà
Già, Nan Đà, A Nan Đà, La Hầu La, Kiều
Phạm Ba Đề, Tân Đầu Lư Phả La Đọa, Ca
Lưu Đà Di, Ma Ha Kiếp Tân Na, Bạc Câu
La, A Nậu Lâu Đà, những vị đại đệ tử như
thế, và hàng Đại Bồ Tát: Văn Thù Sư Lợi
Bồ Tát, A Dật Đa Bồ Tát, Càn Đà Ha Đề
Bồ Tát, Thường Tinh Tấn Bồ Tát, các vị
Đại Bồ Tát như thế, với vô lượng chư thiên
như ông Thích Đề Hoàn Nhơn vân vân,
toàn thể đều đến dự hội.
(1 tiếng chuông)
Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài trưởng lão
Xá Lợi Phất: “Từ đây qua phương Tây
101
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên
là Cực Lạc. Trong thế giới đó, có Đức Phật
hiệu là A Di Đà, hiện nay đương nói pháp.”
Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực Lạc?
Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị
những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui,
nên nước đó tên là Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có
bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy
từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao
bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là
Cực Lạc.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc, có
ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy đủ
Nước Tám Công Đức, đáy ao thuần dùng
cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha
lê hiệp thành những thềm đường ở bốn bên
ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều
nghiêm sức bằng vàng, bạc lưu ly, pha lê,
xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao, có hoa
sen lớn như bánh xe, hoa sắc xanh thời ánh
sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng,
102
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh
sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong
sạch. Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc trọn
nên công đức trang nghiêm dường ấy.
Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của Đức
Phật đó, thường trỗi nhạc trời, đất bằng
vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa
Trời Mạn Đà La. Chúng sanh trong cõi đó,
sáng sớm, thường mang hoa tốt cúng
dường mười muôn ức Đức Phật ở phương
khác, đến giờ ăn, liền trở về bổn quốc, ăn
cơm xong, đi kinh hành. Xá Lợi Phất! Cõi
nước Cực Lạc trọn nên công đức trang
nghiêm dường ấy.
(1 tiếng chuông)
Lại nữa, Xá Lợi Phất! Cõi đó thường có
những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ
thường, nào chim Bạch Hạc, Khổng Tước,
Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cọng
Mạng; những giống chim đó, ngày đêm sáu
thời kêu tiếng hòa nhã. Tiếng chim đó diễn
nói Pháp mầu như Ngũ Căn, Ngũ Lực,
103
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần,
vân vân. Chúng sanh trong cõi đó, nghe
tiếng chim xong, thảy đều niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng! Xá Lợi Phất! Ông chớ
cho rằng những giống chim đó do tội báo
sanh ra. Vì sao? Vì cõi của Đức Phật đó
không có ba đường dữ, không có tên ba
đường dữ huống gì lại có sự thật. Những
giống chim đó do Đức Phật A Di Đà muốn
cho tiếng Pháp được tuyên lưu mà biến
hóa ra.
Xá Lợi Phất! Trong cõi nước của Đức
Phật đó, gió nhẹ lung lay các hàng cây báu,
và mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi
diệu, như trăm nghìn thứ nhạc đồng hòa
một lúc. Người nghe tiếng đó, đều sanh
lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá
Lợi Phất! Cõi Đức Phật A Di Đà trọn nên
công đức trang nghiêm dường ấy!
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Ý Ông nghĩ sao? Đức Phật
đó vì sao hiệu là A Di Đà?
104
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó, hào quang
sáng chói vô lượng, soi sáng các nước trong
mười phương không bị chướng ngại, vì thế
nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật đó và nhân dân
của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng
kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà.
Xá Lợi Phất! Đức Phật A Di Đà từ ngày
thành Phật đến nay, đã được mười kiếp.
Xá Lợi Phất! Lại Đức Phật đó có vô
lượng vô biên Thinh Văn đệ tử đều là bậc
A La Hán, chẳng phải tính đếm mà biết
được, hàng Bồ Tát cũng đông như thế. Xá
Lợi Phất! Cõi nước của Đức Phật đó trọn
nên công đức trang nghiêm dường ấy.
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Những chúng sanh trong
cõi Cực Lạc đều là bực bất thối chuyển.
Trong đó, có rất nhiều vị nhứt sanh bổ xứ,
số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà
biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô
biên a tăng kỳ để nói thôi!
105
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Xá Lợi Phất! Chúng sanh nào nghe
những điều trên đây, nên phát nguyện
sanh về nước đó. Vì sao? Vì được câu hội
một chỗ với các bực thượng thiện nhơn. Xá
Lợi Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện
căn phước đức nhơn duyên mà được sanh
về cõi đó.
Xá Lợi Phất! Nếu có thiện nam, tín nữ
nghe nói Đức Phật A Di Đà, trì niệm danh
hiệu của Đức Phật đó, hoặc một ngày, hoặc
hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày,
hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy
ngày, một lòng không tạp loạn, đến lúc lâm
chung, Đức Phật A Di Đà cùng hàng thánh
chúng hiện thân trước người đó. Lúc chết,
tâm thần không điên đảo, người đó liền
được vãng sanh về cõi Cực Lạc của Đức
Phật A Di Đà. Xá Lợi Phất! Nếu có chúng
sanh nào, nghe những lời lợi ích trên đây
nên phát nguyện sanh về cõi nước Cực
Lạc.
106
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Xá Lợi Phất! Như ta hôm nay ngợi khen
công đức lợi ích không thể nghĩ bàn của
Đức Phật A Di Đà. Phương Đông, cũng có
A Súc Bệ Phật, Tu Di Tướng Phật, Đại Tu
Di Phật, Tu Di Quang Phật, Diệu Âm Phật,
hằng hà sa số Đức Phật như thế đều ở tại
nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài
trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói
lời thành thật rằng: “Chúng sanh các
ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công
đức không thể nghĩ bàn của kinh này, Chư
Phật thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Thế giới Phương Nam, có
Nhựt Nguyệt Đăng Phật, Danh Văn Quang
Phật, Đại Diệm Kiên Phật, Tu Di Đăng
Phật, Vô Lượng Tinh Tấn Phật, hằng hà
sa số Đức Phật như thế, đều ở tại nước
mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm
khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên nói lời
thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi
phải nên kính tín và khen ngợi công đức
107
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
không thể nghĩ bàn của kinh này, Chư
Phật thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Thế giới Phương Tây, có
Vô Lượng Thọ Phật, Vô Lượng Tướng
Phật, Vô Lượng Tràng Phật, Đại Quang
Phật, Đại Minh Phật, Bửu Tướng Phật,
Tịnh Quang Phật, hằng hà sa số Đức Phật
như thế, đều ở tại nước mình, hiện ra
tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam
Thiên Đại Thiên nói lời thành thật rằng:
“Chúng sanh các ngươi phải nên kính tín
và khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn
của kinh này, Chư Phật thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Thế giới Phương Bắc, có
Diệm Kiên Phật, Tối Thắng Âm Phật, Nan
Trở Phật, Nhựt Sanh Phật, Võng Minh
Phật, hằng hà sa số Đức Phật như thế, đều
ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng
dài trùm khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên,
nói lời thành thật rằng: “Chúng sanh các
ngươi phải nên kính tín và khen ngợi công
108
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
đức không thể nghĩ bàn của kinh này, Chư
Phật thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Thế giới Phương Dưới, có
Sư Tử Phật, Danh Văn Phật, Danh Quang
Phật, Đạt Ma Phật, Pháp Tràng Phật, Trì
Pháp Phật, hằng hà sa số Đức Phật như
thế, đều ở tại nước mình, hiện ra tướng
lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam Thiên
Đại Thiên, nói lời thành thật rằng: “Chúng
sanh các ngươi phải nên kính tín và khen
ngợi công đức không thể nghĩ bàn của kinh
này, Chư Phật thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Thế giới Phương Trên, có
Phạm Âm Phật, Tú Vương Phật, Hương
Thượng Phật, Hương Quang Phật, Đại
Diệm Kiên Phật, Tạp Sắc Bửu Hoa
Nghiêm Thân Phật, Ta La Thọ Vương
Phật, Bửu Hoa Đức Phật, Kiến Nhứt Thiết
Nghĩa Phật, Như Tu Di Sơn Phật, hằng hà
sa số Đức Phật như thế, đều ở tại nước
mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm
109
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
khắp cõi Tam Thiên Đại Thiên, nói lời
thành thật rằng: “Chúng sanh các ngươi
phải nên kính tín và khen ngợi công đức
không thể nghĩ bàn của kinh này Chư Phật
thường hộ niệm.”
(1 tiếng chuông)
Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ thế nào, vì
sao chư Phật thường khen ngợi kinh này?
Xá Lợi Phất! Nếu có người nào nghe
kinh này mà thọ trì và nghe danh hiệu của
các Đức Phật, thời người ấy được chư Phật
ủng hộ và được giác ngộ giải thoát. Xá Lợi
Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận
lời của ta và của các Đức Phật nói.
Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát
nguyện, đang phát nguyện, và sẽ phát
nguyện sanh về cõi của Đức Phật A Di Đà,
thời những người ấy đều đặng không thối
chuyển nơi Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
110
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Xá Lợi Phất! Thiện nam, tín nữ nào có
lòng tin, nên phát nguyện sanh về cõi kia.
Xá Lợi Phất! Như Ta hôm nay, ngợi
khen công đức không thể nghĩ bàn của chư
Phật, và chư Phật cũng ngợi khen công
đức không thể nghĩ bàn của Ta, như: “Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni làm được việc rất
khó khăn, rất ít có ngay trong cõi Ta Bà
đầy năm ác trược: kiếp trược, kiến trược,
phiền não trược, chúng sanh trược, mạng
trược, Ngài chứng được ngôi Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì các chúng
sanh, Ngài nói Pháp này, tất cả thế gian
đều khó tin.
Xá Lợi Phất! Phải biết rằng, trong đời
ác năm trược, thực hành việc khó này, Ta
thành bậc Vô Thượng Chánh Giác. Thật
khó thay! Vì tất cả thế gian, Ta nói Pháp
khó tin này.
Đức Phật nói kinh này xong, Ngài Xá
Lợi Phất cùng các vị Tỳ Kheo, tất cả trong
đời, Trời, Người, A Tu La vân vân, nghe
111
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
lời của Đức Phật dạy, đều vui mừng tin
nhận, đảnh lễ và lui ra.
(1 tiếng chuông)
NGỢI KHEN
CÔNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Giáo chủ cõi Tây Phương
Đức Phật A Di Đà
Phát bốn mươi tám nguyện
Hướng dẫn đường chúng sanh.
Đài sen rực rỡ sẵn sàng
Quán Âm, Thế Chí, hai hàng tiếp nghinh.
Nam Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát Ma Ha
Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
(48 lời nguyện của Ngài, xin mở Phần Phụ Đính,
trang 464)
112
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, ‘tướng không
của mọi pháp’ không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
113
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
CHÚ VÃNG SANH
Nam mô a di đa bà dạ,
đa tha dà đa dạ,
đa địa dạ tha,
a di rị đô bà tì,
114
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
a di rị đa tất đam bà tì,
a di rị đa tì ca lan đế,
a di rị đa tì ca lan đa,
dà di nị dà dà na,
chỉ đa ca lệ ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
115
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
SÁM TỪ VÂN
Một lòng mỏi mệt không nài
Cầu về Cực Lạc ngồi đài Liên Hoa.
Cha lành vốn thiệt Di Đà
Soi hào quang tịnh chói lòa thân con
Thẳm sâu ơn Phật hằng còn
Con nay chánh niệm lòng son một bề
Nguyện làm nên Đạo Bồ Đề
Chuyên lòng niệm Phật cầu về Tây
Phương.
(1 tiếng chuông)
116
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Phật xưa lời thệ tỏ tường
Bốn mươi tám nguyện dẫn đường chúng
sanh
Nguyện rằng: ai phát lòng lành
Nước Ta báu vật để dành các ngươi
Thiện nam tín nữ mỗi người
Chí thành tưởng Phật niệm mười tiếng ra
Ta không rước ở nước Ta
Thệ không làm Phật chắc là không sai.
Bởi vì tin tưởng Như Lai
Có duyên tưởng Phật sống dai vô cùng
Lời thệ biển rộng mênh mông
Nhờ nương Đức Phật thoát vòng trần lao.
Tội mòn như đá mài dao
Phước lành thêm lớn càng cao càng dày
Cầu cho con thoát biết ngày
Biết giờ biết khắc biết rày tánh linh
Cầu cho bịnh khổ khỏi mình
Lòng không trìu mến chuyện tình thế gian
Cầu cho thần thức nhẹ nhàng
Y như Thiền Định họ Bàng thuở xưa.
Đài vàng tay Phật bưng chờ
117
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Các vị Bồ Tát bây giờ đứng trông
Rước tôi thật đã rất đông
Nội trong giây phút thảy đồng về Tây.
Xem trong cõi Phật tốt thay
Hoa sen đua nở tánh nay sạch trần
Hồi này thấy Phật chân thân
Đặng nghe Pháp nhiệm tâm thần sáng
trưng
Quyết tu độ hết phàm dân
Giữ lời thệ nguyện Phật ân rộng dài
Phật thệ chắc thật không sai
Người nào niệm Phật lên ngay sen vàng.
Cầu về Tịnh Độ một nhà
Hoa sen chín phẩm là cha mẹ mình
Hoa nở rồi biết tánh linh
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
(1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG
Cầu siêu công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
118
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
Xe Tam Thừa lộng lẫy, Thuyền Bát
Nhã thênh thang, sáu đường dốc ngược
đèo ngang, ba cõi sông mê lặn hụp, thảm
nỗi oan khiên lắm lúc, hương linh không
đủ phước vãng sanh. Nguyện hương linh:
... nay được an lành, nghe kinh kệ siêu
thăng Tịnh Độ, vượt qua bể khổ, thoát
khỏi Ta Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa,
119
NGHI THỨC CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ
pháp thân hiện Di Đà thọ ký. Âm siêu
dương thới, pháp giới chúng sanh, đồng
thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
120
ĐỨC PHỔ HIỀN BỒ TÁT
121
NGHI THỨC
SÁM HỐI
(Ksamà Uposatha Vidhi)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Dương Chi
∗ Chú Đại Bi
∗ Kệ Khai Kinh
∗ Kinh Hồng Danh
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Niệm Phật
∗ Sám Hối Phát Nguyện
∗ Chú Thất Phật Diệt Tội
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
∗ Pháp Ngữ Sám Hối
DÙNG ĐỂ:
Dứt hết các tội lỗi đã gây ra, và ngăn ngừa các điều xấu có thể xảy ra
trong tương lai.
122
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nghi Thức
SÁM HỐI
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
123
NGHI THỨC SÁM HỐI
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Đệ tử chúng con nguyện ngôi Tam Bảo
thường trú trong mười phương, Đức Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức Tiếp Dẫn
Đạo Sư A Di Đà Phật, chứng minh cho
chúng con. Chúng con lâu đời lâu kiếp,
tâm tánh hôn mê, chẳng kể chánh tà, gây
nhiều tội ác, tổn người hại vật, báng Phật,
Pháp, Tăng, hôm nay một dạ chí thành,
nguyện xin sám hối, ngưỡng mong oai đức
124
NGHI THỨC SÁM HỐI
Từ Bi, nhủ lòng lân mẫn, gia hộ cho chúng
con, tội chướng tiêu trừ, căn lành thêm
lớn, cùng pháp giới chúng sanh, tu Đạo Bồ
Đề, trang nghiêm phước huệ, một thời
đồng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
125
NGHI THỨC SÁM HỐI
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
126
NGHI THỨC SÁM HỐI
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
127
NGHI THỨC SÁM HỐI
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di
hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá
lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô
hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất
128
NGHI THỨC SÁM HỐI
rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ
đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì,
địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất
đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha.
Tất đà du nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà
ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta
bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha.
Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Dả kiết
ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma kiết tất
đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ,
ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta bà
ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da.
Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước bàn ra
dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa ra, bạt
đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
129
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KINH HỒNG DANH
Nam Mô Hồng Danh Hội Thượng Phật
Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Đại Từ Đại Bi thương chúng sanh
Đại Hỉ Đại Xả cứu muôn loài
Thân vàng tướng tốt sáng ngời
Chúng con đảnh lễ Phật thời chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Nam mô quy y Kim Cang Thượng Sư,
quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Con
nay phát tâm chẳng vì tự cầu phước báo
nơi chốn Nhơn Thiên hay quả Thinh Văn,
Duyên Giác, nhẫn đến các quả vị Bồ Tát
tối cao, con chỉ phát lòng Bồ Đề rộng lớn
nguyện cho chúng sanh trong pháp giới,
130
NGHI THỨC SÁM HỐI
cùng một lúc, đồng chứng ngôi Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
(1 tiếng chuông)
Con xin quy y khắp mười phương cùng
tận cõi hư không tất cả các Đức Phật.
Con xin quy y khắp mười phương cùng
tận cõi hư không tất cả Tôn Pháp.
Con xin quy y khắp mười phương cùng
tận cõi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng.
Nam Mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn.
(mỗi câu, 1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Nam Mô Phổ Quang Phật.
Nam Mô Phổ Minh Phật.
Nam Mô Phổ Tịnh Phật.
Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương
Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Quang Phật.
131
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nam Mô Ma Ni Tràng Phật.
Nam Mô Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bửu Tích
Phật.
Nam Mô Nhứt Thiết Thế Gian Nhạo Kiến
Thượng Đại Tinh Tấn Phật.
Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật.
Nam Mô Huệ Cự Chiếu Phật.
Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật.
Nam Mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán
Kim Quang Phật.
Nam Mô Đại Cường Tinh Tấn Dõng Mãnh
Phật.
Nam Mô Đại Bi Quang Phật.
Nam Mô Từ Lực Vương Phật.
Nam Mô Từ Tạng Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm
Thắng Phật.
Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật.
Nam Mô Thiện Ý Phật.
Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương
Phật.
Nam Mô Kim Hoa Quang Phật.
132
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nam Mô Bửu Cái Chiếu Không Tự Tại
Lực Vương Phật.
Nam Mô Hư Không Bửu Hoa Quang Phật.
Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương
Phật.
Nam Mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật.
Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật.
Nam Mô Hàng Phục Chúng Ma Vương
Phật.
Nam Mô Tài Quang Minh Phật.
Nam Mô Trí Huệ Thắng Phật.
Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật.
Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn
Trí Vương Phật.
Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật.
Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương
Phật.
Nam Mô Nhựt Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Nhựt Nguyệt Châu Quang Phật.
Nam Mô Huệ Tràng Thắng Vương Phật.
Nam Mô Sư Tử Hẩu Tự Tại Lực Vương
Phật.
133
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật.
Nam Mô Thường Quang Tràng Phật.
Nam Mô Quang Thế Đăng Phật.
Nam Mô Huệ Oai Đăng Vương Phật.
Nam Mô Pháp Thắng Vương Phật.
Nam Mô Tu Di Quang Phật.
Nam Mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật.
Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng
Vương Phật.
Nam Mô Đại Huệ Lực Vương Phật.
Nam Mô A Súc Tỳ Hoan Hỉ Quang Phật.
Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương
Phật.
Nam Mô Tài Quang Phật.
Nam Mô Kim Hải Quang Phật.
Nam Mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông
Vương Phật.
Nam Mô Đại Thông Quang Phật.
Nam Mô Nhứt Thiết Pháp Tràng Mãn
Vương Phật.
Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Kim Cang Bất Hoại Phật.
134
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nam Mô Bửu Quang Phật.
Nam Mô Long Tôn Vương Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Quân Phật.
Nam Mô Tinh Tấn Hỷ Phật.
Nam Mô Bửu Hỏa Phật.
Nam Mô Bửu Nguyệt Quang Phật.
Nam Mô Hiện Vô Ngu Phật.
Nam Mô Bửu Nguyệt Phật.
Nam Mô Vô Cấu Phật.
Nam Mô Ly Cấu Phật.
Nam Mô Dõng Thí Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Phật.
Nam Mô Thanh Tịnh Thí Phật.
Nam Mô Ta Lưu Na Phật.
Nam Mô Thủy Thiên Phật.
Nam Mô Kiên Đức Phật.
Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật.
Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật.
Nam Mô Quang Đức Phật.
Nam Mô Vô Ưu Đức Phật.
Nam Mô Na La Diên Phật.
Nam Mô Công Đức Hoa Phật.
135
NGHI THỨC SÁM HỐI
Nam Mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần
Thông Phật.
Nam Mô Tài Công Đức Phật.
Nam Mô Đức Niệm Phật.
Nam Mô Thiện Danh Xưng Công Đức
Phật.
Nam Mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương
Phật.
Nam Mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật.
Nam Mô Đấu Chiến Thắng Phật.
Nam Mô Thiện Du Bộ Phật.
Nam Mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công
Đức Phật.
Nam Mô Bửu Hoa Du Bộ Phật.
Nam Mô Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La
Thọ Vương Phật.
Nam Mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà
Phật.
(3 tiếng chuông, lạy 1 lạy, đồng tụng)
Các Đức Phật, thường trụ trong đời, nên
thương xót chúng con. Hoặc đời này của
con, hoặc đời trước của con, con từ vô thỉ,
136
NGHI THỨC SÁM HỐI
sống chết đến nay, gây nhiều tội lỗi, hoặc
tự con làm, hoặc bảo người làm, hoặc thấy
người làm, con vui mừng theo. Đồ vật của
chùa, đồ vật của Thầy hay của các Thầy,
hoặc tự con lấy, hoặc bảo người lấy, hoặc
thấy người lấy, con vui mừng theo. Năm tội
vô gián, hoặc tự con làm, hoặc bảo người
làm, hoặc thấy người làm, con vui mừng
theo. Mười điều bất thiện, hoặc tự con
phạm, hoặc bảo người phạm, hoặc thấy
người phạm, con vui mừng theo. Bao nhiêu
tội chướng của con gây ra, hoặc có che dấu,
hoặc không che dấu, đáng đọa địa ngục,
ngạ quỉ, súc sanh cùng các ác thú, chốn
biên địa, hạng hạ tiện, kẻ khốn cùng.
Những tội chướng đáng đọa vào các nơi
khổ báo như thế, nay con đều sám hối.
(1 tiếng chuông)
Nay, chư Phật nên chứng biết cho con.
Con lại đối trước chư Phật tác bạch rằng:
"Hoặc đời này của con, hoặc đời khác của
137
NGHI THỨC SÁM HỐI
con đã từng bố thí, hoặc giữ giới trong
sạch, nhẫn thí cho chim muông một vắt
cơm, hoặc đã tu hạnh thanh tịnh có bao
nhiêu căn lành, thành tựu chúng sanh có
bao nhiêu căn lành, tu hành Đạo Bồ Đề có
bao nhiêu căn lành, cho đến đã từng phát
tâm vô thượng Phật trí có bao nhiêu căn
lành, tất cả căn lành đó, con đều hồi hướng
về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Bao tội đều sám hối, các phước trọn vui
theo, và công đức thỉnh phật, cầu nên trí
vô thượng. Khứ, lai, hiện tại Phật, hơn tất
cả chúng sanh, công đức không thể lường,
con nay xin đảnh lễ:
Trong bao nhiêu mười phương cõi nước
Cả ba đời các Đức Như Lai
Ba nghiệp thanh tịnh hôm nay
Chúng con đảnh lễ, xin Ngài chứng minh.
(1 tiếng chuông)
138
NGHI THỨC SÁM HỐI
Sức oai thần Phổ Hiền hạnh nguyện
Trước Như Lai khắp hiện tự thân
Mỗi thân lại hiện trần thân
Thân thân lễ khắp sát trần Thế Tôn.
Trong một trần có trần số Phật.
Đều thật là các bậc Thượng Nhơn
Khắp cùng pháp giới xa gần
Kính tin chư Phật, muôn phần vinh hoa.
Biển âm thanh đều hòa trọn vận
Diệu ngôn từ vô tận khắp vang
Vị lai muôn kiếp trăm ngàn
Ngợi khen Phật đức, phước càng thâm sâu.
(1 tiếng chuông)
Tràng hoa đẹp rất xinh thơm ngát
Cùng hương hoa, kỹ nhạc lộng tàn
Bao nhiêu đồ tốt trang hoàng
Cúng dường chư Phật, con toàn kính dâng.
Y tối thắng cùng hương tối thắng
Với đuốc đèn, hương phấn, hương xông
Đều nhiều như Diệu Cao Phong
Cúng dường chư Phật, con đồng dâng lên.
139
NGHI THỨC SÁM HỐI
Tâm thắng giải mênh mông con dụng
Phật ba đời thảy cũng tin kiên
Con nương hạnh nguyện Phổ Hiền
Cúng dường chư Phật khắp miền Lạc
Bang.
Các tội ác xưa con lầm lỡ
Do tham sân muôn thuở gây nên
Từ thân miệng ý phát lên
Nay con sám hối báo đền lỗi xưa.
(1 tiếng chuông)
Chúng sanh khắp mười phương các cõi
Hàng Nhị Thừa "Có Học Cùng Không"
Như Lai Bồ Tát rất đông
Có bao công đức con đồng vui theo.
Trong mười phương có người chứng quả
Quả ban đầu là quả Bồ Đề
Con xin cung kính thỉnh về
Diễn dương chánh Pháp Bồ Đề cao siêu.
Các Đức Phật muốn toan nhập diệt
Con chí thành mải miết ân cần
Cúi xin ở mãi kiếp trần
Để cho lợi lạc khắp quần sanh linh.
140
NGHI THỨC SÁM HỐI
(1 tiếng chuông)
Bao nhiêu phước cúng dường bái lạy
Thỉnh Phật cùng ở tại thế gian
Vui mừng sám hối được an
Con cầu Phật Đạo huy hoàng nơi nơi.
Nguyện đem công đức có từ lâu
Pháp giới vô biên, con nguyện cầu
Tánh, tướng Tam Bảo nhiệm mầu
Hải Ấn Tam Muội dung vào Tục, Chơn.
Biển công đức không sao kể xiết
Nay, con nguyền tha thiết cầu cho:
Chúng sanh nghiệp chướng quá to
Thảy đều dứt sạch buồn lo miên trường.
Trí huệ khắp sáng soi muôn cõi
Độ chúng sanh chẳng nệ mỏi mòn
Dù cho thế giới không còn
Nguyện con vẫn giữ sắt son đời đời.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát Ma
Ha Tát .
(2 lần, 1 tiếng chuông)
141
NGHI THỨC SÁM HỐI
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
142
NGHI THỨC SÁM HỐI
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
143
NGHI THỨC SÁM HỐI
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật .
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
144
NGHI THỨC SÁM HỐI
SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN
Đệ tử kính lạy
Đức Phật Thích Ca
Phật A Di Đà
Thập phương chư Phật
Vô lượng Phật Pháp
Cùng Thánh Hiền Tăng.
Đệ tử lâu đời lâu kiếp
Nghiệp chướng nặng nề
Tham giận kiêu căng
Si mê lầm lạc
Ngày nay nhờ Phật
Biết sự lỗi lầm
Thành tâm sám hối.
(1 tiếng chuông)
Thề tránh điều dữ
Nguyện làm việc lành
Ngửa trông ơn Phật
Từ Bi gia hộ
Thân không tật bệnh
Tâm không phiền não
145
NGHI THỨC SÁM HỐI
Hằng ngày an vui tu tập
Pháp Phật nhiệm mầu
Để mau ra khỏi luân hồi
Minh tâm kiến tánh
Trí huệ sáng suốt
Thần thông tự tại
Đặng cứu độ các bậc tôn trưởng
Cha mẹ anh em
Thân bằng quyến thuộc
Cùng tất cả chúng sanh
Đồng thành Phật Đạo.
(1 tiếng chuông)
CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni
đế, ni ha ra đế, tỳ lê nể đế, ma ha dà đế,
chơn lăng càng đế, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG
Sám hối công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
146
NGHI THỨC SÁM HỐI
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông)
PHỤC NGUYỆN
Đệ tử (chúng con)... chí thành lễ Phật
Hồng Danh, sám hối công đức, chuyên vì
147
NGHI THỨC SÁM HỐI
cầu nguyện, hiện tiền (chư) Phật tử, tội diệt
phước sanh, căn lành thêm lớn, phước huệ
trang nghiêm, nghiệp chướng oan khiên,
nhiều đời nhiều kiếp, thảy đều dứt hết, trí
tánh thường minh, pháp giới chúng sanh,
trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(3 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
148
NGHI THỨC SÁM HỐI
PHÁP NGỮ SÁM-HỐI
Tội do tâm tạo bao đời,
Đem tâm sám hối, tội thời diệt vong,
Tội vong, tâm diệt đều không,
Chơn tâm sám hối, tội đồng tiêu tan.
Nam Mô cầu sám hối Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
149
TIÊU DIỆN ĐẠI SĨ
150
NGHI THỨC
THÍ THỰC CÔ HỒN
(Preta Àhàra Pùjà)
GỒM CÓ:
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Án Thỉnh Cô Hồn
∗ Mông Sơn Thí Thực
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Chú Vãng Sanh
∗ Niệm Phật
∗ Sám Cầu Siêu
∗ Tán Lễ
∗ Khuyến Tu
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cúng thí các cô hồn, những người chết bất đắc kỳ tử, bà
con họ hàng không ai hay biết. Oan hồn vất vưởng thê
lương, không nơi nương tựa. Phật tử nên phân biệt cô hồn
và hương hồn hay vong hồn. Hương hồn hay hương linh, là
những người sau khi chết có cha, mẹ, vợ, con hay thân bằng
quyến thuộc thờ cúng tại nhà hay tại chùa. Cô hồn như vừa
nói trên.
151
Nghi Thức
THÍ THỰC CÔ HỒN
(Công phu chiều hằng ngày, nên tụng Di Đà, Hồng
Danh và Đại Hạnh để cúng cháo. Nếu cúng vào những
ngày đặc biệt, nên theo đúng nghi thức này. Đại chẩn
tế cô hồn còn nghi thức khác nữa.)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương.)
CÚNG HƯƠNG
Nguyện dâng hương mầu này
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, chư Bồ Tát
Thinh Văn và Duyên Giác
Cùng các bậc Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Khắp xông mười phương cõi
Tỏa ngát các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ Đề
152
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Xa lìa các vọng nghiệp
Trọn nên Đạo Vô Thượng.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Nam Mô Hương Cúng Dường Tiêu Diện
Đại Sĩ Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá, chỉ chủ lễ nguyện)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, Phật tử chúng con…, tại…,
sắm sửa hương hoa phẩm vật, cúng thí Âm
Hồn Các Đảng, vất vưởng thê lương,
không nhà không cửa, không nơi nương
tựa, đói khát thảm thương, hoặc nơi chiến
trường hoang dã, ngã gục tan thây, hoặc
nơi thâm sơn cùng cốc, rắn độc gấu beo,
hoặc nơi sông sâu biển rộng, cá sấu vây
quanh, xé nát thân ra, từng manh miếng
nhỏ. Tất cả oan hồn yểu tử, nay mời về núp
bóng Từ Quang, dự đàn thí thực, nương
153
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
nhờ Phật lực, câu kinh, sớm được siêu sinh
Tịnh Độ. Ngưỡng mong oai đức cao dày, từ
bi gia hộ.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy. Cắm hương xong,
chủ lễ xướng)
ÁN THỈNH CÔ HỒN
Hỡi cô hồn trước sau tề tựu
Nghe lời khuyên để sửa lỗi mình
Quán Âm, Địa Tạng oai linh
Thích Ca Phật Tổ, câu kinh giải nàn.
Hỡi uổng tử hồn oan phưởng phất
Noi tâm lành của Phật làm gương
Ta Bà cực khổ trăm đường
Mau tu thì được Phật thương cứu độ.
(1 tiếng chuông)
Hỡi hương hồn chết chìm đáy biển
Và bao người ngộ độc bỏ thân
Nghe chuông thức tỉnh dần dần
154
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Đừng ham danh lợi phù trần nhiễu
nhương.
Hỡi cô hồn chết thiêu chết chém
Hổ giảo thân bị yểm bị trù
Kíp tìm kinh kệ sớm tu
Khỏi vòng xích sắt tội tù nghiệp oan.
