Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

vãng sanh tịnh độ luận giảng yếu

VÃNG SANH TỊNH-ÐỘ LUẬN
GIẢNG YẾU
---o0o---
Trước tác: Bồ Tát THIÊN THÂN
Giảng yếu: Ðại Sư THÁI HƯ
Dịch Việt: HỒNG NHƠN
---o0o---
Nguồn
http://www.quangduc.com
Chuyển sang ebook 10-6-2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
KHỞI NGUỒN
A. THÍCH ÐỀ
1. Ðề Luận
2. Người tạo Luận
B GIẢNG KỆ VĂN
C. GIẢNG LUẬN
---o0o---
KHỞI NGUỒN
Ðức Phật ra đời vì muốn cho chúng sanh thoát khỏi "Việc lớn Sanh Tử",
nên Ngài dạy diệu pháp Vô thượng pháp môn Tịnh Ðộ. Có thể nói, Bản
Hoài một đời thuyết pháp của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đều nhằm trong
pháp môn tịnh độ, vì Pháp Môn này độ hết các cơ, trùm khắp các giáo.
Người niệm Phật căn cơ thấp có thể dùng tin nguyện mà được mang nghiệp
vãng sanh, còn Bậc thượng căn nếu hồi hướng Lạc Bang mau được viên
thành giác Ðạo. Nương theo Từ lực của Phật so với Tự lực chỗ khó dễ thấy
rõ ràng như một tảng đá lớn nhờ lên thuyền mà dễ qua sông, hạt cát tuy nhẹ
rớt xuống đáy ao vẫn nằm nguyên tại chỗ. Vì thế, Bồ Tát Thiên Thân, một
Ðại Luận Sư và cũng là Tổ Sư của Tông Pháp Tướng căn cứ vào kinh Vô
Lượng Thọ làm Nguyện Vãng Sanh Kệ Luận, chỉ rõ năm phương pháp Tu
Hành chắc được vãng sanh để cho người tu Tịnh Ðộ đời sau làm y cứ.
Trong Vãng Sanh Luận, Tổ Thiên Thân đã chỉ rõ phương pháp Lễ Bái,
Tán Thán, Tác Nguyện, Quán sát và Hồi Hướng và Ngài Thái Hư Ðại Sư
Giảng yếu chỉ thẳng Ðại Thệ Nguyện của Phật A Di Ðà và chỗ triệt để của
Bồ Tát Thiên Thân, nếu không phải là bậc thấu triệt Tâm Phật, được vô ngại
biện tài như Ngài Thái Hư thì không ai có thể làm nổi.
Pháp môn tịnh độ từ xưa nay vốn là nơi quy thú của các pháp môn, vì
thế, ở hội Hoa Nghiêm các bậc đẳng giác Bồ Tát còn lấy mười Ðại Nguyện
Hồi hướng vãng sanh. Các bậc Tông Sư như Long Thọ, Mã Minh là tổ Thiền
Tông , Trí Giả Ðại Sư là Thiên Thai Tông, Từ Ân Ðại Sư là tổ của Hoa
Nghiêm Tông, Vĩnh Minh Thọ Thiền Sư cháu đích tôn của dòng Pháp Nhẫn,
tất cả các vị đều dạy người thực hành và tự thực hành đồng nguyện sanh về
thế giới Cực Lạc.
Từ đó, chúng ta thấy những người chấp chuyên vào Tự lực không nhờ
vào Phật lực sẽ mất nhiều lợi ích lớn, vì đây là phương tiện Tối thắng của vị
Trưởng giả muốn cho tất cả các con thoát khỏi nhà lửa ba cõi mà mở bày, vì
người được vãng sanh là thoát ra nhà lửa được về cõi Cực Lạc an vui. Khi về
được cõi ấy rồi thì đầy dẫy thắng duyên, chim nói pháp, nước theo kinh, bạn
là Bồ Tát Bất Thối, thân gặp Phật A Di Ðà, nghe Phật nói pháp chứng quả
Vô Sanh, viên mãn quả vị Vô thượng Bồ đề.
Với ngòi bút lưu lợi của Thái Hư Ðại Sư đã làm những lời Kệ Nguyện
của Bồ Tát Thiên Thân thêm sáng rực như một bó đuốc dẫn đường đến cõi
Phật An Vui. Nhận thấy đây là một Phương Pháp Tu Tập để được Vãng
Sanh vô cùng Quý Báu, thật dễ làm và chắc chắn đi đến thành công, nên dù
thời gian có eo hẹp chúng tôi cũng cố gắng phiên dịch ra Việt ngữ để Tịnh
Ðộ pháp ngữ được lưu thông. Chúng tôi Chân Thành giới thiệu đến quý Phật
tử Phương Pháp Thiết yếu của người muốn Vãng sanh Cực Lạc.
Hồng Nhơn cẩn bút.
---o0o---
A. THÍCH ÐỀ
1. Ðề Luận
Vãng sanh Tịnh Ðộ Luận nguyên tên là Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Ðề
Xá Nguyện Sanh Kệ. Luận có 2 loại: Tôn Kinh Luận và Thích Kinh Luận.
Tôn Kinh luận là Chư Tổ dựa vào ý kinh tự lập ra luận. Thích Kinh luận là
các Tổ cứ y theo kinh văn giải thích thành luận. Bộ Luận Vãng Sanh Tịnh
Ðộ này là Tôn Kinh Luận do đó luận cũng chính là Ðề Kinh.
Kinh Vô Lượng Thọ là một trong 3 bộ kinh cốt yếu lập thành tông Tịnh
Ðộ là Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Ðà và Quán Vô Lượng Thọ Kinh.
Luận này dựa vào kinh Vô Lượng Thọ lập nghĩa nên được gọi là Vô Lượng
Thọ Kinh Luận. Vô Lượng Thọ là hồng danh của Ðức Phậ, tiếng Phạn là
AMITABHA, dịch âm là A Di Ðà có nghĩa là Vô Lượng Thọ, Vô Lượng
Quang, nhưng chủ yếu là Vô Lượng Thọ, nên hầu hết các kinh đều dịch Vô
Lượng Thọ..
Chữ Vô có nghĩa là Không, chữ Lượng có nghĩa là số lượng. Riêng về
chữ Lượng có 4 loại:
1. Không gian lượng là chỉ thể tích trong không gian, những vật có chiều
rộng, dài, cao chiếm một khoảng trong không gian. Toán Kỷ Hà Học
đã tính được lượng này.
2. Thời lượng: Tính bằng thời gian lấy sát na làm đơn vị đến giây, phút,
giờ, ngày, tháng, năm…gọi là thời lượng.
3. Trọng lượng: Tính sức nặng đơn vị nó là lượng, cân, ký, tấn…
4. Số lượng: Tính từ số 1 đế A Tăng Kỳ số. Thế nào gọi là vô lượng?
Phàm cái gì có thể dùng lời mà nói được , dùng ý thức có thể suy nghĩ
đều thuộc về 4 lượng tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết
tất cả tính toán trên. Nếu vượt qua các lượng tức là hết tất cả tướng
nói năng, lìa hết tướng tâm có thể duyên. Thực mà nói: Dứt cả lời nói,
tâm làm đều tịch diệt, tình cảnh không thể nghĩ bàn gọi là Vô Lượng.
Thọ là sống lâu. Nếu lấy trăm ngàn tuổi tính đến kiếp số của sự thọ
mạng, bất cứ cái gì còn tính được đều không thể gọi là vô lượng. Cái gì
không thể tính lấy ngôn ngữ, tư tưởng có thể suy gọi là vô lượng.
KINH: Phàm những lời Phật nói ra hoặc đệ tử nói ra mà Phật ấn khả gọi
đó là kinh. Kinh còn gọi là Khế Kinh tức là trên khế hợp với lý Phật, dưới
khế hợp căn cơ chúng sanh. Các Bồ Tát y theo Tôn yếu mà sáng tác, hoặc
chú thích thuật tác thoe Kinh gọi là Luận. Lúc Phật còn ở trong đời, hằng
này sinh hoạt với đệ tử, quy định những điều luật để đệ tử thực hành gọi là
Luật.
Vô Lượng Thọ là đề Kinh, Ưu Bà Ðề Xá nghị luận nghĩa lý, mục đích
phát huy hết yếu nghĩa của Kinh gọi là Luận. Trong luận này chia làm 2
phần. Trước tiên Ngài làm kệ để pháp nguyện vãng sanh, kế đó Ngài làm
Luận để giải thích rõ ràng văn kệ nên cũng gọi là Vô Lượng Thọ Kinh
Nguyện Sanh Kệ Luận.
TỊNH ÐỘ: Trong kinh dạy: "Hư không vô biên thế giới vô số". Ngày
nay, những nhà thiên văn đã xử dụng kính viễn vọng có thể thấy được Hỏa
tinh, trong ấy có người đang sống và các hành tinh vô số trong vũ trụ. Trong
vô số thế giới ấy, đương nhiên sẽ có thế giới khổ, vui, nhơ, sạch, tốt xấu
nhiều thứ sai biệt. Những thế giới trong sạch an vui, tốt đẹp trang nghiêm
được gọi là Tịnh Ðộ. Từ đó suy ra các nhà thiên văn học đều dễ dàng công
nhận. Thế giới Ta bà là thế giới đau khổ, người luôn bị khổ đau ép ngặt. Vì
thế, Ðức Thích Ca Mâu Ni đặc biệt chỉ dạy cho chúng sanh một thế giới
thanh tịnh vô cùng an lạc và chỉ cho mọi người phương pháp tu để được
vãng sanh về cõi tịnh ấy, vì nếu tu nghiệp nhơn tịnh độ sẽ có quả tịnh độ.
Ngài dạy: Từ đây hướng về phía Tây, cách mười muôn ức cõi Phật, có một
thế giới tên là Cực Lạc. Bằng nhãn quang và trí tuệ, Ngài thấy chắc có thế
giới này, nên dạy khuyên chúng sanh trong thế giới tai nạn khổ ách cõi Ta bà
này hãy phát tâm cầu sanh về thế giới Cực Lạc, siêng tu tịnh nghiệp chắc
chắn được vãng sanh về Tây Phương Tịnh Ðộ.
Căn cứ vào Ðệ Nhất Nghĩa Ðế mà nói, Cõi Phật cứu kính thanh tịnh là
Chơn Pháp Giới lìa tất cả tướng, lìa tất cả phân biệt, ngôn thuyết. Chơn pháp
giới này trùm khắp cả chỗ, mọi người có đủ nhưng không hiển hiện được vì
bị ngăn ngại phiền não nghiệp chướng. Dú nói có mặt khắp tất cả chỗ nhưng
không tương ưng nên phải ở trong cuộc sống huyễn mộng sanh tử không
dứt. Nếu có thể phá được nghiệp báo phiền não huyễn mộng, một niệm giác
ngộ là một niệm Tịnh Ðộ tương ưng. Ðó chính là "Vãng sanh không chỗ
sanh và sanh không có chỗ sanh". Ðó là nghĩa của vãng sanh vậy.
Nếu căn cứ vào Tục Ðế mà nói vãng sanh là "Vãng thì quyết định vãng,
sanh thì quyết định sanh". Do nhơn tu Tịnh nghiệp nên khi lâm chung lìa cõi
ta bà này vãng sanh về thế giới Cực Lạc. Nếu họp Chơn Ðế và Tục Ðế mà
nói vãng sanh là "Vãng thì không chỗ sanh, sanh thì quyết định sanh" vì
người vãng sanh căn cứ trên báo thể tức A Lại Da thức. Năng lực A Lại Da
thức trùm khắp tất cả chỗ, sanh vào cõi này là do nghiệp lực năng sanh thuần
thục mà báo thể cõi này thành tựu. Như thế, được sanh tịnh độ là do nghiệp
thành thục tức là Báo thể sanh Tịnh Ðộ thành thục. Nên nói: "Vãng thì
không có chỗ vãng, sanh thì quyết định sanh”.
Lại nữa, chúng sanh nhận báo thân ở cõi Ta bà khi chưa bỏ thân mạng,
nếu bỏ thân mạng này vãng sanh về cõi Cực Lạc là "vãng thì có chỗ vãng".
Nhưng năng sanh sở sanh không thực tại, xét cho kỹ thì từ chỗ nào sanh về
cõi Ta bà, từ chỗ nào sanh về Cực Lạc? Nếu từ Tự sanh, lúc chưa sanh tự thể
nó là không làm sao có thể tự sanh? Nếu đó là tha sanh thì dối tự nói tha
sanh vì tự mình đã không sanh người khác làm sao sanh? Nếu không có cái
nhơn sanh thì tất cả đều Vô sanh. Trong Trung luận nói: "Các pháp không tự
sanh, cũng không từ cái khác sanh, không cùng đều là nhơn nên nói vô
sanh", nên có thể nói: "Vãng tì có chỗ vãng mà sanh thì không có chỗ sanh".
Vì thế bốn trường hợp trên không nên thiên chấp. Quả nếu có thể lìa chấp
thời có thể tùy cơ phương tiện mà nói đó.
---o0o---
2. Người tạo Luận
Luận này do Bồ Tát Thiên Thân tạo, Ngài có hai người anh là Bồ Tát Vô
Trước và Tôn Giả Sư Tử đều là bậc Luận Sư nổi tiếng đương thời. Ngài tạo
rất nhiều Luận được người đời tôn xưng là "Thiên Bộ Luận Sư". Ban đầu
Ngài học theo Tiểu Thừa, tạo ra 500 bộ Luận Tiểu Thừa, sau bỏ Tiểu Thừa
sang Ðại Thừa cũng tạo ra 500 bộ Luận Ðại Thừa. Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận
này là một trong 500 Bộ Luận Ðại Thừa ấy.
BỒ TÁT nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa là Giác Hữu Tình, là những bậc
đã chứng được quả chánh biến tri, quyết tâm độ thoát tất cả chúng hữu tình
gọi là Bồ Tát. Công hạnh Bồ Tát có gần xa, công hạnh có sâu cạn. Vị Thập
Tín là Sơ phát tâm Bồ Tát. Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia
Hạnh Vị gọi là Tam Hiền Bồ Tát. Bồ Tát Thiên Thân đã chứng Tứ Gia Hạnh
Vị thuộc về Bồ Tát Tam Hiền.
Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni sinh ra ở xứ Ấn Ðộ, những lời thuyết giáo
được ghi lại bằng Ấn văn. Ðến đời Nguyên Ngụy, Ngài Bồ Ðề Lưu Chi dịch
sang Hoa Văn và Ngài Thái Hư Ðại Sư giảng chỗ Yếu Nghĩa.
---o0o---
B GIẢNG KỆ VĂN
Trong Luận này có chia làm hai phần là Kệ Văn và Luận Văn. Kệ Văn là
những bài kệ được quy định chữ và vần điệu. Trọng tâm của Kệ văn là Luận
văn là dạy những cương lĩnh của năm môn tu để được vãng sanh về Cực
Lạc. Vì thế, Luận này còn gọi là Luận Năm môn thực hành để được vãng
sanh Tịnh Ðộ.
1. Kinh Pháp Chủ Giải Ba Môn
KỆ VĂN: ÐỨC THẾ TÔN! CON MỘT LÒNG QUY MẠNG, VÔ
NGẠI QUANG Như Lai, KHẮP CẢ TRONG MƯỜI PHƯƠNG,
NGUYỆN SANH VỀ NƯỚC AN DƯỠNG.
Con một lòng quy mạng là tỏ lòng cung kính với vị pháp chủ. Kinh là
những lời kiết tập do chính đệ tử Phật nghe và ghi lại, còn luận là căn
cứ vào kinh mà tạo ra. Vì kinh do Phật nói ra nên nhà tạo luận trước
phải Kỉnh Phật. Nói Quy mạng là diễn tả sự cung kính cùng tột hết
lòng nương về Ðức Phật.
Con Quy mạng Vô Ngại Quang Như Lai khắp mười phương thuộc về
Lễ Bái Môn. Vô Ngại Quang Như Lai tức là Phật A Di Ðà. Nói đến
Phật A Di Ðà tức là tán thán công đức Quang vô lượng và Thọ vô
lượng là Tán Thán Môn.
Như Lai: như là Chơn như thật tánh, Bậc chứng Chơn Như Thật Tánh
thành Vô thượng giác. Lai là đến độ thoát tất cả chúng sanh. Từ chơn
như thật tánh mà đến là không đến (lai) mà đến (lai) gọi là Như Lai.
Nguyện sanh Nước An Lạc là lòng phát nguyện mong cầu được vãng
sanh về nước Cực Lạc. Ðó là Tác Nguyện Môn. Lễ bái thuộc về Thân
Nghiệp, Tán Thán thuộc Khẩu Nghiệp, Nguyện Sanh thuộc Ý Nghiệp.
Nếu ba nghiệp được thanh tịnh, đồng Phật sang Tây phương.
2. Y Kinh Nói Về Quán Sát Môn
KỆ VĂN: CON Y THEO KINH GIÁO, TƯỚNG CÔNG ÐỨC CHƠN
THẬT, NÓI TỔNG TRÌ KỆ NGUYỆN, CÙNG PHẬT GIÁO TƯƠNG
ƯNG.
Nói về tướng công đức chơn thật không phải do chỗ mình thấy mà y theo lời
nói của Phật để diễn đạt. Kinh nói cho đủ là khế kinh là những lời nói khế
hợp với chơn lý và khế hợp với căn cơ tức chỉ phần trường hàng trong 12
thời thuyết giáo. Tướng công đức chơn thật là chỉ công đức chơn thật của
chư Phật. Ở đây Ngài Thiên Thân y trong kinh nói công đức tướng của Phật
A Di Ðà, công đức này do trong kinh, Ðức Phật Thích Ca nói ra quả thật
Phật A Di Ðà có công đức chơn thật không hư dối, vì Phật Thích Ca luôn
luôn nói đúng, nói thật, không hề giả dối. Như thế, ta biết chắc rằng cõi Tịnh
Ðộ trang nghiêm do tướng công đức và Quả vô lậu chuyển thành. Vì lìa các
tướng điên đảo nhiễm ô là công đức vô lậu và lìa tất cả tướng tức tất cả
tướng nên gọi là chơn thật tướng, trong Kệ nói tướng công đức là tương ưng
với giáo pháp Phật không chút sai trái.
KỆ VĂN: XÉT TƯỚNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA HẲN BA CÕI
Quán sát môn chính là quán về công đức y báo, chánh báo trang nghiêm
quốc độ Cực Lạc của Phật A Di Ðà. Trong đó, trước Quán sát tướng công
đức y báo trang nghiêm của thế giới Cực Lạc gồm có 17 thứ công đức.
1. Thanh tịnh công đức thà
nh tựu: là nói cõi Cực Lạc thế giới ở Phương Tây tướng thanh tịnh của
nó cứu cánh như hư không , rộng lớn vô biên, thanh tịnh các xa tam
giới không kể xiết.
KỆ VĂN: CỨU KÍNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN
KHÔNG NGẰN MÉ.
2. Lượng Công đức thà
nh tựu: Là nói vô lượng thành tựu của thế giới Cực Lạc như hư không
, rộng lớn không ngằn mé.
KỆ VĂN: CHÁNH ÐẠO LÀ TỪ BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT
THẾ.
3. Tánh công Ðức thành tựu: nói về nhơn tánh của thế giới Cực Lạc là
do công đức vô lậu thanh tịnh xuất thế gian thành tựu không phải
năng lực hữu lậu bất thiện nhiễm ô mà thành.
KỆ VĂN: ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY KHẮP, NHƯ NHẬT
NGUYỆT CÙNG SOI.
4. Hình tướng công đức thành tựu: Nói hình tướng của thế giới Cực Lạc
không có tướng tối tă
m, luôn luôn có ánh sáng thanh tịnh như mặt trăng mặt trời cùng soi
sáng.
KỆ VĂN: CÁC THỨ TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY ÐỦ DIỆU
TRANG NGHIÊM.
5. Các thứ sự công đức thành tựu: Nói đầy đủ bảy báu như
vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não cho đến trăm ngàn
vô lượng trân bửu là thành tựu công đức trang nghiêm vô lượng vi
diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT THẾ GIAN!
6. Công đức diệu sắc thà
nh tựu: Ánh sáng vô cấu rực rỡ là nói ánh sáng sắc tướng vô cấu của
thế giới Cực Lạc tây phương có thể chiếu khắp tất cả thế gian.
KỆ VĂN: CỎ TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC, MỀM MẠC MỌC HAI
BÊN, NGƯỜI CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA THI LÂN ÐÀ.
7. Xúc công đức thà
nh tựu: Ca Thi Lân Ðà là một thứ cỏ rất mềm mại, mịn màng ở Ấn
Ðộ, người khi chạm vào cỏ ấy sanh lòng vui vẻ êm dịu, khi va chạm
vào cỏ bửu tánh công đức ở thế giới Cực Lạc tây phương sẽ sanh lòng
vui vẻ êm dịu còn hơn nhiều khi và chạm vào cỏ Ca Thi Lân Ðà.
KỆ VĂN: HOA BÁU NGÀN MUÔN THỨ, ÐẦY ÐỦ Ở TRONG
AO, GIÓ NHẸ THỔI CÁNH HOA, ÁNH SÁNG CHIẾU CHÓI
LỌI, CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI PHƯƠNG
KHÔNG NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU VÂY
GIÁP VÒNG. BÁU VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH LƯỚI
BỦA HƯ KHÔNG , CÁC THỨ RUNG THÀNH TIẾNG, VANG
RA TIẾNG PHÁP MẦU.
8. Nói
về công đức trang nghiêm thành tựu: bốn câu đầu công đức trang
nghiêm thành tựu ở dưới nước, bốn câu giữa nói công đức trang
nghiêm thành tựu ở trên đất, bốn câu cuối nói công đức trang nghiêm
thành tựu ở trên không.
KỆ VĂN: MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG
HƯƠNG XÔNG KHẮP.
9. Nói công đức rưới hoa thành tựu: Nói ở trong không trung rưới vô
lượng hoa y để trang nghiêm đồng thời có vô lượng hương xông khắp
tất cả pháp giới.
KỆ VĂN: TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ SI ÁM THẾ
GIAN.
10. Nói công đức ánh sáng thành tựu: Ở đây nói trí huệ quang minh của
Phật thanh tịnh như mặt nhật, không phải chỉ phá những hắc ám của
nội tâm tất cả chúng sanh.
KỆ VĂN: TIẾNG PHẠM VANG SÂU XA, MƯỜI PHƯƠNG
NGHE LỜI MẦU.
11. Nói Thinh công đức thành tựu: ở đây chỉ lời nói của Phật rất vi diệu,
khắp mười phương đều nghe, không tìm được ngằn mé.
KỆ VĂN: PHẬT DI ÐÀ CHÁNH GIÁC, CHÁNH PHÁP KHÉO
GIỮ GÌN.
12. Nói chủ công đức thành tựu: Phật A Di Ðà là bậc đã thành tựu Vô
thượng Chánh đẳng chánh giác. Phật Di Ðà là giáo chủ của Cực Lạc
thế giới là vua của chánh Pháp.
KỆ VĂN: CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH GIÁC
HÓA SANH.
13. Nói quyến thuộc công đức thành tựu: Có chủ tức có bạn, đây nói các
Ðại Bồ Tát và chúng sanh vãng sanh trong chín phẩm là bạn của Phật
A Di Ðà, đều do hoa chánh giác của Phật A Di Ðà mà biến hóa ra.
KỆ VĂN: ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM THIỀN
CHÁNH ÐỊNH.
14. Nói thọ dụng công đức thành tựu: Bình thường nói pháp hỉ sung mãn
tức là nói đến sự ưa thích mùi vị Phật Pháp. Lấy việc vui Thiền làm
thức ăn, tức chỉ trong lúc ngồi thiền lấy tam muội làm thức ăn là chỉ
người ưa thích Phật pháp được nhiều thú vị, lấy pháp vị để nuôi
dưỡng huệ mạng mình. Thiền tiếng Phạn là Thiền Na. Trung Hoa dịch
là Tịnh Lự nghĩ là dẹp sạch hết suy nghĩ. Tam muội là tiếng Phạn,
Trung Hoa là Ðẳng Trì nghĩa là bình đẳng an giữ tâm mình làm cho
xa lìa hôn trầm, trạo cử, vọng tưởng, thông thường gọi là Chánh Ðịnh.
KỆ VĂN: LÌA PHIỀN NÃO THÂN TÂM, NHẬN VUI LUÔN
KHÔNG DỨT.
15. Nói không có các nạn công đức thành tựu: Nói chỗ thọ của thân tâm
không có tất cả khổ nạn, nên trong kinh A Di Ðà nói: "Chỉ nhận các
điều vui không có các điều khổ nên gọi là Cực Lạc".
KỆ VĂN: CÕI ÐẠI THỪA THIỆN CĂN, ÐỀU KHÔNG CÓ
CHÊ BAI, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, GIỐNG NHỊ THỪA
CHẲNG SANH.
16. Công đức đại nghĩa môn thành tựu: Trong đây nói người nữ, căn thiếu
và nhị thừa không được vãng sanh. Ý nói chúng sanh đã sanh về thế
giới Cực Lạc tây phương không có tướng người nữ, căn thiếu và nhị
thừa. Người không hiểu nghĩa này giải sai nói các người nữ không
được vãng sanh tây phương, như thế các người nữ niệm Phật nhọc sức
mà không có lợi ích gì? Nên biết phàm người sanh đến thế giới Cực
Lạc tây phương đều có đủ 32 tướng của bậc Ðại Bồ Tát nên không có
tướng người nữ, căn thiếu và nhị thừa không đủ phước báu; chứ
không phải nói người nữ, căn thiếu và nhị thừa ở cõi này hoặc ở
phương khác không được vãng sanh về Cực Lạc! Ðã sanh về Cực Lạc
tuy có phàm phu, nhị thừa, căn thiếu khác nhau, nhưng tất cả đều tiến
vào Ðại thừa rốt ráo thành Phật. Vì thế, Thế giới Cực Lạc đều do vô
lậu thiện căn Ðại thừa mà thành tựu, vì đây là cảnh giới thiện căn của
Ðại Thừa, nên không thể có thể tánh người nữ, căn thiếu và nhị thừa,
mà danh xưng người nữ, căn thiếu, nhị thừa cũng không có, chỉ có
danh xưng của Bồ Tát Bất Thối mà thôi.
Không phải chỉ có Phật A Di Ðà có Tịnh Ðộ mà chư Phật Bồ Tát ở mười
phương đều có tịnh độ. Như thế, tịnh độ là điểm cưú cánh của chư Phật. Vì
cớ nào mà các Ngài an lập tịnh độ? Ðức Phật Thích Ca đã căn cứ vào căn cơ
nào để nói pháp môn Tịnh Ðộ? Ðây là vấn đề người tu tịnh độ cần biết.
Ở đời có người nhơn ác bị ác báo hiện tiền nên kinh hoàng sợ sệt và cầu
sanh tịnh độ; có người nhơn bị bức bách vì sinh hoạt, cơ hàn khốn khổ mà
cầu sanh tịnh độ; có người nhơn bức não bởi các khổ già bịnh mà cầu sanh
tịnh độ; tất cả đều do tâm lý lánh khổ tìm vui làm động cơ cầu sanh tịnh độ.
Nhưng xét cho kỹ chư Phật an lập tịnh độ, đức Thế Tôn nói tịnh độ pháp
môn, tuy có ý phụ là làm cho chúng sanh chán khổ thích vui, nhưng không
phải là bản ý chính sáng lập và nói ra pháp môn tịnh độ. Bản ý chính của
Ðức Phật là muốn an lập pháp môn chơn chánh pháp tâm Ðại Thừa của Bồ
Tát mà nói ra. Chúng sanh phàm phu có tâm chán khổ tìm vui, lòng chỉ thích
khoái lạc không muốn dứt trừ sinh tử, như nhàm chán khổ ở ba đường ác,
muốn gìn giữ để được làm người không mất thân này, nhàm chán khổ ở cõi
người muốn cầu sanh về cõi trời, nhàm chán khổ ở Dục giới cầu sanh về Sắc
giới, nhàm chán Sắc giới cầu sanh về Vô sắc giới, chỉ dùng các pháp nhơn
thiên thừa như Ngũ giới, Thập thiện, Bát định. Người giữ được năm giới có
thể được sanh làm người không mất; tu thập thiện bát định được sanh về cõi
trời, chư Phật cần gì an lập tịnh độ? Ðức Phật Thích Ca nói ra pháp môn
Tịnh Ðộ này vì Ngài thấy ba cõi như lao ngục, hàng nhị thừa như oan gia,
sanh tử ở gần, muốn ra khỏi ba cõi dứt hẳn sanh tử, cần phải biết tam giới là
khổ, chúng sanh bất tịnh, vô thường, vô ngã. Nếu y theo Tứ Niệm Xứ, khởi
tu Tứ Chánh Cần, Bát Chánh Ðạo, Ba Mươi Bảy Pháp Bồ Ðề, tinh tấn cần
tu, ở trong một đời tuy chưa được quả A la hán cũng có thể được quả Tu Ðà
Hoàn, nhờ được quả Tu Ðà Hoàn vĩnh viễn không thối chuyển tuy vẫn còn
chịu các khổ sanh tử phiền não; cũng không cần y theo pháp môn tịnh độ
cầu sanh về tịnh độ, như các nước Tiểu Thừa Phật giáo Miến Ðiện Tích Lan
chỉ cần cầu được quả A la hán, liễu sanh thoát tử, do đó các xứ Tích Lan,
Miến Ðiện không có pháp môn tịnh độ này.
Từ đó suy ra, chư Phật an lập tịnh độ và đức Bổn Sư tuyên nói tịnh độ không
phải vì phàm phu, nhị thừa, thực vì chúng sanh có căn tánh Ðại Thừa, người
nghe Phật pháp không cầu có phước báu an lạc đời sau, không có ý muốn tự
ra khỏi ba cõi khổ não sanh tử, mà vì người phát tâm Ðại Thừa độ thoát tất
cả chúng sanh mà Ngài nói pháp môn này.
Phát tâm Ðại Thừa là người hiểu biết lý các pháp do nhân duyên sanh, biết
tất cả pháp đều do nhân duyên sanh, vì pháp do các duyên sanh nên tất cả là
tất cả pháp; chúng sanh do các duyên mà sanh nên một chúng sanh tức là tất
cả chúng sanh, lìa tất cả chúng sanh ra không có cái ta nào khác. Nếu không
làm cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo, tức là không có ông Phật
riêng ta có thể thành. Do đó mà phát đại nguyện rộng độ hết tất cả chúng
sanh đều thành Phật đạo, quyết không lìa tất cả chúng sanh mà tự mình thoát
khỏi sanh tử, vì chúng sanh tức là chính mình và chính mình tức là chúng
sanh, không có chúng sanh và ta khác nhau (sóng & nước) nên gọi: "Không
ngã tướng, không chúng sanh tướng, không nhơn tướng, không thọ giả
tướng", không thể lìa ngoài chúng sanh mà mình được độ thoát. Bồ Tát dùng
đồng thể không khác không hai với tất cả chúng sanh mà phát từ nguyện phổ
độ tất cả chúng sanh. Nhưng muốn thành mãn nguyện này nếu là người
không chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác thì không làm
được. Tuy người có nguyện này thực sự không có ngày thành tựu. Dù có đại
bi tâm muốn độ hết thảy chúng sanh trong pháp giới, muốn độ vô số chúng
sanh cần phải đoạn vô biên phiền não, tu học vô lượng pháp môn, thành tựu
vô lượng phước đức trí huệ trang nghiêm viên mãn Phật quả cần phải qua ba
a tăng tỳ kiếp, vào vô lượng thế giới, độ vô số chúng sanh, thực không phải
khả năng của một chúng sanh có thể làm được. Trong Khởi Tín Luận nói:
“Tín tâm đã thành tựu, vào chánh định tụ, cần trải qua mười ngàn Ðại Kiếp".
Ðại Thừa Tín Tâm thành tựu còn khó như thế huống chi muốn chứng thành
Phật Quả.
Thành Phật không phải là khả năng một đời, người đã phát tâm Ðại Thừa
cần tu Lục Ðộ. Khi tu Lục Ðộ sẽ có nhiều nghịch duyên, nhiều thứ liên tục
pháp hoại tâm Ðại Thừa, vây quanh toàn là những hiểm ách pháp hoại tâm
Ðại Thừa mà mạng người thì ngắn ngủi, một khi vô thường đến, hoặc sanh
lên cõi vui, hoặc đọa vào cõi khổ lại thêm bị ách nạn to lớn làm mê mất tâm
Ðại Thừa, tâm bồ đề. Do nhiều thứ ác duyên như thế, Bồ Tát tuy đã phát tâm
Ðại Thừa mà muốn gìn giữ cho không bị lui sụt thực không phải là chuyện
dễ. Trong kinh dạy: "Chư Phật lúc nào cũng có trách nhiệm bảo vệ cho Bồ
Tát". Kinh Kim Cang nói: "Như Lai khéo hộ niệm các Bồ Tát." Bồ Tát đã
phát tâm Ðại Thừa nhưng chưa có khả năng chẳng lui sụt, chư Phật đã dùng
pháp từ bi nào để hộ niệm cho các Bồ Tát phát tâm Ðại Thừa thoát khỏi
hiểm nạn lui sụt tam mất? Ðể hộ niệm Bồ Tát đã phát tâm Ðại Thừa khỏi bị
lui sụt, chư Phật đã an lập quốc độ thanh tịnh trang nghiêm. Chư Bồ Tát có
duyên với tịnh độ nào liền phát tâm sanh về tịnh độ ấy. Tuỳ theo chỗ phát
nguyện, khởi lòng tin quyết định, tâm chuyên nhất thì khi lâm chung tùy
theo nguyện mình mà vãng sanh về tịnh độ, nghe pháp được Bất thối, rồi trở
lại khắp độ tất cả chúng sanh. Nếu chư Phật không an lập tịnh độ để các Bồ
Tát mới phát tâm nương về, một khi tâm bị lui sụt thì những công đức tu bố
thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ sẽ tiêu tan vô ích. Vì thế,
Bồ Tát phải lấy tịnh độ làm chỗ an trụ mới không bị bất thối thất tâm Ðại
Thừa bồ đề và khỏi uổng mất công trước. Ðó là bản ý của Phật A Di Ðà và
chư Phật trong mười phương thành lập tịnh độ và cũng là chơn nghĩa để Phật
Thích Ca Mâu Ni nói pháp môn tịnh độ. Người tu tịnh độ cần phải hiểu rõ
yếu nghĩa này.
KỆ VĂN: CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, TẤT CẢ ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ,
NÊN CON NGUYỆN VÃNG SANH, VỀ NƯỚC PHẬT DI ÐÀ.
17.Nói công đức tất cả chỗ cầu mong đều được thành tựu: Ðây nói thế giới
Cực Lạc tây phương muốn có là có đủ hết, nếu chúng sanh muốn được an
vui, tất cả mong muốn đều có đủ. Hai câu cuối tác giả kết luận bằng cách
phát nguyện vãng sanh.
KỆ VĂN: VÔ LƯỢNG ÐẠI BỬU VƯƠNG, ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU.
Mười bảy công đức ở trên là quán về công Ðức Phật độ, đó là Y Báo trang
nghiêm. Ðoạn này quán sát về công Ðức Phật, công đức Bồ Tát là Chánh
báo trang nghiêm của cõi Cực Lạc. Y theo luận văn sau, Quán công Ðức
Phật gồm có 8 thứ:
1.Tòa trang nghiêm: Ðây nói về lấy vô lượng Ðại Bảo Hoa Vương làm thành
Ðài Hoa vi diệu thanh tịnh.
KỆ VĂN: MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, SẮC TƯỢNG HƠN QUẦN
SANH.
2.Thân trang nghiêm: Phật Di Ðà dịch là ánh sáng trùm khắp vô lượng.
Trong đây nói một tầm (2m50) là tùy theo cõi này, chúng sanh quan sát ánh
sáng của đức Thích Ca mà nói đó.
KỆ VĂN: TƯỚNG NHƯ LAI VI DIỆU, TIẾNG PHẠM VANG MƯỜI
PHƯƠNG.
3.Miệng trang nghiêm: Ý nói lời nói từ miệng của Như Lai Vô Lượng Thọ
phát ra, tiếng vi diệu vang khắp 10 phương.
KỆ VĂN: ÐỒNG ÐẤT NƯỚC GIÓ LỬA, HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN
BIỆT.
4.Tâm trang nghiêm: Ý nói tâm Phật bình đẳng cũng như ngũ đại không có
phân biệt.
KỆ VĂN: TRỜI NGƯỜI CHÚNG BẤT ÐỘNG, SANH BỂ TRÍ
THANH TỊNH.
5.Chúng trang nghiêm: Ý nói tất cả chúng bất động, trời người đến bể trí
thanh tịnh của Phật A Di Ðà mà sinh ra.
KỆ VĂN: NHƯ VUA NÚI TU DI, CAO TỘT KHÔNG GÌ HƠN.
6.Thượng thủ trang nghiêm: Ý nói những bậc thượng thủ bạn lữ của Phật A
Di Ðà đều cao tột thắng diệu như nuí Tu Di, không một ai có thể hơn được.
KỆ VĂN: CHÚNG TRƯỢNG PHU TRỜI NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH
CHIÊM NGƯỠNG.
7.Chủ trang nghiêm: Ở đâytù bạn chỉ rõ Chủ. Ý nói Phật A Di Ðà tất cả
nhơn thiên đều cung kính, vi nhiễu tán thán công đức của Pháp Chủ.
KỆ VĂN: QUÁN BỔN NGUYỆN LỰC PHẬT, AI GẶP ÐỀU LỢI ÍCH,
LÀM CHO MAU ÐẦY ÐỦ, CÔNG ÐỨC BIỂN BÁU LỚN.
8.Không dối làm trụ trì trang nghiêm: Ý nói phàm người nào thấy ánh sáng
Phật, nghe danh hiệu Phật, đều có thể mau thành tựu đạo quả Vô thượng
Chánh đẳng chánh giác. Không có người nào gặp ánh sáng Phật, nghe danh
hiệu Phật mà không được thành Phật.
KỆ VĂN: NƯỚC AN LẠC THANH TỊNH, THƯỜNG CHUYỂN XE
VÔ CẤU, NHẬT HOÁ PHẬT BỒ TÁT, TRỤ TRÌ NHƯ TU-DI. ÁNH
TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỘT NIỆM VÀ MỘT THỜI, CHIẾU
KHẮP CÁC HỘI PHẬT, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SANH. RƯỚI NHẠC
TRỜI HOA Y, HƯƠNG MẦU ÐỂ CÚNG DƯỜNG, KHÔNG CÓ
LÒNG PHÂN BIỆT. DÙ THẾ GIỚI KHÔNG CÓ, CÔNG ÐỨC BÁU
PHẬT PHÁP, TA ÐỀU NGUYỆN VÃNG SANH, CHỈ PHẬT PHÁP
NHƯ VẬY.
Y theo luận văn ở sau nói: Bồ Tát có bốn thứ tu hành chính yếu để thành tựu
các công đức. Bài tụng đầu (4 câu) nói hóa thân của Bồ Tát trùm khắp mười
phương mà báo thân như núi Tu Di thường trụ không lay động, có nghĩa là
các Ngài ở trong một cõi Phật thân không lay động mà có thể độ khắp chúng
sanh ở mười phương.
Bài tụng 2 (4 câu) nói về ứng hóa thân của Bồ Tát ở trong tất cả thời gian chỉ
dùng một tâm niệm phóng ra ánh sáng lớn, chiếu khắp mười phương lợi lạc
hữu tình.
Bài tụng 3 (4 câu) nói Bồ Tát dùng các thiên nhạc, rưới hoa, hương, y phục,
cúng dường tất cả thế giới, tất cả chư Phật không còn thừa, như sự rộng rãi
cúng dường Bồ Tát Phổ Hiền. Kinh A Di Ðà cũng nói: "Ðều dùng y kích,
đựng các hoa báu cúng dường muôn ức Phật khắp trong mười phương, đúng
giờ ăn lại trở về nước mình ăn cơm kinh hành."
Bài tụng thứ 4 (4 câu) bài này nói không phải những thế giới có Phật, Bồ Tát
mới trên cầu làm Phật, dưới dạy khắp chúng sanh, mà đến những thế giới
không có Phật, các Ngài vẫn giác ngộ dẫn dắt chúng sanh như 32 ứng thân
của Bồ Tát Quan Thế Âm. Ngẫu Ích đại sư dạy: "Có người hỏi tu hạnh Bồ
Tát có những nguyện gì?" Ngài đáp: Có 2 điều nguyện – 1) Nguyện đem
công đức này hồi hướng vãng sanh tịnh độ; 2) Nguyện sanh tịnh độ rồi,
thành tựu vị Bất Thối liền vào địa ngục độ tất cả chúng sanh.
Theo những ý trên, người tu tịnh độ nên dùng tâm địa phàm phu lánh khổ
tìm vui, tâm nhị thừa tự cho là đủ để cầu sanh tịnh độ thì không cùng pháp
môn tịnh độ tương ưng. Tuy nói phàm phu ấy tâm đã hướng về Ðại Thừa
mới đúng bản ý Phật nói pháp môn tịnh độ.
3.Thuật ý Kệ Tổng Kết Hồi Hướng
KỆ VĂN: CON LÀM LUẬN NÓI KỆ, NGUYỆN THẤY PHẬT DI ÐÀ,
KHẮP VÌ CÁC CHÚNG SANH, VÃNG SANH NƯỚC AN LẠC.
Hai câu đầu thuyết minh tôn chỉ của việc làm kệ luận này, vì nguyện sanh
tịnh độ mà làm kệ, nên gọi là Nguyện Sanh Kệ. Hai câu sau nói về Hồi
Hướng Môn: Ý nói Bồ Tát vì lòng Ðại Bi mà tu Tịnh Ðộ, không phải muốn
một mình được vãng sanh tịnh độ mà muốn tất cả chúng sanh đều được về
thế giới An Lạc kia. Vì thế có được công đức niệm Phật, hồi hướng cho tất
cả chúng sanh đều được vãng sanh về tịnh độ.
KỆ VĂN: LIỄU NGHĨA VÔ LƯỢNG THỌ, CON LÀM KỆ NGUYỆN
XONG.
Ðoạn này Tổng Kết Kệ Luận, Kinh Liễu Nghĩa Vô Lượng Thọ tức chỉ ba
kinh lập tông Tịnh Ðộ viết bằng văn Tường hàng, nay Thiên Thân làm kệ
tổng nhiếp hết.
---o0o---
C. GIẢNG LUẬN
LUẬN VĂN: Luận là nghị luận, căn cứ vào Lý để nghiên cứu, chứng
minh làm sáng tỏ ra. Mục đích bài kệ luận là quán thế giới Cực Lạc, thấy
Phật A Di Ðà, nguyện sanh về nước Cực Lạc ấy.
1.Giải Tổng Quát Các Môn
LUẬN VĂN: LÀM SAO QUÁN? LÀM SAO SANH TÍN TÂM?
NẾU NGƯỜI THIỆN NAM THIỆN NỮ TU NGŨ NIỆM MÔN
THÀNH TỰU, CHẮC CHẮN ÐƯỢC SANH VỀ QUỐC ÐỘ AN-LẠC,
THẤY ÐƯỢC PHẬT DI ÐÀ. NGŨ NIỆM MÔN LÀ GÌ? : 1) LỄ BÁI
MÔN, 2) TÁN THÁN MÔN; 3) TÁC NGUYỆN MÔN; 4) QUÁN SÁT
MÔN; 5) HỒI HƯỚNG MÔN.
Ðoạn này kể chung năm môn. Làm sao Quán tức là ba thứ quán sát trong
Quán Sát Môn. Làm sao tin? Y theo quán sát công đức chơn thật cõi tịnh độ
mà sanh lòng tin. Ngũ niệm môn là năm thứ hành môn để được vãng sanh
Tịnh Ðộ. Bình thường giảng niệm Phật lấy việc xưng danh hiệu Phật đó là
một trong nhiều nghĩa chữ niệm. Cần nên biết rằng đối với các tướng hảo
công đức của chư Phật ghi nhớ được rõ ràng không mờ gọi chung đó là
niệm. Không phải chỉ chuyên dùng miệng ngâm lên cho là niệm Phật.
LUẬN VĂN: LỄ BÁI THẾ NÀO? THÂN NGHIỆP LỄ BÁI A DI
ÐÀ Như Lai, CHÁNH BIẾN TRI VÌ QUYẾT Ý SANH VỀ NƯỚC KIA.
Từ đây về sau giải thích riêng năm môn. Lễ Bái Môn: Phật có mười
thông hiệu: Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri…Chữ Như Lai đã giải ở
trước. Ứng cúng: Vì Phật đoạn hết tất cả phiền não, viên mãn tất cả công
đức, nên nhận cho người trời cúng dường. Chánh biến tri: phân biệt với
phàm phu bất tri, ngoại đạo tà tri, nhị thừa thiên tri, chỉ có Phật là bậc chánh
biến tri. A Di Ðà Như Lai, A Di Ðà ứng cúng, A Di Ðà chánh biến tri đều
chỉ Phật A Di Ðà. Lấy thân nghiệp lễ bái Phật A Di Ðà, thân này liền được
vãng sanh về quốc độ Phật A Di Ðà.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ TÁN THÁN: CA NGỢI DANH HIỆU
Như Lai KIA, NHƯ TRÍ TƯỞNG QUANG MINH CỦA Như Lai KIA,
DANH NGHĨA NHƯ THẾ, MUỐN ÐÚNG NHƯ THẾ, TU HÀNH HỢP
NHAU GỌI LÀ TÁN THÁN.
Môn thứ hai là tán thán, dùng ngữ nghiệp ca ngợi tán thán Phật A Di Ðà,
tán thán ánh sáng vô lậu của Phật do trí tuệ vô lậu mà phát ra. Danh là cái
hay nói (năng thuyên), nghĩa là cái bị nói (sở thuyên). Nói về danh hiệu của
Như Lai là tiêu biểu tất cả công đức của Như Lai. Nói khen danh hiệu Như
Lai là khen tất cả công đức tu hành chơn thật hợp nhau, không tu hành chơn
thật thì không thể có công đức được. Nên nói: Ðúng như danh nghĩa kia,
muốn được tu hành tương ưng, cần tán thán, chắc được vào chúng hội, thấy
Phật nghe pháp.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ PHÁT NGUYỆN? TÂM THƯỜNG
CÓ NGUYỆN MỘT LÒNG CHUYÊN NIỆM CHẮC CHẮN ÐƯỢC
SANH VỀ THẾ GIỚI AN-LẠC. MUỐN ÐƯỢC NHƯ THÊ PHẢI TU
HÀNH PHÁP CHỈ.
Môn thứ ba là Phát Nguyện. Phát là phát khởi quyết lòng muốn được
vãng sanh. Hành giả tu tịnh độ đã phát nguyện vãng sanh ước muốn tha thiết
nên trong tâm chỉ còn một niệm rốt ráo vãng sanh về nước An Lạc, không có
niệm khác, cần tu pháp CHỈ làm cho tâm chuyên chú nhớ tưởng quốc độ An
Lạc, không còn nổi trôi trong cảnh giới ngũ dục nữa.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN SÁT? DÙNG TRÍ TUỆ QUÁN
SÁT, DÙNG CHÁNH NIỆM ÐỂ QUÁN SÁT Y CHÁNH KIA, MUỐN
TU HÀNH ÐÚNG CẦN DÙNG PHÁP QUÁN, QUÁN Y VÀ CHÁNH
BÁO KIA CÓ BA THỨ: 1) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM CỦA CÕI PHẬT KIA; 2) QUÁN SÁT CÔNG ÐÚC TRANG
NGHIÊM CỦA PHẬT A DI ÐÀ; 3) QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM CỦA CHƯ BỒ TÁT Ở CÕI KIA.
Quán Sát Môn: Muốn dùng trí huệ quán sát ba thứ công đức chơn thật,
cần phải dùng pháp Quán, dùng chỉ quán quán sát được ba thứ công đức
chơn thật, thì hành giả chắc được công đức chơn thật quyết định được vãng
sanh.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ HỒI HƯỚNG? KHÔNG BỎ TẤT CẢ
CHÚNG SANH KHỔ NÃO, TÂM THƯỜNG PHÁT NGUYỆN, HỒI
HƯỚNG LÀ BƯỚC ÐẦU THÀNH TỰU TÂM ÐẠI BI.
Hồi Hướng Môn: Người tu tịnh độ, biết rằng ta và chúng sanh đồng một
thể không hai, nên không bỏ một khổ não nào của chúng sanh, mà dùng
công đức niệm Phật đã tu, hồi hướng khắp tất cả chúng sanh, cùng chúng
sanh đồng sanh về Cực Lạc, thành tựu tâm từ bi rộng lớn.
2-Giải Riêng về Quán Sát
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM CỦA QUỐC ÐỘ ÐỨC PHẬT KIA? VÌ THÀNH TỰU NĂNG
LỰC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN NHƯ HẠT CHÂU MA NI NHƯ-Ý
BỬU TÁNH KIA, CÓ THỂ SO SÁNH TƯƠNG ÐỐI NHƯ THẾ.
Trước kia đã chỉ chung năm phương pháp tu hành, đoạn này chỉ giải
thích một món quán sát thôi. Ðoạn đầu đem thí dụ để nói rõ năng lực công
đức cõi Phật không thể nghĩ bàn. Quán sát tự trang nghiêm của quốc độ Phật
Vô Lượng Thọ, phần sau sẽ nói rõ có 17 thứ quán sát. Trước tiên nói tổng
quát về tướng quán sát cõi Phật. Nói quán sát thành tựu quốc độ Cực Lạc
của Phật A Di Ðà cần phải quán cả kiến và văn các thứ công đức ấy thành
tựu, phải lấy năng lực công đức không thể nghĩ bàn mà quán đó.
Quốc độ An Lạc của Phật A Di Ðà và thế giới này không đồng. Cõi này
do cộng nghiệp của chúng sanh mà thành, cõi Phật A Di Ðà là do năng lực
công đức bổn nguyện của Ngài tạo thành. Trong kinh Vô Lượng Thọ Phật
nói về nhân địa của Pháp Tạng Tỳ Kheo đã từng phát 48 đại nguyện. Năng
lực đại nguyện của Phật A Di Ðà đã làm thành cõi An Lạc, có thể làm cho
người thấy nghe đều được vãng sanh, nên không thể đem thế giới quốc độ
này để quán sát mà phải dùng năng lực không thể nghĩ bàn để quán sát.
Phàm việc gì có thể nghĩ bàn đều là do lời nói, tư tưởng lập ra, như nói
về một việc gì việc ấy có một phạm vi nhất định, giới hạn nhất định, cái đó
là của người khác chứ không phải là chính mình, vật này không là vật kia.
Phàm cái gì có ngôn ngữ tư tưởng là có tướng phân biệt, phải quấy, ta kia
khác nhau. Nếu lìa ngôn ngữ tư tưởng thì không có tướng ta kia, phải quấy.
Ðã không có tướng ta kia, phải quấy tức là việc không thể nghĩ bàn.
Không thể nghĩ bàn là tất cả pháp đều không được, nếu pháp không thể
được, làm sao có thể nói được?? Nhưng vì chúng sanh, không thể không
mượn lời nói để chỉ rõ cái không thể nghĩ bàn của tịnh độ, làm cho chúng
sanh tin muốn vãng sanh, nên phải lấy thí dụ phương tiện để chỉ bày đó. Ma
Ni Như Ý bửu tánh là Như Ý Bảo Châu, bảo châu này là của đại bàng kim
súy điểu. Hạt châu này là của các long vương giữ, là một vật quý không thể
nghĩ bàn. Phàm người được hạt châu quý này, tất cả nhu cầu về thân như áo,
cơm, chỗ ở đều có thể tùy ý từ nơi vật báu áy mà có ra, nên nói rằng châu
như ý. Báu vật này cao quý nhất, các châu báu khác không thể so sánh.
Những món quý báu khác nó chỉ có giá trị trong phạm vi chính nó, như vàng
chỉ quý hơn loài cháu báu thuộc về vàng mà không thể so sánh với lưu ly
hay các thứ báu khác. Bảo châu như ý không phải thế, chúng sanh ý muốn
món báu nào thì món báu ấy hiện ra, không có phạm vi quyết định. So với
các châu báu về vật chất thì Bảo Châu Như-Ý là tánh chất không thể nghĩ
bàn. So sánh với tánh công đức của quốc độ An-Lạc của Phật A Di Ðà
không được chút phần tương tợ, tuyệt đối không có chút tương đồng. Tại vì
sao? Vì Như Ý Bảo Châu có thể đầy đủ nhu cầu của thân, mà tịnh độ của
Phật A Di Ðà không chỉ làm cho vô lượng chúng sanh, khi vãng sanh về cõi
nước kia, sinh hoạt tự nhiên, muốn áo được áo, muốn ăn được ăn, mà còn
làm cho chúng sanh thấy được đầy đủ đại nguyện Bồ Ðề, làm cho chúng
sanh cứu cánh được thành Phật, nên gọi là chỉ tương tợ, tương đối mà thôi.
Phần này nói tổng quát về năng lực công đức quán sát không thể nghĩ
bàn, trong 17 thứ quán sát sau cùng hàm chứa năng lực bất khả tư nghì này.
LUẬN VĂN: QUÁN SÁT CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA
QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ CÓ 17 THỨ CẦN NÊN BIẾT: 1) THANH
TịNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 2) LƯỢNG CÔNG ÐỨC THÀNH
TỰU; 3) TÁNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 4) HÌNH TƯỚNG CÔNG
ÐỨC THÀNH TỰU; 5) CÁC THỨ VIỆC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU;
6) DIỆU SẮC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 7) XÚC CÔNG ÐỨC
THÀNH TỰU; 8) TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 9)
VŨ (MƯA) CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 10) QUANG MINH CÔNG
ÐỨC THÀNH TỰU; 11)THANH (TIẾNG) CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU;
12) CHỦ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 13) QUYẾN THUỘC CÔNG
ÐỨC THÀNH TỰU; 14) THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 15)
VÔ NẠN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU; 16) ÐẠI NGHĨA MÔN CÔNG
ÐỨC THÀNH TỰU; 17) NHẤT THIẾT SỞ CẦU CÔNG ÐỨC THÀNH
TỰU.
1-THANH TỊNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI:
"QUÁN TƯỞNG THẾ GIỚI KIA, VƯỢT XA ÐƯỜNG BA CÕI."
1)-Quán tưởng thế giới kia là quán tưởng thế giới Cực Lạc của Ðức Phật
A Di Ðà. Ðường vào ba cõi: Ðường phân biệt có hai thứ là hữu lậu và vô
lậu. Ðường phiền não do phiền não làm thành, do chúng sanh tạo ra nghiệp
và nghiệp ấy khi thành tựu rồi nó có khả năng mang theo tánh chất phiền
não gọi là hữu lậu. Vì có phiền não hữu lậu nên trôi lăn trong sanh tử, bị trói
buộc trong ba cõi gọi là đường ba cõi. Tướng công đức của thế giới Cực Lạc
của Phật A Di Ðà là do thiện căn thanh tịnh vô lậu xuất thế gian mà tạo
thành, nên nói vượt xa đường ba cõi. Phật A Di Ðà đem công đức trang
nghiêm tịnh độ Cực Lạc để thực hiện diệu pháp độ thoát chúng sanh, như
thuyền lớn chở người. Diệu pháp đó là thuyền từ vớt người đưa khỏi bể sanh
tử.
LUẬN VĂN: LƯỢNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI:
"CỨU CÁNH NHƯ HƯ KHÔNG , RỘNG LỚN KHÔNG NGẰN MÉ".
2)-Thế giới Cực Lạc là bảo độ của Phật A Di Ðà mà bảo độ cũng là pháp
tánh độ. Pháp tánh trùm khắp tất cả, lìa tất cả tướng không có hạn lượng,
chẳng qua tùy theo công đức cao thấp của chúng sanh không đồng mà có
tướng lớn nhỏ khác nhau đối với tâm chúng sanh mà hiển hiện. Thực ra Cực
Lạc quốc độ tùy theo chúng sanh trong mười phương thế giới vãng sanh,
nhưng vẫn không có ngằn mé, nên lượng của thế giới Cực Lạc là vô lượng,
rộng lớn như hư không, không có ngằn mé, không đồng như nhân khẩu thêm
bớt trong thế gian này, có bờ mé và có tướng trạng khốn khổ.
LUẬN VĂN: TÁNH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI:
"CHÁNH ÐẠO VÀ TỪ BI, SANH THIỆN CĂN XUẤT THẾ”.
3)-Nói về tướng công đức thành tựu là nhằm vào thể tướng mà nói. Nói
Tánh công đức thành tựu: tánh tức là giới mà giới là chủng tử, chủng tử tức
là nhơn tánh đó là cái nhơn trước tiên của quả tướng. Từ chỗ Chánh đạo đại
từ bi và thiện căn xuất thế làm nhơn đó là nhơn cứu cánh, vì Tứ Ðế và 37
phẩm trợ đạo đều là chánh đạo. Hiểu thể của chánh đạo tức là vào được
chánh đạo. Chánh đạo xuất thế này là tướng cộng pháp của ba thừa. Tâm từ
bi là pháp xuất thế Ðại Thừa bất cộng pháp. Dùng ba thừa cộng pháp, Ðại
Thừa bất cộng pháp, thiện căn xuất thế làm chủng tử tánh của thế giới Cực
Lạc. Ðây chỉ nhơn và quả của thế giới An-Lạc đều là công đức thanh tịnh vô
lậu.
LUẬN VĂN: HÌNH TƯỚNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "ÁNH SÁNG SẠCH ÐẦY KHẮP, NHƯ NHẬT NGUYỆT CÙNG
SOI."
4)-Sắc pháp có 2 thứ hiển sắc và hình sắc. Các thứ xanh vàng đỏ trắng là
hiển sắc. Dài ngắn tròn vuông gọi là hình sắc. Trong đây nói hình tướng của
ánh sáng là nói về chỗ trong chúng sanh, lầu gác, cây báu, tất cả đều có đủ
ánh sáng thanh tịnh vô lậu như mặt trăng mặt trời chiếu vào gương sáng.
LUẬN VĂN: CHỦNG CHỦNG SỰ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU
NHƯ KỆ NÓI: "ÐỦ CÁC TÁNH TRÂN BỬU, ÐẦY ÐỦ DIỆU TRANG
NGHIÊM."
5)-Bình thường nói có tám trân bảy báu, nay nói trân bửu ở tây phương
Cực Lạc hoặc nghìn hoặc muôn không có số lượng, không thể kể hết nên gọi
là đầy đủ các thứ. Cõi ấy vì có vô số tánh chất trân bửu, nó đầy đủ thanh tịnh
trân diệu trang nghiêm.
LUẬN VĂN: DIỆU SẮC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "ÁNH VÔ CẤU RỰC RỠ, SOI SẠCH HẾT THẾ GIAN."
6)-Công đức diệu sắc là chỉ về hiển sắc mà nói. Hiển sắc ở trước đã
giảng rõ. Cái gì rất sáng thì gọi là vô cấu, nếu căn cứ về tánh công đức mà
giảng thì cái gì không còn các cấu trược vô minh phiền não gọi là vô cấu. Vì
khi ánh sáng vô cấu có khả năng mạnh mẽ thanh tịnh nên khi chiếu vào thế
gian, nhiếp đủ hết tất cả chúng sanh.
LUẬN VĂN: XÚC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CỎ
TÁNH BÁU CÔNG ÐỨC, MỀM MẠI MỌC HAI BÊN, NGƯỜI
CHẠM SANH VUI LỚN, HƠN CA-THI-LÂN-ÐÀ".
7)-Xúc là tiếp xúc, y phục các vật đều có thể tiếp xúc với thân thể. Trong
đây tuy nói về cỏ, nhưng là thứ cỏ báu tánh công đức. Nó rất mềm mại làm
cho người khi chạm nhầm sanh nhiều cảm xúc vui vẻ nhận chịu. Người ở cõi
này khi gặp những điều vui liền nhận, từ cảnh vui ấy sanh lòng tham, tăng
trưởng phiền não. Cõi tịnh độ Cực Lạc nếu có sự vui nhận, sự vui ấy làm
cho chúng sanh dứt hết phiền não, công đức tăng trưởng. Ca-Thi-Lân-Ðà là
loại cỏ rất nhỏ nhiệm ở xứ Ấn Ðộ, nếu va chạm vào cũng có thể cảm xúc êm
ả vui vẻ. Nhưng cỏ tánh công đức ở Tịnh Ðộ thù thắng và khác xa nên nói là
bửu tánh công đức vượt xa hơn Ca-thi-lân-đà.
LUẬN VĂN: TRANG NGHIÊM CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU, CÓ
BA THỨ CẦN NÊN BIẾT. 1) NƯỚC; 2) ÐẤT; 3) HƯ KHÔNG.
TRANG NGHIÊM VỀ NƯỚC NHƯ KỆ NÓI: "HOA BÁU NGÀN
MUÔN THỨ, ÐẦY DẪY Ở TRONG AO, GIÓ NHẸ THỔI CÁNH
HOA, ÁNH SÁNG CHIẾU CHÓI LỌI. TRANG NGHIÊM VỀ ÐẤT
NHƯ KỆ NÓI: "CÁC CUNG ÐIỆN LẦU GÁC, THẤY MƯỜI
PHƯƠNG KHÔNG NGẠI, NHIỀU CÂY MÀU SẮC LẠ, HÀNG BÁU
VÂY GIÁP VÒNG". TRANG NGHIÊM HƯ KHÔNG KỆ NÓI: "BÁU
VÔ LƯỢNG KẾT NHAU, THÀNH LƯỚI PHỦ HƯ KHÔNG, CÁC
THỨ VANG THÀNH TIẾNG, VANG RA TIẾNG PHÁP MẦU".
8)- Ở đây nói ba thứ nước đất và hư không ở cõi Cực Lạc đều trang
nghiêm, không cõi nào vượt qua, văn nghĩa rõ ràng không cần giảng rộng.
LUẬN VĂN: VŨ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI:
"MƯA HOA Y TRANG NGHIÊM, VÔ LƯỢNG HƯƠNG XÔNG
KHẮP".
9)-Từ hư không rơi xuống lần lượt gọi là mưa. Trong hư không có các
hoa, y, như thế là do năng lực công đức của cõi Cực Lạc mà thành tựu.
LUẬN VĂN: QUANG MINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "TRÍ PHẬT NHƯ MẶT NHẬT, TRỪ SĨ ÁM THẾ GIAN".
10)-Trước nói công đức hình tướng diệu sắc, tuy giảng về ánh sáng
nhưng cốt yếu chỉ về ánh sáng của sắc pháp. Trong đây nói ánh sáng trí huệ
Phật không phải là ánh sáng của sắc pháp. Ánh sáng sắc pháp có thể trừ tối
tăm của thế gian, nhưng không thể trừ được những si mê tối tăm trong lòng
chúng hữu tình. Những si mê của chúng sanh chỉ có ánh sáng trí tuệ Phật
mới có khả năng trừ diệt, vì thế, ánh sáng của trí tuệ mới là ánh sáng của
chơn lý. Những điều si ám của bóng tối thế gian. Ở đời thường nói: "Mắt bị
mù chứ Tâm không bị mù." Vì mắt mù chỉ thống khổ có một đời, để cho tâm
mù tạo nghiệp trôi lăn trong sanh tử đau khổ vô cùng.
LUẬN VĂN: DIỆU THINH CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "TIẾNG PHẠM ÂM SÂU XA, MƯỜI PHƯƠNG NGHE LỜI
MẦU."
11)-Phạm là Phạm thiên âm, âm thinh của Phạm thiên rất vi diệu thanh
tịnh. Ở cõi Cực Lạc tiếng Phật, tiếng Bồ Tát, tiếng Thinh Văn, cho đến tiếng
gió mưa mỗi thứ đều là tiếng Phạm thiên thanh tịnh, sâu xa, vi diệu ở mười
phương đều được nghe.
LUẬN VĂN: CHỦ CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ NÓI:
"PHẬT DI ÐÀ CHÁNH GIÁC, VU PHÁP KHÉO TRỤ TRÌ".
12)- Ðây nói rõ trong cõi Cực Lạc có chủ. Muốn nói một nước nào
người ta chỉ cần nói nhơn dân và người lãnh đạo có quyền thống trị. Cõi Cực
Lạc cũng thế không chỉ có các thứ trang nghiêm của quốc độ, mà còn có
Phật A Di Ðà là chủ của cõi ấy. Chánh giác có nghĩa là Phật, nói A Di Ðà
chánh giác cũng như nói A Di Ðà Phật. Vua pháp cũng là một thứ hiệu của
Phật, vì Phật ở trong tất cả pháp đều được tự tại nên gọi là vua của các pháp.
Ngài là người Trụ Trì giỏi ở nước Cực Lạc.
LUẬN VĂN: QUYẾN THUỘC CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ
KỆ NÓI: "CHÚNG TỊNH HOA NHƯ LAI, HOA CHÁNH GIÁC BIẾN
HÓA".
13)- Người đời nói quyến thuộc đều chỉ gia tộc mà nói; quyến thuộc của
Phật A Di Ðà là tất cả chúng sanh trong cõi Cực Lạc và chúng sanh trong tất
cả mười phương. Cõi này có 4 loại: Thai, trứng, thấp, hóa; nếu sanh về Cực
Lạc đều là liên hoa hóa sanh, nên gọi các phàm phu, nhị thừa, Bồ Tát của thế
giới Cực Lạc là tịnh hoa chúng. Các hoa chúng này do công đức của Phật A
Di Ðà hóa sanh nên gọi là Hoa Chánh Giác Hóa Sanh. Chánh giác hoa còn
thêm một ý nghĩa từ hoa thành quả như thất giác chi gọi là thất giác hoa, do
thất giác chi có thể thành chánh giác, như có hoa sen sẽ có quả thật.
LUẬN VĂN: THỌ DỤNG CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "ƯA THÍCH PHÁP VỊ PHẬT, THỰC PHẨM THIỀN CHÁNH
ÐỊNH".
14)-Chúng sanh ở cõi này lấy thực phẩm làm đồ ăn để nuôi mạng sống,
chúng sanh ở cõi Cực Lạc lấy pháp vị và thiền định tam muội để nuôi dưỡng
sinh mạng.
LUẬN VĂN: KHÔNG CÁC NẠN CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ
KỆ NÓI: "LÌA CÁC PHIỀN NÃO THÂN TÂM, NHẬN VUI LUÔN
KHÔNG DỨT".
15)-Thế giới Cực Lạc ăn mặc tự nhiên nên xa lìa thân phiền não, không
có ái biệt ly các ưu sầu nên xa lìa tâm phiền não. Cõi này chịu khổ không
dứt, cõi Cực Lạc nhận điều vui vô cùng.
LUẬN VĂN: HAI NGHĨA CÔNG ÐỨC THÀNH TỰU NHƯ KỆ
NÓI: "CÕI THIÊN CĂN ÐẠI THỪA, ÐỀU KHÔNG CÓ CHÊ BAI,
NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, GIỐNG NHỊ THỪA CHẲNG SANH".
QUẢ BÁO CÕI TỊNH ÐỘ, LÌA HAI THỨ BỊ CHÊ BAI NÊN CẦN
BIẾT: 1) THỂ; 2) DANH THỂ CÓ BA THỨ LÀ HẠNG NHỊ THỪA,
NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU, CÕI CỰC LẠC KHÔNG CÓ BA LỖI
NÀY. DANH CŨNG LÌA HẾT NHỮNG LỜI CHÊ BAI NÊN KHÔNG
NGHE TÊN NHỊ THỪA, NGƯỜI NỮ VÀ CĂN THIẾU. ÐÓ LÀ HIỂN
THỂ BÌNH ÐẲNG MỘT TƯỚNG VẬY.
16)-Văn nghĩa trong đây đã giải rõ ở trước, nhưng chúng ta cần chú ý
đến 2 điểm:
a)Quả báo của cõi tịnh độ không có các tướng nhị thừa, người nữ, căn
thiếu chứ không phải nói các bậc này không được gây nhơn tịnh độ. Như
nàng Long Nữ ở hội Pháp Hoa, biến thành thân nam tử làm Phật ở nước Vô
Cấu, vì Phật có 32 tướng mà trượng phu tướng là một, vì thế Phật không thể
có 31 tướng được.
b)Thân tướng cõi Cực Lạc đều bình đẳng, dù phàm phu sanh ở hạ phẩm
hạ sanh, người đã sanh ề Cực Lạc, thân tướng đều bình đẳng đồng với Ðại
Thừa Bồ Tát thân tướng.
Hiện tại, những bức họa tây phương Cực Lạc, ta thấy có các tướng nam,
nữ, nhị thừa, già, tre, đó chỉ là đối chiếu với cõi này làm cho mọi người thấy
cũng có tướng nam, nữ, già trẻ như cõi mình mà phát nguyện vãng sanh, đây
cũng chỉ là phương tiện hoằng pháp, kỳ thực khi sanh về tịnh độ rồi là lìa
hẳn ngã tướng hiện tại, tất cả đều được 32 tướng của Bồ Tát.
LUẬN VĂN: TẤT CẢ SỞ CẦU CÔNG ÐỨC ÐẦY ÐỦ THÀNH
TỰU NHƯ KỆ NÓI: "CHÚNG SANH MUỐN AN VUI, TẤT CẢ
ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ".
17)-Chúng sanh sanh về thế giới Cực Lạc, do năng lực đại nguyện của
Ðức Phật A Di Ðà, vì thế, có ai muốn được vui, sẽ thành tựu đầy đủ. Không
những chỉ muốn thành tựu những sinh hoạt đầy đủ, mà người muốn đầy đủ
tứ hoằng thệ nguyện như: “Chúng sanh khốn cùng thệ nguyện độ, phiền não
không hết thệ nguyện dứt, pháp môn không lường thệ nguyện học, Phật đạo
cao tột thệ nguyện thành.” đều có thể thành tựu viên mãn.
LUẬN VĂN: ÐÃ LƯỢC NÓI 17 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM QUỐC ÐỘ PHẬT A DI ÐÀ LÀ CHỈ BÀY TỰ THÂN NHƯ
LAI CÓ NĂNG LỰC ÐẠI CÔNG ÐỨC, LỢI ÍCH HỮU TÌNH THÀNH
TỰU VÀ LỢI ÍCH CHO CÔNG ÐỨC NGƯỜI KHÁC CŨNG THÀNH
TỰU. CÕI PHẬT VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM, CẢNH GIỚI
MẦU NHIỆM ÐỆ NHẤT NGHĨA ÐỂ, 16 CÂU VÀ THÊM 1 CÂU, NÓI
THEO THỨ LỚP CẦN NÊN BIẾT.
Trên đây nói 17 thứ công đức chỉ là nói lược, nếu kể rõ không thể nào kể
hết. Ở trước nói 17 thứ công đức là nhằm vào 2 điểm công đức tự lợi và lợi
tha. Pháp môn Tịnh Ðộ có thể làm cho tất cả chúng sanh được sanh về nước
cõi ấy, gặp Phật nghe pháp, chứng vị Bất Thối, chứng Vô thượng đạo hoàn
thành công đức lợi tha chơn chánh. Nên nói Như Lai thị hiện tự thân sức đại
công đức lợi ích thành tựu, tha công đức lợi ích thành tựu. Thế giới cực là
hóa độ của Phật A Di Ðà, nhưng hoá độ là báo độ, báo độ là pháp tánh độ,
pháp tánh độ là chơn như Phật tánh, nhất chơn pháp giới. Ðó là tướng diệu
cảnh giới của đệ nhất nghĩa đế. Nên gọi trang nghiêm cõi Phật Vô Lượng
Thọ kia là cảnh giới của Ðệ Nhất Nghĩa Ðế. Ba thân Phật, bai Báo Y và
Chánh vốn không thể phân chia, ba thân vốn một thân, ba độ tức là một độ,
mà người sau vọng chấp phân biệt cho đó là có hóa Phật, chứ không phải
báo thân Phật, báo và hóa độ không phải là pháp tánh độ. Họ không biết
rằng hóa Phật y theo pháp của báo Phật mà khởi, pháp của báo Phật sẽ vì
hóa Phật làm chỗ y cứ. 16 câu và một câu ý nói thứ 16 thứ đầu là riêng rẽ,
thứ chót là tổng hợp vậy
LUẬN VĂN: LÀM THẾ NÀO LÀ QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU? QUÁN CÔNG ÐỨC TRANG
NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU CÓ 8 THỨ: 1) TÒA TRANG
NGHIÊM; 2) THÂN TRANG NGHIÊM; 3) KHẨU TRANG NGHIÊM;
4) TÂM TRANG NGHIÊM; 5) CHÚNG TRANG NGHIÊM; 6)
THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM; 7) CHỦ TRANG NGHIÊM; 8)
CHẲNG DỐI LÀM TRỤ TRÌ TRANG NGHIÊM.
Trước đã quán cõi Phật, tuy cũng có Quán Phật và Bồ Tát nhưng chỉ
quán sát tướng chung. Ở đây, riêng Quán tướng công Ðức Phật có 8 thứ như
sau.
LUẬN VĂN: SAO GỌI LÀ TÒA TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI:
"ÐẠI BẢO VƯƠNG VÔ LƯỢNG, ÐÀI HOA TỊNH VI DIỆU".
Trước quán quốc độ cũng có quán Phật, ở đây quán Phật cũng có quán
quốc độ. Tòa Phật A Di Ðà vốn dùng thế giới An-Lạc làm tòa như Phật Lô
Xá Na dùng thiên hoa đài làm tòa, Thiên Hoa Ðài làm tòa tức là ngàn thế
giới làm tòa. Tòa của Phật A Di Ðà dùng vô lượng đại bửu hoa vương của vi
diệu thanh tịnh liên hoa đài làm tòa. Ðại bảo vương là lấy hoa lớn nhất để
làm tòa.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ THÂN TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ
NÓI: "MỘT TẦM ÁNH TƯỚNG HẢO, SẮC TƯỢNG HƠN QUẦN
SANH".
Tán Phật kệ rằng: thân Phật A Di Ðà sắc vàng, tướng tốt ánh sáng không
ai sánh, lông trắng năm non xây chất ngất, mắt xanh bốn bể rộng chơi vơi.
Ðó là nói thân Phật trang nghiêm. Phật A Di Ðà ánh sáng rộng vô lượng.
Trong kệ nói ánh sáng một tầm, vì chúng sanh trong cõi này thấy Thích Ca
Thế Tôn ánh sáng rộng một tầm, do đó quán ánh sáng Phật A Di Ðà cũng
lấy một tầm làm tiêu chuẩn, nên nói ánh sáng tướng hảo của Phật A Di Ðà
một tầm.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ MIỆNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ
NÓI: "TIẾNG NHƯ LAI VI DIỆU, PHẠM ÂM NGHE MƯỜI
PHƯƠNG".
Lời nói có ra là do môi, lưỡi, răng và hơi hòa hợp mà thành, không phải
đơn độc có miệng mà có thể thành lời. Ở đây chỉ nói về cách phát âm để
giảng. Vì lời nói trang nghiêm nên làm cho miệng trang nghiêm. Lời nói của
Phật A Di Ðà phát ra vi diệu như tiếng nói của trời Phạm Thiên, có năng lực
làm cho mười phương được nghe.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ TÂM TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ
NÓI: "ÐỒNG ÐẤT NƯỚC GIÓ LỬA, HƯ KHÔNG KHÓ PHÂN
BIỆT, KHÔNG PHÂN BIỆT ÐƯỢC NGƯỜI, KHÔNG CÓ TÂM
PHÂN BIỆT".
Phật Tâm là Tâm Ý của Phật. Các ý của Phật ở nơi ngũ đại: đất, nước,
gió, lửa, không. Không có phân biệt: như đất đai không phân biệt người tốt
xấu đi trên đất, đất vẫn không khởi phân biệt; Lửa không phân biệt; lửa có
thể đốt tất cả vật, cỏ khô, cây chiên đàn khi đốt không có phân biệt; cho đến
hư không dung nạp tất cả cũng không khởi phân biệt. Tâm ý của Phật lại
cũng như thế. Do tâm Phật bình đẳng, khắp độ tất cả chúng sanh không phân
biệt nghèo hèn sang, có căn lành hay không có căn lành, tất cả đều được
vãng sanh về Tịnh Ðộ, tiến đến quả Vô thượng Chánh đẳng chánh giác.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ CHÚNG TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ
NÓI: "NGƯỜI TRỜI CHÚNG BẤT ÐỘNG, SANH BỂ TRÍ THANH
TỊNH".
Bình thường giảng ba nghiệp, người có phúc nghiệp sanh về cõi trời, cõi
người, người không có phúc nghiệp sanh về ba ác đạo, người có Bất Ðộng
Nghiệp sanh về Sắc Cứu Cánh Thiên. Các chúng nhơn thiên ở cõi Cực Lạc,
căn bản đều do sức công đức và biển trí tuệ của Phật A Di Ðà mà được vãng
sanh, như các nhà từ thiện lo lập cô nhi viện, các cô nhi tự mình có thể vào,
nhưng căn bản là do tấm lòng từ bi của các nhà từ thiện, trước đã thiết lập cô
nhi viện rồi, những cô nhi mới có chỗ vào. Chúng sanh được vãng sanh lại
cũng như thế, nếu không có sức trí tuệ bổn nguyện của Phật A Di Ðà thành
lập tây phương Tịnh Ðộ, chúng sanh tuy muốn vãng sanh cũng không có chỗ
đến.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ THƯỢNG THỦ TRANG NGHIÊM
NHƯ KỆ NÓI: "NHƯ VUA NÚI TU DI, THẮNG DIỆU CHẲNG AI
HƠN".
Trong đây thượng thủ trang nghiêm là chỉ các bậc đại Bồ Tát Ðại Thừa
Bất Thối chuyển, công hạnh của các Ngài cao vọi như vua núi Tu Di không
có núi nào cao hơn. Ðại Bồ Tát cũng thế, các Ngài là vua trong chúng không
có ai hơn.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ CHỦ TRANG NGHIÊM NHƯ KỆ
NÓI: "CHÚNG TRƯỢNG PHU TRỜI NGƯỜI, VI NHIỄU KÍNH
CHIÊM NGƯỠNG".
Trước đây từ chủ chỉ chúng, từ chúng nêu lên thượng thủ. Ðây lại từ
thượng thủ chỉ chủ tức là lấy chủ hiển bạn, lấy bạn hiển chủ cùng nhau chỉ
rõ nghĩa chủ và bạn. Vì thế nói người trời, chúng trượng phu, cung kính vây
quanh chiêm ngưỡng chủ. Ðó là công đức của chủ ao vọi không nói ai cũng
biết rõ.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO KHÔNG DỐI LÀM TRỤ TRÌ TRANG
NGHIÊM NHƯ KỆ NÓI: "QUÁN BỔN NGUYỆN LỰC PHẬT, AI
CŨNG ÐỀU LỢI ÍCH, LÀM CHO MAU ÐẦU ÐỦ, CÔNG ÐỨC BIỂN
BÁU LỚN" TỨC LÀ BỒ TÁT GẶP PHẬT A DI ÐÀ, TUY CHƯA
CHỨNG THANH TỊNH TÂM, RỐT RÁO CŨNG ÐƯỢC PHÁP THÂN
BÌNH ÐẲNG, CÙNG VỚI BỒ TÁT THANH TỊNH TÂM KHÔNG
NHÁC, BỒ TÁT TỊNH TÂM CÙNG BỒ TÁT Ở TRÊN THƯỢNG
ÐỊA, CỨU KÍNH ÐỒNG ÐƯỢC TỊCH DIỆT BÌNH ÐẲNG.
Trong cõi Cực Lạc do năng lực và bổn nguyện của Phật A Di Ðà, nên
người vãng sanh đều có đủ năng lực của Ðại Thừa Bồ Tát bất thối chuyển và
sau đó có thể thị hiện mười phương, phổ độ chúng sanh, coi việc độ sanh
như nhiệm vụ chính phải gánh vác, như người Viện Trưởng cô nhi viện cần
phải dạy cô nhi đủ đức dục, thể dục, trí dục, sau đó mới cho vào đời, phục
vụ xã hội, không chỉ làm người dân lương thiện mà phải làm người có tài
hữu dụng cho quốc gia. Phật A Di Ðà kiến lập Tịnh Ðộ lại cũng như thế.
Phàm người sanh về nước Cực Lạc, tùy theo nhơn tu có cạn sâu, thành Phật
có mau có chậm khác nhau, nhưng rốt ráo đều được thành Phật, vì cõi Cực
Lạc có hoàn cảnh rất tốt, làm cho tâm bồ đề chúng sanh mỗi ngày mỗi tăng,
phiền não mỗi ngày mỗi ít, lại không thối thất, chắc chắn đến quả Phật, đây
là lẽ thực chứ không phải nói suông.
Tịnh tâm Bồ Tát có chỗ giảng là từ Bát địa trở lên, thông thường giảng
Tịnh Tâm Bồ Tát là chỉ sơ Ðịa Bồ Tát, vì Bồ Tát Sơ Ðịa có trí huệ vô lậu
tương ưng. Phàm phu, nhị thừa chưa chứng được tịnh tâm vì chưa chứng
được Sơ địa. Tuy không phải là Sơ Ðịa Bồ Tát nhưng họ có thể là Ðăng Ðịa
Bồ Tát, tương lai chắc chắn đồng chứng được pháp thân bình đẳng không
khác. Tuy là Bồ Tát Sơ Ðịa song có thể cùng Thượng Ðịa Bồ Tát đồng
chứng được tịch diệt bình đẳng. Tịch diệt tướng là thật tướng của các pháp là
pháp tánh thanh tịnh bình đẳng chỉ có Phật với Phật mới được rốt ráo. Có
người cho rằng người niệm Phật sanh về tịnh độ liền được thành Phật. Cần
nên biết rằng: sanh về Cực Lạc thế giới chưa chứng ngay quả Phật hoặc đại
Bồ Tát mà phải có thời gian tu tập. Có hạng phàm phu, nhị thừa chưa chứng
tịnh tâm, cũng có người đã chứng tịnh tâm của Sơ Ðịa Bồ Tát, nhưng tất cả
đều chắc được lợi ích không thối chuyển đến khi thành Phật.
Lược nói 8 câu chỉ bày 8 công đức là chỉ bày công đức trang nghiêm tự
lợi và lợi tha của Như Lai theo thứ lớp thành tựu nên biết.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ QUÁN TRANG NGHIÊM CÔNG
ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC THÀNH TỰU? QUÁN
CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM CỦA BỒ TÁT ÐƯỢC THÀNH TỰU
LÀ QUÁN BỒ TÁT KIA CÓ BỐN THỨ CÔNG ÐỨC TU HÀNH
CHÍNH ÐƯỢC THÀNH TỰU CẦN NÊN BIẾT.
Trước đã quán cõi Phật và công đức Phật, lại nói làm thế nào mà quán
công đức của Bồ Tát ở thế giới kia là tổng quát quán bốn thứ chánh tu của
Bồ Tát mà thành tựu. Phật là quả, Bồ Tát là nhơn, Bồ Tát ở trong nhơn tu
hai lối là tự lợi và lợi tha. Vì Bồ Tát có bốn thứ Chánh Tu nên khác với
ngoại đạo là tà tu.
LUẬN VĂN: BỐN MÓN CHÍNH TU LÀ GÌ? 1) Ở TRONG MỘT
CÕI PHẬT THÂN CHẲNG LAY ÐỘNG MÀ CÓ CÁC THỨ THÂN
VÀ HÓA THÂN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG, ÐÚNG PHÁP TU HÀNH
THƯỜNG LÀM CÁC PHÁP SỰ NHƯ KỆ NÓI: "NƯỚC AN LẠC
THANH TịNH, THƯỜNG CHUYỂN XE VÔ CẤU, ẢNH HÓA PHẬT
BỒ TÁT, TRỤ TRÌ NHƯ TU DI, MỞ ÐƯỜNG CHO CHÚNG SANH,
NHƯ HOA SEN TỪ BÙN NHƠ".
Bồ Tát trong nước Cực Lạc có thể thành tựu ở trong một cõi Phật, thân
không qua lại làm ứng hóa khắp mười phương, có công đức thù thắng phổ
độ khắp chúng sanh. Bồ Tát nếu lìa thế giới này qua các thế giới mười
phương kia để ứng hóa thì không thù thắng, nếu ở thế giới này mà không
ứng hóa trong thế giới Cực Lạc, có thể không rời Cực Lạc mà ứng hóa mười
phương phổ độ chúng sanh đó là điều thù thắng. Như người thật tu hành
thường làm các Phật sự là như Phật Bồ Tát làm các công đức thành tựu,
thường qua lại trong mười phương, lấy việc giáo hóa chúng sanh làm sự
nghiệp, Bồ Tát thường chuyển bánh xe pháp làm chúng sanh lìa tất cả phiền
não cấu, tuy có hiện Phật thân, hiện Bồ Tát thân an trụ chẳng động. Nên kệ
nói: "Thường chuyển xe vô cấu, ảnh hóa Phật, Bồ Tát, trụ trì như Tu Di, mở
đường cho chúng sanh, như hoa sen ở trong bùn không có ánh sáng tới, hoa
sen không thể nở. Chúng sanh cũng thế, tuy có chủng tử lành, nhưng không
có Bồ Tát ứng hóa để độ cũng không thành tựu."
LUẬN VĂN: 2) ỨNG HÓA THÂN KIA, TẤT CẢ THỜI GIAN,
KHÔNG TRƯỚC KHÔNG SAU, MỘT TÂM MỘT NIỆM, PHÓNG
ÁNH SÁNG LỚN, ÐỀU CÓ THỂ ÐẾN KHẮP MƯỜI PHƯƠNG,
GIÁO HÓA CHÚNG SANH, ÐỦ CÁC PHƯƠNG TIỆN, CHỖ LÀM
TU HÀNH DIỆT HẾT KHỔ NÃO CHÚNG SANH, NHƯ KỆ NÓI:
"ÁNH TRANG NGHIÊM VÔ CẤU, MỘT NIỆM VÀ MỘT THỜI,
CHIẾU KHẮP CÁC HỘI PHẬT, LỢI ÍCH CÁC QUẦN SANH".
Ứng hóa thân của Bồ Tát không phải lìa chỗ này mà ứng hóa nơi chỗ
kia, các Ngài đều có thể phóng ánh sáng lớn khắp cả mười phương giáo hóa
chúng sanh. Phương pháp giáo hóa của Bồ Tát không những có nhiều thứ
phương tiện mà khi dạy bảo phương pháp tu hành cũng có nhiều phương
tiện, tùy theo căn cơ mà dạy bảo trao truyền. Chúng sanh nào hợp với pháp
môn Niệm Phật thì dạy niệm Phật, người nào hợp với pháp môn Thiền Ðịnh
thì dạy cho pháp tu Thiền Ðịnh, khiến cho chúng sanh đúng pháp mà tu
hành, dứt hết vô minh phiền não, vĩnh viễn nhổ hết gốc sanh tử,không phải
như những nhà từ thiện ở thế gian chỉ có thể giúp tạm dừng những quả khổ
của chúng sanh, nhưng không thể dứt vĩnh viễn cái nhơn (nguồn gốc) khổ
của chúng sanh.
LUẬN VĂN: 3) Ở TRONG THẾ GIỚI CỦA NGÀI ÐỘ HẾT
KHÔNG CÒN THỪA, ÁNH SÁNG CHIẾU HẾT CÁC ÐẠI CHÚNG
TRONG HỘI PHẬT KHÔNG CÒN THỪA, CÚNG DƯỜNG CUNG
KỈNH TÁN THÁN VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT NHƯ KỆ NÓI: "RƯỚI
THIÊN NHẠC, HOA, Y, CÁC DIỆU HƯƠNG CÚNG DƯỜNG, TÁN
CÔNG ÐỨC CHƯ PHẬT, KHÔNG CÓ LÒNG PHÂN BIỆT".
Bồ Tát ở cõi Cực Lạc hóa sanh trong thế giới mười phương, không có
một thế giới nào không đi đến để hóa độ nên gọi là không còn thừa. Các
Ngài hóa sanh như thế và cũng phóng ánh sáng như thế. Trong đây nói các
Bồ Tát ở cõi Cực Lạc không chỉ đi đến mười phương phổ độ chúng sanh mà
đến khắp mười phương cúng dường chư Phật nên gọi "trên cầu đạo Phật,
dưới cứu độ chúng sanh" là thế. Vì sao Bồ Tát có thể qua đến mười phương
cúng dường tán thán chư Phật? Vì Bồ Tát không có công dụng đạo và không
khởi niệm phân biệt nên có thể qua lại tự nhiên.
LUẬN VĂN: 4) CÁC NGÀI Ở TRONG TẤT CẢ THẾ GIỚI
KHÔNG CÓ TAM BẢO TRONG MƯỜI PHƯƠNG LÀM TRỤ TRÌ
TRANG NGHIÊM PHẬT PHÁP TĂNG BẢO, CÔNG ÐỨC LỚN NHƯ
BỂ CẢ, KHẮP CHỈ BÀY LÀM CHO MỌI NGƯỜI HIỂU RÕ ÐÚNG
PHÁP TU HÀNH NHƯ KỆ NÓI: "Ở CÁC CHỖ THẾ GIỚI,KHÔNG
CÔNG ÐỨC PHẬT PHÁP, TA ÐỀU NGUYỆN SANH ÐẾN, CHỈ
PHẬT PHÁP NHƯ PHẬT".
Trước đã nói Bồ Tát đến chỗ thế giới có Phật, ở đây nói Bồ Tát đến thế
giới không Phật, như cõi ta bà này có Thích Ca Thế Tôn, hiện tại Ngài đã
vào Niết Bàn, nhưng còn tượng Phật tồn tại, kinh điển lưu truyền, chúng
sanh y theo pháp Phật tu hành đến chứng quả đó là có Phật. Có thế giới
nguồn gốc không có Phật pháp, chúng sanh chưa hề có ai thoát được, khổ ấy
đồng với địa ngục! Bồ Tát có đại từ bi tâm, đã sanh về nước Cực Lạc, dùng
huệ nhãn biết được cõi không Phật pháp, phát nguyện sanh đến độ, hoằng
truyền Phật pháp, kiến lập Tam-Bảo, làm cho chúng sanh, trước chẳng được
thấy nghe Tam-Bảo, hiểu biết được pháp tánh chơn thật, sau đó theo chỗ
hiểu biết mà tu hành, được chứng đạo quả. Phương pháp kiến lập khai thị
của các Ngài y như Phật đã kiến lập, nên nói: "Chỉ Phật Pháp như Phật".
Nếu Bồ Tát đã đầy đủ công đức cũng bằng không, nên Bồ Tát muốn có công
đức phải giáo hóa chúng sanh. Nên Bồ Tát Ðịa Tạng đã nói: " Ta không vào
địa ngục thì ai vào địa ngục.” đó là ý nghĩa này.
LUẬN VĂN: NÓI CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT ÐỘ
THÀNH TỰU, CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM BỒ TÁT THÀNH
TỰU,CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM PHẬT THÀNH TỰU, CÔNG
ÐỨC TRANG NGHIÊM BỒ TÁT THÀNH TỰU ÐÂY LÀ THỨ
THÀNH TỰU NGUYỆN TÂM TRANG NGHIÊM, LƯỢC NÓI MỘT
CÂU LÀ PHÁP THÂN CHƠN PHẬT TRÍ HUỆ VÔ VI THANH TỊNH,
NAY CÓ 2 THỨ CẦN NÊN BIẾT. THẾ NÀO LÀ HAI THƯÚ THANH
TỊNH? : 1) KHÍ THẾ GIAN THANH TịNH; 2) CHÚNG SANH THẾ
GIAN THANH TịNH. KHÍ THẾ GIAN THANH TỊNH LÀ NHẰM
VÀO 17 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM QUỐC ÐỘ PHẬT
THÀNH TỰU GỌI LÀ THẾ GIAN TỊNH. CHÚNG SANH THẾ GIAN
THANH TỊNH LÀ NÓI VỀ 8 THỨ CÔNG ÐỨC PHẬT TRANG
NGHIÊM THÀNH TỰU VÀ 4 THỨ CÔNG ÐỨC TRANG NGHIÊM
THANH TịNH CỦA BỒ TÁT THÀNH TỰU GỌI LÀ CHÚNG SANH
KHÍ THẾ GIAN THÀNH TỰU. NHƯ THẾ MỘT CÂU PHÁP GỒM
CẢ 2 THỨ CẦN NÊN BIẾT.
Trong Quán sát môn đã phân biệt rõ ràng ba món công đức xon, ở đây
lấy ba thứ quán sát trước làm một câu pháp. Ở trước nói ba thứ công đức
trang nghiêm là chỉ chỗ thành tựu tâm nguyện trang nghiêm, vì cái nhơn của
ba thứ công đức thành tựu là năng lực đại nguyện của Phật A Di Ðà. Trong
kinh Vô Lượng Thọ nói về nhơn thành tựu của Phật A Di Ðà là do Pháp
Tạng Tỳ Kheo pháp 48 đại nguyện, sau đó quyết lòng y theo thệ nguyện, tu
các hạnh nguyện trang nghiêm mà thành tựu cái quả thệ nguyện là thế giới
Cực Lạc. Như Ma Ni Bảo Châu do tim của đại bàng Kim Súy Ðiểu mà
thành, thế giới Cực Lạc này là do tâm nguyện của Phật A Di Ðà mà thành.
Phật A Di Ðà tùy tâm nguyện thành tựu các Phật sự ở nước Cực Lạc, làm
cho chúng sanh đoạn hết các phiền não, chứng Vô thượng bồ đề.
Chư Phật dùng lòng đại từ bi phổ độ chúng sanh tuy đồng mà phương
pháp độ sanh có khác. Như ở cõi này đức Thích Ca Thế Tôn dùng ngôn ngữ
âm thanh thuyết pháp độ sanh, nên nói: "Chơn Giáo thể cõi này, nhờ âm
thinh thanh tịnh". Chúng sanh ở Hương Quốc dùng mùi hương mà thuyết
pháp, cho đến có chỗ dùng hoa và giấc mộng mà thuyết pháp độ sanh. Thế
giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà chính dùng sự thành tựu của thế giới An-Lạc
mà làm pháp môn, phương tiện duy nhất để độ sanh.
Người muốn sanh về tịnh độ chỉ cần phát nguyện liền đặng vãng sanh, vì
Cực Lạc tịnh độ là do nguyện lực của Phật A Di Ðà tạo thành, mà trong lời
thệ nguyện đã có mong muốn tất cả chúng sanh trong mười phương đều
được vãng sanh về nước kia. Nước kia đã hàm chứa năng lực nhiếp thọ
chúng sanh các thế giới ở mười phương phát nguyện vãng sanh về, như viên
đạn trong ống đồng bị sức ép của hơi thổi bắt buộc phải bay ra ngoài nên
người nguyện sanh về tịnh độ quyết định được sanh. Bình thường người
được sanh về các tịnh độ khác cần phải tu đến Sơ Ðịa Bồ Tát mới có thể
thành tựu tự tha thọ dụng của Tịnh Ðộ. Người muốn thành tựu tịnh độ khác
đều do tu đến địa vị ấy thì tự nhiên thành, không phải chỉ một lần phát
nguyện như người cầu sanh về Cực Lạc liền được vãng sanh. Chúng ta
muốn sanh về tịnh độ Cực Lạc không phải tu đầy đủ cái Nhơn của tịnh độ
mà chỉ cần phát nguyện vãng sanh là có thể đến được. Nếu giảng theo luật
nhơn quả thông thường không tu nhơn thì không thể chứng quả chỗ trái
ngược, nhưng trong Phật pháp có 5 việc không thể nghĩ bàn. Ở đây không
cần tu nhơn mà được sanh tịnh độ là do khả năng nguyện lực Phật không thể
nghĩ bàn trong năm điều không thể nghĩ bàn mà thành tựu.
Trước phân tích trong quán sát môn có 29 thứ công đức, nay gồm vào
một câu pháp đó là thanh tịnh pháp. Thanh tịnh pháp này Pháp Giới Thanh
Tịnh, là pháp tánh vô lậu trí của Phật đã chứng được. Phật lấy pháp tánh làm
thân, mà pháp tánh cũng là pháp thân vô vi của Phật. Trí tuệ chơn thực là
bốn trí Bồ Ðề. Bốn Trí là: Trí vô lậu, Trí vô hư vọng, Trí vô điên đảo và Trí
bồ đề. Trí này có thể chứng ngộ và tương ưng, chỗ chứng của trí này là
thanh tịnh pháp giới. Pháp giới thanh tịnh này là pháp thân vô vi của Phật, vì
không có trí phân biệt, nên chứng lý không phân biệt, trí và lý như như, lìa
cả tướng năng và sở. Phạm vi của chúng sanh có rộng có hẹp. Nghĩa rộng:
tất cả pháp sanh diệt của giống hữu tình và vô tình đều gọi là chúng sanh.
Nghĩa hẹp: Các pháp thuộc hữu tình như Phật, Bồ Tát cho đến vi tế côn
trùng đều gọi là chúng sanh. Tuy vậy, tương đối mà nói Phật không phải là
chúng sanh vì Ngài nhiếp cả Bồ Tát và hữu tình. Nếu nói cho đúng vì chúng
sanh tương đối với thánh nhơn, nên trong 10 pháp giới, bốn bậc thánh không
phải là chúng sanh, chỉ có sáu bậc phàm là chúng sanh thôi. Trong đây
chúng sanh thế gian là gồm nghĩa cả Phật và Bồ Tát.
Hoa nghiêm tông nói: Thế gian có ba: 1) Khí thế gian; 2) Chúng sanh
thế gian; 3) Chánh giác thế gian. Luận này nói có 2 thế gian so với Tông
Hoa nghiêm: Chánh giác thế gian tức là nhiếp về chúng sanh thế gian. Có
tướng sai biệt ở thế gian đều là thế gian công đức. Nếu dứt cả ngôn ngữ, tâm
thực hành đạo tịch diệt, không có tướng sai biệt là tướng vô lậu của thế gian.
Trong ấy tuy nói thế gian, nhưng do công đức vô lậu thành tựu, cũng chính
là thế gian mà xuất thế gian vậy.
LUẬN VĂN: CÁC BỒ TÁT TU HÀNH CHỈ QUÁN NHƯ THẾ,
TÂM NHU NHUYẾN THÀNH TỰU, BIẾT ÐƯỢC NHƯ THẬT,
RỘNG GIẢNG CÁC PHÁP NHƯ THẾ LÀ XẢO PHƯƠNG TIỆN HỐI
HƯỚNG THÀNH TỰU.
Trong luận này gồm có năm môn, nói riêng Quán Sát là Quán Sát Môn,
hiện tại giảng làm thế nào khéo léo hồi hướng tức là Hồi Hướng Môn. Trong
năm môn: Tác Nguyện Môn tu CHỈ làm chính, Quán sát Môn tu QUÁN làm
chính. Lễ bái và Tán Thán môn là phương tiện trước tiên của Chỉ Quán, nên
bốn môn của Bồ Tát tu hành như lễ bái, quán sát, tán thán, tác nguyện là tu
CHỈ QUÁN. Trong năm môn, Tác Nguyện Môn vô cùng quan trọng, vì
trước khi chưa làm công đức lễ bái, tán thán cần phải lập nguyện trước.
Chính khi làm công đức cũng phải có nguyện, vì có nguyện nên công đức
mới có chủ trương, tâm tu mới chuyên cần. Nếu công có chủ hướng là công
không tản mát như tiền đã xỏ xâu không thể rơi được. Tâm có chuyên cần,
khi phát nguyện vãng sanh thì tâm chuyên chú ở tây phương tịnh độ, nhờ đó
gom tán loạn về chỗ an định, đó gọi là tâm định. Y theo Quán sát mà tu
hành, do phát nguyện mà khởi ra quán sát. Quán sát cõi Phật y chánh trang
nghiêm là trong Chỉ có Quán, trong Quán có Chỉ, Chỉ và Quán song hành.
Ba Quán sát trên là nói rộng. Ba gồm lại thành một, chỉ có một pháp giới
thanh tịnh trùm khắp.
Thành tựu tâm Nhu Nhuyến. Tâm có phiền não thì không nhu nhuyến
cũng như ngựa hoang; nếu tu Chỉ Quán thì có thể hàng phục được phiền não
thì tâm trở nên nhu nhuyến, nếu không tu được tâm nhu nhuyến thì các cảnh
tham trước ngũ dục hiện ra. Không căn cứ tu Chỉ để tâm định thì không thể
quán sát được rõ ràng. Vì thế Chỉ và Quán làm cho tâm nhu nhuyến được
thành tựu.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ BỒ TÁT DÙNG PHƯƠNG TIỆN ÐỂ
HỒI HƯỚNG? BỒ TÁT DÙNG XẢO PHƯƠNG TIỆN HỒI HƯỚNG
LÀ NÓI LỄ BÁI NĂM MÔN TU HÀNH ÐÃ NHÓM TẤT CẢ CÔNG
ÐỨC THIỆN CĂN, KHÔNG CẦU TỰ MÌNH CÓ ÐƯỢC AN VUI MÀ
MUỐN NHỔ HẾT KHỔ CHO TẤT CẢ CHÚNG SANH, KHỞI
NGUYỆN ÐƯA CHÚNG SANH ÐỒNG SANH VỀ CÕI PHẬT AN
LẠC KIA, ÐÓ GỌI LÀ BỒ TÁT DÙNG XẢO PHƯƠNG TIỆN HỒI
HƯỚNG THÀNH TỰU.
Trước giảng tâm sở y của hồi hướng, giờ đây giảng về nghĩa chính của
hồi hướng. Ðã có công đức thành tựu mới có thể hồi hướng, vì nhờ lễ bái tán
thán ở trước nhóm đủ thiện căn công đức sau mới hồi hướng. Công là công
hạnh, đức là quả đức, phàm công thực hành đến khi thành tựu gọi là công
đức. Thông thường lấy năm thứ thiện căn: Tín, tấn, niệm, định, tuệ và ba vô
lậu thiện căn: đương tri, dĩ tri, cụ tri là tổng tướng của thiện căn. Kỳ thực tất
cả công đức đều gọi là thiện căn. Như niệm Phật, niệm đến không còn tạp
niệm tức là thành tựu một thứ công lực niệm Phật, do công lực niệm Phật
này lâu dần thành tựu thiện căn niệm Phật. Như người ưa làm việc bố thí,
làm việc bố thí lâu dần biến thành tập quán thành tựu bố thí công đức và
thiện căn bố thí thành tựu. Trái lại tạo ác cũng có ác căn thành tựu như tham
sân si tam độc gọi là tam độc căn, nên nói căn tánh ác, căn tánh hạ liệt, các
người này không có thiện xảo để hồi hướng, vì tâm chấp ngã, chỗ công đức
đều vì bản ngã mà làm, đó là công đức hữu lậu trước tướng, không phải là
công đức xuất thế. Công đức hữu lậu này chỉ làm nhơn cho quả hữu lậu ở
nhơn thiên, được sanh vào cõi nhơn thiên. Người thiện xảo hồi hướng không
cần gìn giữ cái vui riêng cho tự thân, mà làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ
được vui. Như chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ không phải chỉ cầu
tự mình đến chỗ An-Lạc mà vì cứu bạt tất cả khổ của chúng sanh mà sanh về
tịnh độ. Ở đời, những nhà từ thiện bố thí cơm ăn áo mặc tuy giúp tạm thời
bớt khổ chớ không nhổ hết nguồn gốc khổ. Chỉ có Phật pháp làm cho chúng
sanh đoạn trừ phiền não chứng quả bồ đề mới có thể nhổ hết cội gốc khổ cho
tất cả chúng sanh. Pháp môn tịnh độ khuyên người vãng sanh, tuy chưa dạy
chúng sanh tức khắc diệt trừ phiền não, song sanh về tây phương Cực Lạc có
thể lìa khổ, lần lần diệt hết phiền não thành vô lượng giác.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT KHÉO BIẾT HỒI HƯỚNG THÀNH TỰU
NHƯ THẾ LÀ XA LÌA BA THỨ TRÁI VỚI PHÁP BỒ ÐỀ. THẾ NÀO
LÀ BA THỨ? 1) Y THEO TRÍ HUỆ MÔN KHÔNG CẦU TỰ LẠC,
XA LÌA TÂM THAM TRƯỚC CỦA TỰ THÂN; 2) Y THEO TỪ BI
MÔN NHỔ HẾT TẤT CẢ GỐC KHỔ CHO CHÚNG SANH; 3) Y
THEO PHƯƠNG TIỆN MÔN LÒNG THƯƠNG XÓT TẤT CẢ
CHÚNG SANH, XA LÌA TÂM CUNG KÍNH CÚNG DƯỜNG TỰ
THÂN. ÐÓ LÀ XA LÌA BA PHÁP TRÁI VỚI TÂM BỒ ÐỀ.
Trong đây nói Bồ Ðề tức chỉ Ðại Thừa bồ đề tâm, nếu không đúng như
thế mà hồi hướng tức là trái với ba thứ tâm bồ đề, nếu trái với tâm bồ đề là
trái với bản ý thành lập tịnh độ của Phật A Di Ðà. Người tu Phật cốt yếu lấy
tâm mình làm điểm xuất phát, nếu có ngã chấp tức thành phàm phu. Vì thế
hàng nhị thừa dùng phương tiện tiêu cực để diệt trừ ngã chấp chứng A la
hán, hàng Ðại Thừa bồ tátlày lòng Ðại Bi Vô Ngã để viên thành Phật Quả.
Tiếng Phạn Tát Ca Da Kiên dịch là thân kiến, vì ở thân kiến nên có ngã
chấp, nếu có ngã chấp là có tham ái, si mê, ngã mạn. Trong Duy Thức Luận
nói: Ngã chấp có hai thứ: 1) Do Mạt Na Thức thứ bảy duyên theo kiến phần
của thức A Lại Da thứ tám làm ngã là Câu Sanh Ngã chấp, Tâm ngã chấp
này là căn bản. 2) Do ý thức thứ sáu duyên theo năm uẩn mà khởi ra ngã
chấp là chung cả câu sanh và phân biệt ngã chấp. Muốn phá ngã chấp cần
phải dùng trí Bát nhã. Nhờ trí Bát nhã phá nhơn ngã chấp, diệt phiền não
chướng, chứng lý sanh không. Phá pháp ngã đoạn sở tri chướng, chứng lý
pháp không. Sanh không là hiểu thấu tâm chúng ta đều do ngũ uẩn hòa hợp
mà có, không thật thể. Nó như một đoàn thể họp bởi nhiều phần tử mà
thành, nếu bỏ các phần tử ra thì đoàn thể không thành. Chúng ta cũng thế, tất
cả đều do các duyên hòa hợp nên giả có ngã tướng, không có ngã thực. Do
hiểu được sanh không, tiến thêm một bước nữa ta thấy, người do năm uẩn
hoà hợp mà thành, các duyên hòa hợp nên năm uẩn vốn không, thành tựu
Quán Pháp Không. Biết rõ người và pháp đều không, nên không khởi lòng
tham và không cầu riêng mình được an vui. Nên nói: Y theo môn trí tuệ,
không cầu tự vui riêng, xa lìa tâm ngã tham trước của tự thân.
Từ bi của thế gian và từ bi của Phật pháp không đồng. Từ Bi của thế
gian là dùng tự ngã để làm việc từ bi; Từ bi của Phật pháp lấy vô ngã làm từ
bi, nên gọi là Ðại Bi. Từ Bi trong Phật pháp có ba thứ: Sanh duyên từ, Pháp
duyên từ và Vô duyên từ. Duyên cái khổ của chúng sanh mà sanh lòng từ bi
gọi là Sanh duyên Từ. Không thấy có mình và người mà khởi lòng từ bi là
Pháp Duyên Từ. Dùng cái không công dụng mà khởi từ bi gọi là Vô Duyên
Bình Ðẳng Từ. Chúng sanh vốn ở trong cái không khổ mà vọng khởi ra cái
khổ, đó là điều rất cực khổ. Chúng sanh khổ não như thế, như ở trong nhà
lửa cháy lớn. Bồ Tát có thể dùng lòng từ bi làm cho chúng sanh xa lìa cội
gốc khổ được an vui rốt ráo, nên nói: Y theo từ bi môn nhổ tất cả khổ cho
chúng sanh, xa lìa tâm không An-Lạc của chúng sanh. Người đời lập công,
lập ngộn, lập đức đều không lìa tâm ngã chấp, nên khi thành công chỉ muốn
một mình được nhận lợi ích. Bồ Tát không phải thế, Bồ Tát nguyện sanh về
thế giới An-Lạc là vì thương xót tất cả chúng sanh, không phải đem thế giới
Cực Lạc để cung cấp an vui cho chính mình. Nên Bồ Tát y theo trí huệ làm
căn bản để khởi ra phương tiện làm hạnh hồi hướng lợi tha, thương tưởng tất
cả chúng sanh xa lìa lòng cung cấp cho riêng mình. Có ba pháp trái với Bồ
Ðề làm Ðại bồ đề không thành, xa lìa ba pháp trái bồ đề này thì Ðại Thừa bồ
đề tâm và Ðại Thừa nghĩa môn thành tựu.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT XA LÌA, ÐƯỢC BA THỨ TRÁI VỚI BỒ ÐỀ
MÔN, ÐƯỢC ÐẦY ÐỦ BA THỨ THUẬN BỒ ÐỀ MÔN. BA THỨ ẤY
THẾ NÀO: 1) VÔ NHIỄM THANH TỊNH TÂM: KHÔNG VÌ TỰ
THÂN MÀ CHẠY TÌM CÁC THỨ VUI RIÊNG. 2) AN THANH TỊNH
TÂM: DÙNG HẾT NĂNG LỰC NHỔ TẤT CẢ GỐC KHỔ CHO
CHÚNG SANH. 3) LẠC THANH TỊNH TÂM: DÙNG NĂNG LỰC
MÌNH LÀM CHO CHÚNG SANH ÐƯỢC QUẢ ÐẠI BỒ ÐỀ. VÌ THẾ,
NÊN BỒ TÁT ÐƯA CHÚNG SANH VỀ CÕI AN LẠC CỦA PHẬT A
DI ÐÀ. ÐÓ LÀ BA THỨ TUỲ THUẬN ÐẦY ÐỦ BỒ ÐỀ MÔN CẦN
NÊN BIẾT.
Phàm làm việc gì không vì tự lợi thì có thể không nhiễm. Ở đời lập công
nghiệp hoặc mọi việc đều vì mình, vì muốn nhận được cho riêng mình nên
tâm bị nhiễm. Còn Bồ Tát không vì tự lợi cho bản thân, nên không có tâm
nhiễm. Không vì tự thân nên thành tựu vô nhiễm thanh tịnh. Không phải tự
thân nên thành tựu vô nhiễm thanh tịnh. Không phải tự thân thanh tịnh mà
có thể nhổ tất cả gốc khổ cho chúng sanh, làm cho chúng sanh đều được
thanh tịnh. Ðó là thành tựu an thanh tịnh tâm. Không phải chỉ làm cho chúng
sanh lìa khổ mà còn làm cho họ chứng được pháp lạc Vô thượng bồ đề. Ðó
là Lạc thanh tịnh Tâm. Nếu đem ba thanh tịnh tâm dùng ba đức đối nhau thì
vô nhiễm thanh tịnh là đoạn đức; an thanh tịnh là an đức, lạc thanh tịnh là trí
đức. Ba pháp thanh tịnh cùng với tâm bồ đề tương ưng đầy đủ nên gọi là
pháp môn tùy thuận bồ đề được đầy đủ.
LUẬN VĂN: NÓI ÐẾN BA MÔN TRÍ TUỆ, TỪ BI, PHƯƠNG
TIỆN BÁT NHÃ, BÁT NHÃ CŨNG NHIẾP THỦ PHƯƠNG TIỆN
CẦN NÊN BIẾT.
Ở trước ba môn nhiếp đủ phương tiện. Bát nhã có ba: 1) Văn tự Bát nhã:
2) Quán chiếu Bát nhã; 3) Thật tướng Bát nhã. Phương tiện là tất cả hạnh tự
lợi và lợi tha. Bát nhã là tiếng Phạn dịch là trí huệ. Phương tiện là tiếng
Trung Hoa, Phạn ngữ là Au-Hoa. Tu tất cả hạnh phương tiện đều làm cho
chứng nhập thật tướng, nên gọi phương tiện nhiếp thủ Bát nhã. Y theo Bát
nhã tu tất cả hạnh, hiểu biết tất cả pháp không, không trụ trước, đó là Bát
nhã nhiếp thủ phương tiện. Bát nhã nhiếp thủ phương tiện và phương tiện
cũng nhiếp thủ Bát nhã. Phương tiện nếu rời Bát nhã là khởi ngã chấp, Bát
nhã nếu lìa phương tiện là chấp không kiến. Kinh Duy Ma nói: "Có trí huện
thì phương tiện cởi mở, không trí huệ bị phương tiện trói buộc". Thực hành
trí huệ mà có phương tiện thì cái bất không cũng thành chơn không; thực
hành phương tiện mà có trí huệ thì cái phi hữu cũng thành diệu hữu. Ở chỗ
Mật Giáo của Mật Tông hiện bày kim cang Phật mẫu cũng tức là nghĩa
chính yếu của Bát nhã và phương tiện. Như con chim bay giữa hư không,
chim đủ phương tiện, hư không đủ Bát nhã. Chim không có hư không thể
bay, hư không có chim bay qua sẽ không hiện bày được cái vô ngại dụng của
hư không. Phương tiện không có Bát nhã không đi, Bát nhã không có
phương tiện sẽ không có công dụng.
LUẬN VĂN: NÓI ÐẾN VÔ NHIỄM THANH TịNH TÂM, AN
THANH TỊNH TÂM, LẠC THANH TỊNH TÂM. BA THỨ TÂM NÀY
TOÁM LƯỢC VỀ MỘT CHỖ LIỀN THÀNH TỰU DIỆU LÁC
THẮNG CHƠN NHƯ CẦN NÊN BIẾT.
Diệu Lạc Thắng chơn như trong kinh Niết Bàn gọi là đại Niết Bàn. Ðại
Niết Bàn này thành tựu ba đức: Pháp thân, Bát nhã, giải thoát. Ba đức này
không phải một, không rời nhau, không thiên, không lệch. Ðó chính là Diệu
Lạc Thắng Tâm. Như thế, ba tâm thành tựu được diệu lạc thắng tâm. Như
thế, ba tâm thành tựu được diệu lạc thắng tâm tức là thành tựu đại Niết Bàn
tâm, là Vô thượng bồ đề tâm và cũng là diệu tâm vô tướng thật tướng của
Niết Bàn Phật quả. Chư tổ thiền tông lấy tâm truyền tâm, chính là truyền tâm
này chính là hiển rõ trong Thiền có Tịnh, trong Tịnh có Thiền, chính Thiền
mà Tịnh, chính Tịnh mà Thiền.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT NHƯ THẾ DÙNG TÂM TRÍ TUỆ LÀM
PHƯƠNG TIỆN, TÂM VÔ CHƯỚNG, TÂM THẮNG CHƠN CÓ THỂ
SANH VỀ QUỐC ÐỘ PHẬT THANH TịNH CẦN NÊN BIẾT.
Ở trước tuy nói ba thứ: Trí tuệ, từ bi, phương tiện nhưng tất cả đều nhiếp
về tâm trí tuệ và phương tiện. Tâm Viễn ly nhiếp về vô chướng tâm. Ba tâm
vô nhiễm thanh tịnh nhiếp về Thắng Chơn Tâm. Bồ Tát do các tâm như thế
mà có thể sanh về quốc độ thanh tịnh.
LUẬN VĂN: ÐÓ GỌI LÀ BẬC ÐẠI BỒ TÁT TÙY THUẬN THEO
NĂM THỨ PHÁP MÔN MÀ CHỖ LÀM ÐƯỢC TÙY Ý TỰ TẠI
THÀNH TỰU, NHƯ ÐÃ NÓI THÂN NGHIỆP, Ý NGHIỆP, KHẨU
NGHIỆP, TRÍ NGHIỆP, PHƯƠNG TIỆN TRÍ NGHIỆP ÐỀU TÙY
THUẬN THEO PHÁP MÔN. LẠI CÓ NĂM MÔN LẦN LƯỢT
THÀNH TỰU NĂM THỨ CÔNG ÐỨC CẦN NÊN BIẾT.
Trên quán thành ba thứ Niết Bàn thành đại Bồ Tát nên gọi là Ma ha tát.
Tự tại nghĩa là tự do. Từ năm món trên lễ bái thuộc thân nghiệp, tán thán
thuộc khẩu nghiệp, tác nguyện thuộc ý nghiệp, quán sát thuộc trí nghiệp;
trong quán sát tuy có sự tương ưng của tâm và tâm sở mà chính sự hay quán
sát thuộc về trí tuệ. Hồi hướng thuộc về phương tiện trí nghiệp, vì không
trước không tưởng mới mới có thể hồi hướng, nếu không có trí tuệ làm sao
không chấp trước. Phổ thông mà nói nghiệp tham chướng nặng đều chỉ về
nghiệp bất thiện, nhưng giảng ở phương diện sự nghiệp và hành nghiệp thì
nghiệp có thiện nghiệp và bất thiện nghiệp, có hữu lậu có vô lậu không phải
thuộc hoàn toàn về bất thiện, như tu pháp môn tịnh độ là tu tịnh nghiệp tức
thuộc về thiện nghiệp.
LUẬN VĂN: THẾ NÀO LÀ NĂM MÔN? 1) CẬN MÔN; 2) ÐẠI
HỘI MÔN; 3) TRẠCH MÔN; 4) ỐC MÔN; 5) VIÊN LÂM DU HÍ
MÔN. TRONG NĂM MÔN NÀY BỐN MÔN ÐẦU THÀNH TỰU TÁM
THỨ CÔNG ÐỨC, MÔN THỨ NĂM THÀNH TỰU XUẤT CÔNG
ÐỨC.
Do năm môn ở trước lại tạm thành năm món công đức này. Lễ bái thuộc
về thân nghiệp, do lễ bái một lần liền cùng Cực Lạc gần thêm một bước, nên
do lễ bái mà thành tựu Cận Môn tức là thêm gần cõi Cực Lạc. Ðem tâm
cung kính chí thành ở bên trong biểu lộ trong lời nói gọi là tán thán. Vì xưng
danh tán đức ắt có âm thanh, do âm thanh này làm cho người nghe được lợi
nên thành Ðại Hội Môn. Lại nữa khi chúng ta tụng kinh A Di Ðà là có các
chúng trời người đến nghe pháp, đồng đến hộ trì thành đại pháp hội, nên do
tán thán mà thành Ðại Hội Chúng Môn. Phát nguyện tu CHỈ có thể làm cho
tâm niệm hoàn toàn đổi hướng với Cực Lạc thế giới, chuyên niệm như thế
chắc được vãng sanh vào nhà Cực Lạc nên do pháp nguyện mà thành tựu
Trạch Môn. Quán sát tức là định sanh tuệ, do dùng trí tuệ quán sát công đức
y chánh trang nghiêm cõi Cực Lạc như người vào nhà, các việc trong nhà sẽ
hiện trước mặt, thấy xét rõ ràng, nên do quán sát mà thành tựu Ốc Môn. Trở
về cõi khổ ta bà có nghĩa hồi hướng, như đã vào nhà lại vào vườn rừng làm
các việc vui chơi, nên hồi hướng môn gọi là thành tựu Viên Lâm Du Hí
Môn. Bốn thứ trước thành tựu là tám công đức thế giới Cực Lạc, thứ chót là
công đức Xuất Thế giới Cực Lạc.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ NHẤT LÀ LỄ BÁI PHẬT A DI ÐÀ
ÐƯỢC SANH VỀ NƯỚC KIA, NGƯỜI ÐƯỢC SANH VỀ THẾ GIỚI
AN LẠC LÀ ÐƯỢC VÀO MÔN THỨ NHẤT.
Ðem thâm mạng lễ bái Phật và Bồ Tát trên hội liên trì là nhơn, liền được
vãng sanh là quả. Khi lễ bái quán sát công đức y báo, nguyện đem thân
mạng hướng về Cực Lạc, nghĩ thân mình khi lễ bái dưới đất liền được vãng
sanh Cực Lạc, nên nói một lòng quy mạng thế giới Cực Lạc là chính nghĩa
này. Ý nghĩa vãng sanh nếu từ ý thức mà giảng trong định cũng được vãng
sanh. Như Huệ Viễn Ðại Sư trong định ba lần thấy tịnh độ Cực Lạc, không
cần phải bỏ báo thân này mới được vãng sanh. Nếu từ báo thể của A Lại Da
mà nói, A Lại Da trùm khắp mười phương, nhưng chúng sanh bị nghiệp lực
làm chướng ngại nên không thể thành tựu báo thân Cực Lạc; nếu người tu
tịnh nghiệp tức xa lìa được thân báo phiền não, để nhận thanh tịnh báo thân
Cực Lạc. Vãng sanh do báo thân nên do việc làm lễ bái của thân nghiệp mà
được sanh quả Cực Lạc.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ HAI LÀ TÁN THÁN PHẬT A DI
ÐÀ. TÙY THUẬN THEO NGHĨA, KHEN DANH Như Lai, Y THEO
TƯỚNG ÁNH SÁNG Như Lai NÊN ÐƯỢC VÀO ÐẠI HỘI CHÚNG
SỐ, NÊN GỌI VÀO ÐƯỢC MÔN THỨ HAI.
Trong việc tán thán rất giản tiện là xưng danh hiệu của Như Lai. Danh
hiệu của Như Lai gồm có nhiều thứ công đức. Khen ngợi tên của Như Lai là
khen ngợi công đức chơn thực của Như Lai. Nếu tụng kinh A Di Ðà, kinh
Vô Lượng Thọ cũng có nghĩa khen ngợi xưng tán, nhưng không bằng xưng
danh giản tiện hơn. A Di Ðà Phật có nghĩa là Vô Lượng Quang. Xưng hiệu
A Di Ðà Phật là xưng dương ánh sáng vô lượng của Phật.
Từ ánh sáng của Phật có thể hiện rõ y chánh, chủ bạn, pháp hội, đại
chúng, vô lượng pháp chủng của mình và người, nên nhớ xưng dương ánh
sáng vô lượng của Phật mà được vào Ðại Hội Chúng Số của thế giới Cực
Lạc. Có người sanh về Cực Lạc mà không được vào hội chúng là do nghi
tâm niệm Phật, tuy sanh về Cực Lạc, song phải chịu 500 đại kiếp không có
thể vào đại hội chúng nghe giảng Phật pháp. Y theo tướng ánh sáng của Như
Lai mà tu hành là y theo tướng ánh sáng của Như Lai mà tu hành quán
tưởng, có thể làm cho trang nghiêm công đức thế giới Cực Lạc ở tự tâm hiện
ra lòng tin chắc an vui.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ BA LÀ MỘT LÒNG CHUYÊN
NIỆM PHẬT NGUYỆN SANH VỀ NƯỚC KIA, TU HÀNH QUÁN
TỊCH TỊNH TAM MUỘI, ÐƯỢC VÀO THẾ GIỚI LIÊN HOA TẠNG
GỌI LÀ MÔN THỨ BA.
Bình thường lòng chúng ta luôn luôn tánh loạn phù phiếm không thể
chuyên nhất. Thấy nghe ngửi biết đối với sắc của năm trần luân chuyển
không ngừng. Nếu chuyên quy hướng thế giới Cực Lạc, đem tất cả tâm tán
loạn gội rửa hết sạch, đó gọi là nhất tâm. Người chuyên niệm không luận
tâm định tâm tán đều từ trong sát na sanh diệt, chẳng qua là ở trong tâm
định, tuy có sanh diệt vì duyên một cảnh tiếp nối mà không biết nó là sanh
diệt. Tâm tán loạn trong sát na sanh diệt cũng có lúc gián đoạn. Như trong
sát na thứ nhất nhận thức duyên theo sắc cảnh, sát na thứ hai nhĩ thức duyên
theo thinh cảnh làm cho nhận thức gián đoạn. Nếu được nhất tâm thì mọi sát
na không gián đoạn gọi là chuyên niệm. Một lòng chuyên niệm gọi là hành
CHỈ, do Chỉ làm ngưng dứt tán loạn tạp tâm được liền tịch mịch. Nên Cổ
Ðức nói: Biết dừng rồi sau mới định, Ðịnh rồi sau mới tịnh. Tam muội dịch
là Chánh Ðịnh. Hai món lễ bái tán thán trước là Tán Tâm Tu. Tác Nguyện là
Ðịnh Tâm Tu nên gọi là Hành Tam Muội. Nhờ Hành Tam Muội mà vào
được thế giới Liên Hoa Tạng. Liên Hoa Tạng thế giới là thế giới An-Lạc của
Phật A Di Ðà. Thế giới Cực Lạc là cảnh giới Tam Muội. Y theo việc công
đức trang nghiêm y chánh của thế giới Cực Lạc, một lòng chuyên niệm
không xen hở sẽ thành hạnh tam muội thì cảnh tam muội của Cực Lạc hiền
tiền nên nói có thể vào thế giới Liên Hoa Tạng tức là vào được Thật Báo
Trang Nghiêm Ðộ của Phật A Di Ðà (cõi thọ dụng). Thường người tu tịnh
độ chỉ có lễ bái và tán thán, nếu tu phát nguyện môn này liền được vào thế
giới Hoa Tạng. Nếu y chín phẩm vãng sanh mà luận là thượng phẩm thượng
sanh. Như Tổ Long Thọ nói: Bồ Tát Sơ Ðịa vãng sanh tịnh độ.
LUẬN VĂN: VÀO MÔN THỨ TƯ LÀ CHUYÊN NIỆM QUÁN
SÁT TRANG NGHIÊM VI DIỆU CÕI KIA NÊN TU QUÁN, ÐƯỢC
ÐẾN CÕI ẤY THỌ DỤNG CÁC THU PHÁP VỊ AN VUI GỌI LÀ
VÀO MÔN THỨ TƯ.
Quán là căn cứ vào Chỉ mà khởi, lễ bái tán thán ở trước là tư lương của
chỉ, nếu thêm tinh tấn thì chính là Chỉ. Ở trong Chỉ trước phải tu lễ bái tán
thán, xa lìa nạn ma thì tu Chỉ dễ thành. Quán cần phải ở sau Chỉ mới thành
tựu nên nói: Vì chuyên niệm quán sát, cõi kia chính là cõi công đức trang
nghiêm thành tựu của Phật. Pháp vị lạc là Giác pháp của Vô thượng Bồ Ðề.
Người tu tịnh độ chỉ tu lễ bái môn tuy được sanh về tịnh độ biến hóa
nhưng không được nghe Phật pháp. Y theo lễ bái tán thán mà tu, sanh vào
biến hóa tịnh độ, cũng có thể vào trong đại hội thấy Phật nghe pháp. Tu theo
ba môn lễ bái, tán thán, phát nguyện được vào thật báo trang nghiêm độ, cõi
thọ dụng của Phật A Di Ðà. Tu theo ba môn lễ bái, tán thán, phát nguyện,
quán sát có thể ở trong tịnh độ thọ dụng mà hiểu biết rõ ràng được thọ dụng
chơn thực. Như người trong nhà không quán sát hiểu biết kỹ các vật, không
thể thọ dụng được hết những vật dụng trong nhà, nếu quán sát kỹ được các
vật thì tùy ý thọ dụng. Bồ Tát vãng sanh tịnh độ lại cũng như thế.
Người tu tác nguyện ở trên chứng vào Sơ địa, nhờ Quán sát mà từ Sơ địa
lần lượt tiến lên cho đến khi viên mãn quả Vô thượng bồ đề. Thọ dụng các
thứ pháp vị An-Lạc.
LUẬN VĂN: MÔN THỨ NĂM LÀ DÙNG LÒNG ÐẠI TỪ BI
QUÁN SÁT TẤT CẢ KHỔ NÃO CỦA CHÚNG SANH, BẰNG LÒNG
HÓA THÂN TRỞ VÀO VƯỜN SANH TỬ, RỪNG PHIỀN NÃO, HIỂN
LỘ THẦN THÔNG, ÐẾN CHỖ GIÁO HÓA, DÙNG SỨC BỔN
NGUYỆN RA TAY NÊN GỌI RA MÔN THỨ NĂM.
Ðại thừa Bồ Tát phải có tâm khắp độ tất cả chúng sanh, ở đâu có nhu
yếu cần là có Bồ Tát đến giúp đỡ. Kẻ phàm phu tâm cầu vui, tu các pháp
nhơn thiên như ngũ giới, thập thiện liền được thọ dụng an vui của trời người.
Hàng nhị thừa lòng họ chỉ biết tự lợi, tu theo pháp tứ đế, thập nhị nhơn
duyên chỉ mong tự lợi không cần phát tâm đại bồ đề. Pháp môn tịnh độ là
chủng tánh giới của Ðại Thừa. Vì thế người tu tịnh độ phải phát tâm Ðại
Thừa Bồ Tát. Ðã có tâm Ðại Thừa, Bồ Tát sẵn sàng vào tất cả thế giới khổ
não, phổ độ chúng sanh. Nên Bồ Tát trước tu bốn môn sau đó hồi hướng.
Hồi hướng này là hạnh độ sanh. Bồ Tát phải đến địa vị thượng phẩm thượng
sanh mới có thể làm nổi. Vì Bồ Tát địa thượng mới có đủ năng lực trở về thế
giới khổ, phổ độ chúng sanh. Còn Bồ Tát không ở địa vị thượng phẩm
thượng sanh cần phải ở lại thế giới Cực Lạc, nghe Phật pháp, tự tu công đức
đầy đủ mới phát nguyện hồi hướng.
Tâm Từ Bi là vì việc chung, vì mỗi người mà làm, việc làm không có
hạn lượng, không có ngằn mé, phục vụ công chúng đó là lòng từ bi. Ðem
lòng đại từ bi này mà phát nguyện vãng sanh, đã được vãng sanh rồi tu hạnh
từ bi, như thầy thuốc đi học thuốc vì muốn trị bịnh chho người, nếu không
có người bịnh để trị thì việc học thuốc của thầy cũng trở thành vô ích. Bồ
Tát cũng thế, nếu không độ chúng sanh thì diệu dụng của Bồ Tát cũng trở
thành vô ích, dù có diệu dụng cũng chỉ bằng không. Vì thế, Báo thân của Bồ
Tát tuy thường bất động ở thế giới Liên Hoa Tạng, nhưng vẫn dùng ứng hóa
thân vào vườn sanh tử, rừng phiền não, làm cho chúng sanh mau đoạn phiền
não khỏi khổ sanh tử, đồng sanh Cực Lạc, đồng chứng Bồ Ðề. Các Ngài
dùng thần thông dạo chơi, đến chỗ giáo hóa, hiện tướng thành đạo, hiện
tướng phàm phu, Nhị thừa, Bồ Tát. Tóm lại tất cả chỗ phiền não, sanh tử đều
là nơi giáo hóa của Bồ Tát.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT VÀO BỐN MÔN, HẠNH TỰ LỢI THÀNH
TỰU, BỒ TÁT RA MÔN THỨ NĂM LÀM LỢI ÍCH CHO NGƯỜI
KHÁC, HẠNH HỒI HƯỚNG THÀNH TỰU CẦN NÊN BIẾT.
Ðây là nói bốn môn đầu thành tựu hạnh tự lợi, một môn cuối thành tựu
hạnh lợi tha. Nhưng Bồ Tát tự lợi tức là lợi tha, vì có lợi tha nên thành tựu tự
lợi, không thể riêng làm tự lợi mà thành tựu tự lợi được.
LUẬN VĂN: BỒ TÁT TU HÀNH NĂM MÔN NHƯ THẾ CÓ ÐỦ
HẠNH TỰ LỢI VÀ LỢI THA, MAU ÐƯỢC THÀNH TỰU QUẢ A
NẬU ÐA LA TAM MIỆU TAM BỒ ÐỀ.
A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ đề dịch là Vô thượng Chánh đẳng
chánh giác. Tu đủ năm môn thì tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, nên
chứng viên mãn Bồ Ðề. Nói mau chứng là đứng về cận môn mà luận: So
sánh với người lăn lộn trong sanh tử thì đã mau chóng thoát khỏi. Tu đến
môn thứ tư, thứ năm không chỉ mau được mà phải nói thoát sanh tử ngay. Vì
thế, người Tu Tịnh Ðộ đối với năm môn này phải cần tu tập, chắc chắn mau
thành Phật quả.
Mùa An-Cư Ðinh-Mão (1987)
---o0o---
Hết

tịnh độ tập yếu

TỊNH ĐỘ TẬP YẾU
Thích nữ Minh Tâm cung soạn
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - VĂN NGHỆ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2016
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU
Tổng hợp tinh hoa lời dạy của
Mười ba vị tổ tông tịnh độ và
Các bậc tôn đức
Kính dâng lên Ân Sư của con:
Ni Trưởng thượng Tịnh hạ Nguyện
Viện Chủ chùa Phước Hải
165/17 đường 3/2 - Quận 10
Sài Gòn, Việt Nam
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 7
Lời ngỏ
Có thể nói, năm 2007 là năm đầy ấn tượng và thắng
duyên đến với chúng tôi khi bắt đầu đào luyện sâu
thiết hơn về pháp môn Tịnh Độ qua những pho
sách quý giá của Liên Tông chư Tổ mà đạo hữu
Như Hòa chuyển ngữ và dịch như: Pháp Sư Ấn
Quang Gia Ngôn Lục, Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao,
Ấn Quang Pháp Sư Văn Sao Tam Biên - Tục Biên,
Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải, Di Đà Sớ Sao,
Tịnh Độ Cảnh Ngữ, Ngẫu Ích Đại Sư Pháp Ngữ...
hay các tuyệt tác của chư vị tiền bối thiền sư: Tịnh
Độ Hoặc Vấn của Đại Sư Thiên Như, Tịnh Độ Thập
Nghi Luận của Đại Sư Trí Giả, Hám Sơn Mộng Du
Tập của Đại Sư Hám Sơn, Ngữ Lục của Đại Lão
Hòa Thượng Hư Vân, Cẩm Nang Tu Đạo của Đại
Lão Hòa Thượng Quảng Khâm, Tuyết Lư Lão Nhân
Tuyển Tập của ngài Lý Bỉnh Nam, Đường Về Cực
Lạc của Hòa Thượng Thích Trí Tịnh, Quê Hương
Cực Lạc của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm, Tham
Thiền Phổ Thuyết của Thiền Sư Lai Quả, Niệm
Phật Pháp Yếu của cư sĩ Mao Dịch Viên, v.v. Nhờ
THÍCH NỮ MINH TÂM 8
vào những lời truyền dạy thống thiết của chư Tổ,
quyết tâm chuyên tu Tịnh Độ và niềm tin cầu sinh
về Tây phương Cực Lạc của tôi càng lúc càng kiên
định hơn.
Rồi kể từ những tháng năm sau đó đến nay, tôi
thường về chùa Đức Viên (San Jose, California)
tham dự các khóa tu định kỳ, nương theo học hỏi
Ni chúng và Phật tử ngõ hầu tiến tu tịnh nghiệp
của chính mình; tuy nhiên cũng không thể không
nhắc đến sự khuyến khích, giảng giải, góp ý, ủng
hộ của đạo hữu Như Hòa từ bao năm qua đối với
chúng tôi.
Và cũng qua sự khích lệ của đạo hữu Như Hòa, tôi
đã can đảm (nhắm mắt cố quên đi sự thấp kém thô
thiển của mình) quyết định bắt tay vào việc cung
soạn tinh hoa mật ý của chư Tổ Tịnh Độ và những
lời khai thị vô giá của chư vị Tôn Đức Thiền Sư,
các bậc trưởng lão cư sĩ, trước là phụng kính dâng
lên Thập Phương Tam Bảo, Đức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, Đức Từ Phụ A Di Đà Thế Tôn, chư
vị Đại Bồ Tát, Tôn Sư tiền bối chứng minh tấc lòng
thành khẩn tri ân báo ân của kẻ ngu muội này, sau
là tự thúc liễm thân tâm và sách tiến những ai đồng
hàng với tôi mau hạ quyết tâm thoát ly Ta-bà, cầu
sinh Liên Hoa Thượng Phẩm.
Chắc chắn đã có rất nhiều trước tác, dịch phẩm,
biên soạn giá trị, nổi tiếng về pháp môn Tịnh Độ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 9
của chư Tôn Đức Tăng Ni cũng như của các bậc
văn nhân, thi hào, triết gia trong và ngoài nước...
nhưng như nước trăm sông đổ dồn về biển cả, nước
biển có mùi vị của biển, nước sông có chất liệu của
sông, nước hồ có đặc tính của hồ... thì dòng nước
trong cái lạch nhỏ bé vô danh này có lẽ cũng giúp
ích phần nào cho vài chú cá lòng tong lạc bầy, ngo
ngoe trong lạch suối.
Hy vọng quyển Tịnh Độ Tập Yếu nhỏ bé này của
chúng tôi sẽ được sự ủng hộ, chào đón của quý độc
giả mười phương gọi là bày tỏ chân tình niệm ân
tri ngộ và ân của đàn na tín thí.
Ngưỡng nguyện Tam Bảo chứng minh và nếu có
chút ít công đức nào, xin thành kính hồi hướng
trang nghiêm Phật tịnh độ và tất cả pháp giới
chúng sinh trong bốn loại sáu đường, oán gia trái
chủ, từ vô lượng kiếp cho đến ngày nay, đều được
vãng sinh Cực Lạc quốc.
Xin nguyện các bậc Tôn Sư, Ân Sư, tổ tiên, ông bà,
cha mẹ, thân bằng, quyến thuộc nhiều đời nhiều
kiếp quá khứ và đời này của con đồng lên hoa sen
chín phẩm.
Trân trọng và chân thành tri ân Ni chúng và Phật
tử chùa Đức Viên (San Jose, CA) đã ủng hộ và giúp
đỡ để tập sách này được ấn tống và phát hành đến
quý độc giả gần xa cũng như các vị liên hữu.
THÍCH NỮ MINH TÂM 10
Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại
Bi A Di Đà Phật.
Thích nữ Minh Tâm chắp tay cẩn bút
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 11
Sơ lược tiểu sử mười ba vị Tổ tông Tịnh độ
Trích soạn theo Ngôn Hạnh Cao Đẹp của 13 vị Tổ
Tịnh Độ của Lương Vĩnh Khang và Mấy Ðiệu Sen
Thanh của Hòa Thượng Thích Thiền Tâm.
1. Đại sư Huệ Viễn - Tổ Liên Tông thứ nhất - đời Tấn
Đại Sư họ Giả, người Nhạn Môn, thuở nhỏ đã bát
lãm Lục Kinh và học thuyết Lão, Trang. Năm mười
một tuổi, nghe pháp sư Đạo An giảng kinh Bát
THÍCH NỮ MINH TÂM 12
Nhã, Sư liễu ngộ mà xuất gia, lấy việc hoằng pháp
lợi sinh làm nghĩa vụ trọng yếu.
Sau khi vào Lô Sơn, thấy phong cảnh đẹp đẽ nhàn
tịch, Sư bèn kết cỏ tranh làm nhà, giảng kinh Niết
Bàn. Kính phục tài đức của Sư, quan Thứ sử Hoàn
Y tâu lên vua, xin lập một ngôi Phật tự. Lòng chí
thành của ông cảm đến long thiên, giông tố nổi
lên, chuyển cây đến dựng chùa Đông Lâm, đào ao
trồng sen, nên gọi là Liên xã. Sư tập hợp chúng,
sáu thời niệm Phật cầu sanh Tây phương. Đây là sự
khởi đầu hình thành Liên tông ở Trung Quốc.
Vào cuối đời của Viễn Công, những người nhập
Liên xã tu Tịnh nghiệp được vãng sanh rất nhiều.
Từ đó, chùa Đông Lâm trở thành trung tâm Phật
giáo phương Nam. Năm thứ mười hai niên hiệu
Nghĩa Hi, ngài Viễn Công thấy Phật xuất hiện, liền
đoan tọa nhập diệt, thọ tám mươi ba tuổi.
Sư nói: “Thế nào là niệm Phật tam-muội? Niệm
Phật tam-muội là ý chuyên nhất, tưởng vắng lặng.
Ý chuyên nhất thì tâm không tán loạn, tưởng vắng
lặng thì thần sáng, khí nhẹ. Khí nhẹ thì thân tâm
khinh an, thần sáng thì không gì không thấu triệt.
Đây chính là diệu dụng tự nhiên của định-tuệ hợp
nhất.”
Trong Cao Tăng truyện nói: “Ngài Viễn Công thần
sắc nghiêm dung, tiếng nói êm dịu, khuôn mặt
vuông vắn, cương nghị, ai trông thấy cũng kính sợ.”
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 13
Tuy xiển dương Tịnh Ðộ, Ðại Sư vẫn lưu tâm đến
các pháp môn khác, viết nhiều bài tựa về kinh luận,
và hoàn thành nhiều tác phẩm như sau:
1. Ðại Trí Luận Yếu Lược (20 quyển).
2. Pháp Tánh Luận.
3. Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận.
4. Ðại Thừa Nghĩa Chương (3 quyển).
5. Thích Tam Bảo Luận.
6. Minh Báo Ứng Luận.
7. Sa Môn Ðản Phục Luận.
8. Biện Tâm Thức Luận.
9. Phật Ảnh Tán.
10. Du Lô Sơn Thi.
11. Lô Sơn Lược Ký.
12. Du Sơn Ký.
Một bậc tuyệt luân cái thế như vậy, ai cũng kính
phục, chẳng phải là người phàm thường, chắc chắn
cuộc đời của Ngài rất đặc biệt, thật xứng đáng để
chúng ta noi theo.
THÍCH NỮ MINH TÂM 14
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 15
2. Đại sư Thiện Đạo - Tổ Liên Tông thứ hai -
đời Đường
Đại Sư người Lâm Truy, giữa niên hiệu Trinh Quán
đời Đường, Sư đến chùa Huyền Trung ở Tây Hà, yết
kiến ngài Đạo Xước. Sau khi đến Đạo tràng Tịnh độ
cửu phẩm, nghe giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ,
Sư tinh cần khổ hạnh, phát tâm niệm Phật. Sau
đó đến kinh đô, Sư khuyến khích, sách tiến bốn
chúng, thuyết pháp ở chùa Quang Minh, chép hơn
mười vạn quyển kinh A Di Đà, họa hơn ba trăm
bức tranh Tây phương Thánh cảnh, cảm hóa vô số
Tăng tục, người được tam-muội vãng sanh Tịnh độ
rất nhiều. Mỗi một tiếng niệm Phật của Sư đều có
một luồng hào quang từ miệng phóng ra, nên thế
gian tôn xưng ngài là đại sư Quang Minh.
THÍCH NỮ MINH TÂM 16
Trong Lâm thụy nhập quán lễ tưởng phát nguyện
văn có ghi lời phát nguyện của Sư như sau: “Đệ tử
chúng con là kẻ phàm phu sanh tử, tội chướng sâu
dầy, luân hồi sáu nẻo, khổ không thể nói, nay gặp bậc
tri thức, được nghe danh hiệu và bổn nguyện của
đức Phật A Di Đà, nhất tâm xưng niệm, cầu nguyện
vãng sanh, nguyện Phật từ bi tiếp độ, thương xót cứu
vớt. Đệ tử chúng con chẳng biết tướng hảo quang
minh của thân Phật, xin Ngài thị hiện cho chúng
con được thấy, và xin được thấy đức Quán Âm, Thế
Chí, các chúng Bồ Tát và tướng vi diệu quang minh
trang nghiêm thanh tịnh trong thế giới này.”
Theo Long thư tịnh độ nói: “Mỗi khi vào Phật
đường, Sư chắp tay quỳ thẳng, nhất tâm niệm
Phật, chưa kiệt sức thì không nghỉ, tuy trời rét lạnh
nhưng áo Sư vẫn ướt đẫm mồ hôi. Sư luôn hết lòng
dạy pháp môn Tịnh độ cho đại chúng, không lúc
nào mà không làm lợi ích cho chúng sanh. Hơn ba
mươi năm, Sư lưng không dính chiếu, hành đạo
Bát-chu, lễ Phật mười phương, cho đây là nhiệm vụ
của mình. Sư nghiêm trì tịnh giới, một lỗi nhỏ cũng
không để phạm, mắt chưa từng liếc nhìn người nữ,
dứt tuyệt danh lợi, tránh xa các nơi đàm luận hý
tiếu. Được cúng dường y phục, vật thực hảo hạng,
Sư đều đem bố thí, cúng lại cho đại chúng, còn
mình thì ăn đồ thô dở, giới hạnh của Sư ai cũng
ngưỡng mộ.”
Một hôm, Sư lên cây liễu, nhìn về phía Tây, thầm
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 17
nguyện “Xin đức Phật tiếp dẫn con vãng sanh Tịnh
độ”, rồi thả mình mà tịch, thọ sáu mươi chín tuổi.
Trước tác của Đại Sư để lại có Quán kinh sớ, Vãng
sanh lễ tán, Pháp ngữ, v.v...
THÍCH NỮ MINH TÂM 18
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 19
3. Đại sư Thừa Viễn - Tổ Liên Tông thứ ba -
đời Đường
Đại Sư người Miên Trúc, tỉnh Tứ Xuyên. Năm hai
mươi bốn tuổi, Sư đến núi Ngọc Tuyền ở Kinh
Châu, xuống tóc học đạo với ngài Huệ Chơn.
Vâng lời thầy dạy, Sư đến Hành Sơn truyền giáo,
số người được Sư giáo hóa lên đến cả vạn. Sư chỉ
dùng chuyên nhất pháp môn niệm Phật để khai
đạo đồ chúng. Hôm ấy, nghe ngài Tuệ Nhựt đến
Quảng Châu giáo hóa, Sư liền đến cầu giáo. Ngài
Tuệ Nhựt không dạy gì khác, chỉ khuyên Sư nên
y theo kinh Vô Lượng Thọ mà tu niệm Phật tam-
muội để cứu độ chúng sinh. Từ đấy, Sư dứt hết các
duyên, chuyên tu Tịnh độ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 20
Vào năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, Sư trở về núi
Hành sơn, lập tinh xá lấy hiệu là Di Đà Đài, chỉ an
trí kinh tượng. Sư ăn mặc thô sơ, tinh cần tu khổ
hạnh, thường thấy Thánh cảnh, lấy việc chuyên trì
danh hiệu làm hạnh chính yếu; lấy sự bố thí, trì
giới làm hạnh phụ trợ.
Trong Tịnh Nghiệp Vựng Biên nói: “Sư khắc quyển
sách pháp môn chuyên niệm Phật vào vách khe
suối, mà chẳng cần một sự giúp đỡ chi viện nào,
không cầu mà vẫn đủ, không xin mà vẫn thừa. Tất
cả các vật sở hữu của Sư, Sư đều đem bố thí cho
những người nghèo thiếu, bệnh tật; còn mình thì
ở dưới hang đá, ăn bùn đất cây cỏ, nên thân hình
gầy yếu, má hóp xám xanh tợ như người tiều phu
nghèo đốn củi. Thanh danh Sư vang lừng khắp nơi,
Thiên tử có ý thỉnh cầu Sư, song không thể được.
Có thể nói, Sư là một bậc mô phạm nghiêm minh.”
Bậc cổ đức hành khổ hạnh, thật xứng đáng làm
khuôn mẫu cho đời. Vào năm thứ mười tám niên
hiệu Trinh Nguyên, Sư viên tịch, thọ chín mươi
mốt tuổi.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 21
4. Đại sư Pháp Chiếu - Tổ Liên Tông thứ tư -
đời Đường
Đại Sư ở chùa Vân Phong huyện Hành Châu, là
Quốc sư của triều Đường Đại Tông. Tông chỉ sở
hành của Sư là từ bi, nhẫn nhục, trì giới, thiền định.
Sư từng thấy Thánh cảnh Ngũ đài hiện trong bát
cháo của mình. Sau đó, Sư đến Ngũ Đài Sơn, diện
kiến đức Văn Thù. Tại Lô Sơn, trong lúc nhập định,
Sư được nghe pháp môn niệm Phật, thần thức dạo
nơi cảnh Cực Lạc, thấy ngài Thừa Viễn đứng hầu
bên cạnh đức Phật A Di Đà. Giữa năm Vĩnh Thái,
Sư đến Hành sơn, hầu ngài Thừa Viễn, thọ giáo
pháp môn Tịnh độ.
Theo trong sách Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật
THÍCH NỮ MINH TÂM 22
Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi do Sư trước tác, nói:
“Ngày mười lăm tháng tư năm thứ hai niên hiệu
Vĩnh Thái, tại Di Đà Đài huyện Nam Nhạc, Sư phát
nguyện rộng lớn, thệ trọn đời này, cứ chín mươi
ngày trong mỗi mùa Hạ, là nhập đạo tràng niệm
Phật tam-muội. Mùa Hạ năm ấy, đến ngày thứ hai
mươi bảy, Sư thấy Phật, được đức Phật A Di Đà chỉ
dẫn cho pháp Ngũ hội niệm Phật.”
Năm Ðại Lịch thứ tư, Ðại Sư mở đạo tràng niệm
Phật tại chùa Hồ Ðông. Ngày khai hội cảm mây
lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra
cung điện lầu các. Phật A Di Ðà cùng hai vị Bồ
Tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân vàng sáng chói cả
hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tánh trông
thấy đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng
ấy hiện ra giây lâu mới ẩn mất. Do điềm lành này,
rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Ðạo
tràng khai liên tiếp được năm hội.
Triều vua Ðức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo
tràng niệm Phật tại Tinh Châu, cũng liên tiếp được
năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe
tiếng niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại.
Sau khi cho người dò tìm, được biết đó là tiếng
niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái
sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở
đạo tràng niệm Phật tại hoàng cung, cũng gồm
năm hội. Vì thế, người đương thời gọi ngài là Ngũ
Hội Pháp Sư.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 23
Từ đó Ðại Sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ.
Một đêm nọ ngài thấy hóa thân một vị Bồ Tát đến
bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở
cõi Cực Lạc đã thành tựu. Ba năm sau là đúng thời
kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”. Ðến kỳ hạn, Ðại Sư
gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc,
mọi người phải gắng tinh tu!” Nói xong, ngài ngồi
ngay yên lặng mà tịch.
THÍCH NỮ MINH TÂM 24
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 25
5. Đại sư Thiếu Khang - Tổ Liên Tông thứ năm
- đời Đường
Thiếu Khang đại sư họ Châu, người đời nhà Ðường,
ở vùng núi Tiên Ðô xứ Tấn Vân. Từ buổi sơ sinh,
ngài im lặng không nói. Năm bảy tuổi nhân lễ trai
hội, ngài theo mẹ vào chùa lạy Phật. Bà chỉ tượng
Phật hỏi đùa rằng: “Con có biết đó là ai chăng?”
Ngài bỗng ứng tiếng đáp: “Ðức Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Thế Tôn!” Biết con mình có duyên lành với
Phật pháp, cha mẹ ngài liền cho đi xuất gia. Căn cơ
linh mẫn, đến mười lăm tuổi ngài đã thông suốt
được năm bộ kinh.
Niên hiệu Trinh Nguyên năm đầu, Ðại Sư đến viếng
chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Thấy chỗ để sách trong
THÍCH NỮ MINH TÂM 26
đại điện phóng quang, ngài lại tìm xem, thì ánh
sánh ấy phát xuất từ tập văn Tây phương Hóa Ðạo
của Thiện Ðạo Hòa thượng, ngài liền khấn rằng:
“Nếu tôi có nhân duyên với Tịnh Ðộ, nguyện tập
văn này phóng quang một lần nữa!” Vừa dứt lời,
ánh sáng lại càng chiếu ra rực rỡ, trong ấy ẩn hiện
hình dạng các hóa Bồ Tát, ngài chắp tay nói: “Kiếp
đá có thể mòn, nguyện này thề không dời đổi!”
Nhân đó, Ðại Sư đến Trường An chiêm lễ, di tượng
của Nhị Tổ bỗng bay lên, bảo ngài rằng: “Ông nên
y theo lời dạy của ta mà phổ độ chúng sanh, ngày
kia công thành, sẽ sanh về Cực Lạc!” Ði ngang qua
Giang Lăng, ngài gặp một sư cụ bảo: “Ông muốn
hoằng hóa nên sang xứ Tân Ðịnh, cơ duyên ở nơi
đó!” Nói xong bỗng biến mất.
Sau thời gian ấy, Ðại Sư đến Tân Ðịnh, thấy người
xứ này chưa biết niệm Phật là gì. Dùng phương tiện,
ban sơ ngài quyên tiền dẫn dụ trẻ con niệm Phật.
Nếu trẻ nào niệm Phật được một câu; ngài liền
thưởng cho một đồng tiền. Như thế hơn một năm,
rồi không cần thưởng tiền, bọn trẻ cũng niệm. Tập
quán lần quen, về sau lúc gặp Ðại Sư khi ở trong
nhà hay đi ngoài đường, chúng cũng vẫn niệm. Từ
đó, nam nữ, già trẻ hễ thấy ngài, đều niệm: “A Di
Ðà Phật!” Nhân sự việc này, dân chúng vùng ấy lần
lượt phát tâm thờ cúng niệm Phật rất nhiều.
Thấy cơ duyên đã có phần thuần thục, Ðại Sư thành
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 27
lập Tịnh Ðộ đạo tràng ở Ô Long Sơn, xây đàn tam
cấp. Cứ đến ngày trai, thiện nam tín nữ đều họp
nơi đó để niệm Phật nghe pháp. Thường thường
số người họp có trên ba ngàn. Mỗi khi thăng tòa,
ngài chắp tay to tiếng niệm Phật thì đại chúng ở
dưới đều xướng niệm hòa theo. Có lúc Ðại Sư xưng
một câu Phật hiệu, hội chúng thấy một đức Phật từ
miệng ngài bay ra. Niệm đến mười câu, trăm, ngàn
câu đều có mười, trăm, ngàn vị Phật bay ra, liên
tiếp như xâu chuỗi. Ðại Sư bảo: “Quý vị đã được
thấy Phật, chắc chắn đều sẽ vãng sanh.” Mọi người
nghe nói đều có cảm niệm vui mừng, an ủi
Năm Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt, vào tháng
10, Ðại Sư họp hết hàng đạo tục đến dặn bảo rằng:
“Các vị nên phát tâm chán lìa cõi Sa Bà ác trược, ưa
thích miền Tịnh Ðộ an vui mà cố gắng tu hành tinh
tấn. Giờ phút này ai thấy được quang minh của ta,
kẻ ấy mới thật là hàng đệ tử”. Nói xong, ngài chắp
tay viên tịch, toàn thân phóng quang rực sáng.
Ðại chúng xây tháp thờ ngài ở Ðài Nham, tôn hiệu
là Ðài Nham Pháp sư.
THÍCH NỮ MINH TÂM 28
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 29
6. Đại sư Vĩnh Minh - Tổ Liên Tông thứ sáu -
đời Tống
Đại Sư người Tiền Đường, họ Vương, hiệu Diên
Thọ, tự Sung Huyền. Vào thời Ngũ Đại, Sư làm
quan giữ kho, lấy tiền của quan quân mua chim
cá phóng sanh, nên bị xét xử tử hình. Sắp đến giờ
hành hình mà thần sắc của Sư vẫn không biến đổi.
Trước tinh thần vô úy của Sư, Ngô Việt Vương rất
cảm phục nên phóng thích.
Sau đó Sư xuất gia, nương thiền sư Thúy Nham tu
học, kế đến tham chiếu với Thiền Quốc sư. Sư từng
tinh cần miên mật hành Pháp Hoa sám hai mươi
mốt ngày, mộng thấy đức Bồ Tát Quán Thế Âm
dùng cam lồ rưới vào miệng, liền được biện tài vô
THÍCH NỮ MINH TÂM 30
ngại. Sư đã trước tác Tông cảnh lục, Vạn thiện đồng
quy tập … đều nói về tông chỉ Tịnh độ.
Năm Kiến Long thứ hai, đời nhà Tống, vua Trung Ý
thỉnh Sư trụ trì chùa Vĩnh Minh. Sư lập thời khóa
công phu thật miên mật, ban ngày làm trăm lẻ tám
việc, tối đến lên một ngọn núi gần chùa niệm Phật,
tiếng niệm Phật hòa cùng với tiếng nhạc trời trổi
trên hư không lúc trầm lúc bổng, mọi người ở đây
ai cũng cảm phục. Sư ở chùa Vĩnh Minh mười lăm
năm, độ được một ngàn bảy trăm đệ tử xuất gia.
Vào Thiên Đài, Sư truyền giới cho hơn vạn người,
thường cùng bảy chúng thọ Bồ-tát giới, chiều tối thí
thực cho các loài quỷ thần, và thường mua chim, cá
… phóng sanh. Sư hành đạo cả sáu thời, trọn đời
đã tụng một vạn ba ngàn bộ kinh Pháp Hoa.
Ðại Sư lại vì người đương thời còn phân vân giữa
Thiền và Tịnh, chưa biết tu môn nào được kết quả
chắc chắn, nên làm kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự
lợi hại như sau:
Có Thiền, không Tịnh độ
Mười người, chín người lạc,
Khi ấm cảnh hiện ra
Liền phải đi theo nó.
Không Thiền, có Tịnh độ
Vạn người tu đồng thành,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 31
Thấy được đức Di Đà
Lo gì không khai ngộ.
Có Thiền, có Tịnh độ
Giống như hổ thêm sừng,
Hiện tại làm thầy người
Tương lai làm Phật, Tổ.
Không Thiền, không Tịnh độ
Đời đời nằm giường sắt,
Kiếp kiếp ôm trụ đồng
Chẳng có nơi nương tựa
Sư giảng nói lưu loát, kiến giải tinh thâm tột đỉnh,
những tác phẩm của Sư có giá trị bất hủ, đúng là
một bậc học Phật trí đức viên dung, tài hoa trước
thuật.
Niên hiệu Khai Bảo thứ tám, ngày 26 tháng 2 vào
buổi sáng sớm, Ðại Sư lên chánh điện đốt hương
lễ Phật. Lễ xong, ngài họp đại chúng lại dặn dò
khuyên bảo, rồi ngồi kiết già trên pháp tòa mà thị
tịch, thọ được bảy mươi hai tuổi.
THÍCH NỮ MINH TÂM 32
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 33
7. Đại sư Tỉnh Thường - Tổ Liên Tông thứ bảy
- đời Tống
Vào đời Tống, tín ngưỡng Tịnh Độ đã ăn sâu trong
nhân gian, đặc biệt rất thịnh hành ở vùng Chiết
Giang phương nam. Người đầu tiên sáng lập hội
niệm Phật ở đây là đại sư Tỉnh Thường. Đại Sư Tỉnh
Thường, tự Thứu Vi, người đời Tống, con nhà họ
Nhan ở Tiền Ðường. Khi lên bảy, ngài gặp duyên
lành xuất gia và mới mười bảy tuổi đã thọ giới Cụ
túc.
Vào giữa niên hiệu Thuần Hóa, Sư trụ trì viện
Chiêu Khánh ở Tây hồ, khắc tượng Phật A Di Đà
bằng gỗ chiên đàn, chích thân lấy máu chép phẩm
Tịnh hạnh trong kinh Hoa Nghiêm. Vì ngưỡng mộ
THÍCH NỮ MINH TÂM 34
đạo phong của ngài Viễn Công ở Lô sơn, nên Sư
kết xã Tịnh Hạnh chuyên tu Tịnh nghiệp. Sư lại
điêu khắc tượng Phật Tì Lô Giá Na bằng gỗ chiên
đàn hương. Sau khi điêu khắc xong, Sư quỳ trước
tượng phát nguyện: “Kể từ ngày nay, con và đại
chúng phát Bồ-đề tâm, nguyện đời đời kiếp kiếp
hành Bồ-tát đạo, nguyện khi xả báo thân này liền
sanh về cõi An dưỡng.” Với đại nguyện kiên định,
giới hạnh nghiêm minh, thanh danh của Sư cảm
động cả đất trời, từ cung đình cho đến làng mạc,
nhiều vị tăng sĩ, quan quân, thân sĩ quý tộc tìm đến
kết giao học đạo, người đương thời không ai không
biết Sư. Sư trì giới luật tinh nghiêm, chuyên niệm
danh hiệu Phật, phát Bồ-đề tâm, kết xã niệm Phật,
động viên khích lệ mọi người tu tập, nổi tiếng bốn
phương nhưng ít trước thuật.
Năm Thiên Hy thứ tư, ngày 12 tháng Giêng, theo
thường khóa, Ðại Sư ngồi kiết già niệm Phật. Giây
lát, bỗng nói to lên rằng: “Ðức A Di Ðà Thế Tôn đã
đến!” Rồi ngồi yên mà hóa, thọ 62 tuổi. Trong giờ
ngài thị tịch, đại chúng thấy mặt đất biến thành sắc
vàng ròng, rất lâu mới hoàn phục như cũ.
Trong sách Phật cư sĩ, Tổ sư Ấn Quang đã giảng giải
cho chúng ta hiểu một cách đúng đắn rằng: “Việc
trước tác là tùy theo tâm nguyện của mỗi người,
chúng ta nhất định không thể đánh giá phẩm chất
đạo đức tốt xấu của người ấy qua việc họ trước
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 35
tác được nhiều hay ít. Xưa nay, các bậc hiển bày
Pháp thân ít dùng ngôn từ câu cú, không có trước
tác. Lẽ nào chúng ta lại nghi ngờ được sao? Chúng
ta biết rằng muốn thoát ly sanh tử, thật ra chẳng
phải ở chỗ nói nhiều, mà chỉ cần một mực thâm
tín, nguyện tha thiết, chí thành niệm Phật cầu sanh
Tây phương là đủ. Song, cho dù đọc hết Đại tạng
kinh đi nữa thì chẳng qua cũng chỉ để hoàn thành
việc giải thoát mà thôi.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 36
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 37
8. Đại sư Liên Trì - Tổ Liên Tông thứ tám - đời
Minh
Sư họ Trầm húy Châu Hoằng, hiệu Liên Trì, người
quận Nhân Hòa thuộc tỉnh Hàng Châu. Năm mười
bảy tuổi, Sư làm giáo thọ dạy cho các thư sinh trong
vùng. Đang độ tuổi thanh xuân, Sư thế phát xuất
gia với Hòa thượng Tánh Thiên. Sau khi thọ giới
Cụ túc, Sư đi tham kiến thiện tri thức ở khắp nơi.
Khi Sư đến Ngũ Đài Sơn lễ bái thì cảm ứng ngài
Văn Thù phóng quang. Niên hiệu Long Khánh thứ
năm, Sư chọn núi Vân Thê ở Hàng Châu, chuyên
tu niệm Phật tam muội, giáo hóa kẻ xa người gần,
Tăng tục vân tập tạo thành một Tòng lâm lớn.
Quanh vùng núi này hổ lang hung dữ, Sư tụng
THÍCH NỮ MINH TÂM 38
kinh, thí thực cho muôn loài, trừ được hoạn cầm
thú phá hoại cho dân. Vào những năm đại hạn mất
mùa, Sư đi dọc bờ ruộng niệm Phật, bước đến đâu
mưa rơi đến đó.
Ðại Sư tuy đã tỏ thiền cơ, nhưng xét thấy căn lực
người thời mạt pháp kém yếu, kẻ nói lý thì nhiều
song ngộ lý thật rất ít. Vì muốn lợi mình và người
nên ngài chủ trương Tịnh Ðộ, cực lực bác bỏ Cuồng
Thiền. Bộ Phật Thuyết A Di Ðà Kinh Sớ Sao do
ngài trước tác, dung hòa cả sự lý gồm nhiếp khắp
ba căn, lời dẫn giải rất là uyên áo.