Hỡi hồn thác trong cơn binh lửa
Chết phong ba, chết giữa núi non
Khi nghe chuông giục boong boong
Hương thơm tỏa khắp, hồn còn nghe kinh
Hỡi hồn ở đầu gành cuối bãi
Nương gió mây, phảng phất lời xưa
Hồn ơi, hồn hỡi tránh chừa
Những người gian ác dối lừa Phật tiên.
Các hồn bị gấu, beo, rắn cắn
Cùng những hồn số vắn vô danh
Hãy nghe Kinh Kệ ăn năn
Rồi đây hồn sẽ vô ngần thảnh thơi.
155
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Hỡi những hồn vì lời dèm xiểm
Đã hủy mình chết lụn căm gan
Sớm nghe Kinh Kệ, lời vàng
Phật liền dẫn lối chỉ đàng hồn tu.
Xin hồn tỉnh hướng về Phật Tổ
Ngài từ bi cứu độ vong linh
Bao hồn sinh tử tử sinh
Hôm nay hồn được nghe Kinh Pháp mầu.
(1 tiếng chuông, đồng tụng)
MÔNG SƠN THÍ THỰC
Nam Mô Diệm Nhiên Vương Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Lửa đói đốt thành sắt chảy
Cô hồn đói khát than van
Muốn sanh về chốn Lạc Bang
Hoa Nghiêm phúng tụng vài hàng như sau:
“Nếu muốn biết rõ:
Ba đời chư Phật
156
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Quán ‘Pháp Giới Tánh’
Đều do tâm tạo.”
CHÚ PHÁ ĐỊA NGỤC
Án dà ra đế da ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ THỈNH CÔ HỒN
Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát đa nga
đa da.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ GIẢI OAN KIẾT
Án tam đà ra dà đà ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam mô Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam mô thường trụ thập phương Phật,
Nam mô thường trụ thập phương Pháp,
Nam mô thường trụ thập phương Tăng.
157
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát,
Nam mô Minh Dương Cứu Khổ Địa Tạng
Vương Bồ Tát,
Nam mô khải giáo A Nan Đà Tôn Giả.
(7 câu trên, tụng 3 lần, 1 tiếng chuông)
Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Quy y Phật đấng phước trí vẹn toàn
Quy y Pháp đạo thoát ly tham dục
Quy y Tăng bậc tu hành cao tột.
Quy y Phật rồi, Quy y Pháp rồi,
Quy y Tăng rồi.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Phật tử đã tạo các nghiệp ác, đều bởi vô
thỉ tham, sân, si, từ thân, miệng, ý phát
sinh ra, tất cả Phật tử đều sám hối.
Chúng sanh đã tạo các nghiệp ác, đều
bởi vô thỉ, tham, sân, si, từ thân, miệng, ý
phát sinh ra, tất cả chúng sanh đều sám
hối.
158
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Cô hồn đã tạo các nghiệp ác, đều bởi vô
thỉ, tham, sân, si, từ thân, miệng, ý phát
sinh ra, tất cả cô hồn đều sám hối.
Chúng sanh không số lượng,
Thệ nguyện đều độ hết,
Phiền não không cùng tận,
Thệ nguyện đều dứt sạch,
Pháp môn không kể xiết,
Thệ nguyện đều tu học,
Phật Đạo không gì hơn,
Thệ nguyện trọn viên thành.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Chúng sanh không số lượng,
Con nguyện đều độ hết,
Phiền não không cùng tận,
Con nguyện đều dứt sạch,
Pháp môn không kể xiết,
Con nguyện đều tu học,
Phật Đạo không gì hơn,
Con nguyện trọn viên thành.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
159
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
CHÚ DIỆT ĐỊNH NGHIỆP
Án bát ra mạt lân đà nảnh ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG
Án a lổ lặc kế ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ KHAI YẾT HẦU
Án bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát đa nga
đa da.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ TAM MUỘI DA GIỚI
Án tam muội da tát đỏa phạm.
(4 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ BIẾN THỰC
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ
đế, án tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
160
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
CHÚ CAM LỒ THỦY
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát
điệt tha, án tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra
tô rô, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ NHỨT TỰ THỦY LUÂN
Án noan noan noan noan noan.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ NHŨ HẢI
Nam mô tam mãn đa mẫu đà nẩm án noan.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam mô Đa Bảo Như Lai
Nam mô Bảo Thắng Như Lai
Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam mô Quảng Bát Thân Như Lai
Nam mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam Mô Cam Lồ Vương Như Lai
Nam mô A Di Đà Như Lai.
(7 câu trên, tụng 3 lần, 1 tiếng chuông)
161
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Oai linh thần chú phi thường, (thực
phẩm) biến thành Tịnh Pháp Thực, cúng
thí vô số chúng Phật tử, cầu cho no ấm hết
xan tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh,
quy y Tam Bảo rõ Đạo mầu, rốt ráo trọn
nên bậc Vô Thượng, công đức không
lường ở vị lai, tất cả Phật tử Đồng Pháp
Thực.
Oai linh thần chú phi thường, (Thế
Pháp) biến thành Pháp Thí Thực, cúng thí
vô số loài chúng sinh, cầu cho no ấm, hết
xan tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh,
quy y Tam Bảo rõ Đạo mầu, rốt ráo trọn
nên bậc Vô Thượng, công đức không
lường ở vị lai, tất cả chúng sanh Đồng
Pháp Thực.
Oai linh thần chú phi thường, (nước
mát) biến thành nước cam lồ, cúng thí vô
số chúng cô hồn, cầu cho no ấm, hết xan
tham, thoát khỏi U Minh về cõi Tịnh, quy
y Tam Bảo rõ Đạo mầu, rốt ráo trọn nên
162
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
bậc Vô Thượng, công đức không lường ở
vị lai, tất cả cô hồn Đồng Pháp Thực.
Tất cả chúng Phật tử
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm này biến khắp mười phương
Các hàng Phật tử, miên trường ấm no.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Tôi và các Phật tử
Đều trọn thành Phật Đạo.
Tất cả chúng hữu tình
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm này biến khắp mười phương
Hữu tình các loại miên trường ấm no.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Tôi và các chúng sanh
Đều trọn thành Phật Đạo.
Tất cả chúng cô hồn
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm này biến khắp mười phương
163
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Cô hồn các loại miên trường ấm no.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Tôi và các cô hồn
Đều trọn thành Phật Đạo.
CHÚ THÍ VÔ GIÁ THỰC
Án mục lực lăng ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt
ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
164
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
165
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La
Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba
la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
CHÚ VÃNG SANH
Nam mô a di đa bà dạ,
đa tha dà đa dạ,
đa địa dạ tha,
a di rị đô bà tì,
a di rị đa tất đam bà tì,
a di rị đa tì ca lan đế,
a di rị đa tì ca lan đa,
166
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
dà di nị dà dà na,
chỉ đa ca lệ ta bà ha.
(5 lần, 1 tiếng chuông)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
167
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
SÁM CẦU SIÊU
Trên bảo tọa khói hương nghi ngút
Tấm lòng thành chí thiết từ đây
Mây lành năm sắc phủ vây
Chở che nhân loại lắm thay oan hồn.
Vẫn biết chữ “tử quy sanh ký”
Người trần ai ai dễ sống lâu
Nhân vì nghĩa nặng ân sâu
Thương tình đồng loại với nhau một giòng
Sanh bất hạnh nhầm đời mạt Pháp
Chịu trăm bề khốn khổ xiết bao
Sống thời vất vả lao đao
168
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Chết không toàn thể thây giao tử thần.
Nay (chúng con) hết lòng cầu khẩn
Xin Phật từ cứu độ vong linh
Ngưỡng nhờ chư Phật cao minh
Xót thương nhân loại phù sinh vô thường.
Hễ có sinh là có bi thương
Kiếp luân hồi lắm nẻo tai ương
Hữu hình hữu hoại, vô thường
Có không không có là phường phù du.
Dầu tài sắc trăm năm vẫn thế
Kiếp phù sinh há dễ sống lâu
Oan hồn trôi nổi đâu đâu
Ráng nghe kinh kệ ngõ hầu siêu thăng.
Xin kíp đến quy y Tam Bảo
Nước nhành dương rửa sạch lòng trần
Gội nhuần Phật Đức thâm ân
Bao nhiêu tội chướng cũng lần tiêu tan.
Nay hết lúc hồn vương ảo ảnh
Kíp trở về thắng cảnh Tây Phương
Oan hồn nương khói hương thơm
Tiêu diêu Cực Lạc sớm hôm an nhàn.
(1 tiếng chuông)
169
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
TÁN LỄ
Tán lễ Tây Phương
Cực Lạc thanh lương
Sen vàng chín phẩm ngát hương
Cây báu bảy hàng
Nhạc trời reo vang
A Di Đà Phật
Phóng ánh hào quang
Hóa Đạo chúng sanh vô lượng
Đến bờ giải thoát an vui
Hiện tiền đệ tử xưng dương
Cầu sanh An Dưỡng
Hiện tiền đại chúng tán dương
Đồng sanh An Dưỡng.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ xướng)
KHUYẾN TU
Ngày nay lại đã qua rồi
Mạng căn huyết mạch lần hồi khô khan
Dường như cá cạn ở ao
Khổ thêm thời có chút nào vui đâu
170
NGHI THỨC THÍ THỰC CÔ HỒN
Cần tu cứu lửa cháy đầu
Đừng cho sái buổi như chầu đế vương
Biết thân mỏng mảnh không thường
Sớm còn tối mất lo phương cứu mình.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
171
BÌNH BÁT
172
NGHI THỨC
CÚNG NGỌ
(BUDDHA PÙJÀ)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Hương Cúng Phật
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Cúng Dường
∗ Pháp Ngữ Cúng Phật
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cúng dường chư Phật, chư Tôn Pháp, và chư
Hiền Thánh Tăng
173
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Nghi Thức
CÚNG NGỌ
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
174
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
(Cho Cầu An)
Hôm nay, chúng con phụng trì di giáo
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, một
dạ chí thành, thiết lễ CÚNG NGỌ, ngưỡng
mong Tam Bảo chứng minh và gia hộ cho
chúng con, đương đời phiền não dứt sạch,
nghiệp chướng tiêu tan, mạng vị bình an,
thân tâm thường lạc, và tất cả chúng sanh,
một thời đồng chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
175
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường
Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
(Cho Cầu Siêu)
Nay có Phật tử tên là:…, tạ thế ngày:…,
tại:…, chúng con một dạ chí thành,
ngưỡng cầu Tam Bảo, Từ Bi gia hộ cho
hương linh, phát tâm Bồ Đề rộng lớn, dứt
sạch nghiệp chướng sâu dày, được sanh về
thế giới an lành.
Nam Mô Tiếp Dẫn Hương Linh A Di Đà
Phật tác đại chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
176
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông xá 1 xá)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai
thập phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền
Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
177
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh
Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ
Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Hương trầm vừa đốt
Thơm ngát mười phương
Thành kính cúng dường
Mười phương Tam Bảo.
178
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
NAM MÔ BÁT NHÃ HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
179
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
(Đại chúng đồng quỳ để tụng cúng dường)
180
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
CÚNG DƯỜNG
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam Mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật
Nam Mô Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn
Phật
Nam Mô Thập Phương Tam Thế Nhứt
Thiết Chư Phật
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát
Nam Mô Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát
Nam Mô Già Lam Thánh Chúng Bồ Tát
Nam Mô Lịch Đại Tổ Sư Bồ Tát
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
(1 tiếng chuông)
181
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Nam mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ chỉ
đế, an tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát
điệt tha, án tô tô tô rô, bát ra tô rô, bát ra
tô rô, ta bà ha .
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thức ăn tươi tốt này
Trên, cúng dường chư Phật
Cùng các Hiền Thánh Tăng
Dưới, tất cả chúng sanh
Trong sáu nẻo, ba đường
Với tâm thành hiến dâng
Cầu mong được bảo mãn.
(1 tiếng chuông)
Án, nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt
ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
182
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
PHÁP NGỮ CÚNG PHẬT
Con nay dâng cúng Cam Lồ
Sắc hương mỹ vị biến đầy hư không
Thành tâm tha thiết ngưỡng mong
Đức Từ nạp thọ tấc lòng kính dâng.
(Đứng lên, đồng niệm, 1 tiếng chuông, đồng lạy, 3 lần)
Nam Mô Phổ cúng dường Bồ Tát.
Cúng Phật đã xong
Cầu cho chúng sanh
Trọn nhờ Pháp Phật
Thể nhập Chân Như.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
( Nếu Cúng Ngọ, trong dịp Lễ Cầu An, nên phục
nguyện Cầu An; trong dịp Lễ Cầu Siêu, nên phục
nguyện cầu siêu, hay tùy mỗi trường hợp.)
(Cho Cầu An)
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật tác đại chứng minh. (1 tiếng chuông)
183
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
Hôm nay, chúng con một dạ chí thành,
trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức,
cầu nguyện cho Phật tử (Tên:..., Pháp danh:...),
đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp
chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm
thường lạc, gia đình thịnh đạt, hưởng cảnh
an nhàn, thiên thượng nhân gian, đều
thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(Cho Cầu Siêu)
Xe Tam Thừa lộng lẫy, Thuyền Bát Nhã
thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo
ngang, ba cõi sông mê lặn hụp, thảm nỗi
oan khiên lắm lúc, hương linh không đủ
phước vãng sanh. Nguyện hương linh....
nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng
Tịnh Độ, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta
Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân
hiện Di Đà thọ ký. Âm siêu dương thới,
184
NGHI THỨC CÚNG NGỌ
pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật
quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
185
ĐỨC VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT
186
NGHI THỨC
LỄ AN VỊ PHẬT
(Buddhapratisthavidhi)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Dương Chi
∗ Tựa của Kinh Lăng Nghiêm
∗ Xướng và đọc sớ (nếu có)
∗ Pháp Ngữ Sái Tịnh
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Nguyện An Lành
∗ Sám Phát Nguyện
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cử hành Lễ An Vị Phật ở tư gia, hay bất cứ nơi nào muốn thờ
Phật.
187
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Nghi Thức
LỄ AN VỊ PHẬT
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
188
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay đệ tử chúng con nguyện ngôi
Tam Bảo thường trú trong mười phương,
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đức
Tiếp Dẫn Đạo Sư Di Đà Phật, chứng minh
cho Phật tử…, lâu đời lâu kiếp, tâm tánh
hôn mê, chẳng kể chánh tà, gây nhiều tội
ác, tổn người hại vật, báng Phật, Pháp,
Tăng, hôm nay một dạ chí thành, cung
thỉnh và an vị tôn tượng Đức…, ngưỡng
mong đấng Từ Bi, nhủ lòng lân mẫn, gia
189
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
hộ cho Phật tử…, đương đời tội chướng
tiêu trừ, căn lành thêm lớn, cùng pháp giới
chúng sanh, tu Đạo Bồ Đề, trang nghiêm
phước huệ, một thời đồng chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Chứng Minh Sư Bồ Tát tác đại
chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
190
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đồng niệm)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
191
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
192
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
KINH LĂNG NGHIÊM
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG
PHẬT BỒ TÁT
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Tâm Chánh Định như như bất động
Phật Ba Thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
Vô minh dứt sạch, chứng liền Pháp Thân
Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Độ chúng sanh như cát Sông Hằng
Thân, tâm nầy nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Đời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng Vô Sanh Niết
Bàn
(1 tiếng chuông)
193
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn, phiền
Để sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi Đạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay
(1 tiếng chuông)
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, từ nhục kế của Phật phóng
ra hào quang trăm báu với hoa sen ngàn
cánh. Trong mỗi hoa sen, có Hóa Phật
ngồi, từ đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo
hào quang trăm báu. Mỗi đạo hào quang
hiện ra nhiều Thần Kim Cang Mật Tích,
194
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
ông bưng núi, ông cầm xử vân vân, đứng
khắp cõi hư không. Đại chúng trông thấy,
vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót
che chở, và một lòng lắng nghe Phật nói
thần chú:
(1 tiếng chuông).
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà
rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni phấn.
Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
XƯỚNG SỚ
(Nếu có sớ, chủ lễ xướng và đọc, nếu không bớt phần này)
Nam Mô Thập Phương Thường Trú
Tam Bảo.
(3 lần, 1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ xướng tiếp)
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay dâng sớ Cầu An
195
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Cúi xin Phật tổ, lâm đàn chứng minh.
(1 tiếng chuông, đọc sớ xong, chủ lễ xướng tiếp)
PHÁP NGỮ SÁI TỊNH
Cành dương nước tịnh rưới gia đường
Linh thiêng thấm mát khắp mười phương
Tiêu trừ cấu uế, tai ương
Đức Từ phò hộ, tông đường bình an.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(Chủ lễ làm phép sái tịnh xong, đồng tụng)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
196
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
197
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an
lành.
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp
an lành.
198
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Hộ Pháp giúp
an lành.
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ
Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
SÁM PHÁT NGUYỆN
Đệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bởi lầm mê
Đắm trong sinh tử đã bao lần
Nay đến trước đài Vô Thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sanh linh vô số điêu tàn
199
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lõng không nhìn phương hướng
Đoàn con dại, từ lâu vất vưởng
Hôm nay trông thấy đạo huy hoàng
Xin hướng về núp bóng từ quang
Lạy Phật Tổ soi đường dẫn bước
Bao tội khổ trong đường ác trược
Vì tham, sân, si, mạn gây nên
Thì hôm nay giữ trọn lời nguyền
Xin sám hối để lòng thanh thoát.
Trí huệ quang minh như nhựt nguyệt
Từ bi vô lượng cứu quần sanh
Ôi! Từ lâu ba chốn ngục hình
Giam giữ mãi con nguyền ra khỏi
Theo gót Ngài vượt qua khổ ải
Nương thuyền từ vượt bể ái hà
Nhớ tới Ngài: “Bờ Giác không xa”
Hành thập thiện cho đời tươi sáng
Bỏ việc ác cho đời quang đãng
Đem phúc lành gieo rắc phàm nhân
Lời ngọc vàng ghi mãi bên lòng
Con nguyện được sống đời rộng rãi
200
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
Con niệm Phật để lòng nhớ mãi
Hình bóng người cứu khổ chúng sanh
Để theo Ngài trên bước đường lành
Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ
Chúng con khổ nguyện xin tự độ
Ngoài tham lam, sân hận ngập trời
Phá si mê trí huệ tuyệt vời
Con nhớ Đức Di Đà Lạc quốc.
Phật A Di Đà thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm Tu Di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức Từ Bi tiếp độ.
(1 tiếng chuông)
201
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
HỒI HƯỚNG
An vị công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong Pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ đạo mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
202
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật tác đại chứng minh.
(1 tiếng chuông)
Hôm nay, chúng con một dạ chí thành,
trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công đức,
cầu nguyện cho Phật tử (Tên:..., Pháp danh:...),
đương đời phiền não dứt sạch, nghiệp
chướng tiêu tan, tật bịnh bình an, thân tâm
thường lạc, thiên thượng nhân gian, đều
thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
203
NGHI THỨC LỄ AN VỊ PHẬT
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
204
TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA
205
NGHI THỨC
QUÁ ĐƯỜNG
[Punnyànumodana]
GỒM CÓ:
∗ Quán niệm
∗ Cúng Dường
∗ Xuất sanh
∗ Tống Thực
∗ Xướng Tăng Bạt
∗ Ba Nguyện
∗ Năm Quán
∗ Chú Tráng Bát, Xỉa Răng, Uống Nước
∗ Chú Kiết Trai
∗ Phục Nguyện
∗ Kinh Hành Niệm Phật
∗ Sám Phổ Hiền
∗ Tam Quy
DÙNG CHO:
Chư Tăng thọ trai, theo đúng nghi qui của Thiền Môn,
để cầu phước cho người tín cúng. Người tu tại gia cũng
có thể dùng nghi thức này để nhiếp tâm, mỗi khi dùng
cơm.
206
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Nghi Thức
QUÁ ĐƯỜNG
(Đại chúng đứng hai hàng, nghe tiếng chuông, xá 1 xá,
ngồi vào ghế, nhiếp tâm đọc thầm những pháp ngữ sau
đây:)
NGỒI THẲNG
Thân ngồi ngay thẳng
Cầu cho chúng sanh
Ngồi tòa Bồ Đề
Tâm không đắm nhiễm.
Án phạ tất ba ra a ni bát ra ni
ấp đa da tá ha.
GIỞ BÁT
Bình bát của Như Lai
Con nay được mở bày
Cúng dường cho tất cả
207
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Xin nguyện được an vui.
Án tư ma ni tá ha.
BÁT KHÔNG
Nếu thấy bát không
Cầu cho chúng sanh
Hoàn toàn trong sạch
Không có buồn lo.
(Đổ nước tráng bát, lau khô, để cơm vào.)
MẶC NIỆM BÁT CƠM ĐẦY
Khi thấy bát đầy
Cầu cho chúng sanh
Vui vẻ làm nên
Tất cả việc lành.
(tay trái bưng bát cơm, tay mặt bắt ấn, dơ ngang trán,
đồng tụng bài cúng dường)
208
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
CÚNG DƯỜNG
Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô
Giá Na Phật.
Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật.
Thiên bá ức hóa thân Thích Ca Mâu Ni
Phật.
Đương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.
Cực Lạc Thế Giới A Di Đà Phật.
Thập phương tam thế nhứt thiết chư Phật.
Đại Trí VănThù Sư Lợi Bồ Tát.
Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chư Tôn Bồ Tát Ma Ha Tát.
Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật.
Thức ăn tinh khiết, cúng dường chư
Phật, chư hiền thánh Tăng, pháp giới hữu
tình, thảy đều cúng dường. Khi đang dùng
cơm, cầu cho chúng sanh, hành “Thiền
Duyệt Thực,” đầy đủ an vui.
(1 tiếng chuông, để chén chung trong lòng bàn tay trái,
tay phải gắp 7 hạt cơm để vào chung, Thầy cả niệm: )
209
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
XUẤT SANH
Pháp lực khó nghĩ bàn
Từ Bi không chướng ngại
Cơm ít hóa thành nhiều
Thí khắp mười phương cõi
Đồng không, quỉ mẹ, con
Đại Bàng Kim Sí Điểu
Tất cả đều no đủ,
Án độ lợi ích ta ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông, thị giả bưng chung, đi ra nơi
cúng, và đọc:)
TỐNG THỰC
Tất cả chúng quỉ thần
Tôi nay nguyện cúng dường
Cơm này biến khắp mười phương
Quỉ thần no đủ, nhờ nương Pháp mầu.
Án mục lục lăng tá ha.
(7 lần, 1 tiếng chuông, Thầy cả xướng:)
210
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
TĂNG BẠT
Phật dạy tỳ kheo (chúng tăng)
Giữ tròn năm quán
Khi ăn tâm loạn
Tín thí khó tiêu
Đại chúng thảy đều
Nhất tâm niệm Phật.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng niệm:)
Nam Mô A Di Đà Phật
(1 tiếng chuông, đại chúng tiếp:)
Tam Bạt Ra dà đa.
(7 lần, 1 tiếng chuông, tay bưng bát giơ ngang trán,
niệm thầm:)
Tay bưng bình bát (bát cơm)
Cầu cho chúng sanh
Trọn nên Pháp khí
Thọ thiên nhơn cúng.
Án chỉ rị chỉ rị phạ
nhựt ra hồng phấn tra.
211
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
(3 lần, 1 tiếng chuông, để chén xuống, ăn 3 muỗng hay
đũa, mỗi đũa niệm như sau: )
BA NGUYỆN
muỗng thứ nhứt:
Nguyện dứt tất cả điều ác.
muỗng thứ hai:
Nguyện làm tất cả điều lành.
muỗng thứ ba:
Nguyện độ tất cả chúng sanh.
(1 tiếng chuông, đôi đũa gác ngang bát cơm, hay
muỗng cắm giữa bình bát, niệm thầm:)
NĂM QUÁN
một là:
So lường công đức tu hành
Người kia mang đến cơm canh cúng dàng.
212
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
hai là:
Xét xem đức hạnh của mình
Thọ dụng nhiều ít, cân phân rõ ràng.
ba là:
Ngăn ngừa tội lỗi đã làm
Sân, si là gốc, tham lam đứng đầu.
bốn là:
Uống ăn là thuốc nhiệm mầu
Chữa lành thân bịnh, ốm o gầy mòn.
năm là:
Quyết chắc Đạo nghiệp vuông tròn
Cơm này thọ dụng, không còn quả, nhân.
(để bát xuống, xá 1 xá rồi dùng cơm. Dùng xong, nghe 1 tiếng
chuông, đại chúng đổ nước vào tráng bát, và đọc : )
CHÚ TRÁNG BÁT
Nước dùng tráng bát
Cam lồ thơm ngát
Thí các quỉ thần
213
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Đều được no đủ.
Án ma hưu ra tất tá ha.
CHÚ XỈA RĂNG
Khi đang xỉa răng
Cầu cho chúng sanh
Thân tâm thanh tịnh
Dứt hết phiền não.
Án, a mộ dà di ma lê, nhĩ phạ ca ra, tăng
du đà nể, bát đầu ma câu ma ra, nhĩ phạ
ca ra tăng thâu đà da, đà ra dà ra, tố di ma
lệ, ta phạ ha.
CHÚ UỐNG NƯỚC
Phật xem một bát nước
Có hơn tám muôn trùng
Nếu uống không niệm chú
Như ăn thịt chúng sanh.
Án phạ tất ba ra ma ni tá ha.
(Uống nước xong, 1 tiếng chuông, đồng tụng)
214
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
CHÚ KIẾT TRAI
Nam mô tát đa nẫm, tam miệu tam bồ đề,
cu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiết lệ chủ lệ
chuẩn đề, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông, và tiếp:)
Người phát tâm cúng dường
Lợi ích không thể lường
Nay, vui mừng bố thí
Sau, của báu vô phương.
Dùng cơm đã xong
Cầu cho chúng sanh
Trọn nhờ Pháp Phật
Thể nhập chân như.
(1 tiếng chuông, chỉ thầy cả phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
Chiếc áo thô do cô chức nữ
Tô cơm tẻ nhờ bác nông phu
215
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Người nào thọ dụng để tu
Nhớ ơn chức nữ, nông phu, ngày ngày.
PHỔ NGUYỆN
Đàn na tín cúng
Lợi lạc hiện tiền
Đầy đủ phúc duyên
Chứng nên Phật quả.
(3 lần, 1 tiếng chuông, đồng tụng)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(Phần quá đường đến đây xong. Nếu đi kinh hành,
Thầy cả xướng tiếp:)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
216
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(Vừa niệm Di Đà, vừa đi kinh hành, khi đứng lại, niệm
mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
217
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
SÁM PHỔ HIỀN
Đệ tử chúng con
Tùy thuận tu tập
Mười điều nguyện lớn
Của Đức Phổ Hiền:
(1 tiếng chuông )
Một là nguyện Phật thần thông
Chứng minh đệ tử thành công lâu dài.
Hai là nguyện lạy Như Lai
Cầu cho già trẻ gái trai làm lành.
Ba là nguyện phát chí thành
Cúng dường Tam Bảo tứ sanh khỏi nàn.
Bốn là nguyện dứt nghiệp oan
Vượt qua biển khổ ba đường thoát ra.
Năm là nguyện học thiền na
Bạn lành nương cậy, thầy tà lánh xa.
Sáu là nguyện Phật nói ra
Xoay vần chánh Pháp, khắp nhà đặng
nghe.
Bảy là nguyện Phật chở che
218
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Ở lâu dạy bảo người nghe tỏ lòng.
Tám là nguyện bạn ở chung
Mấy lời Phật dạy học cùng với nhau.
Chín là nguyện trước nhớ sau
Thuận theo thế tục dám đâu trái lời.
Mười là nguyện khắp trong đời
Xoay mình lướt tới thẳng dời Lạc Bang.
Tôn sư diễn nghĩa ít hàng
Cầu cho bá tánh Tây Phang mau về.
(1 tiếng chuông)
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
219
NGHI THỨC QUÁ ĐƯỜNG
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
220
ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT
221
NGHI THỨC
CÚNG VONG
GỒM CÓ :
∗ Hương Linh Lễ Phật (gia chủ lạy thế)
∗ Thỉnh Hương Linh
∗ Thỉnh Đức Quán Thế Âm Tiếp Dẫn
∗ Thỉnh Đức A Di Đà Tiếp Dẫn
∗ Thỉnh Đức Địa Tạng Tiếp Dẫn
∗ Xướng và Đọc Điệp (nếu có)
∗ Cúng Cơm và Nước
∗ Niệm Phật
∗ Sám Di Đà
∗ Tiễn Đưa Hương Linh
∗ Phục Nguyện
DÙNG ĐỂ :
Cúng các hương linh, như hương linh Ông, Bà,
Cha, Mẹ, vân vân. Cúng ở nhà hay ở chùa cũng
được.
222
NGHI THỨC CÚNG VONG
Nghi Thức
CÚNG VONG
(Đồ cúng chỉnh tề, tang chủ quỳ gối, dâng hương ngang
trán, vái tên họ người chết, cắm hương xong, chủ lễ
xướng:)
HƯƠNG LINH LỄ PHẬT
Tây Phương tiếp độ hương hồn.
(1 tiếng chuông, chúng đồng niệm:)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(1 tiếng chuông, chủ lễ xướng tiếp:)
Vong tựu Phật tiền, đảnh lễ tam
bái (1 tiếng chuông, chúng hòa:)
(3 tiếng chuông, chờ tang chủ lạy thế cho hương linh
xong, hữu ban tiếp:)
Hồ quỳ. (cầm 3 cây hương, chủ lễ cử tán: )
223
NGHI THỨC CÚNG VONG
THỈNH HƯƠNG LINH
Chơn ngôn thần lực dẫn hương linh
Từ chốn U Minh về Dương Thế
An tọa linh đường để nghe kinh
Tang môn hiếu tử linh đình cúng dâng...
Chủ lễ bái: Hương hoa thỉnh ,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông)
THỈNH ĐỨC QUÁN ÂM TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh:
Đức Quán Âm tu hành nhiều kiếp
Với lời nguyền tha thiết độ sanh
Khắp muôn nơi cầu nguyện chí thành
Ngài ứng hiện muôn hình tế độ.
(1 tiếng Chuông)
Cung vi:
Nam mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu
Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, tay
224
NGHI THỨC CÚNG VONG
cầm nhành liễu, phóng hào quang tiếp dẫn
hương linh, (tên họ: ..., Pháp danh: ..., sinh ngày: ...,
chết ngày: ..., tại: ...) hôm nay là Lễ ... ( Thọ Tang,
Tứ Cửu, Bách Nhật, Tiểu Tường, Đại Tường... ),
hương thơm ngào ngạt, cung thỉnh hương
linh ( lần I ), trở lại gia đình, lễ Phật nghe
Kinh.
[Nếu không cúng tại nhà, nên đổi chữ Gia Đường lại
là... (Đàn Tràng)].
Chủ lễ tiếp: Hương hoa thỉnh.
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông).
Hữu Ban: Duy nguyện:
Hồn về Dương Thế
Phách ở nơi nao?
Mau mau tỉnh ngộ
Vượt thoát trần lao.
Hương hoa thỉnh,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông)
225
NGHI THỨC CÚNG VONG
THỈNH ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh:
Sông mê rào rạt sóng tình
Biển đau lênh láng lệ mình khóc than
Muốn mau thoát khỏi trần gian
Hãy nên niệm Phật tiêu tan khổ nàn.
Cung vi:
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, tay bưng
kim đài, tiếp dẫn hương linh (tên họ: ..., Pháp
danh: ..., sinh ngày:..., chết ngày:..., tại:...) , hôm nay
là Lễ..., hương thơm ngào ngạt, cung
thỉnh hương linh, (lần II) , trở lại gia đình,
lễ Phật nghe Kinh.
Chủ lễ tiếp: Hương hoa thỉnh,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông).
Tả Ban: Duy Nguyện:
Thân cử bước thênh thang
226
NGHI THỨC CÚNG VONG
Tâm tự tại an nhàn
Tới lui không vướng mắc
Vượt thoát cảnh trần gian.
Hương hoa thỉnh,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông)
THỈNH ĐỨC ĐỊA TẠNG TIẾP DẪN
Chủ lễ thỉnh: Nhất tâm phụng thỉnh:
U Minh, dứt hết ngục hình
Dương gian, độ thoát chúng sanh không
còn.