Năm Vạn Lịch thứ mười hai, Sư biên soạn tập sách
Vãng sanh, ghi lại sự tích những người vãng sanh
từ xưa đến nay. Hai mươi năm ở chùa Tịnh Từ
thuộc tỉnh Hàng Châu, Sư khai pháp, mở giới đàn
truyền giới cho Tăng tục, đào ao phóng sanh, chế
văn giới sát sanh, đến nay vẫn còn lưu truyền. Sư
dùng pháp môn niệm Phật nhiếp hóa tất cả các căn
cơ, đề xướng Tịnh độ. Không biết bao nhiêu người
đã được thấm nhuần ân đức giáo hóa của Sư.
Đại Sư trước tác rất nhiều tác phẩm như: A Di Đà
kinh sớ sao (4 quyển), Vãng sanh tập (3 quyển),
Tịnh độ nghi biện (1 quyển), Thiền quan sách
tấn (2 quyển), Phạm võng kinh giới sớ phát ẩn (5
quyển), Lăng già kinh mô tượng ký (1 quyển), Truy
môn sùng hạnh lục (1 quyển), Sơn phùng tạp lục
(3 quyển), Trúc song tùy bút (2 quyển)... Toàn tập
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 39
gọi là “Vân thê pháp vị”, tính tổng cộng là 32 quyển.
Dưới đây chỉ ghi lại vài lời pháp ngữ tu trì tịnh
nghiệp của Đại Sư:
“Đấng đại Thánh xót thương, khuyên người chuyên
xưng danh hiệu, bởi vì phép xưng danh rất dễ, nếu
có thể giữ mỗi niệm nối nhau, lấy suốt đời làm
hạnh, thì mười người tu, mười người vãng sanh,
trăm người tu, trăm người vãng sanh. Tại sao thế?
Vì không có duyên tạp nên được chánh niệm, vì
cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau, vì không
trái với kinh giáo, vì thuận theo lời Phật. Nếu bỏ
chuyên niệm mà tạp tu trong trăm người may ra
được một hai người, trong ngàn người hy vọng
được ba bốn người vãng sanh mà thôi”.
“Người niệm Phật khi lâm chung chớ nên sợ chết.
Phải thường nghĩ rằng: thân này không sạch, chịu
nhiều sự khổ, nếu được bỏ huyễn thân mà sanh về
Tịnh độ, chính là điều đáng vui mừng!”
Vào độ cuối tháng 6 năm thứ 43 niên hiệu Vạn Lịch,
nhân lúc bệnh nặng, Đại Sư liền soạn ra “Ba điều
đáng tiếc và mười điều đáng than” để cảnh sách
đại chúng và dặn đi dặn lại phải “luôn luôn niệm
Phật”. Sau đó Ðại Sư vào thành từ biệt các đệ tử và
những người cố cựu, nói: “Tôi sắp đi nơi khác!” Rồi
ngài trở về chùa thiết tiệc trà từ giã đại chúng. Mọi
người không hiểu là duyên cớ gì. Ðến chiều mùng
một tháng Bảy, ngài vào tăng đường bảo: “Mai này
THÍCH NỮ MINH TÂM 40
tôi sẽ đi”. Trước khi Sư viên tịch, đại chúng thỉnh
Sư lưu lại vài lời vàng ngọc cuối cùng, Sư nói: “Phải
thật tâm niệm Phật”. Khuyên bảo các đệ tử xong,
ngài an nhiên quay về hướng Tây xưng danh hiệu
Phật mà thị tịch, thọ 81 tuổi. Hậu thế suy tôn ngài
làm Tổ thứ tám của hội Liên xã.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 41
9. Đại sư Ngẫu Ích - Tổ Liên Tông thứ chín -
đời Minh
Sư họ Chung, người huyện Ngô, hiệu Trí Húc. Thuở
nhỏ, Sư chuyên học Nho, thề triệt tiêu Phật, Lão,
nên làm mười bộ luận nhằm công kích Phật, Lão.
Về sau, nhân đọc tập Trúc song tùy bút và Tự tri lục
của ngài Châu Hoằng, Sư liền tỉnh ngộ, đốt hết các
bộ luận mà mình trước tác bài xích Phật giáo.
Năm hai mươi bốn tuổi, Sư xuất gia, nghe ngài Cổ
Đức giảng luận Duy Thức tại chùa Vân Thê, sau đó
lên núi tọa thiền. Năm hai mươi sáu tuổi, Sư thọ Bồ
Tát giới và biên duyệt Tạng luật. Năm hai mươi tám
tuổi, Sư nhiễm bệnh, quyết chí cầu sanh Tịnh độ,
lấy Thiên Thai làm tông.
THÍCH NỮ MINH TÂM 42
Về sau, Ðại Sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng,
Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường
Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai
và môn Niệm Phật. Thời bấy giờ, những nhà tu
Thiền ở các nơi, phần đông cho pháp môn Tịnh
Ðộ là quyền giáo; khi gặp người niệm Phật, tất bảo
tham cứu chữ Thùy. Riêng Ðại Sư lại nhận định
pháp Trì Danh chính là tâm tông viên đốn.
Bình sanh, Sư lấy việc xem kinh tạng, trước thuật
làm sự nghiệp, đã để lại cho đời những tác phẩm
nổi tiếng như: Kinh A Di Đà yếu giải 1 quyển, kinh
Phạm võng huyền nghĩa 1 quyển, Bồ Tát giới bổn
tiên yếu 1 quyển, kinh Pháp Hoa huyền nghĩa tiết
yếu 2 quyển, kinh Pháp Hoa hội nghĩa 16 quyển,
kinh Lăng Nghiêm huyền nghĩa 2 quyển, kinh
Lăng Nghiêm văn cú 10 quyển, Duyệt tạng tri tân
44 quyển, Pháp hải quán lan 5 quyển, Chu dịch
thiền giải 10 quyển… Tổng cộng hơn 40 bộ và trên
230 quyển, trong đó có một bộ “Tập lục” nói về
pháp ngữ, vấn đáp, tự thuyết, thi kệ… của Đại Sư
mà soạn thành “Linh Phong Ngẫu Ích đại sư tông
luận”, tất cả những luận điểm của ngài đều sưu tập
từ trong bộ Tông luận này. Ngoài ra, Đại Sư còn
phát huy trước tác hơn mười bộ kinh luận, dùng
văn tự Bát Nhã làm công cụ độ người, như nước
trăm sông đổ về biển cả. Bút pháp của ngài trang
nhã sâu sắc, đúng là một bậc tài đức vẹn toàn.
Sư lại dạy: Pháp môn Tịnh độ không có gì kì lạ, chủ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 43
yếu chỉ là tin sâu, nguyện tha thiết và nỗ lực hành
trì. Chỉ e rằng, người mới có được chút ít niềm tin
cao quý và sự an ổn, rồi thủ đắc mà buông bỏ niệm.
Nếu ngày đêm quyết định lấy mười vạn, hoặc ba
vạn hay năm vạn niệm làm tiêu chuẩn, niệm không
thiếu, thề nguyện suốt đời không thay đổi, mà khi
lâm chung không được vãng sanh, thì ba đời chư
Phật thành vọng ngữ. Một khi đã vãng sanh thì
vĩnh viễn không thoái chuyển, thấu rõ được tất cả
các pháp.
Năm Thuận Trị thứ hai, vào cuối Ðông, Ðại Sư cảm
bịnh nhẹ, ngài di chúc mọi việc và dặn các đệ tử,
sau khi trà tỳ, phải tán nhuyễn xương trộn với bột
hòa thành viên, chia thí cho loài cá chim để kết
duyên Tịnh Ðộ với chúng. Sang đầu năm, ngày 21
tháng Giêng, Ðại Sư sáng dậy sớm, sắc diện tươi
khỏe như người không bịnh. Ðến đúng Ngọ, ngài
đoan tọa trên bồ đoàn, quay mặt về Tây, chắp tay
niệm Phật mà tịch, thọ được 57 tuổi.
Ba năm sau, các môn nhơn hội lại, định y pháp làm
lễ trà tỳ. Lúc mở bảo tháp ra, thấy toàn thân Ðại Sư
vẫn còn nguyên vẹn, tóc ra dài phủ hai tai, sắc mặt
tươi tỉnh như sống. Ðại chúng không nỡ tuân lời di
chúc, xây tháp thờ toàn thân ở chùa Linh Phong.
THÍCH NỮ MINH TÂM 44
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 45
10. Đại sư Triệt Lưu - Tổ Liên Tông thứ mười -
đời Thanh
Hành Sách Ðại Sư, tự là Triệt Lưu, người đời nhà
Thanh, con của Tưởng Toàn Xương, một bậc lão
nho uyên bác ở vùng Nghi Hưng. Cha ngài là bạn
phương ngoại với Ðức Thanh Hòa thượng, tức
Hám Sơn Ðại Sư.
Niên hiệu Thiên Khải thứ sáu, sau khi Hám Sơn
Ðại Sư thị tịch được ba năm, một đêm Tưởng Toàn
Xương nằm mộng thấy ngài Hám Sơn vào nhà mình.
Cũng trong đêm ấy, Hành Sách Ðại sư được sanh ra,
nên nhân đó ngài lại được cha đặt cho ngoại hiệu là
Mộng Hám. Ðến khi khôn lớn, cha mẹ kế tiếp qua
đời, ngài cảm sự thế vô thường, có ý niệm thoát tục
THÍCH NỮ MINH TÂM 46
Năm hai mươi ba tuổi, ngài thế phát xuất gia với
Nhược Am Hòa Thượng ở chùa Lý An. Tu hành
tinh tấn không đặt lưng xuống chiếu. Trải năm độ
nắng mưa, ngài tỏ suốt nguồn chân, ngộ vào pháp
tánh. Sau khi Nhược Am Hòa Thượng thị tịch, Ðại
Sư trụ trì chùa Báo Ân. Thời gian này, ngài được
bạn đồng tham là Tức Am thiền sư khuyên tu Tịnh
Ðộ.
Niên hiệu Khang Hy thứ hai, ngài cất am ở núi Pháp
Hoa, bên bờ sông Tây Khê tại Hàng Châu, chuyên
tu Tịnh Ðộ. Nhân đó lại đặt tên chỗ ở của mình là
Liên Phụ Am. Ðến năm Khang Hy thứ chín, Ðại Sư
trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành
lập Liên xã. Học giả các nơi hưởng ứng tu tập rất
đông. Ngài từng làm bài văn khuyên phát lòng tin
chân thật rằng:
“Thứ nhất phải tin: Tâm, Phật và chúng sanh, cả
ba không sai khác. Chúng ta là Phật chưa thành,
Di Ðà là Phật đã thành. Giác tánh đồng một vẫn
không có hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, giác tánh
chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, giác
tánh chưa từng động. Nên nói: Khi một niệm hồi
quang đồng về nơi bản đắc là như thế.
Thứ hai phải tin: Chúng ta là Phật danh tự, Di Ðà
là Phật cứu cánh, tánh tuy không khác, ngôi cách
vực trời. Nếu không chuyên niệm đức Phật kia, cầu
về cõi Tịnh; tất phải chịu theo nghiệp lưu chuyển,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 47
chịu khổ vô cùng! Ðây gọi là pháp thân lưu chuyển
sáu nẻo, không được thành Phật, mà vẫn cam phận
chúng sanh.
Thứ ba phải tin: Chúng ta dù nghiệp sâu chướng
nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sanh
trong tâm của Di Ðà. Di Ðà tuy muôn đức trang
nghiêm an vui ở cõi Tịnh, cũng là vị Phật trong tâm
của chúng ta. Ðã rõ chân tâm vốn không hai, tất
biết cảm ứng tự giao tiếp. Như đá nam châm hút
sắt, việc này đâu lựa phải nghi? Ðây gọi: nhớ Phật,
niệm Phật, hiện tiền hoặc tương lai, quyết định sẽ
thấy Phật, cách Phật chẳng xa vậy.”
Ðại Sư trụ trì chùa Phổ Nhân được mười ba năm.
Niên hiệu Khang Hy thứ hai mươi mốt, ngày mùng
Chín tháng Bảy, ngài thoát hóa, thọ 55 tuổi.
THÍCH NỮ MINH TÂM 48
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 49
11. Đại sư Tỉnh Am - Tổ Liên Tông thứ mười
một - đời Thanh
Đại Sư họ Thời, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, người ở đất
Thường Thục. Ngay từ thuở nhỏ, Sư đã không ăn
cá thịt. Sau khi xuất gia, Thiền, Giáo, Tánh, Tướng,
pháp nào Sư cũng thông suốt. Tại chùa Chơn Tịch,
Sư đóng thất ba năm, ban ngày xem kinh tạng, tối
đến trì danh hiệu Phật.
Sau khi ra thất, Sư đến Tứ Minh đảnh lễ tháp A-dục
vương, do lòng thành đốt ngón tay cúng dường
nên cảm ứng xá-lợi phóng quang. Nhân đó, Sư
soạn Niết-bàn sám và Phát Bồ-đề tâm văn. Ai tụng
bài văn này cũng đều rơi lệ. Sư lại đốt ngón tay,
phát bốn mươi tám lời nguyện trước tượng Phật.
THÍCH NỮ MINH TÂM 50
Về cuối đời, Sư ở chùa Phạm Thiên, kêu gọi thành
lập Liên xã, chuyên tu tịnh nghiệp.
Niên hiệu Ung Chánh thứ hai, ngày mùng tám tháng
Chạp, Ðại Sư bảo chúng rằng: “Tháng Tư sang năm
ta sẽ đi xa”. Rồi đóng cửa thất, mỗi ngày niệm Phật
mười muôn câu. Sang năm, ngày 12 tháng 4, Ðại
Sư bảo môn đồ rằng: “Từ đầu tháng đến nay, ta
đã hai phen thấy Tây phương Tam Thánh, chắc là
đến lúc vãng sanh!” Nói xong, liền làm kệ giã từ đại
chúng. Qua hôm sau, Ðại Sư không ăn uống, cứ
nhắm mắt ngồi thẳng yên. Ðến canh năm tắm rửa
thay y áo. Bữa ấy tức là ngày 14, gần giờ Ngọ, Ðại
Sư lại nhắm mắt day về Tây ngồi yên lặng. Hàng
đạo tục các nơi nghe tin hội về đông như chợ. Ðại
Sư bỗng mở mắt nói: “Tôi về Cực Lạc không bao
lâu sẽ trở lại. Thoát ly sống chết là việc lớn, mỗi
người nên cố gắng thanh tịnh niệm Phật!” Dặn dò
xong, chắp tay xướng hồng danh Phật rồi thị tịch.
Thọ được 49 tuổi.
Huấn thị chính yếu của Sư là bản Văn Phát Bồ Đề
Tâm, với lời dạy rất chí thiết:
“Niệm Phật mà không phát đại tâm Bồ đề thì
không tương ưng với đại nguyện của đức A Di
Đà, do đó rốt cùng không thể vãng sanh. Nhưng
nếu phát tâm Bồ đề mà không chuyên tâm niệm
Phật thì cũng không thể vãng sanh. Do vậy, lấy việc
phát tâm Bồ đề làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 51
duyên thì sau này mới có thể vãng sanh. Người tu
Tịnh nghiệp không thể không biết điều này.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 52
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 53
12. Đại sư Triệt Ngộ - Tổ Liên Tông thứ mười
hai - đời Thanh
Tế Tỉnh Ðại Sư, tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Ðường,
người đời Thanh, con nhà họ Mã ở huyện Phong
Nhuận. Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử.
Nhân nhờ bị trọng bệnh, Sư liễu ngộ huyễn chất
vô thường, nên phát nguyện xuất gia. Khi bệnh
thuyên giảm, Sư đến huyện Phòng Sơn xin thế phát
với lão túc Vinh Trì ở am Tam Thánh. Sau khi xuất
gia, lại đi tham học các nơi, liễu đạt thông suốt tất
cả Thiền, Giáo, hai tông Tánh, Tướng. Chỗ tâm đắc
nhất của ngài là chỉ thú Thập Thừa Tam Quán của
kinh Pháp Hoa. Sau đó, Sư trụ trì chùa Vạn Thọ ở
Bắc Kinh, hướng dẫn chúng tham thiền, khích lệ
THÍCH NỮ MINH TÂM 54
sách tấn hàng hậu học tu tập một cách nhiệt tình
không mệt mỏi suốt mười bốn năm. Thanh danh
Sư vang khắp cả từ Bắc chí Nam.
Bình nhật, Ðại Sư thường bảo: “Ngài Vĩnh Minh
nguyên là bậc tông tượng trong Thiền môn mà còn
quy tâm về Tịnh Ðộ. Huống ngay là thời mạt pháp,
chúng ta cũng phải tuân theo”. Do đó, ngài chuyên
tu Tịnh nghiệp, chủ trương Liên tông. Mỗi ngày
giới hạn thời giờ: dạy chúng hoặc tiếp khách nội
một cây hương. Ngoài ra chỉ chuyên lễ sám niệm
Phật mà thôi.
Không bao lâu, Ðại Sư sang trụ trì chùa Giác Sanh.
Kế đó lại lui về ngụ chùa Tư Phước ở Hồng Loa
Sơn. Tăng chúng các nơi mến đức nương về ngày
càng đông, khiến chỗ ấy trở thành đại tòng lâm.
Ðại Sư vì pháp lợi sanh, lòng không chán mỏi, tất cả
đều dùng Tịnh Ðộ làm chỗ quy thú. Mỗi khi giảng
đến ân cứu khổ ban vui của Như Lai, thường lệ rơi
theo tiếng. Thính chúng ngồi nghe đều cảm động
sa nước mắt. Trong hai quyển Ngữ Lục của ngài,
lời khuyến hóa lại càng chí thiết. Ðại lược như sau:
“Chúng ta tu Tịnh Ðộ, lòng tin quý ở nơi sâu, chí
nguyện quý ở nơi thiết. Do tín nguyện sâu thiết,
nên tất cả tà thuyết không thể lay động, tất cả cảnh
duyên không thể kéo lôi. Giả sử đang khi ta niệm
Phật, bỗng Tổ Ðạt Ma hiện ra bảo phải bỏ Tịnh tu
Thiền có thể liền giác ngộ thì cũng từ tạ không dám
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 55
tuân lời. Hay dù đức Thích Ca hiện thân bảo có
pháp môn khác hơn Tịnh Ðộ, dạy ta phải bỏ niệm
Phật để tu môn kia, ta cũng đảnh lễ mà từ khước.
Giữ vững như vậy, mới gọi là lòng tin sâu chắc.
Về phần nguyện, ví như có vòng sắt nóng đỏ xoay
vần trên đầu, ta cũng không vì sự khổ ấy mà thoái
thất chí vãng sanh. Lại như có cảnh dục lạc mầu
nhiệm nhất của Chuyển Luân Vương hiện đến, ta
cũng không vì sự vui sướng đó mà quên tâm niệm
cầu về Cực Lạc. Gặp những cảnh duyên nghịch
thuận cùng cực như thế mà vẫn không đổi lòng,
mới gọi là chí nguyện tha thiết.
Lòng tin sâu, chí nguyện thiết ấy, gọi là trọng tâm.
Dùng tâm này mà niệm Phật thì tịnh nghiệp mạnh
và lần lần thành thục, tất duyên nhiễm Sa Bà phải
dứt. Như thế, lúc lâm chung dù có muốn cảnh luân
hồi hiện ra, cảnh Tịnh Ðộ cùng đức Di Ðà chẳng
hiện tiền, cũng không thể được. Nhưng tín nguyện
sâu thiết ấy lúc bình thời phải rèn luyện cho thành,
khi lâm chung mới khỏi lạc vào nẻo khác. Như cổ
đức lúc sắp mạng chung, chư Thiên ở sáu cõi trời
trổi nhạc, cầm tràng phan, kế tiếp đến rước, mà
vẫn cố từ, một lòng chờ Phật, đợi khi Phật hiện đến
mới chịu đi. Nếu bình thời tâm tín nguyện chưa
được mười phần vững chắc thì khi lâm chung gặp
phải cảnh chư thiên ấy, làm sao tự chủ được!”
Niên hiệu Gia Khánh thứ mười lăm, vào tháng Hai,
THÍCH NỮ MINH TÂM 56
Ðại Sư dự biết ngày lâm chung, chẳng còn bao xa,
đi từ giã những người ngoại hộ, dặn rằng: “Duyên
hư huyễn chẳng bền lâu, giờ sống thừa nên quý tiếc.
Các vị hãy cố gắng niệm Phật, ngày kia sẽ cùng gặp
nhau nơi cõi Liên Bang!” Ðến ngày mùng hai tháng
Chạp, Ðại Sư cảm bịnh nhẹ, đang chí tâm niệm
Phật, bỗng thấy có vô số tràng phan từ phương
Tây bay đến, liền nhìn môn đồ nói: “Cảnh Tịnh Ðộ
đã hiện, ta sắp về Tây phương!” Rồi bảo đại chúng
luân phiên trợ niệm. Sang ngày 17, vào giờ Thân,
ngài nói với chúng rằng: “Hôm qua tôi thấy ba vị
đại sĩ: Văn Thù, Quán Âm, và Thế Chí. Hiện giờ lại
được đức Phật tự thân đến tiếp dẫn. Tôi đi đây!”
Ðại chúng nghe nói, niệm Phật càng chí thiết, Ðại
Sư ngồi thẳng, chắp tay hướng về Tây, bảo: “Xưng
một câu hồng danh, thấy một phần tướng hảo!”
Dứt lời, liền kiết ấn mà tịch.
Lúc ấy, tất cả chúng đều nghe mùi hương lạ ngào
ngạt. Ðể lộ khám bảy ngày, dung sắc Ðại Sư tươi
như sống, tóc bạc biến thành đen. Lúc trà tỳ, được
hơn một trăm hạt xá lợi lóng lánh. Ðại Sư thọ được
bảy mươi, tăng lạp bốn mươi chín.
Đại Sư để lại một số tác phẩm quý như: Mộng
Đông thiền sư tập, Bổn cảng (Hương Cảng) đông
lâm niệm Phật đường hữu san bổn, Một Trăm Bài
Kệ Niệm Phật...
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 57
13. Đại sư Ấn Quang - Tổ Liên Tông thứ mười
ba cuối đời Thanh- Dân Quốc
Ấn Quang Ðại Sư, húy Thánh Lượng, biệt hiệu
Thường Tàm, người khoảng cuối nhà Thanh sang
kỷ nguyên Dân Quốc, con nhà họ Triệu ở Thiểm
Tây. Thuở bé ngài học Nho, lớn lên lấy việc duy
trì đạo Khổng làm trách nhiệm, nên theo thuyết
của Hàn Dũ, Âu Dương Tu bài bác Phật pháp. Ngài
từng bị đau mắt khi sanh ra vừa sáu tháng, sau tuy
lành bệnh nhưng mục lực đã suy kém. Mắt vừa hơi
đỏ thì chỉ nhìn thấy cảnh vật lờ mờ. Khi bị bệnh, tự
xét biết lỗi lầm, liền cải hối tâm niệm trước.
Niên hiệu Quang Chữ thứ bảy đời Thanh, vừa
sang hai mươi mốt tuổi, căn lành thành thục, ngài
THÍCH NỮ MINH TÂM 58
xuất gia với Ðạo Thuần Hòa Thượng tại chùa Liên
Hoa Ðộng ở núi Chung Nam. Tại đây, Sư chuyên
cần nghiên cứu kinh điển, hiểu sâu thông suốt
pháp môn Tịnh độ, nhiếp hóa hết thảy các căn cơ,
tự gánh lấy trách nhiệm hoằng dương Phật pháp
phổ độ quần sanh. Sư đi du hóa khắp nơi, có lúc ở
Chung Nam, Hồng Loa, Phổ Đà…
Ít lâu sau, lại được duyên thọ Ðại Giới nơi chùa
Song Khê, huyện Hưng An với luật sư Ấn Hải
Ðịnh. Lúc thọ giới Cụ túc, vì ngài cẩn thận và viết
chữ khéo nên được cử làm chức thư ký. Do viết chữ
quá nhiều, đôi mắt lại phát đỏ như huyết. Lúc trước
nhân khi phơi kinh được xem bộ Long Thơ Tịnh
Ðộ, biết rõ công đức niệm Phật, nên kỳ thọ giới
này, ban đêm sau khi chúng an nghỉ, ngài vẫn ngồi
niệm Phật. Ban ngày cho đến lúc viết chữ, tâm cũng
không rời Phật. Nhờ đó tuy đôi mắt phát đỏ, vẫn có
thể gắng gượng biên chép. Khi giới đàn vừa mãn,
bệnh đau mắt cũng được lành. Do đây, ngài biết
công đức niệm Phật không thể nghĩ bàn! Và nhân
duyên này cũng là đầu mối khiến ngài quy hướng
Tịnh Ðộ và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Ðại Sư
tiến bước trên đường tu học trải qua các danh lam:
Tư Phước Tự, Long Tuyền Tự, Viên Quảng Tự và
sau cùng đến chùa Pháp Võ ở Phổ Ðà Sơn.
Năm Dân Quốc thứ mười chín, Sư đến Tô Châu
sáng lập đạo tràng Tịnh Độ Linh Nham. Vì thấy
chư Tăng có người không như pháp, nên Sư phát
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 59
nguyện không trụ trì chùa viện, không thu đồ
chúng, không hóa duyên, cũng không mở hội niệm
Phật. Thường ngày, Sư không giao tiếp với hàng cư
sĩ hay quan quyền, không cười hay nói, không phô
trương công việc, không trước tác kinh sách hay
sám hối công đức, mà chí khí Sư vẫn cao, hạnh vẫn
tinh khiết. Tính đến cuối đời nhà Thanh, trong hơn
ba mươi năm xuất gia, Ðại Sư trước sau mai danh
ẩn tích, không thích cùng người tới lui giao tiếp để
hôm sớm yên tu, cầu chứng Niệm Phật tam muội.
Có những hôm, Sư đóng cửa tịnh thất để viết thư
phúc đáp, trả lời những điều vấn nạn cho bốn chúng
học Phật. Bằng ngôn ngữ tinh tế, ý nghĩa sâu xa, Sư
đã để lại trăm vạn lời tốt đẹp cho hàng hậu học.
Nhờ vậy, ngày nay chúng ta có tác phẩm Ấn Quang
Đại Sư Văn Sao hành thế, với lời văn và ý nghĩa biểu
đạt chơn thành, dạy người sống theo luân thường
đạo lý, lấy tịnh tâm làm gốc, niệm Phật cầu sanh
Tây phương làm mục đích. Mỗi mỗi lời đều hợp với
ý Phật ý Tổ, khéo thích hợp tùy theo từng loại căn
cơ, dù cho hạng sơ cơ đọc tụng cũng có thể thông
hiểu. Pháp ngữ của Sư lưu truyền khắp nơi, ấn vào
tâm khảm con người.
Cuối năm Dân Quốc thứ hai mươi chín, ngày 24
tháng 10, Ðại Sư dự biết kỳ vãng sanh, cho triệu
tập chư Tăng và cư sĩ về chùa Linh Nham. Trong
buổi hội đàm, ngài suy cử Diệu Chơn Hòa Thượng
kế nhiệm trụ trì, dặn dò các việc mai sau, và bảo:
THÍCH NỮ MINH TÂM 60
“Pháp môn Niệm Phật không có chi đặc biệt lạ kỳ.
Chỉ cần khẩn thiết chí thành thì không ai chẳng
được Phật tiếp dẫn”. Qua ngày mùng 4 tháng 11,
Ðại Sư cảm bệnh nhẹ, song vẫn tinh tấn niệm
Phật. Niệm xong, bảo đem nước rửa tay, rồi đứng
lên nói: “Phật A Di Ðà đã đến tiếp dẫn, tôi sắp đi
đây. Ðại chúng phải tin nguyện niệm Phật cầu về
Tây phương!”. Nói đoạn, bước lại ghế ngồi kiết già,
chắp tay trì danh theo tiếng trợ niệm của đại chúng
rồi an lành viên tịch. Lúc ấy, Ðại Sư tăng lạp được
sáu mươi, thế thọ tám mươi tuổi.
Rằm tháng Hai năm sau, nhằm thánh tiết Phật
nhập Niết Bàn, cũng vừa đúng kỳ Ðại Sư vãng sanh
được một trăm ngày. Hàng đạo tục các nơi hội về
Linh Nham trên hai ngàn người, sắp đặt lễ trà tỳ.
Lúc ấy bầu trời hốt nhiên sáng tạnh trong trẻo.
Khi Chân Ðạt Hòa Thượng cầm đuốc cử hỏa, khói
bay lên trắng như tuyết, hiện ra ánh sáng năm sắc.
Hôm sau Diệu Chơn Hòa Thượng cùng đại chúng
đến nơi khám nghiệm, thấy xá lợi hiện ra nhiều
hình dáng, đủ các màu, có thứ gồm ngũ sắc. Tất
cả đều cứng như khoáng chất, gõ vào phát ra tiếng
trong thanh. Ðại chúng lựa chia thành sáu phần:
1. Nha xỉ xá lợi: gồm ba mươi hai cái răng.
2. Ngũ sắc xá lợi châu: nhiều hạt tròn sáng.
3. Ngũ sắc tiểu xá lợi hoa: hình như các đóa hoa
nhỏ.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 61
4. Ngũ sắc đại xá lợi hoa: hình như những đóa hoa
lớn.
5. Ngũ sắc huyết xá lợi: do huyết nhục hóa thành.
6. Ngũ sắc xá lợi khối: gồm những khối có nhiều
hình dáng, màu sắc
Tất cả đều để vào lồng kiếng, trân tàng tại bản sơn.
THÍCH NỮ MINH TÂM 62
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 63
Sơ Lược Tiểu Sử Các Bậc Tôn Đức
1. Đại sư Hám Sơn (trích soạn theo Hám Sơn
Đại Sư Tự Truyện)
Đại Sư Hám Sơn (1546-1623) tự là Đức Thanh,
họ Thái người đất Kim Lăng, là một đại sư Phật
giáo trong Thiền tông và Tịnh Độ tông. Ngài được
mệnh danh là một trong 4 vị “Thánh Tăng” đời nhà
Minh (Trung Hoa). Ba vị còn lại là ngài Tử Bá hiệu
Đạt Quán, ngài Liên Trì và ngài Ngẫu Ích. Sư Hám
Sơn là người để lại rất nhiều bài giảng dành cho
mọi tầng lớp người trong xã hội bấy giờ.
Xuất gia từ lúc 19 tuổi, ngài chuyên tâm niệm Phật.
THÍCH NỮ MINH TÂM 64
Có một đêm, đại sư năm mơ thấy đức Phật A Di Đà
hiện thân giữa hư không. Từ đó về sau, ngài thấy
tượng Phật dường như phảng phất trước mặt. Đại
sư tham thiền gần mười năm, khi được tỏ ngộ liền
vào ẩn trong núi Lao Sơn. Trước kia, dân chúng
chung quanh vùng ấy chưa nghe chánh pháp,
nhưng khi ngài về ở không bao lâu, trẻ thơ ba tuổi
đều biết niệm Phật.
Từ Thánh Thái Hậu nghe danh, xin quy y làm đệ tử
và cúng dường rất hậu. Có kẻ ganh ghét gièm pha
chuyện ấy, vua giận biếm truất Đại Sư đến miền
Lôi Châu. Nơi đây, ngài lại trùng hưng đạo tràng
Tào Khê. Sau vua xuống chiếu ân xá triệu về, Đại
Sư bèn ở Lôi Sơn chuyên tu tịnh nghiệp. Sau đó
ngài về lại Tào Khê niệm Phật mà thác hóa, thọ
78 tuổi. Sau khi nhập diệt, Sư đã để lại toàn nhục
thân không bị hư thối. Nhục thân của Sư được đặt
tại Tào Khê cùng với nhục thân của thiền sư Huệ
Năng và thiền sư Đan Điền hiện nay thuộc chùa
Hoa Nam huyện Thiều Quang, tỉnh Quảng Đông,
Trung Quốc.
Đại sư dạy: “Điều cần yếu nhất trong sự tu hành
là tâm tha thiết về việc luân hồi sanh tử. Tâm sanh
tử không thiết tha, làm sao dám gọi là niệm Phật
thành một khối? Nếu người quả vì sự luân hồi mà
tha thiết, thì mỗi niệm như cứu lửa cháy đầu, chỉ e
mất thân người, muôn kiếp khó được. Lúc ấy quyết
giữ chắc câu niệm Phật, quyết đánh lui vọng tưởng,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 65
trong tất cả thời tất cả chỗ, hiệu Phật thường hiện
tiền, không bị vọng tình ngăn che lôi kéo. Dùng
công phu khổ thiết như thế, lâu ngày niệm sẽ thuần
thục, tâm được tương ứng, tuy không hy cầu mà
niệm lực tự nhiên sẽ thành một khối.
THÍCH NỮ MINH TÂM 66
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 67
Đại lão Hòa thượng Hư Vân (nhasachtinhlien.
com)
Hư Vân thiền sư (1840-1959) húy Diễn Triệt, tự
Đức Thanh, hiệu Hư Vân, là một trong tứ đại danh
tăng cuối triều Thanh, đầu thời Dân Quốc tại Trung
Hoa. Khi chưa xuất gia, họ tục của ngài là Tiêu, quê
ở tỉnh Hồ Nam huyện Tương Hương. Thân phụ là
Ngọc Ðường từng làm Tri phủ Tuyền Châu, tỉnh
Phúc Kiến, làm quan thanh liêm, được dân ái mộ.
Trong lịch sử Phật giáo hiện đại, ngài là bậc cao
tăng kiên trì tu tập khổ hạnh hơn một trăm năm,
trải qua 15 đạo tràng và trùng hưng 6 đại tổ đình
của Phật giáo Trung Quốc. Lấy một thân kiêm
gánh vác sự nghiệp của thiền môn Ngũ Tổ, pháp
tự tín đồ lên đến số hàng trăm vạn (trong đó có đại
sư Tuyên Hóa) được tôn xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu
chốn cửa thiền.
THÍCH NỮ MINH TÂM 68
Thuở nhỏ, ngài học đạo Nho. Có lần ngài than:
“Đạo này chẳng đưa đến cứu cánh”, liền chuyển
sang học Phật, từ đó ý niệm xuất gia canh cánh bên
lòng.
Năm 18 tuổi, ngài sáng tác bài ca “Bì đại” lưu hành
ở đời. Sau đó, ngài đến tỉnh Phúc Kiến, lễ trưởng lão
cao tăng Thường Khai cầu xuất gia. Năm sau, ngài
y chỉ Hòa thượng Diệu Liên ở chùa Dũng Tuyền,
Cổ Sơn thọ giới Cụ túc, rồi ẩn tu trong hang sâu ở
phía sau núi, lạy kinh Vạn Phật sám hối. Được ba
năm, ngài xuống núi đi tham vấn thiện tri thức ở
các nơi.
Năm 43 tuổi, để báo ân dưỡng dục của mẹ cha, ngài
phát tâm tam bộ nhất bái từ núi Phổ Đà đến núi
Ngũ Đài. Năm 60 tuổi, ngài tham gia thiền thất tại
chùa Cao Mân ở Dương Châu. Sau đó, ngài giảng
pháp độ sanh, xây chùa, truyền giới, tu sửa hơn 30
chốn tòng lâm, như chùa Vân Thê ở Vân Nham,
chùa Dũng Tuyền ở Cổ Sơn - Phúc Kiến, chùa Nam
Hoa ở Khúc Giang - Quảng Đông, chùa Đại Giác ở
núi Vân Môn - Nhủ Nguyên, chùa Chân Như ở núi
Vân Cư - Giang Tây.
Lúc 120 tuổi, ngài bảo đại chúng: “Sau khi trà-tì
nhục thân của ta, các ông hãy nghiền xương tro
thành bột, rồi rải xuống sông làm thức ăn cho cá.”
Ngày 13 tháng 10 năm 1959 dương lịch, ngài nằm
thế kiết tường an nhiên thị tịch. Sau khi trà-tì được
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 69
vô số xá lợi năm màu, hạt lớn như mắt rồng, trong
suốt óng ánh. Tháp thờ ngài an trí tại núi Vân Cư.
Môn đồ xuất bản bộ Niên Phả và Pháp ngữ của
ngài để lưu hành ở đời.
THÍCH NỮ MINH TÂM 70
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 71
Đại Lão Hòa Thượng Quảng Khâm (trích
trong Cẩm Nang Tu Đạo)
Hòa thượng Quảng Khâm sinh vào đời nhà Thanh,
năm Quang Tự thứ 18 (1892). Ngài họ Hoàng, tên
tục là Văn Lai, quê ở Phúc Kiến, Trung Hoa. Gia
đình ngài rất nghèo, năm ngài bốn tuổi, vì không
đủ sức nuôi dưỡng ngài, cha mẹ ngài phải đem ngài
bán làm con nuôi cho gia đình họ Lý ở Tấn Giang.
Hai ông bà họ Lý là người rất tốt, cả đời tin Phật
sâu xa, suốt đời trường trai. Bà thường đem ngài
lên chùa cầu nguyện bởi từ nhỏ ngài thường bệnh
hoạn, thân thể yếu ớt.
Năm ngài chín tuổi, bà Lý qua đời; hai năm sau
dưỡng phụ ngài cũng nối gót từ trần, khiến ngài
bỗng chốc trở thành cô nhi. Bấy giờ, bà con họ
THÍCH NỮ MINH TÂM 72
hàng ai nấy đều tranh dòm, chờ chực để chiếm đất
đai, tài sản của gia đình họ Lý để lại. Ðiều ấy khiến
cho ngài, một trẻ thơ, cảm nhận sâu xa mùi vị chua
chát của thói đời và tánh vô thường của mọi sự.
Trong đầu ngài nảy sinh ý niệm thoát trần. Ngài
đem hết của cải đất đai nhường lại cho bà con, rồi
một mình tìm tới chùa Thừa Thiên ở Phúc Châu
xin xuất gia.
Bấy giờ, phương trượng chùa Thừa Thiên là Hòa
Thượng Chuyển Trần, dạy ngài quy y, tu khổ hạnh
với thầy Thụy Phương. Ðến năm 19 tuổi, do nhiều
nhân duyên đặc biệt, ngài đã qua Nam Dương và
sống ở đó gần 16 năm.
Năm 35 tuổi, ngài về lại chùa Thừa Thiên, chính
thức xuống tóc, lạy Hòa Thượng Thụy Phương làm
thầy. Pháp danh của ngài là Chiếu Kính, tự Quảng
Khâm. Sau khi xuất gia, ngài chuyên tu khổ hạnh,
ăn những thức không ai thèm ăn, làm những việc
không ai chịu làm, thường luôn ngồi thiền, một
lòng niệm Phật. Có một thời gian ngài giữ trách
nhiệm Hương đăng và đánh bảng thức chúng mỗi
sáng. Nhiều lần ngài ngủ say quá nên trễ nãi việc
đánh bảng. Ðiều này khiến ngài vô cùng hổ thẹn,
sám hối sâu xa trong lòng, rồi từ đó lập chí ngủ
ngồi.
Năm 1933, sau sáu năm làm Sa di tu khổ hạnh,
bấy giờ ngài mới đi cầu thọ giới Tỳ khưu nơi Hòa
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 73
Thượng Diệu Nghĩa, chùa Từ Thọ, Phủ Điền. Thọ
giới rồi, ngài liền xin phép Phương Trượng Chuyển
Trần đi ẩn tu; lúc ấy ngài vừa đúng 42 tuổi. Bấy
giờ, một thân một mình, với ít áo quần và hơn 10
ký gạo, ngài nhắm núi Thanh Lương, tỉnh Tuyền
Châu, tiến bước. Nơi ấy, ở giữa sườn núi, ngài tìm
thấy một thạch động đủ rộng để an thân tu đạo.
Ðộng này vốn là nơi mãnh hổ thường lui tới; thế
nhưng khi gặp hổ, ngài chẳng hãi sợ. Ngài bảo cho
chúng biết ý định muốn dùng động này để tu hành
và khuyên chúng hãy tìm nơi khác. Lạ thay, hổ như
hiểu ý ngài. Ngài lại vì hổ mà thuyết Tam Quy; hổ
nghe rồi vẫy đuôi đi mất. Không lâu sau, hổ ấy đem
bầy hổ lại: nào hổ mẹ, hổ con... đùa giỡn, gần gũi
với ngài như gia súc vậy. Bởi thế, sau này người dân
quanh đấy gọi ngài là Phục Hổ Hòa thượng.
Bấy giờ, ngài ở sơn động ngày ngày tọa thiền, niệm
Phật; chẳng bao lâu lương thực cạn sạch, bèn hái
trái cây rừng để ăn. Trong núi, ngoài hổ còn có khỉ,
vượn. Bọn ấy, lạ thay, thường hay đến động; đem
cả hoa quả cây trái lại cúng dường ngài nữa! Hòa
thượng thường hay nhập định. Có lần ngài nhập
định đến vài tháng, không ăn uống, không động
đậy thân thể; thậm chí hơi thở dường như dứt tuyệt.
Tháng ngày qua như tên bắn, thấm thoát Hòa
thượng đã ở trên núi Thanh Lương được 13 năm.
Bấy giờ đã 54 tuổi (1945), ngài trở về chùa Thừa
Thiên. Hai năm sau, 1947, ngài rời Ðại Lục, đáp
THÍCH NỮ MINH TÂM 74
thuyền tới Ðài Loan. Ở đây, bắt đầu quãng đời
hoằng pháp của ngài:
- 1948, ngài xây một ngôi chùa nhỏ ở Ðài Bắc, tên
là Quảng Minh Tự.
- 1951, xây Quảng Chiếu Tự.
- 1952, ngài tìm thấy một thạch động ở núi Thành
Phước rất đặc biệt: khi mặt trời và mặt trăng mới
mọc thì ánh sáng chiếu thẳng vào cửa động. Bởi
thế, ngài đặt tên là Nhật Nguyệt Ðộng và quyết
định ở đấy ẩn tu. Nơi ấy xưa nay vốn không có
nước, song từ khi ngài vào ở bỗng có một suối
nước mát tự nhiên vọt lên kế bên. Trên đỉnh núi ấy,
ngài dựng một chòi tranh để ở. Một đêm nọ, có con
trăn khổng lồ bò lại chòi tranh cầu Pháp; ngài liền
vì nó thuyết Pháp và truyền Tam Quy.
- 1955, tín đồ ở Ðài Bắc cúng dường ngài một cuộc
đất do hỏa sơn tạo nên ngài bèn xây Thừa Thiên
Tự ở đó.
- 1963, ngài hưng kiến Tường Ðức Tự; xây Quảng
Long Tự ở núi Long Tỉnh, v.v...
Hằng ngày, ngài chỉ ăn một bữa và chỉ ăn trái cây;
ngài không ăn đồ nấu nướng hay chiên xào gì cả.
Vì vậy, tín đồ gọi ngài là Thủy Quả Hòa Thượng -
Ông Thầy Ăn Trái Cây. Trừ khi trời mưa, thường
thì mỗi đêm ngài đều ngồi tọa thiền cho tới sáng ở
ngoài vườn hay trong rừng, chứ không ngủ trong
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 75
phòng như kẻ khác. Ðấy là những công hạnh đặc
biệt của ngài.
Năm ngài 80 tuổi, có lần ngài biểu thị cho đại chúng
biết ý định “Xả báo - nhập định” - của ngài. Lúc ấy
các đệ tử vô cùng khẩn thiết, cầu xin ngài tiếp tục
từ bi trụ thế. Bấy giờ ngài vì tùy thuận chúng sanh
nên trì hoãn việc nhập định, tiếp tục công cuộc độ
sinh.
Ðến năm 84 tuổi, ngài bắt đầu cấm túc, ở luôn tại
chùa Thừa Thiên trên núi Thanh Lương không còn
xuống núi nữa. Năm 94 tuổi (1985), ngài chủ trì
Tam Ðàn Ðại Giới, truyền giới cho hơn 2.500 vị
Tăng, Ni và cư sĩ; tạo thành một Pháp Hội trang
nghiêm vĩ đại nhất ở Ðài Loan lúc bấy giờ.
Cuối năm 1985, ngài trở về chùa Thừa Thiên. Ngài thị
hiện có bệnh, cự tuyệt mọi thứ ẩm thực, thuốc men
cũng không tiếp kiến tín đồ. Ngày Tết Nguyên đán
năm 1986, ngài triệu tập tất cả đệ tử ở các chùa và tu
viện khắp nơi lại để phú chúc, phân phối hậu sự.
Mồng năm Tết (ngày 13 tháng 2 năm 1986), ngài
ngồi xếp bằng yên định, tinh thần hòa hoãn, chẳng
chút xao động; rồi dạy các đệ tử đồng thanh niệm
Phật. Vào hai giờ chiều hôm ấy, ngài bảo đại chúng:
“Vô lai vô khứ, một hữu sự!” (chẳng đến chẳng đi,
chẳng việc gì); rồi nhìn đại chúng gật đầu, mỉm
cười. Không lâu sau, đại chúng thấy ngài ngồi yên
bất động liền đến bên quan sát kỹ, mới hay ngài đã
THÍCH NỮ MINH TÂM 76
an nhiên theo tiếng niệm Phật, viên tịch rồi.
Nhìn lại cả đời ngài, xuất thân tuy nghèo khổ song
bản tánh tự an, ngay thật, bình dị; đến khi xuất gia,
ngài thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu,
thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó. Bởi nhân
địa chân thật như vậy, nên kết quả là cảm ứng bất
khả tư nghị. Ngài đã tiếp độ không biết bao nhiêu
chúng sanh, từ người đến thú, từ dương giới đến
âm giới, từ hữu tình đến vô tình... Và, nhất là sự
viên tịch vô cùng tự do tự tại của ngài - một minh
chứng hùng hồn nhất về sự diệu kỳ của Phật Pháp,
cũng như về khả năng thành tựu sự giải thoát, đạt
Ðạo của những bậc chân tu, thực hành.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 77
Thiền sư Thiên Như Duy Tắc
Sư họ Đàm, hiệu Thiên Như, người Cát An, Giang
Tây. Thuở nhỏ, Sư xuất gia với ngài Hòa Sơn, sau
du phương đến núi Thiên Mục đắc pháp và kế thừa
Thiền sư Trung Phong Minh Bổn. Năm 1341, Sư
trụ ở Sư Tử Lâm thuộc Tô Châu. Năm sau, môn
nhân hợp sức dựng chùa Bồ Đề Chánh Tông, thỉnh
Sư thuyết pháp, xiển dương tông phong Lâm Tế.
Ngoài ra, Sư còn nghiên cứu sâu giáo nghĩa của
ngài Vĩnh Minh, tông Thiên Thai, xiển dương Tịnh
độ, soạn Tịnh độ Hoặc Vấn để trừ nghi và sách tấn
hành giả tu tập. Sư được Thuận đế nhà Nguyên ban
hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện Thiền sư
và y kim lan.
THÍCH NỮ MINH TÂM 78
Tác phẩm do Sư trước tác gồm: Lăng Nghiêm Kinh
Hội Giải 20 quyển, Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông
Sớ 10 quyển, Tịnh độ Hoặc Vấn, Thiền Tông Ngữ
Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết.
Sư thị tịch vào năm Hồng Võ nguyên niên đời nhà
Minh (năm 1354), khi tịch điềm lành rất nhiều, thọ
71 tuổi, không rõ Tăng lạp bao nhiêu.
Đại Sư dạy:
“Người đời nay tuy dễ tinh tiến song cũng dễ thoái
lui, khi nghe lời khuyên nhắc thì dõng mãnh siêng
năng, lúc gặp việc gì chướng ngại lại giãi đãi thoái lui
ngả theo hướng khác. Phần đông bọn họ đều nói:
“Kết quả của sự niệm Phật có lẽ đợi sau khi chết rồi
mới thấy, còn hiện tại chỉ thấy nhọc nhằn mệt mỏi mà
chẳng thấy lợi ích thiết thực gì cả.” Thực đáng thương
thay cho những kẻ nông nổi mông muội này.
Trong Kinh Tịnh độ có viết: Người nào hiện đời chí
tâm thọ trì danh hiệu Phật, hiện đời sẽ được mười
điều thắng lợi như sau:
1. Ngày đêm thường được tất cả chư Thiên, đại lực
thần tướng và hằng sa quyến thuộc ẩn hình ủng hộ.
2. Thường được 25 vị Đại Bồ Tát như đức Quán
Thế Âm và tất cả Bồ Tát theo thủ hộ bên mình.
3. Hằng được chư Phật ngày đêm hộ niệm, đức A
Di Đà thường phóng ánh sáng nhiếp thọ người ấy.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 79
4. Tất cả ác quỷ như Dạ xoa, La sát đều không thể
làm hại. Tất cả rồng độc, rắn độc và thuốc độc đều
không thể xâm phạm.
5. Không bị những tai nạn như: nước trôi, lửa cháy,
giặc oán, đao tên, gông xiềng, tù ngục, hoạch tử.
6. Những nghiệp ác về trước lần lượt đều tiêu diệt.
Những oan mạng bị đương nhân giết, nhờ công
đức niệm Phật, đều được giải thoát, không còn
theo báo thù phục hận nữa.
7. Đêm nằm nghỉ yên ổn, hoặc mơ thấy điềm lành
hay thấy sắc thân thắng diệu của đức Phật Di Đà.
8. Tâm thường an vui, nhan sắc nhuận khí lực đầy
đủ, việc làm có kết quả tốt đẹp.
9. Thường được mọi người kính trọng giúp đỡ,
hoặc hoan hỷ lễ bái cũng như kính Phật.
10. Khi lâm chung tâm không sợ hãi, chánh niệm
hiện ra, được thấy Phật A Di Đà cùng các thánh
chúng tay bưng đài vàng tiếp dẫn vãng sanh về Cực
lạc, cùng tận kiếp vị lai hưởng thọ sự vui nhiệm
mầu.
THÍCH NỮ MINH TÂM 80
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 81
Đại sư Thiên Thai Trí Giả
Đại sư Trí Khải khi chưa xuất gia là con nhà họ
Trần, tự là Đức An, tổ tiên trước kia là người vùng
Dĩnh Xuyên (nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam)
nhưng ngài sinh ra vào năm 538 ở Hoa Dung, Kinh
Châu, (nay thuộc Hồ Bắc).
Từ nhỏ ngài đã có lòng tin Phật. Năm 17 tuổi, gặp
lúc nhà Lương suy mạt, binh loạn khắp nơi, ngài
phải lưu lạc đây đó. Năm 18 tuổi đến chùa Quả
Nguyện ở Tương Châu xuất gia, đủ 20 tuổi thì thọ
Cụ túc giới.
Vào niên hiệu Thiên Gia thứ nhất đời Trần Văn Đế
(560), ngài đến núi Đại Tô, Quang Châu (nay là
THÍCH NỮ MINH TÂM 82
Hoàng Xuyên, Hà Nam) theo ngài Huệ Tư học Tứ
an lạc hạnh, tu chứng được Pháp Hoa Tam-muội.
Niên hiệu Quang Đại thứ nhất đời Trần Phế Đế
(567), ngài đến Kiến Khương giảng dạy pháp Thiền,
ở chùa Ngõa Quan trong 8 năm, giảng Đại Trí Độ
luận và thuyết Thứ đệ thiền môn, cùng giảng kinh
Diệu Pháp Liên Hoa và nhiều kinh điển khác.
Đến niên hiệu Thái Kiến thứ 7 đời Trần Tuyên Đế
(575), ngài vào núi Thiên Thai (cũng gọi là Thiên
Đài) ẩn cư tu tập. Cho đến niên hiệu Chí Đức thứ 3
(585), Trần Hậu Chủ ban sắc chỉ thỉnh ngài trở về
Kiến Khương giảng kinh Nhân vương Bát-nhã và
một số kinh khác.
Năm sau đó (586), thái tử nhà Trần đến xin thọ giới
với ngài. Năm 587, ngài ở chùa Quang Trạch giảng
kinh Diệu Vị Năng Liên Hoa, đệ tử là ngài Quán
Đỉnh ghi chép tất cả lời giảng, soạn lại thành sách
Pháp Hoa văn cú.
Từ sau khi nhà Trần bị nhà Tùy diệt, ngài đến ở
Lư Sơn. Đến niên hiệu Khai Hoàng thứ 11 đời Tùy
Văn Đế (591), Tấn Vương Dương Quảng (con Tùy
Văn Đế) thỉnh ngài đến Dương Châu để thọ giới
với ngài, ban tôn hiệu là Trí Giả, nhân đó đương
thời tôn xưng ngài là Trí Giả Đại sư.
Năm 592, ngài đến Kinh Châu xây dựng chùa Ngọc
Tuyền, thuyết giảng Pháp Hoa huyền nghĩa và Ma-
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 83
ha chỉ quán, đệ tử là Quán Đỉnh cũng chép lại
thành sách lưu truyền. Đến niên hiệu Khai Hoàng
thứ 15 (595), ngài lại vì Tấn Vương Dương Quảng
mà soạn bộ Tịnh Danh kinh sớ (Sớ giải kinh Duy-
ma-cật). Năm sau đó (596), ngài từ biệt trở về núi
Thiên Thai, trùng tu tự viện. Sang năm sau nữa
(597) thì viên tịch.
Suốt một đời ngài đã kiến lập đến 36 ngôi chùa,
truyền giới độ tăng đến 14.000 vị, đệ tử nối pháp
có 32 người, đứng đầu là ngài Quán Đỉnh. Trước
tác các sách luận giải chú thích có đến 29 bộ, 151
quyển. Ngay cả trước lúc lâm chung còn khẩu
truyền bộ Quán tâm luận, cũng là một quyển luận
được người sau xem trọng. Đó là chưa kể còn có rất
nhiều sách khác vẫn được cho là của ngài nhưng
chưa dám xác quyết, vì còn ngờ là do người đời sau
nhầm lẫn. Quả thực là một vị danh tăng xưa nay ít
có!
THÍCH NỮ MINH TÂM 84
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 85
Hòa thượng Tuyên Hóa
Hoà thượng vốn họ Bạch, tên tục là Ngọc-Thư,
Pháp danh là An Từ, tự Ðộ Luân, và Tuyên Hóa
là pháp hiệu do Lão Hòa thượng Hư Vân đặc biệt
tặng cho khi ngài thọ lãnh sứ mạng làm người kế
thừa truyền Pháp đời thứ chín của Thiền Tông
Quy Ngưỡng. Ngài sinh ngày 16 tháng 3 năm Mậu
Ngọ (1918), tại tỉnh Kiết Lâm, huyện Song Thành,
tỉnh Tùng-Giang, Ðông Bắc Trung Hoa (tức Mãn
Châu). Thân phụ ngài tên Phú Hải, chuyên nghề
nông; thân mẫu thuộc dòng dõi họ Hồ, sinh được
tám người con, năm trai ba gái, và ngài là út.
Thân mẫu ngài thọ chay trường, niệm Phật chẳng
hề gián đoạn. Một đêm nọ bà mộng thấy Ðức Phật
A-Di-Ðà hiện thân, phóng hào quang chiếu sáng
THÍCH NỮ MINH TÂM 86
khắp thế giới, chấn động thiên địa. Giật mình tỉnh
giấc, bà ngửi thấy mùi hương kỳ diệu khắp phòng,
rồi sau đó hạ sanh ngài. Ngài vừa ra đời liền khóc
suốt ba ngày đêm, chính là vì đau xót cho nỗi khổ
của thế giới Ta-bà này vậy.
Năm ngài mười một tuổi, một hôm cùng chúng bạn
dạo chơi, ngài chợt trông thấy một em bé miệng
ngậm, mắt nhắm, nằm bó trong đám rơm. Ngài gọi
mà đứa bé chẳng đáp, rờ thì chẳng có hơi thở. Ngài
lấy làm khó hiểu vô cùng nên hỏi lũ bạn. Có kẻ
hiểu biết nên liền nói: “Ðứa bé đã chết rồi!” Song
Ngài vẫn vô cùng ngạc nhiên, không hiểu thế nào
là chết. Về nhà, Ngài thưa hỏi thân mẫu, bà dạy:
“Phàm làm người, ai cũng phải chết. Có kẻ chết
già, có kẻ chết vì bệnh, cũng có kẻ chết vì tai nạn.
Bất luận là giàu sang hay nghèo hèn, ai ai rốt cuộc
cũng phải chết cả!” Ngài lại thưa: “Như vậy, có cách
gì thoát sự chết chăng?” Bấy giờ trong nhà có vị
khách xưa kia từng tu Ðạo, đỡ lời đáp rằng: “Chỉ có
cách tu Ðạo, hiểu rõ tự tâm, thấu suốt bổn tánh, thì
mới có thể chấm dứt sanh tử, thoát vòng luân hồi,
thành tựu Chánh Giác, chứng được Vô Sanh.”
Tuy lúc đó ngài còn nhỏ tuổi, song đối với lời vị
khách nói, ngài tỉnh ngộ sâu xa, nên quyết chí xuất
gia tu Ðạo. Khi Ngài mang chuyện xuất gia thưa với
thân mẫu, bà dạy: “Xuất gia là điều tốt lắm, song
không phải là chuyện dễ làm. Cần có thiện căn, có
đại nguyện lực, phát đại Bồ Ðề tâm, thì mới có thể
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 87
thành tựu Vô Thượng Ðạo. Nay con có lòng vậy,
ta hết sức đồng ý! Song, nay ta đã già, mà các anh
chị con đều đã tự lập; vậy con nên ở lại để phụng
dưỡng cha mẹ; khi ta mất rồi, con xuất gia tu hành
cũng chưa muộn.”
Ngài vâng lời cha mẹ. Sau đó, hằng ngày thường
theo thân mẫu lạy Phật. Lạy Phật xong, Ngài lạy cha
me. Rồi vì nhận thấy thế giới này còn lớn hơn cả
cha mẹ, nên Ngài hướng về trời, đất, vua, sư trưởng
mà lạy. Ngài lại nghĩ đến những người tốt trên thế
giới mà lạy, thầm tạ ơn họ về các việc thiện họ đã
làm. Nhận thấy những người ác thực đáng thương,
Ngài lại vì họ mà lạy, mong sao nghiệp chướng của
họ được giảm bớt và sớm biết hối cải. Mỗi ngày
ngài lại nghĩ thêm những người khác để lạy; nên về
sau, bất kể thời tiết, mỗi ngày ngài đều đặn lạy 837
lạy vào buổi sáng và 837 lạy vào buổi tối.
Ngày lại ngày, ngài cung kính phụng dưỡng song
thân như đối với Ðức Phật vậỵ. Chẳng bao lâu tiếng
hiếu thảo đồn khắp bốn phương, và mọi người đều
gọi ngài là Bạch Hiếu Tử (người con chí hiếu họ
Bạch).
Năm ngài mười chín tuổi thì gặp phải tang thân
mẫu. Sau khi chu toàn việc mai táng, ngài đến
Chùa Tam Duyên lạy Lão Hòa thượng Thường
Trí làm Thầy, và xuống tóc xuất gia. Sau đó, ngài
về lại mộ phần thân mẫu thủ hiếu trong ba năm.
THÍCH NỮ MINH TÂM 88
Suốt thời gian ấy, ngài sống trong một túp lều tranh
nhỏ, ngày ngày tọa Thiền, đọc tụng kinh điển Ðại
Thừa và niệm danh hiệu Phật A-Di-Ðà. Rất nhiều
lần ngài ngồi Thiền rồi nhập Ðịnh, liên tiếp trong
nhiều tuần lễ chẳng rời thiền sàng. Một đêm nọ, dân
trong thôn gần đó hốt hoảng thấy túp lều tranh của
ngài hừng hực lửa đỏ. Ánh lửa hồng phừng thẳng
lên giữa không trung và túp lều tranh thì sáng rực
như ban ngày. Song, khi tới nơi mọi người thấy túp
lều tranh vẫn bình lặng, và ngài thì an nhiên, tĩnh
mặc trong Thiền Ðịnh!
Có lần ngài đang tọa Thiền thì chợt có vị khách đến
viếng. Vị khách ấy, ngạc nhiên thay, chính là Lục Tổ
Huệ Năng! Ðức Tổ Sư dạy ngài rằng trong tương lai
ngài sẽ đến Mỹ Quốc để độ sinh, rằng ở Tây phương
Ngài sẽ gặp nhiều kẻ hữu duyên có thể hoằng dương
Phật Pháp, và sẽ độ vô lượng vô biên chúng sanh.
Mãi đến lúc Ðức Tổ Sư từ biệt quay đi rồi, ngài mới
choàng tỉnh, sực nhớ rằng Ðức Huệ Năng vốn là
người đời Ðường, khoảng 1.200 năm về trước!
Năm 1946, sau khi Thế Chiến thứ hai kết thúc, tình
trạng giao thông trong nước đã bắt đầu dễ dàng
trở lại. Ngài bèn tìm xuống phía Nam để đến Chùa
Nam Hoa ở Tào Khê, tỉnh Quảng Ðông, đảnh lễ
Lão Hòa thượng Hư Vân, và đến núi Phổ Ðà để thọ
Cụ túc giới. Cuối cùng, trải hơn 3.000 dặm, Ngài
đã được bái kiến Lão Hòa thượng Hư Vân, bậc Ðại
Thiện Tri Thức mà Ngài bấy lâu ngưỡng mộ.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 89
Vừa nhìn thấy Ngài, Lão Hòa thượng, lúc ấy đã 109
tuổi, liền nhận ra ngay sự chứng ngộ của Ngài. Khi
đó, lão Hòa thượng nói: “Như thị, như thị!” và Ngài
cũng đáp lại “Như thị, như thị!” Biết Ngài là bậc
“pháp khí”, Lão Hòa thượng Hư Vân ấn chứng sở
đắc của Ngài, và Ngài chính thức trở thành vị tổ
thứ chín của Thiền Tông Quy Ngưỡng. Sau đó, Lão
Hòa thượng dạy Ngài ở lại đảm nhận chức Viện
Trưởng Viện Giới Luật Chùa Nam Hoa.
Năm 1949, Ngài từ giã Chùa Nam Hoa, lên đường
sang Hương Cảng, và sống trong một sơn động biệt
lập. Chẳng bao lâu, có vô số tăng lữ từ Trung Hoa
Ðại Lục qua Hương Cảng tị nạn và cần sự giúp đỡ
của Ngài. Ứng với nhân duyên, Ngài rời sơn động,
sáng lập Phật giáo Giảng Ðường, Chùa Tây Lạc
Viên và Từ Hưng Thiền Tự, cùng trợ giúp xây dựng
và trùng tu nhiều đạo tràng khác. Trong suốt mười
hai năm ở Hương Cảng, Ngài là tấm gương sáng
khổ hạnh, tinh tấn tu Ðạo, vì Pháp quên mình.
Ngài đã ảnh hưởng vô số thiện nam tín nữ, khiến
họ phát tâm Bồ Ðề, quy y Tam Bảo, ủng hộ Phật
Pháp.
Hòa thượng Tuyên Hóa vốn nuôi chí nguyện đem
Chánh Pháp truyền bá đến khắp nơi trên toàn
thế giới, nên năm 1961, ngài sang Úc Châu hoằng
Pháp; và năm sau, 1962, Ngài đến San Francisco,
Mỹ Quốc. Tại đây, nơi một nhà kho nhỏ, ngài kiên
trì tu hành trong im lặng, chờ đợi cơ duyên hoằng
THÍCH NỮ MINH TÂM 90
dương Ðạo Pháp chín muồi. Lúc ấy, Ngài tự gọi
mình là Mộ Trung Tăng (nhà sư trong phần mộ),
và Hoạt Tử Nhân (người đã chết nhưng còn sống).
Năm 1968, biết cơ duyên đã đến, ngài nói: “Một
đóa hoa sẽ nở ra năm cánh.” Mùa hè năm ấy, ngài
chủ trì Pháp hội giảng Kinh Lăng Nghiêm trong
96 ngày. Khi Pháp hội kết thúc, quả nhiên có năm
người Mỹ xin xuất gia với ngài. Từ đó, Ngài chủ
trì nhiều Pháp hội khác giảng giải Tâm Kinh, Kinh
Ðịa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Pháp Bảo Ðàn, v.
v.. Năm 1971, ngài giảng bộ Kinh tối cao của Ðại
Thừa, Kinh Hoa Nghiêm.
Song song với việc giảng Kinh thuyết Pháp, ngài
còn làm vô số công đức độ sinh khác. Năm 1976,
ngài thành lập Vạn Phật Thánh Thành, nền tảng
căn cứ địa để hoằng dương Phật Pháp tại Mỹ Quốc.
Tại Thánh Thành, Ngài xây dựng chế độ tùng lâm,
đào tạo Tăng Ni học chúng, tạo nhân duyên thù
thắng cho sự chân chính tu hành. Ngài chủ trương
rằng tất cả Phật tử cần phải đoàn kết lại và nên
dung hợp Nam, Bắc Tông. Vì thế, nhiều dịp truyền
thọ Tam Ðàn Ðại Giới tổ chức tại Vạn Phật Thánh
Thành là do chư cao tăng Ðại Thừa và Tiểu Thừa
hợp lực chủ trì.
Năm 1980, Ngài thành lập Trung Tâm Cứu Tế Nạn
Dân, một tổ chức cứu trợ xã hội bất vụ lợi được
chính phủ Hoa Kỳ ủy quyền để cứu tế, cung cấp các
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 91
lớp huấn nghệ và Anh ngữ, đồng thời giúp tái định
cư người tỵ nạn từ Việt Nam, Lào, Campuchia.
Trung tâm này đóng cửa vào năm 1986 theo quyết
định của chính phủ.
Với tinh thần “Vì Pháp quên mình,” Hòa thượng
không quản khó nhọc, thường xuyên đến các đạo
tràng trong và ngoài nước để hoằng dương Phật
Pháp. Ngài được mọi giới kính ngưỡng vì nếp sống
khổ hạnh và nghiêm trì Giới Luật của ngài. Trong
thời Mạt Pháp mà nhiều người không tôn trọng
Giới Luật này, ngài đã nêu gương sáng và khuyến
khích nếp sống khổ hạnh bằng cách chỉ ăn mỗi
ngày một bữa vào giờ ngọ và ban đêm thì ngủ ngồi
chứ không nằm.
Bình sanh, ngài sống nhẫn nhục, khoan dung, nhịn
ăn nhiều lần để hồi hướng công đức cho chúng
sanh. Mặc dầu tuổi Ngài đã cao nhưng Ngài vẫn
không muốn nghỉ ngơi tịnh dưỡng. Suốt ba mươi
năm liên tục, Ngài đã đăng đàn thuyết Pháp và
giảng luận kinh điển Phật giáo, giương cao ngọn
đèn rực rỡ của trí huệ để soi đường cho chúng sanh
đang chìm đắm trong đêm tối của thời đại Mạt
Pháp này. Chính trong lúc ngài đang bệnh để gánh
chịu khổ nạn cho chúng sanh, ngài vẫn kiên trì tiếp
tục đại nguyện diễn dịch kinh điển Phật giáo.
Ngày 7 tháng 6 năm 1995, Hòa thượng Tuyên Hóa
thị hiện viên tịch tại Los Angeles, Mỹ Quốc; trao lại
THÍCH NỮ MINH TÂM 92
cho các đệ tử ba trách nhiệm quan yếu: (1) tiếp tục
hoằng dương Phật Pháp, (2) phiên dịch kinh điển
Phật giáo, và (3) hoàn mãn sự nghiệp giáo dục.
Vâng theo di huấn của ngài, tứ chúng đệ tử tại các
đạo tràng thuộc Tổng Hội Phật giáo Pháp Giới đều
chuyên tâm trì tụng Kinh Hoa Nghiêm và niệm
Phật suốt 49 ngày kể từ hôm ngài viên tịch. Ngày
12 tháng 6, 1995, Lễ Nhập Quan được cử hành tại
Long Beach Thánh Tự; và đến ngày 16 tháng 6,
Kim quan của ngài được cung thỉnh về Vạn Phật
Thành. Tại đây Ðại Lễ Truy Ân được tổ chức từ
ngày 26 đến ngày 28 tháng 7, tro cốt của ngài được
rải trên địa phận của Vạn Phật Thánh Thành đúng
như lời di giáo của ngài:
“Khi tôi đến, tôi không có gì cả; khi tôi đi, tôi vẫn
không có gì cả. Tôi không muốn để lại dấu vết gì
trên thế gian. Tôi từ hư không đến. Tôi sẽ trở về hư
không!”
Dù cho ngài không muốn để lại một dấu vết nào
trên thế gian này, nhưng công đức hoằng Pháp tại
Tây phương, phiên dịch kinh điển, thiết lập đạo
tràng và học đường của ngài lúc còn tại thế đã
gieo hạt giống Bồ Ðề và đã gây được ảnh hưởng
sâu rộng đến các từng lớp dân chúng Tây phương.
Những dấu ấn đó của ngài sẽ không bao giờ phai
mờ với thời gian!
Ngày 23 tháng 6 năm 1996, đúng một năm sau
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 93
ngày Hòa thượng Tuyên Hóa nhập Niết Bàn, Tổng
Hội Phật giáo Pháp Giới long trọng tổ chức Lễ
Cung Thỉnh Xá Lợi Hòa thượng về các Ðạo Tràng.
Hòa thượng Tuyên Hóa đã vĩnh viễn ra đi, nhưng
trong tâm trí mọi người vẫn âm vang lời di huấn
của ngài: “Hãy quét sạch tất cả các Pháp, ly khai tất
cả các tướng!”
Mười Tám Ðại Nguyện của Lão Hòa thượng Tuyên
Hóa
Năm Hòa thượng Tuyên Hóa mười chín tuổi thì
thân mẫu Ngài tạ thế. Sau khi lo liệu chu toàn việc
mai táng. Ngài tới Chùa Tam Duyên ở Hợp Nhĩ
Tân lạy Hòa thượng Thường Trí làm Thầy, chính
thức xuất gia. Ít lâu sau, ngài tới trước mộ phần của
thân mẫu để thủ hiếu. Năm đó, nhân ngày vía Ðức
Quán Thế Âm Bồ Tát, 19 tháng 6 âm lịch, ngài đối
trước chư Phật và chư Bồ Tát mười phương phát
Mười Tám Ðại Nguyện:
“Kính lạy mười phương chư Phật, cùng Tam Tạng
Pháp với chư Hiền Thánh Tăng trong đời quá khứ
và hiện tại,
Nguyện rũ lòng chứng giám:
Ðệ tử là Ðộ Luân, Thích An Từ, con nay phát tâm,
Chẳng vì cầu phước báu của hàng Trời, Người,
cùng Thanh Văn, Duyên Giác,
THÍCH NỮ MINH TÂM 94
Hay của hàng Bồ Tát Quyền Thừa mà phát Bồ Ðề Tâm.
Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong Pháp Giới
đồng thời chứng đắc, A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-
bồ-đề.
1. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Bồ Tát
ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư không,
biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật thì con
thề không giữ ngôi Chánh Giác.
2. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Duyên
Giác ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư
không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật,
thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.
3. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Thanh
Văn ở mười phương ba đời, trong tận cùng hư
không, biến khắp Pháp Giới, mà chưa thành Phật,
thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.
4. Nguyện rằng nếu có một vị thuộc hàng Trời,
Người ở trong Tam Giới, mà chưa thành Phật, thì
con thề không giữ ngôi Chánh Giác.
5. Nguyện rằng nếu còn một Người ở trong mười
phương thế giới chưa thành Phật, thì con thề không
giữ ngôi Chánh Giác.
6. Nguyện rằng nếu có một vị Trời, Người hay
A-tu-la, mà chưa thành Phật, thì con thề không giữ
ngôi Chánh Giác.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 95
7. Nguyện rằng trong thế giới loài Súc sanh mà còn
một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi
Chánh Giác.
8. Nguyện rằng trong thế giới loài Ngạ quỷ mà còn
một kẻ chưa thành Phật, con thề không giữ ngôi
Chánh Giác.
9. Nguyện rằng nếu trong thế giới loài Ðịa ngục,
mà còn một kẻ chưa thành Phật hoặc địa ngục chưa
trống không, thì con thề không giữ ngôi Chánh Giác.
10. Nguyện rằng trong Tam Giới, nếu còn một ai đã
từng quy y với con-dù là Trời, Người, A-tu-la, các
loài bay, lặn, động vật, thực vật, linh giới, rồng, súc
sinh, quỷ, hoặc thần mà chưa thành Phật, con thề
không giữ ngôi Chánh Giác.
11. Nguyện hồi hướng, bố thí khắp nơi mọi phước
lạc mà con đáng được hưởng, cho tất cả chúng sinh
trong Pháp Giới.
12. Nguyện rằng một mình con sẽ nhận chịu hết tất
cả khổ nạn của chúng sinh trong toàn Pháp Giới.
13. Nguyện rằng con sẽ phân linh thành vô số để
phổ nhập vào tâm của những chúng sinh nào không
tin Phật Pháp, làm cho họ bỏ ác hướng thiện, sám
hối tội lỗi, biết tự sửa mình, quy y Tam Bảo, rồi
cuối cùng đều được thành Phật.
14. Nguyện rằng chúng sanh nào thấy mặt con,
THÍCH NỮ MINH TÂM 96
hoặc chỉ nghe tên con, đều phát tâm Bồ-đề, chóng
đắc thành Phật Ðạo.
15. Nguyện rằng luôn tôn kính điều Phật dạy và
thực hành mỗi ngày ăn một bữa vào lúc giữa trưa.
16. Nguyện giác ngộ loài hữu tình, nhiếp thọ rộng
khắp các loài căn cơ.
17. Nguyện trong đời này con sẽ đắc Ngũ nhãn,
Lục thông, phi hành tự tại.
18. Nguyện rằng tất cả nguyện trên đều được thành
tựu viên mãn.
Và cuối cùng:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ.
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 97
Hòa thượng Diệu Liên
Ngài là con một nhà nghèo, tu lúc nhỏ. Năm 1949 ngài
chạy nạn đi Hồng Kông. Một vị Hòa thượng ở Hồng
Kông đáng lẽ cho ngài bế quan chỉ có 6 tháng thôi,
nhưng ngài xin bế quan đến khoảng 20 năm. Sau đó
ngài về Đài Loan, nhiều minh tinh Hồng Kông ủng hộ
ngài nên ngài bắt đầu xây dựng Linh Nham Sơn Tự.
Ngài có phát nguyện 48 lời nguyện giống đức Phật A
Di Đà, nhưng có thêm một lời nguyện nữa là “Nếu
ai gặp tôi thì tôi sẽ độ về Tây phương Tịnh độ.”
Ghi chú: Người soạn không thể tìm thấy chi tiết hơn
về “Tiểu sử của Hòa thượng Diệu Liên.”
Nếu bậc thức giả nào để tâm và thu thập được nhiều
hơn, kính xin chia sẻ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 98
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 99
Thiền sư Lai Qủa
Sư tên Diệu Thọ tự Lai Quả, hiệu là Tịnh Như, con
nhà nông họ Lưu, quê ở huyện Hoàng Cương, tỉnh
Hồ Bắc, Trung Quốc.
Năm lên bảy, Sư nghe vị Tăng bên cạnh tụng câu
“Vô trí diệc vô đắc” trong Tâm Kinh, Sư tỉnh ngộ.
Năm 12 tuổi, Sư có chí thoát trần, trốn đi xuất gia,
bị người anh tìm bắt trở về.
Năm 15 tuổi, Hòa thượng Đại Trí dạy lấy niệm
Phật để liễu thoát sanh tử, Sư bèn niệm Phật thành
THÍCH NỮ MINH TÂM 100
phiến, cho đến ngủ chiêm bao cũng vẫn lớn tiếng
niệm Phật. Hòa thượng nói: “Đây là chân thực
niệm Phật. Vậy niệm Phật là người nào? Ông biết
không?”. Sư không đáp được. Hòa thượng nói:
“Đợi ông tìm ra người niệm Phật, ta sẽ nói chuyện
với ông.”
Năm 18 tuổi, Sư cắt gan trị bịnh cho cha.
Năm Ất-Tỵ (1905 TL), Sư 25 tuổi đi hành hương ở
núi Phổ Đà, gặp một vị tăng khổ hạnh, Sư cảm kích
bèn xuống tóc ở núi Bảo Hoa, Sư bị chư Tăng trong
chùa hành hạ khổ sở chẳng xiết, trốn đến bờ sông,
nhiều ngày bị nhịn đói, cùng với chó hoang ở chung,
muốn đâm đầu xuống sông tự vận, bỗng gặp vị Tăng
ở chùa Di Đà, Kinh Khẩu cứu kịp. Sư theo vị Tăng
ấy đến chùa Kim Sơn, song vì chưa thông thuộc quy
củ nên một hôm bị đánh hơn bốn trăm hương bản.
Ngày 26-9 năm Quang Tự thứ 34 (1908 TL), Sư
nghe tiếng mõ khai tịnh sau thời khóa công phu
buổi chiều tối, hóat nhiên thoát lạc như buông
gánh nặng ngàn cân, đánh mất cái mũi mẹ sanh,
khóc to chẳng nín, hư không trên trời, nước chảy
dưới đất, tất cả trệ ngại hoàn toàn tiêu hết, cơ dụng
hiện tiền có hỏi liền có đáp. Hòa thượng, Ban Thủ
đến tận nơi khen ngợi.
Một hôm Từ Bản lão nhân đưa cái khăn tay ra làm
thế rửa mặt, hỏi Sư: “Là cái gì?” Sư nói: “Đã dư
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 101
chiếc khăn tay rồi.” Từ lão nhân chẳng đáp mà lui.
Sư từ đấy càng thận trọng.
Sư từng được sung chức phạn đầu, hết sức phụng
sự nhà chùa một cách tiết kiệm. Thủ Tọa khuyên
Sư đảm nhiệm chức vụ ban thủ. Sư tự thấy mình
còn kém bèn trốn sang chùa Cao Mân, cũng bị đảm
nhiệm chức vụ ban thủ. Sư bỗng có ý du phương
đi ẩn tu ở núi Chung Nam, gặp cư sĩ Cao Hạc Niên
hối thúc trở về Nam.
Sư trở về chùa Cao Mân, Tổ Nguyệt Lãng sai Minh
Hiên lão nhân chọn ngày truyền pháp cho Sư. Lúc
lâm chung, Tổ nắm tay buộc Sư phải phát nguyện:
“Sống làm người Cao Mân, chết làm quỷ Cao Mân”.
Sau khi nhậm chức trụ trì, Sư khôi phục lại quy
chế cũ, lấy việc kiến thiết sửa sang bảo tháp, đại
điện, thiền đường, Diên Thọ đường, Như Ý liêu,
năm công trình lớn nầy làm chí nguyện, song cho
đến khi tịch mà chưa viên mãn. Sư mong ước thừa
nguyện lực tái lai để tiếp tục công trình cho hoàn
tất. Chỉ có Cổ Lương Đình là làm xong, phong
cảnh thanh u, làm tăng thêm pháp hỷ cho người.
Sư thuận theo lời khẩn thiết thỉnh cầu của các nơi,
y theo lệ trước của Triệt Tổ Thiền Tuệ soạn quyển
Tự Hành Lục ghi lại đầy đủ hành trạng cả một cuộc
đời khôi-vĩ dị thường của Sư. Quyển sách nầy đã
được ấn hành trong bộ Ngữ Lục.
THÍCH NỮ MINH TÂM 102
Sư thân hình cao lớn trắng trẻo, mắt nhỏ, tiếng to.
Từ 50 tuổi về sau, Sư hành hạnh đầu đà, và nếu chí
mình chưa toại thì chẳng cạo bỏ râu tóc để đau đáu
nhớ mãi chí nguyện của mình, nhưng nghi biểu lại
càng oai nghiêm, tánh tình cứng cỏi chân thực, gặp
việc thì cố gắng hết sức làm, khiến cho ý không tốt
của người tự tiêu tan. Cả đời Sư chỉ lấy hoằng pháp,
ngộ đạo làm nhiệm vụ, đánh hét đều dung, chuông
trống xen nhau, chưa từng có chút lười mỏi. Đương
thời, Hòa thượng Hư Vân là người được sự trọng
vọng trong Tông Môn, tuy lớn tuổi hơn Sư mà cùng
với Sư khế hợp không gián cách.
Có một lần, nhà chùa cần muốn hóa duyên để sửa
tháp, Sư nhóm họp đồ chúng lại luận bàn, trong số
chúng có mấy người phát nguyện lãnh trách nhiệm
đi các nơi hóa duyên. Có một vị Tăng đến Vũ Hán
cảm động sự phát tâm của thí chủ bèn tự chặt cánh
tay để đền đáp, mọi người xa gần đều kinh ngạc
ngợi khen.
Sư sanh vào giờ Dần, ngày 2-7 năm Tân-Tỵ (1881
TL) nhằm năm Quang Tự thứ bảy, diệt độ vào giờ
Dần, ngày 17-10 năm Quý Tỵ (1953 TL). Sư thọ 75
tuổi, tăng lạp 49 xuân, giới lạp 49 hạ, pháp lạp 39
thu, trụ trì 35 đông.
Ngày mùng một tháng 11, linh cữu từ tinh thất ở
Thượng Hải được đưa về chùa, ngày mùng 8 tháng
Chạp trà tỳ, bốn chúng vân tập đau buồn thương
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 103
tiếc như đưa đám ma cha mẹ. Xá-lợi rất nhiều,
sáng như lưu ly năm màu chói lọi. Giờ Thìn ngày
4-4 năm sau nhập tháp rồi cất đình ở bổn tự (Cao
Mân) để thờ tháp Xá Lợi.
THÍCH NỮ MINH TÂM 104
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 105
Lão Pháp sư Tịnh Không
Thượng Nhân thượng Tịnh hạ Không, tục danh
là Từ Nghiệp Hồng, sinh năm 1927 tại huyện Lư
Giang, tỉnh An Huy, Trung Quốc nhưng lúc nhỏ
sống tại huyện Kiến Ngõa tỉnh Phước Kiến. Năm
1949, Sư đến Ðài Loan, dạy học tại Thực Tiễn Học
Xã. Ngoài việc giảng dạy, Sư gia tâm nghiên cứu
kinh sử, cổ văn.
Ðể mở rộng tầm kiến văn, trong suốt 13 năm Sư đã
theo học với các bậc danh sĩ thạc học thời đó là các
vị Phương Ðông Mỹ, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam v.v…
Ngoài ra, Sư còn theo học Mật Giáo Tây Tạng với
Chương Gia Ðại Sư. Tuy thế, vị thầy Sư kính phục
nhất và học hỏi được nhiều nhất vẫn là lão cư sĩ Lý
THÍCH NỮ MINH TÂM 106
Bỉnh Nam. Sư nể phục cụ Lý sâu xa đến nỗi hầu
như bất cứ khi nào giảng pháp, dù bất cứ đề tài nào,
Sư đều nhắc đến Lý lão cư sĩ với lòng biết ơn vô
hạn. Dưới sự giảng dạy, dìu dắt của những vị trên,
Sư thấu hiểu sâu xa, thâm nhập kinh điển Phật học.
Năm 1959, 32 tuổi, Sư thế phát xuất gia tại chùa
Lâm Tế thuộc Viên Sơn, thành phố Ðài Bắc, pháp
danh là Tịnh Giác, pháp tự là Tịnh Không. Sau khi
thọ Cụ Túc giới, Sư tích cực hoằng dương Phật
pháp cả trong nước lẫn hải ngoại. Ðề tài giảng
thuật của Sư rất phong phú: Trong suốt 30 năm,
chưa hề gián đoạn lúc nào, Sư liên tục giảng rộng
đến mấy mươi loại kinh, luận Ðại Thừa như Hoa
Nghiêm, Pháp Hoa, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Viên
Giác, Lục Tổ Ðàn Kinh; nhưng kinh Sư tâm đắc
nhất là Tịnh Ðộ Ngũ Kinh (A Di Ðà, Vô Lượng
Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, chương Ðại Thế Chí
Niệm Phật của kinh Lăng Nghiêm và phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện).
Sư học rộng, hiểu nhiều, thâm nhập Kinh Tạng,
hiểu rõ Thiền lẫn Mật, nhưng lại chuyên chú nơi
Tịnh Nghiệp. Sư chủ trương đại chúng học kinh
điển để lãnh hội sâu rộng Phật pháp, nhưng hạnh
phải chuyên nhất. Vì thế, đạo tràng Tịnh Ðộ các
nơi của Sư sớm tối chỉ tụng kinh Di Ðà hoặc kinh
Vô Lượng Thọ. Mỗi tháng đều cử hành Phật thất
nghiêm nhặt. Các đạo tràng không làm gì khác
ngoài việc chuyên trì hồng danh, hoằng dương
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 107
Tịnh Ðộ. Các pháp hội mang tính chất cầu an, giải
hạn, hay thiền thất tuyệt nhiên chẳng cử hành. Sư
tuân thủ triệt để đường lối chuyên tu của Tổ Ấn
Quang: nhất tâm trì danh, vạn thiện đều hồi hướng
trang nghiêm Tịnh Ðộ.
Khi giảng pháp, Ðại Sư dùng những lời lẽ đơn giản,
dễ hiểu, chú trọng những ý chính để người học dễ
lãnh hội và vận dụng trong cuộc sống. Tuy được
coi là bậc Thái Sơn Bắc Ðẩu trong Phật giáo Ðài
Loan hiện tại, lúc nào Sư cũng khiêm cung, điềm
đạm. Trong các bài giảng pháp, khi mở đầu Sư luôn
xin phép vị Tăng trụ trì trung tâm và chỉ xưng là
“học nhân”, không bao giờ tự xưng là “lão tăng” hay
“sư phụ” chi cả.
Khác với các đạo tràng của những giáo hội khác
như Phật Quang Sơn, Pháp Cổ…, đạo tràng của
Ðại Sư không trần thiết hoa mỹ, cầu kỳ, mà mang
nặng tính thiết thực, thuận tiện cho tứ chúng vân
tập niệm Phật cộng tu. Các tự viện không được
phép kinh doanh dù chỉ là bán các pháp khí, kinh
sách. Các tăng ni thường trú tại các tự viện thuộc
hệ thống Tịnh Tông Học Hội chỉ lo hướng dẫn đại
chúng tu tập, mọi việc quản trị đã có ban hộ tự lo
liệu. Ða số các Tăng sĩ thuộc hệ thống Tịnh Tông
Học Hội đều được đào tạo kỹ lưỡng. Các vị Pháp
Sư đều khiêm tốn, đạm bạc, khắc kỷ, giữ gìn giới
luật, chăm tu Tịnh nghiệp, phong thái nhàn tản,
ung dung. Những ai tìm đến đạo tràng ngài nếu
THÍCH NỮ MINH TÂM 108
không thực tâm tu học sẽ chán nản, bỏ cuộc vì
ngoài thời khóa Tịnh Ðộ sớm tối, không hề có bất
cứ một hình thức pháp hội nhương tai, giải hạn, lễ
sám nào khác.
Ðể đào tạo tầng lớp giảng sư có đủ trình độ hoằng
dương Phật pháp, Sư đã thành lập những ban
bồi dưỡng công tác giảng huấn tại các trung tâm
lớn như trung tâm Tịnh Tông tại Los Angeles,
Singapore… Dù tuổi tác đã cao, năm nay đã ngoài
86 tuổi, Sư vẫn tích cực hoằng pháp, rất minh mẫn.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 109
Hòa thượng Thích Thiền Tâm (1925-1992)
Hòa thượng pháp danh Thiền Tâm, pháp hiệu Liên
Du, tự Vô Nhất thuộc dòng Lâm Tế Chánh Tông
đời thứ 43, thế danh Nguyễn Nhựt Thăng, sinh năm
1925 (Ất Sửu) tại xã Bình Xuân, Gò Công Đông, tỉnh
Tiền Giang. Song thân là cụ Nguyễn Văn Hương và
cụ Trần Thị Dung pháp danh Giác Ân. Ngài là người
con thứ 10 trong số 13 anh em gồm 4 trai, 9 gái.
Xuất thân từ gia đình Nho giáo kính tín Tam Bảo.
Sáu tuổi, ngài đã cắp sách đến trường học quốc ngữ
song song với Nho học. Lúc thiếu thời, ngài đã bộc
lộ thiên tư tài hoa văn nhã, bẩm chất cao khiết, và
là người con chí hiếu với cha mẹ. Do vì thấy mẹ
đau yếu triền miên, năm 12 tuổi, ngài ra đi tìm thầy
THÍCH NỮ MINH TÂM 110
học thuốc để mong trị lành bệnh cho thân mẫu.
Nhân tạm trú học thuốc tại chùa Vĩnh Tràng - Mỹ
Tho, ngài có dịp nghiên tầm Phật điển và nuôi dần
ý chí xuất gia tu học.
Năm 19 tuổi, ngài đến tu tại chùa Sắc Tứ Linh Thứu
ở Xoài Hột, và được thế phát xuất gia vào năm Ất
Dậu (1945) làm đệ tử của Đại lão Hòa thượng
Thành Đạo.
Năm 1948, Ngài thọ giới Sa Di và học ở Phật học
đường Liên Hải cùng Phật học đường Nam Việt
chùa Ấn Quang cho đến năm 1951 để hoàn tất
chương trình Trung đẳng Phật học. Thời gian đó,
Ngài được thọ Tỳ Kheo giới tại Đại giới đàn Ấn
Quang, tổ chức năm 1950.
Từ năm 1951 đến năm 1954, ngài hoàn tất chương
trình Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt.
Năm 1954, tốt nghiệp lớp Cao đẳng xong, ngài lui
về nhập thất tịnh tu trong mười năm tại trụ xứ Cái
Bè và Vang Quới.
Dù nhập thất tinh tấn chuyên tu, song Hòa thượng
không xa rời bi nguyện độ sanh. Trong mười năm
ấy, Ngài đã phiên dịch các loại kinh sách chuyên
hướng xiển dương pháp môn Tịnh độ, như: kinh
Quán Vô Lượng Thọ, Tịnh Học Tân Lương, Lá Thơ
Tịnh độ, Hương Quê Cực Lạc, và giảng dạy cho Ni
chúng khắp nơi đến thọ học.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 111
Năm 1968, Hòa thượng chính thức về trụ hẳn ở
Đại Ninh, lập nên đạo tràng Tịnh độ. Ngài không
câu nệ vào việc nhập thất, mà sẵn sàng tiếp hóa chư
Tăng Ni Phật tử đến tham vấn học đạo. Ngài còn
soạn thuật: Niệm Phật thập yếu, Tây phương nhựt
khóa, Tịnh độ pháp nghi và phiên dịch kinh Phật
Đảnh Tôn Thắng Đà La Ni.
Năm 1970, Ngài xây dựng Hương Nghiêm Tịnh
Viện, biến đạo tràng thành một vùng chuyên tu
Tịnh độ, cũng là trung tâm xiển dương pháp môn
này ở miền Nam. Tăng Ni tín đồ quy tụ về lập am
thất trụ lại tu học rất đông. Danh đức của Ngài
được lan truyền rộng và Phật tử đến quy ngưỡng
ngày càng nhiều. Đặc biệt, ở Hương Nghiêm Tịnh
Viện này tâm Tịnh độ là nguồn cảm hứng để ngài
sáng tác rất nhiều thơ văn đượm chất đạo vị, thanh
thoát. Thơ văn liễu ngộ tâm cảnh Cực Lạc của ngài
cảm hóa được không biết bao nhiêu đồ chúng
hướng về pháp môn này.
Từ năm 1975, ngài viễn ly mọi sự nghe thấy bên
ngoài, lặng lẽ nhiếp tâm tu niệm gia trì hai pháp
môn Mật Tịnh song hành. Suốt một thời gian dài,
ngài kiên trì nhập thất chăm chắm giải quyết việc
lớn sanh tử, song ngài vẫn soạn dịch bộ: “Mấy điệu
sen thanh” và “Tam bảo cảm ứng lục” để lợi lạc
nhân sinh khuyến tu Tịnh độ.
Những ngày cuối cùng cuộc đời ẩn tu hành đạo, ngài
THÍCH NỮ MINH TÂM 112
vương chút thân bệnh, trước đó ngài đã giao phó mọi
việc của Tịnh viện Hương Nghiêm lại cho Tăng đồ
quản lý điều hành. Ngài cố gắng khắc phục thân bệnh,
nỗ lực dụng công trì danh hiệu Phật. Cho đến khi
cảm nhận thời khắc vãng sinh, ngài bảo đồ chúng vây
quanh trợ niệm, rồi đến 9 giờ sáng ngày 21 tháng 11
năm Nhâm Thân (tức ngày 14-2-1992), Ngài an nhiên
thoát hóa, vãng sinh hưởng thọ 68 tuổi, hạ lạp 42.
Các tác phẩm của Hòa thượng để lại:
• Kinh quán vô lượng thọ.
• Tịnh học tân lương.
• Lá thơ Tịnh độ.
• Hương quê cực lạc.
• Tịnh độ thập nghi luận.
• Kinh đại bi tâm đà la ni.
• Niệm phật thập yếu.
• Tây phương nhựt khóa.
• Tịnh độ pháp nghi.
• Kinh phật đảnh tôn thắng đà la ni.
• Mấy điệu sen thanh.
• Tam bảo cảm ứng lục, v.v.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 113
Trưởng Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam hiệu Tuyết Lư
Lão Nhân
(theo Lý Công Tuyết Lư Lão Cư Sĩ Lược Sự)
Cư sĩ Lý Bỉnh Nam thời Dân Quốc, hiệu Tuyết Lư hay
Tuyết Tăng, người thành phố Tế Nam tỉnh Sơn Đông,
Trung Quốc. Từ bé, ông đã đỉnh ngộ, hiếu học. Ông
chuyên học về pháp luật, chính trị và học cả Trung
y, nghiên cứu Phật học: Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, ông
đều thường tu trì. Ông từng giữ chức giám ngục của
huyện Lữ, nhưng nhân từ tột bực, chung thân ăn chay.
Ông quy y với vị Tổ thứ mười ba của Tịnh tông
là Ấn Quang Đại Sư, được ban hiệu là Đức Minh.
Ông gắng sức tự hành, dạy người chuyên tu Tịnh
nghiệp. Ông đáp lời mời, làm bí thư cho vị chủ
THÍCH NỮ MINH TÂM 114
nhiệm quản trị nhà thờ phụng Đại Thành Chí
Thánh Tiên Sư (Khổng Tử), sau đó theo chủ nhiệm
Khổng Thượng Công (Khổng Đức Thành) thiên di
theo chính phủ về Trùng Khánh, sống ở biệt thự Ỷ
Lan thuộc núi Ca Nhạc, nhưng mỗi sáng sớm, ông
đều lên chùa Vân Đảnh để lễ tụng, niệm Phật.
Tháng Hai năm Dân Quốc 38 (1949), vào lúc sáu
mươi tuổi, ông theo Khổng Thượng Công qua Đài
Loan, ngụ tại Thành phố Đài Trung. Vừa mới sắp
xếp công vụ xong, ông đã tìm được chùa Pháp
Hoa để làm cơ sở hoằng pháp và lập phòng chẩn
mạch Trung y, lập Bồ Đề Y Viện và Thí Y Hội v.v...
để chữa trị, hốt thuốc miễn phí. Ông khởi xướng
những sự nghiệp hoằng hóa, từ thiện để tiếp dẫn
quần cơ đồng tu Tịnh nghiệp.
Ông thường nhóm chúng niệm Phật; cử phái viên
hoằng pháp đến thăm các nhà giam và những
gia đình liên hữu. Do đó, pháp duyên ngày càng
rộng rãi; tòa giảng kinh của ông mở rộng đến các
chùa Linh Sơn, Bảo Giác, Bảo Thiện v.v... Ông còn
khuếch trương những cơ sở truyền giáo khắp cả
Tam Đài (Đài Bắc, Đài Trung và Đài Nam), chuyên
hoằng dương Tịnh Độ phổ độ chúng sanh. Mỗi
năm, cử hành Phật Thất nhiều lần; lần nào ông
cũng đích thân chủ trì, ân cần, thiết tha huấn thị.
Ông thường soạn các tài liệu Phật học hàm thụ và
vấn đáp, soạn các chương trình phát thanh miễn
phí gởi tặng các đài phát thanh.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 115
Về trước tác có: A Di Đà Kinh Trích Chú Tiếp
Mông Kỵ Nghĩa Uẩn (lược chú Kinh Di Đà để
những người kém hiểu biết lãnh hội được ý nghĩa
sâu xa), Đại Chuyên Học Sinh Phật Học Giảng Tòa
(tài liệu giảng dạy Phật học cho sinh viên chuyên
ngành Phật học) gồm sáu quyển: Phật Học Vấn
Đáp Loại Biên, Hoằng Hộ Tiểu Phẩm Vựng Tồn,
v.v... hóa độ nhân gian.
Nhân đó, ở các nơi gần hay xa, mọi người đều được
bình đẳng hưởng thụ pháp ích. Sau ông nghỉ việc
để tăng thời gian hoằng pháp; luôn luôn khuyên
người khác tin sâu nhân quả, già dặn, chắc thật
niệm Phật.
Ngày mười hai tháng Tư năm Dân Quốc 75 (1986),
ông bảo đệ tử hầu cận: “Ta sắp đi đây!” Đến sáng
hôm sau, ông niệm Phật đến nhất tâm bất loạn,
dặn dò đệ tử rồi nằm yên lành mà tịch. Thọ chín
mươi bảy tuổi. Sau khi trà tỳ, thu được hơn cả ngàn
viên xá lợi ngũ sắc.
THÍCH NỮ MINH TÂM 116
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 117
Trưởng Lão cư sĩ Hạ Liên Cư
Lão cư sĩ Hạ Kế Tuyền, tự Phổ Trai, hiệu Cừ Viên;
khi tỵ nạn tại Nhật Bản, lấy tên là Hạ Tuyền, khi về
nước đổi thành Liên Cư, biệt hiệu là Nhất Ông. Hạ
lão cư sĩ là người Vận Thành, tỉnh Sơn Ðông, Trung
Quốc, là con trưởng của quan đề đốc hai tỉnh Vân
Nam – Quý Châu triều Thanh là cụ Hạ Tân Dậu,
thụy hiệu Tráng Vũ Công. Hạ lão cư sĩ sanh ngày
20 tháng Ba năm 1884 tại Vu Ðiền, Tân Cương. Về
già, ông sống tại Bắc Kinh và đến ngày 14 tháng 12
năm 1965, không bịnh mà mất, trụ thế 82 năm.
Sinh bình, Hạ lão cư sĩ từng giữ các chức vụ tri châu
tỉnh Trực Lệ, tri huyện Tịnh Hải, tri phủ Giang Tô,
đoàn luyện phó đại thần tỉnh Sơn Ðông. Sau cách
THÍCH NỮ MINH TÂM 118
mạng Tân Hợi (1911), được đề cử giữ chức hội
trưởng hội Liên Hiệp Các Giới tỉnh Sơn Ðông để
tuyên cáo tỉnh Sơn Ðông độc lập. Khi chế độ Dân
Quốc được thành lập, ông được mời giữ chức cố
vấn tối cao cho phủ Ðề Ðốc tỉnh Sơn Ðông, kiêm
nhiệm các chức bí thư trưởng, tham mưu trưởng
v.v… Năm 1916, giữ chức bí thư trưởng phủ Tổng
Thống. Năm 1918, được bầu làm nghị viên Quốc
Hội, đảm nhiệm chức giám đốc viện bảo tàng Tề
Lỗ Kim Thạch Họa Thư Quán, đồng thời làm lâm
trưởng của Sơn Ðông Phật Giáo Cư Sĩ Lâm. Năm
1920, giữ chức Giám Vận Sứ tỉnh Sơn Ðông, tận
lực bài trừ những tệ đoan lâu đời trong việc đánh
thuế muối, được dân chúng khen ngợi khôn cùng.
Năm 1921, ông từ chức để trù bị kế hoạch lập đại
học Ðiền Phụ và đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng
trường Ðông Lỗ.
Năm 1925, vì xảy ra vài biến cố chính trị, ông lánh
nạn qua Nhật và hai năm sau, Hạ lão cư sĩ trở về
nước, dưỡng bệnh ở vùng Thiên Tân - Ðại Cô.
Năm 1932, chuyển đến sống ở Bắc Kinh, chuyên
tâm nghiên cứu, hoằng dương Phật pháp.
Năm 1939, cùng với Hiện Minh trưởng lão, phương
trượng chùa Quảng Tế ở Bắc Kinh, cư sĩ Cận Dực
Thanh (Vân Bằng) sáng lập Tịnh Tông Học Hội, lấy
ngày khánh đản Ðại Thế Chí Bồ Tát làm ngày kỷ
niệm sáng lập hội, với tông chỉ: “Nghiên cứu kinh
điển Ðại Thừa, phát dương tinh thần Phật giáo -
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 119
Lấy tín nguyện trì danh để nhập Di Ðà Nguyện
Hải”. Tổ chức này không có một cơ cấu quản trị
trung ương mà chỉ hoạt động dựa trên tinh thần
tự giác cộng tu của các đoàn viên, lấy việc hoằng
dương Tịnh Ðộ làm sự nghiệp chính.
Thoạt đầu, Tịnh Tông Học Hội chỉ tổ chức các khóa
Phật thất mỗi năm vài lượt tại các chùa Quảng Tế,
Hiền Lương, Niêm Hoa, Cực Lạc Am và trường
tiểu học Từ Ðức cũng như cung thỉnh các vị cao
tăng đại đức, cư sĩ hữu danh luân phiên diễn giảng.
Năm 1945, Hạ lão cư sĩ cùng các nhân sĩ thuộc Bắc
Hải Ðoàn tổ chức pháp hội tiêu tai cầu nguyện hòa
bình vào đúng ngày thánh đản Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật, kéo dài suốt bảy ngày, quy tụ cả vạn
người tham dự.
Dưới thời Mao Trạch Ðông, các tự miếu bị, kiểm
soát chặt chẽ, nhưng Tịnh Tông Học Hội vẫn kiên
trì duy trì những pháp hội “bỏ túi” dù không còn
có cơ hội tổ chức các Phật thất cộng tu như trước
năm 1949 nữa. Chính nhờ sự hoằng pháp liên tục
âm thầm của Tịnh Tông Học Hội tại Hoa Lục, Phật
giáo Trung Hoa vẫn bảo tồn được nguyên khí và
có dịp phục hưng sau khi cơn đại hoạn Cách Mạng
Văn Hóa chấm dứt.
Hạ lão cư sĩ là người rất ham học, tính tình nghiêm
cẩn, thông duệ hơn người, thường hay quên ăn
bỏ ngủ để đọc sách. Có những lúc dù chính sự bề
THÍCH NỮ MINH TÂM 120
bộn, ông vẫn không hề xao nhãng việc học. Lúc trẻ,
ông chú trọng từ chương, thông đạt các học thuyết
Tống Nho, Lão Trang, nhưng càng lớn tuổi, ông
càng chuyên tâm nghiên cứu nội điển nhà Phật.
Do vậy, sự hiểu biết của ông về thế học lẫn Phật
học rất quảng bác. Trước tác của ông, gồm đủ thể
loại thơ văn, được các văn đàn khen ngợi đón chào
nồng nhiệt.
Hạ lão cư sĩ thông hiểu thông suốt ba tông Thiền,
Tịnh, Mật, nhưng vẫn quy hướng Tịnh Ðộ, lấy việc
hoằng dương Tịnh Tông làm lẽ sống. Dù từng bao
lượt thăng pháp tòa dạy pháp cho cả Tăng lẫn tục,
bao Tăng Ni nhờ Hạ lão cư sĩ khai ngộ bỏ tục xuất
gia, suốt đời ông luôn khiêm cung, giữ lễ đệ tử tục
gia đối với các bậc tôn túc trong Phật Môn. Những
người theo học với ông thường suốt đời kính mộ,
coi ông như một bậc Ðại Sĩ tại gia Bồ Tát. Ðề tài
diễn giảng của ông rất rộng, bao gồm phần lớn
những kinh luận chủ yếu của Phật Giáo Ðại Thừa,
nhưng mỗi bài diễn giảng đều quy dẫn về Tịnh
Nghiệp.
Trong suốt mấy mươi năm ở Bắc Kinh, Hạ lão cư
sĩ tích cực hoằng dương Tịnh Tông, đào tạo được
nhiều học trò lỗi lạc về hoằng pháp lẫn biên thuật.
Người nổi tiếng nhất trong số này là cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ. Các vị tôn túc pháp sư đương đại như Ðế
Nhàn, Huệ Minh, Tỉnh Minh cũng đều hâm mộ,
tán thán nồng nhiệt công hạnh hoằng dương Tịnh
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 121
Nghiệp, hoằng pháp độ sanh của Hạ đại sĩ. Ngay
đến bậc Thái Sơn Bắc Ðẩu của nhà Thiền là Hư Vân
Ðại Lão Hòa thượng cũng ngậm ngùi bảo: “Chẳng
biết bao giờ ta mới có dịp gặp được vị đại thiện
tri thức ở phương Bắc này!” Tiếc thay vô thường
chợt đến, duyên thị hiện hóa độ của bậc Ðại Sĩ đã
tận. Một ngày mùa Ðông năm 1965, Hạ lão cư sĩ
chợt cảm thấy không khỏe. Ngay trong đêm ấy, ông
an tường quy Tây giữa tiếng niệm Phật, trụ thế 82
năm, để lại sự thương tiếc muôn đời cho các môn
nhân.
THÍCH NỮ MINH TÂM 122
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 123
Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ
Trong các vị cư sĩ hữu danh, thạc đức cận đại của
Trung Hoa, ngoài những vị như Lý Bỉnh Nam,
Vương Bác Khiêm, Hạ Liên Cư, Mai Quang Hy…
cụ Hoàng Niệm Tổ thường được nhắc đến như
là một vị đại đức cư sĩ có công rất lớn trong việc
hoằng truyền Tịnh Tông đương đại.
Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, pháp hiệu Long Tôn,
ngoại hiệu Tâm Thị, Lạc Sanh, biệt hiệu Lão Niệm,
Bất Thoái Ông. Hoàng lão sanh ngày mồng Sáu
tháng Ba năm Quý Sửu (1913). Cha mất sớm. Mẫu
thân là Mai thái phu nhân một lòng tin tưởng Phật
pháp, lễ kính Tam Bảo, tịnh hạnh tót vời. Ông tánh
tình thuần hiếu, ngay từ nhỏ đã khác với những
THÍCH NỮ MINH TÂM 124
đứa trẻ khác: không thích đùa nghịch, có ý thức
trách nhiệm cao. Cung cách cư xử, ứng đáp, tiến
thoái không gì là không đắc thể, không ai là không
khen ngợi, ưa mến. Ông thường theo mẹ đi tụng
kinh, nghe pháp. Ông được cậu ruột là lão cư sĩ
Mai Quang Hy, một vị đại đức trong Tịnh tông thời
ấy, răn dạy, hun đúc nên chí thú siêu quần, tỏ rõ
tính cách của một con người túc căn phước đức
thâm hậu.
Lần đầu đọc đến kinh Kim Cang, ông đã thâm nhập
được diệu lý Vô Trụ Sanh Tâm, tâm hồn chấn động
lớn lao. Từ đấy trở đi, ông nhiều lượt cảm thấy như
được đề hồ quán đảnh, thân tâm trong ngoài thanh
lương, nhuận trạch. Ông cho rằng: “Muốn dùng
tâm phàm phu mà thấu đạt niệm được cảnh giới
ấy, ngoài niệm Phật hay trì chú không còn cách nào
khác nữa!” Từ đấy về sau, đối với Phật pháp, ông
phát lòng sùng kính sâu xa.
Năm hai mươi hai tuổi (1935), ông làm việc trong
ngành khai thác than đá. Có một lần, trong giấc
mộng, thấy cả nhà đều rỗng không, tâm chợt trở
thành một phiến rỗng rang. Ðó là lần khai ngộ đầu
tiên. Trong thời kỳ kháng Nhật, Trung Hoa chìm
đắm trong cơn binh hỏa, ông càng thêm tinh thành
học Phật, từng quy y với bậc cao tăng đại đức của
Thiền Tông đương đại là Hư Vân Thượng Nhân.
Ông cũng quy y với đệ tử đích truyền của Tổ Sư
Nặc Na phái Cổ Mật Hồng Giáo (Nyingmapa) là
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 125
thượng sư Liên Hoa Chánh Giác Vương và quy
y thượng sư Cống Cát của phái Tây Tạng Bạch
Giáo (Kargyupa). Về sau, vào năm 1959, ông được
truyền thừa ngôi vị Kim Cang A Xà Lê của Liên
Hoa Tinh Xá, kế thừa y bát và di chúc của thượng
sư Liên Hoa Chánh Giác Vương.
Năm ông 32 tuổi (1944), ông được cụ Mai Quang
Hy dẫn đến tham học với bậc Thiền Tịnh đại đức
là lão cư sĩ Hạ Liên Cư. Ông thâu hoạch lợi ích lớn
lao, được cụ Hạ coi là đệ tử đắc ý. Hạ đại sĩ thâm
hiểu Nho, Phật cũng như dung hội, quán thông sâu
xa tông chỉ của các tông Thiền, Tịnh, Mật. Cụ Hạ
trước tác rất nhiều, hoằng dương yếu chỉ Tịnh Ðộ
đến chỗ thâm vi. Tác phẩm tâm huyết được đánh
giá cao nhất của Hạ lão sư là công trình hội tập
năm bản dịch kinh Vô Lượng Thọ mang tựa đề
Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh
Tịnh Bình Ðẳng Giác Kinh (gọi tắt là Ðại Kinh).
Cư sĩ Hoàng đích thân nghe Hạ đại sĩ giảng kinh này
nhiều lượt, ghi chép tường tận và bản thân mình
cũng thâm đắc pháp yếu của cả Thiền lẫn Tịnh. Vào
thập kỷ 1960, ông soạn một bản Ðại Kinh Huyền
Nghĩa Ðề Cương trình lên tôn sư giám định, được
cụ Hạ hoan hỷ hứa khả, giao trọng trách chú giải
để hoằng dương yếu chỉ của Ðại Kinh. Cụ Hạ cũng
cho phép cư sĩ Hoàng được tùy ý vận dụng kiến
giải của mình để phát huy huyền nghĩa của kinh.
THÍCH NỮ MINH TÂM 126
Năm 40 tuổi (1953), cư sĩ Hoàng làm giáo sư tại
đại học Thiên Tân. Trong thời gian này, ông càng
ra sức tu hành, tham học kinh điển. Có một ngày
nọ, bao nhiêu kiến giải chợt dứt bặt hết. Trình lên
Hạ đại sĩ giám định, ông được Hạ công ấn khả là
chân khai ngộ, khen ngợi đã đạt Nhất Tâm. Kế đó,
thượng sư Liên Hoa Chánh Giác Vương cũng xác
nhận ông đã khai ngộ không còn ngờ gì nữa.
Trong cơn biến loạn Cách Mạng Văn Hóa ở Hoa
Lục, cư sĩ Hoàng gặp phải nhiều cơn gian nan, thử
thách, nhưng không hề biếng trễ việc tu tập. Càng
gian nan, khốn khổ, ông càng thêm dũng mãnh
tinh tấn, đạt được nhiều lợi ích rộng lớn trên đường
Ðạo, đúng như cổ đức răn nhắc: “Phải nếm đủ gian
nan, khốn khổ mới thành tựu được!” Nhiều phen
gặp những hoàn cảnh nguy hiểm tưởng chừng phải
mất mạng, ông vẫn an nhiên trì tụng, gác chuyện
sống chết sang một bên, hoàn toàn buông bỏ mọi
việc, thản nhiên vượt qua hết.
Mang nặng chí nguyện truyền đăng, hoằng dương
yếu chỉ Tịnh Ðộ nhằm cứu vớt quần sanh để báo
ân Phật, ân thầy, cư sĩ Hoàng xem khắp các kinh,
luận, khổ tâm tham học, nghiên cứu, trăn trở suy
lường nghĩa lý để rồi từ năm 1979 đến năm 1981,
ông đóng cửa tạ khách, chuyên tâm chú giải Ðại
Kinh. Ðến năm 1981, bản thảo tập 1 tác phẩm Vô
Lượng Thọ Kinh Chú Giải được hoàn thành. Năm
1982 hoàn thành bản thảo tập 2. Dù bệnh tình
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 127
đang hồi nghiêm trọng, bi tâm càng thêm thiết tha,
ông vẫn gắng hết sức hoàn thành bản thảo tập 3.
Cho đến năm 1984, toàn bộ bản thảo được hoàn tất
và được ấn hành lưu thông khắp trong ngoài nước
kể từ năm 1987.
Bản chú giải này thể hiện minh bạch chí nguyện
khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến để dẫn dắt quần
sanh của đức Thích Tôn và chư Phật, rất khế lý, khế
cơ, lý sự viên dung, thâm nhập yếu chỉ của chư Phật,
văn từ lưu loát, bóng bẩy, nghĩa lý minh bạch khiến
cho những ai đọc đến đều được thấm gội pháp vũ,
đạt được lợi ích, pháp lạc sâu xa. Hòa thượng Tịnh
Không cũng đánh giá rất cao tác phẩm này nên đã
nhiều lượt đề xướng ấn tống bản Chú Giải ấy để tất
cả các Phật tử thuộc các chùa viện ở Trung Hoa,
Ðài Loan và hải ngoại có thể tìm đọc.
Ngoài việc trước thuật, cư sĩ Hoàng còn tích cực
diễn giảng Phật pháp hoặc giảng dạy pháp môn
Tịnh Ðộ tại các nơi như Trung Quốc Phật Học
Viện, hệ thống các chùa thuộc Cư Sĩ Lâm và đặc
biệt là chùa Quảng Hóa. Do biện tài vô ngại, ông
từng được đài phát thanh trung ương ở Bắc Kinh
cho phép diễn giảng Phật Pháp hằng tuần trên làn
sóng điện. Ông cũng từng được mời ra ngoại quốc
để giảng pháp tại các Niệm Phật Ðường của Hòa
thượng Tịnh Không cũng như các hệ thống Niệm
Phật Ðường, tự viện khác. Ðối với cư sĩ Hoàng,
Hòa thượng Tịnh Không một mực kính trọng,
THÍCH NỮ MINH TÂM 128
khâm ngưỡng, xưng tụng là bậc đại sĩ hoằng dương
Tịnh Tông đương đại và nhận mình là kẻ hậu học.
Ngoài tác phẩm Chú Giải Kinh Vô Lượng Thọ,
cư sĩ Hoàng còn soạn thuật những sách Tịnh Ðộ
Tư Lương, Cốc Hưởng Tập, Hoa Nghiêm Niệm
Phật Tam Muội Luận Giảng Ký (chú giải cuốn
Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội của cư sĩ Bành
Thiệu Thăng), Tâm Thanh Lục. Ngoài ra, còn rất
nhiều tác phẩm dang dở như Tịnh Tu Tiệp Yếu Báo
Ân Ðàm (luận giải tác phẩm Tịnh Tu Tiệp Yếu của
lão cư sĩ Hạ Liên Cư), Thiền Tịnh Mật Tam Pháp
Nhất Vị Luận và Tùy Bút v.v… Tiếc cho chúng sanh
phước bạc chẳng thể đọc được những tác phẩm ấy.
Từ năm 1980 trở đi (nghĩa là trước khi bắt tay
soạn thảo cuốn Chú Giải nói trên), ông đã vướng
nhiều trọng bệnh. Bác sĩ nhiều lượt buộc ông phải
ngưng trước tác, giảng dạy để hưu dưỡng cho đến
khi hoàn toàn bình phục. Mang nặng chí nguyện
độ sanh, ông phớt lờ những lời khuyến cáo ấy, vẫn
dốc trọn sức mình trong công cuộc hoằng pháp.
Nhận thấy tứ chúng người Hoa, nhất là hàng tại gia
cư sĩ ở hải ngoại, nhiều người thiếu căn bản Hán
học nên chưa thể lãnh hội trọn vẹn ý chỉ Ðại Kinh,
ông bắt đầu trước tác cuốn Ðại Kinh Bạch Thoại
Giải nhằm giải thích, diễn giải ý nghĩa từng câu
kinh trong Ðại Kinh bằng văn ngôn đương đại. Dù
nhiều phen quên ăn, bỏ ngủ để gắng hoàn tất tác
phẩm ấy, do lòng từ bi quá mạnh, ông vẫn không
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 129
ngớt tùy cơ thuyết giáo cho những kẻ hữu duyên.
Suốt ngày nhọc nhằn, bận rộn nên đến ngày hai
mươi bảy tháng Ba năm 1992, không gượng nổi
nữa, cư sĩ Hoàng đã hiện bệnh, vãng sanh. Trước
lúc lâm chung, sức tàn không thể nói nổi nữa, ông
mỉm cười an nhiên từ biệt đại chúng, quy Tây.
Ngày mồng Bảy tháng Tư năm 1992, đại chúng làm
lễ trà tỳ. Di cốt của Hoàng đại sĩ trắng nhuận. Lúc
bới tro, đại chúng tìm được hơn một trăm viên xá
lợi ngũ sắc. Các chùa Quảng Hóa Tự, Quán Âm
Ðiện và Vãng Sanh Ðường mỗi nơi xin cung thỉnh
một viên xá lợi để tứ chúng chiêm ngưỡng, phụng
thờ.
Xét về công hạnh, Hoàng đại sĩ xứng đáng được tôn
xưng là bậc tôn sư của Tịnh Tông đương đại. Dù
thâm hiểu Thiền Tông, Mật Tông, bác lãm các điển
tịch Mật tạng thuộc cả Ðông Mật lẫn Tạng Mật, lại
còn được kế thừa pháp tọa và y bát của một bậc
tôn túc hữu danh, thạc đức trong phái Cổ Mật, ông
vẫn dốc chí nơi Tịnh nghiệp, trọn đời hoằng dương
Tịnh Ðộ, dùng pháp môn Tịnh Ðộ tiếp dẫn chúng
sanh. Qua những tác phẩm và những bài thuyết
giảng của ông, bao nhiêu người tỏ ngộ huyền nghĩa
viên diệu khế lý, khế cơ của pháp môn Trì Danh
Niệm Phật trong thời Mạt Pháp. Nghe Hoàng đại sĩ
giảng xong, rất nhiều thính giả đã chuyên tu Tịnh
Nghiệp, thề trọn đời lấy hạnh Trì Danh làm Chánh
Hạnh, cũng như phát thệ trọn đời trì tụng Ðại
THÍCH NỮ MINH TÂM 130
Kinh. Rất nhiều băng giảng ghi âm những lời pháp
nhũ của Hoàng đại sĩ cũng như những tác phẩm
của ông được lưu hành rộng rãi ở Hoa Lục. Tuy
chỉ là một cư sĩ, với chí nguyện độ sanh sâu thẳm,
thiết tha, Hoàng đại sĩ đã khéo vận dụng những sở
trường của mình về thế học và đạo học khiến cho
pháp hóa được tuyên lưu cùng khắp, tăng tục đều
được ân triêm lợi ích. Công hoằng dương, giáo hóa
ấy nào kém các bậc cao tăng hữu đức đương đại!
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 131
Tinh hoa lời dạy của chư tổ Tịnh Độ và
các bậc tôn đức
Tổ Liên Tông thứ nhất: Đại Sư Huệ Viễn - đời
Tấn
Đại Sư nói: “Thế nào là niệm Phật tam muội? Niệm
Phật tam muội là ý chuyên nhất, tưởng vắng lặng.
Ý chuyên nhất thì tâm không tán loạn, tưởng vắng
lặng thì thần sáng, khí nhẹ. Khí nhẹ thì thân tâm
khinh an, thần sáng thì không gì không thấu triệt.
Đây chính là diệu dụng tự nhiên của định-tuệ hợp
nhất.”
Đối với chỗ chính yếu trong sự tu tập, Đại Sư dạy:
“Người phụng hành pháp của bậc hiền Thánh, nên
tư duy cho hợp với lẽ phải. Luôn nghĩ thời gian
qua mau mà lo tích tụ các công đức, thường phải
tẩy rửa thân tâm cho được thanh tịnh, ngày đêm
chuyên cần, thậm chí quên cả ngủ nghỉ; có vậy
công đức mới được viên dung, thông suốt ba thừa,
vượt qua tất cả, có khả năng dẫn dắt kẻ yếu đuối
tinh tấn tu tập, làm chỗ nương cho người đời sau.”
Ngài còn dạy: “Thân người như huyễn, nguyện giữ
giới luật hoàn toàn thanh tịnh.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 132
Tổ Liên Tông thứ hai: Đại Sư Thiện Đạo - đời
Đường
Đại sư khai thị:
1. “Pháp môn Tịnh Độ là do Phật A Di Đà kiến
lập, Thích Ca Mâu Ni Phật đã tuyên dương, mười
phương tất cả chư Phật đều cùng khen ngợi đại
pháp vô thượng siêu thắng khác biệt. Do lòng tin
sâu này, mà phát ra nguyện vọng chân thật, nhàm
chán Ta-bà, không sợ chết, bằng lòng xả bỏ tất cả
thế gian vô thường; vui cầu Cực Lạc, thích được
chết, bằng lòng chết sớm một chút, sớm một chút
được vãng sanh Tây phương, thân cận Phật A Di
Đà. Chuẩn bị đầy đủ loại tâm tình Tín nguyện này,
bất cứ chúng sanh nào trong mười phương, chỉ cần
xưng niệm “A Di Đà Phật”, Phật A Di Đà liền sẽ y
theo thệ nguyện đích thân tiếp dẫn, dùng Phật lực
tiếp độ chúng sanh niệm Phật, vượt khỏi sanh tử,
vĩnh thoát luân hồi.”
2. “Đấng đại Thánh xót thương, khuyên người
chuyên xưng danh hiệu, bởi vì phép xưng danh
rất dễ, nếu có thể giữ mỗi niệm nối nhau, lấy suốt
đời làm hạnh, thì mười người tu, mười người vãng
sanh, trăm người tu, trăm người vãng sanh. Tại
sao thế? Vì không có duyên tạp nên được chánh
niệm, vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau,
vì không trái với kinh giáo, vì thuận theo lời Phật.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 133
Nếu bỏ chuyên niệm mà tạp tu trong trăm người
may ra được một hai người, trong ngàn người hy
vọng được ba bốn người vãng sanh mà thôi”.
3. Có người hỏi: “Vì sao chẳng dạy tu quán mà chỉ
dạy thẳng chuyên xưng niệm danh hiệu?”
Ðáp: “Chúng sanh chướng nặng, cảnh vi tế mà tâm
thì thô phù, thần thức lao chao nên khó thành tựu
pháp quán. Vì thế, đức Ðại Thánh bi mẫn khuyên
ngay nên chuyên xưng danh hiệu, chính là vì danh
hiệu dễ xưng, hễ niệm liên tục liền vãng sanh. Nếu
có thể niệm niệm liên tục, lấy lúc hết mạng làm
hạn thì mười người tu mười người được vãng sanh,
trăm người tu trăm người được sanh. Vì sao vậy?
Do vì không có tạp duyên bên ngoài nên được
chánh niệm, vì tương ứng với bổn nguyện của Phật,
vì chẳng trái giáo pháp, vì thuận theo lời Phật.”
4. “Người niệm Phật khi lâm chung chớ nên sợ
chết. Phải thường nghĩ rằng: thân này không sạch,
chịu nhiều sự khổ, nếu được bỏ huyễn thân mà
sanh về Tịnh độ, chính là điều đáng vui mừng! Lúc
đau yếu, chỉ nghĩ đến sự vô thường, một lòng niệm
Phật chờ chết. Nhớ dặn người thân cận, khi có ai
đến thăm nên khuyên vì mình mà niệm Phật, đừng
nói chuyện tạp ở thế gian. Nếu bệnh nặng sắp chết,
người xung quanh không được khóc lóc, phải đồng
thanh niệm Phật đợi chừng nào bệnh nhơn tắt hơi,
trong mình lạnh hết rồi mới nên cử ai. Như được
THÍCH NỮ MINH TÂM 134
người hiểu rõ lý Tịnh độ thường đến khuyên lơn
nhắc nhở cho, đó thật là điều đại hạnh. Dùng theo
phương pháp trên đây quyết định sẽ vãng sanh.
Việc sống chết luân hồi rất lớn lao, phải tự mình
gắng sức mới được, nếu một niệm sai lầm để luống
qua, thì nhiều kiếp chịu khổ, có ai thay thế cho
mình? Nên suy nghĩ kỹ, nên suy nghĩ kỹ.”
5. “Pháp môn niệm Phật thù thắng đến nước này
thì mỗi một đồng tu niệm Phật chúng ta phải nên
thống thiết mà phản tỉnh, hổ thẹn mà sám hối.
Chúng ta phụ lòng chờ đợi nhớ mong của Phật
A Di Đà đã nhiều kiếp! Cũng đã phụ lòng Thích
Ca Mâu Ni Phật khẩn thiết dặn dò hết lời khuyên
bảo, càng phụ lòng bi tâm kỳ vọng, khuyến tấn tán
dương, chứng minh khen ngợi của mười phương
tất cả chư Phật! Nghĩ đến chỗ này, mỗi một người
niệm Phật phải nên thống thiết mà rơi lệ, không
chỗ dung thân! Mỗi một vị dạy bảo người niệm
Phật, cũng phải nên phản tỉnh: Tại vì sao đem đại
pháp Di Đà nương vào Phật lực, nhất định an tâm,
tín nguyện niệm Phật, quyết định vãng sanh thành
Phật, thì dạy thành dựa vào tự lực, hoài nghi bất an,
không được nhất tâm, không cách gì vãng sanh?”
6. Lại có người hỏi: “Vì sao chúng ta niệm Phật mà
không thể vãng sanh?”
Đáp: “Dựa trên lý mà nói pháp môn Tịnh Độ là
nhờ Phật lực của Phật A Di Đà cứu giúp, thì bảo
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 135
đảm vãng sanh một trăm phần trăm, nhưng vì sao
thấy người niệm Phật hiện nay rất nhiều, nhưng
người chân thật có thể vãng sanh thì lại rất là ít vậy?
Đây là một vấn đề rất quan trọng, mỗi một người
niệm Phật phải nghiêm túc đối với việc này, nhất
định không được xem thường! Ngày nay chúng ta
niệm Phật không cách gì vãng sanh, then chốt là ở
“không có Tín Nguyện, hoài nghi bất an, sợ chết,
vốn không cầu vãng sanh”. Người niệm Phật ngày
nay niệm Phật, chỉ là cầu bảo hộ, cầu tiền của, cầu
công danh, cầu bình an, cầu thuận lợi, cầu tiêu tai,
cầu khỏi nạn, cầu trị bệnh, cầu sống lâu, cầu tất cả
lợi ích của thế gian, nhưng tuyệt đối lại không cầu
vãng sanh Tây phương!”
THÍCH NỮ MINH TÂM 136
Tổ Liên Tông thứ ba: Đại Sư Thừa Viễn - đời
Ðường
Sư chỉ dùng chuyên nhất pháp môn niệm Phật để
khai đạo đồ chúng và chuyên y theo kinh Vô Lượng
Thọ mà tu niệm Phật tam-muội để cứu độ quần sanh.
Từ đấy, Sư dứt hết các duyên, chuyên tu Tịnh độ.
Vào năm đầu niên hiệu Thiên Bảo, Sư trở về núi
Hành Sơn, lập tinh xá lấy hiệu là Di Đà Đài, chỉ an
trí kinh tượng. Sư ăn mặc thô sơ, tinh cần tu khổ
hạnh, thường thấy Thánh cảnh, lấy việc chuyên trì
danh hiệu làm hạnh chính yếu, lấy sự bố thí, trì
giới làm hạnh phụ trợ.
Đại Sư không để lại ngôn giáo nào, chỉ là thân giáo
miên mật hành trì pháp Trì Danh niệm Phật, cầu
nguyện vãng sanh Tây phương để làm y cứ cho
người đời sau noi theo.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 137
Tổ Liên Tông thứ tư: Đại Sư Pháp Chiếu - đời
Đường
Đại Sư không để lại thánh ngôn nào, duy chỉ có vài
kỳ tích do hàng đạo tục quen biết ngài khi ngài còn
sinh tiền kể lại, có lược kê trong tiểu sử của ngài.
Dưới đây chỉ trích ra vài đoạn ngài đảnh lễ thỉnh
hỏi hai bậc Đại Sĩ Văn Thù và Phổ Hiền.
Năm Đại Lịch thứ năm, vào ngày mùng sáu tháng
Tư, Đại sư cùng đồng bạn mới đến chùa Phật
Quang ở huyện Ngũ Đài. Đêm ấy, vào khoảng
canh tư, ngài thấy ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân
mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà theo
dõi. Đi được năm mươi dặm thì đến một dãy núi,
dưới chân núi có khe nước, phía Bắc khe có cửa
cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử đứng đón
chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Đà. Theo chân
hai đồng tử dẫn đường, ngài đến một ngôi chùa
nguy nga, biển đề: “Đại Thánh Trúc Lâm Tự”. Nơi
đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễm
trang nghiêm. Cảnh giới quả đúng như ảnh tượng
đã thấy nơi bát cháo khi trước. Ngài vào chùa, lên
giảng đường, thấy Đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ
Hiền bên Đông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao
đẹp, đang thuyết pháp cho một muôn vị Bồ Tát
ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe.
Pháp Chiếu bước đến chí thành đảnh lễ, rồi quỳ
THÍCH NỮ MINH TÂM 138
xuống thưa rằng: “Kính bạch Đại Thánh! Hàng
phàm phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng
nặng nghiệp sâu, tri thức kém hẹp, tuy có Phật tánh
mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật
lại quá rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào
thiết yếu, dễ tu hành cho mau được giải thoát?”
Đức Văn Thù bảo: “Thời kỳ này chính là đúng lúc
các người nên niệm Phật. Trong các hành môn
không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ.
Thuở đời quá khứ, ta nhờ quán Phật, niệm Phật,
cúng dường Tam Bảo mà được Nhất thiết chủng
trí. Tất cả các pháp như: Bát Nhã Ba La Mật, những
môn thiền định rộng sâu, cho đến chư Phật cũng
từ niệm Phật mà sanh. Vì thế nên biết, Niệm Phật
là vua trong các pháp môn.”
Ngài Pháp Chiếu lại hỏi: “Bạch Đại Thánh! Nên
niệm như thế nào?”
Đức Văn Thù dạy: “Về phương Tây của thế giới này,
có Phật A Di Đà giáo chủ cõi Cực Lạc. Đức Thế
Tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên
chuyên niệm danh hiệu của Ngài nối tiếp không
gián đoạn, thì khi mạng chung, quyết được vãng
sanh, chẳng còn bị thoái chuyển.”
Nói xong, hai vị đại Thánh đồng đưa tay sắc vàng
xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng: “Do ngươi
niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được quả Vô
thượng Bồ Đề. Nếu thiện nam tín nữ nào muốn
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 139
mau thành Phật, thì không chi hơn niệm Phật. Kẻ
ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chánh Đẳng Chánh
Giác.”
Tháng Chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật
nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ tuyệt thực tu hành,
nguyện vãng sanh về Tịnh độ. Đêm đầu hôm, ngày
thứ bảy, đang lúc niệm Phật, Đại Sư bỗng thấy một
vị Phạm Tăng bước vào bảo: “Ông đã thấy cảnh
giới ở Ngũ Đài Sơn, sao không truyền thuật cho
người đời cùng được biết?”. Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm sau, trong lúc niệm Phật, vị Phạm Tăng hiện
ra, bảo y như trước. Ngài đáp: “Không phải tôi dám
giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người đời
không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng
bảo: “Chính đức Đại Thánh Văn Thù hiện tại ở núi
này mà còn bị người đời hủy báng, thì ông còn lo
ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông
thấy được truyền thuật với chúng sanh làm duyên
cho kẻ được biết, phát khởi tâm Bồ đề”. Ngài tuân
lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi ghi chép ra
truyền lại cho mọi người.
THÍCH NỮ MINH TÂM 140
Tổ Liên Tông thứ năm: Đại Sư Thiếu Khang -
đời Đường
Hành nghiệp chính yếu của Sư là luôn nhớ nghĩ
nhàm chán cõi ngũ trược nhơ uế, vui thích Tịnh
độ, niệm Phật lớn tiếng và hành bố thí. Sư thường
dạy chúng: “Các vị phải luôn khởi tâm nhàm chán
xa lìa cõi Sa Bà năm uế trược, vui thích miền Tịnh
Ðộ an vui mà cố gắng tu hành tinh tấn. Giờ phút
này ai thấy được quang minh của ta, kẻ ấy mới thật
là hàng đệ tử”.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 141
Tổ Liên Tông thứ sáu: Đại Sư Vĩnh Minh - đời
Tống
Ngài Diên Thọ là người đại biểu cho thời đại hưng
thịnh của Thiền Tông. Ngài chủ trương “Phật tổ
bất nhị”, “Thiền Giáo nhất thể”, chiết trung về Pháp
Tướng, Tam Luận, Hoa Nghiêm, Thiên Thai, rồi
dùng Thiền dung hòa tất cả, giữ luật thanh tịnh
trang nghiêm, trì chú, niệm Phật vui cầu vãng sanh,
nhóm tất cả Phật pháp ở trong một thân, nhưng
lấy Nhất thừa của Hoa Nghiêm làm cứu cánh viên
diệu, lấy linh minh diệu tâm của chúng ta làm bổn
nguyện vạn pháp, đó là lý luận cao viễn hùng dũng.
Đây là nét đặc sắc riêng biệt của ngài Diên Thọ, về
vấn đề tự học bằng phương pháp tổng hợp so sánh
tất cả. Về sau các tông có xu hướng dung hợp cũng
theo tư tưởng, đường hướng của ngài Diên Thọ.
Đại Sư lại soạn ra tập Vạn Thiện Đồng Quy. Trong
đó lời lẽ chỉ dạy về Tịnh độ rất thiết yếu, đại lược
như sau:
1. Hỏi: Cảnh duy tâm Tịnh độ đầy khắp mười
phương, sao không hướng nhập, mà lại khởi lòng
thủ xả, cầu về Cực Lạc gởi chất ở đài sen. Như thế
đâu hợp với lý vô sanh, và đã có tâm chán uế ưa
tịnh thì đâu thành bình đẳng?
Đáp: Sanh duy tâm Tịnh độ là phần của các bậc đã
THÍCH NỮ MINH TÂM 142
liễu ngộ tự tâm, chứng được pháp thân vô tướng.
Tuy nhiên, theo kinh Như Lai Bất Tư Nghị Cảnh
Giới, thì những bậc chứng Sơ địa vào Duy tâm độ,
cũng nguyện xả thân để mau sanh về Cực Lạc. Thế
thì biết ngoài tâm không pháp, cảnh Cực Lạc đâu
ngoài Duy Tâm? Còn về Phần “Lý vô sanh mà môn
bình đẳng” tuy lý thuyết là như thế, nhưng kẻ chí
lực chưa đủ, trí cạn tâm thô, tập nhiễm nặng, lại
gặp cảnh trần lôi cuốn mạnh mẽ, dễ gì mà chứng
nhập được. Những kẻ ấy cần phải cầu sanh Cực
Lạc, nhờ cảnh duyên thắng diệu ở đó, mới mau
chứng vào Tịnh độ duy tâm và thực hành Bồ Tát.
Đại Sư còn dạy thêm: “Trong kinh Quán Vô Lượng
Thọ nói về chín phẩm có sự cao thấp. Tuy gồm đủ
Thượng phẩm và Hạ phẩm nhưng chẳng ra ngoài
hai thứ tâm:
1. Định tâm hay định thiện, là những vị tu tập quán
pháp thành công, hoặc trì danh hiệu được vào tam
muội. Các vị này sẽ sanh về thượng phẩm.
2. Tán tâm hay tán thiện, là những người chỉ niệm
danh hiệu chưa được vào tam muội, hoặc tu các
công đức lành khác trợ giúp, rồi phát nguyện hồi
hướng. Hạng người này cũng được dự vào các
phẩm thấp hơn. Nhưng cần phải trọn đời quy mạng
Tây phương và chuyên cần tu tập. Lúc ngồi nằm
thường xoay mặt về Tây phương. Khi niệm Phật,
lúc phát nguyện, phải chí thành không xao lãng.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 143
Tâm niệm khẩn thiết ấy ví như kẻ bị gông xiềng tù
ngục cầu mau thoát ly; người lâm cảnh lửa cháy,
nước trôi, hoặc giặc cướp rượt đuổi mong được
thoát khỏi nạn. Lại phải vì sự sống chết, phát lòng
Bồ đề, cầu sanh Tây phương, mau thành Thánh đạo
để đền đáp bốn ân, nối thạnh Tam Bảo, độ khắp
muôn loài. Chí thành như thế, quyết chắc sẽ được
kết quả.
Trái lại, nếu lời và hạnh không hợp nhau, sức
tín nguyện yếu kém, tâm không chuyên nhất, sự
tu hành không tương tục thì khó hy vọng thành
công. Bởi kẻ biếng trễ như thế e khi lâm chung bị
nghiệp chướng trở ngăn, chẳng gặp bạn lành, lại
thêm thân thể đau nhức, tâm thức hôn mê, không
thành chánh niệm. Vì sao? Bởi hiện tại là nhân,
khi lâm chung là quả. Cần phải nhân cho chắc thật,
quả mới không hư luống, như tiếng hòa nhã thì
âm vang dịu dàng, hình ngay tất bóng thẳng vậy.
Nếu muốn khi sắp chết mười niệm thành công, thì
ngay lúc hiện tại phải một lòng chí thiết tinh tấn tu
hành, tất không còn điều chi lo ngại.
Đại khái, chúng sanh bởi tâm chia thiện ác, nên
báo có khổ vui. Do nơi ba nghiệp tạo thành, mới
khiến sáu đường luân chuyển. Nếu tâm sân hận, tà
dâm, đó là nghiệp địa ngục. Tâm tham lam, bỏn
sẻn là nghiệp ngạ quỷ. Tâm ngu si, tà kiến là nghiệp
súc sanh. Tâm ngã mạn, tự cao là nghiệp A Tu La.
Giữ bền Ngũ giới, là nghiệp người. Tiến tu Thập
THÍCH NỮ MINH TÂM 144
Thiện là nghiệp Trời. Chứng ngộ nhân không, là
nghiệp Duyên Giác. Tu trọn Lục độ, là nghiệp Bồ
Tát. Chân từ bình đẳng là nghiệp Phật.
Nếu tâm thanh tịnh niệm Phật, thì hóa sanh về
Tịnh độ, ở nơi bảo các hương đài. Như ý mê tối
đục nhơ, tất gởi chất cõi uế bang, nương cảnh nổng
gò hầm hố. Cho nên lìa được tự tâm không còn biệt
thể, muốn được quả tịnh, phải trồng nhân mầu.
Như tánh nước chảy xuống, tánh lửa bốc lên, lý thế
tất nhiên, có chi mà ngờ vực. Đại Sư lại vì người
đương thời còn phân vân giữa Thiền và Tịnh, chưa
biết tu môn nào được kết quả chắc chắn, nên làm
bài kệ Tứ Liệu Giản để so sánh sự lợi hại như sau:
Có Thiền không Tịnh độ,
Mười người chín chần chừ,
Nếu ấm cảnh hiện tiền,
Chớp mắt đi theo nó
Không Thiền có Tịnh độ,
Vạn người tu, vạn đỗ,
Chỉ được thấy Di Đà,
Lo chi chẳng khai ngộ
Có Thiền có Tịnh độ,
Khác nào hổ thêm sừng,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 145
Đời này làm thầy người,
Đời sau thành Phật, Tổ
Không Thiền, không Tịnh độ,
Giường sắt và cột đồng,
Muôn kiếp với ngàn đời,
Trọn không ai nương dựa
Ấn Quang Đại sư nói:
“Có Thiền là tận lực tham cứu, niệm bặt tình mất,
thấy tột cùng vẻ mặt sẵn có trước khi được cha mẹ
sanh ra, minh tâm kiến tánh. Có Tịnh Ðộ là chơn
thật phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì
danh hiệu Phật, cầu sanh Tây phương.
Nếu như tham Thiền chưa ngộ hoặc ngộ chẳng
triệt để thì đều chẳng được gọi là “có thiền”
Nếu niệm Phật mà thiên chấp duy tâm, chẳng có
tín nguyện, hoặc có tín nguyện nhưng chẳng chơn
thành, thiết tha, chỉ hờ hững, lững lờ, hành qua loa
cho có; hoặc hành tuy tinh tấn nhưng tâm mê đắm
trần cảnh, hoặc cầu đời sau sẽ sanh trong nhà phú
quý, hưởng vui ngũ dục; hoặc cầu sanh lên trời để
hưởng vui phước trời; hoặc cầu đời sau xuất gia
làm Tăng nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại Tổng Trì,
hoằng dương pháp đạo, phổ lợi chúng sanh thì đều
chẳng đáng gọi la “có Tịnh Ðộ” vậy.
THÍCH NỮ MINH TÂM 146
Còn bảo kẻ “không Thiền, không Tịnh” là nói đến
kẻ vùi đầu tạo nghiệp, chẳng tu thiện pháp thì thật
là lầm lẫn lớn.
Pháp môn vô lượng nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là
thích ứng với các căn cơ nhất.
Kẻ nào chưa triệt ngộ mà lại chẳng cầu vãng sanh,
cứ loay hoay tu đủ các pháp môn khác thì chẳng
những đã không thể giữ cho Ðịnh và Huệ được
cân bằng hòng đoạn hoặc, chứng chân; mà lại còn
chẳng nương theo Phật lực để đới nghiệp vãng
sanh! Ðem công đức tu trì trọn đời mong cảm lấy
phước báo trời - người, cậy phước làm ác, sẽ đọa
địa ngục; muốn có lại thân người thì thật là khó
nhất trong những sự khó vậy! Câu “trọn không ai
nương dựa” vẫn chỉ là lời nói còn nhẹ lắm do bị hạn
cuộc trong âm vận bài kệ đó thôi! Ðại sư (Tổ Vĩnh
Minh) sợ đời chẳng hiểu nên đặc biệt viết bài liệu
giản này để chỉ dạy đời tương lai.
Xin các hành nhân chuyên tâm trì danh, cầu sanh
Tây phương thì mới chẳng uổng phí.”
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 147
Tổ Liên Tông thứ bảy: Đại Sư Tỉnh Thường -
đời Tống
Sư trì giới luật tinh nghiêm, chuyên niệm danh hiệu
Phật, phát Bồ đề tâm, kết xã niệm Phật, động viên
khích lệ mọi người tu tập, nổi tiếng bốn phương
nhưng ít trước thuật.
Trong sách Phật cư sĩ, Tổ sư Ấn Quang đã giảng
giải cho chúng ta hiểu một cách đúng đắn rằng:
“Việc trước tác là tùy theo tâm nguyện của mỗi
người, chúng ta nhất định không thể đánh giá phẩm
chất đạo đức tốt xấu của người ấy qua việc họ trước
tác được nhiều hay ít. Xưa nay, các bậc hiển bày
Pháp thân ít dùng ngôn từ câu cú, không có trước
tác. Lẽ nào chúng ta lại nghi ngờ được sao? Chúng
ta biết rằng muốn thoát ly sanh tử, thật ra chẳng
phải ở chỗ nói nhiều, mà chỉ cần một mực thâm
tín, nguyện tha thiết, chí thành niệm Phật cầu sanh
Tây phương là đủ. Song, cho dù đọc hết Đại tạng
kinh đi nữa thì chẳng qua cũng chỉ để hoàn thành
việc giải thoát mà thôi.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 148
Tổ Liên Tông thứ tám: Đại Sư Liên Trì - đời
Minh
Dưới đây là pháp ngữ của Đại Sư:
1. Kinh Đại Tập nói rằng: “Thời đại mạt pháp hàng
trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo,
chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
Thời đại mạt pháp, căn khí chúng sinh ngu si yếu
đuối. Không nương tựa vào sức đại từ, đại nguyện
của đức Phật A Di Đà mà có thể đời này thành tựu
sự giải thoát sinh tử, trong ức ức vạn người khó có
một. Vậy hãy cẩn thận tuân theo lời chỉ dạy của đức
Phật. Xin khuyên các vị hãy thành thật niệm Phật,
một cửa thâm nhập, bằng không thì khó lo xong
việc lớn sinh tử.
2. Đại Sư Thiện Đạo nói rằng: “Nguyên nhân Như
Lai ra đời chỉ nói bản nguyện của Phật A Di Đà.”
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại đời ác năm trược nói
pháp 49 năm, điều quan trọng nhất là dạy chúng ta
niệm Phật một câu “Nam Mô A Di Đà Phật”, giới
thiệu cho chúng ta pháp môn Tịnh Độ thù thắng,
có thể một đời thành tựu việc giải thoát sinh tử.
3. Người có thể nghe và tin đến được một câu Nam
Mô A Di Đà Phật này, họ đã nhiều đời nhiều kiếp
đến nay tích lũy bao nhiêu nhân duyên căn lành
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 149
phước đức, mới có thể đời nay gặp nghe và thọ trì
pháp môn Tịnh Độ. Vì thế, người hay niệm Phật
đều có phước báu lớn.
4. Kinh Di Đà nói rằng: “Không thể dùng chút ít
nhân duyên căn lành phước đức mà được sinh về
cõi Cực Lạc”
Nên người niệm Phật phải thường niệm Phật để
làm hạnh chánh, lấy sáu độ và vạn hạnh làm phụ
thêm. Không nên để tâm phan duyên. Đối với
các duyên xấu cần phải hết sức tránh xa, đối với
các duyên tốt cần phải nỗ lực tùy duyên mà làm.
Nhưng cần phải có trí tuệ cân nhắc và có chừng
mực. Không nên bỏ gốc theo ngọn, các hạnh chánh
và hạnh phụ lộn xộn. Chỉ đuổi theo phước báu trời
người mà quên mất việc lớn giải thoát sinh tử của
chính mình.
5. Thời đại mạt pháp, người học Phật nên dùng tâm
thành thật niệm Phật làm phép tắc. Duy chỉ dùng
một môn trì danh niệm Phật để thâm nhập. Nhân
vì chúng sinh thời mạt pháp căn cơ chậm lụt nên
việc quán tưởng và quán tượng chẳng phải người
thượng căn thì không thể thành tựu. Chỉ có hết
lòng chân thật tụng một câu Thánh hiệu “Nam Mô
A Di Đà Phật” sẽ vô cùng bảo đảm.
6. Chúng ta là những người tu học theo pháp môn
Tịnh Độ. Đối với thế giới Cực Lạc ở Tây phương,
không những chỉ có niềm tin mà cần phải tin cho
THÍCH NỮ MINH TÂM 150
thật sâu. Đối với thế giới Tây phương Cực Lạc của
đức Phật A Di Đà và pháp trì danh hiệu Phật, có
được niềm tin sâu sẽ vãng sanh không nghi. Dù
cho bất kỳ sự cản trở phỉ báng nào, đều không dao
động đến tín tâm, cầu sanh Tịnh Độ của chúng ta.
Được vậy mới gọi là người có niềm tin sâu.
7. Chúng ta đã tin sâu lòng đại từ đại bi không
bờ bến của đức Phật A Di Đà. Chúng ta nên phát
nguyện cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Không chỉ là
nguyện thôi, mà phải nguyện cấp thiết. Trong tâm
phải hết lòng thiết thực chán lìa cái khổ vô cùng của
thế giới Sa Bà, vui mừng cầu cái vui vô cùng của thế
giới Cực Lạc. Lập nên nguyện rộng lớn, chắc chắn
cầu sanh về cõi Cực Lạc ở phương Tây. Dù cho bất
cứ tiếng tăm và lợi dưỡng nào, hoặc bệnh khổ hành
hạ đều không thể thay đổi tâm nguyện cầu sanh
Tịnh độ của chúng ta. Được vậy mới gọi là người
có nguyện tha thiết.
8. Nếu hiện tại đức Phật A Di Đà hiện thân trước
mặt chúng ta, mở rộng cánh cửa của thế giới Cực
Lạc ở phương Tây để tiếp dẫn chúng ta đi về với
Ngài, ngay tại đây, người có nguyện vãng sanh đã
ít lại càng ít. Đây là do người tu học pháp môn
Tịnh Độ có niềm tin nhưng không được sâu, có
nguyện nhưng nguyện không tha thiết, có thực
hành nhưng thực hành không đủ sức, y như cứ
quyến luyến cõi Sa Bà. Đối với danh lợi thế tục,
tình duyên con cái nhiều thứ ràng buộc. Vẫn còn
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 151
nhiều duyên không buông xuống. Mọi người tự hỏi
lương tâm mình. Đối với thế giới Cực Lạc, ba món
tư lương “Tín, Nguyện và Hạnh” của các vị đầy đủ
được bao nhiêu? Đối với danh lợi trần duyên của
thế giới Sa Bà, các vị đã buông bỏ được bao nhiêu?
9. Người hành trì pháp môn niệm Phật cần phải
thực hành hai nguyên tắc lớn “chỗ sống chuyển
thành chín, chỗ chín chuyển thành sống”, nghĩa là
phải đem môt câu Nam Mô A Di Đà Phật niệm
cho thật nhiều. Luôn thúc giục chính mình trong
bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi; luôn đề khởi một
câu Phật hiệu. Lâu ngày dài tháng thành thói quen
tốt niệm Phật. Đến phút lâm chung rất quan trọng,
Phật hiệu tự nhiên liền có thể đề khởi lên được, lúc
này nguyện vãng sanh đã có phần nắm chắc trong
tay.
10. Học thiền, mật sở dĩ khó thành tựu là do nương
tựa ở sức mình. Điều đó chỉ có căn cơ bậc thượng
mới có thể thành tựu. Nguyên nhân niệm Phật dễ
thành tựu là biết nương vào sức Phật. Đức Phật A
Di Đà có đại từ, đại bi. Hãy nương vào bổn nguyện
tiếp dẫn chúng sinh của Ngài. Đã nương vào sự
gia hộ của Phật, các bậc thượng, trung, hạ căn đều
được nhiếp thọ. Cắt ngang sinh tử hèn hạ, một đời
thành tựu vượt phàm vào thánh.
11. Bí quyết niệm Phật không gì lạ, chính là cần
niệm nhiều. Niệm từ lúc thô sơ cho đến khi thuần
THÍCH NỮ MINH TÂM 152
thục, nuôi dưỡng thành thói quen niệm Phật. Đem
một câu Nam Mô A Di Đà Phật hết lòng cung kính
niệm, ứng dụng vào các việc như ăn mặc, đi đứng
thường ngày. Lâu ngày như thế, tự mình có thể biết
được sự mầu nhiệm trong câu niệm Phật.
12. Điều tối quan trọng trong cách hành trì của
người học Phật là cần phải thâm nhập một môn,
thành thật chấp trì Thánh hiệu A Di Đà Phật. Dù
cho biển động, núi tan hoặc trải qua thời gian lâu
dài, tuyệt không hề thay đổi. Mọi hành vi trong
cuộc sống đều không nên sát sinh, ăn chay làm đầu
cho hạnh đoạn các điều ác. Lấy việc chuộc mạng
phóng sinh làm trước cho hạnh làm các điều thiện.
13. Giúp cha mẹ giải thoát sinh tử, mới tròn bổn
phận làm đạo con. Hạnh hiếu lớn nhất ở thế gian
không gì hơn khuyên cha mẹ niệm Phật, phát
nguyện vãng sinh thế giới Cực Lạc. Giả sử chúng ta
cúng dường cha mẹ rất nhiều vàng ngọc châu báu,
xây nhà cao đẹp lộng lẫy cho cha mẹ ở, nhưng lúc già
chết đến, cha mẹ không thể mang theo được. Trong
cuộc sống dẫu nhiều năm được gần gũi bên cha mẹ,
ân cần thăm hỏi với tâm mến thương, tất cả đều chỉ
là hư giả, tạm thời. Chỉ có khuyên cha mẹ thường
niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật mới tròn đạo
hiếu thảo. Đây mới thật sự mời đón cha mẹ đến chỗ
hoàn toàn lợi ích. Nguyện khắp thiên hạ, những
người con có tâm hiếu thảo, cố gắng phụng dưỡng
và báo đáp công ơn cha mẹ với tâm hiếu thảo này.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 153
14. Chân thật niệm Phật chính là thành thật đem
một câu A Di Đà Phật làm “bổn mạng nguyên
thần” của chính mình. Cần phải rành mạch, rõ
ràng, miên mật, khít khao mà trì niệm. Tuyệt đối
không vì bất cứ phương pháp huyền diệu, thần kỳ
nào hay bất cứ người có danh vọng học vấn làm
cho dao động.
15. Thiền sư Bách Trượng nói rằng: “Tu hành, dùng
pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất”.
Thiền sư Bách Trượng là bậc cao đức trong Thiền
Tông, vì dạy dỗ đệ tử mà đề xuất ra pháp niệm Phật
là con đường tu hành rất an ổn, vì niệm Phật được
nương vào sức đại từ đại bi của Phật A Di Đà và
sẽ được Ngài nhiếp thọ. Đây là con đường tu hành
thành công tuyệt đối có bảo chứng. Tham thiền,
học giáo và các pháp môn khác chỉ nương tựa vào
sức mình. Chúng sinh thời mạt pháp căn cơ ngu
đần và yếu đuối, nghiệp chướng sâu nặng, không
nương sức bổn nguyện của Phật làm sao mà hành
cho thông.
THÍCH NỮ MINH TÂM 154
Tổ Liên Tông thứ chín: Đại Sư Ngẫu Ích - đời
Minh
Đại Sư khai thị:
1. “Người tín nguyện trì danh, nếu nghiệp chướng
tiêu trừ, mang nghiệp vãng sanh thì liền sanh cõi
Phàm Thánh Đồng Cư tịnh độ. Người tín nguyện
trì danh, nếu đoạn tận kiến hoặc, tư hoặc mà vãng
sanh thì liền sanh cõi Phương Tiện Hữu Dư tịnh
độ. Người tín nguyện trì danh, nếu phá trừ một
phần vô minh mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thật
Báo Trang Nghiêm tịnh độ. Người tín nguyện trì
danh, nếu trì đến chỗ cứu cánh, đoạn tận vô minh
mà vãng sanh thì liền sanh cõi Thường Tịch Quang
tịnh độ. Cho nên trì danh niệm Phật có khả năng
sanh lên bốn cõi, thật chính xác không sai.”
2. Ngài lại dạy: “Pháp môn Tịnh độ không có gì kỳ
lạ, chủ yếu chỉ là tin sâu, nguyện tha thiết và nỗ
lực hành trì. Chỉ e rằng, người mới có được chút ít
niềm tin cao quý và sự an ổn, rồi thủ đắc mà buông
bỏ niệm. Nếu ngày đêm quyết định lấy mười vạn,
hoặc ba vạn hay năm vạn niệm làm tiêu chuẩn,
niệm không thiếu, thề nguyện suốt đời không thay
đổi mà khi lâm chung không được vãng sanh thì ba
đời chư Phật thành vọng ngữ. Một khi đã vãng sanh
thì vĩnh viễn không thoái chuyển, thấu rõ được tất
cả các pháp. Phải tránh lối tu theo kiểu hôm nay
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 155
Trương Tam, ngày mai Lý Tứ (người tu lúc này lúc
nọ)… Tu hành như thế làm sao biết được trì danh
hiệu A Di Đà Phật đến chỗ cứu cánh thì ba tạng,
mười hai bộ loại kinh, tất cả giáo lý đều ở trong
này. Một ngàn bảy trăm công án thiền cũng nằm
trong này. Ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, ba
tụ tịnh giới cũng ở trong đây.”
3. “Được vãng sanh hay không toàn do có Tín,
Nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp đều bởi
hành trì sâu hoặc cạn.” Ngài lại bảo: “Nếu không
Tín, Nguyện, dù trì niệm câu hồng danh cho đến
gió thổi không vào, mưa sa chẳng lọt, vững chắc
như tường đồng vách sắt, cũng không được vãng
sanh.”
4. “Một câu A Di Ðà Phật chính là pháp để đắc Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của đức Bổn Sư
Thích Ca trong đời ác ngũ trược, nay đem toàn thể
Quả Giác này trao cho chúng sanh trược ác. Ðó là
cảnh giới sở hành của chư Phật, chỉ Phật với Phật
mới có thể hiểu cùng tận được nổi, chẳng phải là
điều cửu giới dùng tự lực mà tin hiểu được nổi”.
Lại nữa: “Ðem pháp giới thể làm thành thân và cõi
của Phật Di Ðà. Cũng do chính toàn bộ cái Thể ấy
làm thành danh hiệu Di Ðà. Vì vậy, danh hiệu Di
Ðà chính là bổn giác lý tánh của chúng sanh”.
5. Công phu Niệm Phật chỉ quý ở tín tâm chân
thực. Thứ nhất phải tin rằng: Ta là Phật chưa thành,
THÍCH NỮ MINH TÂM 156
Di Ðà là Phật đã thành, thể vốn không hai. Kế đó,
tin Ta-bà thực sự là khổ, An Dưỡng đích xác đáng
quay về, ưa - chán rành rành. Tiếp đó, tin mỗi một
hành động hiện tại đều có thể hồi hướng về Tây
phương. Nếu chẳng hồi hướng, dù là thượng phẩm
thiện vẫn chẳng thể vãng sanh. Nếu biết hồi hướng,
dẫu trót lầm gây hạnh ác, nhưng nhanh chóng dứt
tâm tương tục, khởi lòng trân trọng sám hối; nhờ
sức sám hối cũng được vãng sanh. Huống là trì giới,
tu phước, bao nhiêu nghiệp thù thắng, há chẳng đủ
để trang nghiêm Tịnh Ðộ ư?
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm
trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp
khác, lầm lạc lắm thay! Chỉ nên tăng thêm lòng tin
chân thành, chẳng cần phải thay đổi hết thảy các
hạnh nghiệp vậy.
6. Biển cả Phật pháp, lấy Tín để vào, lấy Trí để
chứng. Nếu có tín tâm nhưng thiếu trí huệ, chỉ e
khó tránh phân vân đôi ngả. Phật dạy: “Ðời mạt
đấu tranh kiên cố, ức ức người học đạo, hiếm có
một người chứng quả. Chỉ nương vào niệm Phật
cầu sanh Tịnh Ðộ, mới có thể vượt ngang ra khỏi
luân hồi”. Nếu tin tưởng sâu xa niệm Phật, lễ bái là
cái nhân chân chánh để thành Phật, thành Tổ thì
đích xác là chẳng bị dòng đời xoay chuyển, lại còn
là trí huệ đại quang minh, vượt thẳng lên Tịnh Ðộ,
vĩnh viễn chẳng sợ bị lạc đường nữa.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 157
7. Siêu sanh thoát tử nhưng bỏ qua pháp môn Tịnh
Ðộ thì quyết chẳng còn phương tiện hoành siêu,
thẳng chóng nào khác nữa. Nhưng muốn sanh
về Tịnh Ðộ mà bỏ pháp Niệm Phật thì chắc chắn
chẳng còn công phu “vạn người tu, vạn người đậu”
nào nữa! Gần đây, kẻ manh Thiền (thiền mù, tu
thiền lơ mơ) lầm bảo chẳng cần phải niệm Di Ðà,
chẳng cần sanh Tịnh Ðộ. Bướng bỉnh, mù quáng,
hung hăng, sa hầm, sụp hố. Ôi, đêm lúc sắp ngủ,
gối chiếu xộc xệch, còn phải xếp lại cho ngay. Ba
cõi như nhà cháy nhưng chẳng nghĩ xuất ly há có
được chăng?
Sao bằng già dặn, chắc thực niệm Phật, lấy Tín dẫn
đường, lại phải phát nguyện chóng ngự lên chín
phẩm đài sen, cùng Quán Âm, Thế Chí, Hải Chúng
làm quyến thuộc! Ngó lại kẻ ác kiến tà thiền trống
rỗng, mượn hư danh Tổ Sư vênh váo một thời,
đọa nỗi khổ thực sự: kéo lưỡi trâu cày trong vạn
kiếp, khác gì mây sánh với bùn! Bất luận tán tâm,
định tâm, chỉ khắc định khóa trình, trọn đời chẳng
khuyết, mỗi ngày càng thêm siêng gắng, thiết tha
thì hoa nhụy cõi Tịnh Ðộ ngày càng tươi tốt thêm.
8. Tin sâu Tịnh Ðộ, phát nguyện quyết định vãng
sanh, lấy Trì Danh làm Chánh Hạnh, lấy Lục Ðộ
v.v... làm Trợ Hạnh. Vạn người tu, vạn người vãng
sanh, tuyệt đối bảo đảm. Nếu tâm còn một điểm
háo thắng, tu lấn sang Tham Cứu, cho là “hướng
thượng” thì chỗ đặt chân chẳng ổn, mất cả Thiền
THÍCH NỮ MINH TÂM 158
lẫn Tịnh! Là bậc trí thì chẳng thể không quyết đoán
chỗ mình toan hướng đến.
9. Niệm Phật cầu sanh Tịnh Ðộ chính là một pháp
môn gồm thâu trọn vẹn trăm ngàn pháp môn, chứ
chẳng phải là đề cao một pháp môn, vứt bỏ trăm
pháp môn khác! Nhưng phải thâm nhập một môn,
lấy Niệm Phật làm Chánh Hạnh, còn hết thảy Giới,
Ðịnh, Huệ v.v... làm Trợ Hạnh. Chánh - Trợ cùng
hành như thuyền thuận gió, lại thêm có dây lèo thì
càng chóng đến được bờ.
Pháp Niệm Phật tuy nhiều, nhưng Trì Danh là giản
tiện nhất. Pháp Trì Danh tuy nhiều, nhưng phép Ký
Số là ổn thỏa, thích đáng nhất. Kẻ tu hành thực sự nào
có mong làm gì khác với hạng ngu phu, ngu phụ đâu.
10. Nhạt một phần tình đời, tự nhiên đắc lực thêm
một phần Phật pháp. Xem nhẹ chuyện kiếm sống
trong cõi Ta-bà một phần, phương tiện sanh về Tây
phương ổn đáng thêm một phần. Ðiều này mình
chỉ tự hỏi lòng, đừng hỏi bạn tri thức. Tri thức
cũng chỉ khuyên nhạt bớt mùi đời, coi nhẹ chuyện
làm ăn, chuyên tu đạo Xuất Yếu mà thôi.
11. Ra khỏi nhà lửa tam giới, có hai đường Dọc và
Ngang:
- Dùng Tự Lực đoạn Hoặc để siêu thoát sanh tử
gọi là Thụ Xuất Tam Giới (vượt khỏi Tam Giới theo
chiều dọc), khó khăn, thành công chậm chạp.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 159
- Dùng Phật Lực tiếp dẫn sanh về Tây phương gọi
là Hoành Siêu Tam Giới (siêu thoát Tam Giới theo
chiều ngang), dễ dàng, thành công nhanh chóng.
Viễn Tổ (đại sư Huệ Viễn) nói: “Công cao dị tấn,
niệm Phật vi tiên” (công cao mà dễ tiến thì niệm
Phật đứng đầu). Kinh dạy: “Mạt thế ức ức nhân tu
hành, hãn nhất thành đạo. Duy y niệm Phật khả
đắc độ thoát, như sấn thuyền độ hải, bất lao công
lực” (Ðời mạt ức ức người tu hành, hiếm có một ai
thành đạo. Chỉ có nhờ vào niệm Phật mới được độ
thoát, như nhờ thuyền vượt biển, chẳng mất công
sức).
Nếu có thể dốc lòng vào đường tắt Tây phương, chí
thành phát nguyện, một lòng niệm Phật cầu vãng
sanh thì đúng là bậc trượng phu. Nếu vẫn chưa
thực sự tin, nguyện chẳng thiết, hành chẳng tận
sức, dù Phật có từ bi thả thuyền, chúng sanh chẳng
chịu lên thuyền thì biết làm thế nào đây?