Bồ Đề nguyện lớn vuông tròn
Chứng nên Phật quả không còn tử, sanh.
Cung vi:
Nam Mô U Minh Giáo Chủ Bổn Tôn Địa
Tạng Vương Bồ Tát, tay cầm tích trượng,
phóng hào quang tiếp độ hương linh (Tên
họ: …, Pháp danh: …, sinh ngày: …, chết ngày: …, tại:
…) , hôm nay là Lễ…, hương thơm ngào
227
NGHI THỨC CÚNG VONG
ngạt, cung thỉnh hương linh ( lần III ), trở lại
gia đình, lễ Phật nghe Kinh.
Chủ lễ tiếp: Hương hoa thỉnh,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông)
Hữu Ban: Duy nguyện:
Được nương nhờ oai thần chư Phật
Nay về đây thính Pháp văn Kinh
Hồn thiêng thụ hưởng linh đình
Nén hương, bát nước, ân (thâm) tình
cúng dâng.
Hữu Ban tiếp: Hương hoa thỉnh ,
(1 tiếng chuông)
Chúng hòa: Hương hoa triệu thỉnh.
(1 tiếng chuông)
Đại chúng đồng tụng:
Ba lần cung thỉnh
Hương linh đã về
Hồn thiêng an tọa linh sàn
Tang môn hiếu tử thiết đàn kính dâng.
Tả Ban: Tang chủ lễ nhị
228
NGHI THỨC CÚNG VONG
Chúng hòa: bái.
(2 tiếng chuông)
Hữu ban tiếp: Hồ quỳ.
XƯỚNG VÀ ĐỌC ĐIỆP (nếu có)
Chủ lễ xướng:
Âm dương đồng nhứt lý
Sanh tử chia đôi đàng
Điệp tang hợp thời đọc
Cầu chư Phật chứng minh.
(1 tiếng chuông)
(Đọc điệp xong, cúng cơm. Tang chủ gắp thức ăn, mỗi
thứ một chút, để vào bát cơm lưng, gác ngang đôi đũa,
chắp tay vái cúng)
CÚNG CƠM VÀ NƯỚC
Đồng tụng:
Nam Mô Đa Bảo Như Lai
Nam Mô Bảo Thắng Như Lai
Nam Mô Diệu Sắc Thân Như Lai
Nam Mô Quảng Bát Thân Như Lai
229
NGHI THỨC CÚNG VONG
Nam Mô Ly Bố Úy Như Lai
Nam Mô Cam Lồ Vương Như Lai
Nam Mô A Di Đà Như Lai.
( 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô tát phạ đát tha, nga đa phạ lồ
chỉ đế. Án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Hôm nay, dâng cúng cơm này
Sắc, hương, mỹ, vị biến đầy hư không
Thành tâm tha thiết ngưỡng mong
Hương linh nạp thọ, tấc lòng nhớ thương.
Mỹ Thanh Trai Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Chủ lễ xướng: Hiến trà,
(rót trà cúng, lần thứ nhứt)
Hữu Ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: bái.
(2 tiếng chuông)
Tả Ban: Hồ Quỳ.
(1 tiếng chuông, đồng tụng: )
230
NGHI THỨC CÚNG VONG
Nam mô tô rô bà da, đát tha nga đa da, đát
điệt tha. Án, tô rô tô rô, bát ra tô rô, bát ra
tô rô, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông).
Hữu Ban xướng:
Ruột se thắt, âm dương xa cách
Ngậm ngùi thay, hồn phách về đâu!?
Chủ lễ xướng: Hiến trà, (rót nước cúng lần thứ nhì)
Tả Ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: bái.
(2 tiếng chuông, đồng tụng)
Nam Mô Cam Lồ Vương Bồ Tát .
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Hữu Ban xướng:
Cam lồ một giọt linh thiêng
Tiêu trừ đói khát triền miên
Mật ngôn mầu nhiệm, hồn thiêng an lành.
Chủ lễ xướng: Hiến trà ,
(rót trà cúng, lần thứ ba)
231
NGHI THỨC CÚNG VONG
Tả Ban tiếp: Cúc cung lễ nhị
Chúng hòa: bái.
(2 tiếng chuông)
Hữu Ban: Hồ Quỳ.
(1 tiếng chuông, đồng tụng:)
Án, nga nga nẳng tam bà, phạ phiệt nhựt
ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Hữu ban xướng:
Hồn sắp thoát dương gian
Chốn U Minh mờ hiện
Âm dương chia đôi đàng
Bát hương, đôi nến gần tàn
Cúi xin chư Phật dẫn đàng hồn đi.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
232
NGHI THỨC CÚNG VONG
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
233
NGHI THỨC CÚNG VONG
SÁM DI ĐÀ
Muốn đi có một đường này
Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra
Vậy nên phải niệm Di Đà
Hồng danh sáu chữ thiệt là rất cao
Hay trừ tám vạn trần lao
Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng
thua.
Di Đà xưa cũng làm vua.
(1 tiếng chuông)
Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu
Xét ra từ kiếp đã lâu
Hiệu là Pháp Tạng tỳ kheo đó mà
Trong khi ngài mới xuất gia
Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.
Nguyện nào cũng lắm oai thần
Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh
Vì thương thế giới bất bình
Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi
Thầy là Bảo Tạng Như Lai
234
NGHI THỨC CÚNG VONG
Bạn là Bảo Hải tức Ngài Thích Ca.
Thích Ca nguyện độ Ta Bà
(1 tiếng chuông)
Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc Bang
Mở Ao Chín Phẩm sen vàng
Xây thành Bá Bửu đổ đàng thất trân
Lưu ly quả đất sáng ngần
Lầu châu cát ngọc mười phần trang
nghiêm
Hoa trời rưới cả ngày đêm
Có cây rất báu, có chim rất kỳ
Lạ lùng cái cảnh Phương Tây
Mười phương cảnh Phật, cảnh nào cũng
thua
Phong quang vui vẻ bốn mùa
Nước reo Pháp Phật, gió khuya nhạc trời,
Di Đà có thệ một lời
Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh
Mười phương ai phát lòng thành
Nhất tâm mà niệm Hồng Danh của Ngài
Hằng ngày trong lúc hôm mai
235
NGHI THỨC CÚNG VONG
Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm
Khi đi, khi đứng, khi nằm
Chuyên trì niệm Phật lòng chăm phát
nguyền
Nguyện sanh về chín phẩm liên
Là nơi Cực Lạc ở miền Tây Phương
Đến khi thọ mạng vô thường
Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền
Biết bao phước đức nhơn duyên
Đã về Cực Lạc còn phiền não chi
Sự vui trời cũng chẳng bì
Đêm đêm thong thả, ngày ngày vui chơi
Sống lâu kiếp kiếp đời đời
Không già không chết không dời đi đâu.
(1 tiếng chuông)
(Khi đang tụng chú Vãng Sanh, nếu có sớ nên đốt)
CHÚ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ,
đa địa dạ tha, a di rị đô, bà tỳ, a di rị đa,
tất đam bà tỳ, a di rị đa, tỳ ca lan đế, a di
236
NGHI THỨC CÚNG VONG
rị đa, tỳ ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa
ca lệ, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
TIỄN ĐƯA HƯƠNG LINH
Chỉ chủ lễ xướng:
Hồn về Cực Lạc Tây Phương
Ngát hương sen nở, hào quang sáng ngời
Chắp tay, vĩnh biệt cõi đời
Quán Âm, Thế Chí đón mời hồn đi.
(Chủ lễ tiếp:)
PHỤC NGUYỆN
Hồn siêu nơi cõi Tịnh
Nghiệp dứt chốn trần ai
Hoa sen chín phẩm vừa khai
Phật bèn thọ ký cho ngay nhứt thừa
Cầu xin chư Phật tiếp đưa
Hồn về Cực Lạc say sưa Pháp mầu
Nguyện cho hương linh...
237
NGHI THỨC CÚNG VONG
Sớm về cõi Phật
Hưởng cảnh thanh bình
Pháp giới chúng sinh
Trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng niệm:)
Nam Mô A Di Đà Phật.
Hữu Ban xướng: Tang Chủ tựu vị lễ tứ
Chúng hòa: bái.
(4 tiếng chuông, tang chủ lạy 4 lạy, lui ra).
238
BÁNH XE LUÂN HỒI
239
NGHI THỨC
LỄ PHÓNG SANH
(Sattva abhayadàna vidhi)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Hương Cúng Phật
∗ Chú Đại Bi
∗ Kệ Giải Nghiệp
∗ Niệm Phật
∗ Chú Nguyện
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Thả các loài súc vật để chúng được tự do. Để cầu phước cho
người hiện tiền được sống lâu, và người quá vãng được siêu
thăng cõi Phật.
240
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Nghi Thức
LỄ PHÓNG SANH
(Ứng dụng nghi thức này, khi có nhiều người tham dự. Trong
trường hợp đặc biệt, chỉ mặc niệm bài “CHÚ NGUYỆN” 3 lần,
rồi thả ngay. Phúc báo cũng vô lượng vô biên.)
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
241
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng
dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, chúng con phụng trì di giáo
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, một
dạ chí thành, thiết lễ phóng sanh, ngưỡng
mong Tam Bảo chứng minh và gia hộ cho:
(tên người mua sinh vật), đương đời phiền não
dứt sạch, nghiệp chướng tiêu tan, mạng vị
bình an, thân tâm thường lạc, và tất cả
chúng sanh, một thời đồng chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
242
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Nam Mô Tiêu Tai Duyên Thọ Dược Sư
Phật tác đại chứng minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
243
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo .
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
244
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười
phương,
Quyện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,
Pháp thân ảnh hiện rành rành,
Chứng minh hương nguyện, tâm thành
kính dâng.
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát
(3 lần, 1 tiếng chuông)
245
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
246
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ xướng)
247
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
KỆ GIẢI NGHIỆP
Chúng sanh đấy có bấy nhiêu
Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn
Các ngươi trước lòng trần tục lắm
Nên kiếp này chìm đắm sông mê
Bấy lâu chẳng biết tu trì
Gây bao tội ác lại về mình mang.
Sống đọa đầy chết thường đau khổ
Lông, da, sừng có đỡ được đâu
Dù là bay trước lặn sau
Lưới dây tên bắn lưỡi câu thả mồi
Tát cạn bắt cùng hơi hun độc
Lúc đó dù kêu khóc ai thương
Nằm trên chốc thớt lạ thường
Hồn còn phảng phất nấu rang xong rồi.
Muôn phần chết nay ngươi cầm chắc
May sao nhờ các bậc thiện nhân
Cứu cho ngươi được thoát thân
Đến đây lại được nhờ ân Pháp mầu.
Vậy ngươi kíp hồi đầu quy Phật
Cùng dốc lòng quy Pháp quy Tăng
248
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Chúng sanh quy y Phật
Chúng sanh quy y Pháp
Chúng sanh quy y Tăng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Chúng sanh quy y Phật,
Không đọa địa ngục.
Chúng sanh quy y Pháp
Không đọa ngạ quỷ.
Chúng sanh quy y Tăng
Không đọa bàng sanh.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Chúng sanh quy y Phật rồi
Chúng sanh quy y Pháp rồi
Chúng sanh quy y Tăng rồi.
(1 tiếng chuông)
Quy rồi tội chướng sạch băng
Trí khôn sáng tỏ tưng bừng khắp nơi
Phát tâm tu, sau rồi được hưởng
Về phương Tây sung sướng đời đời
Lên tòa sen hưởng thảnh thơi
249
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Không hề luân chuyển yên vui tháng ngày.
Xin đại chúng ra tay cứu khổ
Phát tâm cầu Phật độ chúng sanh
Cùng nhau dốc một lòng thành
Cầu cho thoát khỏi trong vành trầm luân.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
250
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
CHÚ NGUYỆN
(Mang sinh vật ra ngoài, chủ lễ mật niệm)
Nguyện cho (các) ngươi (chim, cá,
rùa...), đời đời tội diệt phước sanh, bỏ thân
này, đời sau gặp gỡ Ngôi Tam Bảo tu hành,
chứng quả Bồ Đề. Sau khi đắc Đạo rồi, ta
sẽ độ cho ngươi được giải thoát. Nam Mô
Quán Thế Âm Bồ Tát cứu thoát chúng
sanh, kiếp mãn viên trần, chứng vi viên
tướng, Bồ Đề Đạo độ chúng sanh.
251
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
(Niệm 3 lần, chủ lễ thả sinh vật. Trở lại bàn Phật, để
hồi hướng)
HỒI HƯỚNG
Phóng sinh công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ đạo mầu.
(1 tiếng chuông)
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
Nguyện đem công đức lành
252
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang
Vương Phật tác đại chứng minh.
Hôm nay, chúng con một dạ chí
thành, trì tụng Kinh, Chú, niệm Phật công
đức, cầu nguyện cho Phật tử (Tên:..., Pháp
danh ...), đương đời phiền não dứt sạch,
nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an,
thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt,
hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân
gian, đều thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
253
NGHI THỨC LỄ PHÓNG SANH
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
254
ĐỨC DI LẶC
255
NGHI THỨC
LỄ THÀNH HÔN
(Àvàha-vivàha vidhi)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tựa Kinh Lăng Nghiêm
∗ Lạy Báo Ân
∗ Bạch Phật
∗ Pháp Ngữ Sái Tịnh
∗ Lễ Trao Nhẫn
a. Năm Điều Chồng Đối Với Vợ
b. Năm Điều Vợ Đối Với Chồng
∗ Nguyện An Lành
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cử hành lễ cưới, cho đúng với luật lệ hiện hành.
256
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Nghi Thức
LỄ THÀNH HÔN
(Bên trai bên gái ngồi hay đứng cân phân hai bên, cô
dâu chú rể đứng giữa, chủ lễ bắt đầu:)
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ,
đạt mạ ta phạ, bà phạ truật đọ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương)
257
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
CÚNG HƯƠNG
Nguyện dâng hương mầu này
Cúng dường tất cả Phật
Tôn Pháp, chư Bồ Tát
Thinh Văn và Duyên Giác
Cùng các bậc Thánh Hiền
Duyên khởi đài sáng chói
Khắp xông mười phương cõi
Tỏa ngát các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ Đề
Xa lìa các vọng nghiệp
Trọn nên Đạo Vô Thượng.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Nay có Phật tử (tên họ:..., Pháp danh:...)
cung đối Phật tiền, phát nguyện kết hôn
với (tên họ:..., Pháp danh:...).
258
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Chúng con một dạ chí thành, ngưỡng
cầu Tam Bảo từ bi gia hộ cho hai họ được-
Loan Phụng hòa minh, sắt cầm duyên
hiệp, thấm nhuần Pháp Nhũ Hồng Ân, thọ
hưởng Cam Lồ Cát Khánh. Ngưỡng mong
Phật trí cao vời từ bi gia hộ.
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
259
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo .
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
260
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
KINH LĂNG NGHIÊM
NAM MÔ LĂNG NGHIÊM HỘI THƯỢNG
PHẬT BỒ TÁT.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Tâm Chánh Định như như bất động
Phật Ba Thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
261
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Vô minh dứt sạch, chứng liền Pháp Thân.
Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Độ chúng sanh như cát Sông Hằng
Thân, tâm nầy nát như trần (bụi)
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
(1 tiếng chuông)
Cung thỉnh Thế Tôn lại chứng minh
Đời năm trược con xin vào trước
Một chúng sanh quả Phật chưa thành
Con nguyền không chứng Vô Sanh Niết
Bàn
Đại Hùng, Đại Lực, Đại Từ Bi
Giúp con dứt sạch sân, si, buồn, phiền
Để sớm được lên miền Thượng Giác
Ngồi Đạo Tràng bát ngát mười phương
Hư không có thể tiêu tan
Nguyện con kiên cố không hề lung lay.
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Phật
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Pháp
Nam mô Thường Trụ Thập Phương Tăng
Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm
262
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Kim Cang Tạng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, từ nhục kế của Phật phóng
ra hào quang trăm báu với hoa sen ngàn
cánh. Trong mỗi hoa sen, có Hóa Phật
ngồi, từ đảnh Hóa Phật phóng ra mười đạo
hào quang trăm báu. Mỗi đạo hào quang
hiện ra nhiều Thần Kim Cang Mật Tích,
ông bưng núi, ông cầm xử vân vân, đứng
khắp cõi hư không. Đại chúng trông thấy,
vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót
che chở, và một lòng lắng nghe Phật nói
thần chú:
(1 tiếng chuông)
Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà
rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni
phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
263
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
LẠY BÁO ÂN
(Nếu hai họ đã làm lễ tạ Song Đường ở nhà rồi, phần
này nên bỏ qua, nếu không, chủ lễ xướng 4 câu sau đây
cho cô dâu chú rể lạy báo ân).
Chí tâm đảnh lễ, thiên địa phú tải chi ân,
nhựt nguyệt chiếu lâm chi đức, nhứt bái.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, chánh phủ ủng hộ chi
ân, thủy thổ thành thục chi đức, nhứt bái.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ sư trưởng giáo huấn chi
ân, phụ mẫu sanh thành chi đức, nhứt bái.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ đại thiện tri thức chi ân,
bằng hữu tương giao chi nghĩa nhứt bái.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
264
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
BẠCH PHẬT
Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam
Bảo.
(3 lần, 1 tiêng chuông, chỉ chủ lễ quỳ gối và xướng
tiếp:)
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay tác bạch cầu an
Cúi xin Phật tổ, lâm đàn chứng minh:
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, chủ lễ tiếp)
Ngưỡng khải Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật – nay có Phật tử (tên họ: ..., Pháp
danh: ...), cung đối Phật tiền, phát nguyện
kết hôn với (tên họ:..., Pháp danh:...), cần
cầu con Tỳ kheo Thích... làm chủ lễ.
Ngưỡng mong Đức Từ gia hộ cho hai họ
được: Loan Phụng hòa minh, sắt cầm
duyên hiệp, thấm nhuần Pháp Nhủ Hồng
Ân, thọ hưởng Cam Lồ Kiết Khánh.
Ngưỡng mong Phật trí cao vời từ bi gia hộ.
265
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
tác đại chứng minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
PHÁP NGỮ SÁI TỊNH
Cành dương nước tịnh rưới gia đường
Linh thiêng thấm mát khắp mười phương
Tiêu trừ cấu uế, tai ương
Đức Từ phò hộ, tông đường bình an.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha
Tát.
(3 lần, chủ lễ làm phép sái tịnh cho cô dâu chú rể)
LỄ TRAO NHẪN
(Chủ lễ nên giảng ý nghĩa chữ “trao nhẫn.” Sau khi, cô
dâu chú rể phát nguyện và trao nhẫn cho nhau xong,
nên có lời khuyên của cha mẹ bên trai, gái, người giám
hộ, hay lời chúc mừng của quan khách.)
NĂM ĐIỀU CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
(Chú rể tay cầm quyển kinh, hướng về Phật, và đọc lớn
những điều sau đây:)
266
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Tôi (tên họ...), nguyện suốt đời, vâng giữ 5
điều sau đây, để xây dựng hạnh phúc với
em (tên họ...)
ĐIỀU I: Con nguyện luôn luôn tín cẩn và
thương yêu vợ.
ĐIỀU II: Con nguyện bàn thảo mọi việc
với vợ trong tinh thần tôn trọng và hòa
thuận.
ĐIỀU III: Con nguyện chia xẻ với vợ trong
việc săn sóc con cái, và chăm nom gia đình.
ĐIỀU IV: Con nguyện đời đời sống bên
nhau, bằng tình thương chân thật, bằng trí
huệ sáng suốt, và bằng đức tánh kiên nhẫn.
ĐIỀU V: Con nguyện sống đời sống hằng
ngày sao cho xứng đáng với Đạo Đức của
Ông Bà và nghĩa vụ của Tổ Quốc đã đặt hy
vọng vào con.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
267
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
NĂM ĐIỀU VỢ ĐỐI VỚI CHỒNG
(Cô dâu tay cầm quyển kinh, hướng về Phật, và đọc lớn
những điều sau đây:)
Tôi (tên họ...), nguyện suốt đời, vâng giữ 5
điều sau đây, để xây dựng hạnh phúc gia
đình với anh (tên họ...).
ĐIỀU I: Con nguyện luôn luôn ân cần và
chiều chuộng chồng.
ĐIỀU II: Con nguyện luôn luôn hòa nhã
thảo luận công việc với chồng.
ĐIỀU III: Con nguyện bảo vệ, chăm lo gia
đình một cách chu đáo.
ĐIỀU IV: Con nguyện đời đời sống bên
nhau, bằng tình thương chân thật, bằng trí
huệ sáng suốt, và bằng đức tánh kiên
nhẫn.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
268
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
ĐIỀU V: Con nguyện sống đời sống hằng
ngày sao cho xứng đáng với Đạo Đức của
Ông Bà, và tiếp nối dòng họ của Tổ Tiên
đã đặt kỳ vọng vào con.
(Phát nguyện xong, cô dâu và chú rể trao nhẫn cưới
cho nhau.)
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an
lành.
(1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Tam Bảo giúp
an lành.
(1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
269
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
luôn an lành, ngưỡng mong Hộ Pháp giúp
an lành.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ
Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
270
NGHI THỨC LỄ THÀNH HÔN
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
271
ĐỨC THÍCH CA SƠ SANH
272
NGHI THỨC
LỄ PHẬT ĐẢN
(Buddha Jayantì)
GỒM CÓ:
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Bài Tụng Khánh Đản
∗ Xưng Tán Hồng Danh
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Tam Quy
∗ Hồi Hướng
DÙNG ĐỂ:
Cử hành Đại Lễ PHẬT ĐẢN hằng năm.
273
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Nghi Thức
LỄ PHẬT ĐẢN
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ mật niệm bài cúng hương.)
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
274
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Nam Mô Hương cúng dường, Lâm Tì Ni
Thị Hiện, Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Nay chính là ngày, Đức Thích Tôn giáng
thế để hóa độ chúng sanh. Chúng con một
dạ vui mừng, cúng dường kỷ niệm. Kính
dâng một nén tâm hương, ba nghiệp tinh
cần, cúi đầu đảnh lễ, nguyện y lời Phật dạy,
tụng kinh niệm Phật chuyên cần, quyết
theo Phật làm lành, báo đền công ơn hóa
độ, Tâm Bồ Đề kiên cố, chí tu học vững
bền, cùng pháp giới chúng sanh, nghiệp
chướng tiêu trừ, căn lành viên mãn, mau
chứng quả Vô Thượng Bồ Đề. Ngưỡng
mong Phật tổ cao vời, từ bi gia hộ.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá, đứng dậy)
275
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
276
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ, liên hoa đài thượng,
bá bảo quang trung, thiên bá ức hóa thân,
Ta Bà Giáo Chủ, Bổn Sư Thích ca Mâu
Ni Phật
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, Đẩu Xuất giáng thần,
Lâm Tì Ni thị hiện, Ta Bà Giáo Chủ, Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ, cam giá nguyên lưu,
ứng thân hiện thọai, Ta Bà Giáo Chủ,
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
BÀI TỤNG
Đệ tử hôm nay
Gặp ngày Khánh Đản
Một dạ vui mừng
277
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Cúi đầu đảnh lễ
Thập phương Tam Thế
Điều ngự Như Lai
Cùng Thánh, Hiền, Tăng.
(1 tiếng chuông)
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Bởi thiếu căn lành
Thảy đều sa đọa
Tham, sân chấp ngã
Quên hẳn đường về
Tình ái si mê
Tù trong lục đạo
Trăm dây phiền não
Nghiệp báo không cùng.
Nay nhờ Phật Tổ Năng Nhơn
Dũ lòng lân mẫn
Không nỡ sinh linh thiếu phước
Nặng kiếp luân hồi
Đêm dày tăm tối
Đuốc tuệ rạng soi
Nguyện cứu muôn loài
Pháp dùng phương tiện
278
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Ta Bà thị hiện
Thích chủng thọ sanh
Thánh Ma Gia mộng ứng điềm lành
Vua Tịnh Phạn phước sanh con thảo
Ba mươi hai tướng tốt
Vừa mười chín tuổi xuân
Lòng từ ái cực thuần
Chí xuất trần quá mạnh
Ngai vàng quyết tránh
Tìm lối xuất gia
Sáu năm khổ hạnh rừng già
Bảy thất nghiêm tinh thiền tọa
Chứng thành đạo quả
Hàng phục ma binh
Ba cõi đều dậy tiếng hoan nghênh
Muôn vật thảy nhờ ơn tế độ
Chúng con nguyền
Dứt bỏ dục tình ngoan cố
Học đòi đức tánh quang minh
Cúi xin Phật Tổ giám thành
Từ Bi gia hộ
279
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Chúng con cùng pháp giới chúng sanh
Chóng thành Đạo Cả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ xướng)
XƯNG TÁN HỒNG DANH
Thích Ca thị hiện Ta Bà
Trời, người hớn hở dâng hoa cúng dường
Báu thân rực rỡ phi thường
Mâu Ni là Đấng Pháp Vương cứu đời.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
Nam Mô Ta Bà Thế Giới, Tam Giới Đạo
Sư, Tứ Sinh Từ Phụ, Nhơn Thiên Giáo
Chủ, Thiên Bá Ức Hóa Thân, Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(Niệm Hồng Danh Đức Bổn Sư nhiều hay ít, tùy theo số
người tắm Phật; các Hồng Danh sau đây niệm 3 lần, 1
tiếng chuông)
280
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
281
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
282
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
283
NGHI THỨC LỄ PHẬT ĐẢN
HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
284
VU LAN THẮNG HỘI
CHÙA PHẬT TỔ, LONG BEACH 2010
285
NGHI THỨC
LỄ VU LAN
[Kinh Vu Lan Bồn (Ullambana Sùtra)]
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Hương cúng Phật
∗ Chú Đại Bi
∗ Kệ Khai Kinh
∗ Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu
∗ Kinh Vu Lan Bồn
∗ Khen Ngợi Đức Mục Kiền Liên
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Chú Vãng Sanh
∗ Niệm Phật
∗ Sám Vu Lan
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Tụng niệm trong mùa Vu Lan, nhớ lại công ân sanh thành dưỡng
dục của cha mẹ, và gương hiếu hạnh của Tôn giả Mục Kiền Liên.
Khi tụng kinh, Phật tử nên chí thành cầu chư Phật và Hiền Thánh
Tăng từ bi gia hộ cho cửu huyền thất tổ, đa sanh phụ mẫu, lục thân
quyến thuộc vân vân, được sớm siêu thăng Phật quốc.
286
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Nghi Thức
LỄ VU LAN
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám .
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương)
287
NGHI THỨC LỄ VU LAN
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay là ngày chư Tăng xuất hạ, đem
đức lành chú nguyện chúng sanh, chúng
con một dạ chí thành, thiết lễ hương hoa
cúng dường và trì tụng kinh chú, xin đem
công đức này, ngưỡng nguyện Đức Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật, Tiếp Dẫn Đạo Sư
288
NGHI THỨC LỄ VU LAN
A Di Đà Phật, cùng các vị Bồ Tát, tịnh đức
chúng Tăng từ bi gia hộ cho hương linh
Phật tử:…, cùng tất cả chúng sanh, sớm rõ
đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u
đồ, siêu thăng Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai
đức cao dày, xót thương tiếp độ.
Nam Mô Thập Phương Thường Trú
Tam Bảo tác đại chứng minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
289
NGHI THỨC LỄ VU LAN
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
290
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Lư hương vừa ngún chiên đàn,
Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười
phương,
Quyện thành mây báu kiết tường,
Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,
Pháp thân ảnh hiện rành rành,
Chứng minh hương nguyện, tâm thành
kính dâng.
291
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha
Tát.
(6 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
292
NGHI THỨC LỄ VU LAN
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
293
NGHI THỨC LỄ VU LAN
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Phật Nói
KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU
Một thuở nọ, Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Chư Tăng câu hội rất đông
Tính ra đến số hai muôn tám ngàn
Lại cũng có các hàng Bồ Tát
Hội tại đây đủ mặt thường thường.
Bây giờ, Phật lại lên đường
Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến
hành
294
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Đến giữa đường, rành rành mắt thấy
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
Thế Tôn bèn vội đến nơi
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng.
Đức A Nan tủi lòng ái ngại
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?
Vội vàng xin Phật dạy tường
Thầy là Từ Phụ ba phương, bốn loài
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
Phật rằng: trong các môn đồ
Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
Nên vì ngươi ta rõ đuôi đầu:
(1 tiếng chuông)
Đống xương dồn dập bấy lâu
Cho nên trong đó biết bao cốt hài
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh
Luân hồi sanh tử, tử sinh
Lục thân đời trước thi hài còn đây
Ta lễ bái kính người tiền bối
295
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Và ngậm ngùi nhớ tới kiếp xưa
Đống xương hỗn tạp chẳng vừa
Không phân trai gái bỏ bừa khó coi
Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ
Phân làm hai, bên nữ bên nam
Để cho phân biệt cốt phàm
Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng
Đức A Nan trong lòng tha thiết
Biết làm sao phân biệt khỏi sai
Ngài bèn xin Phật chỉ bày
Khó lòng chọn lựa gái trai lúc này
Còn sinh tiền dễ bề sắp đặt
Cách đứng đi ăn mặc phân minh
Đến khi rã xác tiêu hình
Xương ai như nấy khó nhìn khó phân
Phật mới bảo A Nan nên biết:
(1 tiếng chuông)
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Đàn ông xương trắng nặng hoằng
Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sinh đẻ mà ra
296
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con
Vì cớ ấy hao mòn thân thể
Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai
A Nan nghe vậy bi ai
Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh
Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo
Phương pháp nào báo hiếu song thân?
Thế Tôn mới giảng ân cần:
(1 tiếng chuông)
Vì ngươi ta sẽ phân trần, lóng nghe
Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc
Sanh đặng con mười tháng cưu mang
Tháng đầu thai đậu tợ sương
Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường
Tháng thứ nhì dường như sữa đặc
Tháng thứ ba như cục huyết ngưng
Bốn tháng đã tượng ra hình
Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng
Tháng thứ sáu lục căn đều đủ
Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương
Lại thêm đủ lỗ chơn lông
297
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Cộng chung đến số tám muôn bốn ngàn
Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ
Chín tháng thì đầy đủ vóc hình
Mười tháng thì đến kỳ sinh
Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn.
Bằng ngỗ nghịch làm buồn thân mẫu
Nó vẫy vùng, đạp quấu lung tung
Làm cho cha mẹ hãi hùng
Sự đau, sự khổ không cùng tỏ phân
Khi sinh sản muôn phần an lạc
Cũng ví như được bạc, được vàng
Thế Tôn lại bảo A Nan:
(1 tiếng chuông)
Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin
Điều thứ nhứt - giữ gìn thai giáo
Mười tháng trường châu đáo mọi bề.
Thứ hai – sinh sản gớm ghê
Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần.
Điều thứ ba – thâm ân nuôi dưỡng
Cực đến đâu bền vững chẳng lay.
Thứ tư – ăn đắng nuốt cay
298
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con.
Điều thứ năm - lại còn khi ngủ
Ướt mẹ nằm, khô ráo phần con.
Thứ sáu – sú nước nhai cơm
Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê.
Điều thứ bảy – không chê ô uế
Giặt đồ dơ của trẻ không phiền.
Thứ tám - chẳng nỡ chia riêng
Nếu con đi vắng cha phiền, mẹ lo.
Điều thứ chín - miễn cho con sướng
Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam
Tính sao có lợi thì làm
Chẳng màng tội lỗi, bị giam, bị cầm.
Điều thứ mười - chẳng ham trau chuốt
Dành cho con các cuộc thanh nhàn
Thương con như ngọc như vàng
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái Sơn.
Phật lại bảo, A Nan nên biết:
(1 tiếng chuông)
Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người
Mười phần mê muội cả mười
Không tường ơn trọng đức dày song thân
299
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Chẳng kính mến quên ơn trái đức
Không xót thương dưỡng dục cù lao
Ấy là bất hiếu mặc giao
Những hạng người ấy đời nào nên thân.
Mẹ sanh con cưu mang mười tháng
Cực khổ dường gánh nặng trên vai
Uống ăn chẳng đặng vì thai
Cho nên thân thể hình hài kém suy.
Khi sinh sản hiểm nguy chi xiết
Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề
Ví như thọc huyết trâu dê
Nhất sinh thập tử nhiều bề gian nan.