12. Tín - Nguyện như mắt, các hạnh như chân. Tín
- Nguyện như trâu, các hạnh như xe. Tín - Nguyện
như chữ khắc trên con cờ, các hạnh như con cờ. Vì
Tín - Nguyện - Hạnh ba thứ, thiếu một thứ chẳng
được, nhưng phải lấy Tín - Nguyện làm chủ đạo.
Bởi lẽ, nếu Tín - Nguyện đã chuyên thì mọi thứ
điều thiện đều là tư lương Tịnh Ðộ. Dẫu cho vạn
phần bất hạnh, trót lầm gây các điều ác, thành tâm
sám hối, dứt tâm tiếp nối thì cũng đủ để làm diệu
hạnh vãng sanh. Nếu không có Tín Nguyện, dù cho
THÍCH NỮ MINH TÂM 160
Giới động trời người, Ðịnh cảm cõi Sắc, cõi Vô Sắc
thì trí huệ chỉ đạt bằng Nhị Thừa Quyền Quả mà
thôi.
13. Nếu muốn mau thoát khỏi nỗi khổ luân hồi thì
không gì bằng trì danh niệm Phật, cầu sanh thế
giới Cực Lạc. Nếu muốn quyết định được sanh về
thế giới Cực Lạc thì lại không gì bằng lấy Tín để
dẫn đường, lấy Nguyện để thúc đẩy. Tin xác quyết,
nguyện khẩn thiết, dù tán tâm niệm Phật cũng
chắc chắn được vãng sanh. Lòng tin chẳng chân
thực, nguyện chẳng dũng mãnh, dù nhất tâm bất
loạn cũng chẳng được vãng sanh.
Thế nào là Tín? Một là tin vào nguyện lực của
Phật A Di Ðà. Hai là tin vào lời dạy của đức Thích
Ca Văn Phật. Ba là tin vào lời khen ngợi của sáu
phương chư Phật. Phàm là bậc chánh nhân quân
tử trong thế gian còn chẳng nói dối, huống hồ là
Di Ðà, Thích Ca, sáu phương chư Phật há lại vọng
ngữ sao? Chẳng tin điều này thì thực chẳng còn
cách nào cứu được nữa. Vì thế, trước hết phải sanh
lòng tin sâu xa.
Thế nào là Nguyện? Trong hết thảy thời, chán ghét
nỗi khổ sanh tử cõi Ta-bà, ưa thích, hâm mộ niềm
vui Bồ Ðề cõi Cực Lạc. Làm bất cứ điều gì thiện
hay ác, nếu thiện thì hồi hướng cầu vãng sanh, ác
thì sám nguyện cầu vãng sanh, không còn chí gì
khác. Ðấy gọi là Nguyện.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 161
Tín - Nguyện đã đầy đủ thì Niệm Phật chính là
chánh hạnh; cải ác tu thiện đều là trợ hạnh. Tùy
theo công sức sâu cạn mà chia thành chín phẩm,
bốn cõi Tịnh Ðộ, mảy may chẳng lạm. Chỉ cần tự
kiểm điểm lấy mình, chẳng cần phải hỏi người
khác nữa.
14. Có kẻ thiền giả hỏi tôi: “Sư tu tập công phu gì?”
Ðáp: “Niệm Phật”. Kẻ ấy hỏi: “Niệm Phật để làm
gì?” Ðáp: “Ðể cầu sanh Tây phương!” Thiền giả
cười khẩy: “Sao chẳng chuyên chú nơi tự tánh Di
Ðà, duy tâm Tịnh Ðộ, mà lại dùng cái vọng niệm ấy
để vọng cầu làm gì?” Tôi đáp: “Ông bảo Phật A Di
Ðà ở ngoài tánh, cõi Cực Lạc ở ngoài tâm ư? Nếu
vậy thì tâm tánh quá hạn hẹp rồi. Như vậy lời ông
vừa bảo vô cầu vô niệm đó chẳng phải là chấp vào
Không một cách xấu ác hay sao?”
Lại hỏi: “Ông do nguyện nào nguyện sanh Tây
phương?” Tôi hỏi: “Là do nguyện nào nguyện vào
địa ngục?” Người ấy đáp: “Là cái tâm nào vậy?” Tôi
đáp: “Tây phương là trên thờ chư Phật, địa ngục là
dưới độ chúng sanh. Với Phật thì bắt đầu từ đức Di
Ðà vì nguyện vương thù thắng. Với chúng sanh thì
bắt đầu từ địa ngục vì bi tâm khẩn thiết”.
15. Sanh về Tây phương dùng ba thứ tâm: chí thành
tâm, thâm tâm và hồi hướng phát nguyện tâm. Do
ba tâm này có thể tu thẳng thành Phật. Người trôi
lăn cõi tục cũng có ba tâm: tâm khinh, tâm sao
THÍCH NỮ MINH TÂM 162
nhãng, tâm tương tục. Do ba tâm này thường qua
lại trong năm đường. Ô hô! Ba thứ tâm trước trong
trăm người họa chăng có một; ba tâm sau trăm
ngàn người chẳng có nổi một người không. Chẳng
lạ gì người miệng bảo cầu sanh thì lắm, kẻ thực sự
vãng sanh lại ít vậy!
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 163
Tổ Liên Tông thứ mười: Đại Sư Triệt Lưu - đời
Thanh
Trong tập Tịnh Độ Cảnh Ngữ, Đại Sư khai thị:
1. “Ngày nay, những người tu học Tịnh nghiệp,
suốt ngày niệm Phật, sám hối, phát nguyện mà Tây
phương đối với họ vẫn còn xa, không bảo đảm là
mình được vãng sanh. Vì sao? Vì gốc ái chưa nhổ,
còn bị dây tình buộc ràng. Nếu xem sự ái ân của
thế giới Sa Bà này đồng như nhai sáp, thì dù trong
lúc bận rộn hay rảnh rang, động hay tịnh, khổ hay
vui… đều nương vào câu Phật hiệu vững như núi
Tu di, tất cả cảnh duyên không thể làm lay động;
hoặc khi cảm thấy mệt mỏi biếng nhác, tập khí
hiện khởi, liền dùng kiếm tuệ thiên trường chém
đứt ngay trong một niệm, khiến cho tất cả quân ma
phiền não tan tác trốn chạy, không còn chỗ dung
thân, như ngọn lửa dữ thiêu sạch hết thảy tình thức
vô thỉ, thì người như vậy, tuy ở trong cõi ác năm
trược, nhưng đã vận thân ngồi trong đài Liên Hoa
của cõi Tịnh độ, đâu cần phải đợi Phật A Di Đà đưa
tay, Quán Âm dẫn dắt mới tin là mình vãng sanh
hay sao?”
2. Khai thị Phật thất ba năm:
Thứ nhất là sanh lòng đau tiếc quang âm dù thời
gian ba năm chẳng mấy. Cổ nhân đã ví: “Như bệnh
THÍCH NỮ MINH TÂM 164
sốt rét mỗi ngày đều lên cơn, cứ ba lượt nóng lạnh
là xong”. Nếu chẳng siêng gắng, đốc thúc thân tâm
đua tranh với từng phút giây, sẽ chẳng khỏi thấy
thời gian ba năm là dài. Nếu thấy là dài thì năm
tháng dằng dặc, tâm sự ngổn ngang, dễ sanh mệt
chán, công phu tịnh nghiệp chẳng đạt, chẳng tiếc
lắm ư? Huống hồ mạng trong hơi thở, nào bảo đảm
sống được ba năm? Dù sống hơn được ba năm, nào
phải là trường cửu? Như thường nói: “Như tù bị
dắt ra chợ, như dê bị đưa đến lò mổ, cứ mỗi bước
tiến đến trước là một bước đến gần cái chết”. Ngày
đêm đăm đắm, nóng lạnh chẳng sờn, một câu hồng
danh không lúc nào gián đoạn; lẽ nào Di Đà chẳng
tiếp dẫn, chẳng quyết định sanh về Tịnh Độ sao?
Những người đồng hạnh với tôi hãy dè chừng: chớ
lúc đầu tinh chuyên, về sau biếng nhác. Hãy xem
ba năm như một ngày, như một sát na thì mới nên.
Thứ hai là phải phát tâm chuyên cầu xuất ly. Công
hạnh ba năm chẳng những không cầu những
phước báo thấp thỏi của thế gian, mà cũng chẳng
nên mong cầu công đức, trí huệ, biện tài, ngộ giải
hoặc cầu đời đời làm tăng để hưng hiển Phật pháp
v.v... Chỉ mong khi chết được sanh sang cõi kia,
thoát khổ sanh tử. Nguyện ấy phải hiện hữu trong
từng khắc, như xưa có người nọ bị vùi trong cái
giếng khô sâu cả ngàn thước, được con cáo dạy
cho khẩu quyết theo lỗ hổng mà thoát ra. Do nhất
tâm muốn thoát ra, người ấy nhìn vào lỗ hổng tụng
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 165
khẩu quyết một lúc lâu, lỗ chẳng lớn thêm, thân
chẳng nhỏ đi mà tùy ý bay thoát ra.
3. Xưa kia, Hòa thượng Tịch Thất bảo: “Người đời
muốn tu Tịnh nghiệp chẳng thể nói tôi nay bận rộn
phải đợi đến lúc nhàn hạ, tôi nay nghèo túng hãy
đợi đến lúc giàu có, tôi nay trẻ mạnh hãy đợi đến
lúc già cả. Nếu viện cớ bận rộn, viện cớ nghèo túng,
viện cớ non trẻ thì là vô duyên tu tập Tịnh nghiệp,
lỡ đột nhiên chết mất có hối cũng chẳng kịp! Sao
không thừa dịp thân đang mạnh mẽ mà nỗ lực tu
đi, lại cứ nói như thế?
4. Người đời nay, đừng nói là người tin ưa pháp
này đã ít, ngay cả những người tin tưởng sâu xa
vào pháp môn Tịnh Độ vẫn cứ do dự, lần chần đến
nỗi uổng phí một đời, đa phần là như vậy. Hiện tại,
hành nhân Tịnh nghiệp suốt ngày niệm Phật, sám
hối, phát nguyện, vẫn còn cách xa Tây phương, khó
chắc được vãng sanh thì không gì khác hơn là chưa
nhổ được cọc Ái, chưa dứt được dây Tình.
5. Cổ nhân nói: “Ái chẳng nặng chẳng sanh Ta-
bà”, lại nói: “Đạo niệm nếu giống như tình niệm
thì thành Phật lắm dịp”. Ngũ Thông tiên nhân tinh
tấn bao kiếp còn chưa trừ được dục lậu, mất sạch
công hạnh. Vì thế biết rằng: Chưa chứng thánh quả
vẫn hiếm ai không bị tình ái gây hệ lụy! Nói chung,
phiền não vô tận, nhưng căn bản sanh tử chỉ là
tham ái; nó có thể làm cho hành nhân bị chìm đắm,
THÍCH NỮ MINH TÂM 166
là pháp chướng ngại vãng sanh. Bởi thế, trước kia,
trong các kinh chỗ nào Phật cũng quở trách. Cứ hễ
đạm bạc được một phần tình ái thì tịnh nghiệp lại
được thành thục thêm một phần hòng được giải
thoát nơi bờ sanh tử vậy.
6. Cái nghĩa chữ “lữ” lớn lao thay! Chữ “lữ” chỉ
người rong ruổi đường xa tạm nghỉ quán trọ. Kẻ lữ
thứ phải có bạn, cũng phải có nơi ở trọ, cũng phải
có nghiệp riêng. Nay nhìn khắp tam giới hệt như
một cuộc lữ du, nhưng mỗi người một nghiệp khác
nhau. Bổn nghiệp đã khác nên nơi chốn và bầu bạn
cũng khác.
Buồn thay! Từ khi có thức đến nay, đã trải trần sa
kiếp, xương chất như núi Phú La, uống sữa quá
biển cả. Trong khoảng thời gian ấy, tình trạng
lênh đênh, nỗi khổ trôi dạt chẳng thể nói xiết. Có
lúc làm bầu bạn cùng chủng tánh địa ngục, lấy ác
nghịch làm gốc nên các ngục Hữu Gián, Vô Gián
là chốn trọ. Có lúc với những kẻ trong đường quỷ
làm bạn, lấy keo tham làm gốc nên núi hoang, đầm
trống là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng súc sanh,
lấy ngu si làm gốc nên trên cạn, dưới nước, trên
không là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng A Tu la,
lấy sân mạn làm gốc nên Tu Di, biển cả là chốn
trọ. Có lúc lấy bầu bạn cùng loài người, lấy cương
thường làm gốc nên các nước trong bốn châu là
chốn trọ. Có lúc bầu bạn với chư Thiên cõi dục, lấy
giới thiện làm gốc nên các tầng trời Địa Cư, Không
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 167
Cư là chốn trọ. Có lúc bầu bạn cùng trời Sắc Giới,
Vô Sắc Giới, lấy thiền định làm gốc nên Tứ Thiền,
Tứ Không là chốn trọ.
Ở trọ chốn nào bèn chấp vào chốn ấy chẳng biết là
quán trọ. Than ôi! Giấc mộng quê xưa hãy còn mơ
hồ, tạm dung nơi đất khách há là rốt ráo? Chẳng
gởi thân nơi An Dưỡng để hoành siêu, chẳng ngộ
Tịch Quang để triệt thượng (thấu suốt theo chiều
dọc), há có thể vượt khỏi cái nghĩa chữ “lữ” ư?
Hiện tại, chỉ nên lấy An Dưỡng làm chốn nương
náu, đừng suốt đời cam phận lữ khách. Nếu như
hoa nở thấy Phật, chứng đắc chân thường, lại đoái
tưởng Ta-bà, trở vào Ta-bà tạm ngụ để cứu giúp
chúng sinh, khuyến dụ quần mê, lại còn phân thân
ứng tích trong phương xa cõi khác, ra vào tam giới
chẳng chán mệt. Đó mới gọi là bậc Cứu Cánh Lữ.
Nếu chẳng hiểu được nghĩa này sẽ ngộ nhận trạm
đưa thư, chòi truyền tin là quê nhà, mọi chuyện
mưu cầu không chuyện nào chẳng phải là việc
trong nhà lửa! Hoặc lại sợ nẻo đường lữ thứ lắm
nỗi khổ nạn, lắm phen băn khoăn đi không trở lại,
khiến cho tứ sanh cùng hôn mê trong sáu nẻo còn
biết nhờ vào đâu? Nếu như vậy thì đều là chẳng
đúng với ý nghĩa chữ Lữ vậy.
THÍCH NỮ MINH TÂM 168
Tổ Liên Tông thứ mười một: Đại Sư Thật Hiền
Tĩnh Am - đời Thanh
Huấn thị chính yếu của Sư là bản văn Phát Bồ đề
tâm, với lời dạy rất chí thiết:
1.“Niệm Phật mà không phát đại tâm Bồ đề thì
không tương ưng với đại nguyện của đức A Di
Đà, do đó rốt cùng không thể vãng sanh. Nhưng
nếu phát tâm Bồ đề mà không chuyên tâm niệm
Phật thì cũng không thể vãng sanh. Do vậy, lấy việc
phát tâm Bồ đề làm chánh nhân, niệm Phật làm trợ
duyên thì sau này mới có thể vãng sanh. Người tu
Tịnh nghiệp không thể không biết điều này.”
2. Một chữ nguyện bao gồm cả tín và hạnh. Tín là
tin: tự, tha, nhân, quả, sự, lý, không hư dối. Tín tự là
gì? Nghĩa là tin tất cả do tâm tạo, mình niệm Phật
sẽ được tiếp dẫn. Tín tha là gì? Nghĩa là tin Đức
Phật Thích Ca không bao giờ nói dối, Phật A Di
Đà không nguyện suông. Tín nhân là gì? Nghĩa là
tin niệm Phật là nhân vãng sanh giải thoát. Tín quả
là gì? Nghĩa là tin sự vãng sanh thành Phật là kết
quả của công phu niệm Phật. Tín sự là gì? Nghĩa là
tin cảnh giới Tây phương, tất cả sự tướng đều có
thật. Tín lý là gì? Nghĩa lý tánh duy tâm bao trùm
cảnh giới Phật. Mỗi điều trên đây đều xác thật nên
gọi là không hư dối. Hạnh là chuyên trì danh hiệu
Phật không xen tạp, không tán loạn. Nguyện là mỗi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 169
tâm ưa thích, mỗi niệm mong cầu. Trong ba điều
kiện này, người tu tịnh nghiệp cần phải đủ, không
thể thiếu một mà nguyện là điểm thiết yếu. Người
niệm Phật phải nên tinh cần chuyên tâm.”
3. “Cầu sinh Tịnh Độ là thế nào? Tu hành cõi
này thì sự tiến đạo rất khó, vãng sinh cõi kia thì
sự thành Phật cũng dễ. Dễ nên một đời đã có thể
thấu đáo, khó nên lắm kiếp vẫn chưa chắc hoàn
thành. Do đó mà thánh ngày xưa, hiền ngày trước,
ai cũng khuynh hướng; kinh cả ngàn, luận cả vạn,
đâu cũng chỉ quy. Quả thật sự tu hành trong thời
kỳ mạt pháp này, không có pháp nào hơn pháp ấy.
Nên nhất tâm chấp trì danh hiệu của Phật hơn cả
sự bố thí đến trăm năm, nhất niệm phát tâm bồ đề
rộng lớn vượt cả sự tu hành trong nhiều kiếp. Lý
do là vì niệm Phật vốn mong làm Phật, vậy tâm lớn
không phát thì có niệm cũng không làm gì, phát
tâm vốn để tu hành, vậy tịnh độ không sanh thì có
phát cũng dễ thoái chuyển, nên gieo giống bồ đề,
cày bằng cái cày niệm Phật, thì trái hạt tuệ giác tự
nhiên lớn lên, ngồi thuyền đại nguyện, nhập vào
bể cả tịnh độ thì Tây phương Cực Lạc quyết định
vãng sanh.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 170
Tổ Liên Tông thứ mười hai: Đại Sư Triệt Ngộ
- đời Thanh
1. “Thật vì sanh tử, phát lòng Bồ Đề, dùng tín
nguyện sâu, trì danh hiệu Phật. Mười sáu chữ này
là cương tông giềng mối của pháp môn niệm Phật.
Nếu không phát lòng chân thật thiết tha vì nỗi khổ
sanh tử thì tất cả lời khai thị đều là phù phiếm. Bởi
vì tất cả sự khổ trong đời này không gì hơn là việc
sanh tử, chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, sống
chết, chết sống, ra khỏi bào thai này lại chui vào
một bào thai khác, bỏ lớp da này lại mang một lớp
da khác, khổ não đã quá nhiều không kham nổi,
huống chi tự mình chưa thoát luân hồi, làm sao
tránh khỏi đọa lạc? Than ôi, khi một niệm sai lầm
liền rơi vào ba đường ác là địa ngục ngạ quỷ súc
sanh, dễ tới mà khó lui chân, chịu đọa đày khổ đau
kiếp kiếp! Cho nên đại chúng phải hết sức lo sợ mà
nghĩ đến vấn đề sanh tử như chịu tang cha mẹ, như
cứu lửa đốt trên đầu mà gắng công chuyên tinh tu
tập; ta đã khổ vì sự sống chết mà cầu thoát ly nên
phát lòng từ bi liên tưởng đến tất cả muôn loài cũng
đau khổ như vậy. Chúng sanh cùng ta đồng một
bản thể, là cha mẹ của ta trong nhiều kiếp, là chư
Phật đời vị lai, nếu chẳng phát tâm cứu độ, chỉ cầu
giải thoát riêng mình thì đối với tình có chỗ chưa
an, đối với lý có điều sơ sót. Huống chi chẳng phát
đại tâm thì ngoài không thể cảm thông với Phật,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 171
trong không thể khế hợp với tánh chân, trên không
thể tròn quả Bồ Đề, dưới không thể độ khắp muôn
loài. Như thế làm sao báo đền ân nhân nhiều kiếp,
làm sao giải thích oan gia nhiều đời, làm sao thành
tựu căn lành đã gieo trồng từ xưa, làm sao sám trừ
tội nghiệp oan khiên đã tạo ra về trước? Và như thế
thì tu hành chỗ nào cũng gặp chướng duyên, dù có
thành tựu cũng là quả vị thấp, cho nên phải xứng
tánh phát lòng Bồ Đề vậy.”
2. Tám điều thiết yếu cho người niệm Phật:
“Một là thật vì sanh tử mà phát tâm Bồ đề, đó là
học đạo chơn chánh.
Hai là lấy tín nguyện thâm sâu, trì danh hiệu Phật
làm chánh tông Tịnh độ. Ba là lấy sự nhiếp tâm
chuyên chú niệm làm phương tiện hạ thủ công phu.
Bốn là lấy việc chiết phục phiền não đang hiện
hành làm sự tu tâm chính yếu.
Năm là lấy sự chuyên trì bốn luật nghi chính yếu
làm chỗ căn bản nhập đạo. Sáu là lấy các pháp khổ
hạnh làm việc trợ duyên tu đạo.
Bảy là lấy sự nhất tâm bất loạn làm chỗ quay về của
Tịnh độ.
Tám là lấy sự trông thấy các linh ảnh tốt đẹp làm
chỗ nghiệm chứng vãng sanh.
3. Một câu A Di Đà Phật là thuốc A già đà, không có
THÍCH NỮ MINH TÂM 172
bệnh nào mà không trị lành; là vua ngọc châu như
ý, không có nguyện nào mà không được thỏa mãn;
là thuyền Từ vượt qua biển khổ sanh tử, không có
khổ nào mà không được độ thoát; là đèn trí tuệ soi
sáng vô minh tăm tối, không có bóng tối nào mà
không bị chiếu tan. Chỉ cần một lần nghe qua câu
Phật hiệu là đã có duyên, chỉ cần một niệm tín tâm
liền có thể tương ứng với Phật. Tín tâm chơn thật,
lúc nào cũng nguyện mong được vãng sanh. Trong
tâm thường trụ hai pháp tín - nguyện này, như
trung thần phụng mạng mật chỉ của minh quân,
như đứa con hiếu thảo vâng lời đấng cha lành, nhớ
nghĩ không quên làm một việc vô cùng trọng yếu,
thì cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, yên tĩnh hay
náo nhiệt, thảnh thơi hay bận rộn, niệm nhiều hay
niệm ít, nói chung đều là chánh nhân vãng sanh.
Chỉ sợ không nhiệt tâm thực hành mà thôi. Từ vô
lượng kiếp đến nay, chúng ta mãi ở trong vòng sanh
tử luân hồi, lẽ nào không phát tâm cầu xuất ly, tu
hạnh hướng đạo! Vì chạy theo sự biếng nhác thoái
hóa cho nên chúng ta mới ở mãi trong biển sanh
tử, chịu vô lượng khổ não. Nay được nghe pháp
môn trì danh giản yếu, nhưng nếu vẫn đi theo lối
cũ bại hoại, không có tâm huyết chí khí thì sao có
thể gọi là bậc Đại Sĩ đệ nhất được!”
4. Niệm Phật nên sanh bốn loại tâm. Những gì là bốn:
Một là nên sanh tâm hổ thẹn, sám hối những
nghiệp từ vô thỉ đến nay mình đã tạo.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 173
Hai là nên sanh tâm vui thích khi được nghe pháp
môn này.
Ba là tự thương xót mình, vì nghiệp sâu dầy nên
không gặp được pháp môn này sớm.
Bốn là nên sanh tâm cảm kích lòng từ bi như thị
của Phật.
Trong bốn loại tâm này, chỉ cần có một tâm thì
cũng có thể thành tựu Tịnh nghiệp. Niệm Phật cần
phải dài lâu liên tục, không được gián đoạn. Gián
đoạn thì Tịnh nghiệp không thể thành tựu. Dài
lâu phải nên dũng mãnh, không được biếng nhác.
Biếng nhác thì Tịnh nghiệp không thể thành. Dài
lâu mà không dũng mãnh tức là thoái đọa. Dũng
mãnh mà không dài lâu tức là không tiến bộ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 174
Tổ Liên Tông thứ mười ba: Đại Sư Ấn Quang -
cuối đời Thanh - Dân Quốc
Đại Sư khai thị:
1.Người xưa nói: “Thân người khó được, nước văn
minh văn hóa khó sanh, Phật pháp khó nghe, sanh
tử khó xong”. Chúng ta may mắn được làm thân
người, sanh ở các nước văn minh, được nghe Phật
pháp. Ðiều bất hạnh là tự thẹn nghiệp chướng sâu
nặng, không có sức đoạn Phiền Hoặc để mau thoát
khỏi ba cõi, liễu sanh thoát tử; nhưng may mắn
được nghe đức Như Lai tâm từ bi triệt để, thương
các chúng sanh mê trái tự tâm, luân hồi lục đạo,
trải bao kiếp dài lâu chưa thể thoát ra. Do vậy, Ngài
hưng khởi Vô Duyên Từ, vận lòng Bi đồng thể, thị
hiện sanh trong thế gian, thành Ðẳng Chánh Giác,
tùy thuận cơ nghi, nói ra pháp môn Tịnh Ðộ là pháp
đại quyền xảo, phương tiện lạ lùng, khiến cho hàng
phàm phu lè tè sát đất được đới nghiệp vãng sanh,
thật không còn gì may mắn hơn nữa! Nếu chẳng
phải là từ vô lượng kiếp đến nay đã trồng thiện căn
sâu dầy, làm sao được nghe pháp chẳng thể nghĩ
bàn này? Chẳng nên gấp sanh lòng tin chân thành,
phát nguyện cầu vãng sanh ư?
2. Hãy nên biết: Chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo
ác nghiệp vô lượng, vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười phương hư
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 175
không chẳng thể chứa đựng”. Lẽ đâu tu trì lơ mơ,
hời hợt, lại tiêu nổi nghiệp ư? Bởi vậy, Thích Ca, Di
Ðà, giáo chủ hai cõi, đau đáu nghĩ đến chúng sanh
không có sức đoạn Hoặc, riêng mở ra một pháp môn
nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh.
Hai Đức Phật, trong những kiếp xưa, đã phát đại thệ
nguyện độ thoát chúng sanh. Đức Thích Ca thị hiện
sanh trong uế độ, dùng nhơ, dùng khổ để chiết phục,
hòng đưa chúng sanh đi. Đức Di Đà thì an cư nơi cõi
Tịnh Ðộ, dùng tịnh, dùng vui nhiếp thọ để lôi kéo,
uốn nắn. Lòng hoằng từ đại bi ấy, dù trời đất, cha mẹ
cũng chẳng thể bằng được một phần hằng hà sa. Chỉ
nên phát lòng thẹn hổ, phát tâm sám hối, thì mới tự
có thể được Phật gia bị, nghiệp tiêu, thân an mà thôi.
3. Pháp môn Tịnh Ðộ, cốt sao có lòng tin chân
thành, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền
có thể nương Phật từ lực vãng sanh Tây phương.
Ðã được vãng sanh, liền nhập cảnh giới Phật, thụ
dụng như Phật, hai thứ phàm tình và thánh kiến
đều chẳng sanh. Nếu có đủ tín nguyện, dẫu là hạng
tội ác cực đại, sắp đọa A Tỳ địa ngục, vẫn có thể
nương vào sức thập niệm, mau chóng được Phật
từ tiếp dẫn vãng sanh. Thật là ngàn phần ổn thỏa,
vạn phần thích đáng, là pháp môn vạn phần chẳng
thể bỏ sót vậy. Nay đang lúc Mạt Pháp mà bỏ pháp
môn này thì không còn có cách nào khác cả.
4. Pháp môn Tịnh Ðộ nếu tin cho tới nơi, còn gì
tốt lành hơn! Nếu trí ta chưa quyết, hãy nên tin
THÍCH NỮ MINH TÂM 176
tưởng lời chân thành của chư Phật, chư Tổ, trọn
chẳng nên có một niệm nghi tâm. Nghi sẽ chẳng
tương ứng chư Phật, lâm chung nhất định khó thể
cảm thông. Cổ nhân bảo: “Pháp môn Tịnh Ðộ chỉ
có Phật với Phật mới có thể hiểu trọn vẹn. Hàng
Ðăng Ðịa Bồ Tát chẳng biết chút phần”. Hàng Ðăng
Ðịa Ðại Sĩ còn chẳng thể biết hết, huống hồ là hạng
phàm phu lè tè sát đất mà lại lầm lạc sanh tâm ức
đoán ư? Nếu tâm sanh tử thật sự thiết tha, tin tới
nơi, tâm chẳng sanh một niệm ngờ vực, dù chưa
ra khỏi Sa Bà, đã chẳng còn là khách trọ lâu ngày
trong chốn Sa Bà; tuy chưa sanh về Cực Lạc, nhưng
đã là khách quý cõi Cực Lạc. Thấy người hiền, ta
mong được bằng, gặp điều nhân, ta đừng để lỡ. Há
có nên do dự, lười nhác, sao nhãng, để đến nỗi một
phen lầm lỡ khiến mình bị lỡ làng mãi mãi ư? Là
trang nam nhi có huyết tánh, dứt khoát chẳng chịu
sống làm thây đi, thịt chạy, chết mục nát như cỏ
cây. Hãy gắng lên, hãy cố lên.
5. Pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn Viên đốn
đệ nhất, trên thành Phật đạo, dưới cứu độ chúng
sanh của mười phương ba đời chư Phật, nên phải
hết lòng tán thán hoằng truyền.
6. Pháp môn Tịnh độ chính là pháp môn cực khó mà
cũng cực dễ. Nói nó khó chính là chỗ người đại triệt
đại ngộ, thâm nhập kinh tạng còn không tin nổi.
Nói nó dễ chính là chỗ kẻ tầm thường ngu dốt cũng
thực hành được, nếu chí thành nỗ lực niệm thì khi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 177
lâm chung liền thấy các tướng tốt đẹp xuất hiện, có
khả năng vãng sanh Tây phương. Đối với pháp môn
này, người đại triệt đại ngộ, thông hiểu kinh luận
sâu xa còn chối bỏ, không hướng tâm đến. Vì một
bên chuyên nương vào tự lực, bỏ đi Phật lực. Còn
một bên chuyên nương vào Phật lực, nhờ Phật lực
để phát huy tự lực. Vì biết khế hợp ba pháp: Phật lực,
pháp lực và lực sẵn có của tự tâm nên có khả năng
siêu phàm nhập Thánh, liễu thoát sanh tử. Tối trọng
yếu của pháp môn này chính là tín, hạnh, nguyện.
Có tín, nguyện thì chắc chắn đó là người tu hành
chơn chánh. Đã tu trì thì nhất định được vãng sanh.
7. Người niệm Phật, niệm niệm không gián đoạn,
trải qua số kiếp, tu chứng cần phải phát huy tính
cao siêu của nó. Pháp môn này phổ cập cho mọi
căn cơ cao thấp, thu nhiếp tất cả các tông như Luật,
Thiền, Giáo… Như khi trời mưa, tất cả vạn vật đều
được thấm nhuần, như trăm sông cùng chảy ra
đại dương. Pháp môn này cũng lại như vậy, trùm
khắp hết thảy các pháp đốn, tiệm, không một pháp
nào mà không lưu xuất từ pháp giới này. Tất cả các
hạnh quyền thật của Đại, Tiểu thừa, không có một
pháp nào mà không quy về pháp giới này. Không
đoạn hoặc nghiệp mà được dự vào hàng Bổ xứ, tức
ngay đời này viên mãn Bồ đề. Chín cõi chúng sanh
lìa pháp môn này thì không thể viên thành Phật
đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì
không thể lấy gì làm lợi ích cho quần sanh.
THÍCH NỮ MINH TÂM 178
8. Nói đến Tín thì phải tin Sa Bà là khổ, khổ không
nói nổi. Cực Lạc là vui, vui không thể ví. Cái khổ
trong Sa Bà là sanh, lão, bệnh, tử, yêu thương phải
chia lìa, chán ghét cứ phải gặp gỡ, cầu không được,
Ngũ Ấm hừng hực. Sự vui trong Cực Lạc nếu ước
theo căn thân thì hoa sen hóa sanh, trường sanh
bất tử, mang thân nam, trọn không có hình dáng
nữ, chẳng nghe đến cái tên ác đạo, huống gì thật
có. Ước theo khí thế giới thì vàng ròng làm đất, bảy
báu làm ao, hàng cây kín trời, lầu gác trên không.
Nghĩ đến áo bèn có áo, nghĩ đến ăn được ăn, phàm
những thứ gì mình thọ dụng không gì chẳng được
như ý, nhưng những gì dùng đến đều là hóa hiện;
không như cõi này phải do sức người tạo tác mới
thành. Di Đà Đạo Sư tướng hảo, quang minh vô
lượng vô biên, vừa thấy từ dung liền chứng Pháp
Nhẫn. Huống hồ còn có Quán Âm, Thế Chí, Thanh
Tịnh hải hội, mỗi vị đều phóng quang cùng tuyên
diệu âm. Vì thế, tuy là phàm phu đầy dẫy phiền não,
nghiệp lực đầy thân nhưng nếu như tín nguyện
chân thành, khẩn thiết liền được Phật từ nhiếp thọ.
Vừa vãng sanh, phiền não, ác nghiệp bèn bị tiêu
diệt triệt để, công đức, trí tuệ rốt ráo hiện tiền. Tin
được như thế thì gọi là chân tín. Muốn biết tường
tận nên đọc kỹ kinh A Di Đà, kinh Quán Vô Lượng
Thọ, kinh Vô Lượng Thọ, những kinh này được gọi
là Tịnh Độ Tam Kinh, chuyên giảng về duyên khởi,
sự lý Tịnh Độ.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 179
9. Kinh Đại Tập chép: “Đời Mạt pháp, ức ức người
tu hành, hiếm có một người đắc đạo, chỉ có niệm
Phật mới thoát khỏi sanh tử.” Do vậy, biết một pháp
niệm Phật chính là đạo để thượng thánh hạ phàm
cùng tu, là hạnh chung để hành của mọi người dù
ngu hay trí, hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít,
hiệu quả nhanh chóng. Do chuyên cậy vào Phật lực,
nên lợi ích thù thắng, là đạo pháp siêu việt đường
lối thông thường. Người xưa nói: “Học đạo nơi các
môn khác như con kiến bò lên núi cao, niệm Phật
vãng sanh như căng buồm xuôi gió, thuận nước.”
Có thể gọi là khéo hình dung nhất.
10. Đã có chân tín, nguyện thiết, ắt phải chí tâm
chấp trì sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, bất luận
nói năng, đi, đứng, nằm, ngồi, im lặng, mặc áo, ăn
cơm, lúc đại tiểu tiện... đều chẳng lìa sáu chữ hồng
danh hoặc trì bốn chữ cũng được, ắt phải dốc toàn
tâm là Phật, toàn Phật là tâm, tâm - Phật không
hai, tâm - Phật như một. Nếu có thể niệm đâu chú
tâm đó, niệm đến cùng cực, bao tình kiến mất hết,
tâm không, Phật hiện, thì trong đời này tự có thể
chứng được tam muội. Đến lúc lâm chung, sanh
vào Thượng Thượng Phẩm, có thể nói là đã tu trì
đến mức cùng cực vậy.
11. Niệm Phật cần phải nhiếp tâm, niệm từ tâm
khởi, tiếng từ miệng phát ra, đều phải mỗi câu mỗi
chữ phân minh rành rẽ. Lại phải lắng tai nghe kỹ,
từng câu từng chữ nạp vào trong tâm. Nhĩ căn đã
THÍCH NỮ MINH TÂM 180
nhiếp thì các căn kia không cách chi rong ruổi bên
ngoài, mới hòng mau đạt nhất tâm bất loạn.
12. Nếu biết thân người khó được, Phật pháp khó
được nghe, pháp môn tịnh độ lại càng khó được
nghe hơn, nay may mắn được làm thân đại trượng
phu, lại được nghe pháp môn Tịnh độ khó được
nghe nhất, có dám để quang âm hữu hạn bị tiêu
hao sạch nơi thanh sắc, vật chất, lợi lộc, khiến cho
vẫn sống thừa chết uổng y như cũ, vẫn bị trầm luân
lục đạo, không mong có ngày thoát ra hay sao?
13. Ngày 30 tháng Chạp chính là ngày cuối cùng
của một năm, nếu trước đó chưa từng dàn xếp cho
khéo thì chủ nợ oan gia lũ lượt kéo đến bức ngặt,
há dung cho ông sao? Lúc mạng sắp hết chính là
ngày Ba Mươi tháng Chạp của một đời người vậy.
Nếu tư lương Tín - Nguyện - Hạnh chưa đầy đủ,
ác tập khí tham - sân - si vẫn còn thì oán gia chủ
nợ trong vô lượng kiếp đều kéo đến bắt tính sổ, há
chịu dễ dãi với ông ư? Đừng nói chi kẻ không biết
đến pháp môn Tịnh độ này thì không biết phải làm
sao, phải tùy nghiệp thọ sanh; dẫu cho kẻ biết đi
nữa nhưng không thật sự chuyên chú tu tập cũng
sẽ giống như thế, bị ác nghiệp lôi vào trong tam đồ
lục đạo, vĩnh viễn luân hồi. Muốn cầu đường trọng
yếu để thoát khổ chỉ có niệm niệm sợ chết và sợ
chết đi phải đọa lạc trong tam đồ ác đạo thì niệm
Phật sẽ tự thuần, Tịnh nghiệp sẽ tự thành, hết thảy
trần cảnh sẽ chẳng thể đoạt được chánh niệm nữa.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 181
14. Dẫu thọ trăm năm, khẩy tay liền qua. Còn
một hơi thở nên cầu đường ra, chớ để đến lúc lâm
chung hối không kịp nữa! Thường nhớ kinh dạy:
“Thân người khó được, chính giữa đất nước khó
sanh, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó sanh.” Ông
may mắn hội đủ cả bốn điều ấy, càng phải nên nỗ
lực như lên núi báu phải được ngọc ma ni. Do còn
ở địa vị phàm phu, chưa đoạn Hoặc nghiệp, sanh
tử chưa giải quyết khó khỏi đọa lạc. Vì vậy, đức
Như Lai cực lực khuyên chúng sanh phát chân tín
tâm và tâm nguyện khẩn thiết, trì danh hiệu Phật
cầu sanh Tịnh độ. Mọi công đức như: cúng dường
Tam Bảo, trọn đời giữ giới, hết thảy việc làm chớ
dùng để cầu phước báu nhân thiên trong đời sau,
chẳng cầu đời này trường thọ, mạnh khỏe, bình
yên, chỉ cầu lâm chung vãng sanh Tịnh độ, tương
khế, tương hợp với thệ nguyện của chư Phật, cảm
ứng đạo giao nhất định mãn sở nguyện.
15. Quả đúng là “ba cõi không yên, giống như
nhà lửa”, đấy cũng là lời răn nhắc thiết yếu nhất
đối với chuyện tín nguyện niệm Phật vãng sanh
Tây phương. Niệm Phật tâm không quy nhất là do
tâm sanh tử chưa khẩn thiết. Nếu nghĩ như đang
bị nước cuốn lửa đốt, không được cứu giúp, tưởng
sắp bị chết, tưởng sắp bị đọa địa ngục thì tâm sẽ
tự quy nhất, không cần đến diệu pháp nào khác.
Vì thế, trong kinh thường nói: “Nghĩ cái khổ trong
cõi địa ngục, phát tâm Bồ Đề.” Đấy chính là khai
THÍCH NỮ MINH TÂM 182
thị thiết yếu nhất của đức Đại Giác Thế Tôn, tiếc
là con người chẳng chịu thật sự suy nghĩ. Cái khổ
trong địa ngục so với sự thảm thương của nước -
lửa sâu nặng hơn vô lượng vô biên lần. Thế mà nghĩ
đến nước dâng lửa đốt bèn run rẩy, nghĩ đến địa
ngục lại coi thường là vì một đằng do tâm lực nhỏ
nhoi chẳng thể thấu hiểu sự khổ ấy, còn một đằng
là chính mắt thấy, bất giác lông tóc đều dựng đứng.
16. Đại sự sanh tử cần phải lo liệu sẵn. Nếu đợi
đến lúc ra đi mới tu chỉ sợ bị nghiệp lực đoạt mất.
Niệm Phật muốn được nhất tâm, ắt phải phát tâm
chân thật vì liễu sanh tử, chẳng vì để được cái danh
người đời gọi ta là “kẻ chân thật tu hành.” Lúc
niệm phải từng chữ, từng câu từ tâm phát khởi, từ
miệng thốt ra, lọt vào tai, một câu như thế, trăm
ngàn vạn câu cũng như thế. Làm được như vậy thì
vọng niệm không do đâu khởi được, tâm và Phật tự
có thể khế hợp. Lại phải khéo dụng tâm, chớ chấp
trước quá mức đến nỗi thân tâm chẳng yên, hoặc
đến nỗi khởi các ma sự. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh
niệm tiếp nối, hành theo đó, quyết chẳng bị lầm lạc
đi vào đường rẽ.
17. Ngay trong sinh hoạt thường ngày, với tất cả
những điều thiện nhỏ nhặt và các thiện căn như
tụng kinh, lễ bái... đều đem những công đức ấy hồi
hướng vãng sanh. Như thế thì hết thảy hạnh môn
đều thành trợ hạnh cho Tịnh độ, như gom các trần
thành đất, tụ các dòng nước thành biển, rộng lớn
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 183
sâu thẳm, ai cùng tột được. Nhưng phải phát Bồ Đề
tâm, thệ nguyện độ sanh, tất cả công đức tu trì hồi
hướng cho khắp pháp giới chúng sanh bốn ân ba
cõi. Giống như đổ dầu vào lửa, như mạ gặp mưa,
đã kết pháp duyên sâu xa cùng hết thảy chúng sanh
lại còn có thể mau thành tựu hạnh Đại thừa thù
thắng cho chính mình. Nếu không biết nghĩa này
thì là kiến giải tự lợi của phàm phu, Nhị thừa, dẫu
tu diệu hạnh này, chỉ cảm được quả hèn kém.
18. Niệm Phật cần phải nhiếp tâm, niệm từ tâm
khởi, tiếng từ miệng phát ra, đều phải mỗi câu mỗi
chữ phân minh rành rẽ. Lại phải lắng tai nghe kỹ,
từng câu từng chữ nạp vào trong tâm. Nhĩ căn đã
nhiếp thì các căn kia không cách chi rong ruổi bên
ngoài, mới hòng đạt nhất tâm bất loạn.
19. Tuy hết thảy thời, hết thảy lúc niệm Phật đều
không trở ngại, nhưng phải nên thường kiêng dè;
coi tượng Phật giống như Phật sống, coi kinh Phật,
lời Tổ giống như Phật, Tổ đang hướng về mình
thuyết pháp, chẳng dám ôm lòng hoài nghi, khinh
mạn tí nào. Dẫu hiếu tử đọc di chúc, trung thần
vâng sắc chỉ cũng chẳng thể hơn được. Trong lúc
bình thời niệm Phật, niệm ra tiếng hay niệm thầm
tùy ý, còn lúc ngủ nghỉ hoặc đại tiểu tiện, tắm gội,
rửa chân, v.v. và đi qua chỗ hôi nhơ, chẳng sạch,
chớ nên niệm ra tiếng, chỉ nên niệm thầm. Niệm
ra tiếng là không cung kính, niệm thầm công đức
cũng như thế. Tôi thường nói muốn được lợi ích
THÍCH NỮ MINH TÂM 184
nơi Phật pháp phải hướng về cung kính mà cầu. Có
một phần cung kính ắt tiêu một phần tội nghiệp,
tăng được một phần phúc tuệ. Có mười phần cung
kính, tiêu được mười phần tội nghiệp, tăng được
mười phần phúc tuệ. Nếu trọn chẳng cung kính thì
dù có trồng viễn nhân, nhưng cái tội khinh nhờn
chẳng thể tưởng tượng được. Nay những kẻ tại gia
đọc kinh Phật đều phạm phải những bệnh ấy. Vì
thế, đối trước những kẻ hữu duyên phải thường ra
rả nói.
20. Đại Thế Chí Bồ Tát nói: “Nhiếp trọn sáu căn,
tịnh niệm tiếp nối, đắc tam ma địa, ấy là bậc
nhất”, chính là chỉ về điều này vậy. Ngài Văn Thù
nói: “Quay trở lại nghe nơi tự tánh, tánh thành
vô thượng đạo” cũng nhằm chỉ điều này. Chớ bảo
pháp Trì Danh là thiển cận rồi bỏ bê, tu theo những
pháp Quán Tưởng, Quán Tượng, Thật Tướng.
Phàm trong bốn cách niệm Phật, chỉ có Trì Danh
là khế cơ nhất. Trì đến nhất tâm bất loạn thì diệu
lý Thật Tướng hiển lộ toàn thể, Tây phương diệu
cảnh triệt để phô bày trọn vẹn. Do trì danh chứng
được Thật Tướng, chẳng cần quán tưởng vẫn thấy
được thấu triệt Tây phương. Một pháp Trì Danh
chính là huyền môn để nhập đạo, là đường tắt để
thành Phật. Người đời nay giáo lý quán pháp chẳng
hiểu rõ. Nếu tu quán tưởng Thật Tướng rất có thể
bị ma dựa, khéo quá hóa vụng, cầu thăng hóa đọa.
Nên tu hạnh dễ hành, ắt tự cảm được quả chí diệu.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 185
21. Hãy đem ngay một chữ “Tử” dán vào trán. Hễ
những cảnh chẳng nên tham luyến hiện ra liền
biết đấy chính là vạc sôi, lò than của chính mình,
quyết sẽ chẳng như con thiêu thân đâm đầu vào
lửa, cam chịu đốt mình! Với những sự mình phải
nên làm sẽ biết đấy là thuyền từ để thoát khổ, quyết
sẽ chẳng đến nỗi gặp việc nhân bèn thoái thác,
thấy việc nghĩa chẳng làm! Như thế thì trần cảnh
sẽ là duyên để nhập đạo, há cần phải dứt sạch trần
duyên mới kham tu đạo chăng? Bởi đã làm chủ
được tâm, chẳng bị cảnh chuyển thì trần lao chính
là giải thoát.
22. Hết thảy các pháp môn được nói trong giáo
pháp một đời của đức Như Lai không pháp nào
chẳng nhằm làm cho chúng sinh đoạn phiền hoặc,
liễu sinh tử, chứng Vô Sinh nhẫn thành Phật đạo,
nhưng căn cơ của chúng sinh bất nhất, cho nên mỗi
người đạt được lợi ích khác biệt. Những ai có túc
căn sâu dầy thì có thể đoạn sạch được Kiến Hoặc
- Tư Hoặc ngay trong một đời này, vượt thoát tam
giới, tiến lên học theo đạo Bồ Tát “trên cầu Phật
đạo, dưới hóa độ chúng sinh” để cầu viên mãn Bồ
Đề, may mắn gì hơn? Nếu như căn cơ kém cỏi hơn
đôi chút, dẫu có sức thiền định sâu, triệt ngộ tự
tâm, nhưng chưa đoạn Kiến - Tư hoặc, ắt vẫn phải
luân hồi y như cũ. Huống gì từ đời này sang đời
khác, làm sao có thể tự bảo đảm được? Hễ bị phúc
làm mê, ắt đọa thẳng vào tam đồ. Kẻ kém hơn thì
THÍCH NỮ MINH TÂM 186
còn gì để nói nữa. Đấy là chỗ khó khăn của việc
dùng tự lực để liễu sinh tử vậy.
23. Giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, tránh
lòng tà, giữ lòng thành, tín nguyện niệm Phật, cầu
sinh Tịnh độ.
24. Nếu muốn tự được lợi ích thật sự trong đời
này, hãy nên nương vào pháp môn Tịnh độ, tín
nguyện niệm Phật cầu sinh Tây phương sẽ quyết
định liễu sinh thoát tử. Nếu chẳng nương vào pháp
môn Niệm Phật, đừng nói chi kẻ chưa đắc chân
truyền của Phật giáo chẳng thể liễu, ngay cả người
đắc rồi cũng chẳng thể liễu. Vì sao vậy? Vì được
chân truyền chỉ là bậc đại triệt đại ngộ, chưa phải
là thật chứng. Có chứng mới liễu được, còn ngộ thì
chưa thể liễu. Tu các pháp môn khác đều phải đoạn
Hoặc chứng Chân mới có thể liễu sinh tử. Pháp
môn Tịnh độ chỉ cần đầy đủ lòng tin chân thành,
nguyện thiết tha trì danh hiệu Phật, đừng làm các
điều ác, vâng làm các điều lành, hành cả Chính
Hạnh lẫn Trợ Hạnh thì chẳng những quyết định
vãng sinh mà phẩm vị còn ưu thắng. Không riêng
gì kẻ tinh ròng, thuần thành, sốt sắng quyết định
được vãng sinh, mà ngay cả phường Ngũ Nghịch
Thập Ác lúc lâm chung, nếu có thể sinh lòng hổ
thẹn lớn lao, sinh lòng lo sợ lớn lao, chí tâm niệm
Phật mấy tiếng, ngay khi đó bèn mệnh chung, cũng
quyết định được vãng sinh. Do lòng Từ của Phật
rộng lớn, chuyên chăm chú độ sinh, nhất niệm hồi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 187
quang liền được Phật nhiếp thọ. Đấy gọi là “cậy
vào từ lực của Phật, đới nghiệp vãng sinh.” Chúng
sinh đời Mạt chẳng y vào Tịnh độ, tu các pháp môn
khác, chỉ được phúc báu trời người và thành nhân
duyên đắc độ lâu xa trong tương lai mà thôi. Do
không có sức đoạn Hoặc nên cội rễ sinh tử vẫn còn,
sao không nẩy mầm sinh tử cho được?
25. Tham có nghĩa là thấy cảnh bèn dấy lòng yêu
thích. Chúng sanh trong Dục giới đều do dâm dục
mà sanh. Dâm dục do ái sanh. Nếu có thể quán sát
mỗi mỗi kỹ càng thân mình, thân người từ ngoài
vào trong thì chỉ thấy hờm đất, mồ hôi, đờm rãi,
máu mủ, tóc, lông, móng, răng, xương, thịt, đại
tiện, tiểu tiện, thối như xác chết, bẩn như chuồng
xí, ai có thể sanh lòng tham ái đối với vật này cho
được. Tham ái đã dứt thì tâm địa thanh tịnh. Dùng
tâm thanh tịnh niệm danh hiệu Phật, như chất ngọt
được trộn lẫn, như vải trắng ăn màu, dùng Nhân
Địa Tâm khế hợp Quả Địa Giác, sự giảm được nửa
mà công gấp bội, lợi ích khó nghĩ suy.
26. Sân là thấy cảnh khởi tâm bực bội, chán ghét.
Người phú quý thường hay nóng giận. Phàm mọi
chuyện muốn được như ý phải có người để sai bảo,
hễ hơi chút sai trái liền sanh phẫn nộ, nhẹ thì buông
lời dữ ác, nặng thì roi vọt vụt đánh, chỉ cốt khoái
ý mình, chẳng đoái hoài người khác đau lòng. Lại
nữa, tâm sân nếu khởi lên thì vô ích cho người,
tổn hại cho mình, nhẹ thì cũng khiến cho tâm ý
THÍCH NỮ MINH TÂM 188
bực bội, xáo động; nặng thì gan lẫn mắt đều bị tổn
thương. Hãy nên giữ sao cho trong tâm thường có
một khối nguyên khí thái hòa thì bệnh tật tiêu diệt,
phước thọ tăng trưởng. Kinh Hoa Nghiêm dạy:
“Một niệm sân tâm khởi, trăm ngàn cửa chướng
mở. “Cổ đức nói: “Sân là lửa trong tâm, cháy rụi
rừng công đức. Muốn học đạo Bồ Đề, nhẫn nhục
phòng tâm sân.”
27. Như Lai dạy chúng sanh nhiều tâm sân tu Từ
Bi quán như sau: Xem hết thảy chúng sanh đều là
cha mẹ trongq uá khứ, là chư Phật trong vị lai. Đã
là cha mẹ trong quá khứ thì nên nghĩ đời trước
họ có ân đức sanh thành, dưỡng dục, thẹn chưa
thể báo đáp, há có nên vì chuyện trái ý nhỏ nhặt
bèn ôm lòng phẫn nộ ư? Đã là vị lai chư Phật ắt
sẽ rộng độ chúng sanh. Nếu ta chưa giải quyết
được sanh tử, vẫn mong họ đến độ thoát. Chẳng
những chuyện trái ý nhỏ nhặt không nên nổi nóng,
dẫu là chuyện táng thân mất mạng cũng chỉ sanh
lòng hoan hỷ, chẳng sanh tâm sân hận. Vì vậy, lúc
Bồ Tát xả đầu, mắt, tủy, não, đều xem người xin
những thứ ấy như thiện tri thức, coi như ân nhân,
coi như người thành tựu đạo Bồ đề vô thượng cho
mình. Xem phẩm Thập Hồi Hướng trong kinh Hoa
Nghiêm sẽ tự biết. Lại nữa, một niệm tâm tánh của
chúng ta và chư Phật không hai. Chỉ vì mê trái bổn
tâm, chấp chặt Ngã Kiến nên hết thảy các duyên
đều thành đối đãi. Như cái bia để bắn đã lập thì
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 189
các mũi tên đều nhắm vào. Nếu biết được tâm ta
vốn là tâm Phật, Phật tâm không, vô sở hữu. Giống
như hư không: Sâm la vạn tượng không gì chẳng
bao gồm. Cũng như biển cả: Trăm sông mọi nguồn
nước không gì chẳng dung nạp. Như trời che chở
khắp, như đất nâng bình đẳng, chẳng coi chuyện
chở che, nâng đỡ là đức. Nếu ta do chuyện nghịch ý
nhỏ nhặt bèn sanh lòng nóng giận thì chẳng những
khiến cho tâm lượng chính mình thành hẹp hòi,
mà còn tự đánh mất cả đức. Tuy có đủ Phật tâm lý
thể nhưng khởi tâm động niệm toàn là xử sự theo
phàm tình, coi vọng là chân, biến tớ thành chủ;
suy nghĩ như thế há không hổ thẹn ư? Nếu bình
thời thường nghĩ như thế thì tâm lượng sẽ rộng
lớn, không gì chẳng dung được, coi muôn loài như
chính mình, chẳng thấy đây - kia. Điều nghịch xảy
đến còn thuận chịu được, huống gì những chuyện
trái ý nhỏ nhặt mà lại sanh nóng giận ư?
28. Muốn được lợi ích thật sự nơi Phật pháp thì
phải hướng về cung kính mà cẩu. Có một phần
cung kính thì tiêu tội nghiệp một phần, tăng phước
huệ một phần. Có mười phần cung kính, thì tiêu
tội nghiệp mười phần, tăng phước huệ mười phần.
Nếu không cung kính đến nỗi khinh nhờn thì tội
nghiệp càng tăng, phước huệ càng giảm.
THÍCH NỮ MINH TÂM 190
Đại Sư Hám Sơn khai thị
Những điểm thiết yếu khi niệm Phật
1. Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh cõi Tây
phương Cực Lạc, vốn là đại sự cắt đứt dòng sanh
tử. Vì vậy bảo rằng niệm Phật liễu được sanh tử.
Người đời nay phát tâm niệm Phật vì muốn cắt đứt
dòng sanh tử. Chỉ cần xưng danh hiệu Phật là có
thể cắt đứt dòng sanh tử.
Song, nếu không biết cội gốc của sanh tử, niệm
Phật mãi thì rốt ráo sẽ đi về đâu? Nếu niệm Phật
mà không đoạn được cội gốc của sanh tử thì làm
sao cắt đứt dòng sanh tử? Cội gốc của sanh tử là gì?
Cổ nhân nói: “Nghiệp bất trọng bất sanh Ta-bà. Ái
bất đoạn bất sanh Tịnh độ.”
Thế nên, biết rõ ái dục là cội gốc của sanh tử. Khiến
tất cả chúng sanh thọ khổ sanh tử đều do ái dục.
Cội gốc ái dục này không phải chỉ hiện hữu trong
một hoặc hai, ba, bốn đời, mà nó đã tự có sẵn từ
đời vô thủy cho đến ngày nay. Sanh sanh thế thế, xả
thân thọ thân, đều do lưu chuyển theo ái dục. Ngày
nay, suy nghĩ nhìn lại, xem coi lúc nào có một niệm
tạm đoạn cội gốc ái dục này đâu. Hạt giống ái căn,
bao kiếp tích lũy sâu dầy, nên khiến sanh tử không
cùng tận. Ngày nay vừa phát tâm niệm Phật, nếu
chỉ vọng không cầu sanh Tây phương mà danh tự
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 191
ái dục tức cội gốc của sanh tử lại không biết đến, thì
khi nào mới có niệm đoạn được nó? Không biết cội
gốc của sanh tử, nên một bên niệm Phật, một bên
cội gốc sanh tử lại càng sanh trưởng nhiều hơn. Cả
hai việc niệm Phật và cội gốc sanh tử chẳng quan
hệ với nhau. Dẫu niệm cách nào đi nữa, đến lúc
lâm chung quý vị chỉ thấy sanh tử ái căn hiện tiền.
Khi đó lại cho rằng Phật hoàn toàn không đắc lực,
nên liền oán trách niệm Phật không linh nghiệm,
dẫu sau này có hối hận cũng không kịp.
2. Khuyên người niệm Phật thời nay, đầu tiên phải
biết ái dục là cội gốc của sanh tử. Ngày nay dốc
lòng niệm Phật, thì niệm niệm phải đoạn ái căn
này. Trong cuộc sống hằng ngày, ở nhà niệm Phật;
mắt thấy vợ con cháu chắt, gia duyên tài sản, đều
không nên đắm trước ái nhiễm, thì làm việc nào
và niệm niệm nào cũng đều vì sanh tử, như toàn
thân đang đứng trong hầm lửa. Lúc chưa biết cách
chân chánh niệm Phật, thì niệm ái dục trong tâm
chưa có thể xả bỏ. Lúc chân chánh niệm Phật, chỉ
bảo rằng niệm không thiết tha và chẳng biết ái dục
là chủ tể, nên chỉ niệm Phật ngoài da. Nếu như thế
thì Phật chỉ nghe niệm, còn ái dục thì lại tăng thêm.
Lúc cảnh tình của vợ con hiển hiện, phải xoay nhìn
vào tâm. Nếu một danh hiệu Phật có thể đối địch
với ái dục, thì sẽ cắt đoạn được ái căn. Nếu không
cắt được ái dục thì làm sao đoạn được sanh tử. Do
tập khí của duyên ái trong bao đời đã chín muồi mà
THÍCH NỮ MINH TÂM 192
nay chỉ mới bắt đầu niệm Phật, lại không thiết thực
niệm Phật, thì không thể niệm Phật đắc lực được.
Nếu trước mắt không thể kềm chế được ái cảnh thì
khi lâm chung quyết không thể tự làm chủ được.
Vì vậy khuyên người niệm Phật, việc thứ nhất là
phải biết vì sanh tử mà thiết tha niệm Phật, phải có
tâm thiết tha đoạn sanh tử, phải dùng niệm niệm
mà đốn đoạn cội gốc sanh tử. Lúc niệm niệm đều
liễu được sanh tử thì cần gì đợi đến ngày ba mươi
tháng Chạp! Nếu đợi đến lúc đó thì đã trễ lắm rồi!
Do đó bảo rằng trước mắt luôn nghĩ đến sanh tử
đại sự. Trước mắt liễu được sanh tử vốn không.
Niệm niệm thiết thực, thì đao đao đều chặt đứt.
Dụng tâm như thế, nếu không vượt khỏi sanh tử
thì chư Phật bị đọa vì tội vọng ngữ!
Do đó người xuất gia kẻ tại gia, biết rõ tâm sanh tử
tức là biết rõ thời tiết xuất ly sanh tử, sao còn diệu
pháp nào khác nữa.
3. Khai thị cho Ngô Khải Cao:
Thế nhân nếu có một niệm, biết là Vô thường, khổ,
không, mà phát tâm cầu xuất ly, tức là người đại trí
huệ. Lại nữa, nếu có một niệm phản tỉnh, phát khởi
tâm chán khổ, tức là bước trên con lộ xuất ra khỏi
khổ đau. Ngoài ra, nếu có một niệm nguyện cầu
sanh Tịnh độ, tức là căn bản thành Phật.
Cư sĩ hôm nay đã biết rõ việc này mà phát tâm đó,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 193
nên mọi việc làm đều là hạnh xuất thế. Tuy chưa
xuất gia, mà đã có danh Phật tử. Từ nay nếu dùng
tâm trì giới và niệm Phật, tịnh trừ tập nhiễm xưa
trong tâm, tức tham sân si ái, bao loại phiền não,
thì tâm địa sẽ được thanh tịnh. Dùng tâm tịnh
niệm Phật, niệm niệm không quên, tâm tâm chẳng
đoạn, tức ngay nơi công việc thường ngày, sự sự
đều là nhân Tịnh độ. Bố thí bao loại đồ vật, và tứ
sự cúng dường Tam Bảo, để làm tư lương trang
nghiêm Tịnh độ. Vì vậy bảo rằng tâm tịnh tức cõi
Phật tịnh. Duy tâm Tịnh độ, tự tánh Di Đà nguyên
vốn không rời một niệm. Đây là pháp hạnh chân
thực, nên mới có pháp danh chân chánh là Phước
Thường. Do tịnh tâm bên trong, nên mới có hiệu là
Tịnh Tâm. Quả như cư sĩ tin chắc không nghi, sao
còn cầu Phật pháp nào chi nữa! Nếu không hằng
làm những việc tầm thường ở thế gian, thì trước
mắt đạo tâm tự kiên cố, tín tâm ngày càng tăng
trưởng. Trân trọng. Trân Trọng.
4. Khai thị về ông Tây Ấn Tịnh chuyên tu Tịnh độ
Đại sĩ phu trong đời cận thế đa số đều hướng về
tai miệng, phóng túng đàm luận ngọn ngành, đều
tôn trọng việc tham thiền là hướng thượng, nên
bài bác không tu theo Tịnh độ. Cho đến những đệ
tử lớn của tôi, đa phần tập tành theo những ngôn
cú của chư cổ đức, chỉ có miệng lưỡi lanh lợi, chỉ
hướng theo danh tướng, nên pháp môn ngày càng
suy vi. Không những thực hành chẳng được gì mà
THÍCH NỮ MINH TÂM 194
lại phỉ báng kinh điển đại thừa cho là văn tự, không
muốn thân cận. Gặp những người vô minh nhãn
tri thức thì làm sao tránh được những những làn
sóng cuồng. Thực rất đáng sợ!
Muốn xuất khỏi sanh tử, niệm Phật chẳng phải là
pháp xuất ly sanh tử sao? Tham thiền đa số khó
xuất ra khỏi sanh tử, mà niệm Phật thì chắc chắn sẽ
xuất khỏi sanh tử, không nghi ngờ chi. Tham thiền
phải rời bỏ vọng tưởng. Niệm Phật thì chuyên giữ
tại tư tưởng. Chúng sanh đã lâu nhiễm sâu trong
vọng tưởng, nên muốn xa rời chúng lại rất khó.
Nếu chuyển được vọng niệm ô uế thành vọng niệm
thanh tịnh thì đó là cách dùng độc trị độc, tức là
pháp hoán đổi. Tham cứu thiền rất khó ngộ, mà
niệm Phật lại dễ thành. Nếu như tâm thiết tha vì
sanh tử, dùng tâm tham cứu mà niệm Phật, thì sao
lo gì một đời không cắt được sanh tử!
5. Khai thị cho Ưu bà tắc kết niệm Phật xã:
Phật là giác, tức là Phật tánh của chúng sanh. Vì
mê mà làm chúng sanh. Nếu ngộ thì gọi là Phật.
Ngày nay niệm Phật, tức tự tánh Di Ðà. Cầu vãng
sanh cõi Tịnh Ðộ, tức duy tâm Cực Lạc. Quý vị nếu
thường niệm niệm mà chẳng quên mất, thì tâm
tâm Di Ðà sẽ xuất hiện, và từng bước lần lần sẽ đến
quê hương Cực Lạc. Cần gì vọng mong nơi ngoài
mười vạn ức cõi nước, còn có cõi Tịnh Ðộ để quy
hướng! Thế nên, đạo tâm tịnh thì cõi nước thanh
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 195
tịnh. Tâm cấu uế thì cõi nước uế trược. Do đó, một
niệm ác vừa dấy khởi, thì rừng kiếm cây đao liền
vung dậy. Một niệm lành sanh, thì đất báu hồ sen
liền hiện rõ. Thiên đường địa ngục, sao lại ngoài
tâm này ư!
Chư thiện nam tử! Xin hãy suy nghĩ chính chắn,
phải luôn thống niệm sanh tử đại sự, Vô thường
mau mắn. Một khi mất thân này, thì muôn kiếp khó
hoàn phục lại. Mặt trời mặt trăng luôn xoay chuyển,
và thời gian chẳng đợi mình. Nếu phụ duyên này, thì
quá sai lầm. Khi đại hạn đến, hối hận chẳng kịp. Quý
vị mỗi mỗi hãy nỗ lực. Trân trọng! Trân trọng.
6. Khai thị pháp môn tu Tịnh Ðộ
Ngày nay tu hành tịnh nghiệp, thì phải lấy việc
thanh tịnh thân tâm làm gốc. Muốn tịnh tự tâm,
thứ nhất là phải thanh tịnh giới căn. Vì mười việc
ác của thân miệng ý vốn là nhân khổ của ba đường
ác, nên nay phải cần trì giới, khiến cho ba nghiệp
được thanh tịnh, tức tâm tự tịnh. Nếu thân không
giết hại, ăn cắp, tà dâm, nói láo thì thân nghiệp
thanh tịnh. Nếu miệng không nói láo, nói lưỡi
hai chiều, nói lời ác độc, nói lời thêu dệt thì khẩu
nghiệp thanh tịnh. Nếu ý không tham lam, sân
hận, si mê, thì ý nghiệp thanh tịnh. Mười việc ác
này mãi đoạn đứt, ba nghiệp trong xanh, đó là điều
thiết yếu của sự tịnh tâm.
Trong lúc thanh tịnh thân tâm, phải dấy khởi tâm
THÍCH NỮ MINH TÂM 196
chán khổ nơi cõi Ta-bà, mà phát nguyện vãng sanh
về miền an dưỡng; lập chánh hạnh niệm Phật; tâm
niệm Phật phải thiết tha vì sanh tử. Ðầu tiên, ngoài
đoạn ngoại duyên. Kế đến, bên trong đơn độc đề
khởi nhất niệm. Dùng một câu A Di Ðà Phật làm
mạng căn. Niệm niệm không quên, tâm tâm chẳng
đoạn. Trong hai mươi sáu thời, đi đứng nằm ngồi,
cử động gân cốt, xoay mình cúi ngửa, động tịnh
đều quên. Trong mọi thời, không u mê không ngu
muội, lại chẳng làm duyên khác. Dụng tâm như
thế, lâu ngày thuần thục, cho đến trong mộng, cũng
không quên mất; thức ngủ như nhau, tức công phu
miên mật, dệt thành một phiến, tức là lúc công phu
đắc lực.
Nếu niệm đến nhất tâm bất loạn, thì lúc lâm chung,
cảnh giới Tịnh Ðộ hiện ra trước mắt; tự nhiên
không bị sanh tử trói giữ, bèn cảm Phật A Di Ðà
phóng quang tiếp dẫn. Ðây là việc chứng nghiệm
quyết định vãng sanh.
Nếu miệng thuyết niệm Phật, cầu vãng sanh Tịnh
Ðộ, mà không trì tịnh giới, phiền não không thể
đoạn trừ, tâm địa vẫn còn cấu uế, thì Phật bảo
người này, mãi chẳng thành tựu. Vì vậy hành nhân,
việc thiết yếu bậc nhất là phải trì giới làm căn bổn;
phát nguyện làm nhân duyên phụ trợ; niệm Phật và
quán tưởng làm chánh hạnh. Tu hành như thế, nếu
không được vãng sanh, thì Phật sẽ đọa vọng ngữ.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 197
7. Khai thị cho Phùng Sanh Văn Nhụ
Người học đạo, đầu tiên nhất phải quyết định phát
khởi ý chí tu hành dài lâu. Ðến suốt cuộc đời, mãi
tới ba đời, năm đời, mười đời, trăm đời, ngàn đời,
muôn ngàn đời, cùng đến sanh sanh kiếp kiếp, nhất
định tới khi nào đại ngộ mới thôi. Không đại ngộ
được tâm này thì quyết chẳng ngơi nghỉ. Dẫu có
đọa lạc vào ba đường khổ địa ngục, hay nhập thai
lừa vào bụng ngựa, thì chí nguyện thành Phật cũng
quyết không xả bỏ. Lại nữa, ngày nay không vì bao
khổ não bức bách mà thoái thất tín tâm.
Ngoài ra, khi đã có ý chí kiên quyết rồi, cần phải có
tri kiến chân thực. Nếu tri kiến không chân thực
thì chí nguyện không thể hướng tới, hạnh nguyện
không thể hành đến được, cũng lại uổng phí công
phu. Chúng ta đã có chí nguyện cầu đạo, thì phải
tin tự tâm, thể vốn là Phật, bản lai thanh tịnh không
chứa một vật, và bản lai vốn sáng soi bao la.
Ngay tại công việc hằng ngày mà chưa đắc được thọ
dụng chỉ vì bị các huyễn vọng làm mê muội, và bị
bốn đại làm che mờ, cùng vọng tưởng tâm phù làm
chướng ngại, nên khó được thấu triệt. Qua được
cửa ải sanh tử không chỉ là ngàn đời vạn kiếp thôi.
Chúng ta đã biết tâm này, thì phải tin chắc chẳng
nghi. Ngày nay phát tâm, quyết lấy sự đắc ngộ làm
kỳ nhật, rồi từ đó phát khởi công phu, tức là đã
đi ra cửa một bước. Bây giờ thân cận và thừa sự
THÍCH NỮ MINH TÂM 198
những lời chỉ dạy của thiện tri thức, tức là đã xuất
phát đi. Xuất phát khởi hành, trên đường gặp bao
cảnh giới, bao khó khăn, bao việc trì hồi chậm trễ,
bao việc bịn rịn không bịn rịn, bao việc thoái lui
không thoái lui. Tất cả đều do học nhân tự đặt bước
suy xét xem coi có hợp với bổn phận sự của mình
không, chứ thiện tri thức chẳng giúp gì được hết.
8. Pháp môn này, nếu suốt đời tinh tấn khẩn thành
tu trì thì chắc sẽ được sanh qua cõi đó, đốn thoát
sanh tử, mãi mãi xuất ra khỏi luân hồi. Pháp môn
trực tiếp như thế, sao lại lo sầu mà không chịu tu,
lại còn khinh bạc! Tham thiền liễu sanh tử rất khó.
Niệm Phật cắt đứt sanh tử dễ dàng, chỉ cần phải
nhất niệm chân thực khẳng khái thiết tha. Từ xưa,
người được vãng sanh qua cõi Tịnh Ðộ thực vô
lượng vô biên. Thế nhân mắt thấy mà không tin,
vậy tin vào pháp nào.
9. Tất cả nghiệp hạnh ở thế gian, đều là Vô thường,
và rốt ráo đều là nhân khổ. Cảm sanh đến cõi Ta
Bà, chúng sanh hội tụ, nên gọi là kham nhẫn. Kẻ
ngu mê, lấy khổ làm vui, chuyên thêm tham ái, lại
tăng gốc khổ, mà không biết sự thiết yếu của việc
xuất ra biển khổ, thực là điên đảo.
Người đời nếu có một niệm, biết là Vô thường, khổ,
không, mà phát tâm cầu xuất ly, tức là người đại trí
huệ. Lại nữa, nếu có một niệm phản tỉnh, phát khởi
tâm chán khổ, tức là bước trên con lộ xuất ra khỏi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 199
khổ đau. Ngoài ra, nếu có một niệm nguyện cầu
sanh Tịnh Ðộ, tức là căn bản thành Phật.
Phật thuyết giới pháp, dạy người ngưng ác tu thiện.
Ác ngưng tức tâm tịnh. Tu thiện tức khổ diệt hết.
Khổ diệt hết tức tăng phước. Tâm tịnh tức làm
nhân cho cõi tịnh. Khổ diệt hết tức làm gốc cho
cực lạc. Tăng phước tức làm quả cho thường lạc.
Thế nên, biết rõ một niệm phát khởi tâm thọ giới,
tức chúng khổ có thể đoạn trừ, chúng phước lành
có thể hội tụ, sanh tử có thể xuất khỏi, Tịnh Ðộ có
thể vãng sanh. Tất cả đều do từ một niệm tối sơ,
phát tâm làm nhân địa.
10. Phật dạy rằng sanh tử của chúng sanh, ngày đêm
dài lâu tương tích, bao số kiếp luân chuyển, không
ngừng không nghỉ, do niệm niệm vọng tưởng phan
duyên, chưa từng có một niệm ngừng nghỉ. Vọng
tưởng không đoạn, nên sanh tử không cùng tận,
bao kiếp lâu dài bị lôi kéo luân chuyển không dừng,
vì do từ đó. Phật thuyết bao phương pháp chế ngự
tâm, đều là muốn dừng bánh xe luân hồi. Pháp
môn tuy nhiều, nhưng vì chúng sanh trần cấu nặng
nề, tâm thức mê muội khó nhiếp nhập, nên chỉ có
pháp môn niệm Phật là thẳng tắt và cần yếu nhất.
Thế nên bảo rằng nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và
tương lai, tất định thấy Phật.
11. Niệm niệm phiền não vốn là gốc khổ sanh tử.
Nay dùng niệm Phật để tiêu diệt phiền não, tức là
THÍCH NỮ MINH TÂM 200
nơi Phật cứu độ khổ não sanh tử. Nếu niệm Phật
mà tiêu được phiền não, thì có thể cắt đứt sanh tử,
chứ chẳng còn pháp nào khác. Niệm Phật cho đến
lúc làm chủ được phiền não, thì ngay trong mộng
cũng tự làm chủ đưọc. Nếu trong mộng tự làm chủ
được, thì ngay trong bệnh khổ cũng tự chủ được.
Nếu trong bệnh khổ mà tự chủ được, thì lúc lâm
chung phân minh rõ ràng, bèn biết nơi sắp đến.
Việc này hành không khó, chỉ thiết yếu là tâm phải
tha thiết vì sự sanh tử. Ðơn đơn nương tựa một
câu niệm Phật, lại không hướng ra ngoài nghĩ ngợi
những chuyện khác. Lâu ngày thuần thục, tự nhiên
đắc đại tự tại an lạc, và đắc đại hoan hỷ thọ dụng,
mà dục lạc thế gian không thể nào sánh bằng.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 201
Hòa thượng Hư Vân khai thị
1. Tin sâu lý nhân quả
Người muốn dụng công tu đạo, việc đầu tiên là
phải tin sâu lý nhân quả. Nếu không tin nhân quả,
thì làm những việc hàm hồ. Chẳng những việc tu
đạo khó thành công mà ba đường ác cũng không
thể thiếu mình.
Phật dạy: “Muốn biết nhân đời trước, phải nhìn đời
này mình thọ quả báo gì. Muốn biết quả đời tương
lai, phải xem đời này mình đang gieo nhân gì.”
Phật lại bảo: Giả sử nghiệp tội đã tạo trong trăm
ngàn kiếp chưa tan, khi nhân duyên đến, quả báo
phải tự thọ.
2. Nghiêm trì giới luật
Đối với công phu tu đạo, việc đầu tiên là phải trì
giới. Giới là gốc của đạo Bồ Đề vô thượng. Do giới
mà sanh định. Do định mà phát huệ. Nếu không
trì giới mà muốn tu hành thì không thể được. Kinh
Lăng Nghiêm nói đến việc đức Phật răn nhắc chúng
ta về bốn hạnh thanh tịnh. Chẳng trì giới mà muốn
tu chánh định thì không thể nào thoát khỏi trần
lao. Lại nữa, dầu hiện tại có phát sanh trí huệ hay
thiền định, nhưng vẫn bị lạc vào tà ma ngoại đạo.
Vì vậy, biết rõ việc trì giới rất quan trọng. Người trì
THÍCH NỮ MINH TÂM 202
giới luôn được chư long thần ủng hộ, tà ma ngoại
đạo kính phục nể sợ. Người phá giới thì quỷ gọi là
kẻ cướp, nên chúng thường đi theo xóa dấu chân
họ.
3. Tín tâm kiên cố
Muốn dụng công tu đạo, đầu tiên phải có tín tâm
kiên cố. Niềm tin là mẹ của tất cả công đức. Dẫu
là việc gì, nếu không có tín tâm thì làm không thể
xong. Chúng ta nếu muốn thoát khỏi sanh tử, thì
phải cần có tín tâm kiên cố. Phật bảo rằng chúng
sanh trên cõi đất đều có đức tướng trí huệ của Như
Lai. Chỉ vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể
chứng đắc. Vì thế, Phật mới thuyết bao pháp môn
sai biệt, để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng
ta phải tin tưởng rằng lời Phật dạy không bao giờ
là hư ngữ rỗng tuếch. Phải tin rằng chúng sanh đều
có thể thành Phật. Tại sao chúng ta chưa có thể
thành Phật? Do vì chúng ta không y theo pháp mà
quyết chí hạ thủ công phu.
4. Thích Ca Như Lai thuyết pháp trong bốn mươi
chín năm, đàm kinh hơn ba trăm hội, quy nhiếp
tại ba tạng, mười hai bộ. Ba tạng tức là tạng kinh,
tạng luật, tạng luận. Toàn bộ ba tạng không ngoài
ba học, giới định huệ. Tạng kinh thâu nhiếp định
học. Tạng luật thâu nhiếp giới học. Tạng luận thâu
nhiếp huệ học. Nói chung, hai chữ nhân quả bao
gồm tất cả lời thuyết pháp của Phật. Tất cả phàm
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 203
thánh, thế gian, xuất thế gian, đều không vượt
ngoài hai chữ nhân quả. Nhân tức là nhân duyên.
Quả tức là quả báo.
Bồ Tát sợ nhân, phàm phu sợ quả. Phàm phu chỉ sợ
quả ác, mà nào biết đến quả ác phát khởi từ nhân
xấu. Bình thường, tự ý làm những việc hàm hồ ngu
xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời,
mà quên rằng sung sướng vốn là nhân khổ. Bồ Tát
chẳng như thế. Bình thường, nhất cử nhất động, hộ
trì thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ giới làm
đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, thì làm sao quả ác
đến? Bị quả ác trói buộc, do vì đã trồng nhân xấu
bao đời xa xưa. Trước kia đã từng trồng nhân nào,
thì ngày nay khó mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm
thọ quả báo, phải an nhiên lãnh thọ, chẳng nên lui
sụt sợ hãi. Đấy mới gọi là minh Nhân thức Quả.
5. Người xưa xem sanh tử là việc lớn, nên không
quản khổ nhọc, bôn ba trèo non lội suối, vượt núi
băng sông, để tầm sư học đạo. Chúng ta từ đời vô
thủy đến nay, bị bao vọng tưởng che lấp, trần lao
trói buộc, quên mất bản lai diện mục của mình.
Ví như tấm kiếng, vốn tự chiếu soi khắp cả trời
đất, nhưng vì bị bụi bặm trần cấu bám vào, khiến
nó không thể chiếu sáng. Chúng ta chỉ việc dùng
công phu lau chùi, thì tự tánh chiếu soi xưa kia, tự
nhiên hiển hiện. Tâm tánh của chúng ta cũng như
thế. Trên đồng với chư Phật không hai không khác,
không thiếu không thừa. Song, tại sao chư Phật
THÍCH NỮ MINH TÂM 204
đã thành Phật rồi, mà chúng ta vẫn còn làm phàm
phu, nằm trong biển khổ sanh tử? Chỉ vì tâm tánh
của chúng ta, bị bao tập khí vô minh phiền não che
lấp, nên tâm tánh này tuy cùng Phật không khác,
nhưng không thể dùng được.
6. Ngày nay, chúng ta đã xuất gia, đồng là con Phật,
thì phải cố gắng minh tâm kiến tánh, xoay về cội
nguồn, chẳng ngại khổ nhọc, vận dụng công phu.
Người xưa chịu muôn ngàn khổ nhọc, tham tầm
thiện tri thức, chỉ vì muốn hiểu rõ chính mình.
Hiện tại là đời mạt pháp, thời thánh giáo đã qua,
Phật pháp ngày càng suy vi, người nhiều biếng
nhác, nên chẳng có thể cắt đứt dòng sanh tử. Ngày
nay đã biết tự tâm tương đồng với chư Phật, phải
nên phát tâm tu hành dài lâu, tâm kiên cố, tâm
dũng mãnh, tâm hổ thẹn. Từ sáng đến tối, trong
mười hai thời, như mài như giũa, như cạo như
chùi, nỗ lực tinh tấn, dụng công tu đạo, chớ để thời
gian trôi qua vô ích.
7. Người sơ phát tâm tu đạo, cung cách bên ngoài
phải nên cẩn thận. Rất nhiều vị lão tăng, cung cách
diện mạo cũng chưa hợp với đạo cho lắm. Nếu một
đời chất trực, tinh tấn chuyển hóa, hun đúc thân
tâm, mọi nơi mọi thời đều không để phạm giới, thì
mới được xem là tỳ kheo thanh tịnh. Trong giới luật,
tuy có phân tánh giới, giá giới, nặng nhẹ, nhưng chớ
phạm giới nào. Trì giới thanh tịnh như trăng sáng
mùa thu, thực không dễ dàng, phải nên chú ý.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 205
Quý vị chớ quên bổn phận xuất gia. Biểu hiện
tướng xuất gia không khó, chỉ việc cạo tóc đắp y
ca sa liền được gọi là Tăng sĩ. Hiện tại, có nhiều cư
sĩ thường cạo đầu. Thế thì ai là Tăng sĩ chân thực?
Như người uống nước, tự biết lạnh nóng. Hy vọng
mọi người hãy nên tinh tấn.
8. Đức Thế Tôn thuyết pháp, giảng giải tiền tài mê
hoặc người đời, thực không gì diễn tả hết. Đa số
người xuất gia cũng bị tiền tài làm mê hoặc. Xưa
đồng tiền, nay là giấy bạc. Chúng trói buộc con
người đến chết. Rời chúng thì chẳng sống được qua
ngày. Quý vị muốn trồng trọt, làm ruộng vườn thì
phải có công cụ cuốc xẻng. Không tiền thì không
thể mua được dụng cụ cuốc xẻng, nên không thể
trồng trọt chi hết. Chúng ta bận rộn suốt ngày, có
phải chỉ vì tiền bạc thôi sao?
Người thế tục ăn mặc nếu đầy đủ rồi, lại tham đắm
sắc dục. Chữ sắc này đã hại không biết bao nhiêu
người. Xưa kia, các vua chúa đế vương, chỉ vì tham
sắc mà mất nước không ít. Lợi và danh đi liền với
nhau. Danh có tốt có xấu, hoặc lưu tiếng thơm
trăm đời, hay để vết nhơ muôn thuở. Danh này
cũng hại người. Nếu mình được khen là giỏi, có
đạo đức, hoặc thường làm những việc khó làm, thì
sanh tâm vui thích; đó là háo danh. Bị chửi mắng
khiến không vui, cũng vì danh. Được khen hay chê
dở, nói chung đều bị danh xoay chuyển.
THÍCH NỮ MINH TÂM 206
Ăn uống cũng rất lợi hại. Quân tử ăn không cầu no,
ở không cầu an. Người xưa nhất tâm tại đạo, ăn rau
dại để no lòng. Tâm định thì rau tươi cỏ dại đều có
mùi vị. Người thế gian tham ăn, chấp trước mùi
vị ngọt chua cay mặn nồng. Ai ai cũng thích mùi
ngon vật lạ, nên sát sanh hại mạng, để thỏa thích
miệng mồm bao tử. Người thích ăn chay, nhưng
khi nấu nướng lại bỏ hành tỏi mỡ gà mỡ heo, để
món ăn ngon hơn; chẳng bỏ được tập khí giết sanh
hại mạng, vì tâm tánh giết hại vẫn còn. Tuy không
ăn thịt, nhưng lại dùng dầu mỡ động vật cùng hành
tỏi, thì vẫn phạm giới. Dẫu thức ăn ngon hay dở,
một khi đã xuống bao tử rồi thì thành phẩn uế. Sao
lại tham cầu cao lương mỹ vị, tranh nhau không
ngừng! Ăn càng nhiều thì thải bỏ phẩn uế càng
nhiều, có hay ho chi đâu!
Ngủ lại không thể bàn hết. Một năm có ba trăm sáu
mươi ngày. Một ngày có hai mươi bốn tiếng. Ban
ngày làm việc, tối đến mơ mộng. Bình thường, một
năm ngủ khoảng một trăm tám mươi ngày. Việc
ngủ nghỉ chiếm rất nhiều thì giờ, thực hại chết
người. Người chân chánh tu hành, rất mến tiếc thời
gian. Kinh Di Giáo bảo: “Ban ngày chuyên cần tu
tập pháp lành, không để mất thời gian. Đầu hôm
cuối hôm, cũng chớ bỏ phế công phu. Giữa đêm
tụng kinh, lấy đó làm việc nghỉ ngơi. Nếu cứ mộng
mị vô cớ, thì một đời trải qua vô ích, không đắc
được gì cả”.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 207
Hy vọng, người có tâm cầu đạo, nguyện vượt ra
sanh tử, chớ để năm món dục lạc, cùng thất tình
xoay chuyển. Hãy nỗ lực chuyên cần tu hành, chớ
để thời gian trôi qua vô ích.
9. Người xưa bảo:
- Chớ đợi đến già mới học đạo. Mộ phần đầy cả
thiếu niên!
Lúc đến tuổi già, bị trăm thứ bịnh khổ. Tai không
nghe được. Mắt không thấy rõ. Bốn cơ chi không
còn sức lực. Ăn không được, ngủ không yên, đi
không nổi. Những nỗi khổ này, người trẻ chưa nếm
qua. Đối với người già, ngày này luôn khác với ngày
nọ. Khi bị bệnh, thì cứ mãi nằm trên giường bệnh,
bị bao khổ não bức bách. Sáng tối nghĩ suy, đường
lộ hoang mang, đạo nghiệp chưa thành, sanh tử
chưa đoạn; mở miệng chẳng ra lời, chắc phải bị đầu
thai. “Muôn thuyền đẩy không nổi, chỉ theo nghiệp
mà thọ sanh”.
Lúc còn trẻ không thì chịu tu, để hôm nay đợi đến
già mới ra nông nỗi này. Hôm nay, chúng ta có
dung mạo tăng tướng đàng hoàng, đều do kiếp xưa
đã trồng căn lành, nên mới được báo thân đoan
trang, chớ nên làm hư hạt giống lành.
10. Nếu hiểu rõ được việc sanh tử tức không còn
nhân địa ngục. Địa ngục chưa hẳn là khổ, vì chưa
hiểu rõ tự tâm mới là khổ nhất. Muốn hiểu được
THÍCH NỮ MINH TÂM 208
việc sanh tử, phải thường nỗ lực tinh tấn, chớ xao
lãng khinh xuất, lo lắng bận bịu mãi, khiến phí mất
thời giờ. Ban ngày, ứng duyên gặp cảnh, phải luôn
làm chủ. Ban ngày làm chủ được thì trong mộng
cũng tự chủ được. Trong mộng tự chủ được thì lúc
bệnh hoạn, cho đến lúc sắp mất cũng tự làm chủ
được. Làm chủ được vì bình thường tự chủ được
chính mình. Tự chủ chính mình tức là dễ dàng ngộ
đạo, cắt đứt sanh tử. Chưa ngộ đạo thì sanh tử khó
cắt đứt. Ngộ đạo không khó, chỉ quan trọng là luôn
khởi tâm thống thiết vì sanh tử, luôn hướng về đạo,
và đầy đủ tâm dài lâu, cùng tâm kiên cố, cho đến
chết cũng chẳng thoái chuyển. Tuy chưa ngộ đạo,
nhưng đời nay không thoái chuyển, và đời sau sẽ
lại nỗ lực tinh tấn, thì có lý do gì không ngộ đạo?
11. Khi bịnh thì nhớ đến đạo. Lành bịnh thì quên
mất đạo. Khởi vô minh như bị bịnh sốt rét. Vì vậy,
phải nên nỗ lực tinh tấn, sanh tâm sám hối, khởi
tâm kiên cố, chớ nên chỉ tu hành trong vài ngày rồi
nghỉ ngơi. Tu hành phải thâm nhập vào một pháp
môn, tức dùng pháp môn đó làm chính, còn các
pháp môn khác làm phụ.
12. Pháp tu đạo, nói khó thì rất khó, bảo dễ thì cũng
rất dễ. Khó cùng dễ là hai pháp đối đãi. Người xưa
chân thực dụng tâm, nên không cảm thấy khó chút
nào, vì việc này vốn đã hiện thành. Tại sao khó?
Lòng tin không đủ nên khó. Nếu chân chánh vì cầu
thoát khỏi sanh tử, xem thường thân mạng, biết nó
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 209
là huyễn hóa, cùng thấu suốt tất cả sự tình, không
bị cảnh chuyển, thì tu đạo rất dễ. Không thích tu
học siêng năng, lại muốn làm thánh hiền, cùng sợ
cảnh địa ngục. Song, muốn là một chuyện, còn làm
là một chuyện. Có nhiều người khi tu hành thì cảm
thấy rất khó khăn. Vì sao? Do không xả chấp nổi.
Ví như người thế tục, đối với những lời hay ho tốt
đẹp, như chúc tụng phát tài, được vinh hoa phú
quý, thì ai ai cũng đều thích nghe. Đối với những
lời không tốt như nhà tan người chết, thì mọi
người đều không muốn nghe. Chứng minh rằng
mọi người đều thích những việc tốt lành, nhưng
còn những việc không may, xấu xa, hư hoại thì bỏ
chạy hết sao! Tất cả đều do không thể phóng xả
được.
Người thế tục si mê, tạo bao nghiệp ác mà không
thường hành việc lành, nên phải chiêu vời quả khổ.
Người xuất gia có muốn thoát khỏi vòng khổ lụy
không? Nếu không muốn, thì cần gì nhập vào cửa
Không? Nhập vào cửa Không tức là chẳng có một
vật gì để chứng đắc, đều ngưng, sao còn có thiên
đường địa ngục?
THÍCH NỮ MINH TÂM 210
Khai thị của Hòa Thượng Quảng Khâm
1. Tây phương có Phật hiệu A Di Ðà
Chúng ta chỉ biết mình do cha mẹ sanh ra. Song
trước khi được cha mẹ sanh ra, mặt mũi mình ra
sao? Sau khi chết đi, mình sẽ về đâu?
Nay do nghe Phật Pháp, biết có Ðức Phật hiệu A Di
Ðà là vị đã phát 48 lời nguyện, rằng ai niệm danh
hiệu của Ngài thì sẽ được tiếp dẫn về Tây phương.
Nếu Phật có nguyện vậy, thì ta cũng phải phát
nguyện: nguyện vãng sanh Cực Lạc.
Ta phải tin chắc rằng thật có thế giới Cực Lạc, có
Ðức Phật Ðại Từ Ðại Bi A Di Ðà; rồi phải luôn luôn
niệm Phật để đến lúc lâm chung, ta mới có chánh
niệm. Khi hấp hối mà có khả năng niệm Phật, thì
Ðức A Di Ðà ắt sẽ đến tiếp dẫn. Song le, nếu vẫn
còn ý nghĩ lưu luyến bất kỳ thứ gì, dù nhỏ như đầu
kim, ngọn cỏ ở cõi Sa Bà này, ta sẽ lại rớt vào vòng
luân hồi.
2. Ta đã hồ đồ, mê muội lúc đầu thai. Giờ đây, ta cần
phải sáng suốt tìm đường đi lúc chết – con đường
ấy chính là Niệm Phật A Di Ðà.
3. Tây phương ở đâu? Ở trong tâm mình – khi tâm
vô sự, không phiền não, thì đó tức là Tây phương.
Tuy rằng thân ta hiện sinh ở cõi Ta-bà, song nếu
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 211
mình niệm Phật mà niệm tới lúc tâm tịnh, thì cõi
Phật sẽ tịnh. Nghĩa là khi tâm thanh tịnh, không
phiền não, không vọng tưởng; thì đó là Tịnh Ðộ –
cõi Tịnh Ðộ ở ngay giữa Ta-bà – mà tâm tức là Tây
phương.
Tây phương Cực Lạc ở tâm ta. Ta cần phải niệm
Phật cho tới chỗ tâm thanh tịnh; niệm một cách
đầy chú ý, tập trung. Khi niệm Phật, chúng ta cần
phải phát nguyện vãng sanh Tây phương, rời bỏ
trần gian khổ lụy. Chớ nên quá yêu quý, nâng niu
cái thân xác thịt này.
4. Niệm Phật, tụng kinh, xem kinh và nói chuyện
là bốn việc mà người tu đạo chắc chắn làm hằng
ngày. Tốt nhất là ít nói chuyện. Thời gian tụng kinh
và xem kinh sách không nên nhiều hơn thời gian
niệm Phật là tốt nhất. Niệm Phật vẫn là chủ chốt.
Phàm gặp việc gì, cứ một câu “A-Di-Ðà Phật” là
được. Ðể tránh chuyện thị phi, cứ một câu “A-Di-
Ðà Phật”
5. Hãy yên lặng, lắng lòng mà niệm Phật; niệm tới
lúc ngủ thiếp luôn càng tốt. Khi tâm tới chỗ chuyên
nhất – chỉ một niệm – thì có thể siêu xuất Tam Giới,
thẳng tới Tây phương. Khi tu hành, cần phải tập:
mắt nhìn mà giả lờ như không thấy, tai nghe mà giả
đò như không biết; chỉ thành thật niệm Phật.
6. Không cần phải xem nhiều sách vở, chỉ cần niệm
Phật cho nhiều. Khi trí huệ khai mở, tất cả Kinh
THÍCH NỮ MINH TÂM 212
Tạng tự nhiên sẽ ở tại tâm mình. Ði, đứng, nằm,
ngồi, đều nên ở trong phạm vi niệm Phật. Việc
quan trọng nhất khi niệm Phật là phải nghe tiếng
niệm cho rõ ràng.
7. Khi sinh ra, ta đã mang theo trong người đầy dẫy
nghiệp chướng. Do đó, chớ tạo thêm nghiệp mới
để chết rồi lại mang đi; chẳng lợi ích chút nào cả.
8. Khai thị lúc Phật thất:
Mục đích đả Phật thất là để độ chúng sanh vãng
sanh Thế giới Cực Lạc.
Niệm Phật thì phải niệm niệm không xa rời Phật.
Niệm cho rõ ràng, nghe cho phân minh, mỗi chữ
mỗi chữ đều phải rõ. Tâm nhớ tưởng, tai lắng nghe,
miệng thầm niệm – cứ thế mà nhiếp tâm chuyên
chú nơi Phật hiệu. Hãy buông bỏ mọi chuyện bên
ngoài; cứ nương theo tiếng niệm thì tâm sẽ tập
trung, chuyên nhất. Bất kể là “người niệm” hay
“tiếng niệm”, bất kể là “tôi niệm” hay “bạn niệm”;
đại chúng ai cũng nương theo tiếng niệm Phật thì
tâm sẽ chuyên nhất. Tây phương Cực Lạc lại cũng
dựa theo tiếng niệm Phật này.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 213
Thiền sư Thiên Như Duy Tắc khai thị
1. Tịnh độ là pháp dễ tu dễ chứng, song cũng là
môn khó nói khó tin. Cho nên khi còn tại thế, đức
Thích Ca Từ Phụ vì hàng đệ tử nói kinh A Di Đà
đã dự biết chúng sanh đời Mạt Pháp khó sanh lòng
tin tưởng, mới dẫn lời thành thực của sáu phương
chư Phật để phá mối nghi và phát khởi tín tâm cho
người sau. Lúc thuyết kinh gần xong, nhân nói đến
chư Phật khen ngợi mình, đức Bổn Sư lại bảo: “Nên
biết ta ở nơi đời ác năm trược làm việc khó nầy đắc
quả Vô Thượng Bồ Đề vì tất cả thế gian nói pháp
khó tin đây, thực là một điều rất khó!” Ấy đều là
những lời tha thiết, cặn kẽ dặn dò để khuyên người
tin tưởng vậy. Vả Đấng Thế Tôn đã rủ lòng đại bi,
cứu đời trong kiếp mạt, khi kim khẩu nói ra một
câu một kệ, hàng nhơn phi nhơn đều tín thọ phụng
hành, nhưng riêng về thuyết Tịnh độ, thế gian có
xen lẫn lòng nghi, là tại sao? Bởi giáo môn Tịnh độ
cực rộng lớn, mà pháp tu Tịnh độ lại quá giản dị,
hai điểm ấy dường như cách biệt, khiến cho người
nghe khó nén lòng nghi.
2. Tôi thấy hàng Thiền giả đời nay phần nhiều
không xét liễu nghĩa của Như Lai, chẳng rõ huyền
cơ của Đạt Ma, bụng rỗng lòng cao, tập quen thành
bệnh cuồng vọng. Khi thấy người tu Tịnh độ, họ
khinh thường và cười bảo: “Đó là việc làm thấp
kém của hàng ngu phu ngu phụ!” Tôi thường cho
THÍCH NỮ MINH TÂM 214
đó không phải khinh hạng ngu phụ, ngu phu, mà
chính là khinh các Ngài Văn Thù, Phổ Hiền, Mã
Minh, Long Thọ; đó chẳng những tự mê chánh
đạo, tự làm mất căn lành mà còn tự bỏ quên huệ
thân và tự để tiêu Phật chủng. Đó cũng là tự gây ra
tội báng Chánh Pháp, tự kết thành nghiệp khinh
Thánh Tăng. Chư Phật, Tổ xem những kẻ ấy là
hạng người đáng thương xót!
3. Có người hỏi: - Không tu tịnh nghiệp tất khó
vãng sanh, đó là điều chắc chắn. Nhưng tại sao
hàng phàm phu nghịch ác khi lâm chung cũng có
thể vãng sanh? Điểm ấy tôi còn chưa hiểu và có chỗ
nghi ngờ, mong Đại Sư chỉ dạy rành rẽ?
Đáp: - Trong Quán Kinh đã dạy: “Hạ phẩm hạ sanh
là như có người tạo tội ngũ nghịch, thập ác, làm
đủ các việc không lành, do vì ác nghiệp, nên đáng
lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu
khổ vô cùng! Nhưng khi lâm chung, kẻ ấy được
gặp thiện tri thức an ủi và thuyết pháp cho nghe,
khuyên phải nhớ tưởng đến Phật; song đương
nhơn vì bị sự khổ bức bách nên không nhớ tưởng
được. Thiện hữu lại bảo: “Nếu ông không thể nhớ
Phật thì hãy chí tâm sám hối và niệm liên tiếp tôn
hiệu Nam Mô A Di Đà Phật.” Người ngu ác kia
vâng lời hết lòng sám hối tội lỗi, chí tâm niệm Phật,
nên trong mỗi niệm diệt được tội nặng nơi đường
sanh tử trong tám mươi ức kiếp. Do lòng chí thành
chí thiết sám hối, tin tưởng sâu xa, cộng thêm công
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 215
đức của Phật hiệu, nguyện lực của Di Đà, nên khi
lâm chung kẻ nghịch ác mới thắng được tội khiên,
sanh về Cực Lạc.
4. Có một tăng sĩ hỏi: - Kẻ một đời tạo ác, khi lâm
chung duy niệm Phật, đã được đới nghiệp vãng
sanh, lại còn không thoái chuyển; nguyện lực của
Đức A Di Đà thâm diệu, thực không thể nghĩ bàn!
Vậy thì bây giờ tôi tạo tác theo duyên đời, đợi khi
sắp chết rồi sẽ niệm Phật có được chăng?
Đáp: - Khổ thay! Lời ấy rất ngu muội sai lầm, còn
nguy hiểm hơn thứ rượu độc, đã hại mình lại làm
hại lây đến hàng tăng ni, người, thiện tín trong đời
nữa! Sở dĩ hàng phàm phu nghịch ác khi lâm chung
biết niệm Phật, là do từ trước họ đã có căn lành,
phước đức, nhân duyên, nên mới được gặp thiện
tri thức, mới khởi lòng tin tưởng và phụng hành.
Đó là việc cầu may trong muôn một, đâu phải mỗi
người đều được như thế?
5. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Muốn sanh về
Cực Lạc, phải tu ba thứ phước:
a. Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, tâm từ
bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.
b. Thọ trì Tam Quy, giữ kỹ các giới, không phạm
oai nghi.
c. Phát lòng Bồ Đề, tin lý nhân quả, đọc tụng kinh
điển Ðại Thừa, khuyến tấn người tu hành.
THÍCH NỮ MINH TÂM 216
Ba thứ phước nầy là chánh nhân tịnh nghiệp của
chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai.” Đây là nói về
dùng phước lực để vãng sanh.
Ngoài ra những kẻ cất chùa, xây tháp, tạo tượng, lễ
bái tán tụng, giữ gìn trai giới, đốt hương, rải hoa,
cúng dường tràng phan, bảo cái, trai tăng, bố thí,
nếu hạnh lành thuần thục, dùng lòng tín nguyện
hồi hướng, đều có thể vãng sanh.
6. Hỏi: - Sống trong đời ác năm trược, mỗi người
đều có tội; giả sử không tạo tội nặng ngũ nghịch thì
cũng vương vào các lỗi khác. Nếu có người không
sám hối, hoặc sám hối mà tội chưa tiêu diệt hết, khi
bình thời và lúc lâm chung đều chí tâm niệm Phật
thì có được vãng sanh hay chăng?
Đáp: - Những kẻ hành trì như thế đều được vãng
sanh, do nhờ sức đại nguyện không thể nghĩ bàn
của Đức A Di Đà. Kinh Na Tiên nói: “Như đem
tảng đá thực to để trên thuyền, do nhờ sức thuyền
nên đá không bị chìm và được chuyển sang bờ bên
kia. Nếu không có thuyền thì dù đem hạt cát để
xuống nước, hạt cát ấy cũng vẫn bị chìm.” Tảng đá
to dụ cho người nghiệp nặng, hạt cát dụ cho người
nghiệp nhẹ, chiếc thuyền dụ cho nguyện lực của
Phật. Người dù nghiệp nặng bao nhiêu mà biết ăn
năn chí tâm niệm Phật thì cũng được Phật tiếp dẫn,
ví như tảng đá to được thuyền chở qua bờ bên kia.
Kẻ nghiệp tuy nhẹ mà không niệm Phật, khi mạng
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 217
chung sẽ tùy nghiệp chịu khổ luân hồi, ví như hạt
cát bị chìm, bởi không thuyền chuyên chở. Cho nên
trong nhà Phật có thuyết “đới nghiệp vãng sanh” là
còn mang nghiệp mà được sanh về Tây phương,
chính ý nghĩa đó.
7. Tử Tâm Thiền Sư bảo: “Trong đời, những người
tiền của như núi, thê thiếp đầy nhà, đâu phải họ
không muốn trẻ mãi để ngày đêm hưởng phước
báo thế gian?”
Nhưng vì mạng sống có hạn, tháng năm thúc
giục tuổi già, cái chết há thiên vị kẻ giàu sang, sức
nghiệp đâu nể kiêng người tài trí? Chừng ấy tội
hành nghiệp cảm, còn chi là thói phong lưu; kiếp
trả đền vay, luống hối cho một đời phóng đãng!
Những việc vừa nói, thế nhân hầu hết mắt đã từng
thấy và tai cũng đã từng nghe. Người đời thường
lần lựa chờ khi lớn tuổi, việc nhà xong xuôi rồi
sẽ niệm Phật, nhưng cái chết đâu có hẹn trẻ hay
già, và tuy nói như thế, đã mấy ai tuổi cao mà biết
lo niệm Phật? Cổ nhơn bảo: “Chớ đợi đến già rồi
niệm Phật. Đồng hoang mồ trẻ đã nhiều đây!” Lại
nữa, con người từ lúc còn trẻ, có gia đình rồi đến
nuôi con cái, trong cuộc sinh sống phải chịu biết
bao là nỗi khổ nhọc đắng cay! Khi hơi thở đã tàn
thì gia đình, tiền của, tất cả đều bỏ lại hết, chỉ theo
nghiệp mà đi. Nếu là đứa con có hiếu nghĩa thì nó
khóc cho ít tiếng, đốt cho mấy xấp giấy tiền, rước
THÍCH NỮ MINH TÂM 218
thầy tụng cho năm ba bộ kinh, rồi đến ngày lại
sắm cơm canh cúng quải; đó gọi là còn biết tưởng
nhớ đến mẹ cha. Rủi gặp đứa con bất hiếu thì cha
mẹ vừa nhắm mắt, đầu xương chưa lạnh, nó đã lo
tranh nhà, giành đất, cãi cọ, kiện thưa, khi được
phần rồi lại phung phí ăn chơi, thậm chí lãng quên
ngày cúng giỗ. Việc đời kết cuộc bất quá chỉ như
thế, có điều chi đáng hẹn chờ! Cho nên bậc hiểu
rộng thấy xa, phải sớm niệm Phật tu hành, con
cháu mỗi người tự có phước riêng, kẻ làm cha mẹ
chỉ lo bổn phận phần nào mà thôi, chớ vì nó suốt
đời làm thân trâu ngựa!
8. Kiếp người mong manh ngắn ngủi, như lửa
nháng thân đá, như chớp giật lưng trời, mới còn
đó đã mất đi, có chi là trường cửu? Phải nhận định
cho chắc, rồi thừa lúc chưa già chưa bịnh, gác qua
thế sự, rũ sạch thân tâm, được một ngày quang âm
lo một ngày niệm Phật, được một khắc rỗi rảnh tu
một khắc công phu, đến lúc lâm chung mọi việc đã
an bài, trời Tây cũng sẵn mở lối đường quang đãng!
Bằng chẳng thế, khi duyên nghiệp đáo đầu, chừng
ấy ăn năn đã muộn! Nên suy nghĩ kỹ.
9. Người tu có những ân trọng. Hãy tạm gác qua
ân Phật ân thầy, như chúng ta đây là phận xuất gia,
công ơn sanh dưỡng của cha mẹ há chẳng phải là
sâu nặng ư? Chúng ta đã lìa tục xuất gia, vì đi học
đạo nên phải xa cách quê quán nhiều năm, cha mẹ
nhọc nhằn cực khổ, ta cũng không biết, khi già
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 219
yếu đau bịnh lại cũng không hay mà săn sóc thuốc
thang. Đến lúc cha mẹ mãn phần, ta không biết,
hoặc có được tin thì về cũng đã trễ muộn. Khi ta còn
nhỏ, có khi cha mẹ vì nuôi nấng thương lo cho con
mà gây ra nhiều tội nghiệp, lúc chết rồi hoặc bị đọa
vào nẻo khổ, hy vọng được ta cứu độ như khát chờ
uống, như hạn trông mưa. Nếu ta tu hành lơ láo tất
Tịnh nghiệp không thành; đã không thành thì tự
cứu chưa xong, làm sao cứu được cha mẹ? Đối với
song thân, ta đã lỗi phần phụng dưỡng về thể chất,
mà còn không cứu độ được phần hương linh, tức là
phụ nghĩa quên ân, là người đại bất hiếu. Kinh nói:
“Phạm tội bất hiếu, sẽ bị đọa vào địa ngục.” Thế
thì tâm niệm gián đoạn không chuyên tu, chính là
nghiệp địa ngục vậy.
10. Lại nữa, hàng xuất gia không dệt mà mặc, không
cày mà ăn. Phòng, nhà, chăn, gối, cơm áo, thuốc
thang đều do đàn việt cúng dâng. Tổ Sư từng răn
dạy: “Hàng thiện tín vì sùng kính Tam Bảo đã chia
cắt bớt phần ăn của gia đình đem đến cúng dường.
Nếu người tu đạo hạnh không tròn thì dù là tấc vải,
hạt cơm, kiếp sau cũng phải đền trả. Muốn báo ân
đàn việt, chúng ta phải lo chuyên tu Tịnh nghiệp để
độ mình độ người. Nếu sanh khởi một niệm gián
đoạn không chuyên, tất đã có phần trong kiếp luân
hồi vay trả. Và tâm niệm ấy chính là nghiệp hạ tiện
hoặc súc sanh vậy.
THÍCH NỮ MINH TÂM 220
11. Lại nữa, nếu người tu ý chí không quyết định
thì không thể gìn giữ giới căn. Do ý niệm phân
vân nên không thể thâu nhiếp thân và khẩu. Kinh
nói: “Thà lấy nước đồng sôi rót vào miệng, nguyện
không để miệng phá giới nầy thọ các thức ăn uống
của tín tâm đàn việt. Thà dùng lưới sắt nóng quấn
thân thể mình, nguyện không để thân phá giới nầy
thọ những y phục của tín tâm đàn việt.” Phương
chi, do các giới không trang nghiêm nên tâm càng
vọng động; nhân sự vọng động ấy mà phần chuyên
tu bị gián đoạn. Thế thì một niệm gián đoạn, đâu
chỉ là nghiệp nhân của lưới sắt nóng và nước đồng
sôi ư?
Và nếu người tu ý chí không quyết định, tất không
nhận rõ tướng đời giả huyễn, dễ chạy theo danh lợi
hư phù. Khi danh lợi thuộc về mình thì sanh lòng
mê đắm, danh lợi thuộc kẻ khác lại sanh lòng ganh
ghét hơn thua. Cổ đức bảo: “Tham đắm danh lợi
đi về nẻo súc, đường quỷ, buông lòng thương ghét
đồng vào hầm lửa vạc dầu!” Thế thì một niệm gián
đoạn chính là ngạ quỷ, hầm lửa vậy.
12. Người đã tu Tịnh nghiệp nên cố gắng làm sao
cho có sự ứng nghiệm. Kiếp người mong manh, Vô
thường chẳng hẹn. Như chúng ta nay tóc đã điểm
bạc, da đượm nét nhăn, tướng suy tàn hiện rõ, kỳ
lâm chung phỏng còn được mấy ngày? Vậy phải cố
gắng chuyên tu, làm sao cho có triệu chứng vãng
sanh chắc chắn. Như khi xưa, Huệ Viễn Pháp Sư ở
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 221
Lô Sơn, ba phen thấy Phật xoa đầu. Lại như Hoài
Cảm Pháp Sư chí thành xưng danh hiệu Phật, liền
thấy Đức A Di Đà phóng ánh quang minh, hiện
ra tướng hảo. Những sự ứng nghiệm như thế có
đến muôn ngàn. Nếu tâm không gián đoạn thì thấy
Phật rất dễ; như còn gián đoạn, tất khó thấy Phật.
Đã không thấy Phật thì cùng với Phật vô duyên. Và
đã vô duyên quyết khó sanh Tịnh độ. Khi không
được sanh về Tịnh độ tất sớm muộn gì cũng bị đọa
vào ác đạo. Thế thì một niệm gián đoạn chính là
nghiệp tam đồ vậy. Phải nên răn dè và suy nghĩ kỹ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 222
Đại sư Trí Giả khai thị
1. Hỏi: Tất cả cõi Tịnh độ của chư Phật ở mười phương
công đức đều bình đẳng, pháp tánh cũng như vậy.
Người tu nên nhớ nghĩ khắp tất cả công đức của chư
Phật, cầu về các cõi tịnh ở mười phương mới phải, sao
nay lại riêng cầu Tịnh độ của một đức Phật? Như thế
chẳng là trái với lý bình đẳng cầu sanh ư?
Đáp: - Tất cả cõi tịnh của chư Phật thực ra đều bình
đẳng. Nhưng vì chúng sanh ở cõi này phần nhiều là
kẻ độn căn trược loạn, nếu không buộc tâm chuyên
vào một cảnh thì Tam Muội khó thành. Chuyên
niệm Phật A Di Đà, tức là Nhất Tướng Tam Muội,
vì tâm chuyên nhất nên được sanh về cõi kia.
Như trong Kinh Tùy Nguyện Vãng Sanh, Phật bảo
ngài Phổ Quảng: “Chúng sanh ở cõi Diêm Phù Đề
phần nhiều tâm trược loạn, vì thế ta chỉ tán thán
một Tịnh độ ở Tây phương khiến các hữu tình
chuyên tâm vào một cảnh để cho sự vãng sanh
được dễ thành tựu. Nếu nhớ niệm tất cả chư Phật,
vì niệm cảnh quá rộng, nên tâm mênh mang tán
lạc, Tam Muội khó thành, không được vãng sanh.
Lại sự cầu công đức của một vị Phật cùng sự cầu
công đức của tất cả Phật không khác nhau, vì chư
Phật đồng một pháp tánh. Cho nên niệm Phật A Di
Đà tức là niệm tất cả Phật, sanh Tây phương Tịnh
độ, tức là sanh tất cả Tịnh độ.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 223
Tóm lại, người có trí huệ nương nơi thí dụ trên sẽ
hiểu được lý một tức tất cả, tất cả là một. Khi hiểu
được lý nầy, thì niệm một Đức Phật, chính là niệm
tất cả chư Phật vậy.
2. Hỏi: Mười phương đều có chư Phật và Tịnh độ.
Nếu vì lẽ chúng sanh ở cõi nầy tâm tánh trược loạn,
niệm nhiều vị Phật e Tam Muội khó thành, tại
sao người tu không tùy ý niệm một đức Phật, tùy
nguyện cầu sanh về một Tịnh độ nào khác, hà tất
phải riêng niệm Đức A Di Đà cầu sanh về Cực Lạc?
Đáp: Phàm phu vô trí phải theo lời Phật dạy, chẳng
nên tự chuyên, vì thế xưa nay những người tu Tịnh
độ đều chuyên niệm Phật A Di Đà.
Theo lời Phật dạy là thế nào? Đức Thích Ca Thế
Tôn một đời thuyết pháp, hằng khuyên chúng sanh
niệm Phật A Di Đà cầu sanh về thế giới Cực Lạc.
Lại nữa, đức Phật A Di Đà có bốn mươi tám điều
đại bi nguyện lực để tiếp độ chúng sanh.
Nên biết Phật A Di Đà đối với cõi nầy có nhân
duyên lớn. Như kinh Vô Lượng Thọ nói: “Trong
thời mạt, khi các kinh khác đã diệt hết, chỉ còn
kinh nầy lưu trú ở đời một trăm năm để tiếp độ
loài hữu tình vãng sanh về cõi kia.” Đây là điểm
chứng minh Phật A Di Đà đối với chúng sanh ở cõi
trược nầy có đại nhân duyên.
Về các Tịnh độ khác, tuy một, hai bộ kinh có lược
THÍCH NỮ MINH TÂM 224
khuyên vãng sanh, song chẳng bằng cõi Cực Lạc
là tiêu điểm mà các kinh, luận đều ân cần khuyến
hướng.
3. Hỏi: Chúng sanh từ vô thỉ đến giờ tạo vô lượng
tội; đời nay lúc bé đến già, do không gặp thiện tri
thức, lại gây thêm nhiều nghiệp ác. Như thế làm sao
lại bảo: “Khi lâm chung mười niệm thành tựu liền
được vãng sanh?” Và cái lý “vượt qua kiết nghiệp
ba cõi” làm sao giải thích cho thông?”
Đáp: Những nghiệp chủng lành dữ của chúng sanh
từ kiếp vô thỉ đến nay, hoặc ít hoặc nhiều, hoặc yếu
hoặc mạnh thực ra vẫn khó biết. Nhưng nếu người
nào khi lâm chung gặp thiện tri thức và thành tựu
mười niệm, tất kẻ ấy đã có túc thiện nghiệp. Nếu
chẳng thế thì thiện tri thức còn không được gặp,
huống chi là thành tựu mười niệm? Như ông cho
rằng ác nghiệp từ vô thỉ là nặng, mười niệm khi
lâm chung là nhẹ; tôi xin đem ba đạo lý để giải
thích sự vãng sanh ấy không thuộc về trường hợp
khinh trọng, không phải tại công hạnh nhiều ít hay
thời gian lâu mau.
Ba đạo ấy là: Do bởi tâm, do bởi duyên, và do bởi
quyết định.
a. Do bởi tâm là loài hữu tình khi tạo tội đều từ nơi
vọng niệm điên đảo mà sanh, còn lúc niệm Phật lại
từ nơi nghe danh hiệu công đức chân thực của Phật
A Di Đà mà khởi; một bên hư, một bên thực đâu
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 225
thể sánh nhau! Ví như một gian thạch thất đóng
kín để tối muôn năm, nếu được người mở ra cho
ánh sáng mặt trời soi vào, sự tối ấy liền mất; đâu
phải vì do tối tăm đã lâu mà không được sáng ư?
Người tạo ra tội nhiều kiếp, khi lâm chung thành
tựu mười niệm được vãng sanh cũng lại như vậy.
b. Do bởi duyên là loài hữu tình khi tạo tội đều từ
nơi vọng niệm tối tăm điên đảo, duyên theo cảnh
giới hư huyễn mà sanh; lúc niệm Phật lại từ nơi
nghe danh hiệu công đức chân thực thanh tịnh của
Phật Di Đà duyên theo Bồ Đề tâm mà khởi. Ví như
có người bị trúng tên độc, tên ghim sâu, sức độc
mạnh, xương thịt nhiễm trọng thương, nếu được
nghe được tiếng trống thần dược thì tên tự bắn ra,
độc tiêu tan hết; đâu phải vì do tên sâu độc nặng
mà không được an lành ư? Người tạo tội nhiều
kiếp, khi lâm chung thành tựu mười niệm mà được
vãng sanh cũng lại như vậy.
c. Do bởi quyết định, là loài hữu tình khi tạo tội
đều từ nơi gián tâm hoặc hậu tâm; lúc lâm chung
niệm Phật lại không có hai tâm đó, mà từ nơi một
niệm mãnh liệt trì danh rồi xả mạng, nên được
siêu thoát. Ví như sợi dây cực to, cả ngàn người bứt
không đứt, nếu có đứa bé cầm gươm Thái A mà
chém, dây liền đứt đoạn. Lại như đống củi rất lớn
chứa góp từ cả ngàn năm, nếu có người dùng một
đốm lửa mà đốt, củi liền cháy hết.
THÍCH NỮ MINH TÂM 226
Nghiệp ác vẫn hư vọng, mà do bởi tâm niệm quyết
liệt, còn có thể lấn lướt nghiệp lành một đời, khiến
cho chúng sanh bị đọa vào ác đạo; huống chi sự
niệm Phật là nghiệp lành chân thực, có người khi
lâm chung dùng tâm mãnh liệt trì danh, lại không
thể lấn áp ác nghiệp từ vô thỉ ư? Cho nên người tạo
tội nhiều kiếp, khi lâm chung dùng tâm mãnh liệt
thành tựu mười niệm mà không được vãng sanh,
quyết không có lý đó.
4. Hỏi: Trong luận Vãng Sanh nói: “Người nữ, kẻ
căn thiếu. Nhị thừa chủng không sanh.” Đã có lời
ấy thì người nữ và kẻ sáu căn không toàn vẹn chắc
là không được vãng sanh?
Đáp:- Câu: “Người nữ, kẻ thiếu căn. Nhị thừa
chủng không sanh” là ý nói người nữ khi sanh về
Cực Lạc sẽ chuyển thành nam, kẻ thiếu căn lúc về
đó các căn sẽ đầy đủ, và tất cả đều được ba mươi
hai tướng tốt; chớ không phải bảo người nữ cùng
kẻ thiếu căn không được vãng sanh. Nếu quả như
thế thì bà Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ đâu được
Phật thọ ký cho sanh về Cực Lạc? Thế nên, người
nữ cùng kẻ đui điếc câm ngọng ở cõi nầy, nếu niệm
Phật A Di Đà, tất đều được vãng sanh. Đến như
hàng nhị thừa, nếu chịu hướng về Đại Thừa tin
môn Tịnh độ, nguyện về Cực Lạc, niệm Phật A Di
Đà, quyết định đều được vãng sanh, và khi đã về
cõi ấy không còn chấp theo tâm lượng hẹp hòi của
nhị thừa nữa.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 227
Tóm lại, hai câu trên đại ý chỉ luận ở cõi Cực Lạc
không có người nữ, kẻ thiếu căn, cùng hạng chủng
tử nhị thừa mà thôi.
5. Muốn quyết định được sanh về Tây phương phải
có đủ hai hạnh: yểm ly và hân nguyện.
Nói yểm ly là hàng phàm phu từ vô thỉ đến nay bị
ngũ dục buộc ràng nên luân hồi trong sáu đạo, chịu
không biết bao nhiêu nỗi khổ!
Trong vòng lẩn quẩn ấy, nếu không chán lìa ngũ
dục thì làm sao có thể thoát ly? Cho nên người tu
Tịnh độ phải thường xét thân nầy là một khối thịt
xương máu mủ, chứa đựng đàm dãi, đại tiểu tiện và
các thứ nhơ nhớp hôi tanh. Vì thế, hành giả ở trong
các oai nghi hoặc khi nằm nghỉ, lúc thức giấc, nên
thường quán sát thân nầy chỉ có khổ không chi vui,
mà thâm tâm sanh niệm chán lìa. Như thế, dù cho
không dứt liền được việc nam nữ, cũng có thể lần
lần khởi tâm nhàm chán.
Lại nên phát nguyện cầu cho mình vĩnh viễn thoát
ly thân nam nữ mê nhiễm, tạp thực, không sạch
của ba cõi, mà được thân pháp tánh Tịnh độ. Trên
đây là đại lược về Yểm Ly môn.
Về hạnh hân nguyện, đại khái có hai điều kiện:
a. Phải nhận rõ mục đích cầu sanh: Sở dĩ chúng ta
cầu về Tịnh độ là vì muốn thoát sự khổ cho mình
và tất cả chúng sanh. Hành giả phải nghĩ rằng: Sức
THÍCH NỮ MINH TÂM 228
mình yếu kém, còn bị nghiệp ràng buộc, mà ở cõi
đời ác trược nầy cảnh duyên não phiền quá mạnh.
Ta cùng chúng sanh bị chìm đắm nơi dòng mê,
xoay vần trong sáu nẻo, trải qua trần kiếp từ vô thỉ
đến nay, cũng vì lẽ ấy. Bánh xe sống chết quay mãi
không ngừng, ta làm thế nào để tìm con đường độ
mình độ người một cách yên ổn chắc chắn? Muốn
được như thế, duy có cầu sanh Tịnh độ, gần gũi
Phật, Bồ Tát, nhờ cảnh duyên thắng diệu bên cõi ấy
tu hành chứng Vô Sanh Nhẫn, mới có thể vào nơi
đời ác cứu khổ cho hữu tình.
b. Nên quán tưởng y báo, chánh báo cõi Cực Lạc:
Hành giả nên quán tưởng báo thân của Phật A Di
Đà sắc vàng rực rỡ, có tám muôn bốn ngàn tướng,
mỗi tướng có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp, mỗi vẻ
đẹp có tám muôn bốn ngàn tia sáng, soi khắp pháp
giới, nhiếp lấy chúng sanh niệm Phật. Lại nên quán
cõi Cực Lạc bảy báu trang nghiêm như các kinh
Tịnh độ đã nói. Ngoài ra, người niệm Phật khi bố
thí, trì giới, cùng làm tất cả hạnh lành, đều phải
hồi hướng cầu cho mình và chúng sanh đồng sanh
Cực Lạc.
Nếu thực hành hai điều trên, hành giả sẽ phát tâm
khát ngưỡng Tây phương, quyết định sẽ được vãng
sanh. Và đây là Hân Nguyện Môn.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 229
Tuyết Lư Lão Nhân khai thị
1. Rất đáng thương thay! Người chết chẳng phải là
hết vì thân tuy chết đi, thần thức chẳng diệt. Có sáu
cảnh giới là thiên, nhân, a tu la, súc sanh, địa ngục,
ngạ quỷ. Thần thức hoàn toàn chẳng thể vượt ra khỏi
phạm vi của sáu cõi này. So trong lục đạo, cõi trời,
cõi người còn khá, nhưng vẫn có sanh tử, xoay vần
qua qua, lại lại; hốt nhiên mang thân trời, người, hốt
nhiên sanh trong địa ngục, súc sanh. Ngàn lần sống,
vạn lần chết, luân chuyển như thế; xương vùi cao
như núi, lệ trào nhiều như biển, thực quá cực khổ!
Thử hỏi ai có phương pháp nào trốn tránh sự luân
hồi ấy ngõ hầu được trường sanh an tịnh chăng?
2. Sự khổ vui của mỗi người vốn là một thứ quả
báo, phải vận dụng cả ba đời để quán sát. Nếu
chẳng hiểu rõ đạo lý này, làm sao thông hiểu được?
Hiện tại chúng ta gặp phải nghịch cảnh, mắc phải
tai nạn, đương nhiên là có dính líu đến nhân quả.
Cách để chuyển biến, tiêu trừ chúng nhanh nhất
chính là Niệm Phật. Trong kinh từng nói chí tâm
niệm Phật một câu, tiêu trừ được trọng tội trong
tám mươi ức kiếp sanh tử. Nếu đã tiêu trừ được tội
thì nào còn có nghịch cảnh, tai nạn gì nữa! Kinh
còn dạy người niệm Phật A Di Ðà được vô lượng vô
biên chư Phật ở bốn phương, thượng, hạ hộ niệm.
Phật là bậc pháp lực vô biên vạn đức, vạn năng, đã
được Phật gia bị thì còn sợ gì tai nạn cơ chứ?
THÍCH NỮ MINH TÂM 230
3. Niệm Phật vãng sanh Cực Lạc là một phương
pháp đặc biệt ngoài tám vạn bốn ngàn pháp môn
của Phật, được gọi là “môn dư đại đạo” (đạo lớn
nằm ngoài các pháp môn). Sự tuy đơn giản, lý thực
thâm áo, chẳng thể dùng dăm ba câu trình bày
tường tận được.
Cần phải biết là đức Phật đạo đức tối cao không ai
bằng được, lời Ngài nói ra tuyệt không dối người.
Chỉ nên tin thực có cõi Cực Lạc, niệm Phật được
sanh về đấy. Ðó chính là yếu quyết thành công thứ
nhất.
Lại phải chịu nhận rõ đời ác ngũ trược đây, phát
khởi tấm lòng chân thực, nguyện sanh về thế giới
Cực Lạc. Ðấy chính là yếu quyết thành công thứ
hai.
Ðã tín, nguyện rồi lại nên theo đúng phương pháp,
mỗi ngày định giờ giấc thực hành công khóa. Ðấy
chính là yếu quyết thành công thứ ba.
4. a) Một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” là Pháp Giới
Tạng Thân, bao gồm cả thập phương tam thế chư
Phật.
b) Một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật” bao trùm cả
mười hai bộ loại kinh điển trong Tam Tạng, tức
là chữ A đã bao gồm toàn bộ giáo pháp của Tam
Tạng.
c) Sáu chữ hồng danh là vua của các chú, sáu chữ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 231
“Nam Mô A Di Ðà Phật” là chữ bí mật, chẳng phiên
dịch. Pháp này cao tột, thù thắng hơn trì tụng bất
cứ chú ngữ nào khác.
5. Niệm Phật chuyển biến nghịch cảnh, tiêu trừ tai
nạn, sanh về Cực Lạc, còn sự nào lớn lao hơn pháp
này nữa, nhưng lại xem rất thường. Phần nhiều
người đời hay viện mấy lý do như quá bận rộn,
không có thời gian để cự tuyệt pháp đại tiện nghi
vạn kiếp khó được gặp gỡ này, thực đáng tiếc quá!
Có thực sự bận rộn hay chăng? Tôi chẳng thấy vậy.
Niệm Phật thì đi, đứng, nằm, ngồi đều làm được; dù
là sĩ, nông, công thương đều chẳng trở ngại gì. Nếu
chẳng tin thì dưới đây tôi sẽ dẫn một bài ca ngắn để
người đời đối với những sinh hoạt thường nhật có thể
phân tích rõ ràng. Tôi tin rằng sau khi xem bài ca này
xong, nhất định quý vị sẽ chẳng còn cười được nữa.
Bài ca chẳng nhàn
Biết ngài vốn chẳng bận,
Cứ cố nói chẳng nhàn,
Trong hai mươi bốn giờ,
Nằm ngủ mất tám giờ,
Ba bữa ăn ba tiếng
Lại uống trà, hút thuốc
Chải gỡ, đại tiểu tiện,
THÍCH NỮ MINH TÂM 232
Phí mất khoảng một giờ,
Ði ra ngoài uống rượu
Về chuyện gẫu cùng vợ
Ít nhất vài ba giờ,
Lại e lòng bận bịu,
Thân mệt tính ngủ trưa,
Ngủ hai giờ chẳng đã,
Mất đi mười sáu giờ,
Uổng phí hơn quá nửa,
Trong tám giờ còn lại,
Chưa chắc đã bận thực.
Niệm Phật được nửa tiếng
Ðã kêu lâu lắm rồi
Hãy xem người xưa nay,
Mấy ai bảy mươi tuổi,
Ðừng đem khổ sanh tử,
Vất ra đằng sau ót,
Việc chân chánh của mình,
Vạn vạn lần khẩn cấp,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 233
Xin hãy gấp tỉnh ngộ,
Mau trồng chín phẩm sen.
6. a) Có người nói: Chúng tôi là công chức, giáo
chức, ở cư xá công cộng thì cúng Phật, lễ Phật,
đương nhiên là bất tiện, niệm Phật cũng làm phiền
người khác bất an, tôi chẳng biết làm sao?
Ðáp: Chốn công cộng đúng thực là có nhiều nỗi bất
tiện, nhưng việc gì cũng có cách để dung thông cả.
Nếu như đã biết niệm Phật là đại sự thì cứ thành
tâm thầm niệm, ắt có hiệu quả lớn. Bởi lẽ tâm niệm
còn càng khẩn mật hơn miệng niệm, bất tất phải
cúng Phật, lễ Phật ra tiếng.
b) Có người nói: Niệm Phật tuy tốt, nhưng phải
đến chùa, miếu, liên xã hay trai đường, tôi không
có thời gian.
Ðáp: Không nhất định phải đến những nơi đó,
không có thời gian đi ra ngoài, nhưng chẳng lẽ ở
nhà không có thời gian nào rảnh sao? Cứ ở nhà
niệm Phật nào có trở ngại chi.
c) Có người nói: Niệm Phật là việc của kẻ có tiền,
tôi không có tiền bạc dư dả!
Ðáp: Thế là lại càng lầm hơn nữa! Niệm Phật chẳng
tốn tiền mấy. Ba cây nhang đáng giá là bao? Dù
chẳng đốt lấy một cây nhang cũng chẳng quan hệ
gì. Chỉ cốt sao trong tâm cung kính là đủ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 234
d) Có người nói: Niệm Phật là phải ăn chay, tôi
không làm được, cho nên tôi không thể niệm Phật?
Ðáp: Tạm thời bất tất phải ăn chay, chỉ nên kiêng
sát sanh thì cũng có công đức lớn. Có thể tập ăn
ba thứ tịnh nhục, tức là: không vì mình mà giết,
chẳng thấy con vật bị giết, chẳng nghe nó bị giết.
Cá, thịt ngoài chợ làm sẵn rất nhiều, đủ để cho quý
vị ăn rồi.
7. Hỏi: Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm
mà phải chú tâm đúng không?
Ðáp: Có nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng
chẳng để tâm vào đó, trong lòng toàn là suy xằng
nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng vô dụng. Miệng
niệm Phật thì tâm phải tưởng Phật, tâm khẩu nhất
như. Ngoại trừ một câu niệm Phật ra không còn
nghĩ đến gì khác nữa, không còn có ý niệm nào
khác khởi lên. Có vậy mới gọi là “Nhất Tâm Bất
Loạn”, từ đó mới dễ thành công.
8. Một câu Phật hiệu tiêu diệt trọng tội trong tám
mươi ức kiếp sanh tử (thuộc về quá khứ).
Một câu Phật hiệu tiêu diệt phiền não của nhân
sanh, tiêu tai, diên thọ, hưởng phước huệ (thuộc
về hiện tại).
Một câu Phật hiệu khiến ta thoát khỏi lục đạo luân
hồi, vãng sanh thế giới Cực Lạc, vĩnh viễn trường
sanh bất diệt (thuộc về tương lai).
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 235
9. Câu “đới nghiệp vãng sanh” là chỉ người tu Tịnh
Ðộ mà nói; đối với các pháp môn khác nếu đới
nghiệp thì tuyệt đối chẳng thể giải thoát, chẳng thể
liễu sanh tử. Nhưng đa phần người tu Tịnh Ðộ hiểu
lầm là dù còn tạo tội nghiệp vẫn có thể vãng sanh,
vẫn có thể thành tựu. Do nói như vậy nên trong
mười người tu, tám chín người chẳng thành công
được.
Ý nghĩa chân thực của việc “đới nghiệp vãng sanh”
là như sau:
a. Ðới nghiệp là chế phục nghiệp hoặc chẳng cho
chúng khởi dậy.
Nếu chưa đoạn được Hoặc thì chẳng thể giải thoát.
Vì thế đức Thích Ca Mâu Ni đại từ, đại bi nói ra
pháp môn Tịnh Ðộ, dạy chúng sanh niệm A Di Ðà
Phật, chẳng cần phải đoạn Hoặc, chỉ cần chế ngự
được Hoặc liền có thể giải thoát.
Ðoạn Hoặc và Phục Hoặc (chế ngự Hoặc) khác
nhau như thế nào? Ðoạn Hoặc giống như trong
chén đã thanh tịnh, vô nhiễm, dù có nghiêng đi
cũng chẳng đổ cát bụi ra. Phục Hoặc giống như
trong chén có cát bụi, dùng vật khác đậy lên, có
nghiêng chén cũng chẳng đổ bụi ra, nhưng cát bụi
vẫn còn chứa bên trong. Nghiệp tận chẳng bị luân
hồi, tu Tịnh phục Hoặc thì cũng chẳng lọt trong lục
đạo.
THÍCH NỮ MINH TÂM 236
Nhưng Hoặc vẫn còn thì phải làm sao? Luôn luôn
dùng sáu chữ hồng danh đè nén chúng, lâu ngày
thuần thục, đến lúc mạng chung, nếu khởi tâm
niệm Phật thì các tạp niệm bị chế phục chẳng khởi
lên nên có thể mang theo nghiệp đi vãng sanh (đới
nghiệp vãng sanh). Sanh qua cõi kia rồi mới đoạn
Hoặc, chỉ mấy ngày là thành công. Ðấy là Phục
Hoặc. Chỉ cần chế phục Hoặc sẽ chẳng tạo nghiệp
nữa, nên sẽ cảm ứng đạo giao cùng Phật. Ðấy chính
là ý nghĩa chân thực của “đới nghiệp vãng sanh”,
tuyệt đối chẳng phải là vừa niệm Phật, vừa tạo tội
vẫn được vãng sanh.
10. Các pháp môn thông thường chẳng kể Ðại Thừa
hay Tiểu Thừa đều dùng tự lực. Pháp môn đặc biệt
thì ngoài tự lực còn có thêm Phật lực trợ giúp, gọi
là Nhị Lực Pháp môn. Cũng như đi lên lầu cao nếu
có người phụ giúp thì sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tại sao
pháp môn đặc biệt có thể nhờ Phật lực, còn pháp
môn thường chẳng được Phật lực giúp đỡ? Pháp
môn thường phải tự thực hành, pháp môn đặc biệt
cũng phải tự lực nhưng được Phật lực gia trì thêm.
Pháp này chẳng thể nghĩ bàn, người tu hành chưa
thành Phật đều chẳng hiểu rốt ráo. Không những
người thường chẳng hiểu, ngay cả những người
học vấn cao sâu, tu học đã lâu cũng đều chẳng tin,
vì vậy nên gọi là pháp khó tin, nhưng nếu ai chịu
tin theo và tu hành thì đều có thể liễu sanh tử, thoát
ly luân hồi.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 237
11. Tại sao chúng sanh tu hành theo tám vạn bốn
ngàn pháp môn chẳng thể thành tựu? Vì có ba
chướng ngại:
a) Thứ nhất là “vô nhân hy quả”: [tức là] tâm chúng
sanh thường mong mỏi chẳng nhọc nhằn chi cả
mà đạt được kết quả tốt đẹp; lúc còn sống chẳng
chịu tu hành nhưng mất đi rồi hy vọng được sanh
vào cõi lành, thân quyến của tang chủ thường tụng
kinh siêu độ cho người mất hy vọng được siêu
sanh, hoặc treo tràng phan chúc thọ Tây phương
tiếp dẫn. Hoặc khi nằm mộng, mơ thấy chết rồi
sanh làm quỷ thần, được trường sanh bất diệt, đây
đều là sự hiểu biết lầm lạc của chúng sanh.
b) Thứ hai là “phóng dật, sợ phải học”: chúng sanh
học Phật khó thành là vì ưa thích buông lung, chán
ghét lao nhọc, chỉ biết cầu phước, chẳng hiểu chỗ
diệu dụng của Phật pháp. Kinh nói: “Ðức Phật vì
một đại sự nhân duyên xuất hiện ở thế gian này”.
Ðại sự nhân duyên là gì? Là để giải quyết vấn đề
sanh tử trọng đại, vấn đề này chúng sanh trong lục
đạo chẳng ai có khả năng giải quyết. Đức Phật vì
đại sự này thị hiện trên thế gian, chúng sanh chỉ
cầu mong tiêu tai diên thọ; khuyên người liễu sanh
tử đâu có ai nghe, dù có nghe cũng chẳng giác ngộ.
c) Thứ ba là ham muốn dục lạc, làm biếng tu hành.
Ngày nay người ta tôn sùng văn hóa Âu Tây, chạy
theo dục vọng cuồng hoan, mê hoặc trong sự
THÍCH NỮ MINH TÂM 238
hưởng lạc, thân vùi trong ngũ dục lục trần, tâm tán
loạn, nếu khuyên họ tu pháp xuất thế, họ không có
đủ nhẫn nại chịu đựng khổ nhọc dài lâu.
Con người có ba chướng ngại kể trên nếu không
giác ngộ sẽ mờ mịt cả đời, lúc lâm chung tùy theo
nghiệp dẫn dắt. Khi đã giác ngộ chẳng ai không
cảm thấy đau khổ cùng cực, đời người ngắn ngủi
như trong chớp mắt, phước báo hưởng hết rồi, lúc
mạng chung liền đọa tam đồ. Bởi vậy nên người
có trí chẳng ai không thiết tha đến sự Vô thường
của đời người và mau mau tìm đường giải thoát.
Nhưng thường vì công phu tu hành chẳng sâu dày,
một khi chuyển thế liền mê mất, lại tiếp tục tạo ác
nghiệp.
Ngày nay chúng ta rất may mắn nghe được Phật
pháp, nếu chẳng cầu thoát ly thì còn đợi đến lúc
nào nữa? Muốn cầu thoát ly nhưng lại khổ nhọc
vì chẳng trừ khử được ba thứ chướng ngại kể trên,
hỡi ôi, phải làm sao đây.
12. Tín Nguyện Hạnh là ba yếu quyết của sự tu
hành, cũng là ba món tư lương cho sự vãng sanh về
thế giới Cực Lạc. Đó là chánh hạnh, ngoài chánh
hạnh ra còn phải cần trợ hạnh, tức là đừng làm các
việc ác, vâng làm các việc lành. Cả hai chánh và
trợ đều song tu, giống như hai cánh của con chim,
chẳng thể thiếu thứ nào. Niệm Phật cũng như quét
nhà, tham Hoặc ví như rẩy bụi, vừa quét vừa rẩy
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 239
bụi, vậy thì làm sao cảm ứng đạo giao cùng Phật,
làm sao minh tâm kiến tánh cho được. Do đó cần
phải chánh trợ song tu thì mới đầy đủ.
13. “Học Phật” chẳng giống “Phật học”. Học Phật là
chúng ta y theo lời dạy của đức Phật mà làm. Phật
học nghĩa là tìm hiểu kinh điển Phật pháp, tuy là
hiểu rõ nhưng chẳng học và làm theo. Ngày nay có
rất nhiều người nghiên cứu Phật học, người học
Phật thì chẳng nhiều, giống như nói về thức ăn,
đếm của báu, chẳng có ích gì hết. Cho nên hiểu
Phật, học xong thì phải làm, phải tu.
14. Tịnh độ là pháp dễ hành khó tin. Khó tin vì lòng
tin phải vững chắc, Bồ Tát Bất Động Địa trở lên mới
chẳng lung lay lòng tin. Vì vậy, chúng sanh phải tin
tưởng vào lời dạy của Phật, nương vào nguyện lực
của Phật, thiết thực tu hành. “Một nguyện lực, một
thực tu”, đây là điều trọng yếu nhất. Dễ hành nghĩa
là chỉ cần làm theo lời dạy của Phật thì nhất định sẽ
thành công. Sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật” bao
gồm Tam Tạng mười hai bộ kinh, chẳng thể dùng
hai, ba ngày mà có thể giải thích rõ ràng hết được. Tu
hành không thể tu một chút xíu rồi thôi. Người xưa
nói: “Muốn biết đường xuống núi, phải hỏi người đã
từng đi qua.” Người đã từng trải qua dạy ta làm như
thế nào, ta phải làm như vậy thì sẽ thành công.
15. Niệm Phật tức là mỗi lúc khởi tâm động niệm
đều là A Di Đà Phật, đương nhiên đây đều là
THÍCH NỮ MINH TÂM 240
tịnh niệm. Nhưng như vậy thì công việc gì cũng
không cần phải làm nữa hay sao? Còn một phương
pháp khác, đó là “Nhớ Phật”; trong tâm luôn nghĩ
đến Phật, chẳng quên được. Niệm Phật là “niệm
tại đâu, chú tâm vào nơi đó.” Nhớ Phật là nhớ rõ
chẳng quên, dẫu thầm lặng tức là niệm không ra
tiếng nhưng vẫn nhận biết trong tâm luôn tưởng
Phật. Thí dụ như chúng ta, ai ai cũng không quên
tiền bạc, ai ai cũng không quên ăn cơm; như thế
đem cái tâm ham tiền, cái tâm nhớ ăn cơm đó biến
thành tâm tưởng nhớ Phật; cái gì cũng biến thành
A Di Đà Phật. Cứ như vậy tuy trong tâm chẳng nói
nhưng có ấn tượng, đó là nhớ Phật. Mọi người phải
hiểu rõ bốn chữ “Niệm Phật, Nhớ Phật” này thì sẽ
đạt được lợi ích to lớn.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 241
Khai thị của Hòa thượng Diệu Liên
1. Quý vị có biết lợi dụng thời gian mà tu hành
không?
Nếu quý vị lấy thời gian coi ti vi, tới và rời sở làm,
ngồi xe, đi bộ mà niệm Phật, lấy thời gian đọc sách
ngày thường mà đọc kinh Phật, tu hành như vậy là
đủ rồi, ai nói không có thời gian rảnh rỗi vậy?
2. Làm thế nào mà tránh khỏi người nhà sanh ly
tử biệt?
Phật pháp có tình người nhất, chỉ cần cả nhà quý
vị già trẻ đều niệm Phật thì trong tương lai sẽ cùng
sanh Tây phương, vĩnh viễn ở với nhau mà không
bị nhận chịu nỗi khổ sanh ly tử biệt, đời đời tu với
nhau trong cùng một cõi mãi đến khi thành Phật
đạo.
3. Làm sao cho tà thần, ác quỷ đừng tới nhà quý vị?
Trong nhà thường vặn máy niệm Phật hiệu, hào
quang của Phật chiếu vào thì tà thần, ác quỷ sẽ
không dám tới nhà! Không những tà thần, ác quỷ
sợ mà ngay cả Diêm Vương chính trực vô tư cũng
không muốn người ta đi gặp mình, ông ta rất thích
chúng ta được gặp Phật A Di Đà.
4. Tại sao phải niệm Phật khi làm việc?
THÍCH NỮ MINH TÂM 242
Nếu không niệm Phật lúc làm việc thì sẽ hay có
vọng tưởng, hai người với nhau sẽ tán dóc, uổng
phí thời gian! Tại sao không vừa làm việc, vừa niệm
Phật thì không những sẽ làm tốt công việc, mà
đồng thời cũng được trau dồi phước huệ, một công
đôi ba việc, quá tốt rồi còn gì!
5. Quý vị có biết không cần xài tiền mà sẽ tiêu trừ
được tai nạn không?
Niệm một câu Phật hiệu sẽ tiêu trừ được tội nặng
của tám tỷ kiếp, quý vị có nghiệp chướng thì hãy cứ
liều mình niệm mãi một câu “A Di Đà Phật” là được;
anh có khổ nạn thì kêu “Quan Thế Âm Bồ Tát Cứu
Khổ Cứu Nạn”, hãy nhất tâm xưng niệm là được rồi.
6. Quý vị có muốn uống một thang thuốc nhiệm
mầu để giải thoát tất cả các độc tố không?
Thánh hiệu Phật, Bồ tát tức là loại thuốc giải độc,
trong lòng có ba độc phiền não tham - sân - si, chỉ
cần trong lòng có thánh hiệu Phật, Bồ tát, tuy rằng
có phiền não, nhưng sẽ không làm những chuyện
sát sanh, trộm cướp và tà dâm; giống như độc tố
mà có thuốc giải thì sẽ không hại chết người được.
7. Quý vị có muốn được thanh tịnh không?
Thường niệm Phật hiệu, diệt bớt thất tình lục dục,
dòng nước trong lòng sẽ được trong sạch hơn; lúc
tâm vô cùng thanh tịnh sẽ thấy sáng sủa thông đạt,
phước huệ cùng lúc đó cũng được đầy đủ rồi.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 243
8. Quý vị có biết thời gian nào mình được vãng
sanh không?
Chỉ cần tinh tấn niệm Phật với lòng thành kính sẽ
biết trước giờ khắc, Phật A Di Đà sẽ nói cho biết là
ngày giờ nào đến tiếp dẫn quý vị.
9. Làm sao khỏi phải trình diện Diêm Vương?
Chỉ có những người luôn biết cảnh giác là mạng
người Vô thường, thành tâm niệm Phật mới có thể
không bị đau khổ lúc lâm chung và khỏi phải trình
diện Diêm Vương, bằng không thì không có cách
nào mua chuộc được Diêm Vương hết.
10. Tại sao chuyện nào cũng không vừa ý mình vậy?
Chuyện nào cũng không vừa ý là vì quả báo từ xưa
đến nay hay gây gổ, chướng ngại người ta mà chiêu
cảm ra. Phải thường sanh lòng hổ thẹn và thường
xuyên niệm Phật, lạy Phật để tiêu diệt nghiệp
chướng của mình, sau đó phải tu rộng phước báo
thành tựu người khác. Như vậy thì ở đâu cũng sẽ
được vui vẻ tự tại, đó chẳng phải là mọi việc sẽ như
ý, thuận lòng hay sao?
11. Làm sao mới có thể thực sự thoát khỏi cái khổ
của nghèo hèn?
Chỗ khổ não của chúng sanh - Vô phước, vô huệ,
đây mới là nghèo hèn thực sự! Chỉ cần gắng công
niệm Phật, phước huệ trang nghiêm thì sẽ xa rời
THÍCH NỮ MINH TÂM 244
cảnh nghèo hèn. Nếu có thể khuyên người niệm
Phật, đó mới là việc thiện lớn thực sự cứu người ta
khỏi nghèo hèn. Chuyện lợi mình, lợi người này nếu
mà không làm thì thực là uổng thay cho một kiếp
người.
12. Quý vị có biết mình đang bị bệnh nặng phải trị
ngay không?
Nghiệp chướng và thói quen xấu là bệnh nặng từ
thuở kiếp vô thủy đến nay, không phải chỉ hai, ba
thang thuốc mà trị được. Phải dùng liều thuốc
nặng và thường xuyên uống - tức là phải niệm Phật
và lạy Phật, siêng tu vạn hạnh, thì bệnh mới khỏi,
mà nghiệp mới sạch.
13. Tâm phàm làm sao trở thành tâm Phật?
Tinh tấn niệm Phật, phàm tâm buông xả tức là
Phật tâm; giống như chùi sạch bụi nhơ trên kiếng
thì quang minh sẽ hiện ra. Sợ nhất là anh không
chịu xả bỏ ham muốn phàm phu, không thích
niệm Phật thì tâm anh mãi mãi là phàm, sao có thể
thành Phật?
14. Sợ chết thì phải làm sao?
Chúng ta ở thế giới Ta-bà này có sanh thì ắt sẽ có
tử, nếu quý vị sợ chết thì phải cố gắng niệm Phật
cầu sanh Tây phương, sanh đến Tây phương rồi thì
vĩnh viễn xa rời sáu đường luân hồi, khỏi chịu cái
khổ sanh tử, đó mới là an lạc thực sự. Khi chưa
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 245
thoát khỏi sanh tử thì tất cả chuyện sống chết của
quý vị đều nằm trong tay Diêm Vương, vậy bản
lĩnh của quý vị ở đâu? Thế anh vui vẻ cái gì? Cứ coi
như giàu sang thì sao nào? Diêm Vương mà sợ quý
vị sao? Có kẻ giàu sang nào mà có thể thoát khỏi
tay Diêm Vương chứ?
15. Quý vị có biết báu vật nào mới thực sự là vô giá
không?
Thánh hiệu Di Đà đầy đủ vạn đức chính là báu vật
vô giá. Một ngày bạn kiếm được mười ngàn, một
triệu hay vài chục triệu đồng tiền cũng không bằng
công đức niệm Phật trong một phút. Một bên là
tiền tài thế gian, một bên là công đức xuất thế gian,
làm sao mà so sánh được?
16. Người như thế nào thì phước báo lớn nhất?
Người niệm Phật phước báo lớn nhất, bởi vì niệm
Phật có thể thành Phật mà! Phải tin nhận và làm
theo như vậy.
17. Quý vị có biết không chạy nạn thì sẽ chẳng còn
kịp nữa không?
Tu hành giống như tỵ nạn, thừa lúc kẻ thù nghiệp
chướng chưa bắt được bạn, cũng chính là lúc quả
báo chưa hiện ra trước mặt thì phải chạy trốn đi
cho nhanh, chạy tới Tây phương Cực Lạc cầu xin
Phật A Di Đà, kẻo không kịp thì lại phải đi gặp
Diêm Vương rồi!
THÍCH NỮ MINH TÂM 246
18. Quý vị có biết chiêu bài trước cửa nhà cũng có
thể độ chúng sanh không?
Treo trước cửa nhà quý vị chiêu bài Phật hiệu “Nam
Mô A Di Đà Phật”, “Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát”
để chúng sanh thấy được Thánh hiệu đó, đây chính
là giúp cho họ gieo trồng giống Phật. Gọi là “Một
lần mắt được thấy qua, mãi mãi thành giống đạo”.
Nhất là buổi tối treo cái đèn lồng có Phật hiệu, như
thế vừa ấm áp và mạnh mẽ biết bao, lại còn như
hào quang Phật chiếu khắp. Hãy thay Phật tuyên
truyền độ chúng sanh như vậy, chuyện này chẳng
phải là việc khó làm đúng không quý vị? Hãy làm
nhanh lên!
19. Tại sao niệm Phật mười mấy năm mà vẫn không
đạt được lợi ích của Phật pháp?
Việc tu hành phải hòa hợp với cuộc sống hàng
ngày, ngày thường không kiểm thảo hành vi, tật
xấu cũng không chịu sửa, khi thói quen xấu càng
nhiều thì chướng ngại sẽ càng nhiều lên. Như vậy
thì niệm Phật còn không đủ sức để tiêu trừ nghiệp
chướng, đâu thể tăng phước huệ được? Phải trừ bỏ
những suy nghĩ tà ác, thay đổi tật xấu, hoàn thiện
nhân phẩm thì tu lúc nào được lợi ích lúc ấy. Tuy
rằng bây giờ có thể bạn chưa thấy rõ mặt tốt, nhưng
giống Tịnh nghiệp đã được trồng sâu rồi, chỉ đợi
đến khi hoa nở gặp Phật.
20. Già rồi thì vô dụng phải không?
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 247
Đừng tưởng rằng già rồi thì vô dụng, người già
cả niệm Phật là hữu dụng nhất rồi! Vì năm tháng
chẳng còn bao nhiêu nữa, có thể nhìn thấu và buông
xả tất cả việc thế gian mà niệm Phật cầu sanh Tây
phương, đây chính là cái khả dụng lớn nhất.
21. Cách tu hành gì là chắc ăn nhất?
Trì giới, niệm Phật, lạy Phật, kinh hành, ngồi thiền,
không tranh giành với người, kết duyên lành với
người.
22. Làm sao nhờ một câu nói mà tránh khỏi phiền
não thị phi?
Anh có phiền não thì liền niệm một câu “A Di Đà
Phật”, người ta mắng chửi anh, anh cũng một câu
“A Di Đà Phật”, người ta đánh anh vẫn một câu “A
Di Đà Phật” như vậy thì có thể tránh khỏi biết bao
phiền não thị phi.
23. Bố thí công đức cho người ta thì mình có bị
giảm bớt đi?
Dùng công đức niệm Phật, trì giới, tu phước hồi
hướng cho người ta là bố thí pháp công đức. Công
đức chẳng những không bị giảm bớt mà còn nhiều
thêm! Không bố thí thì giống như hạt giống đem
chứa trong nhà kho sẽ không lớn được. Nếu có thể
bố thì thì giống câu “Gieo một hạt giống mùa xuân,
mùa thu thâu vạn tạ”, càng bố thí càng có phước.
THÍCH NỮ MINH TÂM 248
24. Cái gì khỏi tốn tiền mà dùng hoài không hết?
Cúng dường tiền bạc thì luôn có hạn, bố thí vô
úy thì không phải ai cũng làm được; niệm thánh
hiệu Phật Bồ tát hồi hướng cho người ta gọi là loại
bố thí pháp trong việc bố thí; lấy mãi không cạn,
dùng hoài không hết. Loại bố thí nhu hòa này vui
biết bao mà sao không làm? Phàm những người có
duyên đọc được quyển sách này, tôi đều chúc phúc
cho các bạn niệm Phật bố thí, được phước xuất thế
gian!
25. Làm thế nào để hóa giải phiền não trong nhà?
Đầu tiên bản thân mình phải làm được việc nhường
nhịn. Khi có thị phi, nhẫn nhịn một câu thì khói tan
mây tạnh; khi khởi tranh chấp lên, lùi một bước thì
biển rộng trời cao. Còn phải tụng kinh nhiều để
mở mang trí tuệ, đồng thời niệm A Di Đà Phật,
Quán Thế Âm Bồ Tát nhiều, câu Phật Bồ Tát gia hộ
cho người nhà nghiệp chướng được tiêu trừ, tặng
trưởng thiện căn. Cũng phải nên cúng dường Tam
Bảo cầu phước huệ, có phước huệ rồi gia đình sẽ
hòa hợp vui vẻ, thì sẽ chẳng còn kinh nào khó đọc.
26. Như thế nào mới là hiếu thảo thực sự với cha
mẹ?
Hoàn toàn không phải việc dâng trà, cơm nước cho
cha mẹ là hiếu thảo, đó là chuyện đương nhiên nên
làm! Cũng đừng có tưởng rằng giết gà mua thịt cho
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 249
cha mẹ ăn chính là hiếu, phải biết rằng, đây là khiến
cho cha mẹ tạo tội nghiệp! Phật pháp nói: “Cha mẹ
lìa xa bụi dơ thì đứa con hiếu thảo mới được thành
tựu”, Tổ Sư Ấn Quang cũng nói “Khuyên người
thân tu Tịnh nghiệp, phải khuyên lơn cha mẹ niệm
Phật cầu sanh Tây phương, khiến cho linh hồn họ
được an vui, mới là hiếu thuận thực sự.”
27. Làm thế nào mới có thể đem tiền tài đến đời
sau?
Cái gọi là “Muôn thứ đem theo không được, chỉ
có nghiệp theo thân”, tạo ác thì sẽ đem nghiệp ác
xuống địa ngục; anh dùng tiền bạc để tạo phúc cho
xã hội quốc gia, cúng dường Tam Bảo, tiền này biến
thành tiền công đức, đời sau anh có thể đem lên
thiên đường, đem về thế giới Tây phương Cực Lạc.
28. Làm thế nào để có thể thường xuyên nghe được
pháp nhiệm mầu cao nhất?
Thánh hiệu Di Đà đầy đủ vạn đức, chính là pháp
diệu kỳ cao nhất. Bất luận là tự mình niệm Phật
hay là nghe người khác niệm Phật, dùng tai tập
trung lắng nghe, đây chính là dùng cách nghe để
nhiếp thọ vạn đức. Lúc bình thường nghe được
Thánh hiệu thì nghiệp chướng được tiêu trừ, phú
quý sẽ được tăng trưởng. Đây là sự giàu sang xuất
thế gian, chỉ có vui không có khổ, không giống như
cái giàu sang của thế gian, trong vui có khổ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 250
29. Bí quyết để lái xe được bình an là gì?
Nếu anh lái xe mà nghe băng niệm Thánh hiệu
Phật A Di Đà hoặc Quan Thế Âm Bồ Tát, vừa lái
xe vừa niệm Phật, xe của anh tuyệt đối đảm bảo là
được bình an. Cứ cho là nếu có định nghiệp đặc
biệt làm cho xe bị lật, thân thể cũng sẽ được bình
an. Giả sử nói một cách xui xẻo hơn nhiều, đó là
xảy ra tai nạn xe mà bị chết, cũng sẽ nhờ công đức
niệm Phật, mà được Phật A Di Đà đến tiếp dẫn
sanh về Tây phương.
30. Gặp phải kẹt xe thì phải làm sao?
Đã đành là tiến lùi đều không được, thì hãy thản
nhiên mà niệm Phật trên xe đi! Anh muốn gấp gáp
thì cũng có ích gì? Chiếc xe đó có thể bay lên được
không? Bay lên không nổi à! Chi bằng niệm Phật
nhiều để tiêu nghiệp tăng phước.
31. Làm sao để biết hoa sen của mình trong ao tám
đức của cõi Tây phương mọc như thế nào?
Niệm Phật A Di Đà trong cõi Ta-bà, trong ao tám
công đức cõi Tây phương liền mọc lên một đóa
hoa sen của quý vị. Quý vị niệm Phật tinh tấn, hoa
sen liền nở to ra, ánh sáng tươi tắn đẹp đẽ; quý vị
lười biếng, thì hoa sen liền khô héo, không có hào
quang; nếu như làm việc thẹn với lương tâm mà
phạm giới luật căn bản thì hoa sen sẽ bị đứt gãy,
chết mất luôn.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 251
32. Làm thế nào để thường được sanh vào đời có
Phật?
Trong thế giới Ta-bà của chúng ta, sanh nhằm vào
đời có Phật là rất khó khăn, đợi đến khi Phật Di
Lặc giáng sinh còn phải đến bảy mươi tỷ năm nữa,
còn quá lâu! Nhưng chúng ta kiếp này y theo lời
dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni, cố gắng niệm Phật
sinh về thế giới Cực Lạc Tây phương, thì liền có thể
luôn luôn gặp Phật, lúc nào cũng được gần gũi Phật
A Di Đà, nghe Phật thuyết pháp.
33. Lúc ở nhà làm thế nào để tận dụng thời gian mà
tu hành?
Lúc lái xe mở băng niệm Phật hiệu mà niệm Phật
theo; lúc đi đứng thì mỗi bước một câu A Di Đà
Phật; người phụ nữ trong gia đình lúc thái rau thì
mỗi một nhát dao là một câu A Di Đà Phật, cho
đến bất kỳ lúc nào đều không quên niệm Phật.
34. Làm thế nào để tránh khỏi lúc lâm chung bị tiểu
quỷ dùng gông cùm xiềng xích trói tay lôi đi?
Anh không niệm Phật, lúc mạng hết Diêm Vương
sẽ kêu tiểu quỷ dùng gông cùm xiềng xích trói anh
vào tròng mà lôi đi; nếu anh sợ, thì hãy cố gắng
niệm Phật. Diêm La Vương cái gì cũng chẳng sợ,
chỉ sợ nhất là Phật A Di Đà. Nếu anh muốn đi đến
chỗ của Phật A Di Đà, ông ta chỉ còn cách trừng hai
con mắt nhìn anh, nói rằng: “Ôi! Người này được
THÍCH NỮ MINH TÂM 252
Phật A Di Đà đón đi rồi.” đây là được đón đi chứ
không phải là dùng xiềng xích mà trói lôi đi đâu.
35. Quý vị có biết lúc lâm chung ai sẽ đến đón mình
không?
Người niệm Phật lúc lâm chung, Phật A Di Đà đem
hoa sen đến tiếp dẫn quý vị; quý vị không niệm
Phật thì Diêm Vương liền sai tiểu quỷ đem gông
xiềng đến trói lôi quý vị đi. Đến địa ngục rồi, những
con gà, vịt, cá mà anh đã từng ăn đều đến để tìm
anh tính sổ: “Ồ! Anh đến rồi hả, chúng tôi đợi anh
lâu lắm rồi đấy!”
35. Khi phiền não đến làm sao đoạn dứt?
Một phương pháp tốt đó là: “Đừng có quan tâm
đến nó, cứ gắng vượt qua mà niệm thẳng một mạch
A Di Đà Phật là được rồi.”
36. Như thế nào là cứu giúp người nghèo khổ một
cách chân chính?
Nhìn thấy người nghèo khổ, khởi lên tâm từ bi, bố
thí, hỷ xả cho họ, đồng thời còn nên dạy họ niệm
Phật; nếu họ không niệm thì quý vị hãy niệm một
tiếng A Di Đà Phật cho họ nghe, đây chính là có
tài thí lại có pháp thí. Bố thí cho họ tiền tài, có thể
giải trừ cái khổ sắc thân của họ; dạy họ niệm Phật
có thể khiến cho pháp thân của họ được giải thoát.
37. Đâu là lời nói hay nhất trong tất cả những lời hay?
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 253
Niệm Phật chính là lời nói hay nhất trong những
lời hay, Phật hiệu đầy đủ công đức vạn hạnh mà!
Cho nên phải ít nói chuyện mà niệm Phật nhiều.
Niệm Phật cũng là tiêu trừ khẩu nghiệp kỳ diệu
nhất, là cách tốt nhất; niệm Phật có hương thơm vi
diệu, danh hiệu Phật niệm được nhiều rồi, miệng
liền không nói lời xấu xa, tự nhiên sẽ nói lời tốt
lành.
38. Niệm một câu Phật hiệu thì công đức lớn
nhường nào?
Chí thành niệm Phật một tiếng, có thể diệt trừ tội
nặng sanh tử trong tám mươi triệu kiếp. Quý vị có
nghiệp chướng, câu niệm Phật này sẽ tiêu trừ tội
nặng trong tám mươi triệu kiếp của quý vị; quý vị
không có nghiệp chướng thì sẽ được tăng trưởng
công đức trong tám mươi triệu kiếp.
39. Người niệm Phật chủ yếu cầu xin điều gì?
Quan trọng là ở việc muốn cầu sanh Tây phương.
Nguyện lớn từ bi của Phật A Di Đà là hy vọng tiếp
dẫn chúng sanh đến thế giới Tây phương Cực Lạc,
quý vị niệm Phật nếu có tâm cầu sanh Tây phương
thì liền tương đồng với nguyện của Phật, đây chính
là tương ứng. Nếu quý vị niệm Phật chỉ là cầu làm ăn
có thể kiếm tiền, tình cảm vợ chồng tốt, con cái nghe
lời, toàn là những tình cảm phàm phu này, như vậy
thì việc niệm Phật và nguyện của Phật không tương
hợp, thì làm sao sanh Tây phương được?