Con còn nhỏ lo toan săn sóc
Ăn đắng, cay, bùi, ngọt phần con
Phải tắm phải giặt rửa trôn
Biết rằng dơ dáy, mẹ không ngại gì.
Nằm phía ướt, con nằm phía ráo
Sợ cho con ướt áo, ướt chăn
Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân
Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương.
Trọn ba năm bú nương sữa mẹ
Thân gầy mòn nào nệ với con
300
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Khi con vừa được lớn khôn
Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng
Con đi học mở thông trí tuệ
Dựng vợ chồng cho dễ làm ăn
Ước mong con được nên thân
Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi.
Con ốm đau tức thì lo chạy
Dầu tốn hao đến mấy cũng đành
Khi con căn bệnh đặng lành
Thì cha mẹ mới an thần định tâm.
Công dưỡng dục sánh bằng non biển
Cớ sao con chẳng biết ơn này
Hoặc khi lầm lỗi bị rầy
Chẳng tuân thì chớ, lại bày ngỗ ngang
Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt
Khi trưởng huynh, nộ nạt thê nhi
Bà con chẳng kể ra chi
Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường.
Lời dạy bảo song đường không kể
Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng
Trái ngang chóng báng mọi đàng
Ra vào lui tới mắng càn người trên.
301
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Vì lỗ mãng tánh quen làm bướng
Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn
Lớn lên theo thói hung hăng
Đã không nhẫn nhịn, lại càng làm hung.
Bỏ bạn lành, theo cùng chúng dữ
Nết tập quen, làm sự trái ngang
Nghe lời dụ dỗ huyênh hoang
Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.
Trước còn tập theo thời theo thế
Thân lập thân, tìm kế sinh nhai
Hoặc đi buôn bán kiếm lời
Hoặc vào quân lính với đời lập công.
Vì ràng buộc đồng công mối nợ
Hoặc trở ngăn vì vợ, vì con
Quên cha, quên mẹ tình thâm
Quê hương xứ sở lâu năm không về.
Ấy là nói những người có chí
Chớ phần nhiều du hí mà thôi
Sau khi phá hết của rồi
Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài.
Theo trộm cướp, hoặc là bài bạc
Phạm tội hình, tù rạc phải vương
302
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Hoặc khi mang bệnh giữa đường
Không người nuôi dưỡng, bỏ thân ngoài
đồng.
Hay tin dữ bà con cô bác
Cùng mẹ cha xao xác buồn rầu
Thương con than khóc ưu sầu
Có khi mang bịnh đui mù vấn vương
Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ
Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn
Hoặc nghe con chẳng lo lường
Trà đình tửu điếm phố phường ngao du
Cứ mải miết con đường bất chính
Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan
Làm cho cha mẹ than van
Sinh con bất hiếu phải mang tiếng đời.
Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu
Không ai nuôi thốn thiếu mọi điều
Ốm đau đói rách kêu rêu
Con không cấp dưỡng, bỏ liều chẳng
thương.
Phận con gái khi nương cha mẹ
Còn có lòng hiếu để thuận hòa
303
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Cần lao phục dịch trong nhà
Dễ sai, dễ khiến hơn là nam nhi.
Song đến lúc tùng phu xuất giá
Lo bên chồng, chẳng sá bên mình
Trước còn lai vãng đến thăm
Lần lần nguội lạnh biệt tăm biệt nhà.
Quên dưỡng dục song thân ân trọng
Không nhớ công mang nặng đẻ đau
Chẳng lo báo bổ cù lao
Làm cho cha mẹ tuôn trào lệ rơi.
Nếu mẹ cha la rầy quở mắng
Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiên
Đến khi chồng đánh liên miên
Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than.
Tội bất hiếu lưỡng ban nam nữ
Nói không cùng nghiệp dữ phải mang
Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng
Tất cả đại chúng lòng càng thảm thay.
Gieo xuống đất, lấy cây lấy củi
Đập vào mình, vào mũi, vào hông
Làm cho các lỗ chân lông
Thảy đều rướm máu ướt dầm cả thân
304
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Đến hôn mê tâm thần bất định
Một giây lâu mới tỉnh than rằng:
Bọn ta quả thật tội nhân
Xưa nay chẳng rõ, không hơn người mù.
Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc
Ruột gan dường như nát như tan
Tội tình khó nỗi than van
Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu.
Trước Phật tiền ai cầu trấn tố
Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân
Làm sao báo đáp thâm ân
Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?
Phật bèn dùng phạm thinh sáu món
Phân tỏ cùng đại chúng lóng nghe
Ân cha, nghĩa mẹ nặng nề
Không phương báo đáp cho vừa sức đâu.
Ví có người ân sâu dốc trả
Cõng mẹ cha tất cả hai vai
Giáp vòng hòn núi Tu Di
Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.
Ví có người gặp cơn đói rét
Nuôi song thân dâng hết thân này
305
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Xương nghiền thịt nát phân thây
Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.
Ví có người vì công sanh dưỡng
Tự tay mình khoét thủng song ngươi
Chịu thân mù tối như vầy
Đến trăm ngàn kiếp ơn này thấm đâu.
Ví có người cầm dao thiệt bén
Mổ bụng ra rút hết tâm can
Huyết ra khắp đất chẳng than
Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.
Ví có người dùng ngàn mũi nhọn
Đâm vào mình bất luận chỗ nào
Tuy là sự khó biết bao
Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền
Ví có người vì ân dưỡng dục
Tự treo mình, cúng Phật thế đèn
Cứ treo như vậy trọn năm
Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.
Ví có người xương nghiền ra mỡ
Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình
Xương tan, thịt nát chẳng phiền
Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.
306
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Ví có người vì công dưỡng dục
Nuốt sắt nóng thấu ruột thấu gan
Làm cho thân thể tiêu tan
Đến trăm ngàn kiếp chưa ngang ơn này.
Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng
Giọt lệ trần khó nỗi cầm ngăn
Đồng thanh bạch với Phật rằng
Làm sao trả đặng thâm ân song đường?
Phật mới bảo các hàng Phật tử:
(1 tiếng chuông)
Phải lắng nghe ta chỉ sau này
Chúng ngươi muốn đáp ơn dày
Phải nên biên chép kinh đây lưu truyền.
Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng
Cùng ăn năn những tội lỗi xưa
Cúng dường Tam Bảo sớm trưa
Cùng là tu phước, chẳng chừa món chi.
Rằm tháng bảy là ngày Tự Tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Sắm sanh lễ vật đủ đầy
Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng
307
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Hoặc sanh về Tịnh Độ an nhàn
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân của
mình.
Phật tử phải cần chuyên trì giới
Pháp Tam Quy, ngũ giới giữ gìn
Những lời ta dạy đinh ninh
Phải nên vâng giữ thi hành đừng sai.
Được như vậy mới là khỏi tội
Bằng chẳng thì ngục tối phải sa
Trong năm đại tội kể ra
Bất hiếu thứ nhứt, thật là trọng thay.
Sau khi chết, bị đày vào ngục
Ngũ Vô gián cũng gọi A Tỳ
Ngục này trong núi Thiết Vi
Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề.
Trong ngục này hằng ngày lửa cháy
Đốt tội nhân hết thảy thành than
Có lò nấu sắt cho tan
Rót vào trong miệng tội nhân hành hình.
Một vá đủ cho người thọ khổ
308
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Lột thịt da đau thấu tâm can
Lại còn chó sắt cắn gang
Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.
Ở trong ngục có giường bằng sắt
Bắt tội nhơn nằm khắp đó xong
Rồi cho một ngọn lửa hồng
Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau.
Móc bằng sắt thương đao gươm giáo
Trên không trung đổ xuống như mưa
Gặp ai chém nấy chẳng chừa
Làm cho thân thể như dưa chín muồi.
Những hình phạt vô phương kể hết
Mỗi ngục đều có cách trị riêng
Như là xe sắt phân thây
Chim ưng mổ bụng trâu cày lưỡi le.
Nếu chết được, chết liền cho đỡ
Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân
Ngày đêm sống chết muôn lần
Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một
giây.
Sự hành phạt tại A Tỳ ngục
Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân
309
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Chúng ngươi đều phải ân cần
Thừa hành lời dạy, phân trần ở trên.
Nhứt là phải kinh này biên chép
Truyền bá ra cho khắp Đông Tây
Như ai chép một quyển này
Cũng bằng đặng thấy một vì Thế Tôn.
Nếu in đặng nghìn muôn quyển ấy
Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên
Tùy theo phước báo lưu truyền
Chư Phật ủng hộ sở nguyền viên dung.
Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh
Lại hóa sanh về cảnh thiên cung
Nghe lời Phật giảng vừa xong
Khắp trong tứ chúng một lòng kính vâng.
Lại phát nguyện dù thân này nát
Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài
Dầu cho kéo lưỡi trâu cày
Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên.
Ví như bị trăm ngàn dao mác
Khắp thân này bằm nát như tương
Trải trăm ngàn kiếp khôn lường
Chúng con gìn giữ như phương thuốc mầu.
310
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Đức A Nan âu sầu đảnh lễ
Cầu Thế Tôn đặt để hiệu kinh
Dễ bề truyền bá chúng sanh
Chuyên trì phúng tụng tu hành mai sau.
Phật mới bảo A Nan nên biết :
Quyển kinh này quả thiệt cao xa
Đặt tên ‘BÁO HIẾU MẸ CHA’
Cùng là ‘ÂN TRỌNG’ thật là chơn kinh.
Các ngươi phải giữ gìn châu đáo
Để đời sau, y giáo phụng hành.
Sau khi, Phật dạy đành rành
Bốn hàng Phật tử tâm thành vui theo.
Cùng một lòng vâng lời Phật dạy
Và kính thành tin chắc vẹn truyền
Đồng nhau tựu lại Phật tiền
Nhất tâm đảnh lễ, rồi liền lui ra.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
311
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Phật Nói
KINH VU LAN BỒN
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ
Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung
Mục Liên mới đặng sáu thông
Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
Công dưỡng dục thâm ân dốc trả
Nghĩa sanh thành đạo cả mong đền
Làm con hiếu hạnh vi tiên
Bèn dùng huệ nhãn dưới trên kiếm tìm.
Thấy vong mẫu sanh làm ngạ quỷ
Không uống ăn tiều tụy hình hài
Mục Liên thấy vậy bi ai
Biết mẹ đói khát ai hoài tình thâm.
Lo phẩm vật đem dâng từ mẫu
Đặng đỡ lòng cực khổ bấy lâu
Thấy cơm mẹ rất lo âu
Tay tả che đậy, hữu hầu bốc ăn.
Lòng bỏn xẻn tiền căn chưa dứt
Sợ chúng ma cướp giựt của bà
Cơm đưa chưa đến miệng đà
312
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Hóa thành lửa đỏ, nuốt mà được đâu.
Thấy như vậy âu sầu thê thảm
Mục Kiền Liên bi thảm xót thương
Mau mau về chốn giảng đường
Bạch cùng Sư Phụ tìm phương giải nàn.
Phật mới bảo rõ ràng căn cội
(1 tiếng chuông)
Rằng mẹ ngươi gốc tội kết sâu
Dầu ngươi thần lực nhiệm mầu
Một mình không thể khấn cầu được đâu.
Lòng hiếu thảo của ngươi dầu lớn
Tiếng vang đồn thấu đến Cửu Thiên
Cùng là các bực Thần kỳ
Tà ma ngoại đạo, bốn vì Thiên Vương
Cộng ba cõi sáu phương tu tập
Cũng không phương cứu tế mẹ ngươi
Muốn cho cứu được mạng người
Phải nhờ thần lực của mười phương Tăng.
Pháp cứu tế ta toan giảng nói
Cho mọi người thoát khỏi ách nàn
Bèn kêu Mục thị đến gần
Truyền cho diệu pháp ân cần thiết thi :
313
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Rằm tháng bảy là ngày Tự Tứ
(1 tiếng chuông)
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu.
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang, dầu
Món ăn trong sạch báu mầu
Đựng trong bình bát vọng cầu kính dâng.
Chư Đại Đức mười phương thọ thực
Trong bảy đời sẽ được siêu thăng
Lại thêm cha mẹ hiện tiền
Đặng nhờ phước lực tiêu khiên ách nàn.
Vì ngày ấy Thánh Tăng đều đủ
Dầu ở đâu cũng tụ hội về
Như người thiền định sơn khê
Tránh điều phiền não chăm về thiền na
Hoặc người đặng bốn tòa đạo quả
Công tu hành nguyện thỏa vô sanh
Hoặc người thọ hạ kinh hành
Chẳng ham quyền quý ẩn danh lâm tòng
Hoặc người được lục thông tấn phát
314
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Và những hàng Duyên Giác, Thinh Văn
Hoặc chư Bồ Tát mười phương
Hiện hình làm sãi ở gần chúng sanh
Đều trì giới rất thanh, rất tịnh
Đạo đức dày chánh định chơn tâm
Tất cả các bực Thánh, Phàm
Đồng lòng thọ lãnh bát cơm lục hòa
Người nào có sắm ra vật thực
Để cúng dường Tự Tứ Tăng thời
Hiện tiền phụ mẫu của người
Bà con quyến thuộc thảy đều nhờ ơn.
Tam đồ khổ chắc rằng ra khỏi
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên.
Như còn cha mẹ hiện tiền
Nhờ đó cũng được bá niên thọ trường.
Như cha mẹ bảy đời quá vãng
Sẽ hóa sanh về cõi thiên cung
Người thời tuấn tú hình dung
Hào quang chiếu sáng khắp cùng châu
thân.
Phật dạy bảo mười phương tăng chúng
Phải tuân theo thể thức sau này:
315
NGHI THỨC LỄ VU LAN
(1 tiếng chuông)
Trước khi thọ thực đàn chay
Phải cầu chú nguyện cho người tín gia
Cầu thất thế mẹ cha thí chủ
Định tâm thần quán đủ đừng quên
Cho xong định ý hành thiền
Mới dùng phẩm vật đàn tiền hiến dưng
Khi thọ dụng, nên an vật thực
Trước Phật đài hoặc tự tháp trung
Chư Tăng chú nguyện viên dung
Sau rồi tự tiện thọ dùng bữa trưa
Pháp cứu tế Phật vừa nói dứt
Mục Liên cùng Bồ Tát chư Tăng
Đồng nhau tỏ dạ vui mừng
Mục Liên cũng hết khóc thương buồn rầu
Mục Liên mẫu cũng trong ngày ấy
Kiếp khổ về ngạ quỷ được tan.
Mục Liên bạch với Phật rằng:
(1 tiếng chuông)
Mẹ con nhờ sức Thánh Tăng khỏi nàn
Lại cùng nhờ oai thần Tam Bảo
Nếu không thời nạn khổ khó ra
316
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Như sau Phật tử xuất gia
Vu Lan Bồn pháp dùng mà độ sanh
Độ cha mẹ còn đương tại thế
Hoặc bảy đời có thể được không ?
Phật rằng: Lời hỏi rất thông
Ta vừa muốn nói, ngươi liền hỏi theo.
Thiện nam tử, Tỳ kheo nam nữ
Cùng Quốc vương, Thái tử, Đại thần
Tam Công, Tể tướng, Bá quan
Cùng hàng lê thứ vạn dân cõi trần
Như chí muốn đền ơn cha mẹ
Hiện tại cùng thất thế tình thâm
Đến rằm tháng Bảy mỗi năm
Sau khi kiết hạ, chư Tăng tựu về
Chính ngày ấy Phật đà hoan hỷ
Phải sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ Tự Tứ, chúng Tăng cúng dường
Đặng cầu nguyện song đường trường thọ
Chẳng ốm đau cũng chẳng khổ chi
Cùng cầu thất thế đồng thời
Lìa nơi ngạ quỷ, sanh về nhơn, thiên
317
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Đặng hưởng phước nhân duyên vui đẹp
Lại xa lìa nạn khổ cực thân
Môn sanh Phật tử ân cần
Hạnh tu hiếu thuận phải cần phải chuyên
Thường cầu nguyện thung huyên an hảo
Cùng bảy đời phụ mẫu siêu sanh
Ngày rằm tháng bảy mỗi năm
Vì lòng hiếu thảo ân thâm phải đền.
Lễ cứu tế chí thành sắp đặt
Ngõ cúng dường chư Phật chư Tăng
Ấy là báo đáp thù ân
Sanh thành dưỡng dục song thân buổi đầu.
Đệ tử Phật lo âu gìn giữ
Mới phải là Thích tử Thiền môn.
Vừa nghe dứt pháp Lan Bồn
Môn sanh tứ chúng thảy đồng hỷ hoan
Mục Liên với bốn ban Phật tử
Nguyện một lòng tín sự phụng hành.
(1 tiếng chuông)
318
NGHI THỨC LỄ VU LAN
KHEN NGỢI ĐỨC MỤC KIỀN LIÊN
Mục Liên Tôn Giả
Thay Phật tuyên hành
Gậy vàng vừa gõ
Cửa ngục băng thanh
Tội nhơn giải thoát
Tịnh Độ hóa sinh
Phúc huệ mãi an lành.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
319
NGHI THỨC LỄ VU LAN
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
320
NGHI THỨC LỄ VU LAN
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
CHÚ VÃNG SANH
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa
địa dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất
đam bà tỳ, a di rị đa tỳ ca lan đế, a di rị đa
tỳ ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ
ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
321
NGHI THỨC LỄ VU LAN
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
322
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
SÁM VU LAN
Đệ tử chúng con
Vâng lời Phật dạy
Ngày rằm tháng Bảy
Gặp hội Vu Lan
Phạm Vũ huy hoàng
Đốt hương đảnh lễ
Mười phương Tam thế
Phật, Pháp, Thánh, Hiền
Noi gương đức Mục Kiền Liên
Nguyện làm con thảo
(1 tiếng chuông)
Lòng càng ảo não
Nhớ nghĩa thân sanh
Con đến trưởng thành
Mẹ dày đau khổ
Ba năm nhũ bộ
Chín tháng cưu mang
323
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Không ngớt lo toan
Quên ăn bỏ ngủ
Ấm no đầy đủ
Cậy có công cha
Chẳng quản yếu già
Sanh nhai lam lũ
Quyết cùng hoàn vũ
Phấn đấu nuôi con
Giáo dục vuông tròn
Đem đường học đạo
Đệ tử ơn sâu chưa báo
Hổ phận kém hèn
Giờ này quỳ trước đài sen
Chí thành cung kính
Đạo tràng thanh tịnh
Tăng Bảo trang nghiêm
Hoặc thừa tự tứ
Hoặc hiện tham thiền
Đầy đủ thiện duyên
Dũ lòng lân mẫn
Hộ niệm cho:
(1 tiếng chuông)
324
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Bảy kiếp cha mẹ chúng con
Đượm nhuần mưa Pháp
Còn tại thế:
Thân tâm yên ổn
Phát nguyện tu trì
Đã qua đời:
Ác đạo xa lìa
Chóng thành Phật quả
Ngưỡng mong các đức Như Lai
Khắp cõi hư không
Từ bi gia hộ.
(1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG
Cầu siêu công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sanh trong pháp giới
Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu.
325
NGHI THỨC LỄ VU LAN
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát đạo cứu đời lầm than.
Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang
Chín phẩm sen vàng, nơi hóa sanh
Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành
Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.
(1 tiếng chuông)
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông)
(chỉ chủ lễ phục nguyện)
326
NGHI THỨC LỄ VU LAN
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát
Tác Đại Chứng Minh.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Xe Tam Thừa lộng lẫy, Thuyền Bát Nhã
thênh thang, sáu đường dốc ngược đèo
ngang, ba cõi sông mê lặn hụp, thảm nỗi
oan khiên lắm lúc, hương linh không đủ
phước vãng sanh. Nguyện hương linh: ...
nay được an lành, nghe kinh kệ siêu thăng
Tịnh Độ, vượt qua bể khổ, thoát khỏi Ta
Bà, sen vàng chín phẩm nở hoa, pháp thân
hiện Di Đà thọ ký. Âm siêu dương thới,
pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật
quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
327
NGHI THỨC LỄ VU LAN
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
328
NAM MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG
NHƯ LAI
329
NGHI THỨC
TỤNG KINH DƯỢC SƯ
(Bhaisajayaguru Sùtra)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Dương Chi
∗ Chú Đại Bi
∗ Kệ Khai Kinh
∗ Kinh Dược Sư
∗ Chú Dược Sư Quán Đảnh
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Niệm Phật
∗ Sám Dược Sư
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cầu nguyện cho những người đau liệt giường liệt chiếu, hay những
bệnh nan y, thuốc men không thể chữa trị, nếu gia đình người bệnh
thành tâm tụng kinh này, và cầu nguyện Đức Dược Sư, bệnh nhân sẽ
được khỏi. Hơn nữa, người hay chiêm bao thấy những cảnh tượng
rùng rợn, hay bị bùa chú ếm đối vân vân, người đó thành tâm tụng
Kinh Dược Sư, Ngài sẽ phò hộ cho. Vì nhiều điều lợi lạc vừa kể trên,
nên kinh này thường được tụng vào mỗi đầu năm.
330
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Nghi Thức
TỤNG KINH DƯỢC SƯ
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm)
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
331
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng
dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CẦU NGUYỆN
Hôm nay, đệ tử chúng con, phụng trì
di giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
trì tụng Dược Sư Kinh chú, xưng tán Hồng
Danh, tu hành công đức, ngưỡng nguyện
mười phương Tam Bảo, từ bi gia hộ cho
(tên họ…), đương đời phiền não dứt sạch,
nghiệp chướng tiêu trừ, thường được an
lành, xa lìa khổ ách, cùng hết thảy chúng
sanh, một thời đồng chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác .
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
332
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, đại chúng đồng tụng)
333
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
334
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát
Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
335
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
336
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
337
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
PHẬT NÓI
KINH DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG
NHƯ LAI BỔN NGUYỆN CÔNG ĐỨC
Ta nghe như vầy: một thuở nọ, Đức
Bạt Già Phạm đi châu du giáo hóa ở các
nước, đến thành Quảng Nghiêm, ở nghỉ
dưới cây Nhạc Âm, cùng với tám ngàn vị
đại Bí Sô, ba vạn sáu ngàn vị đại Bồ Tát,
các hàng Quốc Vương, Đại Thần, Bà La
Môn, các hàng Cư Sĩ, Thiên Long Bát Bộ,
Trời, Người, cả thảy đồng vây quanh
Phật, cung kính thỉnh Ngài thuyết pháp.
(1 tiếng chuông)
Lúc bấy giờ, ông Mạn Thù Thất Lợi
pháp vương tử nhờ oai thần của Phật, từ
chỗ ngồi đứng dậy, vén áo bên hữu và gối
bên mặt quì sát đất, chắp tay hướng về
Phật và bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn,
cúi mong Ngài nói rõ những danh hiệu,
những bổn nguyện rộng lớn, cùng những
công đức thù thắng của chư Phật, để cho
338
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
những người đang nghe Pháp, nghiệp
chướng tiêu trừ, và để cho chúng hữu tình
ở đời tượng pháp được nhiều lợi lạc về
sau.”
Đức Thế Tôn khen Ông Mạn Thù Thất
Lợi: “Hay thay, Mạn Thù Thất Lợi! Ngươi
lấy lòng đại bi yêu cầu ta nói danh hiệu và
bổn nguyện công đức của chư Phật, vì
muốn cho chúng hữu tình khỏi bị nghiệp
chướng ràng buộc, lợi ích an vui trong đời
tượng pháp. Nay ngươi nên lóng nghe và
suy nghĩ cho kỹ, Ta sẽ vì Ông mà nói.”
Này Ông Mạn Thù Thất Lợi: “Ở
phương Đông, cách đây hơn mười căn dà
sa, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Đức
giáo chủ cõi ấy hiệu là Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng Giác,
Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế
Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạt
Già Phạm.
339
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Này Mạn Thù Thất Lợi: “Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, khi còn tu hạnh
Bồ Tát có phát mười hai nguyện lớn, khiến
cho chúng hữu tình cầu chi được nấy.”
(1 tiếng chuông)
Nguyện thứ nhất: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng được quả vị Chánh Đẳng Chánh
Giác, thân ta có hào quang sáng chói, chiếu
khắp vô số thế giới, khiến cho chúng hữu
tình đều có đủ ba mươi hai tướng tốt và
tám mươi tướng phụ như thân của Ta
vậy.”
Nguyện thứ hai: “Ta nguyện đời sau, khi
đặng Đạo Bồ Đề, thân ta như ngọc lưu ly,
trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn,
không có chút nhơ bợn, ánh quang minh
chói lọi khắp nơi, công đức cao vòi vọi và
an trú giữa từng lưới dệt bằng tia sáng, tỏ
hơn vừng nhật nguyệt. Chúng sanh trong
cõi U minh đều nhờ ánh sáng ấy, tâm trí
340
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
được mở mang, muốn đi đến chỗ nào để
làm nên sự nghiệp, sẽ được như ý.”
Nguyện thứ ba: “Ta nguyện đời sau, khi
đặng Đạo Bồ Đề, dùng trí huệ, và phương
tiện vô lượng vô biên, độ cho chúng hữu
tình, khiến mọi người có đủ các vật dụng,
không ai phải chịu sự thiếu thốn.”
Nguyện thứ tư: “Ta nguyện đời sau, khi
đặng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình tu
theo tà đạo, ta khiến họ quay về an trụ
trong Đạo Bồ Đề. Hoặc có những người tu
theo hạnh Thinh Văn, Độc Giác, dùng giáo
lý Đại Thừa, ta giảng dạy cho họ.”
Nguyện thứ năm: “Ta nguyện đời sau,
khi đặng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu
tình, tu hạnh thanh tịnh, theo giáo pháp
của Ta, Ta sẽ giúp họ giữ được giới pháp
hoàn toàn đầy đủ. Nếu có người bị tội hủy
phạm giới pháp, nghe được danh hiệu Ta,
341
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
người đó sẽ được thanh tịnh, khỏi sa vào
đường ác.”
Nguyện thứ sáu: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu
tình nào thân hình hèn hạ, các căn không
đủ, xấu xa, khờ khạo, tai điếc, mắt đui, nói
năng ngọng liệu, tay chân tật nguyền, lát
hủi, điên cuồng, chịu những bịnh khổ ấy,
nếu nghe danh hiệu Ta, liền được thân
hình đoan chánh, tâm tánh khôn ngoan,
các căn đầy đủ, không còn những bịnh khổ
ấy nữa.”
Nguyện thứ bảy: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu
tình nào bị những chứng bệnh hiểm nghèo
không ai cứu chữa, không ai để nương
nhờ, không gặp thầy, không gặp thuốc,
không bà con, không nhà cửa, chịu nhiều
nỗi nghèo hèn khốn khổ, nếu nghe danh
hiệu Ta một lần, tất cả những bịnh hoạn
342
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
khổ não đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia
quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến
chứng được đạo quả vô thượng Bồ Đề.”
Nguyện thứ tám: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có phụ nữ nào
bị trăm điều hèn hạ khổ sở, buồn rầu, bực
tức, sanh tâm nhàm chán, muốn bỏ thân
ấy, nếu nghe danh hiệu Ta, được chuyển
thân gái thành thân trai, có đủ hình tướng
trượng phu, cho đến chứng được đạo quả
vô thượng Bồ Đề.”
Nguyện thứ chín: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng Đạo Bồ Đề, dẫn dắt chúng hữu
tình ra khỏi vòng lưới ma nghiệp, được
giải thoát tất cả sự ràng buộc của ngoại
đạo. Nếu có những kẻ sa vào rừng ác kiến,
Ta dẫn họ trở về với chánh kiến, và dần
dần dạy họ tu tập theo các hạnh Bồ Tát
đặng mau chứng Đạo Bồ Đề.”
343
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Nguyện thứ mười: “Ta nguyện đời sau,
khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu
tình nào bị nhà vua xiềng xích, đánh đập,
hoặc bị lao tù, hoặc bị chém giết, hoặc bị
nhiều tai nạn nhục nhã, thân tâm chịu
những nỗi khổ, buồn rầu, bứt rứt, nếu
nghe danh hiệu Ta, nhờ sức oai thần
phước đức của Ta, đều được giải thoát tất
cả những nỗi ưu khổ ấy.”
Nguyện thứ mười một: “Ta nguyện đời
sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng
hữu tình nào bị sự đói khát hoành hành, vì
tìm miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, nếu
nghe danh hiệu Ta, chuyên niệm thọ trì,
trước hết Ta dùng các món ăn ngon ban bố
cho họ được no đủ, và sau ta đem giáo
pháp nhiệm mầu kiến lập cho họ cảnh giới
an lạc hoàn toàn.”
Nguyện thứ mười hai: “Ta nguyện đời
sau, khi chứng Đạo Bồ Đề, nếu có chúng
344
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
hữu tình nào nghèo đến nỗi không có áo
che thân, bị muỗi mòng cắn đốt, nóng lạnh
giãi dầu, ngày đêm khổ bức, nếu nghe và
trì niệm danh hiệu Ta, Ta sẽ giúp cho
người đó được như ý muốn: các thứ y phục
tốt đẹp, bảo vật trang nghiêm, tràng hoa,
phấn sáp thơm ngát, trống nhạc ca múa,
muốn thưởng thức thứ nào cũng được thỏa
mãn cả.”
(1 tiếng chuông)
Này Mạn Thù Thất Lợi, đó là mười hai
lời nguyện nhiệm mầu của Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng
Giác phát ra trong khi tu hạnh Bồ Tát.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, Đức Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi còn tu hạnh
Bồ Tát phát những lời nguyện rộng lớn và
những công đức trang nghiêm ở cõi Ngài,
dầu Ta nói mãn một kiếp cũng không thể
hết được. Nhưng ta có thể nói ngay rằng –
cõi Phật kia một bề thanh tịnh, không có
345
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
đàn bà, cũng không có đường dữ, và đến
tiếng khổ cũng không.
Ở cõi ấy đất toàn bằng chất lưu ly,
đường đi có dây bằng vàng giăng làm ranh
giới, thành quách cung điện, mái hiên cửa
sổ cho đến các lớp lưới bao phủ cũng toàn
bằng đồ thất bảo làm ra, chẳng khác gì
những công đức trang nghiêm ở cõi Tây
Phương Cực Lạc vậy.
Cõi Phật ấy, có hai vị đại Bồ Tát là Nhật
Quang Biến Chiếu và Nguyệt Quang Biến
Chiếu, là hai bực thượng thủ trong vô
lượng, vô số Bồ Tát, và lại là những bậc sắp
bổ xứ làm Phật. Hai vị này đều giữ kho báu
chánh pháp của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai. Mạn Thù Thất Lợi, vì thế
những kẻ thiện nam tín nữ nào có lòng tin
vững chắc thì nên nguyện sanh về thế giới
của Ngài.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại bảo Đồng Tử
Mạn Thù Thất Lợi rằng: “Có những
chúng sanh không biết điều lành dữ, cứ ôm
346
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
lòng bỏn xẻn, không biết bố thí và cũng
không biết quả báo của sự bố thí là gì, ngu
si vô trí, thiếu hẳn đức tin, lại ham chứa
chất của cải cho nhiều, đêm ngày bo bo gìn
giữ, thấy ai đến xin, lòng đã không muốn,
nhưng nếu cực chẳng đã phải đưa của ra
thì đau đớn mến tiếc, dường như lắt thịt
cho người vậy. Lại có chúng hữu tình tham
lam, chỉ lo tích trữ của cải cho nhiều mà tự
mình không dám ăn tiêu, còn nói chi đến
sự đem của ấy thí cho cha mẹ, vợ con, tôi
tớ và những kẻ nghèo hèn đến xin. Những
kẻ tham lam ấy, khi chết bị đọa vào đường
ngạ quỉ hay bàng sinh. Mặc dù ở trong ác
thú, nhưng nhờ đời trước, sống trong cõi
nhơn gian đã từng nghe qua danh hiệu của
Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, nay
lại còn nhớ niệm danh hiệu của Ngài, liền
từ cõi ấy thoát sanh trở lại làm người. Khi
đã được làm người lại nhớ đến kiếp sống
trong đường ngạ quỉ súc sanh, biết sợ sự
đau khổ, nên người đó không ưa đắm dục
347
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
lạc, muốn tự mình làm việc bố thí, không
tham tiếc món gì, có thể đem cả đầu, mắt,
tay, chơn hay máu thịt của thân mình, bố
thí cho những kẻ đến xin.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, trong
chúng hữu tình có người thọ giới của Phật
để tu học mà lại phá giới hoặc có kẻ không
phá giới mà lại phá phép tắc, hoặc có kẻ
tuy chẳng phá giới và phép tắc mà lại hủy
hoại chánh kiến, hoặc có kẻ tuy không hủy
hoại chánh kiến mà lại bỏ sự đa văn, nên
không hiểu được nghĩa lý sâu xa trong
kinh Phật nói, hoặc có kẻ tuy đa văn mà có
thói tăng thượng mạn, do thói tăng thượng
mạn ấy che lấp tâm tánh, cố chấp cho mình
là phải, người khác là quấy, chê bai chánh
pháp, kết đảng với ma. Những kẻ ngu si ấy
tự mình đã theo tà kiến, khiến cho người
khác cũng sa vào hố nguy hiểm. Những
chúng hữu tình ấy, bị trôi lăn trong các
đường địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh không
khi nào cùng. Nếu nghe được danh hiệu
348
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, họ
liền bỏ những hạnh dữ, tu theo các pháp
lành, khỏi bị đọa vào ác thú nữa. Giả sử có
người không thể bỏ những hạnh dữ và
không tu theo những pháp lành mà phải bị
đọa vào ác thú thì cũng nhờ oai lực và bổn
nguyện của Đức Dược Sư, liền từ nơi ác
thú đó được sanh vào cõi người, tinh tấn tu
hành chân chánh, khéo điều hòa tâm ý,
xuất gia tu học giáo pháp của Như Lai,
hiểu rõ nghĩa lý sâu sa, lìa được thói tăng
thượng mạn, không chê bai chánh pháp,
không bè bạn với ma, dần dần tu theo hạnh
Bồ Tát, sẽ chứng được đạo quả Bồ Đề.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng
hữu tình có tánh tham lam tật đố, hay khen
mình chê người, sẽ bị đọa vào ba đường
dữ, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, chịu nhiều
sự đau đớn khổ sở, trải qua không biết
mấy nghìn năm mới hết. Khi đã hết sự đau
khổ đó, liền sanh lại cõi người phải làm
thân trâu, ngựa, lừa, lạc đà, thường bị
349
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
người hành hạ, đánh đập và bị đói khát
dày vò, đường xa chở nặng, cực nhọc muôn
phần; may đặng làm thân người, lại bị
sanh vào hạng hạ tiện, làm tôi tớ cho kẻ
khác, mãi bị sai sử, không khi nào được
chút tự do. Nếu những người ấy đời trước
đã từng nghe danh hiệu của Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, do nhân lành ấy,
ngày nay nhớ lại, chí tâm quy y Ngài, nhờ
thần lực của Ngài gia hộ, được thoát khỏi
mọi khổ não, các căn thông lợi, trí huệ sáng
suốt, lại thêm đa văn, hằng cầu thắng
pháp, thường gặp bạn lành, đời đời dứt
hẳn lưới ma, đập nát vỏ vô minh, tát cạn
sông phiền não, được thoát khỏi sanh, lão,
bịnh, tử, và những nỗi đau khổ lo buồn.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu chúng
hữu tình có tánh ưa sự ngang trái chia lìa,
tranh đấu, kiện cáo lẫn nhau, làm não loạn
cho mình và người, đem thân, khẩu, ý tạo
thêm ác nghiệp, xoay qua trở lại, thường
làm những việc không nhiêu ích để mưu
350
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
hại lẫn nhau, hoặc cáo triệu thần núi, thần
cây, thần sông, vân vân, để hại người, hoặc
giết chúng sanh lấy huyết thịt cúng tế quỉ
Dược Xoa và quỉ La Sát để cậy quỉ hại
người, hoặc biên tên họ hay làm hình
tượng của người cừu oán, dùng phép chú
thuật tà ác trù ẻo cho chết, hoặc theo lối ếm
đối hay dùng những đồ độc, chú pháp hại
người, người nào bị những tai nạn ấy, nếu
nghe danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, các thứ tà ác kia không
thể hại được. Nếu những kẻ ác tâm đó khởi
lòng từ bi làm việc lợi ích an vui cho kẻ
khác, không còn ý tổn não và hiềm giận,
người đó sẽ được an vui.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu trong
hàng tứ chúng: Bí Sô, Bí Sô Ni, Ô Ba Sách
Ca, Ô Ba Tư Ca và những thiện nam, tín
nữ đều thọ trì tám giới cấm, hoặc trong
một năm, hoặc mỗi năm ba tháng, vâng giữ
giới pháp làm nơi y chỉ tu học, đem căn
lành này nguyện sanh về cõi Cực Lạc của
351
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Đức Phật A Di Đà, để nghe chánh pháp,
nhưng nếu chưa quyết định, hễ nghe danh
hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai, khi mạng chung, sẽ có tám vị đại Bồ
Tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Quán
Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Vô
Tận Ý Bồ Tát, Bảo Đàn Hoa Bồ Tát, Dược
Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Di
Lặc Bồ Tát từ trên không trung đi đến đưa
đường chỉ lối, người đó liền được sanh
trong những hoa báu đủ màu. Hoặc nếu có
kẻ, nhờ nguyện lực của Đức Dược Sư, được
sanh lên cõi trời, và lại nhờ căn lành sẵn
có, không còn sanh lại những đường ác
nữa. Khi tuổi thọ ở cõi trời đã mãn, người
đó lại sanh trong chốn nhân gian, hoặc làm
bậc Luân Vương, thống nhiếp cả bốn châu
thiên hạ, oai đức tự tại, giáo hóa cho vô
lượng trăm ngàn chúng hữu tình theo
đường thập thiện, hoặc sanh vào dòng Sát
Đế Lỵ, Bà La Môn hay cư sĩ đại cô, của tiền
dư dật, kho đụn tràn đầy, tướng mạo đoan
352
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
trang, quyến thuộc sum vầy, lại được
thông minh trí huệ, dõng mãnh oai hùng
như người đại lực sĩ. Còn nếu có người phụ
nữ nào nghe danh hiệu của Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, hết lòng thọ trì
danh hiệu ấy, đời sau sẽ không làm thân
gái nữa.
Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai khi đã chứng đạo
Bồ Đề, do sức Bổn nguyện mà Ngài quan
sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ
bịnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt,
thương hàn, hoặc trúng phải những thứ
ếm đối, đồ độc, hoặc bị hoạnh tử, hoặc bị
chết non. Muốn những chứng bệnh ấy
được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng
hữu tình được mãn nguyện, Ngài liền nhập
định để: “diệt trừ tất cả khổ não của chúng
sanh.” Khi Ngài nhập định, từ trong nhục
kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong
luồng ánh sáng ấy nói đại đà la ni:
(1 tiếng chuông)
353
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Nam Mô bạt già phạt đế, bệ sát xã lu lô
tích lưu ly, bát lặt bà hát ra xà dã, đát tha
yết đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà
da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ,
bệ sát xã, tam một yết đế xoa hoa.
Lúc đó, luồng ánh sáng diễn chú này rồi,
cả đại địa rúng động, phóng ra ánh đại
quang minh làm cho tất cả chúng sanh, dứt
hết bịnh khổ, hưởng được an vui.
Này Mạn Thù Thất Lợi! Nếu thấy người
nào đang mắc bịnh, khuyên họ tắm gội
sạch sẽ, và vì họ nhứt tâm tụng chú này
một trăm lẻ tám biến, chú nguyện trong
thức ăn, trong thuốc uống, hay trong nước
không vi trùng, cho họ uống, những bệnh
khổ ấy đều dứt hết.
Nếu có người mong cầu việc gì, chỉ nhất
tâm tụng chú này, đều được như ý muốn,
đã không bệnh lại được sống lâu, sau khi
mạng chung, người đó được sanh về thế
354
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
giới Tịnh Lưu Ly, không còn thối chuyển,
rồi dần dần chứng quả Bồ Đề.
Vậy nên, Mạn Thù Thất Lợi! Chúng
hữu tình hết lòng ân cần tôn trọng, cung
kính cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, và thường trì tụng chú
này đừng lãng quên.
Lại nữa, nếu có thiện nam tín nữ nào
được thấy hình tượng Đức Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai, Ứng Chánh Đẳng
Giác, mỗi sớm mai, súc miệng, đánh răng,
tắm gội sạch sẽ, xong lại thắp hương, rải
dầu thơm, các món kỹ nhạc để cúng dường
hình tượng; với kinh này, nên dạy người
khác hay tự mình biên chép ra, một lòng
thọ trì để thấu rõ nghĩa lý; với vị pháp sư
giảng nói kinh pháp, nên cúng dường tất
cả những vật dụng cần thiết, hễ hết lòng
như vậy, chư Phật sẽ phò hộ người đó được
mãn nguyện mọi sự mong cầu.
Lúc bấy giờ, Mạn Thù Thất Lợi đồng tử
bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, qua
355
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
thời kỳ tượng pháp, tôi sẽ dùng đủ chước
phương tiện, khiến cho những thiện nam
tín nữ có lòng tin trong sạch, được nghe
danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, cả đến trong giấc ngủ của
họ, tôi cũng dùng danh hiệu của Đức Phật
này, thức tỉnh nơi tai cho họ rõ biết.”
“Bạch Đức Thế Tôn, nếu ai thọ trì đọc
tụng kinh này, hoặc đem giảng nói, bày tỏ
cho người khác, hoặc tự mình hay dạy
người biên chép kinh này, hết lòng cung
kính tôn trọng, dùng bông thơm, dầu
thơm, các thứ hương đốt, tràng hoa, anh
lạc, phướng lọng, cùng âm nhạc hát múa
để cúng dường, hoặc dùng hàng ngũ sắc
làm đãy đựng kinh này, quét dọn một nơi
sạch sẽ, thiết lập một cái đài cao để lên, liền
có bốn vị Thiên Vương quyến thuộc, và vô
lượng trăm ngàn thiên chúng ở các cõi
Trời khác đều đến đó cúng dường và thủ
hộ.”
356
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
“Bạch Đức Thế Tôn, nếu kinh này lưu
hành đến chỗ nào có người thọ trì và nghe
được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, nhờ công đức bổn nguyện
của Ngài, chỗ ấy không bị bịnh hoạnh tử,
cũng không bị những ác quỉ, ác thần đoạt
lấy tinh khí, dầu có bị đoạt lấy, cũng được
hoàn lại, thân tâm khỏe mạnh như
thường.”
(1 tiếng chuông)
Phật bảo Mạn Thù Thất Lợi: Thật đúng
như lời ngươi nói, nếu có thiện nam tín nữ
nào muốn cúng dường Đức Dược Sư Lưu
Ly Quang Như Lai, trước phải tạo lập
hình tượng Ngài, để trên tòa cao sạch sẽ,
rải bông, đốt các thứ hương, dùng các thứ
tràng phan trang nghiêm, thờ như thế
trong bảy ngày bảy đêm. Người đó phải
thọ tám giới, ăn đồ thanh tịnh, tắm gội
sạch sẽ, y phục chỉnh tề, giữ lòng thanh
tịnh, không giận dữ, không sát hại, đối với
tất cả loài hữu tình phải khởi tâm bình
357
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
đẳng, đủ cả tâm Từ, Bi, Hỉ, Xả, làm cho họ
được lợi ích an vui, đánh nhạc ca hát ngợi
khen, đi nhiễu quanh tượng Phật, nghĩ nhớ
công đức bổn nguyện đọc tụng kinh này,
suy nghiệm nghĩa lý, khai thị cho người
khác biết. Làm như vậy, người đó được
toại ý việc mong cầu – như cầu sống lâu,
được sống lâu, cầu giàu sang, được giàu
sang, cầu quan vị, được quan vị, cầu sanh
con trai, con gái, thì được sanh con trai,
con gái.
Nếu có người nào trong giấc ngủ thấy
những điềm chiêm bao dữ, khi thức thấy
những ác tướng, như chim đậu gần nhà,
hoặc chỗ ở hiện ra trăm điều quái dị, người
ấy nên dùng của báu cúng dường Đức
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, những
ác mộng, ác tướng và những điềm xấu ấy
thảy đều ẩn hết, không còn phải lo sợ.
Nếu người nào gặp tai nạn nguy hiểm
như nạn nước, lửa, gươm, đao, thuốc độc
và các cầm thú dữ gây sự sợ hãi như: Voi,
358
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
sư tử, cọp, sói, gấu, rắn độc, bò cạp, rít,
sên, lằn muỗi, hết lòng nhớ niệm và cung
kính cúng dường Đức Dược Sư, người đó
được thoát khỏi những sự sợ hãi ấy; hoặc
nếu bị các nước khác xâm lăng, nhiễu hại,
trộm cướp rối loạn, nhớ niệm và cung kính
Đức Dược Sư, người đó cũng được thoát
khỏi những nạn ấy.
Lại nữa, Mạn Thù Thất Lợi, nếu có
thiện nam tín nữ nào từ khi phát tâm thọ
giới cho đến ngày chết, không thờ những
vị Trời nào, chỉ một lòng nương theo Phật,
Pháp, Tăng, giữ gìn năm giới, mười giới,
Bồ Tát mười giới trọng, bốn mươi tám giới
khinh, Tỳ kheo Tăng hai trăm năm mươi
giới, Tỳ kheo Ni ba trăm bốn mươi tám
giới, nếu có hủy phạm những giới pháp đã
thọ, sợ đọa vào ác thú, nếu chuyên niệm và
cung kính cúng dường Đức Dược Sư,
người đó quyết định không thọ sanh trong
ba đường ác.
359
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Lại nếu có người nữ nào đương lúc sanh
sản phải chịu sự cực khổ đau đớn, xưng
danh hiệu, lễ bái và hết lòng cung kính
cúng dường Đức Dược Sư, người đó sẽ
khỏi những sự đau khổ ấy, khi sanh con ra
được vuông tròn, tướng mạo đoan nghiêm,
lợi căn thông minh, an ổn ít bịnh hoạn, ai
thấy cũng vui mừng và không bị quỉ cướp
đoạt tinh khí.
(1 tiếng chuông)
Lúc ấy, Đức Thích Ca bảo A Nan: “Như
Ta đã khen ngợi công hạnh của Đức Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là công
hạnh rất sâu xa của chư Phật, khó hiểu
thấu được, vậy ngươi có tin chăng?” A
Nan bạch Phật: “Bạch Đức Thế Tôn, đối
với Khế Kinh của Như Lai nói, không bao
giờ tôi sanh tâm nghi hoặc. Tại sao? Vì
những nghiệp thân, khẩu, ý của Như Lai
đều thanh tịnh. Bạch Đức Thế Tôn, mặt
trời, mặt trăng có thể rơi xuống, núi Diệu
Cao có thể lay động, nhưng những lời của
360
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
chư Phật nói ra không bao giờ sai được.
Bạch Đức Thế Tôn nếu có chúng sanh nào
tín căn không đầy đủ, nghe nói đến những
công hạnh sâu xa của chư Phật, thì nghĩ
rằng: “Làm sao chỉ niệm danh hiệu của
một đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
mà được nhiều công đức thắng lợi ngần
ấy?” Vì sự không tin đó, trở sanh lòng hủy
báng, nên họ phải mất nhiều điều lợi ích,
mãi ở trong cảnh đêm dài tăm tối, lại còn
bị đọa lạc trong các đường ác thú, lưu
chuyển không cùng.”
Phật lại bảo A Nan: “Những chúng hữu
tình ấy nếu nghe danh hiệu Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, chí tâm thọ trì,
không sanh lòng nghi hoặc, mà đọa vào ác
thú, thì thật vô lý vậy.”
“Này A Nan, đó là công hạnh rất mầu
nhiệm của chư Phật, khó tin, khó hiểu, nay
ngươi lãnh thọ được, đó là nhờ oai lực của
Như Lai vậy.”
(1 tiếng chuông)
361
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
“Này A Nan, tất cả các hàng Thinh Văn,
Độc Giác và các bậc Bồ Tát chưa lên đến
bậc Sơ Địa đều không thể tin đúng như
thật, chỉ trừ những bậc Nhất Sanh Sở Hệ
Bồ Tát mới tin hiểu được mà thôi.”
“Này A Nan, thân người khó đặng,
nhưng hết lòng tin kính tôn trọng ngôi
Tam Bảo còn khó hơn, huống chi nghe
được danh hiệu của Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai lại còn khó hơn nữa.”
“Này A Nan, Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai tu không biết bao nhiêu
hạnh Bồ Tát, dùng không biết bao nhiêu
phương tiện khéo léo, phát không biết bao
nhiêu nguyện rộng lớn, nếu ta nói ra trong
một kiếp hay hơn một kiếp, thì kiếp số đó
có thể mau hết, chớ những hạnh nguyện và
những phương tiện khéo léo của Đức Dược
Sư, không khi nào nói cho hết được.”
(1 tiếng chuông)
Lúc bây giờ trong chúng hội có một vị
Đại Bồ Tát tên là Cứu Thoát Bồ Tát liền từ
362
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu,
gối bên mặt quì sát đất, cúi đầu chắp tay
bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, đến
thời kỳ Tượng Pháp có những chúng sanh
bị nhiều hoạn nạn, khốn khổ, tật bịnh luôn
luôn, thân hình gầy ốm, ăn uống không
được, môi cổ khô ran, mắt thấy đen tối,
tướng chết hiện ra, cha mẹ, bà con, bạn bè
quen biết, vây quanh khóc lóc. Thân bịnh
nằm đó, đã thấy quỉ sứ đến dẫn thần thức,
đem lại trước vua Diêm Ma. Liền khi ấy,
thần Cu Sanh ghi tội phước của người đó,
dâng lên vua Diêm Ma.” Lúc bấy giờ, vua
phán hỏi và kê tính những tội phước của
người kia đã làm mà xử đoán. Nếu trong
lúc đó, bà con quen biết, vì người bịnh ấy,
quy y với Đức Dược Sư Lưu Ly Quang
Như Lai và thỉnh chúng tăng đọc tụng kinh
này, đốt đèn bảy từng, treo thần phang tục
mạng năm sắc, hoặc liền trong lúc ấy, hoặc
trải qua bảy ngày, hai mươi mốt ngày, ba
mươi lăm ngày, bốn mươi chín ngày, thần
363
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
thức người kia được trở lại như vừa tỉnh
giấc chiêm bao, tự mình nhớ biết những
nghiệp lành, nghiệp dữ và quả báo đã thọ.
Chính đã thấy rõ những nghiệp báo như
vậy, dầu có gặp phải những tai nạn nguy
hiểm đến tánh mạng, người đó cũng không
dám tạo những nghiệp ác nữa. Vậy nên,
những thiện nam tín nữ phải một lòng trì
niệm danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai.”
Lúc bấy giờ, A Nan hỏi Cứu Thoát Bồ
Tát rằng: “Nên cung kính cúng dường Đức
Dược Sư Lưu Ly như thế nào, còn đèn và
phang tục mạng phải làm sao?”
(1 tiếng chuông)
Cứu Thoát Bồ Tát nói: “Nếu có người
bịnh nào, muốn khỏi bịnh khổ, bà con của
họ phải thọ trì tám phần trai giới trong
bảy ngày, bảy đêm, tùy theo sức mình
sắm sửa thức ăn uống và các thứ cần
dùng để cúng dường chư Tăng, ngày đêm
sáu thời, kính lễ Đức Dược Sư Lưu Ly
364
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Quang Như Lai, đọc tụng Kinh này bốn
mươi chín biến và thắp bốn mươi chín
ngọn đèn, lại tạo bảy hình tượng Đức
Dược Sư, trước mỗi hình tượng để bảy
ngọn đèn, mỗi ngọn lớn như bánh xe, đốt
luôn trong bốn mươi chín ngày đêm đừng
cho tắt; thần phang được làm bằng hàng
ngũ sắc, bề dài bốn mươi chín gang tay,
phải phóng sinh bốn mươi chín loài vật
khác nhau, người bịnh ấy sẽ qua khỏi ách
nạn, không còn bị hoạnh tử và các loài
quỉ nhiễu hại.”
“Lại nữa A Nan, nếu trong giòng Sát
Đế Lỵ có những vị quốc vương đã làm lễ
quán đảnh mà gặp lúc có nạn, nhân dân
bị bịnh dịch, bị nước khác xâm lăng, bị
nội loạn, hay bị nạn tinh tú biến ra nhiều
điềm quái dị: Như nhựt thực, nguyệt
thực, mưa gió trái mùa, hạn hán, động
đất vân vân, khi đó, các vị quốc vương
phải đem lòng từ bi, thương xót tất cả
nhân dân, ân xá cho tội nhơn bị giam
365
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
cầm, cúng dường Đức Dược Sư Lưu Ly
Quang Như Lai, nhờ căn lành này và nhờ
thần lực của Ngài, khiến trong nước được
an ổn, mưa hòa gió thuận, lúa thóc được
mùa, tất cả nhân dân đều vui vẻ, không
bịnh hoạn, không có thần Dược Xoa bạo
ác, não hại lê dân. Tất cả ác tướng ấy đều
ẩn mất và các vị quốc vương được sống
lâu khỏe mạnh”.
Này A Nan, nếu các hoàng hậu, hoàng
phi, công chúa, thái tử, vương tử, đại thần
phụ tướng, thể nữ trong cung, bá quan và
thứ dân mà bị bịnh khổ cùng những tai
nạn, nên tạo lập thần phang năm sắc, đèn
Dược Sư được thắp sáng luôn, phóng
sanh các loài vật, rải hoa đủ sắc, đốt các
thứ danh hương để cúng dường đức Dược
Sư, những người đó sẽ được lành bịnh và
thoát khỏi các tai nạn”.
Ngài A Nan lại hỏi Cứu Thoát Bồ Tát
rằng: "Tại sao cái mạng đã hết mà còn
sống thêm được?" Cứu Thoát Bồ Tát nói:
366
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
"Như Lai nói có chín thứ hoạnh tử, Đại
Đức không nghe hay sao? Vậy nên, Cứu
Thoát khuyên người làm phang và đèn
tục mạng, tu các phước đức và nhờ đó
nên suốt đời không bị khổ sở hoạn nạn".
(1 tiếng chuông)
Ngài A Nan lại hỏi: "Chín thứ hoạnh tử
là gì?" Cứu Thoát Bồ Tát trả lời: "Một là
nếu có người nào bị bịnh tuy nhẹ, nhưng
không thầy, không thuốc, không người
săn sóc, hay có gặp thầy lại cho uống lầm
thuốc, bịnh không đáng chết mà lại chết
oan. Trong khi đang bịnh mà tin theo
những thuyết họa phước vu vơ của bọn tà
ma ngoại đạo, yêu nghiệt trong đời, sanh
lòng run sợ, không còn tự chủ, phân biệt
chánh tà, bói khoa chú thuật, gây thêm
tội lỗi, giết hại sanh linh, tấu với thần
minh, vái van vọng lượng, để xin ban
phước, mong được sống lâu, nhưng không
thể được. Bởi si mê lầm lạc, tin theo tà
kiến, điên đảo quỉ mị, nên bị hoạnh tử,
367
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
đọa vào địa ngục, đời đời không ra khỏi.
Hai là bị phép vua tru lục. Ba là chơi bời
trụy lạc, săn bắn, đam mê tửu sắc, buông
lung vô độ, bị loài quỉ đoạt mất tinh khí.
Bốn là bị chết thiêu. Năm là bị chết đắm.
Sáu là bị các thú dữ ăn thịt. Bảy là bị sa
từ trên cao xuống. Tám là bị chết vì thuốc
độc, ếm đối, chửi rủa, trù ẻo và bị quỉ Tử
Thi làm hại. Chín là bị chết vì đói khát
khốn khổ. Đó là chín hoạnh tử, Như Lai
nói ra. Còn những hoạnh tử khác, nhiều
vô lượng, không thể nói hết được.”
(1 tiếng chuông)
“Lại nữa A Nan, vua Diêm Ma kia là
thủ lãnh ghi chép sổ bộ, tên tuổi, tội
phước trong thế gian. Nếu có người nào
ăn ở bất hiếu, ngũ nghịch, hủy nhục Ngôi
Tam Bảo, phá hoại phép vua tôi, hủy
phạm giới cấm, vua Diêm Ma theo tội
nặng nhẹ mà hành phạt. Vì thế Ta
khuyên mọi người nên thắp đèn làm
368
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
phang, phóng sanh, tu phước để khỏi các
khổ ách, chỉ gặp những điều vui.”
Lúc bấy giờ, trong chúng hội có mười
hai vị Dược Xoa đại tướng:
Cung Tì La đại tướng,
Phạt Chiếc La đại tướng,
Mê Súy La đại tướng,
An Để La đại tướng,
Át Nể La đại tướng,
San Để La đại tướng,
Nhơn Đạt La đại tướng,
Bi Da La đại tướng,
Ma Hổ La đại tướng,
Chơn Đạt La đại tướng,
Chiêu Đỗ La đại tướng,
Tỳ Yết La đại tướng,
(1 tiếng chuông)
mười hai vị đại tướng này, mỗi vị đều có
bảy ngàn quyến thuộc Dược Xoa đồng cất
tiếng bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn,
hôm nay, chúng tôi nhờ oai lực của Phật,
369
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
được nghe danh hiệu của Đức Dược Sư
Lưu Ly Quang Như Lai, không còn sợ sệt
các đường ác thú nữa. Chúng tôi đồng một
lòng trọn đời quy y Phật, Pháp, Tăng, thề
sẽ gánh vác cho chúng hữu tình, làm việc
nghĩa lợi đưa đến sự nhiêu ích an vui.
Trong làng xóm, thành, nước, hoặc trong
rừng cây vắng vẻ, nếu có kinh này lưu bố
đến, hay có người thọ trì danh hiệu Đức
Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai và cung
kính cúng dường Ngài, chúng tôi cùng
quyến thuộc đồng hộ vệ người ấy thoát
khỏi tất cả ách nạn và khiến họ cầu việc chi
cũng được thỏa mãn. Nếu có ai bị bịnh
hoạn khổ ách, muốn cầu cho khỏi, nên đọc
tụng kinh này và lấy chỉ ngũ sắc gút danh
tự chúng tôi, khi đã được như lòng mong
cầu thì mới mở gút ra.”
Lúc ấy, Đức Thích Ca khen các vị Dược
Xoa đại tướng rằng: “Hay thay! Hay thay!
Đại Tướng Dược Xoa, các ngươi muốn báo
đáp công hạnh của Đức Dược Sư Lưu Ly
370
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Quang Như Lai nên phát nguyện làm
những việc lợi ích an vui cho tất cả chúng
hữu tình như vậy.”
Đồng thời, A Nan bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, pháp môn này gọi tên
là gì? Và chúng tôi phải phụng trì như thế
nào?”
(1 tiếng chuông)
Phật bảo A Nan: “Pháp môn này gọi là
Bổn Nguyện và Công Hạnh của Đức Dược
Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cũng gọi là
Kiết Nguyện Thần Chú của mười hai Thần
Tướng, và cũng gọi là Con Đường Dứt Trừ
Tất Cả Nghiệp Chướng. Nên đúng như vậy
mà thọ trì.”
Khi Phật nói lời ấy rồi, các hàng Đại Bồ
Tát, Thinh Văn, Quốc Vương, Đại Thần,
Bà La Môn, Cư Sĩ, Thiên, Long, Dược
Xoa, Kiền Thát Bà, A Tố Lạc, Yết Lộ Trà,
Khẫn Nại Lạc, Mạc Hô Lạc Dà, Người
371
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
cùng các loài quỉ thần, tất cả đại chúng đều
hết sức vui mừng và đồng tin giữ vâng làm.
(1 tiếng chuông)
CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH
Nam Mô bạt dà phạt đế, bệ sát xã lu lô tích
lưu ly, bát lặc bà hát ra xà dã, đát tha yết
đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà da,
đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ
sát xã, tam một yết đế xoa ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Giải kiết, giải kiết, giải oan kiết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,
Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính,
Đối trước Phật đài, cầu xin giải kiết,
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật,
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật,
Tùy Tâm Mãn Nguyện Dược Sư Phật.
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
372
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
373
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
374
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
375
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
SÁM DƯỢC SƯ
Cúi đầu trước mười phương chư Phật
Chúng con nguyền chân thật kính tin
Phát lời thệ nguyện độ sinh
Y theo Giáo Pháp, Luật, Kinh chỉ bày:
Ngày nào cũng lắm thay công việc
Vì ngu mê mải miết ân cần
Ngày đêm lo tảo bán tần
Trăm mưu ngàn kế, vô ngần thảm
thương.
Lạc một bước sa đường xuống hố
Bị vô minh lắm độ truân chuyên
Vào ra sáu cõi triền miên
Mang thân tứ đại thảm phiền biết bao!
Vậy nhân thế hãy mau xét kỹ
Kiếp phù sinh chớ nghĩ lẳng lơ
Khuyên đừng đem dạ tưởng mơ
Trăm năm cuộc thế như cờ bị vây.
Rút gươm huệ dứt dây tham ái
Kíp tìm thầy thọ phái quy y
Giữ gìn ngũ giới tam quy
376
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Mở lòng từ mẫn, sân si quyết chừa.
Rèn lòng kinh kệ sớm trưa
Nguyện con ra khỏi nắng mưa cõi trần.
Ngưỡng cầu chư Phật thi ân
Đệ tử phát nguyện ân cần thiết tha:
Một là: Nguyện Đức Di Đà
(1 tiếng chuông)
Cầu xin bá tánh trẻ già khắp nơi
Làm lành lánh dữ kịp thời
Nhà nhà an lạc, nơi nơi thái hòa.
Hai là: Nguyện Đức Thích Ca
Trở đời ly loạn hóa ra thái bình
Mở mang vận hội văn minh
Tâm thần thơ thới, nhơn tình trung
lương.
Ba là: Nguyện Chuẩn Đề Vương
Thần thông dẹp hết bốn phương chiến
trường
Độ người ngỗ nghịch bạo cường
377
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Bỏ tà quy chánh, theo đường thiện tâm.
Bốn là: Nguyện Đức Quán Âm
Độ người thù oán cừu thâm thuận hòa
Giúp bao tai nạn xảy ra
Cùng người tật bịnh đều hòa an thuyên.
Năm là: Nguyện Đức Phổ Hiền
Độ người chân chánh, giữ quyền an dân
Bốn phương tương ái tương thân
Đồng tuân pháp nước, nhân dân kính
nhường.
Sáu là: Nguyện Địa Tạng Vương
Độ người xiêu lạc bốn phương được về
Cùng là người chết thảm thê
Hồn linh độ hết đưa về Tây Phương.
Kìa, Cực Lạc là nơi an dưỡng
(1 tiếng chuông)
Đất lưu ly vô lượng khiết tinh
Có Ao Thất Bảo quang minh
Có Sen Chín Phẩm như hình bánh xe.
378
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Ao Thất Bảo ngỏa nguê đẹp đẽ
Nước Bát Công sạch sẽ tinh vi
Bảy hàng cây báu lưu ly
Lan can bảy lớp ma ni sáng ngời.
Chim nói Pháp hôm mai êm dịu
Hoa trên không lểu nhểu cúng dường.
Bồ Đề nảy búp ngát hương
Cúi xin chư Phật, đoái thương cứu độ.
(1 tiếng chuông)
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sinh trong pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ Đạo Mầu.
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện đem công đức lành
379
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ phục nguyện)
PHỤC NGUYỆN
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật tác đại chứng minh.