THÍCH NỮ MINH TÂM 254
40. Gia đình thực sự của quý vị ở đâu?
Gia đình hiện tại của quý vị là nhà khách trú ngụ tạm
thời, bất cứ lúc nào cũng sẽ bị hư hoại, không phải là
gia đình cứu cánh của quý vị đâu; nơi trở về đáng tin
cậy và an lạc chân thực chính là gia đình cũ của quý
vị - Thế Giới Cực Lạc. Quý vị bỏ nhà cũ, nhận chịu vô
lượng khổ luân hồi trong ba cõi, tội nghiệp xiết bao!
Hãy mau mau niệm A Di Đà Phật để về nhà cũ đi!
41. Người phạm tội ngũ nghịch thập ác cũng có thể
sanh Tây phương không?
Đức Phật yêu thương chúng ta cũng giống như cha
mẹ yêu thương con cái, cho dù con cái có hư hỏng
đến thế nào, hay là cặn bã của nhân gian, thì cha mẹ
vẫn coi chúng như là bảo bối. Đức Phật cũng giống
như vậy, đối với người phạm tội ngũ nghịch thập
ác, chỉ cần hồi tâm niệm Phật, không tạo ác nữa,
Từ Phụ Di Đà vẫn tiếp dẫn quý vị đi Tây phương.
42.Tại sao phải đọc tụng kinh Vô Lượng Thọ?
Đọc kinh Vô Lượng Thọ mới biết tại sao phải niệm
Phật, những quả báo tốt nhận được sau này như thế
nào. Quyển Thượng của bộ kinh này nói về quốc
độ của Phật A Di Đà được thành tựu như thế nào,
khiến chúng ta hân hoan cầu về Cực Lạc; quyển Hạ
toàn bộ nói về cái khổ của thế gian, khiến chúng
ta chán ghét muốn lìa xa cõi Ta-bà, nhất định phải
cầu sanh Tây phương.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 255
43. Người học Phật tại sao không sợ chết?
Người bình thường tu thiện nghiệp trong kiếp này
ít, vì miếng ăn cái mặc mà ra sức tạo ác nghiệp, vậy
thì kiếp này vừa hết, thì phải đi vào ba đường ác,
đương nhiên sẽ sợ chết; người học Phật đoạn ác tu
thiện, thì chẳng sợ chết, vì có nơi tốt để đến mà!
Nhất là người niệm Phật như chúng ta, chết rồi thì
đến Tây phương, tốt biết bao!
44. Quý vị có biết có một việc gì từ trước đến nay
mình chưa từng làm không?
Chúng ta luân hồi trong sáu đường từ vô lượng kiếp
đến nay, trên mặt làm người, thì loại người nào anh
chưa làm qua? Ngay cả đại hoàng đế, hoàng thái
hậu đều đã làm qua, đương nhiên ba đường ác và
địa ngục cũng đã đi qua. Nhưng chính là còn một
việc chưa từng làm qua - Cực Lạc Thế Giới chưa
từng đi qua, Phật chưa từng thành qua.
45. Dùng thịt gà, vịt, cá để cúng bái tổ tiên có thể
khiến cho họ được lợi ích chăng?
Nếu quý vị làm như vậy, đó là đang giúp cho tổ tiên
mình tạo tội nghiệp! Phải dùng thức ăn chay cúng
bái tổ tiên, lại còn niệm Phật, tụng kinh để siêu độ
cho họ, mới có thể khiến cho họ có được lợi ích
chân chính.
46.Tại sao có người vừa sinh ra đã có muôn triệu
tài sản?
THÍCH NỮ MINH TÂM 256
Bởi vì kiếp trước họ hành đại bố thí, kiếp này mới
có đại phước báo, tiền bạc chẳng bao giờ đi đường
vắng người đâu. Chẳng qua nếu có giàu hơn nữa,
vẫn là xoay vần trong sáu đường, chỉ có sanh về Tây
phương mới có thể rốt ráo lìa khổ được vui.
47. Ai có thể độ chúng ta thoát ly biển khổ sanh tử?
Chỉ cần quý vị quy y Tam Bảo Phật - Pháp - Tăng,
thường niệm A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ
Tát, tu tất cả thiện, đoạn tất cả ác, đem công đức
Tam Bảo sau này sanh về Tây phương, đây chính
là “Biển khổ vô biên, quay đầu là bờ”. Nếu rời khỏi
chiếc thuyền lớn từ bi của Tam Bảo, thì làm sao có
thể thoát khỏi biển khổ?
48. Bạn niệm Phật là niệm Phật đang sống hay Phật
đã chết?
Niệm Phật, lấy tâm giác ngộ để làm đạo Bồ Đề cầu
sinh Tịnh độ, đây chính là niệm Phật đang sống;
Niệm Phật mà còn cầu danh lợi giàu sang thì tâm vẫn
mê mà không giác, đây chính là niệm Phật đã chết.
49. Quý vị cho rằng mình không có của báu sao?
Thực ra anh có vô lượng của báu đó! Đó chính là
Thánh hiệu Di Đà. Xưng niệm Thánh hiệu là công
đức vô lậu, có thể giải thoát rốt ráo. Quý vị hãy đem
công đức này bố thí cho chúng sanh, hồi hướng về
Phật đạo, tương lai mọi người cùng thành Phật, vậy
thì tốt biết mấy!
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 257
Tâm niệm Phật là chạy về phía Tây phương, tâm
nghĩ tài sắc là chui đầu vào địa ngục khổ.
Tu lục độ vạn hạnh là giàu nhất, ra khỏi sinh tử
luân hồi là sang nhất.
THÍCH NỮ MINH TÂM 258
Khai thị của Hòa Thượng Thiền Tâm
1. Trong nẻo sống chết luân hồi, có nhiều hiểm
nguy chướng nạn cho đường tu. Muốn thoát cảnh
hiểm luân hồi để bảo đảm tâm Bồ Đề không thoái
thất, phải cầu sanh Tịnh độ. Đây là sự kiện thiết yếu
trước tiên, mà hành giả cần lưu ý.
2. Tiên đức hằng răn nhắc: “Nếu tu mà không
chuyên cầu giải thoát, thì sự tu nơi kiếp này là mối
thù trong kiếp thứ ba (oán gia đời thứ ba).” Sở dĩ
có việc ấy, bởi kiếp thứ nhứt lo kham khổ tu hành,
nên chuyển sanh qua kiếp thứ nhì được hưởng
quả báo thông minh giàu sang quyền thế. Trong
kiếp thứ hai này, do giàu sang nên dễ mê theo cảnh
quyền quý, vợ đẹp con xinh, cùng các thú vui vật
chất nơi cõi trần. Đã nếm mùi dục lạc tất dễ sanh
đắm nhiễm, càng đắm nhiễm càng đi đến chỗ sa
đọa tối tăm, dám làm nhiều điều ác để củng cố lợi
quyền và thỏa lòng tham vọng. Kiếp thứ nhì đã
gieo nhân như thế, kiếp thứ ba làm sao khỏi bị đọa
lạc tam đồ?
Có kẻ gạn: “Kiếp trước đã có công tu gieo nhân
tốt, không lẽ sang kiếp thứ nhì trí huệ căn lành đều
mất, để đến nỗi phải bị đọa hay sao?” - Xin đáp:
“Căn lành tuy có, nhưng nghiệp ác từ vô lượng
kiếp chưa phải đã tiêu trừ. Mà trong cảnh trần, việc
lành rất khó làm như leo lên cây cao, điều ác rất dễ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 259
phạm như tuột xuống dốc lở. Người xưa đã chẳng
bảo: Trọn đời làm lành, lành còn chẳng đủ; một
ngày làm ác, ác tự có dư đó ư? Như những người
giàu sang quyền thế mà chúng ta hiện thấy, kiếp
trước họ đều có ít nhiều công đức bố thí tu phước
làm lành, nhưng kẻ hướng về nẻo thiện không bao
nhiêu, người say đắm danh lợi vinh hoa lại chiếm
phần đa số. Thử hỏi có mấy vị đỗ cao quyền quý
chịu xuất gia, sống một cuộc đời khắc khổ đạm
bạc, hướng về mục đích giải thoát thanh cao? Ngay
như người xuất gia, khi chưa có địa vị còn kham
nhẫn tu hành, lúc đã được quyền danh, nhiều kẻ lễ
bái tôn trọng cúng dường, lại dễ bị cảnh phù trần
ràng buộc. Hiện tại ta thấy có biết bao hàng tăng ni
thiện tín, trước còn tinh tấn hành trì, sau lần lần
biếng trễ bỏ tu hoặc hoàn tục thoái Bồ đề tâm, nói
chi đến kiếp sau?”
3. Trong thời mạt pháp, nếu chỉ tu môn khác không
kiêm cầu Tịnh độ, tất khó giải thoát ngay trong
một đời. Nếu đời này không được giải thoát bị mê
trong nẻo luân hồi, thì tất cả tâm nguyện sẽ thành
hư tưởng. Các hành giả tu theo những pháp môn
khác, duy trọng về tự lực, lập tâm trường cữu, quan
niệm mỗi đời cứ tiến tu, dù đời này không được
giải thoát, trong những kiếp sau cũng sẽ thành đạo.
Nhưng có một điều cần để ý, là liệu đời sau sẽ được
bảo đảm chắc chắn cho ta tiếp tục tu nữa chăng?
Bởi khi chưa là bậc đắc đạo, lúc chuyển sanh tất
THÍCH NỮ MINH TÂM 260
phải hôn mê, dễ quên tâm nguyện tu hành kiếp
trước. Nơi cảnh trần duyên tiến đạo thì ít, duyên
thoái đạo lại nhiều. Biết bao vị xuất gia lúc chuyển
sanh không thể tiến tu, như các sự tích đã lược trần.
4. Đời mạt pháp, người tu có mấy ai ngộ đạo? Ngộ
đạo không phải là dễ. Như thuở xưa, Hương Lâm
thiền sư dụng tử công phu trong bốn mươi năm mới
dung luyện thành một khối. Ngài Trường Khánh
Nhàn ngồi rách mười mấy chiếc bồ đoàn mới được
thấy tánh bản lai. Người đời nay, trừ một vài vị
Thánh nhơn ứng thân thị hiện để làm mô phạm
cho quần chúng, ngoài ra các vị khác tu thiền, chỉ
tạm được thân tâm an tỉnh hoặc thấy thiện cảnh
giới là cùng! Dù đã ngộ đạo, khi chuyển sanh vẫn
còn có thể bị chướng nạn như những điều đã kể
trên. Đường sanh tử có nhiều nguy hiểm đáng e
ngại với kẻ chưa đắc đạo là thế. Cho nên nếu bảo
không sợ sanh tử, đó là chỉ lối suy tư của người
thiển cận mà thôi.
Hơn nữa, hiện tại chánh pháp đã lần lần ẩn diệt.
Đã có nhiều nơi chùa chiền bị hủy phá, kinh sách
bị thiêu đốt, tăng ni phải hoàn tục, hàng thiện tín
không được tu. Dù cho ngày kia có được phục hồi,
cũng phải bị biến thể và tiêu hao một phần lớn.
Mong chuyển sanh để tiếp tục tu hành với một nền
đạo suy tàn, thiếu bậc cao tăng dìu dắt, lấy đâu làm
duyên tốt tiến đạo để giải thoát trong tương lai?
Cho nên muốn bảo đảm tâm Bồ Đề không bị thoái
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 261
thất, phải tu Tịnh độ. Dù tu các môn khác cũng
nên kiêm niệm Phật phát nguyện vãng sanh về Cực
Lạc.
Đây là lời khuyến tấn chung của các bậc tiên đức,
như các ngài: Liên Trì, Ngẫu Ích, Ấn Quang, Kiên
Mật.
5. Yếu chỉ của môn Tịnh độ là Tín, Nguyện, Hạnh.
Muốn vào cửa pháp này, trước tiên hành giả phải tin
cõi Cực Lạc có thực, và đức A Di Đà luôn luôn hộ
niệm, sẵn sàng tiếp dẫn chúng sanh nào quy kính,
niệm sáu chữ hồng danh kêu gọi đến Ngài. Lòng
tin như thế gọi là Tín. Sau khi đã có lòng tin, hành
giả phải phát tâm chơn thiết cầu thoát ly cõi Ta-bà
đầy khổ lụy chướng duyên, mong muốn sanh về
miền Cực Lạc an vui, sự thanh tịnh trang nghiêm
vô lượng, để tu tiến hoàn thành mục đích tự độ độ
tha. Đó gọi là Nguyện. Và khi đã phát nguyện như
thế, lại cần phải thiết thực xưng niệm danh hiệu
đức A Di Đà cho đến trình độ tâm Phật tương ưng,
để được tiếp dẫn. Đây gọi là Hạnh. Ví như người đi
xa phải cụ bị chăn mùng thuốc men, thức ăn mặc,
và tiền bạc, để có đủ sự cần dùng khi lên đường.
Người tu Tịnh độ cũng thế, thiếu lòng tin không
thể phát Nguyện. Có Tín, Nguyện mà chẳng thực
hành, tức tu phần Hạnh, chỉ là Tín, Nguyện suông.
Và nếu Hạnh đầy đủ mà thiếu sót Tín, Nguyện thì
sự thực hành đó lạc lõng, không có tiêu chuẩn,
đường lối. Cho nên Tín, Nguyện, Hạnh là tư lương
THÍCH NỮ MINH TÂM 262
của kẻ đi đường xa về Cực Lạc. Đối với sự vãng
sanh, ba điều này có tánh cách liên đới nhau, thiếu
một, tất không thành tựu.
6. Chúng ta nên biết tu các pháp môn khác chỉ
hoàn toàn nương nơi tự lực, cho nên phải khó.
Riêng đường lối Tịnh độ có hai năng lực, đó là tự
tâm lực và Phật tiếp dẫn lực, nên sự thành công
rất dễ. Ví như một người chân yếu, muốn tự mình
lên tận đỉnh núi cao là điều rất khó. Nhưng nếu
kẻ ấy được một vị đại lực sĩ khoác cánh tay phăng
phăng đưa bước tiến lên, thì kết quả đăng phong
nào có khó chi! Về môn Tịnh độ cũng thế, khi ta
chuyên tâm niệm Phật tức là lúc tâm lực phát triển.
Niệm đến một lòng không loạn, là lúc tâm lực hoàn
toàn hiện bày. Đang khi ấy nghiệp lực bị hàng phục
không còn làm chướng ngại, lại được thêm Phật
lực tiếp dẫn nên tuy nghiệp chưa trừ dứt, mà được
vãng sanh. Khi sanh về Tây phương rồi, sống lâu
vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, sự không thoái
chuyển cho đến khi thành Phật là một điều hiển
nhiên dễ hiểu.
7. Về vấn đề tự lực tha lực, nếu như hiểu môn Tịnh
độ chỉ hoàn toàn nương nơi tha lực là lầm. Người
niệm Phật phải đem hết tự lực dứt trừ phiền não,
trì niệm cho đến cảnh giới tâm mình, và tâm Phật
tương ứng. Từ cảnh giới đó, hiện thời hành giả
được Phật phóng quang thầm nhiếp thọ, khi mạng
chung sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Sự tiếp dẫn mới
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 263
là yếu tố chánh của tha lực, vì thế giới Cực Lạc cách
xa cõi Ta-bà này đến mười muôn ức Phật độ, còn
không phải sức thần thông đạo lực tầm thường có
thể đến được, huống nữa là phàm phu! Vì thế cần
phải nhờ tha lực tức thần lực của Phật hoặc chư
thánh tiếp dẫn. Ví như một học sinh, tự mình biết
gắng hết sức chuyên học, dĩ nhiên là điều đáng quý.
Nếu trên sự chuyên học ấy, lại được vị giáo sư giỏi
kèm theo chỉ dạy, tất mức học vấn càng cao thâm,
kết quả thi đỗ sẽ là phần bảo đảm. Trên tự lực của
hành giả, thêm tha lực của Phật gia bị tiếp dẫn cũng
lại như thế. Vậy sự kiện chính mình đã gắng hết sức
để tu, lại cầu thêm tha lực cho được kết quả mau
chóng, có phải là một điều hèn yếu lỗi lầm chăng?
Sự cao diệu của môn Tịnh độ, chính các bậc đại Bồ
Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ;
các vị Tổ Sư như Vĩnh Minh, Trí Giả, Triệt Ngộ,
Liên Trì, cho đến nhiều đấng tôn túc ở các tông,
đều khuyến nguyện vãng sanh. Chê Niệm Phật là
thấp kém chỉ để cho bậc hạ căn tu hành tức là chê
chư Bồ Tát, Tổ Sư và các vị cao đức đã nói trên. Bảo
niệm Phật là hèn yếu, chỉ nương nơi tha lực, tức là
chưa hiểu biết chi về môn Tịnh độ.
8. Điểm thiết yếu của môn Niệm Phật là phải phát
nguyện vãng sanh. Nếu nghĩ rằng: “Ta chỉ cần niệm
hồng danh muôn đức của Phật A Di Đà cho thực
nhiều, tự nhiên sẽ có vô lượng công đức; dù không
vãng sanh, công đức ấy cũng chẳng mất.” Nghĩ như
THÍCH NỮ MINH TÂM 264
thế là sai lầm nguy hiểm và thiếu trí huệ. Bởi có
hạnh mà không nguyện thì công đức ấy sẽ biến
thành phước báo ở đời sau. Đời thứ hai đã hưởng si
phước tất dễ tạo nghiệp, sang đời thứ ba nhất định
phải bị đọa lạc tam đồ, đó là điều sai lầm, nguy
hiểm! Vì thế, mới gọi tín nguyện là “huệ hạnh.”
9. Đã có đủ Tín Nguyện mà thiếu phần Hạnh, ví
như chiếc thuyền có lái không chèo, cũng không
thể vãng sanh. Có kẻ nghe nói: “Chỉ cần tín nguyện
chân thiết, khi lâm chung mười niệm hay một niệm
cũng quyết được sanh Tây phương”, thì liền nghĩ
rằng: “Nếu như thế cần chi phải vội gấp, để lúc sắp
chết niệm Phật cũng được!” Ý niệm này cũng sai
lầm, bởi vì quá xem thường hành môn Niệm Phật.
Phải biết, điểm quan yếu để vãng sanh, theo trong
kinh văn là: “Người ấy khi lâm chung lòng không
điên đảo”. Như quả lúc lâm chung lòng không điên
đảo, thì niệm mười niệm hay một niệm cũng được
vãng sanh. Nhưng ai dám bảo rằng: mình khi lâm
chung lòng không điên đảo?
Nếu lúc bình thời không tinh chuyên dụng công,
đến khi mạng chung bốn đại phân ly, sức nghiệp
dồn dập, thân tâm bị sự khổ làm cho kinh hoàng
mê loạn, sợ e một niệm cũng không thể thực hành
huống chi mười niệm? Như muốn cho khi lâm
chung có phần bảo đảm, lúc bình thời hành giả
phải tinh chuyên niệm Phật cho nhiều, và gắng tu
tập trình độ “nhứt tâm bất loạn”. Bằng chỉ đợi khi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 265
sắp chết mới niệm, trên đạo lý nói ra thì cố nhiên
suốt thông, nhưng lại e trên sự thực chẳng phải là
đơn giản. Cho nên các hành giả niệm Phật phải
gắng dụng công, đừng lơ là khinh thường sự hành
trì, mà rước lấy nỗi thất bại.
THÍCH NỮ MINH TÂM 266
Trưởng Lão Cư Sĩ Hoàng Niệm Tổ khai thị
1. Pháp môn Tịnh độ là Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn
thiện đồng quy, thích ứng khắp ba căn, thâu trọn
phàm thánh, thoát khỏi ba cõi theo chiều ngang
(hoành siêu tam giới), nhanh chóng bước lên bốn
cõi Tịnh Ðộ, cực viên, cực đốn, là pháp môn vi diệu
chẳng thể nghĩ bàn.
2. Pháp môn Trì Danh Niệm Phật rất viên mãn,
thẳng chóng, là phương tiện rốt ráo nhất siêu trực
nhập, viên đốn cùng cực. Dùng biển nguyện Nhất
Thừa của đức Di Ðà, sáu chữ hồng danh của Quả
Giác rốt ráo để làm cái tâm phát khởi cầu thành
Phật quả cho bọn chúng sanh ta. Dùng quả làm
nhân, nhân quả đồng thời; từ quả khởi tu, nên tu
cũng chính là quả. Tâm tu cầu thành Phật chính là
cái tâm thành Phật chẳng thể nghĩ bàn.
Vì vậy, sách Di Ðà Yếu Giải của Tổ Sư Ngẫu Ích viết:
“Một câu A Di Ðà Phật chính là pháp để đắc Vô
Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác của đức Bổn Sư
Thích Ca trong đời ác ngũ trược, nay đem toàn thể
Quả Giác này trao cho chúng sanh trược ác. Ðó là
cảnh giới sở hành của chư Phật, chỉ Phật với Phật
mới có thể hiểu cùng tận được nổi, chẳng phải là
điều cửu giới dùng tự lực mà tin hiểu được nổi”.
Lại viết: “Ðem pháp giới thể làm thành thân và cõi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 267
của Phật Di Ðà. Cũng do chính toàn bộ cái Thể ấy
làm thành danh hiệu Di Ðà. Vì vậy, danh hiệu Di
Ðà chính là bổn giác lý tánh của chúng sanh.”
3. Ðiểm mầu nhiệm của Tịnh tông là “chẳng lìa
Phật pháp mà hành thế pháp, chẳng bỏ thế pháp
mà chứng Phật pháp”. Bởi pháp Trì Danh thực là
tiện lợi, tu chỗ nào cũng được, nào phải ẩn cư rừng
núi, lúc nào cũng niệm được, chẳng phiền phải bế
quan, ngồi yên, chỉ cần phát khởi cái tâm rộng lớn,
một bề chuyên niệm, thậm chí mười niệm, một
niệm cũng được vãng sanh, chẳng trở ngại công
việc thế gian, vẫn như cũ mà chóng thoát sanh tử.
Lại có thể tự giác, giác tha, rộng độ chúng sanh đời
vị lai. Ðây cũng là ta, người cùng lợi, tạo phước cho
xã hội ngay trong hiện tại.
4. Pháp môn Trì Danh Niệm Phật thích hợp khắp
cả ba căn, thâu trọn phàm thánh. Trên thì như Pháp
Thân Ðại Sĩ: Văn Thù, Phổ Hiền cũng đều phát
nguyện vãng sanh. Dưới đến Ngũ Nghịch, Thập Ác
lâm chung niệm Phật cũng đều tùy nguyện vãng
sanh. Vượt ngang khỏi ba cõi, chứng trọn vẹn bốn
cõi Tịnh Ðộ, chóng sát cánh cùng Quán Âm, Thế
Chí, mới thấy phương tiện rốt ráo của pháp môn
này thực thích ứng khắp mọi căn cơ.
5. Chương Lăng Nghiêm Thế Chí Viên Thông nói:
“Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật, hiện
tiền tương lai, quyết định thấy Phật, chẳng nhọc
THÍCH NỮ MINH TÂM 268
phương tiện, tự được tâm khai” và “Chỉ cần niệm
A Di Ðà đã là vô thượng thâm diệu thiền”. Tịnh
tông cũng chính là Mật, một câu Di Ðà chính là
chơn ngôn. Hơn nữa, “tiếng và chữ chính là Thực
Tướng”. Bởi thế, trì danh chẳng khác gì trì chú,
niệm Phật chính là niệm Thực Tướng, thẳng đến
cứu cánh chẳng thể nghĩ bàn.
6. Phật pháp như chiên đàn cắt thành miếng, miếng
nào cũng thơm; như đổ thủy ngân ra, giọt thủy
ngân nào cũng tròn xoe. Nếu luận về mặt thích ứng
căn cơ thì thiên sai vạn biệt, khó dễ cả một trời một
vực, trong đại bình đẳng hiển lộ sự sai biệt đến tột
cùng. Trong ngàn muôn viên châu, chỉ có một viên
ngọc Tịnh pháp đối với kẻ phàm phu còn đầy dẫy
phiền não là dễ nghe, dễ biết, dễ tin, dễ nhập. Trong
hết thảy pháp, Tịnh Ðộ là pháp dễ hành nhất.
7. Pháp môn Tịnh Ðộ lại gồm trọn muôn pháp, đốn
siêu tam thừa, tâm này làm Phật, tâm này là Phật,
đương hạ cứu cánh. Niệm Phật chính là có công tu
đức thì Phật hiệu chính là tánh đức mới hiển. “Bằng
với chư Thánh trong một lời, vượt khỏi ba a tăng
kỳ trong một niệm”, nhiếp khắp muôn loại, hội quy
Nhất Thừa, vượt ngang khỏi tam giới, chứng trọn
bốn cõi Tịnh Ðộ. Vì thế, trong hết thảy pháp, trước
hết phải hoằng dương Tịnh Ðộ. Pháp môn vi diệu
thù thắng như vậy “chỉ có Phật với Phật mới có thể
thấu hiểu rốt ráo”.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 269
Khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa
1. Vì sao lúc bình thường chúng ta cần phải niệm
Phật? Lúc bình thường chúng ta thường niệm Phật
là để chuẩn bị cho lúc lâm chung.
Thế thì tại sao không đợi đến lúc lâm chung rồi hãy
niệm Phật? Tập quán là thói quen được huân tập
qua nhiều ngày, nhiều tháng. Cho nên, nếu bình
thường các bạn không có tập quán niệm Phật thì
đến lúc lâm chung các bạn sẽ không nhớ ra là mình
cần phải niệm Phật. Do đó, lúc bình thường mình
cần phải học niệm Phật, tu Pháp môn Tịnh Ðộ, đến
lúc lâm chung mới không hoảng hốt, luống cuống,
mà trái lại, sẽ an nhiên vãng sanh Thế Giới Cực
Lạc!
Vì sao chúng ta cần phải vãng sanh về Thế Giới
Cực Lạc? Là vì khi Ðức Phật A Di Ðà ở nhân địa
tu hành làm thầy tỳ kheo, Ngài đã từng phát bốn
mươi tám đại nguyện mà trong đó có nói rằng:
“Sau khi tôi thành Phật, nếu trong mười phương có
chúng sanh nào niệm “A-Di-Ðà Phật,” danh hiệu
của tôi, thì tôi nhất định sẽ tiếp dẫn người đó tới
thế giới của tôi, và trong tương lai, vị ấy sẽ được
thành Phật. Ở thế giới của tôi, ai ai cũng đều hóa
sanh từ hoa sen, nên thân thể của họ hoàn toàn
thanh tịnh vô nhiễm.”
THÍCH NỮ MINH TÂM 270
Bởi Ðức Phật A Di Ðà đã phát nguyện lớn như vậy,
nên tất cả chúng sanh đều nên tu Pháp môn Niệm
Phật, một Pháp môn rất hợp với căn cơ của mọi
người và cũng rất dễ tu.
2. Như thị nhân, như thị quả.
(Nhân nào thì quả nấy.)
Hễ trồng thiện nhân thì được thiện quả, gieo ác
nhân thì gặp ác báo - đó là định luật “thiên kinh
địa nghĩa,” là định luật muôn thuở của trời đất. Nếu
trồng cái nhân trọn vẹn thì khi kết trái sẽ được quả
trọn vẹn, trồng cái nhân nửa chừng hay lỡ dở thì sẽ
sanh ra quả nửa chừng hay lỡ dở. Mọi người cần
phải thực sự thấu suốt điểm này, chớ nên thờ ơ,
xem như gió thoảng qua tai!
3. Ðời Mạt Pháp, một ức người tu hành hiếm khi
có được một người đắc Ðạo; duy có tu Pháp môn
Niệm Phật là ai cũng được độ thoát.
Ý nói rằng trong số một ức người tu hành, hiếm hoi
lắm mới có một người đắc Ðạo; chỉ có Pháp môn
Niệm Phật là có thể giúp mọi người vãng sanh về
Thế Giới Cực Lạc và do đó được độ thoát. Ðặc biệt
là trong thời Mạt Pháp hiện tại, niệm Phật chính là
pháp môn hợp với căn cơ của mọi người nhất.
4. Người tu pháp môn Niệm Phật phải nhớ lúc nào
cũng chỉ niệm một câu “Nam Mô A Di Ðà Phật,”
không được ngừng nghỉ. Lúc thức niệm, ngủ cũng
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 271
niệm. Phải niệm sáu chữ hồng danh “Nam Mô A
Di Ðà Phật” sao cho chẳng thứ gì có thể làm gián
đoạn, dù dùng kiếm cũng chẳng chặt đứt được. Sức
mạnh của niệm Phật phải kiên cố vượt hẳn sự cứng
rắn của kim cương. Khi quý vị không thể dùng cách
gì để phá hoại được tiếng niệm “Nam Mô A Di Ðà
Phật” thì lúc ấy mới gọi là “Niệm Phật Tam-muội.”
5. Người ta sống cùng một nơi với nhau tức là có
duyên với nhau, do đó đừng nên sanh lòng bực bội,
tức giận, và càng không nên mắng chửi lẫn nhau,
các hành vi như thế hoàn toàn không thích hợp
và không thể chấp nhận được. Hy vọng mọi người
đều có được công phu tu dưỡng và phong độ của
bậc quân tử.
Trong Lục-độ, pháp môn Nhẫn-nhục quan trọng
bậc nhất. Mọi người phải tu tập pháp môn Nhẫn-
Nhục cho viên mãn thì mới có sự thành tựu. Người
tu đạo tuyệt đối không được “nhóm lửa trong gan,”
không được nổi giận, cần phải nhẫn nhịn mọi
chuyện, bởi có câu rằng:
Vô minh hỏa thiêu tận công đức lâm.
(Lửa vô minh (sự nóng giận) đốt sạch rừng công
đức)
Do đó các vị phải ghi nhớ điểm này bằng mọi giá!
6. Nhân Nào Quả Nấy
THÍCH NỮ MINH TÂM 272
Con người ở thế gian này gặp đủ thứ chuyện kỳ lạ,
vì sao? Ðó là vì trước kia người ta đã trót trồng cái
nhân kỳ lạ nên bây giờ mới sanh ra cái quả kỳ lạ.
Nếu các bạn chẳng gieo loại nhân ấy thì sẽ không
gặt phải loại quả này. Vì thế, nếu mọi người hiểu
được đạo lý nhân quả thì hãy:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
(Chớ làm điều ác,
Chỉ làm việc lành.)
Trên thế gian này, con người không thể nào tách rời
khỏi nhân quả; song le, vì ai nấy đều chỉ thấy quả chứ
chẳng thấy nhân nên khi quả báo xảy tới thì cuống
quýt, hoang mang, không biết nên như thế nào cho
phải nữa! Ðó đều là do khi trồng nhân, người ta đã
không biết thận trọng, đợi đến lúc phải nhận lãnh
những quả báo quái lạ thì họ mới giật mình, sửng sốt!
7. Mỗi người chúng ta đều có thể thành Phật, nhưng
thành Phật hay không là cần phải xem chúng ta có
thực tâm chịu khó dụng công hay không. Ai chịu
nghiêm chỉnh tu hành tức sẽ thành Phật, còn như
không chịu khó thì sẽ không thành Phật được. Cho
nên, ông tu thì ông được, bà tu thì bà được, còn
không tu tức sẽ không được. Chúng ta nên biết quý
tiếc thời gian, đừng để nó trôi qua một cách luống
không. Một khi nó đã qua rồi, có muốn tìm trở lại
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 273
cũng không phải là chuyện dễ đâu.
8. Vì sao niệm Phật sẽ thành Phật? Bởi từ vô lượng
kiếp trước, đức Phật A Di Ðà đã phát bốn mươi
tám đại nguyện. Và trong bốn mươi tám nguyện
đó, có một nguyện bảo rằng: “Nếu có chúng sanh
nào niệm danh hiệu ta, mà không sanh về cõi Cực
Lạc, ta thề sẽ không thành Chánh Giác.” Ðức Phật
A Di Ðà phát ra những nguyện lực nầy, nguyện
nguyện đều là nhiếp thọ chúng sanh về cõi Tây
phương Cực Lạc, nhưng chỉ với điều kiện là chúng
sanh phải có lòng tin. Tin là thực có đức Phật A Di
Ðà đang ngự tại cõi Tây phương Cực Lạc, mà phát
nguyện sẽ sanh về cõi Cực Lạc để làm đệ tử của
Ngài, và thực lòng tha thiết xưng niệm danh hiệu A
Di Ðà Phật. Chúng ta phải có tín, nguyện và hành,
một khi đầy đủ ba thứ tư lương nầy, tất sẽ sanh về
Tây phương.
Thế giới Cực Lạc không có các sự khổ, chỉ hưởng
những điều vui và không có ba đường ác: địa ngục,
ngạ quỷ, súc sanh. Mặc dù nơi đó có bạch hạc,
khổng tước, anh vũ, xá lợi, ca lăng tần già, chim
cộng mạng; nhưng những giống chim đó đều do
đức A Di Ðà vì muốn làm cho tiếng pháp được
tuyên lưu mà biến hóa ra. Ðây là do cảnh giới biến
hóa ra, chứ không phải thực có súc sanh. Cực Lạc
thế giới không có vạn khổ nung nấu, cùng muôn
điều ác, ngập tràn phiền não như cõi Ta-bà.
THÍCH NỮ MINH TÂM 274
9. Thực thà niệm là mình nhất tâm niệm Phật, và
không màng đến chuyện mình sẽ thành Phật hay
không thành Phật, cũng không màng về việc mình
sẽ vãng sanh hay không vãng sanh, mà chỉ dụng
công niệm Phật ngay tại lúc nầy. Niệm Phật, niệm
cho được chuyên nhất thành thục và nhất tâm bất
loạn. Ðến lúc sắp lâm chung, Phật A Di Ðà nhất
định sẽ tiếp dẫn chúng ta về cõi Ngài.
Thực thà niệm Phật là miệng niệm Phật, tâm cũng
niệm Phật. Ði, đứng, nằm, ngồi chúng ta cũng đều
niệm A Di Ðà Phật.
Thực thà niệm Phật tức là nhất tâm, nhất ý niệm
Phật. Lúc niệm Phật, những chuyện như ăn uống,
mặc áo, đi ngủ mình đều quên hết. Ăn cơm, mặc áo,
ngủ nghỉ vốn là chuyện thường tình, đời sống con
người không thể rời bỏ được; mỗi con người ngày
ngày đều không thể thiếu những điều đó. Nhưng
khi niệm Phật mà có thể quên được ba chuyện đó,
thế thì chúng ta không biết là mình ăn uống, mặc
áo hay ngủ nghỉ gì cả, đó mới chính là thực thà
niệm Phật.
Thực thà niệm Phật là bất luận đi đứng nằm ngồi
gì, mình cũng chỉ biết có sáu chữ hồng danh “Nam
Mô A Di Ðà Phật.” Quý vị niệm thành một chuỗi
liên miên không đứt đoạn; cho đến tiếng nước chảy
cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật,” tiếng gió
thổi cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật”, tiếng
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 275
chim kêu cũng là niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật.”
Phải niệm cho đến khi Nam Mô A Di Ðà Phật và tự
chính mình không thể tách rời nhau. Niệm cho đến
ngoài “Nam Mô A Di Ðà Phật” không còn cái tôi,
ngoài cái tôi lại cũng không còn “Nam Mô A Di Ðà
Phật”. Tiếng niệm “Nam Mô A Di Ðà Phật” của tôi
và tôi hợp thành một. Bấy giờ, gió thổi cũng không
thấu qua, mưa rơi cũng không lọt vào, thế là chúng
ta đạt được Niệm Phật Tam Muội. Nước chảy, gió
động đều là diễn thuyết diệu pháp, niệm “Nam Mô
A Di Ðà Phật,” đó chính là Thực Thà Niệm Phật.
10. Từ vô lượng kiếp đến nay, chúng ta sanh ra rồi
tử, tử rồi lại sanh, giống như con người thức rồi lại
ngủ, ngủ rồi lại thức. Tối đến đi ngủ thì giống như
người chết. Ðến sáng thức dậy, giống như người
mới sanh ra. Chẳng qua chuyện sanh tử nầy thì
ngắn ngủi, còn cuộc đời thọ mạng của chúng ta, so
ra thì dài hơn một chút.
Song, sanh tử thì cũng giống như chuyện ngủ,
thức mà thôi. Vì sao? Bởi chúng ta có lúc hồ đồ
mê muội, có lúc minh bạch sáng suốt. Minh bạch
tức là sanh, hồ đồ tức là tử. Cho nên, nếu chúng
ta có một niệm sáng suốt, và với niệm đó là mình
đang sống; hễ có một niệm mê muội, với niệm đó
là mình như đã chết. Ðó là thời gian ngắn ngủi tạm
bợ của cuộc sanh tử. Bất luận thời gian sanh tử dù
ngắn thì cũng vậy, dài cũng vậy, cũng đều là luân
chuyển trong vòng sanh tử luân hồi, nổi trôi chìm
THÍCH NỮ MINH TÂM 276
hụp chẳng yên. Có lúc chúng ta được sanh vào nhà
giàu sang phú quý, có lúc lại sanh vào nhà nghèo
hèn bần tiện. Có lúc chúng ta sanh làm trâu, làm
ngựa, làm súc sanh, có lúc làm ngạ quỷ, hoặc xuống
địa ngục. Ðây đều là những kiếp luân hồi, nổi trôi
bất định trong biển khổ sanh tử, vì sự sanh tử tuần
hoàn nầy không chấm dứt, không khi nào hết được.
11. Pháp Môn Tịnh Ðộ là pháp môn phương tiện
rất dễ dụng công. Ðường đi rất ngay thẳng, chỉ cần
chúng ta niệm Nam Mô A Di Ðà Phật với lòng tin,
lòng phát nguyện và tâm thực hành là đủ rồi.
Cho nên tín, nguyện, hành là ba món tư lương, là
ba thứ lộ phí cần thiết để chúng ta vãng sanh về Tây
phương Cực Lạc.
Thứ nhất, chúng ta phải tin Ðức Phật A Di Ðà, tin
Thế Giới Cực Lạc, tin pháp môn niệm Phật có thể
đưa chúng ta đến cõi Cực Lạc để diện kiến đức
Phật A Di Ðà. Chúng ta phải có lòng tin. Chúng ta
chỉ cần có lòng tin, còn ngoài ra không cần gì khác
cả. Kế đến là sự phát nguyện gặp đức Phật A Di Ðà,
nguyện sanh về thế giới Cực Lạc, nguyện tu pháp
môn niệm Phật. Sau khi đã phát nguyện, chúng ta
phải y chiếu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật
mà tu hành. Chúng ta phải lão thực niệm Phật, tức
là phải niệm Phật một cách thực thà. Niệm thực
nhiều rồi, chúng ta mới có thể trở thành một khối,
nhất tâm bất loạn và đạt được Niệm Phật Tam
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 277
Muội. Như thế chúng ta nhất định sẽ được sanh về
thế giới Tây phương Cực Lạc.
12. Thế giới Ta-bà là cõi muôn cảnh khổ nung nấu
vây quanh, đầy dẫy vạn điều dữ ác, cùng những
mưu tính hãm hại lẫn nhau, không có lúc nào bình
an. Ở cõi Tây phương Cực Lạc thì chẳng hề xảy ra
những chuyện phiền não hay có vấn đề gì. Bởi vậy
chúng ta phải mong cầu được sanh về cõi Cực Lạc,
được diện kiến đức Phật A Di Ðà, được hóa sanh
từ liên hoa và đạt được quả vị bất thoái chuyển.
Bất thoái chuyển là: vị bất thoái, niệm bất thoái
và hành bất thoái. Vị bất thoái là chứng được quả
vị không thoái đọa. Niệm bất thoái chuyển là tâm
niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, thời khắc nào
tâm cũng không thoái chuyển. Hành bất thoái tức
tu hành theo pháp môn nầy mình cũng không
thoái chuyển.
Khi quý vị chứng đắc được tam bất thoái nầy,
tương lai nhất định sẽ thành Phật. Một khi chúng
ta có được ba món tư lương: tín, nguyện, hành rồi,
thời rất dễ cho ta đi trên con đường diện kiến đức
Phật A Di Ðà ở cõi Cực Lạc, bởi vì đó là nguyện
lực của đức Phật A Di Ðà. Trong mười phương thế
giới, nếu có chúng sanh nào thành tâm niệm danh
hiệu Nam Mô A Di Ðà Phật, thời người đó lúc lâm
chung sẽ được đức Phật A Di Ðà đến tiếp dẫn về
cõi Phật.
THÍCH NỮ MINH TÂM 278
13. Học Phật là để hiểu rõ về tiến trình sanh tử,
rồi sau đó chúng ta tu hành hầu giải thoát sanh tử.
Chuyện sống chết nếu chưa hiểu rõ thì chúng ta
làm việc gì cũng đâu có ý nghĩa. Cho nên quý vị là
người học Phật, trước hết nên nhận rõ về vấn đề
căn bản nầy. Quý vị phải hiểu rõ sống như thế nào,
chết như thế nào, nên hiểu rõ nhiệm vụ làm người
như thế nào. Nếu quý vị hiểu rõ những nhiệm vụ
nầy rồi, tức là quý vị sẽ không hồ đồ.
14. Vì lẽ gì mà tu hành? Tu hành để thành Phật.
Thành Phật bằng cách nào? Bước đầu là “chẳng làm
điều ác, nguyện làm các việc thiện”. Bước kế tiếp là
“chuyên cần tu Giới Ðịnh Huệ, dập tắt tham sân si”.
Tiến lên bước nữa “phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ-
tát”. Vì các lẽ ấy, khi chưa thành Phật, người tu phải
chọn con đường sáng sủa quang đãng mà đi. Chớ
nên mưu đồ quanh co, tìm con đường tắt gập ghềnh,
mà bị lạc hướng. Xin hãy lưu ý! Hãy cẩn thận.
15. Người ta ở đời phải giữ lấy Chánh tâm, đừng có
mang tà tâm. Thế nào gọi là Chánh tâm? Ðó là tâm
Bồ-đề, tâm bình đẳng, tâm từ bi, tâm thương xót,
tâm bố thí, tâm hổ thẹn. Thế nào là tà tâm? Ðó là
những tâm ích kỷ, tự lợi, đố kỵ, oán hận, kiêu ngạo,
vọng tưởng. Chúng ta tu hành phải nhằm mục tiêu
trừ khử vọng tâm và giữ lấy Chân tâm, đó cũng là
nghĩa trừ tà tâm sanh Chánh tâm.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 279
Phụ lục:
Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc của Chư
Tôn Đức dành riêng cho người xuất gia
Đại Sư Liên Trì khai thị (trích trong Đạo Đức
Người Xuất Gia)
1. Có một vị Tăng hỏi: “Người xuất gia cần phải
làm việc gì?” Tôi trả lời: “Làm đạo, cầu đạo.” Ông
ta nói: “Cầu đạo căn bản nhất phải làm gì?” Tôi trả
lời: “Đức hạnh.” Ông ta nói: “Ái chà! Ngài thực là
cố chấp, người thượng căn lợi khí thì tu huệ mà vào
đạo, kẻ hạ căn độn khí thì tu phước mà thôi, cho
nên, người xuất gia chủ yếu phải cầu cho được trí
tuệ, có trí tuệ thì đầy đủ tất cả, cần đức hạnh để mà
làm gì?”.
Tôi nói: “Người xưa từng nói, đức hạnh là điều căn
bản làm người xử thế. Lại nói, người lập chí lớn,
làm đại sự cần phải tự lượng khí chất và kiến thức
của mình, huống chi diệu pháp Chánh Đẳng Giác
của nhà Phật chí cao vô thượng, há người tùy tiện
có thể tu hành thành tựu sao?
Nếu tích chứa (cất giữ) sữa Sư Tử mà không dùng
bình lọ làm bằng Lưu Ly thì đổ nát mất mà thôi;
giống như tay nâng một chiếc đỉnh nặng vạn cân,
THÍCH NỮ MINH TÂM 280
ngồi trên chiếc thuyền nhỏ, cơ hồ khó tránh khỏi
bị lật ngã mà chết đắm.
Người xuất gia ngày nay, có chút ít thông minh,
tài trí, thì đã chuyên học cách chú giải khảo cứu,
giống như những thư sinh nhà nho dốc hết sức
lực nghiên cứu điển tịch. Thông minh tài trí cao
hơn một chút nữa thì thu thập một cách máy móc
những thứ vụn vặt, tìm kiếm những lời dạy tùy cơ
thuyết pháp của chư vị đại đức tổ sư từ xưa đến
nay rồi lại cho là của mình, nắm bắt mấy thứ ấy
chỉ là kiến thức cặn bã, lông da của Tổ Sư mà cứ
cho là của mình có, quả là nắm gió bắt hình, không
có thứ gì là thực cả, ngược lại còn bị người trí chê
cười. Những người này nói chuyện, thuyết giảng
mới nghe qua, câu câu đều phảng phất giống như
lời Phật, Tổ, những bậc cao minh, nhưng khảo sát
lại hành vi của họ thì có khác chi những kẻ phàm
phu tục tử. Thời kỳ mạt pháp, những hiện tượng
bại hoại như vậy, thực tại rất là nhiều.
2. Tôi lo lắng những người tu hành rơi vào những
tình cảnh nông nổi như vừa nói trên, cho nên sưu
tập, ghi chép lại những thiện hạnh của người xưa,
trích lục những phần trọng yếu, phân thành mười
loại. Mười loại đó là gì? Viễn ly sự ô nhiễm của
thế tục mới gọi là người xuất gia. Xuất gia, điều
trước tiên phải nói đến đó là sự thanh cao, giản
dị, cho nên, điều thiện hạnh thứ nhất là Thanh
Tố (thanh cao và giản dị). Nhưng thanh cao mà
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 281
không nghiêm túc thì biến thành thành cái cao của
kẻ cuồng sĩ. Người học Phật nhất định phải thâu
nhiếp ba nghiệp thân, khẩu, ý mới có thể thành tựu,
cho nên điều thiện hạnh thứ hai là Nghiêm chính.
Hành vi nghiêm chính cần phải nương tựa lời dạy
của thầy mới có thể nắm giữ không sai lầm, người
thầy thực tại là mẫu mực mô phạm làm người, cho
nên điều thiện hạnh thứ ba là Tôn sư. Có song thân
sanh thành nuôi dưỡng ta, sau lớn khôn mới có thể
tiếp nhận những lời dạy của thầy, cho nên, quên
mất công ơn cha mẹ mà bất hiếu là vong bản! Vả
lại, giới hạnh, luật nghi tuy nhiều, nhưng điều quan
trọng vẫn là hiếu thuận, vì vậy điều thiện hạnh thứ
tư là Hiếu thân. Người trung thần bắt nguồn từ
người con hiếu, đạo lý trung hiếu phải vẹn toàn,
chỉ biết có tình thân không biết có ân quân chủ
chính là hành vi tự tư tự lợi; trong sách có ghi:
“một người có phúc, vạn dân đều nhờ”, có một bậc
quân chủ đức độ nhiếp chính, thì quốc thái dân an,
chúng ta mới có thể xuất gia học đạo, thanh nhàn
tự tại đi khắp núi sông rừng suối, ân huệ của vua
thực là lớn thay! Vì vậy, điều thiện hạnh thứ năm
là Trung quân. Nhưng đạo trung quân là giao tiếp
qua lại với những giới lãnh đạo, cấp trên, thiếu sự
quan tâm đối với những người cấp dưới, ân huệ
của họ đã bố thí cho chúng ta cũng là không đúng,
nhất định cần phải đoái hoài đến những người bần
cùng khốn khó, vì vậy, điều thiện hạnh thứ sáu là
Từ vật. Từ và ái rất gần nhau, người xuất gia nếu
THÍCH NỮ MINH TÂM 282
nảy sinh ái nhiễm thì là một chướng ngại lớn cho
việc tu hành, vì vậy, điều thiện hạnh thứ bảy là
Cao thượng. Nhưng cao thượng không phải là cô
phương tự phụ, xa rời chúng sanh, một mặt là kỳ
vọng người tu hành trước siêng năng trau dồi bản
thân, công phu cao sâu rồi tự nhiên ánh sáng tài
học, đức hạnh tỏa ra bốn phương, cho nên, điều
thiện hạnh thứ tám là Trì trọng (làm việc giữ gìn
cẩn thận). Là cẩn thận mà ẩn cư, thanh nhàn vô
sự chẳng qua cũng là việc bất đắc dĩ, cho nên điều
thiện hạnh thứ chín là Gian khổ. Có người sợ lao
nhọc mà vô công, đó không phải gian khổ trác
tuyệt, đạo tâm đã thoái lui, kỳ thực nhân quả cảm
ứng là một sợi lông mảy bụi không sai, vì vậy điều
thiện hạnh thứ mười là Cảm ứng.
Mười điều thiện hạnh trên đã tu tập đầy đủ rồi,
đức hạnh mới hoàn thiện, mới là nhân tài kham
nhận tu tập Phật pháp, giống như một khi đất đai
đã được cải thiện, phì nhiêu mầu mỡ, sau đó có thể
trồng cây được tươi tốt; đất tâm một khi đã tinh
thuần rồi, sau mới thọ trì, tin hiểu những lời dạy
đến lẽ xác thực, đạo lớn Bồ đề chí cao vô thượng
mới có thể kỳ vọng thành tựu. Nếu không như lời
trên đây thì chỉ là một phường phàm phu bỉ lậu mà
thôi!
Đạo làm người mà không làm được thì làm sao
có thể học làm Phật? Dù thầy là người lợi căn lợi
khí, rất mực tài trí thông minh đi nữa, chỉ có hại
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 283
mà thôi. Trí lực càng cao chướng ngại càng lớn, thì
tu hành càng khó thành tựu, người không có đức
hạnh làm sao có thể làm người xuất gia tu hành?!”
3. Người xuất gia cần phải chú ý! Lên cao phải
tự biết mình nhỏ bé, chớ nên tự đại, không nên
vọng nói Bát nhã, lạm giải tánh không, tự tìm lấy
tai họa. Ngàn vạn lần không nên say đắm nơi một
chút danh lợi, hư vinh. Tốt hơn hết là tu dưỡng
phẩm chất đạo đức của mình, dốc hết tấm lòng,
tinh thần, sức lực học đạo, một phen sống chết,
lâu ngày tự nhiên tâm khai ngộ đạt, sau đó mới có
khả năng thể hội chân chính, không bỏ vạn hạnh
nhưng cũng không bị nhiễm trần; suốt ngày không
chấp Không, nhưng cũng không chấp Có, đó chính
là con Đường Trung Đạo, Đệ Nhất Nghĩa Đế, Chân
Không Diệu Hữu. Đây mới chính là trí tuệ chân
chính của nhà Phật! Chỉ nguyện xin người xuất gia
hãy một lần để tâm tham cứu.
4. Tôi nhớ: Thời nhà Tống (420-479), tại Hồng Châu
Vân Cư, Thiền sư Hoằng Giác Đạo Ưng huấn giới đồ
chúng rằng: “Các ông đều đã là người xuất gia, giống
như những phạm tù trong ngục thất được phóng
thích ra, từ đây trở đi phải hướng đến đạo lớn liễu
sanh thoát tử, xa hẳn trầm luân vạn kiếp, đây là vận
may của các ông, nhân đây, phải chế ngự dục vọng,
thường sống tri túc, không nên tham cầu những hư
vinh thế tục, phải nên nhẫn chịu đói khát, lập chí học
đạo, tu tập pháp vô vi, chơn như tịch chiếu, siêng năng
THÍCH NỮ MINH TÂM 284
nghe, giữ Phật pháp, hun đúc tài năng, phẩm hạnh tốt
dần lên, thực khó có thể quý hơn, tu hành Phật pháp
phải chín lần chết một lần sống, vào nơi nước sôi lửa
bỏng, cũng không một khắc vứt bỏ”.
5. Đời nhà Tống (420-479), ở Đông Kinh, có Thiền
sư Từ Thọ Huệ Lâm Hoài Thâm.
Có một hôm, sau khi đốt hương tham thiền, diễn
ra một cuộc tham vấn nhỏ, Sư khai thị đồ chúng:
“Quý thầy hãy ngàn vạn lần quên đi danh và lợi, lấy sự
đạm bạc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm thiểu rồi,
hướng ý nghĩ về đạo thanh tịnh tự nhiên phát sinh
thêm lớn. Giống như Hòa thượng Biển Đam Sơn,
một đời nhặt trái rừng ăn cho đỡ đói. Đại sư Vĩnh
Gia không ăn rau cải trồng bằng sự cày cuốc, bởi vì
cày cuốc sợ thương hại đến những sinh vật nhỏ bé ở
dưới đất bùn, và kính trọng sự lao khổ cực nhọc của
người nông phu đã bỏ giọt mồ hôi xuống đất cấy cày
hạt gạo; bậc cao Tăng như Hòa thượng Huệ Hưu, 30
năm chỉ mang một đôi giày, lúc đi đường đất không
sỏi đá gai góc thì quải dép lên vai mà đi chân. Các
thầy ngày nay cơm áo không thiếu, mỗi thứ hưởng
thụ đầy đủ, chưa đói đã ăn, chưa lạnh đã thêm áo,
thân thể chưa một hạt bụi bẩn đã tắm gội, chưa đến
giờ ngủ đã ngủ, còn như con đường sanh tử thì chưa
nắm được rõ ràng, tâm cảnh ô nhiễm chưa rửa sạch,
nghiệp chướng chưa đoạn, thì dù phước báo như trên
đã kể sao dám hưởng thụ?”
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 285
6. Hóa duyên trái pháp
Trong những thanh quy của Tăng đoàn chùa Vân
Thê, có một điều như vầy: “Người đi quyên tiền,
hóa duyên trái lẽ, trục xuất khỏi sơn môn”.
Có một thầy nói:
“Không cần phải cấm điều này, cấm thì cơ hội gieo
trồng phước điền của chúng sanh sẽ giảm ít đi. Bởi
vì, tuy người phạm tội hóa duyên trái lẽ, vi phạm
nhân quả, nhưng có thể làm cho chúng sanh phá
bỏ được tánh xan tham, xả bỏ tài vật thì cũng được
lợi ích và công đức. Ngày xưa, khi Phật còn tại thế,
người xuất gia mượn danh nghĩa của Phật để mưu
sinh đức Phật đã bao giờ vì những người này chế
một điều cấm chưa?”.
Tôi trả lời:
“Lời nói của thầy cố nhiên không sai, phát tâm tốt,
nhưng thầy chỉ biết có một mà không biết có hai.
Hóa duyên trái lẽ, cái nhân giả dối thì quả mờ mịt,
người bố thí biết được, vì đây mà thoái mất đạo tâm,
về sau không bố thí nữa, sao có thể khiến người ta
phá xan tham được? Lúc Phật còn tại thế, có các đệ
tử đi du hóa ở các phương xa trở về, đi qua một thôn
lạc, người dân ở trong vùng ấy thấy các thầy Tỷ-kheo
này từ xa vội vàng đóng cửa lại hết. Các thầy mới hỏi
một số người gần đó vì sao lại có tình trạng sợ hãi
các thầy sa môn đến vậy, người ta trả lời nguyên do
THÍCH NỮ MINH TÂM 286
là vì người ta sợ các thầy hóa duyên trái lẽ! Trước
đây có các thầy Tỷ-kheo xấu đi hóa duyên trái lẽ,
cho nên họ sợ quý thầy ở đây cũng giống như vậy. Sự
việc xảy ra như vậy quý thầy sau khi trở về bẩm báo
với đức Phật, đức Phật nghe rồi cho gọi các thầy Tỷ-
kheo hóa duyên trái lẽ đến trách mắng, vì sao có thể
nói đối với việc này Phật không lập giới cấm!? Phải
thận trọng, đừng đi hóa duyên trái lẽ”.
7. Chư vị đại đức thuở xưa có nói: “Người tốt nhất
chính là người xuất gia”; trong dân gian cũng có lưu
truyền một câu như thế này: “Một người con xuất
gia chín dòng được sanh thiên”. Những câu nói như
vậy đều là tán thán, khen ngợi người xuất gia, nhưng
chưa nói xác định rõ ràng chỗ lợi ích của người xuất
gia. Suy cho cùng thì lợi ích của người xuất gia là ở
chỗ nào? Thực khó nói, người xuất gia không cần
phải cấy cày, không đi dệt vải mà vẫn có cơm ăn, có
áo mặc, đó là lợi ích của người xuất gia sao? Hoặc
giả nói, không cần phải mua nhà, không cần phải
thuê phòng, nhưng vẫn có chỗ cư trú, đó là lợi ích
của người xuất gia? Hoặc nói, quốc vương đại thần
ủng hộ, tín đồ thí chủ cung kính, trên không bị quan
lại bắt đi lính, dưới không bị thứ dân quấy nhiễu mà
lại được tự nhiên vui vẻ, thanh nhàn, phóng khoáng,
đó là lợi ích của người xuất gia?
Người xưa có bài kệ nói vầy:
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 287
“Hạt gạo của thí chủ
Lớn tựa núi Tu di
Nếu đạo lớn không thành
Mang lông đội sừng trả.”
Lại nói: “Một ngày kia Diêm Vương tính toán cơm
tiền với anh, xem anh lấy gì bồi thường?”. Xem đây
đủ thấy, người xuất gia, trái lại nấp kín bên trong
một cây đại tai họa, lại còn nói là lợi ích sao? Cái
gọi là lợi ích của xuất gia chính là có thể thoát được
phiền não, dập tắt vô minh, chứng được vô sanh
pháp nhẫn, liễu thoát sanh tử, đây mới là việc làm
tối thắng, cao quý hơn hết, trong loài trời, người,
hơn nữa, cha mẹ dòng họ cũng có thể nhờ đây mà
ân triêm đức hạnh. Nếu không như lời này, dù có
giàu có đến thiên vàng vạn bạc, cho đến được vinh
hiển làm quốc sư cho bảy đời hoàng đế đi nữa (như
Thanh Lương quốc sư) cũng chẳng có lợi ích gì để
nói! Thực tại tôi rất lo sợ vạn phần, sợ phạm vào
lỗi lầm lớn này, đồng thời nói với các bạn đồng tu
cùng nhau cảnh giác, lo sợ mà tu.
8. Thế tục có ngạn ngữ: “Người đời không nên thấy
lỗi lầm của người xuất gia, thấy hoặc nói sẽ có tội”.
Nhưng Khổng Phu Tử là thánh nhân, ông còn vui
mừng khi người khác biết lỗi lầm của ông, chỉ trích
ông. Tử Lộ là một người hiền, cũng vui mừng khi
người khác nói lỗi lầm của ông. Là người xuất gia
THÍCH NỮ MINH TÂM 288
lại sợ người khác biết lỗi lầm của mình mà không
muốn nghe hay sao? Cần biết rằng, không nên chỉ
thấy một mặt lỗi lầm của người xuất gia, đây là đối
với người tại gia mà nói. Người xuất gia dựa vào
câu nói nầy làm xằng làm bậy không một chút sợ
sệt. Như vậy, câu nói này trở thành lương dược của
người tại gia mà độc dược của người xuất gia, thực
đáng buồn thay.
9. Người xưa có nói một câu: “Muốn giàu có tiền
bạc cho mình, muốn làm lớn mạnh thế lực cho
mình tất phải hao tổn tinh thần của mình; muốn
làm lớn mạnh danh vọng của mình có thể sẽ tạo
thành họa sát thân mình!”
10. Người xuất gia đời này giữ giới tu phước, nếu
như chưa minh tâm kiến tánh, nguyện lực lại nhỏ
bé, mong manh, lại không cầu sanh Tịnh độ, người
này kiếp sau sẽ được quả báo giàu sang phú quý rất
nhiều. Nhưng cũng có nhiều người bị phú quý vinh
hoa mê hoặc, thậm chí tạo nghiệp ác, đọa lạc trong
ba cõi. Có một vị Hòa thượng xua tay không tin
những lời tôi nói. Thấy vậy, tôi nói tiếp, khỏi phải
bàn luận đến kiếp sau, trước mắt tôi đã thấy có một
người xuất gia, sống ở trong một am tranh, phía Bắc
dãy Phong Sơn, kiên trì tu tập, tinh tấn, gian khổ
mười năm. Sau đó, thiện nam tín nữ biết được, rất
ngưỡng mộ, tôn sùng, giúp ông ta xây dựng một tịnh
xá riêng bên ngoài, mời ông ta đến ở đó, cúng dường
lâu ngày, cuối cùng, ông ta bị chìm đắm trong danh
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 289
văn lợi dưỡng, một chút đạo hạnh tu tập khổ cực
trước đây cũng hoàn toàn tiêu rụi, hiện đời đã thấy
rõ ràng cần gì phải nói đến kiếp sau? Vị Hòa thượng
kia hỏi tôi nói vị Tăng đó là người nào? Tôi trả lời:
“Chính là lão huynh đấy chứ ai!”. Lão Hòa thượng
nghe xong im lặng không nói năng gì.
Có người xuất gia nhìn thấy người ta phú quý
hiển đạt, sanh tâm ước ao, thèm muốn, hy vọng
có thể được như họ; cũng có người xuất gia xem
thấy người ta hiển đạt, phú quý sinh tâm chán ghét,
dường như không đếm xỉa đến. Cả hai hạng người
xuất gia này đều không đúng. Vì sao? Bởi vì bạn
chỉ biết ước ao giống như người ta mà không biết
rằng kiếp trước người ta là người xuất gia tu hành
khổ hạnh, làm phước giống như bạn bây giờ, việc
gì phải ước ao!? Và, bạn chỉ biết chán ghét người
ta, mà không biết rằng sự tu tập khổ hạnh của bạn
bây giờ, quả báo đời sau sẽ được làm quan, có địa
vị danh lợi như người ta! Thế thì vì sao phải chán
ghét? Nếu như chưa thoát ly được sanh tử thì vẫn
còn trao đổi, luân hồi hỗ tương cho nhau, giống
như đào giếng thì có nước. Nghĩ đến sự sống chết
không dừng này, có thể không khiến cho lòng ớn
lạnh sao? Vì vậy, phải nhất tâm hướng thượng,
dũng mãnh tinh tấn tu hành, không để một phút
một giây lãng phí, ra khỏi tam giới, liễu thoát sanh
tử, đâu có rãnh công phu để đi mơ ước hay chán
ghét người ta?
THÍCH NỮ MINH TÂM 290
Hòa Thượng Tuyên Hóa khai thị
1. Nếu quý vị có thể không tranh, không tham,
không cầu, không ích kỷ, không tự lợi, và không nói
dối, thì đó chính là Chánh Pháp đang trụ thế vậy.
2. Nếu quý vị không buông xả được ái dục, thì dầu
cho quý vị xuất gia tám vạn bốn ngàn đại kiếp, quý
vị cũng chỉ phí thời gian trong Đạo Phật và tạo
nghiệp chướng với mỗi bữa ăn mình thọ dụng.
3. Phật Pháp chưa diệt, Tăng tự diệt,
Đạo đức cần tu, chẳng ai tu,
Thành thực chân chánh, bị chế giễu,
Gian ngoa xảo trá, được tán dương.
Thế giới Ngũ Trược hiếm thanh tịnh,
Chúng sanh say Ba Độc chẳng tỉnh,
Ân cần nhắn nhủ Tăng Ni trẻ:
Chấn hưng Phật giáo cậy Tỳ Kheo
4. Người xuất gia dù ở bất cứ đâu cũng đều phải
giữ vững Giới Luật. Khi chưa dứt được sanh tử,
chưa đoạn được tâm dâm dục, thì chúng ta không
lúc nào được biếng nhác, buông lung, phóng túng.
Đức Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng:
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 291
“Một ngày đã hết, mạng cũng giảm dần,
Như cá cạn nước, thử hỏi vui gì?
Đại chúng! Hãy siêng tinh tấn, như cứu đầu cháy,
Nên nhớ Vô thường, chớ mặc buông lung!”
5. Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng từng
giây từng phút. Hãy nhớ rằng:
Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.
Thời gian quý báu như thế, cho nên chúng ta
không được lãng phí. Mỗi người đều phải dụng
công tu hành, phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong
có được sự thành tựu. Phàm là kẻ dụng công tu
hành thì không có thời giờ để nói chuyện thị phi,
chẳng có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm
gián đoạn sự tu hành. Về điểm này, tôi hy vọng mọi
người hãy chú ý.
Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì
tôi cảm thấy vô cùng đau xót. Như thế chẳng phải
rằng họ đã không thực hành thệ nguyện mà họ đã
lập lúc ban đầu, khi mới xuất gia tu hành hay sao?
Những kẻ xuất gia mà “tâm nghĩ một đằng, miệng
nói một nẻo” thì có xứng đáng là Tăng Bảo hay
không? Tôi mong rằng các vị đều biết tự trọng.
6. Trong nghiệp sinh tử, tình ái và dục vọng là
THÍCH NỮ MINH TÂM 292
gốc chướng Ðạo. Là người tu Ðạo, bất luận đối
với người hoặc đồ vật, nếu sinh ra lòng ái dục thì
sẽ chướng ngại sự tu hành, làm mình không phát
triển được. Nói một cách rõ ràng hơn, ái dục là
sinh tử, sinh tử chính là ái dục. Ái dục là nguồn
gốc của sinh tử. Nếu không phá vỡ tình ái dục vọng
vô minh, thì mình sẽ không thể ra khỏi biển lớn
sinh tử. Làm sao để thoát sinh tử? Rất giản dị, chỉ
cần “đoạn dục khử ái,” nghĩa là dứt dục vọng, trừ ái
tình, chẳng cách nào khác hơn.
Người tu Ðạo đừng nên suy nghĩ về tình ái dâm dục,
càng không nên có hành vi yêu đương. Ðối với bất
cứ người nào, không nên sinh lòng yêu đương; hễ có
lòng yêu đương thì gốc khổ không thể tránh được; vì
có lòng yêu đương thì khó thoát vòng sinh tử.
7. Sự tai hại nhất trên đời là ái tình sâu đậm.
Việc cao thượng nhất là tu đạo thanh tịnh.
8. Người xuất gia nhất định phải có một nền tảng
tu hành cho vững vàng. Nền tảng vững vàng là gì?
Tức là nghiêm thủ giới luật. Người xuất gia phải
cần học thuộc lòng “Tứ Phần Luật” tức là Luật
Sa-di, Luật Tỳ-kheo, Luật Tỳ-kheo-ni, Kinh Phạm
Võng, v.v... rồi nghiên cứu tường tận, thì mới đủ tư
cách làm người xuất gia.
Nếu nền tảng không vững vàng, suốt ngày hết nghĩ
đến tiền bạc lại nghĩ đến sắc dục thì “thân tuy xuất
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 293
gia, nhưng tâm không nhập đạo.” Như thế thì xa
cách đạo trăm ngàn dặm. Những người xuất gia
nầy ở trong Phật-giáo làm chuyện bại hoại, không
thể thừa nhận họ là người xuất gia đặng.
Người xuất gia không được đi phan duyên cái nầy, đi
phan duyên cái khác, cũng không được đơn độc đi
ở một ngôi chùa nhỏ, kêu cư sĩ lại hộ pháp. Ðơn độc
tiếp thọ đồ cúng dường, hành vi như vậy không hợp
với quy luật của đức Phật chế định. Nếu như mình có
những hành vi nầy, thì phải mau mau sửa đổi, bởi vì:
Thí chủ nhất lạp mễ, trọng nhược Tu Di Sơn.
Thực liễu bất tu Ðạo, bì mao đãi giác hoàn.
Nghĩa là:
Hạt gạo thí chủ cho, nặng bằng núi Tu Di.
Ăn xong chẳng tu Ðạo, đeo sừng, đội lông trả.
9. Mục đích xuất gia là liễu sinh thoát tử, không
phải vì hưởng thụ. Nên khi đã đi tu rồi cần gì tham
lam vật chất hưởng thụ? Có lòng tham hưởng thụ
thì cần gì xuất gia? Tôi chủ trương rằng bất luận ai
muốn đơn độc trụ một ngôi chùa nhỏ để tìm cách
hưởng thụ, thì chi bằng hoàn tục cho rồi. Bởi vì
sao? Bởi vì hoàn tục so với đơn độc trụ một chùa
nhỏ tốt hơn nhiều, không tạo nên những tội nghiệp
vừa kể. Ðiểm đó hy vọng quý-vị đại chúng chú ý.
10. “Phàm là người xuất gia thích hưởng thụ, không
THÍCH NỮ MINH TÂM 294
có sự tu trì, thì bất quá chỉ đội lốt thầy tu thôi.” Hy
vọng các đạo hữu khuyến khích lẫn nhau, nhắc nhở
lẫn nhau, đừng cố tình nói dối, đừng làm chuyện
như “Bịt tai mà ăn cắp chuông.” Lấy vải thưa che
mắt thánh.
11. Khi đã xuất gia lại không chân chính tu hành thì
thực là cô phụ tấm lòng của chư Phật, chư Bồ Tát
và các Tổ Sư! Nếu một ngày mà lòng tham không
trừ, lòng tranh không dẹp, lòng cầu danh lợi chẳng
phá bỏ, lòng ích kỷ tự lợi cứ tăng trưởng, thì còn
mặt mũi nào đối diện với Phật, với cha mẹ, tổ tiên
được? Đừng nên nghĩ tới thân mình, mà phải vì kẻ
khác. Phải tinh tấn tu hành; đừng uổng phí thời
giờ. Con quỷ Vô thường không biết chừng nào lại;
khi nó tới thì dù mình muốn sống thêm vài ngày
cũng không xong:
“Mạc đãi lão lai phương học Đạo,
Cô phần đô thị thiếu niên nhân.”
Dịch là:
“Đừng chờ già lão mới chịu tu,
Mộ phần đầy dẫy bọn trẻ măng.”
12. Hiện tại chúng ta theo Pháp Phật tu hành nên
có rất nhiều người không đồng ý, cho rằng quá sức
khổ, lại chịu thiệt thòi quá lớn đi. Những kẻ đó
không phát lòng chân thành, không sinh nguyện
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 295
chân thực. Nhiều vị xuất gia rồi thì chỉ biết ăn rồi
chờ chết, không lý hội được vấn đề sinh tử của
mình, rồi hết sức tùy tiện bê bối mặc cho ngày
tháng trôi qua, khi con quỷ Vô thường tới thì không
có chỗ nào để bám víu cả, sống hay chết đều chẳng
được tự do.
Những người xuất gia như vậy thực lãng phí thời
gian. Đừng nên nghĩ rằng mình theo Phật giáo thì
tha hồ tùy tiện tạo nghiệp. Nếu nghĩ vậy thì mình
là những kẻ tội nhân.
13. Người xuất gia cần phải hộ trì Chánh Pháp,
hành trì Chánh Pháp, lúc nào cũng phải theo
khuôn khổ nề nếp, không nên phạm giới, dù hết
sức nhỏ. Nếu mình không cẩn thận thì rất dễ tạo
nghiệp; cho nên nói: “Địa ngục môn tiền Tăng Đạo
đa.” (Cửa địa ngục đầy ắp kẻ tu hành.)
Người xuất gia nếu không giữ giới luật, theo quy
củ, thì nhất định sẽ đọa địa ngục, chẳng có ngoại lệ
gì đâu! Bởi vì mình đã biết rõ mà còn cố phạm thì
tội tăng gấp ba lần người thường. Đây không phải
là chuyện nói đùa đâu; đừng nghĩ rằng Phật, Bồ
Tát không thấy chuyện mình làm, rồi mình muốn
làm gì thì làm. Trong lòng các vị nghĩ chuyện gì thì
trời đều biết cả, hà huống là Phật và Bồ Tát! Đừng
cho rằng Phật và Bồ Tát không có mắt rồi mình
mặc tình làm loạn, làm càn. Đó giống như là “yếm
nhĩ đạo linh,” bịt tai đánh chuông ăn cắp rồi chạy
THÍCH NỮ MINH TÂM 296
trốn mà cứ tưởng người khác không nghe. Thực là
tự mình lừa dối chính mình, sau cùng sẽ chịu quả
báo, lúc đó có hối hận thì đã muộn.
14. Xuất gia đều là tự ý, không phải bắt buộc. Nếu
họ không muốn thì cũng không ai ép buộc họ cả,
bởi vì ép buộc không phải là Pháp cứu cánh; cho
nên nói: Cưỡng trích chi qua bất điềm. (Dưa mà
hái một cách miễn cưỡng thì không ngọt.)
Nếu người không tự ý xuất gia thì dù bạn có cho
họ đi tu cuối cùng họ cũng hoàn tục. Có kẻ chân
chính muốn xuất gia, nhưng sau thời gian lâu dài
còn thoái tâm hoàn tục, huống gì kẻ không thực
tâm đi tu. Đó là những trường hợp có thể xảy ra.
Xuất gia là chuyện quang minh lỗi lạc, là việc của
bậc đại trượng phu, không phải chuyện của kẻ đạo
tặc, hèn hạ nhỏ mọn hay việc làm của kẻ tiểu nhân.
Làm người xuất gia thì phải rõ bổn phận của người
xuất gia, nhận thức rõ ràng địa vị và tông chỉ kẻ
tu hành, đừng a dua với đám đông giống như kẻ
thế tục vậy. Đừng có người ta nói dạ thì mình dạ,
người ta nói đi thì mình đi, tự mình không có tông
chỉ, không nhận thức rõ ràng.
15. Người xuất gia ăn đồ càng dở càng tốt, không
có dinh dưỡng thì lại càng tốt nữa. Thế nên đối với
vấn đề ăn uống đừng có quá coi trọng. Ăn là để duy
trì mạng sống mà hành Đạo; không cần phải có
quá nhiều chất dinh dưỡng nhưng cũng không ăn
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 297
những đồ hư hoại, khiến cho cơ thể sinh bệnh; đó
là thực hành Trung Đạo.
16. Học Phật Pháp tức là vì mình mà học, không
phải là vì Sư Phụ hay là vì người khác mà học. Các
vị hãy ghi nhớ, đừng để cho thời gian trôi qua vô
ích, rồi sau đó có hối tiếc thì đã trễ.
17. Sau khi xuất gia rồi, nếu còn cầu danh, cầu lợi
thì đó là chuyện thực chẳng ra gì. Chúng ta khi đã
xuất gia thì phải nhận chân tu hành một cách thiết
thực, phải tài bồi cái gốc phước huệ của mình. Tu
phước thì phải làm lợi ích người khác, tu huệ thì
phải nghiên cứu kinh điển. Thường làm chuyện lợi
ích thì mới sinh được phước đức.
18. Người tu Đạo cần có cơ sở, nền móng cho vững chắc.
Muốn liễu sanh tử thì phải có công phu. Công phu tức là
gì? Tức là cách vật, chánh tâm, thành ý, tu thân.
Muốn chánh tâm trước hết phải hiểu cách vật. Thế
nào gọi là cách vật? Cách vật là trừ tự kỷ dục vọng;
bỏ đi lòng tư dục, bỏ đi tạp niệm, bỏ đi lòng ham
muốn vật chất. Vật dục thì bao quát tiền tài, sắc
dục, ăn uống, ngủ nghỉ, những thứ đó mình phải
cần diệt trừ tuyệt, sau đó mới chánh tâm.
Chánh tâm tức là không ích kỷ; có tâm ích kỷ thì
tâm mình không chánh được. Thành ý tức là mình
luôn như vậy; mình tin Phật thì tin hoài, tin vĩnh
viễn; đem tâm chân thực ra tin tưởng, đem tâm hết
THÍCH NỮ MINH TÂM 298
sức kiên định ra mà tin tưởng, không chút hồ nghi,
sợ sẽ chịu thiệt thòi, thua lỗ.
Tu thân nghĩa là chuyện gì hại đến thân thì mình
không làm. Lúc nào cũng phải cẩn thận, giữ gìn,
bởi: Thân thể, phát, phu, thọ chi phụ mẫu, Bất cảm
hủy thương, Hiếu chi thủy dã. (Thân thể, tóc, da
là từ cha mẹ mà ra, do vậy không dám hủy hoại,
thương tổn. Đó chính là khởi đầu của đạo hiếu vậy.
19. Tu hành thì phải có công phu “nội Thánh, ngoại
Vương” (trong lòng như bậc thánh, bên ngoài biểu
hiện như bậc vua). Nội Thánh tức là cách vật, chính
tâm, thành ý. Tu thân là công tác của ngoại Vương,
tức là phải lập công: Cần lao công khổ tác, Bất phạ
hoạt kế đa. (Cần cù, lao khổ làm đủ chuyện, Không
sợ ít hay nhiều.) Chuyện gì mình cũng làm cả; không
thể nói rằng: “Tôi phải ngồi Thiền hàng ngày mới là
tu hành, tôi không muốn làm chuyện khác”; bởi kẻ
biết tu thì trong lúc động cũng tu hành được!
Tu hành nghĩa là tâm lúc nào cũng bình tịnh, không
phiền não, không vô minh, không cống cao ngã mạn,
không ganh tị, chướng ngại. Những lỗi lầm trên
không trừ, thì dù có ngồi Thiền tám vạn đại kiếp, tánh
nóng giận, ganh tị, chướng ngại cũng còn trơ trơ và
cũng không thể tu thành công được. Cho nên tu hành
cần phải chân chính trừ bỏ tập khí lỗi lầm, kiểm điểm
bản thân; đó mới là thái độ của người dụng công.
20. Người tu Đạo hằng ngày phải phấn chấn nỗ lực;
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 299
tinh tấn tức là tu hành! Căn bịnh lớn nhất khi tu là tâm
nổi lên phiền não. Nếu không có phiền não thì mình sẽ
tự tại, giải thoát, thì mình chính là kẻ đại tu hành. Quan
trọng nhất là bất cứ ở trong tình trạng nào, mình cũng
phải hết sức định tĩnh, không sinh phiền não; đó là chỗ
đắc lực của sự tu hành. Không sinh phiền não thì chân
chánh trí huệ mới xuất hiện được.
21. Nếu không kiểm soát bản thân thì người xuất gia
thực không có oai nghi; sở học đều là giả. Cho nên người
quân tử thì không cẩu thả, cười đùa bỡn cợt, không
khinh cử vọng động. Người tu Đạo cần phải vượt trên
người quân tử. Người học Phật thì ngày nào cũng tu như
vậy, không thể có một chút lười biếng, an phận.
22. Mỗi người đều có nhân quả báo ứng của riêng
mình. Hễ tạo nghiệp gì thì chịu quả báo đó. Không
những chỉ có loài người là phải chịu quả báo mà tất
cả chúng sanh cũng vậy; tạo nghiệp từ xưa, ngày
nay gặt quả. Điều đó không dễ hiểu đâu. Ví như bị
đọa làm súc sinh hoặc ở nơi ác đạo thì rất khó khôi
phục lại thân người; nên nói rằng:
Nhất thất nhân thân,
Vạn kiếp nan phục.
Nghĩa là:
Thân người mất rồi,
Vạn kiếp khó tìm.
THÍCH NỮ MINH TÂM 300
23. Kẻ tu hành không được đi rao bán, quảng cáo
hay tuyên truyền sự nghiệp tu hành của bản thân.
Khi rao bán, quảng cáo chuyện tu của mình thì có
thể bị ma quỷ phá rối!
Hôm nay tôi muốn nói với các vị một phương pháp tu
hành chơn thực. Bí quyết của sự tu hành gồm có ba chữ:
a. Chân: nghĩa là không hư ngụy, không giả trá;
làm chuyện gì cũng hết sức chơn thực.
b. Thành: nghĩa là thành tâm, hết sức cung kính,
hết sức thành khẩn, không lười biếng giải đãi,
không làm qua loa lấy lệ.
c. Hằng: nghĩa là luôn luôn kiên định, hằng thường
bất biến, không thay đổi.
Phàm mỗi hành động, mỗi lời nói đều phải có tâm
chân, thành, hằng. Làm việc gì mình cũng có ba cái
tâm đó thì tương lai nhất định sẽ thành tựu.
24. Nếu bản thân là kẻ xuất gia thì mình phải
quyết tâm giữ gìn cái tông chỉ là dù gặp hoạn nạn
khó khăn tới đâu cũng không bao giờ thay đổi lập
trường. Mặc ai tới phá hoại, mình đừng để bị dao
động. Chỉ cần nhận thức rõ ràng việc mình làm,
con đường mình đi là quang minh chính đại, rồi cứ
dũng mãnh mà tiến bước.
25. Ở thời đại này, người xuất gia nhất định cần phải
xuất chúng, đặc biệt siêu việt, có bối cảnh giáo dục
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 301
ưu tú, thì mới có thể trở thành bậc Pháp Khí được.
Nếu là kẻ không rành chữ nghĩa, cả ngày chỉ biết đi
tìm cách móc nối, thủ đoạn, xin xỏ, lợi dụng; hoặc
là kẻ giả làm sư để kiếm ăn qua ngày, hoặc chỉ làm
những chuyện hoàn toàn không cao thượng, không
thanh tịnh, chuyên môn phá giới, thì kẻ đó chỉ làm ô
nhục cửa Phật mà thôi, làm sao khiến cho Phật giáo
ngày càng xán lạn được? Làm sao khiến cho người ta
sinh lòng cung kính Tam Bảo được?
26. Tôi không thu nhận đồ đệ một cách cẩu thả.
Trước khi thâu nhận ai, tôi hết sức cẩn thận, cho
họ trải qua một thời gian dài để quan sát tư tưởng,
ngôn hạnh của họ như thế nào rồi mới thâu nhận,
thế phát cho xuất gia. Song ở thời Mạt Pháp này, tà
ma lộng hành nên tôi chẳng thể không sửa đổi cho
triệt để và tích cực đề cao phẩm cách đạo đức và
học vấn của người xuất gia. Phàm là kẻ theo tôi xuất
gia thì cần phải “đầu đội trời, chân đạp đất,” văn võ
toàn tài, là long tượng trong cửa Phật. Thậm chí
nếu lấy con mắt tục mà nhìn, thì phải là bậc nhân
tài trác tuyệt, phi phàm. Những kẻ theo tôi xuất gia
đã lâu cũng cần học thuộc Kinh Lăng Nghiêm và
phải có thể sẵn sàng giảng giải nếu cần. Như vậy thì
mới thực sự đảm nhận trách nhiệm hoằng dương
Chánh Pháp, tiếp nối sứ mệnh của Phật, và cũng
không uổng phí sự nghiệp xuất gia của mình!
27. Nếu muốn đừng bị cảnh giới làm dao động thì
đầu tiên mình phải trì giới. Giới là căn bản của tất
THÍCH NỮ MINH TÂM 302
cả các Định; Định là căn bản của Trí Huệ; Huệ là
căn bản để thành Phật. Nếu muốn thành Phật thì
nhất định phải tu Giới, Định, Huệ. Tu mà không
tương hợp với Giới, Định, Huệ tức là mình tìm cầu
pháp ở bên ngoài tâm, tức là đã “hướng ngoại truy
cầu”! Khi có Giới lực thì mình sẽ đắc Định lực; có
định lực thì mình sẽ có Huệ lực, vì chúng là tương
sinh. Giới sinh Định, Định phát Huệ, Huệ thành
Phật; thiếu một thì chẳng thành được.
28. Câu “nhân địa bất chân, quả thọ khổ” này rất có
ý nghĩa; bởi vì bất luận chuyện gì ta làm, hãy làm
chân thực. Nếu không chân thực, chuyên dùng thủ
đoạn mánh khóe lừa bịp kẻ khác, thì cũng như bịt
tai mà ăn cắp chuông, tự mình lừa mình thôi!
Vô luận là người xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni hay
tại gia Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, hoặc Lạt Ma, bất luận
làm gì nếu có tâm lừa người thì tương lai nhất định
sẽ rớt xuống địa ngục. Ở đời mà không chân thực
thì sẽ chiêu cảm quả báo quanh co, rắc rối, tương
lai sẽ chịu đủ điều khổ.
Ở bất cứ đâu, trong mọi thời khắc, ta phải chú ý
đến nhân, quả. Đừng làm điều sai trái với luật nhân
quả. Nếu ta biết rõ luật lệ mà còn cố phạm thì nhất
định sẽ thọ lãnh quả báo rất nghiêm trọng. Cho
nên các vị phải để ý, đừng làm chuyện sai trái với
nhân, quả!
29. “Phật giáo đồ nhược bất trì giới tức Mạt Pháp”;
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 303
nghĩa là nếu tín đồ Phật giáo không trì giới thì tức
là Mạt Pháp.
“Phật giáo đồ” có nghĩa là Tăng sĩ hay người xuất
gia. Phật giảng Pháp, Tăng theo Pháp tu hành rồi
truyền cho người khác. Tăng nhất định phải trì
Giới, không trì Giới thì đó là Mạt Pháp; nên nói:
“Nếu Phật giáo đồ không trì giới tức là Mạt Pháp.”
Pháp nhờ vào Tăng mà truyền đạt, song phải cần
lấy Giới làm gốc; Giới là nền tảng để thành Phật.
Nền tảng này cũng giống như cái móng khi xây
nhà. Bây giờ ta xây móng để dựng nhà Phật Pháp,
thì chắc chắn phải lấy trì Giới làm bước khởi đầu.
30. Kẻ xuất gia tu Đạo cần phải phát nguyện. Phát
nguyện là để tinh tấn tu hành. Phát nguyện là để
cảnh giác chính mình, sửa đổi điều ác mà làm điều
thiện. Tu Đạo mà không phát nguyện thì cũng như
là hoa nở mà không kết trái vậy, đó là điều không
thể được.
Nếu đã phát nguyện rồi tốt nhất cần phải hàng
ngày lặp lại, nói qua một lần nữa, bởi vì “ôn cố nhi
tri tân”! Phải nhớ được nguyện mình từng phát là
nguyện gì, mình cần phải làm điều gì, thì lúc đó
nguyện mình đã phát mới không phải là lời hứa
suông. Mình mới không tự lừa mình mà dối người,
đồng thời không phải phát nguyện rồi quên mất đi.
Phát nguyện cần phải thành tâm, thành ý, không
thể có hành vi dối trá hoặc tham cầu hư danh được.
THÍCH NỮ MINH TÂM 304
Đó là điểm mà tôi hy vọng các vị chú ý. Phật A Di
Đà do phát 48 đại nguyện nên mới thành tựu được
Thế giới Cực Lạc và nhiếp thọ được tất cả chúng
sinh ly khổ đắc lạc, liễu sinh thoát tử. Chúng ta cần
phải y theo Ngài và chư Phật cùng Bồ Tát trong quá
khứ, mà mau mau phát nguyện. Có phát nguyện
thì mới có thể thành được Phật quả.
31. Người học Phật nhất định phải nhận thức rõ ràng
định luật nhân quả báo ứng; không thể tùy tiện tạo ác
nghiệp, trồng ác nhân, cũng không được làm sai đạo
lý nhân quả. Vì thế phải mười phần cẩn thận, nếu chờ
đến lúc thọ quả báo thì hối hận đã muộn rồi.
32. Các vị phải hết sức chân thực mà tu hành, không
được tự quảng cáo cho mình, muốn người ta phải
ngẩng đầu ngước lên nhìn mình kính nể; bởi vì đó
là điều hết sức sai lầm, làm mất tư cách của người
xuất gia! Tục ngữ có câu:
“Hữu xạ tự nhiên hương,
Hà nhu đại phong dương?”
Nghĩa là:
“Có xạ hương thì tự nhiên có mùi thơm,
Cần gì đợi có gió lớn thổi mới thơm?”
33. Các vị phải lấy sự phục hưng Phật giáo làm trách
nhiệm của mình, không sợ gian khổ, không sợ khó
khăn. Hãy vì Phật giáo mà nỗ lực, tình nguyện hiến
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 305
thân cho Đạo mà chẳng có ý mưu đồ, tính toán.
Nếu ai cũng được như vậy thì Phật giáo làm sao
không có ngày phục hưng được? Chúng ta phải giữ
gìn tôn chỉ: “Lỗi của kẻ khác là lỗi của chính mình.”
Phải có được tư tưởng như vậy thì mới không sinh
ra tâm phân biệt, chia rẽ, thì mới không có cái nhìn
sai lệch.
34. Kẻ học Phật Pháp nhất định phải diệt sạch tâm
ích kỷ, tự lợi, đừng để bị tổn hại đến định lực của
mình, mà phải chuyển thành tâm “vì Pháp quên
mình,” chỉ cần được nghe Phật Pháp thì dù phải bố
thí thân thể, tánh mạng cũng không mảy may nuối
tiếc hay hối hận.
35. Các vị càng muốn dụng công tu hành thì càng
chịu nhiều khảo nghiệm để coi thử các vị có nhận
thức được hay không. Người muốn tu Đạo nhất
định trước hết phải trừ lòng tham, chẳng còn lòng
sân, và không có phan duyên.
Không phan duyên nói chung là không dùng thủ
đoạn để thu nhận tiền bạc hay đồ vật của kẻ khác.
Các vị nhất định phải trừ sạch lòng tham lam, sân
giận, và ngu si; bởi vì nếu còn ba thứ độc này thì
còn sinh ra đủ thứ phiền não.
36. Người xuất gia tu Đạo lúc nào cũng cần giữ gìn
thân tâm, không thể tùy tiện phóng dật, bê bối! Ở
trong đạo tràng tu hành một ngày mà không tiến
bộ tức là đã thoái lui, cho nên nói rằng:
THÍCH NỮ MINH TÂM 306
“Nhất nhật vô quá khả cải, Nhất nhật vô công khả
tạo!”
Nghĩa là: “Một ngày có lỗi mà không sửa là một
ngày chẳng tạo thêm công đức! Người xuất gia cần
nghiêm giữ bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi:
Hành như phong,
Tọa như chung,
Lập như tùng,
Ngọa như cung.
Nghĩa là:
Đi như gió thoảng,
Ngồi như chuông đồng,
Đứng thẳng như cây tùng,
Nằm như cung giương ra.
Khi đi, thì phải giống như làn gió thổi nhẹ đến nỗi
mặt nước trên sông không dấy động; đừng đi như
cơn gió lốc vô cùng hung hãn làm cho mặt biển
sóng dậy như cồn, dâng cao trăm trượng. Khi ngồi,
thì phải ngồi như chuông, hết sức vững vàng; đừng
ngồi giống như cái chuông đang lắc, hết lắc qua
phải lại lắc qua trái, không bao giờ ngừng cả. Khi
đứng, đầu và thân phải cho thẳng và nghiêm chỉnh,
giống như cây tùng vậy. Cây tùng thì mọc thẳng,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 307
cao, đơn độc, không dựa vào cái gì khác. Khi nằm,
thì phải nằm ở thế “kiết tường,” tức là hông bên
mặt ở phía dưới, cũng giống như cây cung trong
tư thế được giương ra. Người xuất gia phải đặc biệt
chú ý đến bốn oai nghi này.
Người tu hành không nên bạ đâu nói đó, mà phải
hết sức thận trọng, ôn tồn. Đến chỗ nào thì cũng
phải làm gương cho kẻ khác, không thể cười đùa,
nói càn nói bậy, vì như thế tức là không tôn trọng
quy củ của đạo tràng. Người khác thấy được hành vi
như vậy sẽ phê bình là những người xuất gia không
thông hiểu quy củ. Với thái độ như vậy thì làm sao
tu Đạo, làm sao thành tựu được Đạo nghiệp?
37. Đã phát tâm tu Đạo thì mình cần phải giữ tâm
chuyên nhất, đặc biệt tiếc nuối thời gian, cho nên
nói rằng: “Nhất thốn quang âm nhất thốn kim,
Thốn kim nan mãi thốn quang âm.”(Một phút thời
gian, một tấc vàng, Vàng sao mua đặng phút thời
gian?)
Lại nói rằng: “Thất lạc thốn kim dung dị đắc, Quang
âm quá khứ nan tái tầm.” (Tấc vàng mất đi dễ kiếm
lại, Thời gian qua mất khó lòng tìm!)
Các vị cần phải nuối tiếc thời gian! Phàm là người
tu Đạo thì phải tranh thủ thời gian, đừng để lãng
phí. Biết đâu trong một phút nào, một giây nào đó,
các vị có thể có cơ hội khai ngộ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 308
38. “Xuất gia” là xuất Tam Giới gia (Dục giới, Sắc
giới và Vô sắc giới), và cũng là xuất Thế tục gia.
“Thế tục gia” là nhà của người đời; ra khỏi nhà
người đời rồi tức là mình không còn quan niệm
như người đời nữa.
“Xuất gia” cũng có nghĩa là xuất Phiền não gia.
Chúng ta, mỗi người trên thế gian này, đều đang
ở trong cái nhà phiền não. Khi nóng giận thì mình
cảm thấy rằng ăn bất cứ của ngon vật lạ nào cũng
đều không có mùi vị gì cả, cho nên khi mình xuất
gia là muốn xuất ra khỏi nhà phiền não.
“Xuất gia” còn có nghĩa là xuất Vô minh gia. “Vô
minh” tức là không có hiểu biết rõ ràng, chuyện
gì cũng không thấu suốt, làm chuyện gì cũng điên
đảo cả. Do đó phải ra khỏi cái nhà vô minh.
Xuất gia cũng do nhiều động cơ khác nhau. Như
ở Trung Hoa ngày nay, có nhiều người vì lớn tuổi
rồi mà không có thân thích để nhờ cậy, cho nên họ
xuất gia để về sau có người săn sóc cho dễ dàng. Có
kẻ thì vì hoàn cảnh bức bách nên xuất gia; hoặc là
vì phạm pháp, giết người nên muốn đổi danh đổi
tánh, đổi mặt đổi mày, làm người xuất gia để luật
pháp không tầm nã nữa. Có kẻ thì vì khó nuôi nên
gia đình quyết định đem cho nhà chùa. Đó là ba
loại người xuất gia, có tu hành được hay không thì
chưa biết; có thể họ tu được, mà cũng có thể họ
chẳng tu được!
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 309
Lại có kẻ chân chánh vì vấn đề sinh tử, phát tâm
Bồ đề, mà xuất gia. Hạng xuất gia như vậy nếu họ
không bao giờ thoái tâm thì đúng là chân chánh tu
hành. Họ vì đau khổ nghĩ đến vấn đề sinh tử mà
phát tâm đại Bồ đề, y chiếu theo lời Phật dạy mà
tu hành.
Cho nên xuất gia có nhiều tâm trạng và hoàn cảnh
khác nhau. Song, sau khi xuất gia rồi thì đừng có
phạm lỗi lầm mà phải trở nên thanh tịnh, xa lìa
mọi tội lỗi, khôi phục lại tâm thanh tịnh bản hữu
của chính mình, vĩnh viễn ra khỏi nhà Tam Giới, ra
khỏi nhà Phiền não, ra khỏi nhà Vô minh, ra khỏi
nhà Thế tục.
39. Người tu hành không nên có tâm phan duyên,
mà cần có tâm thanh tịnh, chẳng tham chẳng
nhiễm. Tôi thường nói với các bạn rằng phàm là kẻ
xuất gia tu hành, một lòng cầu Ðạo, thì cái gì cũng
không cần, cái gì cũng không tham, dù là một ngọn
cỏ cũng không được tùy tiện đòi lấy và cũng không
được tùy tiện mang cho người khác. Có câu:
Nhất giới bất dĩ dữ nhân,
Nhất giới bất dĩ thủ chư nhân.
(Một hạt cải cũng không được biếu cho người,
Một hạt cải cũng không được lấy của người.)
Ðối với “duyên,” cần phải phân biệt cho rõ ràng và
THÍCH NỮ MINH TÂM 310
phải làm cho cái “duyên” này trở nên thanh tịnh,
không bị nhiễm ô. Duyên thanh tịnh tức là không
có tâm tham lam; duyên nhiễm ô tức là có tâm
tham lam. Người xuất gia có thể nhận cúng dường;
song le, không được ham đồ cúng dường, không
được mưu đồ việc cúng dường, như thế thì mới là
đệ tử chân chính của Phật. Nên có câu:
Quân tử mưu Ðạo bất mưu thực.
(Người quân tử mưu cầu Ðạo, không mưu cầu ăn
uống.)
Nay có thể đổi câu ấy lại là:
Quân tử an bần, Ðạt nhân tri mạng.
(Người quân tử thì bằng lòng với cái nghèo,
Kẻ thông đạt chuyện đời thì biết an phận.)
Người xuất gia cần phải hiểu rằng trước khi Ðạo
nghiệp chưa thành tựu thì không được mắc nợ.
Nếu mắc nợ thì sẽ bị ràng buộc, không được giải
thoát. Nhất là đối với những thứ duyên không
thanh tịnh, chúng có thể hại các bạn đến “rút chân
không ra,” không đạt được sự tự tại. Thế nhưng, đa
số người xuất gia lại thích được cúng dường, thích
nhận quà cáp của kẻ khác. Hễ bị duyên bất tịnh
ràng buộc thì không dễ gì thoát ra khỏi Tam Giới.
“Sợi dây” duyên nhiễm ô ấy quấn chặt lấy các bạn,
không cách gì tháo gỡ được. Vì vậy, để tránh mọi
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 311
rắc rối, các bạn đừng nên tham luyến những thứ
không chân thực, không thanh tịnh!
40. Người xuất gia được phân làm bảy hạng:
a) Hạng người xuất gia thứ nhất thì “một thân nhẹ
lâng lâng,” cái gì cũng không có cả.
Nhất trần bất nhiễm, vạn duyên giai không.
(Một hạt bụi cũng chẳng dính, mọi nhân duyên
đều là không.)
b) Hạng người xuất gia thứ nhì thì tay xách cái đãy
bằng vải; trong đãy đựng những gì thì người ngoài
không thể biết được.
c) Hạng người xuất gia thứ ba thì vai vác quang
gánh. Vì không thể buông bỏ cho nên đi đâu họ
cũng gồng gánh bộ tài sản theo cả. Tuy phải gánh
nặng (nhiều khi nặng tới cả trăm cân), nhưng họ
cam lòng.
d) Hạng người xuất gia thứ tư thì mang đồ đạc theo
bằng xe hơi.
e) Hạng người xuất gia thứ năm thì mang đồ đạc
theo bằng xe lửa.
f) Hạng người xuất gia thứ sáu thì mang đồ đạc
theo bằng tàu thủy.
g) Hạng người xuất gia thứ bảy thì mang đồ đạc
bằng máy bay.
THÍCH NỮ MINH TÂM 312
Ðó là những khuyết điểm chung mà người xuất gia
thường hay mắc phải.
41. Người tu hành phải thực tình, phải thực sự
tu, phải bỏ công sức ra chớ không thể nhởn nhơ.
Phàm kẻ tu hành mà chỉ muốn người khác trông
thấy mình tu, chính là bỏ gốc cầu ngọn. Quên
cái gốc rễ để chạy theo cái ngọn là chuyện không
được. Tu hành là để cho chính mình thấy, trông
thấy được mình tức là hồi quang phản chiếu. Nhớ
kỹ! Hồi quang phản chiếu, chớ không phải phóng
quang ngoại chiếu. Nếu phóng quang để chiếu ra
ngoài, tức là chỉ muốn cho người khác nhận thấy,
để họ bảo rằng mình là người thực sự tu. Phải biết
rằng khi đã phóng quang ra ngoài thì chẳng còn gì
nữa, bởi hào quang của mình chẳng có bao nhiêu,
một khi phóng ra là hết. Mình chưa tu hành đến
độ viên mãn, quang độ yếu ớt, chờ khi nào tu đến
viên mãn, lúc đó phóng quang cũng chưa muộn.
Bây giờ đang trong giai đoạn tu hành, không nên
phóng quang.
42. Xuất gia là một việc khó. Xá kể chi việc cắt tóc
cạo râu, đắp áo cà-sa, nói vài câu “cơ phong,” mở
miệng ra nói về Phật về Pháp, nói đạo lý trong kinh
sách, hoặc ngồi yên nhắm mắt tham thiền. Những
hành vi đó có thể gọi là mặc áo Phật, ăn cơm Phật,
biểu diễn vai trò của kẻ xuất gia. Nếu quả như lời
nói đi đôi với việc làm, một lòng tha thiết từ bi đối
đãi với người với vật, trước mặt sau lưng lúc nào
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 313
cũng vậy không sai trái đạo, được như vậy mới
đúng là kẻ xuất gia.
43. Xuất gia có ba loại:
Thân xuất gia, tâm không xuất gia.
Tâm xuất gia, thân chưa xuất gia.
Thân tâm đều xuất gia.
Trong số xuất gia cũng ba loại trình độ, tùy theo
công phu tu trì mà đoán định.
Xuất thế tục: Ðây là nói chung về các đệ tử xuất gia;
các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni.
Xuất phiền não vô minh: Ðây là nói về cảnh giới tu
trì của quý vị đã xuất gia, tự mình tu tự mình biết
chứng tới đâu, có điều xuyên qua tác phong nói,
nín, động, tĩnh của mình, người ngoài cũng có thể
biết được. Một cá nhân xuất gia tu tập thì mỗi ngày
tập khí càng giảm thiểu, sự biểu hiện của tham, sân,
si cũng bớt dần, như lời cổ đức nói: “Từng phần
phá vô minh, từng phần pháp thân chứng.” Quý vị
này đều tỏ ra cố gắng xông ra khỏi vô minh phiền
não và hướng tới con đường Bồ-đề.
Xuất khỏi tam giới: Ðây là mục tiêu tối hậu của
người xuất gia và cũng là của hết thảy bẩy chúng
trên đường tu học Phật đạo. Mục tiêu đạt được
chính là thời điểm đoạn trừ sanh tử một cách vĩnh
viễn, rồi sau đó do nguyện lực của mình mà tự do
THÍCH NỮ MINH TÂM 314
đi về trong chín pháp giới để độ hóa chúng sanh,
đạt được cái an lạc đệ nhất của người xuất gia.
44. Là người xuất gia thì nhất định phải biết tự
trọng, không nên coi mình quá thấp hèn, nhưng
cũng không được cống cao ngã mạn; lúc nào cũng
phản tỉnh và tự kiểm thảo-hễ có làm lỗi lầm gì
thì sửa đổi ngay, nếu không có lỗi gì thì phải tiến
tu; tuyệt đối không được cẩu thả hoặc phóng dật,
buông lung.
45. Người xuất gia thì từng giây từng phút, lúc nào
cũng phải tự kiểm soát chính mình-mỗi lời nói,
mỗi việc làm đều phải luôn luôn đúng theo Giới-
luật. Các vị phải nghiêm chỉnh, không được phóng
túng, vô kỷ luật; không được muốn gì thì làm nấy.
Có câu:
Vô quy củ, bất năng thành phương viên.
(Không có khuôn phép thì chẳng thể thành vuông
tròn.)
Do đó khi Ðức Phật sắp nhập Niết-bàn, Ngài dạy
Tôn-giả A-Nan: “Hãy lấy Giới-luật làm Thầy!” Ðó
chính là điều mà người xuất gia phải ghi lòng tạc
dạ.
46. Khi ăn cơm, chúng ta phải nhớ Tam Niệm, Ngũ
Quán; bởi:
Thí chủ nhất lạp mễ,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 315
Trọng như Tu Di sơn,
Thực liễu bất tu hành,
Bì mao đái giác hoàn.
(Một hạt gạo thí chủ,
Nặng bằng núi Tu Di,
Ăn rồi chẳng tu trì,
Mang lông đội sừng trả.)
Thực đáng sợ và nguy hiểm như vậy đấy các vị ạ!
Ðó gọi là “dưới tấm áo cà sa vuột mất thân người”
vậy! Cho nên, người xuất gia dù ở bất cứ nơi đâu
cũng đều phải nghiêm trì, giữ vững Giới-luật-khi
chưa dứt được sinh tử, chưa đoạn được tâm dâm
dục, thì không lúc nào được biếng nhác, buông
lung, phóng túng.
47. Người xuất gia chúng ta phải biết quý trọng
từng giây từng phút; hãy nhớ rằng:
“Một tấc thời gian: một tấc vàng,
Tấc vàng khó chuộc tấc thời gian.”
Thời giờ quý báu như thế nên chúng ta không được
lãng phí. Mỗi người đều phải dụng công tu hành,
phải tinh tấn hơn nữa, thì mới mong có được sự
thành tựu. Phàm là người dụng công tu hành thì
không có thời giờ để nói chuyện thị phi, không
THÍCH NỮ MINH TÂM 316
có thời giờ để làm những việc lăng xăng, làm gián
đoạn sự tu hành. Về điểm này, tôi hy vọng mọi
người hãy chú ý.
Khi tôi thấy những người không chịu tu hành thì
tôi cảm thấy vô cùng đau xót; bởi như thế chẳng
phải là họ đã không thực hành các thệ nguyện mà
họ đã lập lúc ban đầu, khi họ mới xuất gia tu hành
hay sao? Những kẻ xuất gia mà “tâm nghĩ một
đàng, miệng nói một nẻo” thì có xứng đáng là Tăng
Bảo hay không? Mong rằng các vị đều biết tự trọng!
48. Người tu hành phải tu làm sao để dẹp bỏ
“cái tôi” (ngã tướng). Nếu không còn “cái tôi” thì
chuyện gì cũng nhẫn nại, cam chịu được. Cảnh
giới có tới, quý vị cũng chẳng động tâm. Hãy xem
mình như hư không. Cảnh vừa lòng tới, cũng cứ
tu hành. Cảnh nghịch ý tới, cũng cứ tu hành. Nói
cách khác, gặp cảnh vừa lòng cũng đừng sinh tâm
hoan hỷ vui mừng, gặp cảnh trái ý cũng chớ lo âu
sầu muộn. Bất luận là thuận hay nghịch, đều phải
nhận thức cho rõ ràng. Nếu quý vị có thể “như như
bất động” (không khởi tình cảm, vọng tưởng hay
chấp trước), thì sẽ không bị cảnh giới làm cho lay
chuyển. Nếu lúc nào cũng “liễu liễu thường minh”
(sáng suốt chiếu soi nhân quả mọi sự), thì sẽ xoay
chuyển được cảnh giới.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 317
Thiền Sư Lai Quả khai thị
1. Quy củ là pháp cương lớn nhất của thế gian và
xuất thế gian. Quy là sợi dây mực. Củ là cây thước
thợ (ê ke). Ngay thẳng chẳng dùng dây mực thì
không có tiêu chuẩn. Vuông tròn chẳng dùng thước
thợ thì không có khuôn phép. Cho nên, người xưa
nói: “Chẳng y theo quy củ chẳng thành vuông tròn”.
Người muốn trụ Tòng Lâm chẳng y theo quy củ thì
chẳng biết đến đây là vì việc gì? Phải biết thân tâm
của chúng ta là do nghiệp chướng tạo thành, tập
khí huân thành, nên trôi lăn trong lục đạo, cái tên
“quy củ” còn chẳng được nghe huống là biết có quy
củ thực. Vì không biết quy củ nên tùy tâm phóng
túng, mặc ý muốn làm, trước không có ngăn cấm,
sau không có cản trở, tham dục hoành hành, theo
nghiệp thọ báo, trồi lên hụp xuống không biết đến
lúc nào mới thôi.
Hôm nay may mắn xuất gia, lại gặp quy củ. Quy
củ là nền tảng của Tòng Lâm, là chỗ nương tựa của
tăng chúng, là bước đầu của học đạo, là thềm bậc
của thánh hiền, là thầy lành của xuất thế, là người
dẫn đường của sự thành Phật, là bè quý báu của biển
khổ, là đèn sáng của đêm tối, là của báu cho người
nghèo, là thuốc hay cho người bệnh, là cứu tinh của
loài người, là khuôn mẫu của người học. Dầu cho
miệng Phật ngợi khen cũng không hết được.
THÍCH NỮ MINH TÂM 318
Nên biết quy củ cùng nghiệp chướng như băng tuyết
với than lửa chẳng đồng một lò, phép tắc cùng tập
khí như nước với lửa chẳng chung một bình. Nghiệp
chướng hiện thì quy củ mất. Tập khí khởi thì phép
tắt ẩn. Nghiệp chướng và tập khí khởi lên thì phải
luân hồi trong lục đạo. Thử hỏi người học đạo giữ
quy củ là phải hay theo nghiệp chướng là phải?
2. Tập khí lớn lao, lấy gì để trừ khử? Xét kỹ ắt phải
nhờ đến thanh quy của thiền đường, phép tắc vi tế
hằng ngày, sự giúp đỡ của đánh hét, sự dẫn dắt của
thiện tri thức, năm ba mươi năm chẳng xong, nếu
kiếp này chưa sạch thì kiếp sau tiếp tục. Dẫu cho
tập khí lớn bao nhiêu, chỉ cần lập chí bền chắc thì
rốt cuộc ắt phải trừ xong.
3. Tòng Lâm là chỗ của thập phương tụ hội, là đất
an cư của thánh hiền, đại chúng ở chung nương tựa
lẫn nhau, một ngôn một hạnh đều có căn cứ, một
đồng tiền một hột gạo đều không lãng phí. Người
xưa nói: “Tòng Lâm sanh ra lịch đại Tổ Sư, Tòng
Lâm sanh ra cổ kim Thánh Hiền”. Cho nên phải tự
kính Tòng Lâm như cõi Phật, quý tiếc vật thường
trụ như vàng ngọc. Tự hận đến trễ, chẳng được trụ
sớm hơn. Thà nguyện đời đời kiếp kiếp lấy Tòng
Lâm làm nhà ở, lấy quy củ làm sở hành, ngoài ra
chùa tư am thất, thâm sơn cùng cốc, quan phòng
tịnh thất, quyết chẳng tạm trụ. Xin người trụ Tòng
Lâm đọc thuộc đoạn này rồi ghi nhớ để có thể đề
phòng sự lầm lạc ở mai sau.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 319
4. Người xuất gia thọ giới cụ túc, cầu thầy hỏi đạo, ở
Tòng Lâm, giữ quy củ, tuân lời dạy, bị đánh hương
bản, chịu cay đắng, chịu nhẫn nhục, lập đạo niệm,
thỉnh pháp yếu, dụng công phu, được chân nghi,
khai đại ngộ. Từ một phàm phu thành một thánh
nhân, trong đó trải qua muôn phần rèn luyện khó
khăn, may mắn được ba điều quý báu cũng không
dễ gì biết:
a. Con người lấy tăng làm quý báu.
b. Tòng Lâm lấy quy củ làm quý báu.
c. Triệt ngộ lấy dụng công tham thiền làm quý báu.
Cũng do có ba điều quý báu này mà không thể
chẳng dũng mãnh phát tâm. Bằng không thì thành
kẻ phàm ngu. Một điều quý báu chẳng được thì chư
tăng làm sao tồn tại chốn Tòng Lâm.
5. Chư Tăng chúng ta đối với các việc trái phép,
phá giới, chẳng nên làm, việc lợi người giúp vật
phải nên làm. Náo loạn Tòng Lâm, trái phạm với
chức sự chẳng nên làm. Tham thiền sâu, phát khổ
hạnh phải nên làm. Điều chẳng nên làm phải răn
chừa, điều nên làm phải cố gắng thì đối với hai chữ
TINH TẤN mới chẳng dùng lầm.
Đạo niệm của người tu hành, thế nào là tinh tấn?
Thế nào là biếng nhác? Người dụng tâm niệm niệm
không gián đoạn, chẳng cho có một mảy may tạp
niệm, thực hành lâu ngày như thế gọi là chân tinh
THÍCH NỮ MINH TÂM 320
tấn. Nếu ban đầu đạo niệm kiên cố tinh nhuệ, kế
đó lười biếng lơi lỏng, rồi đến gián đoạn thôi nghỉ,
đây gọi là biếng nhác. Nếu tinh mà chuyên tâm, tấn
mà chẳng thoái, tức là tinh tấn vậy.
6. Người xưa nói: “Hạt gạo của thí chủ lớn bằng
núi Tu Di. Nếu người không liễu thoát mang lông
đội sừng trả” việc này rất đáng sợ hãi. Nghĩ đến đó,
chẳng những không ăn đồ ngon mà đồ dở cũng
chẳng dám ăn nhiều. Sao vậy? Ăn nhiều ắt phải trả
nợ nhiều. Người hành đạo suốt ngày chuyên tâm
khắc khổ tham cứu, lấy đạo làm niệm, người xưa
nói: “Tấc hương tiêu được đấu vàng” cũng chẳng
hư dối. Bằng không thì mảy may hệ niệm là nghiệp
nhân của tam đồ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
Than ôi!
7. Hai chữ NHÂN QUẢ, mười pháp giới đồng
nhau. Bất cứ nơi nào lúc nào, người nào, việc gì đều
chẳng ra ngoài nhân quả. Như cái nhân tham thiền
quyết định cảm cái quả đại ngộ. Nhân niệm Phật
quyết định cảm cái quả vãng sanh Tây phương. Tạo
nhân phá giới quyết định cảm quả địa ngục. Tu
nhân trì giới quyết định cảm quả sanh lên Trời. Tu
nhân Tòng Lâm cảm quả ngồi đạo tràng. Tu nhân
khổ hạnh cảm quả phước đức. Tu nhân thiền định
cảm quả trí huệ. Làm nghiệp nhân chúng sanh
cảm quả chúng sanh. Tu nhân giải thoát cảm quả
chư Phật. Muốn biết nhân đời trước thì xem chỗ
hưởng thụ của đời này. Muốn biết quả đời sau thì
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 321
xem việc làm của đời này. Tiền nhân hậu quả đều
tự nơi mình, thay đầu đổi mặt đều do nhân quả.
Một lời nói, một việc làm cần phải xét lợi hại, nhất
cử nhất động đều chẳng ngoài nhân quả. Hễ có
động niệm cho đến làm việc đều là tạo nhân, có
gieo nhân thì phải gặt quả. Ngàn Thánh muôn Phật
cũng chẳng thể ra khỏi nhân quả. Thường có người
chấp “khoát-đạt-không” (chấp cái không của tuyệt
diệt) bác bỏ nhân quả, ấy là người mù dẫn cả bọn
mù cùng vào hầm lửa. Sự bác bỏ nhân quả thực
nguy hiểm thay.
8. Chúng ta là người trụ Tòng Lâm, trước phát
nguyện lớn quyết liễu sanh tử, kể phát nguyện lớn
quyết thành Phật đạo, lại phát nguyện lớn độ hết
chúng sanh. Hoằng nguyện này là thường khóa
hàng ngày chẳng chút gián đoạn ngừng nghỉ. Nếu
ngừng nghỉ một chút, có thể bị đọa địa ngục, đây
gọi là thệ. Đã lập thệ nguyện, thì không thể trái
nguyện một chữ mới là đủ cả hạnh nguyện, lời nói
việc làm phù hợp với nhau. Chỉ nói ăn mà chẳng
từng nếm thì chẳng thể no, đây là nói suông. Như
phát nguyện mà chẳng hành thì chẳng hành thì
chẳng thể đến, đây là nguyện suông, bất quá chỉ
tu cái nhân phát nguyện mà thôi. Người tu hành
chẳng nên chỉ tu cái nhân phát nguyện mà nhất
định cần phải hành cái việc của phát nguyện mới
đúng.
9. Chúng ta từ vô lượng kiếp cứ mắc bệnh mãi cho
THÍCH NỮ MINH TÂM 322
đến ngày nay, hết thảy người đời chỉ biết sự đau
đớn trên xác thân mình, còn một thứ đại bệnh mà
chẳng biết tí nào cả. Người thế tục chẳng biết có cái
đại bệnh nầy thì còn nói được đi vì họ từ mê nầy
vào mê khác, thiện căn ít nên không thể lạ gì họ,
các ông là người dụng công tu đạo, liễu thoát sanh
tử mà tại sao lại cũng giống họ vậy? Các ông cứ cho
mình là mình tốt hơn người thế tục. Ta hỏi các ông:
“Có bệnh không?” Các ông nghe hỏi vậy trong lòng
không vui, nghĩ: “Người khỏe mạnh tại sao hỏi có
bệnh hay không? Từ sáng đến tối ăn mấy tô cơm,
trà cũng uống, nước cũng uống thì có bệnh gì; có
bệnh thì có chỗ nào tốt đâu?” Đúng đấy, thực là khổ
sở lắm! Cái bệnh lớn như thế thì cũng loàng xoàng
mà qua đi thôi. Ta thấy các ông như thế trong lòng
thực bất nhẫn.
Này các sư, mắc cái đại bệnh nầy mà chẳng biết,
lại quay lưng với đạo, càng chạy càng xa. Trong lúc
các ông lại còn có vài người cứ cho là “nói bệnh lớn
với bệnh nhỏ gì, chúng tôi lại đây là để xem nề nếp
nhà chùa, đến là để tham học, xem qua cách thức
gia hương đả thất, biết được chút ít là được rồi”. Có
khá nhiều vị nghĩ như thế đó. Bởi vì các ông không
triệt để biết được mình vốn có cái đại bệnh ghê
gớm, cái đại bệnh không trị không được. Chỉ sau
khi các ông biết được triệt để cái đại bệnh nầy thì
các ông mới có thể biết được cái lợi hại của bệnh
không trị không được, phải uống thuốc. Giả sử các
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 323
ông không biết cái bệnh nầy thì còn nói gì chuyện
uống thuốc.
Nay ta cho các ông biết: đại bệnh nầy là “sanh tử đại
bệnh”. Đại bệnh nầy nhất định phải trị, nhất định
phải uống thuốc. Các ông phải hiểu được: hôm nay
đến được chỗ nầy quả không phải là dễ đâu, ấy là
do sự bồi đắp từ kiếp trước. Cái thân người nầy
không dễ gì có được, phải trải qua bao đại kiếp ở
trong các loài khác đến nay mới có được cái thân
người nầy! Ta lại để thân nầy trôi qua, há chẳng
phải là để phí phạm đi mất sự vun trồng của đời
trước sao?
Phải biết rằng: thân nầy không phải là trường cữu,
cho là 100 năm mà nay chúng ta đã trải qua mấy
chục năm rồi, thời gian còn lại có được bao nhiêu
ngày? Huống nữa đời người chỉ trong hơi thở, cứ
khi miệng không hít không thở ra nữa là khổ rồi!
Nay chúng ta lại gặp cơ duyên tốt nầy, nên lo sao
cho thiết thực làm một phen thì mới không phí
phạm kiếp làm người, mới biết được sanh tử là
đại bệnh của chúng ta. Cái sanh tử đại bệnh nầy
không giống với đại bệnh ở thế gian, không uống
thuốc”dụng công tu đạo” thì không được.
10. Thực tội nghiệp cho người đời nay, người nào
mở miệng cũng biết nói liễu sinh, ngậm miệng nói
thoát tử, nhưng còn sợ chưa biết cái gì gọi là sinh,
làm sao gọi là tử. Không những người thế gian như
THÍCH NỮ MINH TÂM 324
vậy mà ngay cả người tu hành chúng ta cũng như vậy
luôn. Lấy chuyện người xuất gia ngày nay của chúng
ta mà nói, tối ngày dụng công phu sợ còn chưa biết
dụng công phu làm gì, hiện tại tu nhân gì, tương lai
cảm quả gì, chắc các ông chưa có một người hiểu
được. Tối ngày chỉ là trống rỗng trôi qua thôi, cũng
chẳng hiểu trời bao cao, đất bao dày, thế nào là Tứ
Thánh, thế nào là lục phàm, chúng ta hôm nay ở
thiền đường tu là tu nhân gì, tương lai cảm được
quả gì, chắc không có người hiểu được. Các ông nếu
có người hiểu được thì e rằng ta không bảo các ông
dụng công phu các ông còn chịu không dụng chăng?
Các ông phải biết: hôm nay ở thiền đường gieo cái
nhân thành Phật tương lai nhất định cảm được cái
quả thành Phật. Người xưa nói: “Nhân nào quả nấy”,
trồng dưa được dưa trồng đậu được đậu. Chúng ta
người dụng công phu chỉ cần quyết tâm triệt để mà
dụng đi bất kể ba, năm, tám, mười năm cũng được,
ba mươi năm, năm mươi năm cũng được; nói tóm
lại: lấy đại ngộ làm cứu cánh triệt để.
11. Người muốn liễu thoát sanh tử thì phải siêng
dụng công phu, người không biết sự sanh tử thì tối
ngay sống trong sự khổ cực. Đối với người ở chốn
tòng lâm thường tình đều như thế cả, người có chút
đạo tâm biết hai chữ sanh tử là lợi hại đương nhiên
không liễu thoát nó không được. Việc thế gian có
thể ngưng lại một bước nhưng việc sanh tử thì gấp
lắm, không cho chậm trể được.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 325
12. Người dụng công tu đạo biết rằng việc sanh tử
chưa liễu thoát thì không được; sanh tử của ta là
khổ, sanh tử của chúng sanh ở chốn đại địa lại càng
khổ hơn. Nếu muốn làm cho họ lìa khổ ta tất cần
lìa khổ trước đã, rồi sau mới độ cái khổ của họ.
Ta muốn lìa khổ mà không dụng công thì không
được, ta muốn độ chúng sanh thoát khổ mà không
dụng công cũng không được. Cho nên từ sáng tới
tối khắc khắc công phu, thời thời thực hiện công
phu, rất sợ đánh mất công phu. Nói chung, muốn
công phu thành phiến, vì không được thành phiến
thì phải cứ tự mình trách mình, vì việc đại sự chưa
rõ thì như thế chẳng yên. Nhưng mà, mọi người
các ông ở đây có còn được nửa số người như thế
không? hay là một phần ba! E rằng cũng chẳng có:
Giả sử có được một hai thì cũng tốt! Còn kể được
là đạo tràng. Nếu một người cũng không có thì câu
nầy làm sao nói ra được?
13. Việc lúc sống mọi người đều biết, đều tin; việc
sau khi chết, ai cũng chẳng biết, chẳng tin. Vì việc
lúc sống đều tự mình mắt thấy thì không thể không
tin. Việc sau khi chết vì chưa thấy đến cho nên
không tin. Các ông cho là: “Cái xác thân nầy của
ta là rất tốt, không thể không yêu quý nó. Tương
lai có được sự thọ dụng bảy, tám chục năm”. Đây
là điều các ông tin tưởng nhứt: “Việc sau khi chết
tôi chưa thấy thì thầy bảo tôi tin cái gì?” Đại khái
người người đều có cái tri kiến ấy.
THÍCH NỮ MINH TÂM 326
Các ông cho bảy, tám chục năm là dài lắm; các ông
phải hiểu được là: quả báo sau khi chết so với bảy,
tám chục năm trường của các ông thì chỉ bằng thời
gian một tích tắc sau khi chết dù cho ông sống
được bảy, tám chục năm. Khảo cứu đến điểm nầy
ta thử so sánh một chút: có thể kể cái thời gian bảy,
tám chục năm nầy như chớp mắt còn thời gian
sau khi chết mới là trường kỳ. Nhưng sự sinh hoạt
trường kỳ là do ta ở trong thời gian chớp mắt nầy
tạo thành, tạo ra cái sinh hoạt gì thì phải hỏi một
niệm hiện tiền của chúng ta là niệm gì. Niệm cố
nhiên rất nhiều chúng ta không cần nói nhiều nữa,
chỉ nói đến một niệm thôi! Cái niệm nầy cảm được
quả gì?
Người xưa nói: “Tơ hào hệ niệm, tam đồ nghiệp
nhân.” Tam đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các
ông nghĩ xem: nổi lên một chút xíu hệ niệm thì
phải chiêu lấy cái quả to lớn như vậy, còn nói suốt
ngày nổi vọng tưởng, nổi nghiệp thức thì sao? Cái
cảm quả như vậy ta thực không muốn nói. Hơn
nữa, các ông hãy nghĩ qua bảy, tám chục năm suốt
ngày cứ nổi nghiệp chướng, Diêm vương đâu còn
tha ông nữa. Diêm vương gọi các ông đi, các ông
phải đi liền, trễ một phút là xỏ dây thừng vào mũi
các ông, đầu dây kia thì ở tay Diêm vương. Diêm
vương nắm lấy dây lôi thì các ông phải bước, lúc ấy
thì không còn khách sáo nữa, sợ khi so với chúng
ta lôi trâu còn lợi hại gấp mấy chục lần!
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 327
Diêm vương lôi các ông đi, bảo các ông biến thành
trâu thì phải thành trâu, bảo biến thành ngựa các
ông phải nhanh chóng biến ngựa; các ông có bản
lĩnh bao nhiêu đi nữa cũng không được tự do. Kêu
ông đi ông phải đi, tạm dừng một chút không được,
muốn không đi càng không được nữa. Tiếc thay!
Lúc bấy giờ chúng ta chịu khổ chẳng phải do mình
nữa. Nhưng biến thành trâu một lần thì cũng chịu
được, sợ rằng biến rồi lại biến nữa cho đến xương
chất thành núi, sau khi thoát khỏi hình trâu thì mới
biến ra cái khác được. Kỳ hạn dài vô cùng, không
phải ta nói ra để dọa các ông.
THÍCH NỮ MINH TÂM 328
Đại sư Hám Sơn khai thị
1. Người xuất gia cầu sáng việc lớn:
a- Cần chân thực vì sanh tử, tâm phải tha thiết.
b- Cần nhất chí quyết định ra khỏi sanh tử.
c- Cần liều một đời đến chết không đổi tiết tháo.
d- Cần thực biết thế gian là khổ, hết sức nhàm chán
xa lìa.
e- Cần gần gũi bậc tri thức cao tuyệt, đủ tri kiến
chân chánh, luôn luôn thưa hỏi, vâng lời dạy dỗ,
theo lời mà làm. Siêng năng chẳng lười, không bị
ngũ dục phiền não ngăn chướng, chẳng bị thói
quen xấu ác sai khiến, chẳng bị bạn ác lay chuyển,
chẳng bị duyên ác cướp đoạt, chẳng cho căn cơ ngu
độn mà sanh lui sụt. Phát tâm như thế, dốc lòng
như thế, lâu dần sẽ thuần thục, tự nhiên ăn khớp
với chỗ nguyện cầu xưa như hộp với nắp.
2. Phật dạy: “Từ thân xuất gia, biết được tâm, đạt
được gốc, hiểu pháp vô vi gọi là Sa-môn thường
hành 250 giới”.
Lại nói: “Đoạn dục, trừ ái, biết nguồn tâm của
mình, đạt lý sâu của Phật, ngộ pháp vô vi”.
Lại nói: “Cắt bỏ râu tóc mà làm Sa-môn, thọ nhận
pháp Phật, bỏ tài sản thế gian, khất thực biết đủ,
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 329
ăn ngày một bữa, ngủ dưới cây một đêm, cẩn thận
không trở lại. Điều khiến người trở thành ngu tệ là
ái và dục vậy”.
Những lời dặn dò tha thiết như thế đều là những
điều thiết yếu để làm đệ tử Phật.
Khi xuất gia, việc đầu tiên là lấy ly dục làm hạnh
đệ nhất.
Con cháu đời sau, thân tuy xuất gia mà tâm say
trong ngũ dục, chẳng biết cái hại nào cần phải xa
lìa, đạo nào là đạo ra khỏi khổ, cứ triền miên mê
muội chẳng tự tỉnh giác, rồi lại giả bộ oai nghi, làm
vẻ đạo đức, ngoài dối người, trong dối lòng, che
đậy tỳ vết không chịu tự giác. Người này muốn
được niệm chân chánh thực khó vậy!
3. Phật dạy: “Tất cả chúng sanh lưu lãng trong sanh
tử, đều do vọng tưởng điên đảo làm căn bản”. Nếu
tưởng điên đảo diệt và khẳng nhận tự tâm, tức là
thời tiết liễu thoát sanh tử, ra khỏi biển khổ. Nếu
vọng tưởng chẳng dừng thì sanh tử khó ra. Nên
nói: “Cuồng tâm chẳng dứt, nếu dứt tức Bồ-đề”.
Chúng ta nếu quả thực có thể chóng dứt tâm cuồng
loạn thì liền ra khỏi tam giới, dẹp quân ma, ngồi
giữa trời xưng là đạo nhân vô sự. Lão Diêm La mặt
sắt dù có ác tâm, ra tay tàn độc cũng không mò bắt
được, tha hồ ngang dọc, tự do tự tại, làm một người
đại giải thoát. Thời tiết như thế thì dù gọi là Phật, là
Tổ cũng chẳng chịu, huống nữa là kết bầy với bọn
THÍCH NỮ MINH TÂM 330
ruồi lằn ngu ngốc trong cầu tiêu, tranh giành đồ
hôi tanh, thối tha hay sao?
4. Phật dạy hai mươi việc khó được, mà trong đó
có: “Được thân người là khó; sanh tại trung quốc
là khó; được gặp Phật Pháp là khó; thân cận thiện
tri thức là khó; sanh chánh tín là khó”. Đây là năm
việc khó trong những cái khó. Hôm nay, may mắn
xuất gia, gặp được đại thiện tri thức mà quy y, lại
đem thân vào biển Phật Pháp. Việc này do duyên
tu hành như thế nào mà được? Nếu không phấn
tấn dũng mãnh, sanh đại chánh tín, rồi đem thân
tâm huyễn vọng tẩy rửa cho thanh tịnh trong sạch,
lật ngược tánh mạng, chí xuất sanh tử, rộng tu vạn
hạnh, kết đại duyên thành Phật vô thượng, thì
chẳng phải xấu hổ, làm mất hạt giống thiện căn
trong bao đời sao! Cổ đức dạy rằng thọ khổ trong
ba đường ác, chưa gọi là khổ. Làm mất y ca sa trên
thân mới thực là khổ.
5. Phật dạy: - Cạo bỏ râu tóc, mà làm Sa Môn. Rời
tham dục được tịch tĩnh, là điều quan trọng nhất.
Thế nên, biết rõ tham dục vốn là sanh tử, cũng là
lộ đường đại sự quan trọng nhất. Vì vậy, phải nên
tha thiết trì giới. Rời xa tham dục, bèn được an ổn
tịch lạc. Sở dĩ chúng sanh trầm luân trong biển
khổ, không thể mau lên bờ giác ngộ, đơn độc chỉ vì
tham dục quá lắm.
6. Học nhân đời mạt pháp, đa số hướng về những
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 331
sự tu tập thô phù, mà không đi thẳng đến chỗ chân
thực. Vì vậy, ngay nơi những lời dạy của đức Phật,
chỉ chấp trên danh tự ngôn ngữ, mà không đạt được
tông chỉ cứu cánh, khiến tăng thêm tri kiến, sanh đại
ngã mạn. Đây là dùng Phật Pháp mà kết thêm cội
gốc sanh tử, cũng không biết sanh tử là vật chi, cứ
bảo rằng chẳng có can hệ gì. Mê mờ đi trong đêm tối,
nên không thể thấy được chánh lộ tu hành. Ngôn từ
của Phật dạy, đều là pháp xuất ly sanh tử, sao người
đời nay ngược lại bị đọa? Việc này chẳng phải lỗi của
Phật, mà lỗi tại học nhân không có chánh tri chánh
kiến, cùng chưa từng thân cận và được thiện tri thức
chỉ điểm thuyết phá trừ căn mê lầm.
7. Phật dạy: “Từ bỏ cha mẹ, xuất gia tu đạo; liễu
ngộ chân tâm, đạt đến bổn tánh, giải pháp vô vi, gọi
là Sa Môn, thường hành hai trăm năm mươi giới.
Lại bảo:”Đoạn tham dục tẩy trừ ái chấp, nhận thức
nguồn tự tâm; đạt được lý thâm sâu của Phật, mà
ngộ pháp vô vi. Lại bảo: “Cạo bỏ râu tóc, mà làm
Sa Môn, lãnh thọ Phật Pháp; bỏ tiền tài riêng tư
ở thế gian, chỉ cầu biết đủ; ngày ăn một buổi, mỗi
đêm ngủ dưới một gốc cây; cẩn thận chớ xoay trở
lại. Khiến người bị ngu si che mờ, đều do ái dục.
Những pháp như thế, Phật dặn dò rõ ràng; chẳng
ngoài việc nhắc nhở chư Sa Môn, lúc vừa xuất gia,
hạnh đầu tiên phải hành là xa rời dục lạc. Hậu thế
tử tôn, thân tuy xuất gia, mà tâm lại say sưa nơi
năm món dục; không biết sao phải hành pháp viễn
THÍCH NỮ MINH TÂM 332
ly, và đạo nào là đạo xuất khổ não, chỉ miên man
hôn mê, mà không tự giác; lại giả bộ phục sức oai
nghi, dối trá hiện tướng oai đức; ngoài dối người,
trong khi tâm mình; che đậy lỗi lầm mà chẳng biết
tự giác. Người muốn cầu chân tâm chánh niệm,
thực hiếm có. Kinh Tịnh Danh nói rằng trực tâm
là đạo tràng.
8. Người xuất gia phải rõ đại sự. Thứ nhất, tâm phải
chân thực tha thiết vì sự sanh tử. Thứ hai, phải quyết
định phát khởi ý chí xuất ra khỏi sanh tử. Thứ ba,
phải xả mạng cho đến chết, quyết không thay đổi.
Thứ tư, phải chân chánh biết rõ thế gian là đau khổ,
nên cực lực sanh tâm nhàm chán xa rời. Thứ năm,
phải thân cận thiện tri thức tuyệt thắng, và đầy đủ
chánh tri chánh kiến. Thời thời thưa thỉnh, thừa sự
theo lời giáo huấn, rồi y như lời dạy mà hành, tinh
cần không giải đãi; không để năm món dục phiền
não làm che chướng; không để tập khí xấu xa sai
sử; không bị giao động vì bạn xấu; không bôn ba
chạy theo duyên ác; không cho rằng vì độn căn mà
tự thoái thất. Như thế mà phát tâm và tiến bước,
rồi lâu ngày thuần thục, thì tự nhiên sẽ tương dung
hợp với sở cầu nguyện xưa. Hiện đời, tuy chưa có
thể liễu ngộ, thấy rõ tự tâm, nhưng trăm kiếp ngàn
đời, cũng dựa theo ngày nay mà làm nhân địa sơ
khởi tu hành. Nếu không như thế, chỉ dùng tri
kiến thấp kém hẹp hòi, tập khí sôi nổi mỏng manh,
tâm đua đòi theo thói cũ, tâm cuồng vọng, khẩu
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 333
đầu thiền, khí trược uế, căn tà kiến, để làm chánh
nghiệp xuất gia, rồi lấy đó mà vọng cầu xuất ra khỏi
biển khổ; đó là thích chí siêu việt mà lại an nghỉ,
và không chịu đi mà cầu tiến bước. Hy vọng người
chánh tín trong đời mạt pháp, và những thiền nhân
đã biết chỗ hướng tới, phải thẩm xét nhận biết bản
tâm, dùng đó làm đệ nhất nghĩa chân thực.
9. Cổ nhân vừa mới phát tâm, chân chánh vì đại
sự sanh tử, quyết chí xuất ly, nên cắt ái từ thân,
tham phương tầm cầu thiện tri thức; trải qua bao
gian nan khổ cực, tâm tâm niệm niệm, chỉ vì nhắm
thẳng vào việc chưa sáng; ưu bi thống thiết, như
khóc mẹ đã già chết. Gặp được thiện tri thức như
con thấy mẹ. Được nghe một lời hay nửa câu, liền
khai mở tâm địa, như bệnh được thuốc. Một niệm
tương ưng, liễu ngộ nơi tâm, như kẻ nghèo được
châu báu. Quăng thân bỏ mạng, nổi trôi bị bao
khinh rẻ, mà chưa từng than van nản lòng.
Nhị Tổ Huệ Khả vì muốn an tâm mà chặt cánh tay.
Lục Tổ Huệ Năng đeo đá giã gạo. Tổ Bá Trượng
làm chấp sự bao lao nhọc. Dương Kỳ làm công
quả cúng dường đại chúng. Phàm danh tiết được
truyền đăng chiếu soi thiên cổ, chẳng ngoài sự
khắc khổ mà nên. Chư Phật trong đời quá khứ, cầu
vô thượng Bồ Đề, xả thân mạng như số cát vi trần;
không loài nào mà chẳng thọ thân; không thân nào
mà chẳng tu khổ hạnh. Trăm kiếp tu nhân, nên cảm
thiên thượng nhơn gian cúng dường vô lượng. Mạt
THÍCH NỮ MINH TÂM 334
pháp tử tôn, vì lãng phí thọ dụng nên mất phần
công đức bất tận. Sao lại có trời sanh Di Lặc, và có
tự nhiên Thích Ca! Đau đớn thay! Đời mạt pháp,
đã xa quá thời thánh giáo; phép tắc pháp môn để
dùng quét đất. Hậu bối xuất gia, không biết vì việc
gì. Sanh ra chỉ biết sợ đói lạnh, nên mãi lo việc ấm
no. Vừa bước vào cửa Không, bèn trở lại theo tập
quán thế tục; đàm luận suông cả ngày, phủng phệ
túng tình, để sáu căn chạy rong; chuẩn bị tạo các
việc ác; không làm lụng cực nhọc mà hưởng thức
ăn ngon; không chăn tằm mà mặc y đẹp; hư tiêu
của tín thí, lãng phí thời giờ; chẳng biết sanh từ
đâu đến, chết sẽ đi về đâu! Sao lại không biết nhân
quả khó trốn thoát, và tội phước không sai chạy!
Đại hạn lâm chung đến, như đá chìm thẳng xuống
nước; ba đường ác khổ cùng cực; một quả báo phải
chịu cả năm ngàn năm, biết ngày nào mới được
thoát khỏi! Nhắc những lời này, lão nhân đau xót
chua cay! Mục kích thời lưu hiện tại, đều buông
lung như thế. Hy vọng người tu phải như đãi cát lấy
vàng, chẳng nên bảo là không có, vì vàng vẫn còn
nguyên. Lao tù ba cõi, gông cùng trong bốn loài,
lửa lớn cháy phừng phực, nhà sanh tử hiểm họa,
làm thế nào để dũng mãnh thoát các khổ, đến nơi
vô úy? Chẳng phải là đấng trượng phu đầy đủ linh
căn, hàm chứa bao cốt cách, thì không thể phấn
tấn dũng mãnh, vừa siêu vượt liền nhập vào. Các
thầy sanh ra may mắn được gặp Phật Pháp; sáu căn
đầy đủ, hình vóc nương nhờ y ca sa, sớm gặp minh
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 335
sư. Nếu không thống niệm Vô thường, nghĩ ngợi
thâm sâu về đại sự, tư duy khổ nơi địa ngục, mà
phát tâm Bồ Đề, sửa đổi tâm tánh, để ngày đêm
tinh cần, sớm cầu xuất ly, mà cứ dần dà sống qua
ngày, phóng túng thân tâm, thì lúc đại hạn đến, hối
hận sao kịp! Hãy nên cố gắng mà hành. Nếu quên
lời khuyên răn nhắc nhở của tôi thì phụ lòng tôi và
cũng chính là tự phụ mình.
10. Phật bảo chúng sanh, phải nhớ các nỗi khổ nơi
địa ngục, mà phát tâm Bồ Đề, tức là bây giờ phải
nên tự thúc đẩy, phát khởi tinh tấn. Cổ đức bảo
rằng thà chết mà có pháp, còn hơn sống mà chẳng
có pháp. Xả bỏ thân mạng này, làm những diệu
hạnh đó; ví như chiếc thuyền Bát Nhã, có thể đạt
đến bờ giác. Câu nệ chi mà không cố gắng cưỡng
ý chí, để phụ bạc bỏ phí cuộc đời này! Đã đến núi
báu, lại trở về tay không. Sao không tiếc thay!
11. Phật bảo chư tỳ kheo rằng mỗi sáng sớm phải tự
lấy tay xoa đầu. Lời này thực thâm thúy. Lão nhân
mỗi mỗi suy gẫm, đức Phật từ bi thống thiết triệt
xương tủy. Ngài hằng bảo rằng mạt pháp tỳ kheo,
đa số thường thích thọ dụng, an nhiên hưởng thụ
tứ sự cúng dường. Mỗi mỗi tự bảo đó là điều ưng
phải được, mà không xét coi mình là người gì, cùng
vật cúng dường từ đâu đến, và làm thế nào mà thọ
nhận! Người biết ân thì hiếm, và người báo ân thì ít,
chỉ vì chưa chịu rờ đầu. Nếu chịu xoay lại rờ đầu, thì
bất giác tự hoảng sợ, thốt lời rằng tại sao mình cắt bỏ
THÍCH NỮ MINH TÂM 336
râu tóc, không mặc y phục người thế tục! Biết hình
dạng khác tục, nên không dám cư trú gần người thế
tục, thân không dám vào chốn thế tục, tâm không
dám niệm nhớ thế tục. Như thế tức là an lạc nơi
hạnh viễn ly. Không đợi thiện tri thức dạy bảo, mà
tự phát tâm dõng mãnh; vào núi chỉ sợ núi không
sâu. Song, có những hạng thầy tu lại an nhiên trú
ngụ trong phồn hoa đô thị hỗn tạp; phóng túng thân
tâm để làm người vô loại và hành bao hạnh vô ích.
12. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta khởi tâm
động niệm, đều là vọng tưởng (tức cội gốc của sanh
tử) nên phải chiêu lấy quả khổ. Ngày nay dùng tâm
vọng tưởng đó, chuyển làm tâm niệm Phật, tức niệm
niệm thành nhân Tịnh độ, đó là quả an lạc. Nếu niệm
Phật mà tâm tâm không gián đoạn, thì vọng tưởng
sẽ tự tiêu diệt. Ánh sáng của tự tâm phát lộ, và trí
huệ hiện tiền, tức trở thành pháp thân Phật. Chúng
sanh bần cùng không phước huệ, do sanh sanh thế
thế, chưa từng có một niệm cúng dường Tam Bảo,
để cầu phước đức. Sanh tử làm khổ thân; niệm niệm
tham cầu sự vui của năm món dục lạc, mà đó chính
là tư lương của gốc khổ. Bây giờ, dùng tâm tham cầu
chuyển thành tâm cúng dường Tam Bảo. Đem thân
mạng hữu hạn, tùy tâm lượng lực, mà cúng dường
mười phương. Dùng một cây hương, một nhánh
hoa, một hạt gạo, một cọng rau, để cúng dường Tam
Bảo như nhỏ một giọt nước vào biển cả, và như một
hạt bụi vi trần rơi xuống đất. Biển có lúc khô, và đất
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 337
có lúc cùng tận, mà phước báo kia chẳng cùng tận
nên cảm Phật quả, trang nghiêm cõi Hoa Tạng, để
làm nơi tự thọ dụng trong tương lai. Bỏ hạnh này thì
không có diệu hạnh thành Phật khác.
13. Người học đạo phải hội đủ những điều kiện sau:
a. Phải nhìn thông suốt cảnh giới ở thế gian. Không
để vọng duyên chuyển biến.
b. Phải chú tâm vì đại sự sanh tử. Tâm tràng sắt đá
quả quyết. Chẳng để vọng tưởng phan duyên xâm
đoạt ý chí.
c. Phải tẩy rửa sạch tận hết tất cả tập khí xấu xa và
ác giác tri kiến thuở xưa, mà không chừa một mảy
lông nào.
d. Phải chân thực xả bỏ thân mạng. Không để bị
sanh tử, bịnh hoạn ác duyên làm chướng ngại.
đ. Phải phát khởi chánh tín, chánh kiến. Không thể
nghe theo tà sư khiến mê lầm.
e. Phải nhận rõ chỗ dụng tâm chân thực thiết thực
của cổ nhân, rồi dùng tâm đó mà tham cứu thoại đầu.
f. Nơi công việc làm hằng ngày, luôn trì giữ chánh
niệm, chớ để duyên huyễn hóa làm mê hoặc. Tâm
tâm không ngừng tu đạo; động tịnh nhất như.
g. Phải trực niệm hướng phía trước. Không thể
đem tâm mong đợi giác ngộ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 338
h. Phải có tâm lâu dài. Chí chưa đến nơi thành
tựu của cổ nhân thì quyết chẳng cam ngừng nghỉ.
Không thể được ít cho là đủ.
i. Trong lúc dụng công phu, niệm niệm phải vừa
xả vừa nghỉ. Vừa xả mà xả. Vừa nghỉ mà nghỉ. Xả
cho đến lúc không thể xả được nữa. Nghỉ cho đến
nơi không còn chỗ để nghỉ, thì tự nhiên sẽ được tin
tức lành.
Học nhân dụng tâm như thế, thì cùng bổn phận sự
có chút phần tương ưng. Phải có chí hướng thượng,
và phải tự thúc đẩy tinh tấn tiến bước.
14. Phật dạy đệ tử tu pháp xuất thế, chỉ có hai loại
diệu hạnh là tự lợi và lợi tha. Lợi tha gọi là tu phước.
Tự lợi gọi là tu huệ. Bồ Tát phát tâm, cần cầu đạo
Bồ Ðề vô thượng. Bồ Tát tuy biết pháp tánh là lặng
lẽ không tịch, mà chẳng xả các hạnh hữu vi. Biết
các pháp vốn không tịch tức là tự lợi. Không xả các
hạnh hữu vi gọi là lợi tha. Từ trên chư Phật Tổ, chưa
có ai chẳng từ hai hạnh này mà được xuất ra khỏi
sanh tử. Ðức Thế Tôn bao kiếp tinh cần tu bao khổ
hạnh nan hành. Chúng ta từ bao kiếp dài lâu, lặn
hụp trong biển sanh tử, đầu xuất đầu mất, xả thân
thọ thân, không thể nghĩ bàn, đều là sống hư chết
phí, thì làm sao có một chút gì là hạnh môn chân
thực! Nếu có hạnh chân thực thì quyết sẽ không
như mặt mũi đời nay. Sao không thống niệm, mà
hồi quang phản chiếu, dũng mãnh tự suy gẫm. Ðời
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 339
nay may mắn do túc duyên, sớm đã thoát tục, mãi
rời biển khổ, lại được an cư tại danh sơn, nơi đạo
tràng thắng diệu mà chư tổ thường thuyết pháp.
Ðây là duyên lành muôn kiếp khó gặp. Chính là đói
gặp tiệc vua. Bệnh gặp dược vương. Tự phải biết
mình may mắn vô ngần, rồi tận suốt cả đời, xả bỏ
thân mạng, làm những công đức đó, thì vượt trội
trăm kiếp ngàn đời thường sống vô tích sự.
15. Gần đây các thanh thiếu niên nam nữ ở khắp
nơi, thường tự bảo có chí tham thiền. Song lúc
tương kiến đối đầu, tôi nhận thấy họ đều là những
kẻ điên đảo. Họ gìn giữ vọng tưởng làm thệ nguyện,
dùng sự làm biếng giải đãi làm công phu khổ nhọc,
dùng phô trương ngã mạn làm hạnh cao, dùng môi
lưỡi giỡn chơi làm cơ phong, dùng chấp ngu si làm
sự hướng thượng, dùng phản bội Phật Tổ làm tự
thị, dùng trí huệ ranh mãnh làm diệu ngộ. Thế nên,
mỗi khi vào tùng lâm, thân nghiệp không thể nhập
vào đại chúng, và miệng ý không thể hòa với mọi
người. Buông lung tình ý, chẳng tu ba nghiệp, cho
lễ bái tụng niệm là hạ liệt, cho hạnh môn (công việc
trong chùa) là thấp kém, cho Phật pháp là oan gia,
cho văn lượm lặt làm tri kiến của mình. Tuy họ có
khả năng khởi công phu khán thoại đầu, nhưng lại
đem tâm tầm cầu giác ngộ. Ngồi trên tấm bồ đoàn
chưa vững, ngủ gật chưa tỉnh, mộng cũng chưa
thấy chính mình, bèn cống cao tự phụ, rồi viếng
thăm chư thiện tri thức, thuyết huyền thuyết diệu,
THÍCH NỮ MINH TÂM 340
trình ngộ trình giải, và đưa câu cú chưa hạ lạc, hồ
đồ cầu ấn chứng.
Nếu có phước duyên, gặp minh nhãn thiện tri
thức, đập vỡ được khuôn sáo đó, thì đó là điều may
mắn. Nếu không may mắn, chỉ gặp những kẻ với
tay khua đàn, tu thiền mù, rồi dùng bí đao mà ấn
dấu, và ném họ xuống hang hố ngoại đạo, đọa lạc
trăm ngàn muôn kiếp, không có cơ may ngoi đầu
lên được. Chẳng đáng thương lắm sao! Những kẻ
hậu bối ngu si này, tự làm mất chánh nhân, lại gặp
nạn tà độc. Nếu gặp được Lâm Tế, Ðức Sơn, chắc
cũng không thể cứu giải mê chấp cho họ. Thực
đáng thương thay! Bệnh trạng của thiền môn là tại
chỗ này.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 341
Hòa Thượng Hư Vân khai thị
1. Thiền sư Động Sơn hỏi một vị tăng sĩ: Việc khổ
nhất trên thế gian là gì?
Tăng đáp: Địa ngục khổ nhất.
- Chẳng phải! Nơi y phục kim tuyến (ca sa) này,
chưa biết được nguồn mối việc lớn mới là khổ
nhất. (việc lớn: việc sinh tử)
2. Nếu sáng việc lớn, tức không còn nhân địa ngục.
Địa ngục chưa hẳn là khổ; chưa hiểu rõ tự tâm mới
là khổ nhất. Muốn hiểu được việc lớn, phải thường
nỗ lực tinh tiến, chớ sao lãng khinh xuất, lo lắng
bận bịu mãi, khiến phí mất thì giờ. Ban ngày, ứng
duyên gặp cảnh, phải luôn làm chủ. Ban ngày làm
chủ được thì trong mộng cũng tự chủ được. Trong
mộng tự chủ được thì lúc bệnh hoạn, cho đến lúc
sắp mất cũng tự làm chủ được. Tự chủ chính mình
tức là dễ dàng ngộ đạo, cắt đứt sinh tử.
3. Người sơ phát tâm tu đạo, cung cách bên ngoài
phải nên cẩn trọng. Rất nhiều vị lão tăng, cung
cách diện mạo cũng chưa hợp với đạo cho lắm. Nếu
một đời chất trực, tinh tấn chuyển hóa, hun đúc
thân tâm, mọi nơi mọi thời đều không để phạm
giới thì mới được xem là tỳ kheo thanh tịnh. Trong
giới luật, tuy có phân tánh giới, giá giới, nặng nhẹ,
nhưng chớ có phạm giới nào. Trì giới thanh tịnh
THÍCH NỮ MINH TÂM 342
như trăng mùa thu, thật không dễ dàng, phải nên
hết sức chú ý.
4. Quý vị chớ quên bổn phận xuất gia. Biểu hiện
tướng xuất gia không khó, chỉ việc cạo tóc, đắp y
ca sa liền được gọi là tăng sĩ. Hiện tại, có nhiều cư
sĩ thường cạo đầu. Thế thì, ai là tăng sĩ chân thật?
Như người uống nước, tự biết lạnh nóng. Hy vọng
mọi người hãy nên tinh tấn.
5. Thời gian qua mau, mỗi ngày mười hai thời: Sáng
sáu thời, chiều sáu thời. Mỗi ngày có hai mươi bốn
tiếng. Mỗi tiếng có bốn khắc. Mỗi khắc có mười
lăm phút. Mỗi phút có sáu mươi giây. Thời giờ trôi
qua mau trong từng sát na; bỗng chốc lại vụt đến
già. Các vị Sa di, từ lúc lọt lòng cho đến nay, chớp
mắt đã được hai, ba mươi tuổi. Quý vị có thấy thời
gian trôi qua mau mà đạo nghiệp khó thành chăng?
Người vừa xuất gia, đạo tâm rất chân thành, nhưng
vì đạo nghiệp chưa thành, nên ngày lại qua ngày,
trở thành lười biếng. Vì thế bảo:
Năm đầu xuất gia, thấy Phật trước mắt. Năm sau,
thấy Phật ở Tây Thiên. Năm thứ ba, hỏi Phật cho
tiền.
Nếu đạo tâm không bền vững dài lâu, thì đạo
nghiệp khó thành. Đạo tâm như sương mai buổi
sáng, thì làm sao cắt đứt sanh tử được?
6. Nếu là người xuất gia tu đạo chân chính, phải
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 343
nên lập chí nguyện, có đầy đủ tâm tràng sắt đá.
Đầu tiên phải học oai nghi tế hạnh, tuân theo quy
củ, mà không sợ kẻ khác bảo mình là người cứng
đầu. Phải giữ tâm đến chết, mãi mãi tôn kính giáo
giới của Phật. Do bao kiếp trồng căn lành, nên đời
này mới được vào cửa Phật. Phải nỗ lực cầu đạo,
trừ khử tập khí. Làm được những việc này rồi, thì
từ từ sẽ trở thành những bậc đại tu hành, sớm đắc
nhập lý thể. Chớ chạy vào chợ búa danh lợi, làm tay
sai cho bọn quyền thế. Tâm phải kiên cố, vĩnh cửu
không đổi. Tâm bình thường động tĩnh nhất như.
7. Ngài Quy Sơn bảo: Thường thấy những kẻ sơ phát
tâm, giải đãi làm biếng, ham ăn ngủ nghỉ, sống cuộc
đời vô ích trên thế gian.
Thật đáng thương thay, ai bi thiết tâm, không đành
ngậm miệng, nên phải nói ra lời răn nhắc này. Hy
vọng, người có tâm cầu đạo, nguyện vượt ra khỏi
sanh tử, chớ để năm món dục lạc cùng thất tình
xoay chuyển. Hãy nỗ lực chuyên cần tu hành, chớ
để thời gian luống qua vô ích.
8. Đã xuất gia, nương nhờ của đàn na tín thí, phải
đau đáu nhớ đến nỗi thống khổ sanh tử, như cứu lửa
cháy đầu, sao lại phóng dật lười biếng, ích kỷ, sống
bám vào cửa Phật, không thấy đáng hổ thẹn sao?
9. Người trẻ tu hành chớ chỉ tu về trí huệ thôi, mà
phải nhận biết tầm quan trọng của Nhân Quả.
THÍCH NỮ MINH TÂM 344
10. Có bốn hạng người xuất gia:
Thứ nhất, thân xuất gia mà tâm chẳng xuất gia, tức
thân tuy đi tìm cầu pháp mà tâm chẳng muốn thọ
pháp.
Thứ hai, thân tại gia mà tâm lại xuất gia, tức là
tuy vui vầy với gia đình vợ con nhưng không đắm
nhiễm.
Thứ ba, thân tâm đều xuất gia, tức nơi cảnh dục lạc,
thân tâm không đắm nhiễm.
Thứ tư, thân tâm không xuất gia, tức tham đắm
nhiễm trước dục lạc.
Chúng ta hãy kiểm nghiệm xem coi, trong bốn
hạng trên, mình thuộc hạng nào?
11. Đã là Phật tử, chánh tín xuất gia, cầu pháp xuất
ly, phải quên mình mà nỗ lực tu hành, chớ để cảnh
chuyển, và chớ sống qua ngày trong phiền não.
Người Phật tử, nếu không hàng phục vọng tâm mà
lầm lạc trong nhất niệm, tơ hào sơ suất, thì cách xa
trời đất; lỡ một bước chân, ân hận ngàn đời. Phải tu
hành như cứu lửa cháy đầu. Nghiêm thủ giới luật
như giữ gìn phao vượt biển, chẳng để bị thủng chút
nào.
12. Nếu không dự bị tu hành, tuổi về chiều càng
nhiều tội lỗi. Khi chết, hành ấm tan rã, bồn chồn sợ
hãi, như chim bay xuyên thủng xác thân. Tâm thức
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 345
tùy theo nghiệp lực, như người thiếu nợ, chủ nào
mạnh thì dẫn đi trước. Tâm rối đa đoan, nơi nào
nặng thì rơi vào trước.
Lúc trẻ, không chịu dũng mãnh tu hành, và không
xả bỏ thân tâm, chỉ xoay cuồng nơi danh lợi phiền
não thị phi. Nghe kinh, ngồi thiền, lễ xá lợi... đều
tự dối gạt mình. Thế nên lãng phí thời gian quý
báu; ngày nay vừa hối hận xưa chẳng dự bị tu hành,
thì già bệnh đến, chết cũng không được, sống cũng
không yên, xả chấp chưa nổi. Sống cũng khổ mà
chết cũng nhọc. Đó là tuổi về chiều, tội càng nhiều.
Tu hành chưa từng bước đến nơi chân thật. Lúc
sắp chết, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển, như gà
con phá vỏ trứng đi ra, tức là chim bay xuyên thủng
thân, tâm thức tùy nghiệp báo dẫn dắt. Nếu làm
chủ được thì có khả năng chuyển muôn vật. Hiểu
rõ bốn đại là không thì tâm thức không bị nghiệp
dẫn. Ngược lại, như người thiếu nợ, bị bức bách
đòi tiền. Bấy giờ hoang mang trên đường lộ, chưa
biết sẽ về đâu, lại bị bao thống khổ, mà hối hận
thì đã quá trễ. Mở mắt ra, thấy đầu trâu mặt ngựa.
Chẳng phải núi đao, thì cũng là rừng kiếm. Khi ấy,
quý vị muốn nói lời gì?
13. Việc quan trọng của người tu là phải thiết tha
với sanh tử, chân thật tu hành, chết cũng không
thoái thất tâm nguyện. Đời này chưa xong, thì đời
sau tu tiếp. Đời đời nếu không thoái thất, quả vị
Phật tất sẽ có kỳ.
THÍCH NỮ MINH TÂM 346
14. Người xưa bảo: Thà thân bị đọa xuống địa ngục,
chớ đem Phật pháp hành theo tình người ở thế gian.
Nếu không lưu tâm, không hành trì đúng giới pháp,
lạm dụng ăn cắp hình tướng oai nghi Phật, vọng
xưng Thích tử, chỉ có tấm giấy giới điệp, chỉ đeo quảy
hư danh trống rỗng, thì đến ngày cuối sẽ gặt quả báo
cực khổ không lường. Hãy lưu tâm cẩn trọng, cẩn
trọng.
15. Người xuất gia chớ nên hành giống như kẻ tại
gia, tức ngày đêm bận rộn vì ba nhu cầu ăn, mặc,
ở. Phải nên vì đạo, cầu thoát ly sanh tử. Do mượn
thân giả tạm để tu đạo chân thật, nên chưa có thể
cắt đứt được việc ăn, mặc, chỗ ở. Lúc tu đạo, tạm
thời phải tự xem như không có thân mình, giống
như người đã chết. Người xưa bảo: Nếu là người tu
đạo chân thật thì chẳng phút giây nào rời xa đạo.
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 347
Mục Lục
Lời ngỏ  7
Sơ lược tiểu sử mười ba vị Tổ tông Tịnh độ  11
1. Đại sư Huệ Viễn - Tổ Liên Tông thứ nhất - đời Tấn 11
2. Đại sư Thiện Đạo - Tổ Liên Tông thứ hai - đời Đường 15
3. Đại sư Thừa Viễn - Tổ Liên Tông thứ ba - đời Đường 19
4. Đại sư Pháp Chiếu - Tổ Liên Tông thứ tư - đời Đường 21
5. Đại sư Thiếu Khang - Tổ Liên Tông thứ năm - đời Đường 25
6. Đại sư Vĩnh Minh - Tổ Liên Tông thứ sáu - đời Tống 29
7. Đại sư Tỉnh Thường - Tổ Liên Tông thứ bảy - đời Tống 33
8. Đại sư Liên Trì - Tổ Liên Tông thứ tám - đời Minh 37
9. Đại sư Ngẫu Ích - Tổ Liên Tông thứ chín - đời Minh 41
10. Đại sư Triệt Lưu - Tổ Liên Tông thứ mười - đời Thanh 45
11. Đại sư Tỉnh Am - Tổ Liên Tông thứ mười một - đời Thanh 49
12. Đại sư Triệt Ngộ - Tổ Liên Tông thứ mười hai - đời Thanh 53
13. Đại sư Ấn Quang - Tổ Liên Tông thứ mười ba cuối
đời Thanh- Dân Quốc  56
Sơ Lược Tiểu Sử Các Bậc Tôn Đức  63
THÍCH NỮ MINH TÂM 348
Đại sư Hám Sơn  63
Đại lão Hòa thượng Hư Vân  67
Đại Lão Hòa Thượng Quảng Khâm 71
Thiền sư Thiên Như Duy Tắc  77
Đại sư Thiên Thai Trí Giả  81
Hòa thượng Tuyên Hóa 85
Hòa thượng Diệu Liên 97
Thiền sư Lai Quả  99
Lão Pháp sư Tịnh Không  105
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm  109
Trưởng Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam hiệu Tuyết Lư Lão Nhân 113
Trưởng Lão cư sĩ Hạ Liên Cư  117
Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ 123
Tinh hoa lời dạy của chư tổ Tịnh Độ và các bậc tôn đức 131
Tổ Liên Tông thứ nhất: Đại Sư Huệ Viễn - đời Tấn 131
Tổ Liên Tông thứ hai: Đại Sư Thiện Đạo - đời Đường 132
Tổ Liên Tông thứ ba: Đại Sư Thừa Viễn - đời Ðường 136
Tổ Liên Tông thứ tư: Đại Sư Pháp Chiếu - đời Đường 137
Tổ Liên Tông thứ năm: Đại Sư Thiếu Khang - đời Đường 140
Tổ Liên Tông thứ sáu: Đại Sư Vĩnh Minh - đời Tống 141
Tổ Liên Tông thứ bảy: Đại Sư Tỉnh Thường - đời Tống 147
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU 349
Tổ Liên Tông thứ tám: Đại Sư Liên Trì - đời Minh 148
Tổ Liên Tông thứ chín: Đại Sư Ngẫu Ích - đời Minh 154
Tổ Liên Tông thứ mười: Đại Sư Triệt Lưu - đời Thanh 163
Tổ Liên Tông thứ mười một: Đại Sư Thật Hiền Tĩnh Am
- đời Thanh  168
Tổ Liên Tông thứ mười hai: Đại Sư Triệt Ngộ - đời Thanh 170
Tổ Liên Tông thứ mười ba: Đại Sư Ấn Quang - cuối
đời Thanh - Dân Quốc  174
Khai thị của Đại Sư Hám Sơn  190
Khai thị của Hòa thượng Hư Vân  201
Khai thị của Hòa Thượng Quảng Khâm  210
Khai thị của Thiền sư Thiên Như Duy Tắc  213
Khai thị của Đại sư Trí Giả  222
Khai thị của Tuyết Lư Lão Nhân  229
Khai thị của Hòa thượng Diệu Liên  241
Khai thị của Hòa Thượng Thiền Tâm  258
Khai thị của Trưởng Lão Cư Sĩ Hoàng Niệm Tổ  266
Khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa  269
Phụ lục:  279
Những Lời Khai Thị Vàng Ngọc của Chư Tôn Đức
dành riêng cho người xuất gia  279
Khai thị của Đại Sư Liên Trì 279
THÍCH NỮ MINH TÂM 350
Khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa  290
Khai thị của Thiền Sư Lai Quả  317
Khai thị của Đại sư Hám Sơn  328
Khai thị của Hòa Thượng Hư Vân  341
Trân trọng cảm niệm công đức ấn tống kinh
sách Pháp thí cúng dường của gia đình đạo hữu
Tuệ Nhiên - Chơn Hải (Phật tử chùa Đức Viên, San
Jose, California )
Xin hồi hướng công đức này đến pháp giới chúng
sinh. Nguyện cầu thế giới hòa bình, chúng sinh an
lạc, tâm bồ đề tăng trưởng.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - VĂN NGHỆ TP.HCM
88-90 Ký Con, P. Nguyễn Thái Bình, Quận 1 - TP.HCM
ĐT: (08) 38216009 - 39142419
Fax: (08) 39142890
Email: nxbvanhoavannghe@yahoo.com.vn
Website: nxbvanhoavannghe.org.vn
In lần thứ nhất. Số lượng: 1000 cuốn, Khổ 13.5x20.5 cm
Tại: Xí nghiệp in Fahasa, 774, Trường Chinh, p.15, q.Tân
Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Số đăng ký: 1137-2016/CXBIPH/13-48/VNTPHCM
Quyết định xuất bản số: 204-QĐ/NXBVHVN
Ngày 30 tháng 05 năm 2016
In xong và nộp lưu chiểu Qúy II năm 2016
Biên Tập:
Sửa bản in:
Trình bày, bìa:
Liên kết xuất bản:
Vương Hoài Lâm
Xuân Tiến
PN
Thái Tuệ
TỊNH ĐỘ TẬP YẾU
Thích Nữ Minh Tâm cung soạn