(1 tiếng chuông)
Hôm nay, chúng con một dạ chí thành,
trì tụng Dược Sư Kinh, Chú, niệm Phật
công đức, cầu nguyện cho Phật tử (tên họ:...,
Pháp danh:...) , đương đời phiền não dứt sạch,
nghiệp chướng tiêu tan, tật bịnh bình an,
thân tâm thường lạc, gia đình thịnh đạt,
hưởng cảnh an nhàn, thiên thượng nhân
gian, đều trọn thành Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
380
NGHI THỨC TỤNG KINH DƯỢC SƯ
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
381
THẦN KIM CANG
382
NGHI THỨC
TỤNG KINH KIM CANG
(Vajracchedikà – Pràjnàpàramità – Sùtra)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới, và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Hương Cúng Phật
∗ Chú Tịnh Khẩu Nghiệp và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Chú An Thổ Địa, và Phổ Cúng Dường
∗ Phụng Thỉnh Tám Vị Thần Kim Cang
∗ Phụng Thỉnh Bốn Vị Đại Bồ Tát
∗ Văn Phát Nguyện
∗ Thỉnh Phật Thuyết Pháp
∗ Kinh Kim Cang
∗ Chú Kim Cang
∗ Kệ Khen Ngợi
∗ Kinh Bát Nhã Ba La Mật
∗ Niệm Phật
∗ Sám Ngã Niệm
∗ Hồi Hướng
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Phá ngã chấp, Tụng Kinh Kim Cang, hiểu được nghĩa lý rốt ráo, dứt hết
phiền não mau lẹ, và đạt đến bờ Giác Ngộ dễ dàng. Vì đặc tính đó, có người
tụng để trị bịnh tà ma, và nhờ đó gia đình không bị xào xáo. Hơn nữa, người
thọ trì Kinh này, đương đời trí tuệ sáng suốt, khi thân hoại mạng chung,
lưỡi không bị hư rã.
383
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Nghi Thức
TỤNG KINH KIM CANG
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán, chủ
lễ niệm bài cúng hương).
384
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
CÚNG HƯƠNG
Giới Hương, Định Hương, và Huệ Hương
Giải Thoát, Giải Thoát, Tri Kiến Hương
Sáng ngời, chiếu khắp mười phương
Hiện tiền Tam Bảo, Năm Hương cúng
dường.
Nam Mô Hương Cúng Dường Bồ Tát Ma
Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
(1 tiếng chuông, chỉ chủ lễ nguyện)
Hôm nay, đệ tử chúng con, phụng trì di
giáo Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
trì tụng Kim Cang Kinh Chú, xưng tán
Hồng Danh, tu hành công đức, ngưỡng
nguyện mười phương Tam Bảo, từ bi gia
hộ: (tên họ...), phiền não dứt sạch, nghiệp
chướng tiêu trừ, xa lìa khổ ách, thường
được an lành, vạn sự đắc thành như ý.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
385
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
386
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư
không biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây
Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi
A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ
Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa
Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
387
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT
Hương trầm vừa đốt
Thơm ngát mười phương
Thành kính cúng dường
Mười phương Tam Bảo.
Nam Mô Hương cúng dường
Bồ Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ TỊNH KHẨU NGHIỆP
Tu rị tu rị, ma ha tu rị tu tu rị, tát bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt ma
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
CHÚ AN THỔ ĐỊA
Nam mô tam mãn đa một đà nẵm, án độ
rô độ rô, địa vỷ ta bà ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
388
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG
Án nga nga nẳng tam bà phạ phiệt nhật
ra hồng.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
PHỤNG THỈNH
TÁM VỊ THẦN KIM CANG
Phụng thỉnh Thanh Trừ Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Bích Độc Kim Cang.
Phụng thỉnh Huỳnh Tùy Cầu Kim Cang.
Phụng thỉnh Bạch Tịnh Thủy Kim Cang.
Phụng thỉnh Xích Thinh Hỏa Kim Cang.
Phụng thỉnh Định Trì Tai Kim Cang.
Phụng thỉnh Tử Hiền Kim Cang.
Phụng thỉnh Đại Thần Kim Cang.
(1 tiếng chuông)
PHỤNG THỈNH
BỐN VỊ ĐẠI BỒ TÁT
Phụng thỉnh Kim Cang Quyến Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Sách Bồ Tát.
389
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Phụng thỉnh Kim Cang Ái Bồ Tát.
Phụng thỉnh Kim Cang Ngữ Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
VĂN PHÁT NGUYỆN
Đảnh lễ đấng Trung Tôn
Quy mạng mười phương Phật
Con nay phát hoằng nguyện
Trì tụng Kinh Kim Cang
Trên đền đáp bốn ân
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có kẻ thấy nghe
Xin phát lòng Bồ Đề
Khi mãn báo thân này
Đồng sanh về cõi Phật.
(1 tiếng chuông)
390
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
THỈNH PHẬT THUYẾT PHÁP
Tụng Kinh này thế nào
Được giác ngộ giải thoát?
Tu sao được sống lâu
Thân Kim Cang không hoại?
Lại tu như thế nào
Được sức mạnh vô biên?
Xin Phật vì đại chúng
Diễn nói Pháp nhiệm mầu.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KỆ KHAI KINH
Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Nam Mô Bát Nhã Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
391
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
PHẬT NÓI
KINH KIM CANG
BÁT NHÃ BA LA MẬT
1. CHỖ PHẬT NÓI KINH
Ta nghe như vầy: Một thuở nọ, đức Phật
ở tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nước Xá
Vệ, cùng với chúng đại Tỳ Kheo, một
nghìn hai trăm năm mươi vị. Lúc đó, gần
đến giờ ăn, Đức Thế Tôn đắp y bưng bát
vào thành Xá Vệ khất thực. Theo thứ tự
ghé từng nhà khất thực rồi, Đức Phật trở
về Tịnh Xá. Dùng cơm xong, cất y bát và
rửa chơn, Đức Phật trải tòa ngồi.
(1 tiếng chuông)
2. ÔNG TU BỒ ĐỀ HỎI PHẬT
Bấy giờ, ông Trưởng Lão Tu Bồ Đề, ở
trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
trịch áo vai hữu và gối bên hữu quỳ sát đất,
cung kính chắp tay, bạch Phật rằng:
392
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
“Hi hữu thay Đức Thế Tôn, Đức Như
Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát và khéo
phó chúc cho các vị Bồ Tát. Bạch Đức Thế
Tôn, nếu có thiện nam hay tín nữ nào phát
tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
thời phải trụ tâm như thế nào, và hàng
phục tâm như thế nào?”
Đức Phật dạy: “Hay thay! Hay thay!
Này Tu Bồ Đề, đúng như lời của ông vừa
nói. Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát
và khéo phó chúc cho các vị Bồ Tát. Nay,
ông nên lóng nghe, ta sẽ vì ông mà nói. Nếu
có thiện nam hay tín nữ nào phát tâm Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phải
trụ tâm như thế này phải hàng phục tâm
như thế này.”
Bạch Đức Thế Tôn, Con vui mừng
muốn nghe.
(1 tiếng chuông)
393
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
3. ĐẠI THỪA CHÁNH TÔN
Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: “Các vị đại Bồ
Tát phải hàng phục tâm mình như thế này:
Nhiều loài chúng sanh, hoặc là noãn sanh,
hoặc thai sanh, hoặc thấp sanh, hoặc hóa
sanh, hoặc loài có hình sắc, hoặc loài
không hình sắc, hoặc loài có tư tưởng, hoặc
loài không tư tưởng, hoặc loài chẳng phải
có tư tưởng mà cũng chẳng phải không tư
tưởng. Ta đều độ chúng chứng được Vô
Dư Niết Bàn. Độ vô lượng, vô số, vô biên
chúng sanh như thế, mà không có chúng
sanh là kẻ được độ. Tại sao vậy? Này Tu
Bồ Đề, nếu Bồ Tát còn có ngã tướng, nhơn
tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng
thời chẳng phải là Bồ Tát.”
(1 tiếng chuông)
4 . DIỆU HẠNH VÔ TRỤ
Lại nữa, Tu Bồ Đề, vị Bồ Tát, đúng nơi
Pháp, không có chỗ trụ trước để bố thí,
394
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
nghĩa là không trụ trước nơi hình sắc mà
bố thí, không trụ trước nơi thinh, hương,
vị, xúc, pháp mà bố thí. Này Tu Bồ Đề, Bồ
Tát nên bố thí như thế, chẳng trụ trước nơi
tướng. Vì sao? Vì Bồ Tát không trụ trước
nơi tướng để bố thí, thời phước đức nhiều
không thể suy lường.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ sao? Có thể
suy lường được cõi hư không ở phương
Đông chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể suy lường
được.
Tu Bồ Đề, có thể suy lường được cõi hư
không ở phương Nam, Tây, Bắc, cõi hư
không ở bốn hướng cạnh và cõi hư không
ở Trên, Dưới chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể suy
lường được.
Tu Bồ Đề, Bồ Tát không trụ trước nơi
tướng để bố thí, thời phước đức cũng lại
như thế, không thể suy lường được.
395
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Tu Bồ Đề, Bồ Tát nên đúng như lời Ta
dạy mà trụ .
(1 tiếng chuông)
5. THẤY CHƠN THẬT ĐÚNG LÝ
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ sao? Căn cứ
trên thân tướng có thể thấy Như Lai
không?
Bạch Đức Thế Tôn, không thể căn cứ
trên thân tướng thấy được Đức Như Lai.
Vì sao? Vì Đức Như Lai nói thân tướng mà
chẳng phải thân tướng.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Phàm có tướng đều
là hư vọng cả; nếu thấy các tướng đều
không phải là tướng, chính là thấy Như
Lai.”
(1 tiếng chuông)
6 . CHÁNH TÍN RẤT HI HỮU
Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch
Đức Thế Tôn, như có chúng sanh nào được
396
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
nghe những câu, bài giảng như vậy, có
sanh lòng tin thật chăng?”
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Ông chớ nói lời ấy.
Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm
sau, có người trì giới tu phước có thể sanh
lòng tin nơi những câu trong bài này mà
cho đó là thật; phải biết rằng người ấy
chẳng phải vun trồng căn lành nơi một
Đức Phật, hai Đức Phật, ba, bốn, năm Đức
Phật, mà người đó đã vun trồng căn lành
từ nơi vô lượng nghìn muôn ức Đức Phật
rồi.
Như có ai nghe những câu trong bài này,
sanh lòng tin trong sạch, trong khoảng một
niệm, Tu Bồ Đề, Như Lai đều thấy đều biết
những chúng sanh đó đặng phước đức vô
lượng. Vì sao? Vì những chúng sanh đó
không còn có ngã tướng, nhơn tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng, không có
pháp tướng, cũng không có phi pháp
tướng. Vì sao? Vì những chúng sanh đó
nếu trong lòng chấp tướng thời chính là
397
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
chấp ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả. Nếu
chấp pháp tướng thời chính là chấp ngã,
nhơn, chúng sanh, thọ giả và vì nếu chấp
phi pháp tướng thời cũng chính là chấp
ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, vì thế cho
nên chẳng nên chấp Pháp và chẳng nên
chấp phi Pháp.
Cùng ý nghĩa đó, nên Như Lai thường
dạy rằng: “Này các Tỳ Kheo, các ông phải
biết Pháp của Ta nói ra, cũng như thuyền
bè, Pháp còn phải xả bỏ, huống nữa là phi
Pháp.”
(1 tiếng chuông)
7 . VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như
Lai có chứng được quả Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác không? Như Lai có nói
Pháp không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Như con hiểu ý
nghĩa của Đức Phật nói, thời không có
398
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Pháp nào nhứt định gọi là Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, cũng không có
Pháp nào nhứt định, Đức Như Lai có thể
nói được. Vì sao? Vì Pháp của Đức Như
Lai nói đều không thể vin lấy, không thể
nói được, chẳng phải Pháp, chẳng phải
không phải Pháp. Vì sao? Vì tất cả Hiền
Thánh đều do nơi “Pháp vô vi” mà có khác
nhau.”
(1 tiếng chuông)
8 . Y PHÁP XUẤT SANH CÔNG ĐỨC
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như
có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi Tam
Thiên Đại Thiên để làm việc bố thí, phước
đức của người đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn, rất nhiều. Vì sao? Vì phước đức đó,
không phải thật phước đức cho nên Đức
Như Lai nói là phước đức nhiều.”
Còn như có người thọ trì kinh này nhẫn
đến một bài kệ bốn câu vân vân, lại giảng
399
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
nói cho người khác, thời phước đức này
nhiều hơn phước đức trước. Vì sao? Này
Tu Bồ Đề, tất cả các Đức Phật và Pháp Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của các
Ngài đều từ kinh này có ra.
Này Tu Bồ Đề, Phật Pháp nói đó chính
chẳng phải là Phật Pháp.
(1 tiếng chuông)
9 . NHỨT TƯỚNG KHÔNG CÓ TƯỚNG
Tu Bồ Đề, vị Tu Đà Hoàn có thể tự nghĩ
là mình chứng quả Tu Đà Hoàn không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn, không thể được.” Vì sao? Vì vị Tu Đà
Hoàn gọi là bực Nhập Lưu, mà thật không
nhập vào nơi đâu, không vào sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, nên gọi là Tu Đà
Hoàn.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị Tư
Đà Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng
quả Tư Đà Hàm không?
400
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn, không thể được. Vì sao? Vì vị Tư Đà
Hàm gọi là bực Nhứt Vãng Lai, mà thật
không có vãng lai, nên gọi là Tư Đà Hàm.”
Tu Bồ Đề, ý ông nghĩ thế nào? Vị A Na
Hàm có thể tự nghĩ rằng mình chứng quả
A Na Hàm không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn không thể được. Vì sao? Vì vị A Na
Hàm gọi là bực Bất Lai, mà thật không có
tướng bất lai, nên gọi là A Na Hàm.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vị A
La Hán có thể tự nghĩ rằng mình đắc đạo
A La Hán không?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn không thể được. Vì sao? Vì thật không
có Pháp chi gọi là A La Hán.
Bạch Đức Thế Tôn, nếu vị A La Hán
nghĩ thế này: Ta đắc đạo A La Hán, thời
chính là chấp trước tướng: ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả.
401
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Bạch Đức Thế Tôn, Đức Phật dạy rằng
con được Vô Tránh Tam Muội, là bực
nhứt trong mọi người, là bực A La Hán ly
dục thứ nhứt.
Bạch Đức Thế Tôn, con không tự nghĩ
rằng mình đắc đạo A La Hán, chắc Đức
Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là người ưa
hạnh tịch tịnh. Vì Tu Bồ Đề thật không
mống niệm, nên gọi Tu Bồ Đề là ưa hạnh
tịch tịnh.”
(1 tiếng chuông)
10 . TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ
Đức Phật bảo Tu Bồ Đề: “Ý của ông
nghĩ thế nào? Thuở Đức Phật Nhiên Đăng,
Như Lai có chứng được Pháp không?”
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Thuở Phật
Nhiên Đăng, Đức Như Lai thật không
chứng được Pháp.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Bồ Tát có trang nghiêm Phật độ chăng?
402
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Vì sao? Vì
trang nghiêm Phật độ, chính chẳng phải
trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm.
Này Tu Bồ Đề, vì thế các vị đại Bồ Tát
nên sanh tâm thanh tịnh như vầy: chẳng
nên trụ trước nơi sắc mà sanh tâm, chẳng
nên trụ trước nơi thinh, hương, vị, xúc, và
pháp mà sanh tâm, nên không chỗ trụ
trước mà sanh tâm thanh tịnh.
Này Tu Bồ Đề, ví như có người thân lớn
như núi Tu Di, ý ông nghĩ thế nào? Thân
của người đó có lớn chăng?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Bạch Đức Thế
Tôn, rất lớn. Vì sao? Vì Đức Phật nói
chẳng phải thân, nên gọi là thân lớn.
(1 tiếng chuông)
11. PHƯỚC ĐỨC VÔ VI THÙ THẮNG
Tu Bồ Đề, như trong sông Hằng có bao
nhiêu cát, số sông Hằng lại nhiều như số
cát đó. Ý của ông nghĩ thế nào? Số cát
403
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
trong những sông Hằng đó có nhiều
không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, rất nhiều. Số sông Hằng đã nhiều
rồi, huống nữa là số cát trong sông.”
Này Tu Bồ Đề, nay Ta bảo ông: nếu có
thiện nam hay tín nữ nào đem bảy thứ báu
đầy cả ngần ấy sông Hằng để làm việc bố
thí, người đó được phước có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, rất nhiều.”
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Nếu có thiện nam
hay tín nữ nào thọ trì kinh này nhẫn đến
một bài kệ bốn câu vân vân, và giảng nói
cho người khác nghe, thời phước đức này
hơn phước đức trước kia.”
(1 tiếng chuông)
404
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
12. TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO
Này Tu Bồ Đề, lại nữa, tùy chỗ giảng nói
kinh này, nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân
vân, nơi chỗ đó, tất cả Trời, Người, A Tu
La, nên cúng dường như là tháp miếu thờ
Phật. Huống nữa, có người thọ trì đọc tụng
trọn cả kinh này. Này Tu Bồ Đề, phải biết
người ấy trọn nên Pháp tối thượng hi hữu
bậc nhứt. Chỗ nào có kinh này, chỗ đó có
Phật hoặc có Đệ Tử của Phật đáng được
tôn kính.
(1 tiếng chuông)
13. THỌ TRÌ ĐÚNG NHƯ PHÁP
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch Phật rằng:
“Bạch Đức Thế Tôn, tên kinh này gọi là gì?
Chúng con phải phụng trì thế nào?”
Phật bảo Tu Bồ Đề rằng: “Kinh này tên
là Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật, ông nên
theo danh tự này mà phụng trì. Vì sao?
Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói Bát Nhã Ba La
405
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Mật, chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật, đó
gọi là Bát Nhã Ba La Mật.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Như
Lai có nói Pháp không?”
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, Đức Như Lai không có nói
Pháp.”
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vi
trần trong cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế
Giới có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, rất nhiều.”
Này Tu Bồ Đề, những vi trần ấy, Như
Lai nói chẳng phải vi trần, đó gọi là vi trần.
Như Lai nói thế giới cũng chẳng phải thế
giới, đó gọi là thế giới.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Có thể căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt
cho là Như Lai chăng?
Bạch Đức Thế Tôn: không. Chẳng thể
căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt cho là
Như Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói ba
406
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
mươi hai tướng tốt chẳng phải tướng tốt,
đó gọi là ba mươi hai tướng tốt.
Tu Bồ Đề, như có thiện nam hay tín nữ
nào đem thân mạng bằng số cát sông Hằng
ra bố thí. Nếu lại có người theo kinh này
thọ trì, cho đến bài kệ bốn câu vân vân,
giảng nói cho người khác nghe, thời phước
của người này nhiều hơn người trên.
(1 tiếng chuông)
14 . VẮNG LẶNG LÌA TƯỚNG
Bấy giờ, Tu Bồ Đề nghe Phật nói kinh
này, hiểu thấu nghĩa của kinh, nên ông
buồn khóc, và bạch Phật rằng: “Hi hữu
thay Đức Thế Tôn, Phật nói kinh rất sâu
xa dường ấy, từ trước ngày được huệ nhãn
đến nay, con chưa từng được nghe như thế
này. Bạch Đức Thế Tôn, nếu lại có người
nào được nghe kinh này, có lòng tin thanh
tịnh, thời chính là sanh thật tướng. Phải
biết người ấy trọn nên công đức hi hữu bực
407
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
nhứt. Bạch Đức Thế Tôn, thật tướng đó
chính chẳng phải tướng, cho nên Đức Như
Lai gọi là thật tướng.
Bạch Đức Thế Tôn, nay được nghe kinh
này, con tin hiểu thọ trì, không cảm thấy
khó. Vào khoảng năm trăm năm sau,
chúng sanh nào được nghe kinh này, rồi
tin hiểu thọ trì, thời người ấy chính là hi
hữu bực nhứt. Vì sao? Vì người ấy không
có ngã tướng, không có nhơn tướng, không
có chúng sanh tướng, không có thọ giả
tướng. Vì sao? Vì ngã tướng không phải
tướng; nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng đều cũng không phải tướng. Vì
sao? Vì xa lìa tất cả tướng, chính đó gọi là
chư Phật.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Đúng thế! Đúng
thế! Lại như có người được nghe kinh này
mà lòng không kinh hãi, không e sợ, không
nhút nhát, phải biết người đó rất là hi hữu.
Vì sao? Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói Ba La
408
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Mật thứ nhứt, chẳng phải Ba La Mật thứ
nhứt, đó gọi là Ba La Mật thứ nhứt.
Này Tu Bồ Đề, nhẫn nhục Ba La Mật,
Như Lai nói chẳng phải nhẫn nhục Ba La
Mật, đó gọi là nhẫn nhục Ba La Mật. Vì
sao? Này Tu Bồ Đề, thuở xưa, Ta bị vua
Ca Lợi chặt đứt thân thể, trong lúc đó, Ta
không có ngã tướng, không có nhơn tướng,
không có chúng sanh tướng, không có thọ
giả tướng. Vì sao? Vì lúc thân bị chặt rời
rã, nếu Ta có ngã tướng, nhơn tướng,
chúng sanh tướng, thọ giả tướng, thời Ta
mống lòng hờn giận.
Này Tu Bồ Đề, Ta lại nhớ, thuở quá khứ,
trong năm trăm đời, Ta làm vị Tiên nhẫn
nhục. Trong bao nhiêu đời đó, Ta không
chấp ngã tướng, không chấp nhơn tướng,
không chấp chúng sanh tướng, không chấp
thọ giả tướng.
Tu Bồ Đề, vì thế nên Bồ Tát phải xa lìa
tất cả tướng, phát tâm Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác. Chẳng nên trụ nơi sắc
409
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
mà sanh tâm, chẳng nên trụ nơi thinh,
hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm. Nên
sanh tâm không trụ vào đâu cả. Nếu như
tâm có trụ, chính chẳng phải trụ, cho nên
Đức Phật nói tâm của Bồ Tát chẳng nên
trụ nơi sắc mà bố thí.
Này Tu Bồ Đề, vì lợi ích cho tất cả
chúng sanh, Bồ Tát phải bố thí như thế.
Như Lai nói tất cả các tướng, chính không
phải tướng, lại nói tất cả chúng sanh, chính
không phải chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề, Như Lai nói lời chơn
chánh, lời chắc thật, lời đúng đắn, lời
không phỉnh phờ, lời không sai khác.
Này Tu Bồ Đề, pháp của Như Lai chứng
đặng, pháp ấy không thiệt không hư.
Này Tu Bồ Đề, nếu tâm của Bồ Tát trụ
nơi Pháp để làm việc bố thí, như người vào
chỗ tối tăm, không thấy chi cả. Nếu tâm
của Bồ Tát không trụ nơi pháp để làm việc
bố thí, như người có mắt sáng lại có ánh
sáng mặt trời chiếu đến, thấy đủ hình sắc.
410
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Này Tu Bồ Đề, đời sau, nếu có thiện nam
hay tín nữ nào đọc tụng kinh này, Như Lai
sẽ biết rõ người ấy, đều thấy rõ người ấy,
sẽ được thành tựu công đức vô lượng vô
biên.
(1 tiếng chuông)
15. CÔNG ĐỨC TRÌ KINH
Này Tu Bồ Đề, nếu có thiện nam hay tín
nữ nào, buổi sáng, đem thân mạng bằng số
cát sông Hằng để bố thí, buổi trưa, lại đem
thân mạng bằng số cát sông Hằng để bố
thí, buổi chiều, cũng đem thân mạng bằng
số cát sông Hằng để bố thí, trong vô lượng
trăm nghìn muôn ức kiếp đem thân mạng
bố thí như thế, lại có người nghe kinh này,
sanh lòng tin, không trái, thời phước của
người này hơn phước của người trước kia,
huống chi là biên chép, thọ trì, đọc tụng,
nói cho người khác nghe. Này Tu Bồ Đề,
tóm lại, thời kinh này có vô biên công đức
không thể nghĩ bàn, không thể cân lường
411
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
được. Như Lai vì người phát tâm đại thừa
mà nói, vì người phát tâm tối thượng thừa
mà nói.
Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giảng
nói rộng ra cho người khác nghe, thời Như
Lai đều biết rõ người ấy, đều thấy rõ người
ấy, sẽ được trọn nên công đức không thể
cân lường, và không thể nghĩ bàn được.
Những người như thế sẽ gánh vác Pháp Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Như
Lai. Vì sao? Này Tu Bồ Đề, vì người nào
ham ưa pháp tiểu thừa chấp trước ngã
tướng, nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ
giả tướng, thời người ấy không thể nghe
nhận, đọc tụng và giảng nói kinh này cho
người khác nghe được.
Này Tu Bồ Đề, nếu những nơi nào có
kinh này, tất cả Trời, Người, A Tu La vân
vân, đều nên cúng dường. Chỗ đó, chính là
pháp thờ Đức Phật, nên cung kính lễ lạy,
đi nhiểu chung quanh, rải các món hương
hoa trên đó để cúng dường.
412
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
(1 tiếng chuông)
16 . TRỪ HẾT NGHIỆP CHƯỚNG
Lại nữa, này Tu Bồ Đề, như thiện nam
hay tín nữ nào đọc tụng kinh này, nếu bị
người khinh chê, vì tội nghiệp đã gây ra
trong đời trước, đáng lẽ người đó sẽ phải
đọa vào ác đạo, nhưng trong đời nay, bị
người khinh chê, nên không những tội
nghiệp đã gây ra trong đời trước được tiêu
diệt, người ấy còn được Đạo Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này Tu Bồ Đề, Ta nhớ lại thuở trước,
Đức Phật Nhiên Đăng ra đời, vô lượng vô
số kiếp về quá khứ, Ta được hầu hạ cúng
dường tám trăm bốn nghìn muôn ức na do
tha các Đức Phật, không luống bỏ qua. Về
đời sau, nếu có người thọ trì đọc tụng kinh
này, thời công đức của người ấy được
nhiều hơn muôn ức lần công đức cúng
dường các Đức Phật của Ta trong thuở
trước. Này Tu Bồ Đề, về đời sau, nếu có
413
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
thiện nam hay tín nữ nào thọ trì đọc tụng
kinh này, công đức của người ấy được, nếu
Ta nói hết cả ra, có kẻ nghe, trong lòng sẽ
cuồng loạn nghi ngờ không tin.
Này Tu Bồ Đề, vì nghĩa lý của kinh này
không thể nghĩ bàn, nên quả báo cũng
không thể nghĩ bàn.
(1 tiếng chuông)
17. RỐT RÁO KHÔNG NGÃ
Bấy giờ, Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch
Đức Thế Tôn, thiện nam hay tín nữ nào
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, phải trụ tâm như thế nào, phải hàng
phục tâm mình như thế nào?”
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Thiện nam hay tín
nữ nào phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, thời phải sanh tâm như vầy:
Ta phải cứu độ tất cả chúng sanh, cứu độ
tất cả chúng sanh xong, nhưng không có
một chúng sanh nào được cứu độ. Vì sao?
Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát có ngã tướng,
414
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
nhơn tướng, chúng sanh tướng, thọ giả
tướng, thời chẳng phải Bồ Tát. Vì sao? Này
Tu Bồ Đề, vì thật ra không có pháp chi
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào? Vào
thuở Như Lai ở với Đức Phật Nhiên Đăng
có Pháp chi để chứng Chánh Đẳng Chánh
Giác không?”
Bạch Đức Thế Tôn: Không, như chỗ con
hiểu nghĩa của Đức Thế Tôn nói, thời Đức
Thế Tôn ở với Đức Phật Nhiên Đăng
không có Pháp chi để chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác.
Phật dạy rằng: “Đúng thế! Đúng thế!
Này Tu Bồ Đề, thật không có pháp chi để
Như Lai chứng được Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Này Tu Bồ Đề, nếu có Pháp để Như Lai
chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, thời Đức Nhiên Đăng chẳng thọ ký
415
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
cho Ta như sau: “Đời sau, ông sẽ thành
Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni.”
Sự thật, không có Pháp chi để chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, cho nên
Đức Nhiên Đăng đã thọ ký cho Ta và nói
lời này: “Đời sau, ông sẽ đặng thành Phật
hiệu là Thích Ca Mâu Ni.” Vì sao? Vì Như
Lai đó chính nghĩa là “Các Pháp.” Nếu có
người nói: “Như Lai chứng Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác. Này Tu Bồ Đề,
thật ra không có Pháp chi để Ta chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Này Tu
Bồ Đề, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác của Như Lai chứng được không thật,
không hư, vì thế Như Lai nói “Tất Cả Các
Pháp Đều Là Phật Pháp.” Này Tu Bồ Đề,
tất cả Pháp, Như Lai nói đó, chính chẳng
phải tất cả Pháp, cho nên gọi là tất cả
Pháp.
Này Tu Bồ Đề, ví như thân người cao
lớn.
416
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, Đức Như Lai nói thân người cao
lớn, chính chẳng phải thân người cao lớn,
đó gọi là thân người cao lớn.”
Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát cũng như thế. Nếu
nói lời như vầy: Ta sẽ cứu độ vô lượng
chúng sanh, vị đó không được gọi là Bồ
Tát. Vì sao? Này Tu Bồ Đề, thật không có
Pháp chi gọi là Bồ Tát. Vì thế, Ta nói tất cả
Pháp là không ngã, không nhơn, không
chúng sanh, không thọ giả.
Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát nói như thế
này: Ta phải trang nghiêm Phật độ, vị ấy
không được gọi là Bồ Tát. Vì sao? Vì Như
Lai nói trang nghiêm Phật độ, chính chẳng
phải trang nghiêm, đó gọi là trang nghiêm.
Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát thông đạt
được “Pháp Vô Ngã” thời Như Lai mới gọi
là Bồ Tát.
(1 tiếng chuông)
417
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
18. XEM ĐỒNG MỘT THỂ
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như Lai có nhục nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như
Lai có nhục nhãn.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như Lai có thiên nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như
Lai có thiên nhãn.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như Lai có huệ nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như
Lai có huệ nhãn.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như Lai có pháp nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Như Lai
có pháp nhãn.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như Lai có Phật nhãn không?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như
Lai có Phật nhãn.
418
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như bao nhiêu cát trong sông Hằng, Như
Lai có nói là cát chăng?
Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế. Đức Như
Lai nói là cát.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như bao nhiêu cát trong một sông Hằng,
trong nhiều sông Hằng, cõi Phật như số cát
trong những sông Hằng đó có nhiều
không?
Bạch Đức Thế Tôn: Rất nhiều.
Phật bảo Tu Bồ Đề: “Bao nhiêu tâm
niệm của tất cả chúng sanh trong ngần ấy
cõi nước, Như Lai đều biết rõ. Vì sao? Vì
Như Lai nói các thứ tâm đều chẳng phải
tâm, đó mới gọi là tâm. Vì sao? Này Tu Bồ
Đề, tâm quá khứ không có, tâm hiện tại
không có, tâm vị lai không có.
(1 tiếng chuông)
419
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
19 . THÔNG HÓA PHƯỚC ĐỨC
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Như có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi
Tam Thiên Đại Thiên để bố thí, người ấy
có phước nhiều không?
Bạch Đức Thế Tôn, người đó được
phước rất nhiều.
Này Tu Bồ Đề, nếu phước đức có thật,
Như Lai không nói phước đức ấy nhiều.
Vì không có phước đức, nên Như Lai nói
là phước đức nhiều.
(1 tiếng chuông)
20 . LÌA SẮC TƯỚNG
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Có thể do sắc thân cụ túc thấy được Phật
không?
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Không thể
do sắc thân cụ túc mà thấy được Đức Như
Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói sắc thân
420
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
cụ túc, chẳng phải sắc thân cụ túc, đó gọi
là sắc thân cụ túc.
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Có thể do các tướng cụ túc mà thấy được
Phật không?
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Không thể
do các tướng cụ túc mà thấy được Đức
Như Lai. Vì sao? Vì Đức Như Lai nói các
tướng cụ túc, chẳng phải các tướng cụ túc,
đó gọi là các tướng cụ túc.
(1 tiếng chuông)
21. CHẲNG PHẢI NĂNG THUYẾT SỞ THUYẾT
Này Tu Bồ Đề, ông chớ nói rằng Như
Lai nghĩ thế này: Ta nên thuyết pháp, ông
đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì nếu người
nào nói rằng: Như Lai có thuyết pháp, thời
là hủy báng Như Lai, không hiểu nghĩa lý
của Như Lai nói. Này Tu Bồ Đề, thuyết
421
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
pháp, thật không có Pháp chi nói được, đó
gọi là thuyết pháp.
Bấy giờ, Huệ Mạng Tu Bồ Đề bạch Phật
rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, đời sau, có
chúng sanh nào nghe pháp này mà sanh
lòng tin chăng?”
Phật dạy rằng: “Này Tu Bồ Đề, chúng
sanh đó chẳng phải chúng sanh, cũng
chẳng phải là không phải chúng sanh. Vì
sao? Này Tu Bồ Đề, những chúng sanh đó,
Như Lai nói chẳng phải chúng sanh, đó gọi
là chúng sanh.”
(1 tiếng chuông)
22 . KHÔNG PHÁP CHI CÓ THỂ ĐƯỢC
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, Phật chứng Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác, là không có chỗ để
chứng phải không?”
422
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Phật dạy: “Đúng thế, này Tu Bồ Đề, Ta
ở nơi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác
nhẫn đến không có Pháp nhỏ nào để có thể
gọi là chứng, đó gọi là Vô Thượng Chánh
Đẳng Chánh Giác.
(1 tiếng chuông)
23 . TỊNH TÂM HÀNH THIỆN
Lại nữa, này Tu Bồ Đề, Pháp đó bình
đẳng không có cao thấp, mới gọi là Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì
không ngã, không nhơn, không chúng
sanh, không thọ giả, lại tu tất cả Pháp lành,
nên chứng Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Này Tu Bồ Đề, Pháp lành
được Như Lai nói đó, chẳng phải pháp
lành, đó gọi là pháp lành.
(1 tiếng chuông)
423
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
24 . PHƯỚC ĐỨC TRÍ HUỆ KHÔNG CHI
SÁNH BẰNG
Này Tu Bồ Đề, nếu có người góp bảy thứ
báu lại nhiều như số núi Tu Di trong cõi
Tam Thiên Đại Thiên để bố thí, công đức
của người này sánh với công đức của người
trì tụng hay giảng nói một bài kệ bốn câu
trong kinh Bát Nhã Ba La Mật này cho
người khác nghe, thì công đức của người
sau lớn gấp trăm ngàn lần công đức của
người trước.
25 . HÓA ĐỘ KHÔNG NGƯỜI ĐƯỢC HÓA ĐỘ
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Các ông chớ cho rằng Như Lai nghĩ như
vầy: Ta phải hóa độ chúng sanh. Này Tu
Bồ Đề, ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì
thật không có chúng sanh nào được Như
Lai độ cả. Nếu có chúng sanh để Như Lai
độ, thời Như Lai còn có tướng: ngã, nhơn,
424
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
chúng sanh, thọ giả. Này Tu Bồ Đề, Như
Lai nói ngã, chính chẳng phải ngã, kẻ
phàm phu lại cho có ngã. Này Tu Bồ Đề,
phàm phu đó Như Lai nói chẳng phải
phàm phu, đó gọi là phàm phu.
(1 tiếng chuông)
26 . PHÁP THÂN KHÔNG PHẢI SẮC TƯỚNG
Này Tu Bồ Đề, ý của ông nghĩ thế nào?
Có thể căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt
mà cho là Như Lai chăng?
Tu Bồ Đề bạch rằng: “Đúng thế! Đúng
thế! Căn cứ trên ba mươi hai tướng tốt cho
là Đức Như Lai.”
Phật dạy rằng: “Này Tu Bồ Đề, nếu do
ba mươi hai tướng tốt mà xem là Như Lai,
thời Chuyển Luân Thánh Vương là Như
Lai sao?”
425
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, con hiểu nghĩa Phật muốn nói,
“chẳng nên căn cứ trên ba mươi hai tướng
tốt mà cho là Đức Như Lai.”
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ rằng:
Nếu dùng sắc thấy Ta
Dùng âm thinh cầu Ta
Người ấy tu đạo tà
Chắc là không thấy Ta.
(1 tiếng chuông)
27 . KHÔNG ĐOẠN KHÔNG DIỆT
Này Tu Bồ Đề, nếu ông nghĩ thế này:
Như Lai không do tướng cụ túc chứng
được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Này Tu Bồ Đề, ông đừng nghĩ Như
Lai không do tướng cụ túc, chứng được
Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Này Tu Bồ Đề, nếu ông nghĩ như vầy:
426
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Người phát tâm vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác nói các Pháp đều đoạn diệt.
Ông đừng nghĩ như thế. Vì sao? Vì người
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác nói Pháp không nói tướng đoạn diệt.
(1 tiếng chuông)
28 . CHẲNG NHẬN LẤY CHẲNG THAM
Này Tu Bồ Đề, nếu Bồ Tát đem bảy thứ
báu đầy cả những cõi nước bằng số cát
sông Hằng để làm việc bố thí. Nếu lại có Bồ
Tát biết “Pháp Vô Ngã” của tất cả Pháp
mà được thành nhẫn trí. Vị Bồ Tát này
được công đức hơn phước đức của vị Bồ
Tát trước. Vì sao? Này Tu Bồ Đề, vì các vị
Bồ Tát không nhận lấy phước đức.
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, tại sao các vị Bồ Tát không nhận
lấy phước đức?”
427
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Này Tu Bồ Đề, Bồ Tát có làm việc
phước đức chẳng nên tham trước, vì thế,
nên nói chẳng nhận lấy phước đức.
(1 tiếng chuông)
29 . OAI NGHI VẮNG LẶNG
Này Tu Bồ Đề, nếu có người nói: Đức
Như Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc
nằm, người ấy không hiểu nghĩa của Như
Lai nói. Vì sao? Vì Như Lai không từ nơi
nào lại, cũng không đi về đâu, nên gọi là
Như Lai.
(1 tiếng chuông)
30 . NGHĨA LÝ NHỨT HIỆP TƯỚNG
Này Tu Bồ Đề, như có thiện nam hay tín
nữ đem cõi Tam Thiên Đại Thiên đập nát
ra thành bụi, ý của ông nghĩ thế nào? Số
bụi đó có nhiều không?
Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: “Bạch Đức
Thế Tôn, rất nhiều. Vì sao? Vì nếu số bụi
428
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
đó thật có, thời Đức Phật chẳng nói là số
bụi. Vì sao? Vì Đức Phật nói bụi, chẳng
phải bụi, đó gọi là bụi.
Bạch Đức Thế Tôn, cõi Tam Thiên Đại
Thiên, Đức Như Lai nói chẳng phải thế
giới, nên gọi là thế giới. Vì sao? Vì nếu thế
giới là thật có, thời là “một hiệp tướng.”
Đức Như Lai nói “một hiệp tướng,” chẳng
phải “một hiệp tướng,” đó gọi là “một hiệp
tướng.”
Này Tu Bồ Đề, “một hiệp tướng” đó,
không thể nói được, chỉ kẻ phàm phu
tham trước việc ấy thôi.
(1 tiếng chuông)
31. CHỖ THẤY BIẾT KHÔNG SANH
Này Tu Bồ Đề, như có người nói: Phật
nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh kiến,
thọ giả kiến, ý của ông nghĩ thế nào? Người
ấy hiểu nghĩa của Phật nói không?
Bạch Đức Thế Tôn: Không. Người ấy
không hiểu nghĩa của Phật nói. Vì sao? Vì
429
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Phật nói ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh
kiến, thọ giả kiến, chẳng phải ngã kiến,
nhơn kiến, chúng sanh kiến, thọ giả kiến,
đó gọi là ngã kiến, nhơn kiến, chúng sanh
kiến, thọ giả kiến.
Này Tu Bồ Đề, nơi tất cả Pháp, người
phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác phải biết như thế, thấy như thế, tin
hiểu như thế, chẳng sanh pháp tướng. Này
Tu Bồ Đề, Như Lai nói pháp tướng đó,
không phải pháp tướng, đó gọi là pháp
tướng.
(1 tiếng chuông)
32 . ỨNG HÓA KHÔNG PHẢI CHƠN THẬT
Này Tu Bồ Đề, như có người đem bảy
thứ báu đầy cả vô lượng vô số cõi nước để
làm việc bố thí. Lại có thiện nam hay tín
nữ nào phát tâm Bồ Đề thọ trì kinh này,
nhẫn đến một bài kệ bốn câu vân vân, tự
mình thọ trì đọc tụng hay giảng cho kẻ
430
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
khác nghe, thời phước đức của người này
hơn người trước.
Cách giảng nói cho người khác nghe
như thế nào? Không chấp nơi tướng, như
như chẳng động. Vì sao? Vì:
Tất cả các “pháp hữu vi”
Như là mộng huyễn, khác chi bóng hình
Như sấm chớp, như âm thinh
Quán xem “các pháp” như hình “không
hoa.”
(1 tiếng chuông)
Đức Phật nói kinh này xong, Trưởng
Lão Tu Bồ Đề và các vị Tỳ Kheo, Tỳ Kheo
Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, tất cả Trời,
Người, A Tu La vân vân, nghe những lời
của đức Phật nói, thảy đều vui mừng tin
nhận và làm theo.
(1 tiếng chuông)
431
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
CHÚ KIM CANG
Án, hô rô hô rô, xả duệ mục khê, xoa ha.
( 3 lần, 1 tiếng chuông)
KỆ KHEN NGỢI
Kim Cang diệu lý khó đo lường
Như Lai giác ngộ đã tuyên dương
Người nghe hiểu rõ “chân thường”
Hương, hoa, đảnh lễ cúng dường Trung
Tôn.
Nam Mô Kỳ Viên Hội Thượng Phật Bồ
Tát Ma Ha Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT
Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành
sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài
432
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy
khổ ách.
“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác
không, không chẳng khác sắc, sắc tức là
không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng đều như thế.”
“Này Ông Xá Lợi Phất, 'tướng không
của mọi pháp' không sanh, không diệt,
không dơ, không sạch, không thêm, không
bớt, nên trong 'chân không', không có sắc,
không có thọ, tưởng, hành, thức, không có
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn
giới, cho đến không có ý thức giới, không
có vô minh, cũng không có cái hết vô minh,
cho đến không có già chết, cũng không có
cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí huệ, cũng không có
chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm
433
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên
không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng
tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư
Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba
La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh
đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La
Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh
Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng
Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật
không hư.”
Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật
Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng
yết đế, bồ đề tát bà ha.”
(1 tiếng chuông)
NIỆM PHẬT
A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ, hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
434
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở phương Tây thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới
Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật.
(mỗi câu 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nam Mô Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ
Tát.
SÁM NGÃ NIỆM
Con từ kiếp trước không lường
Mất chơn bản tánh nên vương cõi trần
435
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Luân hồi sanh, tử chút thân
Thay hình đổi dạng bao lần đắng cay
Phước dư nhờ chút thiện này
Thân người được gặp theo Thầy xuất gia
Cạo đầu mặc áo cà sa
Hủy trai, phá giới tạo ra tội nhiều
Sát sanh hại vật đủ điều
Ăn nhai uế tạp đắm yêu thân hình
Của người riêng chiếm vào mình
Nhờ duyên Tam Bảo dụng tình tiêu hoang
Bôn xu cầu cạnh đủ đường
Rượu ngon, gái đẹp lòng thường say sưa.
(1 tiếng chuông)
Khinh tăng, hủy báng Phật thừa
Mẹ cha, thầy bạn u ơ bạc tình
Khoe hay, dấu dốt của mình
Sự người tốt đẹp lại sinh chê dèm
Lợi danh dối trá đã quen
Thị phi nhơn ngã đua chen với đời
Tưởng rằng chẳng lúc nào ngơi
Tấm lòng tán loạn suốt đời hư sinh
436
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
Việc người mách lẻo thời tinh
Việc mình lạy Phật tụng kinh thời lười
Bề ngoài đạo đức lòe đời
Mà trong ngã mạng khinh người gớm ghê
Biếng lười chỉ thích ngủ nghê
Tham lam bủn xỉn ai chê cũng liều
Gốc nhơ trồng cấy đã nhiều
Cánh bèo biển khổ theo chiều gió đưa!
Đã không chút thiện nương nhờ
Trong ba đường dữ bao giờ tránh qua?
Ngưỡng trông Đức Phật Di Đà
(1 tiếng chuông)
Quán Âm, Thế Chí đôi tòa thần thông
Từ bi lượng cả bao dong
Cứu con tội cáu sạch không mọi màu
Đời này cho chí đời sau
Sáu căn, ba nghiệp sạch làu như gương
Rỗng không tội tánh mọi đường
Khắp trong pháp giới chẳng vương bụi
trần.
(1 tiếng chuông)
437
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
HỒI HƯỚNG
Tụng kinh công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sinh trong pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ Đạo Mầu.
(1 tiếng chuông)
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
(1 tiếng chuông)
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông)
438
NGHI THỨC TỤNG KINH KIM CANG
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
439
ĐỨC QUÁN ÂM GIÚP CHÚNG SANH KHỎI
NHỮNG TAI ƯƠNG HẠN ÁCH VÀ XUI XẺO
440
NGHI THỨC
CÚNG SAO GIẢI HẠN
(Duhkha vimukti)
GỒM CÓ:
∗ Chú Tịnh Pháp Giới và Tịnh Tam Nghiệp
∗ Cúng Hương
∗ Cầu Nguyện
∗ Khen Ngợi Phật
∗ Quán Tưởng Phật
∗ Đảnh Lễ
∗ Tán Dương Chi
∗ Chú Đại Bi
∗ Xướng và Đọc Sớ
∗ Bài Cúng Sao Giải Hạn
∗ Chú Tiêu Tai
∗ Chú Dược Sư
∗ Sám Tiêu Tai Giải Hạn
∗ Nguyện An Lành
∗ Hồi Hướng
∗ Phục Nguyện
∗ Tam Quy
DÙNG ĐỂ:
Cầu nguyện cho khỏi xui xẻo, tai nạn, và những điều xấu trong
năm. Thêm vào đó, người bị sao hạn phải bố thí, phóng sanh,
và làm nhiều vỉệc lành, lợi mình lợi người. Bỏ hết tham, sân, si
sẽ được tai qua nạn khỏi.
441
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Nghi Thức
CÚNG SAO GIẢI HẠN
(Thắp đèn đốt hương, đứng ngay ngắn, chắp tay ngang
ngực, chủ lễ mật niệm).
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI
Án lam xoa ha.
(3 lần)
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP
Án ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ
ta phạ, bà phạ truật độ hám.
(3 lần)
(Quì ngay thẳng, cầm 3 cây hương dâng ngang trán,
chủ lễ niệm bài cúng hương).
442
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
CÚNG HƯƠNG
Nguyện đem lòng thành kính
Gởi theo đám mây hương
Phảng phất khắp mười phương
Cúng dường ngôi Tam Bảo
Thề trọn đời giữ Đạo
Theo tự tánh làm lành
Cùng pháp giới chúng sanh
Cầu Phật từ gia hộ
Tâm Bồ Đề kiên cố
Xa bể khổ nguồn mê
Chóng quay về Bờ Giác.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
CẦU NGUYỆN
Đệ tử chúng con, nhân ngày... (Nguyên
Đán), một dạ chí thành, thiết lễ Cầu An,
Nhương Tinh Giải Hạn, ngưỡng nguyện
Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, chư
đại Bồ Tát, cùng Thánh, Hiền, Tăng từ bi
gia hộ cho Phật tử:..., đương đời phiền não
443
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
dứt sạch, nghiệp chướng tiêu trừ, thường
được an lành, xa lìa khổ ách, và cùng pháp
giới chúng sanh, một thời đồng chứng Vô
Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ
Tát tác đại chứng minh.
( 3 lần, 1 tiếng chuông, xá 1 xá)
KHEN NGỢI PHẬT
Đấng Pháp Vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời, người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Xưng dương cùng tán thán
Ức kiếp không cùng tận
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
444
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
QUÁN TƯỞNG PHẬT
Phật, chúng sanh tánh thường rỗng lặng
Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn
Lưới đế châu ví đạo tràng
Mười phương Phật hiện hào quang sáng
ngời
Trước bảo tọa thân con ảnh hiện
Cúi đầu xin thệ nguyện quy y.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
ĐẢNH LỄ
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô tận hư không
biến pháp giới quá, hiện, vị lai thập
phương chư Phật, Tôn Pháp Hiền Thánh
Tăng thường trụ Tam Bảo.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Ta Bà Giáo
Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại
Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ
445
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát,
Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Tây Phương
Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà
Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng
Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải
Chúng Bồ Tát.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
TÁN DƯƠNG CHI
Cành dương nước tịnh nhiệm mầu
Rưới tắt muôn vàn cảnh khổ đau
Chư Thiên mát mẻ, tâm thanh tịnh
Nhân thế vui tươi, cảnh an nhàn
Cam lồ rưới khắp trần gian
Lửa sân dứt sạch, sen vàng nở hoa.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
446
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
CHÚ ĐẠI BI
Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi
Tâm Đà La Ni. Nam mô hắc ra đát na đa
ra dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế
thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha
tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát
bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa. Nam mô
tất kiết lật đỏa y mông a rị da, bà lô kiết đế
thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn
trì, hê rị ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha
đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na
ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha.
Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị,
ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra
ma ra, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô
kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha
phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất
Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra,
mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra
447
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật
ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề
dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế rị dạ,
na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na,
ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà
dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ, thất bàn ra
dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra
na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da,
ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha.
Dả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma
kiết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn
đà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra
dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na đa ra
dạ da. Nam mô a rị da, bà lô kiết đế, thước
bàn ra dạ, ta bà ha. Án tất điện đô, mạn đa
ra, bạt đà dạ, ta bà ha.
(1 tiếng chuông)
(Nếu có sớ, chủ lễ xướng rồi đọc,
nếu không bớt phần này)
448
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
XƯỚNG SỚ
Nam Mô Thập Phương Thường Trú
Tam Bảo.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Như Lai tướng tốt
Không thể nghĩ bàn
Con nay, dâng sớ cầu an
Cúi xin Phật Tổ, lâm đàn
chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
BÀI CÚNG SAO GIẢI HẠN
Chí Tâm Quy Mạng Lễ, Nam, Bắc,
Đông, Tây, Trung Ngũ Đẩu, Châu Thiên
Thất Thập Nhị Cung Thần, Nhị Thập Bát
Tú Liệt Phương Ngung, Cửu Diệu Thất
Tinh Chư Thánh Chúng, Đại Bi Đại
Nguyện, Đại Thánh Đại Từ, Phật Quang
449
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Chủ Chiếu, Bổn Mạng Nguyên Thần, Đại
Hạn, Tiểu Hạn Tinh Quân, Đại Vận, Tiểu
Vận Tôn Thần, La, Kế, Nguyệt, Bột, Bàn
Lâm Chủ Chiếu, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa,
Thổ, Đức Tinh Quân, Nguyện Tiêu Tai
Chướng, Nguyện Giáng Kiết Tường,
TiêuTai Xí Thạnh Quang Vương Phật.
(3 lần, mỗi lần 1 tiếng chuông)
CHÚ TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG
Nẳng mồ tam mãn đa, mẫu đà nẫm, a
bát ra để, hạ đa xá, ta nẳng nẩm, đát điệt
tha. Án, khê khê, khê hế, khê hế, hồng
hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra
nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá,
để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra,
ta phấn tra, phiến để ca, thất rị duệ, ta phạ
ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
450
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
CHÚ DƯỢC SƯ
Nam mô bạt dà phạt đế bệ sát xã lu lô
tích lưu ly, bát lặc bà hát ra xà dã, đát tha
yết đa da, a ra hát đế, tam miệu tam bột đà
da, đát điệt tha. Án, bệ sát thệ, bệ sát thệ,
bệ sát xã, tam một yết đế xoa ha.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
Giải kiết, giải kiết, giải oan kiết,
Nghiệp chướng bao đời đều giải hết,
Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính,
Đối trước Phật đài, cầu xin giải kiết.
Dược Sư Phật, Dược Sư Phật.
Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật.
Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.
Nam Mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư
Phật.
(3 lần, 1 tiếng chuông)
451
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
SÁM TIÊU TAI GIẢI HẠN
Con nay dốc hết tâm thành
Kính lạy Đức Phật Xí Thạnh Quang
Vương
Nếu con sắp bị tai ương
Cúi xin chư Phật đoái thương giải nàn:
La Hầu hay bị tai oan
Tháng Giêng, Tháng Bảy vô vàn điêu linh
Con nguyền học Đạo sửa mình
Sân si dứt sạch, Phúc Tinh phò trì.
Thổ Tú, Thủy Diệu sầu bi
Tháng Tư, Tháng Tám thiếu gì nhiễu
nhương
Cúi xin Phật Tổ xót thương
(1 tiếng chuông)
Giúp cho con được gia đường bình yên.
Thái Bạch hết sạch cửa nhà
Tháng Năm tan tác vào ra bực mình
Khẩn cầu Cửu Diệu Thất Tinh
Cứu con thoát khỏi điêu linh cửa nhà.
452
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Thái Dương tiền bạc kiếm ra
Tháng Mười, tháng Sáu, cửa nhà bình an.
Con hằng tâm nguyện vái van
Cầu cho con được an nhàn thảnh thơi.
Vân Hớn dù có nói chơi
Tháng Hai, tháng Tám bị lời thị phi
Con nguyền học Đạo Từ Bi
Nhớ lời Phật dạy, khắc ghi vào lòng.
Kế Đô gia thất long đong
Tháng Ba, Tháng Chín, xa chồng xa cha
Khấn cầu Đức Phật Thích Ca,
Quán Âm phò hộ cửa nhà bình yên.
Thái Âm, mười một truân chuyên
Tháng Chín tốt đẹp, của tiền khá ra
Khuyên người theo chánh bỏ tà
Trau giồi đức hạnh, mới là chân tu.
Mộc Đức, bổn mạng không xui
Tháng Chạp, phúc lộc, hưởng vui, thanh
bình .
(1 tiếng chuông)
Gắng lo bố thí, phóng sinh
453
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Để cho hết thảy gia đình bình an.
Nguyện cho Đại Hạn tiêu tan
Tiểu Hạn hết sạch, an nhàn thảnh thơi.
Nguyện cho con được đời đời
Hành Bồ Tát đạo, cứu người lầm than.
(1 tiếng chuông)
NGUYỆN AN LÀNH
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Bổn Sư ban an
lành.
(1 tiếng chuông)
Nguyện ngày an lành, đêm an lành, ngày
đêm sáu thời luôn an lành, tất cả thời gian
luôn an lành, ngưỡng mong Tam-Bảo giúp
an lành.
(1 tiếng chuông)
454
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Nguyện ngày an lành, đêm an lành,
ngày đêm sáu thời luôn an lành, tất cả
thời gian luôn an lành, ngưỡng mong Hộ
Pháp giúp an lành.
(1 tiếng chuông)
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương
Phật.
(mỗi câu sau đây, niệm 3 lần, 1 tiếng chuông)
Nam Mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ
Tát.
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát.
Nam Mô Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ
Tát.
HỒI HƯỚNG
Cầu an công đức, hạnh nhiệm mầu
Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu
Tất cả chúng sinh trong pháp giới
Hướng về Phật pháp tỏ đạo mầu.
455
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Nguyện cho ba chướng tiêu tan
Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời
Cầu cho con được đời đời
Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than.
Nguyện đem công đức lành
Đệ tử hướng tâm thành
Cầu cho khắp chúng sanh
Đều chứng thành Phật quả.
(1 tiếng chuông)
PHỤC NGUYỆN
(chỉ chủ lễ phục nguyện)
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thanh Cứu
Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ Tát tác
đại chứng minh.
(1 tiếng chuông, xá 1 xá)
Tam Bảo chứng minh oai thần hộ niệm,
hôm nay đệ tử chúng con, một dạ chí
456
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
thành, trì tụng kinh chú, xưng tán Hồng
Danh, Nhương Tinh Giải Hạn, cầu nguyện
cho Phật tử:..., Pháp danh:...., đương đời
phiền não dứt sạch, nghiệp chướng tiêu
tan, tật bệnh bình an, thân tâm thường lạc,
gia đình thịnh đạt, quyến thuộc khương
ninh, pháp giới chúng sanh, trọn thành
Phật quả.
(1 tiếng chuông, đồng niệm)
Nam Mô A Di Đà Phật.
TAM QUY
Con nương theo Phật, cầu cho chúng sanh
Tin chắc Đạo cả, phát lòng vô thượng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
Con nương theo Pháp, cầu cho chúng sanh
Thấu rõ Kinh Tạng, trí huệ như biển.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
457
NGHI THỨC CÚNG SAO GIẢI HẠN
Con nương theo Tăng, cầu cho chúng sanh
Kính tín hòa hợp, tất cả không ngại.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
458
ĐỨC HỘ PHÁP
459
PHẦN PHỤ ĐÍNH
∗ 12 Đại Nguyện của Đức Quán Thế Âm
Bồ Tát.
∗ 48 Lời Nguyện Của Đức Phật A Di Đà
∗ Bài Tống Táng
∗ Khuyến Tu
∗ Các Ngày Vía
∗ Những Ngày Trai
460
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN
CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT
NGUYỆN THỨ NHỨT: khi thành Bồ Tát
Danh hiệu tôi: Tự Tại Quán Âm
Mười hai lời nguyện cao thâm
“Nghe tiếng cứu khổ,” Quán Âm thề nguyền.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ HAI: không nài gian khổ
Quyết một lòng cứu độ chúng sanh
Luôn luôn thị hiện biển Đông
Vớt người chìm đắm, khi giông gió nhiều.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ BA: Ta Bà ứng hiện
Chốn U Minh nhiều chuyện khổ đau
Oan oan tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở, mau mau cứu liền.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ TƯ: hay trừ yêu quái
Bao nhiêu loài ma quỉ gớm ghê
Độ cho chúng hết u mê
461
12 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
Dứt trừ nguy hiểm, không hề nhiễu nhương.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ NĂM: tay cầm Dương liễu
Nước cam lồ rưới mát nhân thiên
Chúng sanh điên đảo, đảo điên
An vui mát mẻ, ưu phiền tiêu tan.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ SÁU: thường hành bình đẳng
Lòng từ bi thương xót chúng sanh
Hỷ xả tất cả lỗi lầm
Thường hành bình đẳng, chúng sanh mọi loài.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ BẢY: dứt ba đường dữ
Chốn ngục hình, ngạ quỉ, súc sanh
Cọp beo, thú dữ vây quanh
Quán Âm thị hiện, chúng sanh thoát nàn.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ TÁM: giải thoát còng la
Nếu tội nhân sắp bị khảo tra
Thành tâm lễ bái thiết tha
Quán Âm phò hộ, thoát ra nhẹ nhàng.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
462
12 ĐẠI NGUYỆN CỦA ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
NGUYỆN THỨ CHÍN: cứu vớt hàm linh
Trên con thuyền Bát Nhã lênh đênh
Bốn bề biển khổ chông chênh
Quán Âm độ hết, đưa lên Niết Bàn.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ MƯỜI: Tây Phương tiếp dẫn
Tràng hoa thơm, kỹ nhạc, lọng tàn
Tràng phang, bảo cái trang hoàng
Quán Âm tiếp dẫn, đưa đàng về Tây.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ MƯỜI MỘT: Di Đà thọ ký
Cảnh Tây Phương tuổi thọ khôn lường
Chúng sanh muốn sống miên trường
Quán Âm nhớ niệm, Tây Phương mau về.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
NGUYỆN THỨ MƯỜI HAI: tu hành tinh tấn
Dù thân này tan nát cũng đành
Thành tâm nghiêm chỉnh thực hành
Mười hai câu nguyện độ sanh đời đời.
(1 tiếng chuông, lạy 1 lạy)
463
BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN
CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
(Khi Ngài còn là Pháp Tạng Tỳ Kheo)
Nguyện Thứ Nhất – Khi tôi thành Phật
Trong nước tôi, không có ngục hình
Hay loài ngạ quỷ, súc sanh
Không bao giờ có sanh thành nơi đây.
Tôi nguyện không được như vầy
Thề không thành Phật, lời này không sai.
Nguyện Thứ Hai – Nhân dân trong nước
Đều hóa sanh từ “Chín Phẩm Liên”
Nương theo nguyện lực tinh chuyên
Đến khi thọ mạng, sen liền nở hoa.
Nguyện Thứ Ba – Hóa ra thực vật
Nhiều thứ ngon, khỏi phải tìm cầu
Dùng xong, vật dụng liền thâu
Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.
464
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Thứ Tư – Y phục mỗi ngày
Muốn bao nhiêu: áo, mũ, dép, giầy
Thảy đều hóa đủ trưng bày
Khỏi mua, khỏi giặt, khỏi may cực lòng.
Nguyện Thứ Năm – Thành trì bát ngát
Nhiều lâu đài, cung điện nguy nga
Bảy hàng cây báu đơm hoa
Hương thơm ngào ngạt, tỏa ra nhẹ nhàng.
Nguyện Thứ Sáu – Kính mến tương giao
Không sang tham, giúp đỡ lẫn nhau
Không lời qua lại trước sau
Không ganh, không ghét, thương nhau vô vàn.
Nguyện Thứ Bảy – Nhân dân trong nước
Không có lòng uế trược, dâm ô
Cũng không có tiếng tục thô
Cùng là nóng giận, hồ đồ ngu si.
Nguyện Thứ Tám – Chuyên trì chánh niệm
Nhớ điều hay, điều dở bỏ đi
Nếu ai muốn nói chuyện gì
Người kia hiểu ý, tức thì khỏi phân.
465
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Thứ Chín - Chỉ nghe điều thiện
Có hơi đâu, nghĩ chuyện dông dài
Chuyên tâm tu niệm hằng ngày
Rồi ra nghiệp chướng dứt ngay không còn.
Nguyện Thứ Mười - Biết thân này huyễn
Thì không nên tham luyến thế gian
Khổ thay trần thế không an
Xin đừng tham đắm, vô vàn điêu linh.
Nguyện Mười Một - Trời, người tuy khác
Hình dung đồng một sắc vàng y
Người người nghiêm chỉnh phương phi
Mặt mày đẹp đẽ, không chi sánh bằng.
Nguyện Mười Hai– Thinh Văn, Duyên Giác
Nhờ chuyên cần tu tập hành thiền
Cho đến động vật... nhân, thiên
Chứng quả Duyên Giác, Thinh Văn không
lường.
Nguyện Mười Ba – Dân số Phật Đà
Không còn có số tính ra cho bằng
Nhiều như số cát sông Hằng
Tại An Dưỡng Quốc, khó phân khó lường.
466
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Mười Bốn - Sống đời trường thọ
Cảnh thanh nhàn hưởng thọ tự nhiên
Không sao tính được vận niên
Sống lâu vô lượng, vô biên đời đời.
Nguyện Mười Lăm - Hưởng lạc an nhàn
Trọn sống đời cực lạc, cao sang
Như người vượt thoát trần gian
Lậu hoặc dứt hết, Lạc Bang vui vầy.
Nguyện Mười Sáu – Thanh tịnh trang nghiêm
Hẳn xa lìa vọng tưởng triền miên
Sống đời tịch tịnh an nhiên
Niết Bàn hiển hiện, Chân Nguyên tỏ bày.
Nguyện Mười Bảy - Thực hành Đạo Cả
Suốt đêm ngày ròng rã độ sinh
Thiết tha nói Pháp tụng kinh
Hoằng khai Phật Đạo, công trình hơn ai.
Nguyện Mười Tám - Biết được kiếp trước
Hễ vừa sanh vào cõi nước tôi
Người người rõ chuyện xa xôi
Trăm, ngàn, muôn kiếp qua rồi đều thông.
467
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Mười Chín – “Cái Thấy” thông suốt
Dân chúng tôi có thể xa trông
Toàn thể vũ trụ mênh mông
Rõ ràng trước mặt, đều không trở ngại.
Nguyện Hai Mươi – “Cái Nghe” rõ ràng
Ở phương xa, chư Phật nói kinh
Thảy đều nghe rõ âm thinh
Nghìn muôn ức cõi, như hình đâu đây.
Nguyện Hai Mốt - Biết rõ tâm người
Cách trăm ngàn thế giới xa xăm
Chúng sanh vừa mới mống tâm
Dân tôi đều biết, không nhầm mảy may.
Nguyện Hai Hai– Thong dong tự tại
Những tận đâu, chẳng ngại đường xa
Chỉ trong khoảnh khắc vượt qua
Mười phương các cõi như là dạo chơi.
Nguyện Hai Ba – Công đức vui mừng
Khen ngợi tôi, đại chúng đồng thanh
Phát tâm vui vẻ hiền lành
Lâm chung sẽ được, hóa sanh Sen Vàng.
468
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Hai Bốn – Quang minh chiếu diệu
Nơi đảnh tôi rực rỡ vô ngần
Sáng hơn nhật nguyệt muôn lần
Luôn luôn tỏ rạng, khó phân đêm ngày.
Nguyện Hăm Lăm – Hào quang chói lọi
Đến tận nơi các cõi U Minh
Chư thiên cho đến bàng sinh
Thấy hào quang sáng, tự mình quy y.
Nguyện Hăm Sáu – Quang minh cảm hóa
Khắp mười phương các cõi nhân dân
Hào quang chiếu đến bản thân
Từ hòa tâm tánh hơn dân cõi Trời.
Nguyện Hăm Bảy – Vãng sanh tịnh độ
Cho những người giữ giới, ăn chay
Đến những ai thiền định, đêm ngày
Khi nào mãn báo thân này
Tôi và Thánh chúng đông dầy
Phóng quang tiếp dẫn, lên ngay Sen Vàng.
Nguyện Hăm Tám - Trời, người các cõi
Nghe danh tôi, trần thiết huy hoàng
Ngày đêm tưởng niệm vái van
469
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Người ấy sẽ được, Lạc Bang sanh về.
Nguyện Hăm Chín – Chúng sanh các cõi
Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê
Tên tôi mười niệm, không hề
Xao lãng chánh niệm, được về Tây phương.
Trừ những kẻ tánh tình ngỗ nghịch
Cùng những người báng Phật, Pháp, Tăng
Ra vào tập tánh hung hăng
Chắc đọa địa ngục, muôn năm thọ hình.
Nguyện Ba Mươi - Mọi điều như ý
Kiếp trước đây tạo nghiệp không lành
Hôm nay, phát nguyện tu hành
Tây Phương Cực Lạc, cầu sanh dễ dàng.
Nguyện Băm Mốt - Mọi người cung kính
Nghe tên tôi, đảnh lễ cúng dàng
Người đó sẽ được dễ dàng
Trời, người kính nể, quy hàng, tán dương.
Nguyện Băm Hai – Sanh làm nam giới
Những đàn bà con gái chán đời
Phát tâm tín niệm danh tôi
Thân sau sẽ khỏi luân hồi nữ nhi.
470
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Nguyện Băm Ba- Chứng liền Đạo Quả
Bậc “Nhất Sanh Bổ Xứ” chứng liền
Lại còn những vị siêu nhiên
Muốn sanh cõi khác, tôi liền giúp cho.
Giúp cho hạnh nguyện Phổ Hiền,
“Tịch Diệt,” “Phạm Hạnh” cần chuyên thi hành
Rồi ra giáo hóa chúng sanh
Chứng nên Phật quả, viên thành nguyền xưa.
Nguyện Băm Bốn – Nhân dân trong nước
Muốn sanh về cõi khác độ sanh
Nếu không như nguyện, cũng không
Đọa ba đường dữ, thoát vòng trầm luân.
Nguyện Băm Lăm – Các hàng Bồ Tát
Muốn cúng dường chư Phật những đâu
Hương, hoa, anh lạc, trân châu
Mang đi khắp cả, vừa hầu bữa ăn.
Nguyện Băm Sáu - Được như ý nguyện
Nếu ước muốn mọi vật có liền
Đưa đi khắp cả các miền
Cúng dường chư Phật, về liền chưa trưa.
Nguyện Băm Bảy – Thông minh trí tuệ
471
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Hàng Bồ Tát phúng tụng các kinh
Liền được trí huệ thông minh
Diễn dương Chánh Pháp, tài tình cao siêu.
Nguyện Băm Tám - Biện tài vô ngại
Chư Tôn Bồ Tát huệ sáng ngời
Giảng kinh thuyết Pháp khắp nơi
Biện tài vô ngại, không người sánh phân.
Nguyện Băm Chín – Nhân dân trong nước
Ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm
Kim Cang thần lực vô biên
In như chư Phật, kim thân sáng ngời.
Nguyện Bốn Mươi - Quốc độ trang nghiêm
Trong cây báu, muốn xem chư Phật
Mười phương các cõi ở xa
Hiển hiện trước mặt như là soi gương.
Nguyện Bốn Mốt - Mọi đường công đức
Bồ Tát nào chưa được hoàn toàn
Có thể biết được Đạo Tràng
Bề cao cho đến bốn ngàn do tha.
Nguyện Bốn Hai - Người, vật khôn lường
472
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Quốc độ tôi, đồ vật, chúng sinh...
Mỗi người, mỗi vật tịnh minh
Dù chứng thiên nhãn, chẳng nhìn hết đâu.
Nguyện Bốn Ba - Mọi người trong nước
Chí mong cầu nghe được Pháp, Kinh
Tự nhiên có sẵn âm thinh
Không cần mời thỉnh, theo tình thế gian.
Nguyện Bốn Bốn- Bồ Tát, Thinh Văn
Trong nước tôi, trí huệ oai linh
Trên đảnh có ánh quang minh
Biện tài nói Pháp, in hình Thế Tôn.
Nguyện Bốn Lăm - Mười phương Bồ Tát
Nghe tên tôi phát nguyện quy y
Lại thêm thiền định hành trì
Liền được giải thoát không gì vướng ngăn.
Nếu chí muốn cúng dường chư Phật
Trong khoảnh khắc khắp cả các phương
Đường xa tuy khó đo lường
Nương nhờ thần lực, trên đường thong dong.
Nguyện Bốn Sáu – Chư Tôn Bồ Tát
Ở phương xa, tinh tấn tu hành
473
48 LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC A DI ĐÀ
Tam muội, giải thoát chứng xong
Thường thấy chư Phật, số đông không lường.
Nguyện Bốn Bảy – Dân số đông dầy
Hàng hàng lớp lớp về đây tu hành
Người người nguyện thỏa vô sanh
Vào hàng Bất Thối, viên thành nơi đây.
Nguyện Bốn Tám – Hoàn thành Pháp Nhẫn
Người người đều thành khẩn quy y
Hoàn thành nguyện lớn một khi
Nhất, nhị, tam nhẫn hành trì luôn luôn.
Pháp Tạng phát nguyện vừa xong
Mười phương các cõi thảy đồng hân hoan
Hương, hoa, kỹ nhạc, lọng tàn
Cúng dường Giáo Chủ Lạc Bang Di Đà.
474
BÀI TỐNG TÁNG
Cuộc hồng trần xoay vần quá ngán
Kiếp phù sanh tụ tán mấy luân hồi
Người đời có biết chăng ôi
Thân người tuy có, có rồi hoàn không!
Chiêm bao khéo khuấy lạ lùng
Mơ màng trong một giấc nồng mà chi
Làm cho buồn bã thế ni
Hình dung mới đó bữa nay đâu rồi?
Khi nào đứng đứng ngồi ngồi
Bây giờ thiêm thiếp như chồi cây khô.
Khi nào du lịch giang hồ
Bây giờ nhắm mắt mà vô quan tài.
Khi nào lược giắt trâm cài
Bây giờ gởi xác ra ngoài gò hoang.
Khi nào trau ngọc chuốt vàng
Bây giờ một nắm xương tàn lạnh tanh.
Khi nào mắt đẹp mày thanh
Bây giờ, thấy dạng thấy hình là đâu.
Khi nào lên các xuống lầu
Bây giờ một nắm cỏ sầu xanh xanh
475
BÀI TỐNG TÁNG
Khi nào liệt liệt oanh oanh
Bây giờ một trận tan tành gió mưa.
Khi nào ngựa lọc xe lừa
Bây giờ mây rước trăng đưa mơ màng.
Khi nào ra trướng vào màn
Bây giờ nhà cửa xóm làng cách xa.
Khi nào mẹ mẹ cha cha
Bây giờ bóng núi cách xa muôn trùng.
Khi nào vợ vợ chồng chồng
Bây giờ trăng khuyết còn mong chi tròn.
Khi nào cháu cháu con con
Bây giờ hai ngã nước non xa vời.
Khi nào cốt nhục vẹn mười
Bây giờ lá héo nhành tươi vui gì.
Khi nào bạn hữu sum vầy
Bây giờ chén rượu cuộc kỳ vắng thiu.
Cái thân như tấc bóng chiều
Như chùm bọt nước phập phều ngoài
khơi.
Xưa ông Bành Tổ sống đời
Tám trăm tuổi thọ nay thời còn đâu!
Sang mà đến bực Công Hầu
476
BÀI TỐNG TÁNG
Giàu mà đến bực bấy lâu Thạch Sùng.
Nghèo mà đói khát lạnh lùng
Khổ mà tóc cháy da phòng trần ai
Phù du sớm tối một mai
Giàu sang cũng thác, xạt xài cũng vong.
Thông minh tài trí anh hùng
Si mê dại dột cũng chung một gò.
Biển trần nhiều nỗi gay go
Mau mau nhẹ gót qua đò sông mê.
Sự đời nên chán nên chê
Tầm nơi giải thoát mà về mới khôn
Vong hồn ơi, hỡi vong hồn
Cuộc đời nay biển mai cồn tỉnh chưa?
Tỉnh rồi một giấc say sưa
Sẽ xin niệm Phật mà đưa hồn về
Hồn về Cực Lạc nước kia
Cho xa hang quỉ mà lìa kiếp ma
Nhờ ơn Đức Phật Di Đà
Phóng ra một ngọn chói lòa hào quang
Trong khi tiếp dẫn rõ ràng
Dắt hồn ra khỏi sáu đàng nghiệp nhơn.
Quán Âm Bồ Tát vui mừng
477
BÀI TỐNG TÁNG
Tay cầm nhành liễu, tay bưng kim đài
Với cùng Thế Chí các ngài
Cũng đều khuyến thỉnh lên ngai sen vàng.
Có bảo cái, có tràng phan
Có mùi hương lạ, có đàn ngọc xây
Có Trời các cõi truy tùy
Có đờn, có trống, rước đi một đường.
Rước về đến cảnh Tây Phương
Có ao Thất bảo, có hương ngũ phần
Lưu ly có đất sáng ngần
Ma ni có nước trong tần chảy quanh
Thất trân có bảy lớp thành
Bảy hàng cây báu, bảy vành lưới châu
Có ngân các, có kim lầu
Có chim nói pháp nhiệm mầu dễ nghe.
Nghe rồi tỏ đạo Bồ Đề
Bao nhiêu nghiệp chướng hồn mê dứt
liền.
Đã sanh về chín phẩm sen
Mấy tai cũng xảy, mấy duyên cũng tròn.
Phật như thể mẹ tìm con
Con mà gặp mẹ lại còn lo chi
478
BÀI TỐNG TÁNG
Lầu vàng đài các thiếu gì
Ăn thì cơm ngọc, mặc thì áo châu
Không ơn, không oán, không sầu
Không già, không chết, có đâu luân hồi.
Tánh xưa nay đã tỏ rồi
Gương xưa rày đã lau chùi trần ô
Tu hành phải đợi kiếp mô
Nguồn tình biển ái đã khô bao giờ
Lựa là phải ngộ thiền cơ
Mà đèn trí huệ dễ lờ đi đâu.
Mấy lời hộ niệm trước sau
Nguyện cho thành Phật mau mau nữa mà
Phân thân ra khỏi Ta Bà
Từ bi tiếp độ những là chúng sanh.
479
KHUYẾN TU
Vóc bào ảnh lắm người yêu tiếc,
Yêu tiếc thân cho thiệt vì thân,
Cuộc vui những ước vô ngần,
Nào hay vui vẫn là nhân chác sầu.
Kiếp phù thế bóng câu cửa sổ,
Chất huyễn hư giọt lệ lòng hoa,
Đôi mươi trẻ, chín mươi già,
Số phần yểu thọ khó qua vô thường.
Dép dưới giường lên giường vội biệt,
Sống ngày nay dễ biết ngày mai,
Mạng người hô hấp kinh thay?
Nghĩ cơn vĩnh biệt tiền đài mà đau.
Xót duyên kiếp vì sao ngắn ngủi,
Chấp thân chi để tủi cho thân,
Da bao những thịt, xương, gân,
Thân này dường thể đống phân sạch gì?
Tóc, răng, móng khác chi đất bợn,
Mũi, dãi, đàm nên tởm xiết bao,
Bên ngoài rệp đúc, muỗi đeo,
Bên trong sán lãi lẫn vào nhớp chưa?
480
KHUYẾN TU
Nỗi nóng bức ngày trưa tiết hạ,
Cơn lạnh lùng đêm giá trời đông,
Xét thân nhơ khổ vô cùng,
Dứt lòng tham luyến, khởi lòng thoát ly.
Trách người thế mê chi lắm nhẽ,
Sánh phong lưu phô vẻ y quan,
Kẻ khờ cũng học đài trang
Để lòng điên đảo theo đàng sắc thanh.
Đầu xương sọ cài trâm thắt lụa,
Đãy da hôi ướp xạ xông hương,
Khéo đòi nhung gấm phô trương,
Chỉ tuồng che lớp vô thường hôi tanh.
Những mãn tưởng ngày xanh muôn tuổi,
Lắm cơ mưu đeo đuổi yêu hoa,
Ngờ đâu tai điếc, mắt lòa,
Diêm Vương sắp ruớc đến tòa U Minh.
Làn tóc bạc đưa tin quỉ sứ,
Gốc răng long điềm chỉ qui âm,
Càng tài, càng sắc, càng dâm,
Càng cho đọa lạc càng lầm mà thôi.
Cuộc hành lạc một thời thương tiếc,
Nẻo luân hồi muôn kiếp đắng cay,
481
KHUYẾN TU
Đến khi sắp xuống diêm đài,
Thịt xương đau nhức, tay chân rụng rời.
Vợ lưu luyến đầy vơi giọt lệ,
Con thảm thương kể lể khóc than,
Dù cho quyến thuộc trăm ngàn,
Có ai thay đổi cho chàng được chăng?
Kẻ sống ở nặng quằn gánh tủi,
Người chết đi dong ruổi phách hồn,
Đường âm mờ tựa đêm hôm,
Trông ra quạnh quẽ bồn chồn thảm thê.
Nại hà đến lạnh tê gió lốc,
Quỉ môn sang ghê gốc tiếng thương,
Bảy ngày lìa quá cõi dương,
Âm ty đã trải trăm đường hỏi tra,
Tào quan xử thét la chẳng vị,
Ngục tốt hờn tay chùy, tay xoa,
Đài gương nghiệp cảnh sáng lòa,
Soi tường thiện ác chối qua được nào.
Người nhân đức cho vào cửa phước,
Kẻ hung hoang giải trước hình ty,
Đọa đày khổ sở xiết chi,
Mới hay nhân quả mấy khi sai lầm.
482
KHUYẾN TU
Rừng đao kiếm bao năm hết tội,
Kiếp sừng lông nhiều nỗi đa mang,
Trả đền cho dứt nghiệp oan,
Mới mong thoát khỏi con đường long
đong.
Dù ai có to lòng lớn mật,
Mặc chàng hay báng Phật khinh Tăng,
Chẳng qua đối trước Diêm quân,
Cúi đầu co gối chịu phần xử tra.
Hồn phách đã xa chơi âm giới,
Thi hài còn ở cõi dương gian,
Có tiền mua lớp áo quan,
Không tiền vùi chốn núi hoang lạnh lùng.
Xương, da, thịt sẽ cùng tan rã,
Tấm hình hài lần hóa tanh hôi,
Chỉ trong chầy sớm mà thôi,
Chầy trong bảy tháng sớm thời ít hôm.
Nét kiều diễm chập chờn xuân mộng,
Kiếp tài hoa hình bóng bạch vân,
Khi xưa, tài, sắc mười phân,
Mà nay một nấm cô phần lạnh tanh.
Thời oanh liệt hùng anh đâu tá,
483
KHUYẾN TU
Cuộc ái ân hư giả còn chi,
Phất phơ cành liễu xanh rì,
Giấy tiền treo đó còn ghi mối sầu.
Bóng chiều rũ xuống màu cỏ biếc,
Bia mồ trơ một chiếc vắng không,
Nghĩ thôi rơi lệ chạnh lòng,
Đời người đến thế là xong một đời.
Ví chăng biết tìm nơi giải thoát,
Nương về ngôi Chánh Giác Quy Y,
Luân hồi hẳn dứt có khi,
Bên trời Bát Nhã còn chi lo phiền,
Lối ma quỉ đừng riêng mưu sống,
Đất Từ Bi gieo giống Hoa Đàm,
Giữ lòng thiện, dứt lòng tham,
Gái, trai, Tăng, tục đều ham tu hành.
Rõ cảnh mộng chớ quanh đường mộng,
Biết miền chơn, kiếp chóng tu chơn,
Dần dà tính thiệt so hơn,
Tuổi xuân qua mất để hờn về sau.
Sáu chữ Phật cùng nhau gắng niệm,
Chín phẩm đài sen chiếm ngôi vinh,
Chớ nên mình phụ lấy mình,
484
KHUYẾN TU
Trách sao Diêm lão vô tình chẳng dung.
Bỏ điều ác xin làm theo thiện,
Chừa lỗi xưa tu tiến đường sau,
Lại vì quyến thuộc bảo nhau,
Cùng khuyên già trẻ sớm mau tu trì.
Khiến mỗi kẻ đồng quy bến giác,
Cho mọi người đều thoát sông mê,
Dù trong lao khổ dám nề,
Đài sen đốt mảnh hương thề nguyền xin...
Nguyền xin dốc tưởng tin lời Thánh,
Dám đổ cho rảnh rỗi ưu du,
Kiếp này chẳng chịu lo tu,
Còn e kiếp khác công phu lỡ làng.
485
CÁC NGÀY VÍA
(tính theo ngày Âm Lịch)
THÁNG GIÊNG, ngày:
01 - Vía Đức Di Lặc.
06 - Vía Nhiên Đăng Cổ Phật.
15 - Rằm Thượng Nguyên
THÁNG HAI, ngày:
08 - Vía Phật Thích Ca xuất gia.
15 - Vía Phật Thích Ca nhập diệt.
19 - Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
21 - Vía Đức Phổ Hiền Bồ Tát.
THÁNG BA, ngày:
16 - Vía Đức Chuẩn Đề Bồ Tát.
THÁNG TƯ, ngày:
04 - Vía Đức Văn Thù Bồ Tát.
15 - Vía Phật Thích Ca giáng sanh.
20 - Bồ Tát Thích Quảng Đức vị pháp thiêu thân.
(nhằm ngày 11-6-1963).
THÁNG SÁU, ngày:
19 - Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
486
CÁC NGÀY VÍA
THÁNG BẢY, ngày:
13 - Vía Đức Đại Thế Chí Bồ Tát.
15 - Lễ Vu Lan Bồn (Rằm tháng Bảy).
30 - Vía Đức Địa Tạng Bồ Tát.
THÁNG CHÍN, ngày:
19 - Vía Đức Quán Thế Âm Bồ Tát.
30 - Vía Phật Dược Sư.
THÁNG MƯỜI, ngày:
15 - Hiệp Kỵ Chư Tổ và các vị hữu công với Phật giáo
đồ.
THÁNG MƯỜI MỘT, ngày:
17 - Vía Phật A Di Đà.
THÁNG CHẠP, ngày:
08 - Vía Phật Thích Ca thành đạo.
487
NHỮNG NGÀY TRAI
THẬP TRAI: Mỗi tháng mười ngày: Mồng 1, 8, 14, 15,
18, 23, 24, 28, 29, 30 (nếu tháng thiếu thì kể cả ngày 27).
LỤC TRAI: Mỗi tháng sáu ngày: Mồng 8, 14, 15, 23,
29, 30.
TỨ TRAI: Mỗi tháng bốn ngày: Mồng 1, 14, 15, 30.
NHỊ TRAI: Mỗi tháng hai ngày: Mồng 1, 15.
TAM NGOẠT TRAI: Một năm 3 tháng: Tháng Giêng,
Tháng Bảy, Tháng Mười.
Những ngày trai không nên dùng các món gia vị như:
hành, hẹ, tỏi, nén, xa cừ (một loại gia vị ở Ấn Độ) v.v...,
người tu hành ăn các món này thì tụng kinh trì chú
không linh nghiệm, khêu gợi dục tình, và sanh thêm
các tánh hung dữ.
488
Danh Sách Hình Ảnh Minh Họa
ĐỨC BỔN SƯ .................................................................................................... 1
ĐỨC NHIÊN ĐĂNG CỔ PHẬT ..................................................................... 18
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ..................................................................... 54
ĐỨC A DI ĐÀ TIẾP DẪN............................................................................... 87
ĐỨC PHỔ HIỀN BỒ TÁT ............................................................................ 121
TIÊU DIỆN ĐẠI SĨ ........................................................................................ 150
BÌNH BÁT ...................................................................................................... 172
ĐỨC VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT ............................................................... 186
TỔ BỒ ĐỀ ĐẠT MA ..................................................................................... 205
ĐỨC ĐỊA TẠNG BỒ TÁT ............................................................................ 221
BÁNH XE LUÂN HỒI .................................................................................. 239
ĐỨC DI LẶC .................................................................................................. 255
ĐỨC THÍCH CA SƠ SINH .......................................................................... 272
VU LAN THẮNG HỘI CHÙA PHẬT TỔ LONG BEACH 2010 ............. 285
NAM MÔ DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG NHƯ LAI................................... 329
THẦN KIM CANG ........................................................................................ 382
ĐỨC QUÁN ÂM GIÚP CHÚNG SANH KHỎI NHỮNG TAI ƯƠNG HẠN
ÁCH VÀ XUI XẺO ........................................................................................ 440
ĐỨC HỘ PHÁP ............................................................................................. 459
489
Quyển NGHI THỨC TỤNG NIỆM HẰNG NGÀY, của
2 giới, xuất gia và tại gia, do cố Hòa Thượng Thích
Thiện Thanh soạn và dịch thuật.
Văn bản điện tử do sự yêu cầu của cô Thanh Ý và
một số đệ tử chùa Phật Tổ Long Beach, thiết kế vào
mùa Xuân năm 2011 tại Long Beach, Hoa Kỳ.
Kiểm tra đối chiếu: SC Huệ Trân, SC Như Thanh,
Phật tử Kim Hải.
Biên tập và kỹ thuật: Nguyễn Ngọc An & Phật tử
Thiền Uyển
Mọi chi tiết xin liên lạc theo địa chỉ sau đây:
CHÙA PHẬT TỔ
905 Orange Avenue
Long Beach, CA 90813
Phone: (562) 599-5100
Email: GotamaTemple@gmail.com
http://www.chuaphatto.com
490
MỤC LỤC CHI TIẾT
Bản Mục Lục Chi Tiết
ÁN THỈNH CÔ HỒN, 154
BA NGUYỆN, 212
BẠCH PHẬT, 265
BÀI TỐNG TÁNG, 475
BÀI TỤNG, 277
BÁT KHÔNG, 208
BỐN MƯƠI TÁM LỜI
NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT
A DI ĐÀ, 464
BỐN VỊ ĐẠI BỒ TÁT, 389
CÁC NGÀY VÍA, 486
CẦU NGUYỆN, 21, 57, 90, 124,
153, 175, 189, 242, 275, 288,
332, 385, 443
CẦU SIÊU hay TỊNH ĐỘ, 88, 89
CHẲNG NHẬN LẤY CHẲNG
THAM, 427
CHẲNG PHẢI NĂNG THUYẾT
SỞ THUYẾT, 421
CHÁNH TÍN RẤT HI HỮU, 396
CHỖ PHẬT NÓI KINH, 392
CHỖ THẤY BIẾT KHÔNG
SANH, 429
CHÚ AN THỔ ĐỊA, 388
CHÚ BIẾN THỰC, 160
CHÚ CAM LỒ THỦY, 161
CHÚ CÔNG ĐỨC BẢO SƠN, 40
CHÚ ĐẠI BI, 37, 60, 93, 127,
246, 292, 335, 447
CHÚ DIỆT ĐỊNH NGHIỆP, 160
CHÚ DIỆT NGHIỆP CHƯỚNG,
160
CHÚ DƯỢC SƯ, 41, 372
CHÚ DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH,
41, 372
CHÚ GIẢI OAN KIẾT, 157
CHÚ KHAI YẾT HẦU, 160
CHÚ KIẾT TRAI, 215
CHÚ KIM CANG, 432
CHÚ NGUYỆN, 241, 251
CHÚ NHŨ HẢI, 161
CHÚ NHƯ Ý BẢO LUÂN
VƯƠNG, 39
CHÚ NHỨT TỰ THỦY LUÂN,
161
CHÚ PHÁ ĐỊA NGỤC, 157
CHÚ PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ,
40
CHÚ PHỔ CÚNG DƯỜNG, 164,
389
CHÚ QUÁN ÂM LINH CẢM, 42
CHÚ TAM MUỘI DA GIỚI, 160
CHÚ THẤT PHẬT DIỆT TỘI, 42
CHÚ THÍ VÔ GIÁ THỰC, 164
CHÚ THIỆN THIÊN NỮ, 43
CHÚ THỈNH CÔ HỒN, 157
CHÚ TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG,
40, 450
CHÚ TỊNH KHẨU NGHIỆP, 388
CHÚ TỊNH PHÁP GIỚI, 20, 56,
89, 123, 174, 188, 241, 287,
331, 384, 442
CHÚ TỊNH TAM NGHIỆP, 20,
56, 89, 123, 174, 188, 241, 287,
331, 384, 388, 442
CHÚ TRÁNG BÁT, 213
CHÚ UỐNG NƯỚC, 214
CHÚ VÃNG SANH, 42, 114, 166,
236, 321
CHÚ VÃNG SANH TỊNH ĐỘ,
42, 236
CHÚ XỈA RĂNG, 214
491
MỤC LỤC CHI TIẾT
CÔNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ,
112
CÔNG PHU KHUYA, 19, 20
CÚNG CƠM VÀ NƯỚC, 229
CÚNG DƯỜNG, 181, 209
CÚNG HƯƠNG, 21, 57, 89, 152,
174, 188, 242, 274, 288, 331,
385, 443
CÚNG NGỌ, 173, 174, 175
CÚNG SAO GIẢI HẠN, 441,
442, 449
CÚNG VONG, 222, 223
ĐẠI THỪA CHÁNH TÔN, 394
ĐẢNH LỄ, 23, 59, 92, 126, 177,
191, 244, 260, 277, 290, 334,
387, 445
DIỆU HẠNH VÔ TRỤ, 394
GIỞ BÁT, 207
HÓA ĐỘ KHÔNG NGƯỜI
ĐƯỢC HÓA ĐỘ, 424
HỒI HƯỚNG, 45, 84, 118, 146,
202, 252, 284, 325, 379, 438,
455
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC, 45
HƯƠNG LINH LỄ PHẬT, 223
KỆ GIẢI NGHIỆP, 248
KỆ KHAI KINH, 62, 100, 129,
294, 337, 391
KỆ KHEN NGỢI, 432
KHEN NGỢI ĐỨC MỤC KIỀN
LIÊN, 319
KHEN NGỢI PHẬT, 22, 58, 91,
125, 176, 190, 243, 259, 276,
289, 333, 386, 444
KHÔNG ĐOẠN KHÔNG DIỆT,
426
KHÔNG PHÁP CHI CÓ THỂ
ĐƯỢC, 422
KHUYẾN TU, 170, 480
KINH A DI ĐÀ, 101
KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU,
294
KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT,
43, 79, 113, 142, 164, 179, 196,
281, 319, 373, 432
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA,
78
KINH DƯỢC SƯ, 330, 331, 338
KINH HỒNG DANH, 130
KINH KIM CANG, 383, 384,
392
KINH LĂNG NGHIÊM, 24, 193,
261
KINH PHÁP HOA, 63
KINH VU LAN BỒN, 312
LẠY BÁO ÂN, 264
LỄ AN VỊ PHẬT, 187, 188
LỄ PHẬT ĐẢN, 273, 274
LỄ PHÓNG SANH, 240, 241
LỄ THÀNH HÔN, 256, 257
LỄ TRAO NHẪN, 266
LỄ VU LAN, 286, 287
LÌA SẮC TƯỚNG, 420
LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN
NGÔN, 78
MẶC NIỆM BÁT CƠM ĐẦY,
208
MÔNG SƠN THÍ THỰC, 156
MƯỜI HAI ĐẠI NGUYỆN CỦA
ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ
TÁT, 461
NĂM ĐIỀU CHỒNG ĐỐI VỚI
VỢ, 266
NĂM ĐIỀU VỢ ĐỐI VỚI
CHỒNG, 268
NĂM QUÁN, 212
NGHI THỨC CẦU AN, 55, 56
NGHI THỨC SÁM HỐI, 122,
123
492
MỤC LỤC CHI TIẾT
NGHĨA LÝ NHỨT HIỆP
TƯỚNG, 428
NGỢI KHEN ĐỨC QUÁN ÂM,
78
NGỒI THẲNG, 207
NGUYỆN AN LÀNH, 81, 198,
269, 454
NHỮNG NGÀY TRAI, 488
NHỨT TƯỚNG KHÔNG CÓ
TƯỚNG, 400
NIỆM PHẬT, 16, 115, 143, 167,
216, 232, 250, 322, 374, 434
OAI NGHI VẮNG LẶNG, 428
ÔNG TU BỒ ĐỀ HỎI PHẬT,
392
PHẨM PHỔ MÔN, 63, 78
PHÁP NGỮ CÚNG PHẬT, 183
PHÁP NGỮ SÁI TỊNH, 196, 266
PHÁP NGỮ SÁM HỐI, 99
PHÁP NGỮ SÁM-HỐI, 149
PHÁP THÂN KHÔNG PHẢI
SẮC TƯỚNG, 425
PHỔ NGUYỆN, 216
PHỤC NGUYỆN, 85, 119, 147,
183, 203, 215, 237, 253, 327,
380, 456
PHƯỚC ĐỨC TRÍ HUỆ KHÔNG
CHI SÁNH BẰNG, 424
PHƯỚC ĐỨC VÔ VI THÙ
THẮNG, 403
QUÁ ĐƯỜNG, 206, 207
QUÁN TƯỞNG PHẬT, 22, 58,
91, 125, 177, 191, 243, 260,
276, 290, 333, 386, 445
QUY Y LINH, 96
RỐT RÁO KHÔNG NGÃ, 414
SÁM CẦU AN, 82
SÁM CẦU SIÊU, 168
SÁM DI ĐÀ, 234
SÁM DƯỢC SƯ, 376
SÁM HỐI PHÁT NGUYỆN, 145
SÁM NGÃ NIỆM, 435
SÁM PHÁT NGUYỆN, 199
SÁM PHỔ HIỀN, 218
SÁM QUY MẠNG, 47
SÁM TIÊU TAI GIẢI HẠN, 452
SÁM TỪ VÂN, 116
SÁM VU LAN, 323
TAM QUY, 86, 120, 148, 171,
185, 204, 219, 254, 270, 283,
328, 381, 439
TÁM VỊ THẦN KIM CANG,
389
TÁN DƯƠNG CHI, 60, 127, 192,
335, 446
TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT,
93, 178, 245, 291, 388
TÁN LỄ, 51, 170
TĂNG BẠT, 211
THẬP CHÚ, 39
THẤY CHƠN THẬT ĐÚNG LÝ,
396
THÍ THỰC CÔ HỒN, 151, 152
THỈNH ĐỨC DI ĐÀ TIẾP DẪN,
226
THỈNH ĐỨC ĐỊA TẠNG TIẾP
DẪN, 227
THỈNH ĐỨC QUÁN ÂM TIẾP
DẪN, 224
THỈNH HƯƠNG LINH, 224
THỈNH PHẬT THUYẾT PHÁP,
391
THỌ TRÌ ĐÚNG NHƯ PHÁP,
405
THÔNG HÓA PHƯỚC ĐỨC, 420
TIỄN ĐƯA HƯƠNG LINH, 237
TỊNH TÂM HÀNH THIỆN, 423
TÔN TRỌNG CHÁNH GIÁO,
405
TỐNG THỰC, 210
493
MỤC LỤC CHI TIẾT
TRANG NGHIÊM TỊNH ĐỘ, 402
TRỪ HẾT NGHIỆP CHƯỚNG,
413
ỨNG HÓA KHÔNG PHẢI CHƠN
THẬT, 430
VĂN PHÁT NGUYỆN, 390
VẮNG LẶNG LÌA TƯỚNG, 407
VÔ ĐẮC VÔ THUYẾT, 398
XEM ĐỒNG MỘT THỂ, 418
XUẤT SANH, 210, 399
XƯỚNG SỚ, 96, 195, 449
494
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét