Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

14 điều phật dạy

MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Chủ nhiệm & biên tập: Thích Nhật Từ
Phó chủ nhiệm: Thích Quảng Tâm
Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay do Thầy Nhật Từ chủ biên bao gồm
các Nghi thức tụng niệm thuần Việt và trên 200 đầu sách nghiên
cứu và ứng dụng về Phật học, thuộc loại sách gối đầu giường
cần thiết cho mọi đối tượng độc giả.
Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay đã xuất bản trên 100 CD về Đại
tạng kinh Việt Nam và nhiều tác phẩm Phật học dưới dạng MP3.
Đây là ấn bản đầu tiên trên thế giới về thể tài này. Tủ sách đã xuất
bản hàng trăm sách nói Phật giáo, CD và VCD tân nhạc, cải lương
và tiếng thơ Phật giáo. Ngoài ra còn có hàng ngàn VCD pháp thoại
của Thầy Nhật Từ và các vị pháp sư khác về nhiều chủ đề từ gia
đình, xã hội đến đạo đức và tâm linh.
Quý tác giả, dịch giả muốn xuất bản sách nghiên cứu và ứng
dụng Phật học, quý Phật tử muốn ấn tống kinh sách Phật giáo, các
đại lý cần nhận sách phát hành, xin vui lòng liên hệ:
NHÀ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
Chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh, P.3, Q.10, TP. HCM
ĐT: 0958-430-222; (08) 3839-4121; (08) 3833-5914
www.daophatngaynay.com
www.tusachphathoc.com
TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
THÍCH NHẬT TỪ
MƯỜI BỐN ĐIỀU
PHẬT DẠY
Phiên tả:
Đào Bích, Nguyễn Hoa, Diệu Tịnh, Bích Thảo
Sơn Dương, Ngọc Phương
Hiệu chỉnh phiên tả:
Thích Nữ Tâm Minh
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
MỤC LỤC
Lời đầu sách .......................................................................vii
Điều I: Vượt qua cái tôi ..................................................3
Điều II: Đừng tự lừa dối mình .......................................12
Điều III: Tự đại sẽ đưa đến thất bại ................................18
Điều IV: Tùy hỷ để xả bỏ cái tôi .....................................22
Điều V: Đừng đánh mất chính mình ..............................33
Điều VI: Hiếu kính cha mẹ .............................................38
Điều VII: Tự ti là khóa các tiềm năng ..............................47
Điều VIII: Biết đứng dậy sau vấp ngã ...............................53
Điều IX: Nuôi dưỡng ước muốn .....................................61
Điều X: Có sức khỏe là có tất cả ...................................70
Điều XI: Ái tình là sợi dây ràng buộc .............................77
Điều XII: Khoan dung độ lượng ......................................82
Điều XIII: Con đường tuệ giác ..........................................89
Điều XIV: Bố thí sẽ được an vui .....................................102
LỜI ĐẦU SÁCH
Người ta thường nói rằng tác giả 14 điều Phật dạy là Hòa
thượng Kim Cang Tử. Thực tế không phải như vậy. Hòa
thượng Kim Cang Tử chỉ có công phiên dịch 14 điều này
ra từ chữ Hán. Vào những năm 1998-1999, ta mới thấy 14
câu này được lưu hành. Gần đây, chúng tôi có đọc được bản
nguyên tác chữ Hán có ghi rõ xuất xứ là chùa Thiếu Lâm ở
Trung Quốc tặng cho các phái đoàn Việt Nam.
Có lẽ là phái đoàn của Hòa thượng Kim Cang Tử nhận
được phần quà này, thấy hay nên Hòa thượng đã phát tâm
dịch ra rồi để tên mình bên dưới, vô tình làm cho những
người phổ biến những điều răn này dưới dạng thư pháp và
tranh ảnh treo tường tưởng rằng Hòa thượng là tác giả. Đã
gọi là 14 điều răn của Phật thì tác giả không thể là người phàm
được. Do đó ta phải hiểu là không có bản kinh nào tên là “Kinh
14 điều răn”. Chỉ biết là chùa Thiếu Lâm - Trung Quốc đã tuyển
chọn được 14 câu tư tưởng, mà theo họ là có nội dung hay để
chia sẻ như những danh ngôn dành cho mọi người.
Khi tiếp nhận tác phẩm này, ta phải phân tích dưới góc
độ hiện đại sẽ có hiệu quả cao hơn là sử dụng ngôn ngữ gốc.
Bởi vì ta thấy trong bản dịch tiếng Việt, từ ngữ hiện đại được
sử dụng nhiều và từ ngữ truyền thống ít được sử dụng. Đây
cũng là dụng ý mà Hòa thượng Kim Cang Tử đã gởi gắm qua
viii • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
bản dịch mà tôi cho rằng rất thành công.
Bản dịch tiếng Việt dùng từ điều răn; từ này khiến cho
người ứng dụng hành trì có cảm giác như bị ép buộc, răn đe.
Đạo đức học Phật giáo ít dùng khái niệm điều răn, mà dùng
điều đạo đức. Nguyên ngữ trong tiếng Pàli gọi là Sila, tức
điều đạo đức. Khi gọi là điều đạo đức, người ứng dụng hành
trì sẽ cảm thấy có nhu cầu hướng tới, bởi điều đạo đức luôn
mang đến hạnh phúc an lành cho con người.
Các bản dịch cần có độ chính xác. Tùy theo ngữ cảnh
có thể vận dụng khéo léo cho phù hợp để tôn thêm ý nghĩa,
hiệu quả, nhưng không nên dễ dãi thuận theo những từ ngữ
thường dùng mà làm lệch đi ý nghĩa nguyên tác.
Chúng tôi xin đề nghị đổi câu 14 điều răn của Phật
thành 14 điều Phật dạy, nghe bình dị và gần gũi hơn. Gọi
là điều dạy, điều minh triết hay câu danh ngôn thì phù hợp
với nội dung và ý nghĩa của lời Phật nói hơn.
Qua nghiên cứu kinh tạng Pàli, kinh điển A-hàm và
kinh Đại thừa, chúng tôi có thể đánh giá rằng không có bài
kinh nào trong nguyên hệ chứa đủ 14 điều Phật dạy được
phổ biến và lưu truyền ở chùa Thiếu Lâm Tung Sơn. Như
vậy, 14 điều Phật dạy được trích dẫn, gộp lại từ những ý
tưởng sâu sắc trong nhiều bản kinh khác nhau. Cũng giống
như bộ kinh Pháp Cú của Phật giáo Nam tông và kinh 42
Chương của Phật giáo Đại thừa. Cả hai kinh đều dạy cách
tu tập đại hạnh, giúp ta có cái nhìn bao quát về minh triết đức
Phật dạy trong đời sống. Kinh Pháp Cú gồm 423 câu, chia
làm nhiều chương, mỗi chương một chủ đề. Kinh 42 Chương
gồm 42 đoạn văn trích dẫn từ những bài kinh trong ba kho
tàng kinh điển theo dụng ý của ngài Ca Diếp Ma Đằng và
Trúc Pháp Lan. Năm 1989, chúng tôi biên soạn quyển kinh
LỜI ĐẦU SÁCH •  ix
42 Chương, tìm kiếm miệt mài mới phát hiện được gần như
2/3 xuất xứ của kinh nằm trong ba kho tàng kinh điển; do vậy
mà phải đến 18 năm sau (2007) chúng tôi mới ấn bản được
(khoảng 500 trang).
Việc truy tìm xuất xứ của 14 điều Phật dạy rút từ các
tạng kinh là rất khó. Tạm thời chúng ta chưa vội quan tâm
đến vấn đề này mà chỉ tập trung phân tích nội dung, triết lý
cũng như giá trị ứng dụng của 14 điều Phật dạy cho việc
hành trì tu tập và sinh hoạt trong đời sống hằng ngày.
Kính chúc quý Phật tử tu được tinh tấn, góp phần đưa tuệ
giác của đức Phật vào cuộc đời thông qua con đường bố thí.
Những người Phật tử có cơ hội làm tốt được hai vai trò này
cũng như những người xuất gia, chúng ta không nên nghĩ
con đường hoằng pháp chỉ dành cho người tu mà thôi. Còn
người tu, ngược lại cũng phải nghĩ rằng: Chức năng truyền
tuệ giác là chức năng truyền thống, nếu ta kết hợp thêm công
tác từ thiện thì hiệu quả giáo dục truyền thống của nhà Phật
sẽ đạt hiệu quả rất cao.
TT. Thích Nhật Từ
Tổng Biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY 1
(Điều 1 đến điều 4)
Giảng tại chùa Thanh Nhàn, Hà Nội, ngày 29-06-2008
Đánh máy: Đào Bích
ĐIỀU I:
VƯỢT QUA CÁI TÔI
Điều thứ nhất: Kẻ thù lớn nhất của đời người là chính mình.
HÃY THẮNG CÁI TÔI
Từ chính mình trong bản dịch chưa được chuẩn. Bản chữ
Hán nguyên văn là tự ngã chớ không phải là tự kỷ (chính
mình). Tự ngã là cái tôi, cái ta của mình. Vì cái tôi muốn làm
vua, muốn làm Thượng đế, nắm lấy vai trò quan trọng nhất
nên tất cả mọi người như cha mẹ, ông bà, người thân, người
thương, vợ hay chồng chỉ là thứ yếu. Sự va chạm giữa cái tôi
của ta, cái tôi của những người thân và cái tôi của cộng đồng
xã hội, cái tôi của nền văn hóa, cái tôi của triết lý, cái tôi của
ý thức hệ chính trị… là nguyên nhân dẫn đến những sự đổ
vỡ hằng ngày.
Người nào đặt nặng cái tôi nhiều thì những khoảng
cách trong quan hệ giao tế càng được thiết lập. Lúc đầu,
nó chỉ là khoảng cách vô hình, về lâu dài trở thành một
dãy Trường Sơn với hai đầu cách biệt; xa hơn nữa là Vạn
Lý Trường Thành, rồi lớn hơn nữa như núi đại Tu Di.
Chúng ta có thể đánh giá và hình dung cái tôi giống như
4 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
vỏ sầu riêng, chạm vào có thể chảy máu, đau nhói, khó
chịu; như dây kẽm gai, hàng rào, miểng chai, lựu đạn,
mìn nổ… đụng tới đâu phá vỡ tới đó. Cái tôi ấy có mặt
mọi lúc mọi nơi, lúc nào cũng sẵn sàng có mặt và thể hiện
sức mạnh của nó, cho nên kẻ thù lớn nhất của con người
không phải là địch thủ cụ thể, cố định, mà chính là cái tôi
vạn biến của mình.
Trong kinh Pháp Cú, đức Phật dạy: Thắng vạn quân
không bằng tự thắng mình. Thắng hàng vạn quân địch ở
chiến trường mặc dù khó, nhưng vẫn là dễ nếu ta có binh
pháp giỏi, tướng tài, lính cảm tử, hết lòng vì quê hương,
chính nghĩa; có được lòng dân, sự đoàn kết, nhất trí; có được
thời cơ, thế chiến v.v... (có thể nói tóm lại như là có được
“thiên thời – địa lợi – nhân hòa”). Còn thắng cái tôi của mình
rất khó; những biện pháp hỗ trợ bên ngoài như trên không
mấy tác dụng hiệu quả lên cái tôi, bởi nó không có hình dáng
cụ thể; nó có thể xuất hiện bất cứ lúc nào và ở đâu, khó nhận
ra, phân biệt. Cái tôi có thể được đong đo tính đếm bằng tác
động của những ngọn gió (bát phong) như khen, chê, thành
công, thất bại và những cảm xúc thăng trầm vinh nhục khác.
Ta có thể đo nó chính xác hơn trong lúc đối diện trước Phật,
sống trong ảnh hưởng tâm linh của Ngài. Khi có bạn đồng tu,
có người nhắc nhở thì cái tôi đó teo hẹp lại, tuy nó vẫn thôi
thúc bên trong nhưng gần như không xuất hiện, lúc đó ta dễ
tưởng rằng đã vượt qua và chiến thắng được. Nhưng khi đối
diện với nghịch cảnh, đứng trước những lời khen tiếng chê, thị
phi và nhiều hành động chọc gậy bánh xe, phá đám, phủ nhận
các cố gắng, thành quả của mình thì cái tôi bị chao đảo, lúc đó
ta mới thấy rõ mình đã chuyển hóa cái tôi đến được mức nào.
Nền văn hóa phương Tây ủng hộ và đề cao cái tôi tự
do, cho nên tình làng nghĩa xóm mờ nhạt trong lối sống.
VƯỢT QUA CÁI TÔI •  5
Họ không bận tâm nhiều đến người khác, khi hàng xóm có
chuyện, họ không trực tiếp giúp đỡ, mà gọi điện báo cơ quan
chức năng vì sợ liên lụy. Như vậy trong thế giới tự do, cái
tôi được phóng thích và khuyến khích. Nó hùng cứ trong
tâm thức và sai sử con người trở thành kẻ nô lệ, phục vụ cho
những nhu cầu vô hạn của cá nhân. Cho nên, vì sống trong
điều kiện tiện nghi vật chất đủ đầy, người phương Tây dễ bị
thương tổn bởi năng lực chịu đựng kém. Chỉ cần ở Hà Nội
vào giữa tháng sáu, nóng 38 độ, toát mồ hôi… là họ rụng rời
tay chân, dễ cảm cúm, sổ mũi, nhức đầu. Quen sống trong
thuận lợi, khi đối diện trước những nghịch cảnh dù nhỏ thôi,
nhiều người đã tưởng chừng nghiêm trọng lắm; như trời sập
trên đầu, đất lở dưới chân… mình là nạn nhân duy nhất, khổ
sở nhất. Dân gian Việt Nam có câu: “Nhà giàu đứt tay bằng
ăn mày sổ ruột”. Đứt tay là chuyện nhỏ, do bất cẩn, sơ ý
trong lúc sinh hoạt thường ngày, nhưng vì người giàu được
nâng niu, xem trọng quá mức, được nhiều người an ủi vỗ về,
làm cho cái tôi của họ nhân cao, khiến vấn đề va chạm trở nên
trầm trọng. Trong khi đó đối với người nghèo, quen sống trong
hoàn cảnh khó khăn, không được quan tâm chăm chút nên khi
bị một tổn thương lớn đối với họ cũng chỉ là việc nhỏ.
Cái tôi có cấu trúc hoạt động là trương phình, tăng trưởng,
giãn nở, teo hẹp. Tùy theo tâm lý hãnh diện tự hào hay mặc
cảm tự ti mà nó lớn lên hay nhỏ lại. Đây là hai phương diện
của cái tôi: Sống với cái tôi trương phình, đi tới đâu ai cũng
sợ không dám thân cận, hợp tác; sống với cái tôi teo hẹp dễ
mặc cảm, tự ti, đóng bít các cửa ngõ tiềm năng, khóa nhốt
những lợi thế mình có, trở thành người vô dụng. Đó là hai
mặt trái ngược của cái tôi. Cả hai đều làm cho con người mất
đi lợi lạc, bởi nó cản trở sự phấn đấu học hỏi cũng như nỗ lực
tinh tấn, giúp cho con người đạt được hạnh phúc chân chính.
6 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Do đó, tự ngã của mình là đáng sợ nhất, là kẻ thù lớn
nhất chớ không phải người khác, trái với mình mới là kẻ thù.
Quan điểm nhà Phật tôn trọng sự tự do, khác biệt của chúng
sinh. Tất cả mọi việc chỉ là dữ liệu để chúng ta đối chiếu
tham khảo chớ không phải là một lộ trình phải diễn biến theo
ý muốn chủ quan. Cái tôi luôn vận động, thay đổi theo hoàn
cảnh, nhưng lại rất độc đoán. Chính điều này khiến nó trở
thành kẻ thù nguy hiểm nhất của mình.
QUÁN PHÁP BÌNH ĐẲNG
Đạo Phật chủ trương có nhiều pháp môn tức là nhiều
con đường, nhiều lối đi, nhiều sự hành trì. Trong kinh Kim
Cang đức Phật dạy “Chư pháp bình đẳng vô hữu cao hạ”.
Các pháp môn vốn là ngang bằng với nhau, không phân cao
thấp. Rất tiếc khi truyền bá, các tổ đã dùng những ngôn ngữ
phương tiện như: Pháp môn này là số một, mầu nhiệm, được
chư Phật hộ niệm, hộ trì… làm cho chúng ta cảm giác các
bài kinh có cao có thấp, có phân tầng xã hội trong khi nó vốn
không như thế. Cũng như trong các loại thuốc, không thể nói
thuốc nào hay hơn thuốc nào. Chỉ có uống đúng thuốc thì
nhanh hết bệnh, uống trật thuốc thì bệnh nặng hơn thôi.
Như vậy, phải tùy tình huống mà chúng ta phân định.
Các pháp môn trong đạo Phật cũng như vậy. Một người đang
chán nản, thất vọng, đang buồn, đang khổ, đang đau mà kêu
ra gò mả để quán tử thi chắc sẽ tự tử luôn.
Trong thời đức Phật đã từng có những vị Tỳ kheo như
thế. Vì buồn chán khi nhận ra thân thể ngũ uẩn, họ ra gò mả,
lại gặp toàn xác chết, tang tóc, sầu bi, khổ não…, mức độ của
nỗi khổ từ đó được cường điệu, tăng trưởng, nhân rộng, kích
thích. Đối với những người như thế mà dạy về phương pháp
quán tử thi, lợi bất cập hại.
VƯỢT QUA CÁI TÔI •  7
Về phương pháp quán vô ngã trong phương pháp quán tử
thi hay vô tự tại, không quan trọng nó cao hay thấp, chỉ cần
đặt đúng tình huống thì có kết quả. Ví dụ: Một người ăn chơi
đang lún sâu trong sự hưởng thụ, quá đặt nặng chủ nghĩa xem
cơ thể như là Thượng đế, vun vãi tiền bạc để chăm sóc nó -
như thói quen của nền văn hóa phương Tây – nơi mà người ta
bảo hiểm cái miệng, con mắt, cái tay… bằng hàng triệu đô la.
Nếu dạy họ phương pháp quán tử thi để họ hiểu được cái vô
thường khi thấy tử thi trương sình, hư thối, rã mục, trở thành
tro bụi v.v... sẽ khiến họ bớt đi chấp trước, bình thường hóa
và sống với cái ngã như là người bạn, không quá hưởng thụ,
cũng không quá bi đát.
Đó là phương pháp tu đạo, cao và thấp còn lệ thuộc vào
căn tính và sự ứng dụng với từng con người. Bản chất pháp
môn trong đạo Phật không có cao và thấp. Từ đó, những quan
niệm cho rằng Thiền chỉ áp dụng cho căn cơ cao thượng,
còn Tịnh độ áp dụng cho sơ cơ là không chuẩn xác. Hoặc
những quan niệm cho rằng tu Thiền, mười người tu thì một
người chứng, còn tu Tịnh độ mười người tu thì mười một
người chứng… cũng là hình thức khích lệ cường điệu. Tu
chân chính, đúng phương pháp phù hợp với mình mới mang
lại hiệu quả cao nhất.
Mẹ chúng tôi là người lam lũ, không biết đọc chữ cái, di
cư vào Nam từ năm 1943. Bà khổ cực từ nhỏ, phải lo cho
một đàn con thì đâu còn thời gian để ngồi học. Khi chúng tôi
đi tu, khuyến khích bà trở thành Phật tử thuần thành. Nhưng
nếu khuyên bà tu bằng những phương pháp cao siêu thì làm
sao bà tu nổi, chỉ có nước niệm Phật thôi. Như vậy, ta có cảm
giác rằng pháp môn Tịnh độ phù hợp với người bình dân hơn.
Nhưng người tri thức áp dụng phương pháp Tịnh độ một
cách có nghệ thuật, chính là Thiền. Nhứt tâm bất loạn là cốt
8 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
lõi của Thiền: Hơi thở, nụ cười, thư thái, buông xả, chánh
niệm, tỉnh thức, an lạc từng bước chân, hay là trong tư thế đi,
đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, nói, nín, động, tịnh, thức và ngủ
giữ được sự tỉnh thức… là nhất tâm bất loạn.
Như vậy, Tịnh độ cũng chính là Thiền. Khi chúng ta xem
tất cả các pháp môn đều hỗ trợ cho nhau, không còn thói quen
xem pháp môn của tôi là số 1, pháp môn của người khác là
thứ yếu, thầy của tôi là số 1, chùa của tôi là số 1… Trong đạo
Phật có tông môn pháp phái như là những sở trường, những
con đường, cũng giống như giao thông có nhiều phương tiện,
không thể nói xe hơi là số 1, xe lửa là thứ yếu, máy bay là số
1, xe Honda là số 1… Tùy điều kiện, địa hình, hoàn cảnh mà
mỗi loại phương tiện phát huy được hết tiện ích riêng.
Hiểu được như vậy, ta có được tri thức dung thông vô
ngại. Chúng ta thử hình dung có một đỉnh núi, cảnh rất hữu
tình, trên núi có mây, núi được phủ bởi đá và cây xanh…;
bên dưới là biển với các vầng mây mù bao phủ, tất cả quyện
vào nhau như bức tranh tuyệt đẹp, nên thơ. Ta thử hình dung
mây đi ngang qua đỉnh núi, thân núi... Nếu mây có cảm giác
rằng núi cản trở, mây sẽ phiền não, kiếm chuyện, mây sẽ
vướng lại cho tiến trình xử lý của mình. Núi cũng có cảm
giác rằng, mây mù phủ tỏa làm cho màu xanh của núi không
được người ta thưởng thức trọn vẹn thì núi sẽ kháng cự,
chống đối. Trên thực tế, núi và mây không có tâm niệm đó.
Nhờ vậy, ta thấy cảnh mây phủ trên núi trở thành cảnh đẹp.
Trong kinh Dược Sư có hai vị Bồ tát là Nhựt Quang Biến
Chiếu và Nguyệt Quang Biến Chiếu. Nhựt Quang là ánh
sáng mặt trời, Nguyệt Quang là ánh sáng mặt trăng. Mặt trời
và mặt trăng hiếm khi gặp nhau, mỗi khi gặp luôn dẫn đến
một trong hai hiện tượng hoặc là Nhật thực, hoặc là Nguyệt
thực. Cả hai đều ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, vụ mùa và
VƯỢT QUA CÁI TÔI •  9
công việc làm ăn. Từ đó người ta mới có thành ngữ: “Mặt
trăng, mặt trời với nhau” nghĩa là hai người không được tâm
đầu ý hợp, có tính cách loại trừ, xung đột. Họ thường giải
quyết xung đột bằng cách một còn một mất. Ai có tính cách
như thế thường có cái tôi rất lớn. Cái tôi đó trở thành ám khí,
chướng khí hay suy khí. Do vậy, không thể nào sống chung
với nhau được, nỗi khổ niềm đau từ đó mà phát sinh.
Đức Phật Dược Sư được gọi là “đức Phật dược chất tâm
linh”. “Dược” là dược chất, “Sư” là thầy thuốc. “Thầy thuốc
dược chất tâm linh”, lý do nào mà Ngài có được danh hiệu
cao thượng này?
Ngài đã thành công trong việc huấn luyện hai cao đệ -
Nhựt Quang và Nguyệt Quang - trở thành cánh tay trái, tay
mặt của Ngài. Đó là biểu tượng của sự hóa giải những xung
đột trở thành hai xung lực hỗ trợ lẫn nhau. Lúc đó, khổ đau
trở thành hạnh phúc, phiền não trở thành Bồ đề, trần gian trở
thành Tịnh độ, bùn nhơ là chốn cho hoa sen nở. Cái tôi được
chuyển hóa là hạnh phúc có bản lĩnh. Như vậy, toàn bộ tiến
trình tu tập của con người là làm sao để giải phóng cái tôi.
Có người đặt ra vấn đề: Nếu tôi tu tập theo Phật là vô
ngã, không may có kẻ ngoại xâm, chẳng lẽ tôi không kháng
cự, không chống đối, để mặc cho chúng giày xéo quê hương,
mang lại nỗi đau tang tóc, chết chóc, bất hạnh?
Trong tình huống đó phải có những người nhập thế. Đối với
vấn đề ứng xử với kẻ ngoại xâm, giáo lý nhà Phật dạy ta không
nên xuất phát từ lòng hận thù, giống như Trần Quốc Toản bóp
nát quả cam, chuyển lòng sân hận, căm thù của mình qua động
tác bóp mà thần thái bên ngoài vẫn bình tĩnh. Hay như Trưng
Trắc, Trưng Nhị ăn ý với nhau: Người chị nói với người em nên
để cho giặc phương Bắc không đánh giá cao người miền Nam
bởi sự khinh địch sẽ sớm dẫn đến thất bại; người em nghe lời,
10 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
cố nén nỗi đau, nén cái sân vào trong mà giả vờ bắn trật. Đó là
động tác của những nhà ngoại giao về chính trị.
Đạo Phật dạy khi đất nước lâm nguy thì ơn tổ quốc, ơn
đồng bào, ơn xã tắc ở quê hương được đặt lên hàng đầu trong
tứ trọng ân. Mỗi người Phật tử đều phải có trách nhiệm. Lúc
đó, ta nên tham chiến bằng thái độ của lòng từ bi. Hãy phát
nguyện rằng: Tôi xin nhận nghiệp sát về phía mình để cứu
giúp cho hàng triệu con người vô tội. Tôi ngăn chặn hành
động sát nghiệp của giặc ngoại xâm để sát nghiệp đó không
được gieo rắc ở nhiều người hơn. Đó là Đại Trí, Đại Dũng
trên nền tảng của Đại Bi.
Như vậy, cũng trong một động tác sát nghiệp, người phát
nguyện yêu nước và khởi xuất từ lòng từ bi sẽ giảm được
nghiệp sát sanh, hậu quả cũng nhờ đó mà nhẹ đi. Phước báu
bảo vệ quê hương xã tắc, bảo vệ mạng sống của đồng loại
và ngăn chặn nghiệp sát của kẻ ngoại xâm lại tăng gấp trăm
lần. Vì nó có tác dụng bù trừ nên ta thấy những vị tướng tài
có lòng yêu nước, không hận thù thường sống thọ. Có người
sống đến 80, 90 tuổi. Một ví dụ điển hình là Đại tướng Võ
Nguyên Giáp. Trong lịch sử, nhà Trần có đức thánh Trần
Hưng Đạo…
Giải quyết các xung đột bằng thái độ vô ngã chính là sử
dụng hòa đàm thay vì vũ khí. Ngày nay, Liên Hiệp Quốc đã
sử dụng giải pháp của đạo Phật và thấy rất hiệu quả, tuy kết
quả đến chậm nhưng không có những phản ứng phụ, không
gây tổn thất cho các phía. Trong chiến tranh, nói theo đạo
Phật: Không có bên nào chiến thắng, cả hai bên đều thất bại,
hoặc ít, hoặc nhiều; chiến thắng chỉ là sự tương đối trong tư thế
giành chủ quyền dù đúng hay sai, dù chánh nghĩa hay phi nghĩa.
Do đó, kẻ thù của hạnh phúc, của phát triển, của tâm linh,
VƯỢT QUA CÁI TÔI •  11
của đạo đức chính là cái tôi của mỗi người chứ không phải
ai khác. Người tu học Phật sẽ bắt đầu quay lại chính mình
nhiều hơn, thay vì đổ trách nhiệm, quy kết cho hoàn cảnh và
tha nhân. Phản quan tự kỷ để thấy rõ cái bế tắc ở chỗ nào rồi
từ đó tháo gỡ là cả một tiến trình tu tập.
***
ĐIỀU II:
ĐỪNG TỰ LỪA DỐI MÌNH
Điều thứ hai: Ngu dốt lớn nhất của đời người là dối trá.
Dối trá trước nhất được định nghĩa như là một sự lọc lừa
người khác bằng nghệ thuật ngoại giao và giả vờ. Thiết lập
niềm tin ở người khác để từ đó biến họ trở thành nạn nhân,
để mưu cầu lợi lộc cho bản thân mình. Sự dối trá được thể
hiện bằng cung cách ngọt mật chết ruồi, hay lưỡi dao lam có
thể làm người ta rỉ máu, đứt tay khi tiếp xúc. Dối trá có thể
có hình thức là sự hợp tác liên minh, đứng vào cùng một phe
phái làm cho đối tác không nghĩ rằng mình là kẻ đối lập, sau
đó lợi dụng sự cả tin của nạn nhân để qua mặt, lọc lừa. Dối
trá còn đội mũ của những tình thân, tình thương, ưu tiên và
đặc biệt làm cho những người khác có cảm giác là hân hoan
vui vẻ, từ đó mất đi sự cẩn trọng và để ý phòng ngừa.
Năm 1988, chúng tôi chuẩn bị thọ giới Tỳ kheo. Vì chùa
Giác Ngộ kế bên chợ An Đông, chúng tôi tự thân đi mua vải
để may y hậu cho việc tiếp nhận giới phẩm quan trọng trong
đời của người tu. Đi dạo một vòng khu chợ vải, những cô bán
hàng mời gọi rất ân cần: “Thầy ơi, con là Phật tử nè, con sẽ
bán giá rẻ cho thầy!”; “Thầy ơi, lại đây con xin cúng dường
ĐỪNG TỰ LỪA DỐI MÌNH •  13
thầy 50%”. Chúng tôi nghe mừng quá. Vải họ đưa cho tôi lúc
đó có giá khoảng tám ngàn, họ bán ba chục ngàn, bớt 50%
còn mười lăm ngàn. Về mặc, mới giặt lần đầu tiên nó nhàu
lại như vải nhún.
Câu chuyện tiếu lâm đó cho thấy rằng: Nếu ta thích ngọt,
thích dua nịnh, thích a tòng, thích tán dương, thích liên minh
thì ta dễ trở thành nạn nhân của những người lừa dối. Họ có
thể thiết lập tình thân và tình thương với ta rất dễ dàng, rồi
có cái gì trong tim, trong tâm ta cũng thật thà trút hết. Trong
những cuộc tâm lý chiến, họ thường đi bằng những chiêu
này. Tuy nhiên, lừa dối dù dẫn đến sự thành công nhưng hậu
quả của nó là mất đi sự tín nhiệm.
Ngu dốt trong đạo Phật gọi là vô minh. Vô minh được
định nghĩa là bất kỳ một thái độ nhận thức, đánh giá, phán
đoán bao gồm: Loại suy, quy nạp, tổng hợp... nhưng lại không
dựa trên nền tảng của nhân quả nên đều dẫn đến nhận thức
sai, mê muội. Ở một số bài kinh khác, nhận thức nào không
đặt trên nền tảng của Tứ diệu đế, tức là hai lớp nhân quả, một
lớp khổ đau và một lớp giải quyết khổ đau, thì người đó được
xem là đang sống trong si mê.
Đi con đường đạo Phật chân chính, ta trở thành một người
rất khoa học. Đối diện với những khổ đau như với thực tại,
không trốn chạy, phanh phui gốc rễ và nghĩ tưởng đến giải
pháp. Tri thức Phật pháp là tri thức giải quyết vấn đề, kiến
thức Phật pháp là kiến thức tạo ra sự bình ổn. Ai không sống
theo như thế là đang bị si mê, ám ảnh chi phối. Ngu dốt là
một trong những cái làm cho con người khó tiến bộ.
Các chính thể nhân danh văn minh có mặt ở những quốc
gia nghèo khó - trên thực tế là bóc lột, đàn áp, biến các quốc
gia đó trở thành thuộc địa - đều áp dụng chính sách ngu dân.
14 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Pháp là một quốc gia được xem là văn minh trong thời kỳ
trung - cận đại nhưng lại áp dụng chính sách ngu dân lên các
quốc gia thuộc địa. So với Anh, Pháp ác độc hơn.
Những quốc gia bị Anh đô hộ, cai trị như Miến Điện, Ấn
Độ, Nepal, Bangladesh… đều được ứng dụng nền giáo dục
tiên tiến của Anh, khiến cho những nước ngày càng phát triển.
Bên cạnh việc hưởng thụ những lợi lộc về kinh tế, chính trị,
quân sự, người Anh cũng mang tới những cái khác để đóng
góp cho các quốc gia thuộc địa. Trong khi đó, ở những quốc
gia bị Pháp đô hộ, nền giáo dục của Pháp không được mở
rộng, những quốc gia thuộc địa không tiếp nhận được những
phần tinh hoa của nền giáo dục tiên tiến đó.
Sự ngu dốt là kẻ thù của tiến bộ, thường dẫn đến sự sợ
hãi. Khi sợ hãi thì hoài nghi, nảy sinh ý muốn thanh toán,
loại trừ những kẻ đối lập để đạt được vị thế độc tôn. Một
trong những biểu hiện của cái ngu dốt là sự dối trá. Bởi vì,
tưởng lừa lọc được người khác là mình khôn ngoan nhưng
thực chất, lừa lọc người khác nhiều chừng nào là ngu si nhiều
chừng đó, vì mình đang sống trong sự mê muội. Nó dẫn dắt
và kéo theo lòng tham. Để được lợi lộc vị kỷ, mình để mặc
lòng sân của mình trừng phạt, hành hạ người.
Trong Phật giáo, Phật tử được gọi là chân nhân, tức là
người chân chính, người có tư cách. Lừa dối người khác là
lừa dối chính mình, bởi ta có thể lừa dối hàng ngàn người
cùng một lúc, nhưng không thể lừa dối lương tri của mình
dầu chỉ một giây. Đức Phật dạy: Muốn tháo gỡ được vô minh
thì ta phải có bản lĩnh, tức là liêm khiết nhận thức về mức độ
mà mình đang có, những khó khăn mình đang gặp, những bế
tắc mình đang đối đầu. Phải thừa nhận, ta mới có cơ hội vượt
qua, để làm mới, để tiến bộ.
ĐỪNG TỰ LỪA DỐI MÌNH •  15
Sống với Phật tử chân chính thì người lân cận hợp tác và
cộng sự được bình an thoải mái. Còn sống với những người
lừa dối, mình phải phòng hờ, cẩn trọng, lời ăn, tiếng nói, của
cải, mất hết sự bình an. Lừa dối là thái độ rất xấu, nó chính là
con đẻ của vô minh, nghĩa là thiếu trí tuệ.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và một số bản kinh Đại
thừa khác có đưa ra một hình thức lừa dối nguy hại hơn, đó
là tăng thượng mạn: Tự mình chưa chứng được thánh quả,
lòng phàm, tâm tục vẫn còn, hành động si mê… nhưng lại tự
tôn vinh mình bằng Thượng đế, Phật sống, Bồ tát; nhận sứ
mệnh của người trên thông qua cái điển nào đó để làm đạo
cho dương thế.
Những kẻ như thế đều gọi là tự lừa dối mình và lừa dối
người. Ngặt một nỗi, con người ta lại thích gần gũi với những
người thích bạo miệng, to gan. Cái tôi làm cho họ dễ dàng
sống trong sự lừa dối: Tôi làm đệ tử của Phật sống, tôi là đệ
tử của Bồ tát sống, tôi là đệ tử của Chúa sống, tôi là đệ tử của
A-la-hán sống… vinh hạnh hơn, thoải mái hơn, tên tuổi hơn.
Do đó, họ đã rơi vào tình trạng tiền mất tật mang với cơ cấu
của lòng si mê. Có nhiều Phật tử gần đây chạy theo những
người tự xưng như vậy, thậm chí lấy nước tắm người đó uống
vào để cầu hết bệnh.
Những người tự lừa dối nhân danh Bồ tát sống, Phật
sống để làm những chuyện phàm tục vì mục đích lợi ích
cá nhân, kinh điển gọi là tăng thượng mạn, tức là ngã mạn,
cống cao, xem mình như bậc Thánh, là số 1 không ai hơn, là
vô thượng sư. Đức Phật còn không gọi Ngài là vô thượng sư
(“vô thượng” là không ai bằng, không ai hơn), Ngài chỉ nói
Ngài là đạo sư, tức là người chỉ đường. Tuệ giác có ai bằng
được Phật mà Ngài còn khiêm tốn như thế. Trong kinh, đức
16 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Phật nói “Ta không phải là người phát minh”. Mặc dù, trên
thực tế, Ngài là người phát minh ra đạo Phật.
Ngài nói: “Chân lý mà Ta công bố cho tất cả các đệ tử
chỉ là một sự trở về, như lá rụng về cội”. Giống như trong
rừng sâu có một tòa lâu đài bị bỏ quên không ai để ý. Trải qua
năm tháng, nó bị cổ thụ và dây leo phủ trùm quấn quýt xung
quanh làm cho người ta không nhìn thấy nó. Ngài chỉ tình cờ
phát hiện ra khi lần từng bước chân đi vào đó, phát quang cây
cỏ, tạo ra một dáng vẻ quang đãng cho tòa lâu đài.
Chân lý mà Ngài giác ngộ, các đức Phật trong quá khứ
đã từng đi qua, các đức Phật hiện tại khác cũng đạt được, các
đức Phật tương lai cũng sẽ đi qua, nó là chân lý chung, không
có gì để hãnh diện tự hào. Đó là lý do đức Phật nói trong kinh
Viên Giác: “Trong suốt 49 năm thuyết pháp giảng kinh, Ta
chưa từng nói một lời nào”.
Nhiều người đã hiểu sai, nói đức Phật từ chối trách nhiệm
trong việc phát ngôn lời nói của mình. Nhưng thực chất, đức
Phật không muốn ai tôn vinh Ngài. Ngài nói tất cả giá trị,
chân lý, đạo đức, tình thương, nhưng vẫn không nói Ngài là
tác giả, vì các đức Phật quá khứ đã từng dạy: “Ta có cơ hội
để học, thông qua đức Phật, Ta biết được một cách gián tiếp
thôi”. Từ lời tuyên bố đó, ta có thể khẳng định rằng không có
một loại tri thức nào - dù những phát minh mới nhất của các
nhà khoa học - là mới hoàn toàn. Tất cả đều được chắp nối,
tổng hợp… mà có được.
Tâm lý học phương Tây cho biết có những người bị tâm
thần phân liệt, sống trong ảo giác, tưởng mình là Thượng đế
tái thế mà nhân danh Thượng đế thế này, thế kia. Đó là điều
đáng buồn, đáng thương, đáng tội nghiệp. Nhưng đối với
những người tự lừa dối thì đó là điều đáng trách. Ai có tâm
ĐỪNG TỰ LỪA DỐI MÌNH •  17
tăng thượng mạn thì khó có thể chấp nhận cái hay hơn, cái
cao hơn, cái tuyệt vời hơn vì họ nghĩ mình là số 1. Tự lừa
dối mình là một hình thức khác của cái tôi. Cái tôi si mê, còn
được gọi là ngã si. Si mê vì chính mình, nên tự lừa dối mình,
lừa dối người. Đây cũng là con đẻ của tự ngã.
***
ĐIỀU III:
TỰ ĐẠI SẼ ĐƯA ĐẾN
THẤT BẠI
Điều thứ ba: Thất bại lớn nhất của đời người là tự đại.
Nó cũng là một hình thái của cái tôi. Tâm lý học Phật giáo
phân tích theo ba chiều hướng so sánh: Hơn, bằng và thua để
đong đo hình thù vóc dáng của cái tôi. Có những người trình độ
là 5 nhưng nghĩ mình là 10, có những người ngang với người
khác mà vẫn nghĩ mình là hơn người khác, tức là bằng mà so
sánh hơn, thua mà so sánh hơn. Tất cả đều dẫn tới tình trạng lấy
cái tôi làm hệ quy chiếu, tạo ra nhiều phiền muộn, rắc rối.
Trong ngôn ngữ giao tế, người Việt Nam thường có cách
xưng hô chủ quan, luôn lấy mình làm trọng tâm. Còn người
nói tiếng Anh lấy khách quan làm trọng thể. Ví dụ: Một
người gõ cửa hỏi: Ba của cháu có ở nhà không? Nếu là tiếng
Anh, khi ba không ở trong nhà mà ở vườn thì người con trả
lời: My father is in the garden - cha tôi đang ở sân vườn. Việt
Nam thì nói là: Ba tôi ở ngoài vườn. Bởi vì, người Việt lấy
cái điểm mà mình đang đứng ở trong ngôi nhà làm phương
vị chuẩn, cái vườn là bên ngoài căn nhà. Thực ra là cha mình
đang ở trong vườn chứ sao ngoài vườn được, ngoài vườn tức
TỰ ĐẠI SẼ ĐƯA ĐẾN THẤT BẠI •  19
là ngoài một cái khác. Nếu phân tích thì ta thấy hệ quy chiếu
gắn liền với những cái tôi.
Ngôn ngữ Việt Nam có rất nhiều cảm xúc, cũng là ngôn
ngữ của cái tôi. Trong ngôn ngữ của chế độ quân chủ, cái tôi
bị bắt buộc phải tôn vinh những người bề trên và xem mình
là kẻ hèn mọn. Cả những ông tướng giỏi, những vị quan cận
thần tài ba, mỗi khi muốn trình thưa điều gì cũng phải quỳ
mọp sát đất, bái lậy, vâng bẩm để vua ghé mắt đến. Họ là
những người rất tài giỏi, kiến thức và khả năng của họ có thể
hơn gấp trăm lần vua nhưng đều phải giả vờ như kẻ ngu dốt
nếu không muốn bị buông lời sàm tấu, bị kết tội chém đầu.
Chữ tài mà không biết lấy trí tuệ để soi sáng, cứ để cái tôi
phủ trùm. Nói theo truyện Kiều của Nguyễn Du: “Chữ tài đi
liền với chữ tai một vần”. Nhất là với chữ tài tự đại, hậu quả
và những chướng duyên sẽ đi liền theo sau, thất bại trong
cuộc đời là điều hiển nhiên.
Ngôn ngữ Việt Nam rất có cảm xúc. Ví dụ: Mình tự xưng là
cháu, con, em với những người mình kính trọng, quý mến; đối
với kẻ thù, mình tự xưng là tao; đối với người dưng là tôi v.v…
Hoa văn, Anh văn lại không như thế. Tiếng Anh có ngôi
thứ nhất là I, ngôi thứ hai là You; tiếng Hán có ngôi thứ nhất
là Ngã, ngôi thứ hai là Nị; tùy theo ngữ cảnh, mối quan hệ
mà ta hiểu cách xưng hô. Tiếng Việt rắc rối và nhiều cảm xúc
nên cái tôi dễ xuất hiện theo. Phật tử đến chùa, gặp quý thầy,
khi muốn xin cái gì đó liền thưa: Bạch thầy cho con xin ăn
mày công đức. Phật tử lúc đó tự biến mình thành kẻ ăn xin,
không nên hành xử như vậy. Đó là mình tự ti mặc cảm, cho
rằng mình nhỏ bé. Ta vốn bị ảnh hưởng nền văn hóa thưa,
bẩm, trình, điều đó làm cho người được tiếp nhận dễ tự hào,
tự đại, tự cao, tự đắc.
20 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Học thuyết của đạo Phật dạy vô ngã, làm cho người ta trở
nên khiêm tốn, dễ gần gũi. Người tự cao tự đại lúc nào nói
cũng kể công, giúp đỡ người khác được một chút là đi đâu
cũng kể, ta nghe là sợ luôn, không dám nhờ nữa. Đó là hình
thức tự đại về thành quả. Người lớn tuổi ngồi lại với nhau
tâm sự thường kể chuyện đời xưa: “Hồi xưa tao vác được
ba bao gạo, mỗi bao 50 kg, đâu phải như bọn mày ngày nay
ăn ươn ở dở mà làm chẳng ra gì. Nam nhi gì đâu như công
tử bột, yếu hèn quá”. Hoặc: “Tao ngày xưa công dung ngôn
hạnh đầy đủ, ai như bọn mày tối ngày lo xí xọn, chưng diện,
không biết làm gì khác. Về làm dâu nhà này, bát chén không
biết dọn rửa, nhà cửa không biết lau quét, đợi làm sẵn cho
ăn, gì đâu mà tệ hại quá”. Có những cái cũng có thật, có
những cái cũng hơi cường điệu. Thật ra, trong cuộc đời các
cụ làm có một lần mà nói như thể sống mấy chục năm làm
như thế. Vác một lần ba bao gạo cụp xương luôn, đi vật lý trị
liệu, trị mấy năm trời mới hết. Muốn người khác bắt chước
theo cho người ta chết sớm hay sao!
Tự đại là tâm lý cường điệu, giá trị thực, đóng góp thực,
năng lực thực của mình nhỏ lắm. Mình bơm phồng lên, cho
giãn nở ra, tạo ra một ảo giác về tính giá trị. Công nghệ
quảng cáo thường đánh vào thói quen tự đại, tự hào, cho rằng
tiền nào của đó của khách hàng. Các công ty dựa vào việc
khai thác tâm lý trên để làm giàu.
Cũng là một sản phẩm hoa hồng, nhưng nếu gắn vào một
grand name tức là thương hiệu, giá cả của nó sẽ tăng lên gấp 10
lần. Cũng một cái áo, quần được may ở Việt Nam bán ra nước
ngoài, được một công ty gắn cái mạc thương hiệu, giá thành lập
tức tăng gấp trăm lần. Người ta có quan niệm tiền nào của đó,
phải xài hàng hiệu để chứng tỏ rằng mình là người nhà giàu, biết
thưởng thức. Công nghệ thời trang cũng đánh vào tâm lý đó.
TỰ ĐẠI SẼ ĐƯA ĐẾN THẤT BẠI •  21
Công nghệ quảng cáo tạo ra giá trị ảo cho các sản phẩm.
Khách hàng bị nhồi sọ bởi các phương tiện truyền thông như
truyền thanh, truyền hình, báo chí. Những phương tiện này
sử dụng các kỹ xảo làm cho người ta phải mê mẩn, đồng ý
chi khoản tiền gấp nhiều lần so với giá trị thực của sản phẩm.
Đó cũng là một cách thỏa mãn tâm lý tự đại.
Khách sạn ở Việt Nam hiện nay tối đa là 5 sao, người ta
đang xây dựng khách sạn 6 sao, ở nước ngoài có khách sạn
7 sao. Một đêm lưu trú trị giá khoảng 10 ngàn đôla cho đến
50 ngàn đôla. Cái vòi rôminê được làm bằng vàng thật khiến
cho du khách mê mẩn bởi được thưởng thức cảm giác sang
trọng quý phái tựa như vua chúa. Điều đó càng đánh vào sự
tự đại, tự hào của con người để khai thác và làm giàu trên tâm
lý người tiêu dùng.
Ai sống với tâm lý tự đại thì phải tổn thất nhiều thứ cho
những dịch vụ không đáng. Nó tạo ra khoảng cách rất lớn
giữa mọi người. Nhân gian thường nói câu kính nhi viễn chi.
Nói kính chứ thật ra không kính mà sợ quá nên phải kính để
khỏi bị vướng lụy. Viễn chi là xa người đó không dám lại
gần, vì lại gần không tốt, những người tự đại thường phải
chịu như vậy.
Ai được tâng bốc nhiều, khen ngợi nhiều thì năng lực tự
đại càng lớn nhanh. Muốn hại, làm sụp đổ một người nào
hãy khen khống, khen rỗng để họ hãnh diện tự hào thì sẽ sớm
chuốc lấy thất bại. Do đó, nếu sống với tâm lý tự đại, ta trở
thành kẻ thất bại và là nạn nhân của nhận thức cường điệu
hóa sai lầm về bản chất thật của mình.
***
ĐIỀU IV:
TÙY HỶ ĐỂ XẢ BỎ CÁI TÔI
Điều thứ tư: Bi ai lớn nhất trong đời người là sự ganh tị.
Ganh tị là một thái độ cảm xúc, ta không muốn thừa nhận
những giá trị, thành công, nhan sắc... của người khác. Ganh
tị làm cho ta có cảm giác tức và khó chịu khi người khác có
được những giá trị mà mình không có, chính vì thế, tâm lý
ganh tị làm cho con người tổn thất phước báu. Để trị liệu tâm
lý này, đức Phật dạy hạnh tùy hỷ công đức dựa trên nền tảng
là thái độ, vui với, vui theo sự thành công, giá trị, đóng góp
và những điều có lợi ích của người khác dành cho cuộc đời
và tha nhân.
Người có tâm ganh tị mặt méo mó, dễ bị những chứng
bệnh tai biến mạch máu não, tăng xông máu, rối loạn thần
kinh, mất ngủ xanh xao và nhiều chứng bệnh tim, mạch, tỳ,
phổi, thận… Do đó, đời sau sẽ bị hậu quả không có nhan sắc.
Người nữ ganh tị càng nhiều thì càng xấu, hoặc họ vốn đang
đẹp mà lại ganh tị thì cái đẹp đó không còn tồn tại nữa, nó sẽ
chóng tàn phai với thời gian.
Người có tâm hoan hỷ, đôi lúc không cần sử dụng mỹ
TÙY HỶ ĐỂ XẢ BỎ CÁI TÔI •  23
phẩm mà mặt vẫn tươi, vẫn sáng, nước da vẫn bóng láng rất
đẹp. Chỉ cần sống hoan hỷ với nụ cười, niềm vui, đi đâu cũng
nhìn thấy tích cực và tán dương thì người đó sống hạnh phúc,
sống tự tại, gương mặt tươi vui, xinh đẹp.
Thực tập để có niềm vui, nụ cười trao tặng cho người là
ta đang thực hiện hạnh tùy hỷ. Tùy hỷ được thể hiện qua lời
khen, đánh giá tích cực. Mỗi người đều có hai phương diện
tốt và xấu, tiêu cực và tích cực. Người có hạnh tùy hỷ thường
đánh giá người khác ở phương diện tốt, với cái xấu thì góp
ý riêng để họ không mặc cảm, không bị đẩy vào thế chân
tường, từ đó họ cảm động mà sửa sai. Nếu phê bình chỉ trích
nặng lời, dầu họ có thấy mình sai cũng chưa chắc chịu sửa
chữa, vì cái tôi đang bị thương tổn nên họ phải kháng cự lại,
bảo hộ nó bằng tinh thần tự cao, tự đại, dối trá hay ganh tị.
Có hai anh em nhà nọ, người anh giỏi và đẹp trai hơn
người em, nhờ vậy được nhiều người quý mến. Còn cậu em
trai, như là oan trái nhiều đời, mỗi khi đi đến đâu mà thấy
anh mình được người ta tán dương là tức nghẹn trong lòng,
về không ngủ được. Hai anh em đều là võ sĩ, người anh vừa
đoạt giải quán quân. Người em thách đấu với anh để chứng
tỏ rằng là cậu ta hơn. Nếu như thắng được người anh thì anh
ta là đại vô địch, không cần phải trải qua vòng loại. Người
anh thương em nên nói sẽ nhường lại giải quán quân cho em,
không cần phải đấu. Cậu em tức lồng lộn, đòi phải đấu và
thắng bằng nỗ lực của mình chứ không cần ban tặng thành
quả và dọa sẽ giết người anh nếu anh vẫn không chịu đấu.
Rồi cuộc đấu đó diễn ra, người em thua. Anh ta tấm tức, tủi
nhục nên tự vẫn mà chết.
Tâm lý ganh tị làm cho ta không thừa nhận được sự thật,
quáng mờ đôi mắt, chỉ thấy sự cay, độc, xem người hơn mình
là kẻ thù, là đối thủ. Lẽ ra, ta phải hiểu rất rõ: Mình có sở
24 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
trường của mình, không nhất thiết phải đi bằng lối mòn sự
thành công của người khác. Ta hãy phát huy những gì ta có
và trở thành quán quân trong lĩnh vực đó. Chỉ cần ta có được
cơ hội đóng góp, giả sử nỗ lực nhiều mà vẫn không đạt được,
không thành tựu được thì ta vẫn hài lòng thôi.
Đức Phật dạy hãy tri túc, tức là biết đủ, tạo ra một trạng
thái hài lòng về thành quả của mình. Sau khi mình đã nỗ lực
hết phương pháp bằng những điều kiện, hoàn cảnh, bằng tất
cả những gì ta đang có, thì thành quả đến đó là nhiêu đó mà
thôi, muốn khác hơn cũng không được.
Kinh Pháp Hoa gọi đó là “Như thị quả báo, bổn mạt cứu
cánh”. Cái nhân như vậy, cái quả phải là như vậy. Cái duyên
như vậy, cái quả phải như thế. Đầu đuôi hoàn cảnh tác động nó
là như vậy, thì như vậy thôi, chứ có muốn cũng không khác hơn
được. Thái độ hài lòng làm ta không ganh tức. Với những cái
ta không đạt được mà người khác đạt được ta nên chúc mừng.
Tinh thần võ sĩ đạo theo Thiền của Nhật Bản dạy các võ
sĩ trước khi lên đấu trường chào lẫn nhau, sau khi phân thắng
bại cũng phải chào lẫn nhau mới xuống vì võ sĩ đạo là một
môn nghệ thuật chứ không phải là phương tiện để chứng
minh bản thân. Nhờ đó, tính chất ganh đua cũng bớt đi dù dĩ
nhiên, những người hoạt động trong lĩnh vực đó luôn muốn
mình là số một, chứ không muốn là số hai.
Ta thử hình dung một con ngựa, nếu nó có lưng dài, ngồi
được 3 người, phải có người ngồi đầu, người ngồi giữa,
người ngồi sau, cái gì cũng thế. Bên trong chánh điện của
chùa Thanh Nhàn ngồi khoảng gần 80 người, thềm bên ngoài
có thể được 50 người, phần còn lại có thể được 100 hay 200
người, cũng phải có người ngồi trước, người ngồi sau, không
thể tất cả cùng ngồi trước. Trong mọi thứ cũng vậy thôi, ganh
TÙY HỶ ĐỂ XẢ BỎ CÁI TÔI •  25
tị để làm gì. Mình ngồi ở sau, mình phải tâm niệm là tôi
đang cúng dường chỗ cho người ngồi trước, tâm mình sẽ nhẹ
nhàng. Còn lúc đó mình cứ chăm chăm nghĩ tôi bị bà đó xí
chỗ, chỗ đó tôi thường ngồi mỗi ngày là mình tức lên liền,
khó chịu, phiền não.
Để chuyển hóa tâm ganh tị ta phải khởi tâm nhường cơ
hội, điều kiện cho người khác. Có một cư sĩ tại gia phát tâm
cúng kính, hỗ trợ xây dựng chùa rất mạnh. Nếu nói về thành
tích, vách tường dán không hết bằng khen. Ông này lại có
tâm ganh tị không muốn ai hơn mình, và muốn người ta phải
thừa nhận công lao của mình.
Cảm mến đạo lý sâu xa của nhà Phật, vào lúc cuối đời,
sau khi chia phần tài sản và thừa tự cho con cháu, ông đi tu ở
ngôi chùa mà ông thường xuyên đến cúng dường nhất. Vào
trong chùa, vị sư trụ trì để cho ông ở một căn phòng khoảng
chừng 6m2, có một cái giường ván lồi lõm, không có chiếu,
không có nệm như ở nhà. Vị sư trụ trì yêu cầu mỗi tuần
chỉ được gặp thầy một lần, và chỉ được hỏi một câu để tập
chuyển hóa thói quen nói ngoài lề.
Đúng một tuần, mới 6 giờ sáng, người cư sĩ gõ cửa phòng
thầy trụ trì, thầy ra mở cửa và hỏi: “Có chuyện gì không?”.
Ông trả lời là “giường cứng” rồi bỏ về phòng, mặt tái mét,
giận lắm. Ta có thể hiểu rất rõ trong tâm ông nghĩ rằng: “Tôi
cúng chùa, tạo công đức quá nhiều, mà ông đì tôi như thế
à? Còn những người mới tu toàn được ở phòng sang. Lẽ ra
tôi xứng đáng được ở phòng tốt hơn phòng họ”. Đó là cái tôi
của thành quả, muốn mình phải được thừa nhận, phải được
đánh giá.
Các vị đạo sư có cái nhìn rất sâu sắc, tùy bệnh cho thuốc.
Biết ông này có cái tôi tự đại, do đó bài học đầu tiên để tháo
26 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
mở cái tôi là phải tạo nghịch cảnh như thế để cho ông đối
diện với cái thiếu thốn. Sau đó, ông vỡ lẽ rằng cái tôi của
mình đang bị thương tổn nên cần phải được chuyển hóa. Vì
kính mến Phật pháp ông ở một tuần lễ nữa. Hôm đó cũng
mới 5 giờ sáng, ông lại gõ cửa phòng thầy trụ trì, thầy mở
cửa ra hỏi: “Có việc gì không con?”. Ông nói: “Cơm sống”
rồi bỏ về.
Thật ra là nhà sư thử thách, cho ông ăn cơm sống, xem
ông ta có hoan hỷ được không. Ông nhìn thấy các chú tiểu
khác ăn cơm sao ngon lành quá, mà mình ăn cơm sống thì
ông giận lắm. Một tuần sau, vào lúc 4 giờ sáng, ông gõ cửa
phòng thầy trụ trì, thầy ra mở cửa chưa kịp hỏi ông đã nói:
“Tôi về”. Như vậy, bài học đấu tranh với cái tôi thất bại. Bài
thi quan trọng nhất của những người mới vào chùa tu là tháo
mở cái tôi.
Người có vai trò, vị thế xã hội lớn thường không hiểu
được điều này, vào tu không nổi. Người mới vào chùa thường
được giao cho những việc như quét rác, chà nhà vệ sinh, rửa
chén, lặt rau, bửa củi… toàn những chuyện vặt vãnh. Họ mới
so sánh: “Lúc còn tại gia, tôi có gia nhân đến vài chục người,
mỗi tháng bỏ ra 5-7 triệu đồng chuyện gì mà không xong.
Bây giờ vào chùa làm những chuyện như thế, thật chẳng ra gì”.
Hiểu vậy là sai. Đó là một trong những cách giúp ta lột cái tôi
của mình ra để cho tính chất tự đại, ganh tị mất đi dần dần.
Thông qua những việc làm đơn giản như thế ở trong các
chùa, ta có cơ hội để thiết lập chánh niệm tỉnh thức, sự niệm
Phật nhứt tâm bất loạn. Đây là những bài thực tập rất hay,
phải hiểu mới thấy được diệu lý. Hơn thua, so sánh đối chiếu
mình và người chính là nỗi đau, nỗi buồn bi ai. Càng ganh tị
nhiều chừng nào thì ta càng khổ đau chừng đó.
TÙY HỶ ĐỂ XẢ BỎ CÁI TÔI •  27
Một phương diện khác của sự ganh tị là ghen, nói theo
ngôn ngữ của Hoạn Thư trong truyện Kiều “Ghen tuông thì
cũng người ta thường tình”. Các chị em phụ nữ thường áp
dụng câu này như là chân lý, hoặc là biện hộ hợp pháp, họ
được quyền ghen và đánh đồng ghen bằng chữ yêu. Vì yêu
nên mới ghen, không còn ghen nữa tức là hết yêu. Hết sức
sai lầm. Ta phải biết, nếu ghen đúng đắn thì tạo cơ hội cho
chồng (vợ), hay người tình quay về với mình. Nếu ghen sai
lầm, ta đang giam nhốt chồng (vợ) hay người yêu trong ngục
tối bằng cách hành hạ cảm xúc, khiến cho cả đôi bên mất hết
hạnh phúc.
Có nhiều ông tâm sự: “Tôi sống chung thủy với bả suốt
mấy chục năm, ấy thế mà tôi đi đâu bả cũng thuê thám tử
theo dõi, như thể tôi là một kẻ tội đồ, mỗi ngày về là bả kết
án: “Hôm nay, ông đi đâu đến 10 giờ mới về?”, nghe rụng
rời tay chân. Làm việc mệt thấy mồ, không nghe câu an ủi,
chia sẻ, thông cảm gì, mà toàn những lời trách mắng”. Nên
khi vào bàn cơm tôi ăn không nổi, nuốt không vô. Nhiều ông
nghĩ: “Thôi bây giờ mình chung thủy với bả, bả cũng nói
mình là kẻ phản bội, vậy cứ ăn vụng cho rồi. Ăn chay không
ai biết, cứ ăn mặn một lần cho bả biết, cho đỡ tức”.
Ghen sai lầm là vô tình ta đẩy chồng về phía người tình,
cuối cùng ta cúng dường không đốt nhang cho kẻ tình địch.
Những người đàn ông đứng đắn định nghĩa chữ yêu là sự
cảm thông, gia tài mà người vợ có thể hiến tặng cho chồng là
sự tin tưởng và ủng hộ tinh thần. Đó là niềm hạnh phúc lớn
nhất của người đàn ông. Dĩ nhiên chúng ta cũng không nên
quá lơ là đến độ có những dấu hiệu báo động mà mình vẫn
dửng dưng thì rất nguy hiểm. Còn đối với những người đứng
đắn hoàn toàn thì ta không nên ghen, vì ghen như thế làm cho
cả hai không hạnh phúc, dẫn đến những bế tắc trong gia đình.
28 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Người sống trong cơn ghen thường có ảo giác, và họ rất
giỏi về suy luận, cái gì cũng nghĩ ra được, thương quá mù
quáng dẫn đến ghen tuông. Ông chồng về nhà, bà vợ lục soát
áo, xem coi có sợi tóc dài nào không. Nếu có sợi tóc là ông
này ổng đang dan díu với cô nào trẻ đẹp hơn tôi đây, nếu
không thấy an lòng. Có những bà vợ ghen quá, về giả bộ hôn
chồng thử xem trên môi, trên má của chồng có mùi hương
nào đặc biệt không. Họ tưởng tượng, ảo giác, suy luận tưởng
chừng rất logic nhưng thật ra không đâu vào đâu.
Ghen là trạng thái dẫn đến sự bi ai, không phải chỉ cho
người bị hàm oan, mà cho luôn cả chính mình, biến mình
trở thành nạn nhân. Bà Clinton - một luật sư - vợ của cựu
tổng thống Bill Clinton có được bằng chứng và bắt quả tang
chồng đang dan díu với người tập sự trong Nhà Trắng, nhưng
bà đã đứng về phía chồng. Dầu cho báo chí phê bình, đảng
đối lập trong cuộc chạy đua ghế tổng thống chỉ trích, nhờ có
người vợ hiểu biết và tha thứ, ông như được tái sanh lần thứ
hai. Ông đã nói lời xin lỗi với toàn nước Mỹ, toàn thế giới,
xin lỗi vợ, con, xin lỗi những người đã ủng hộ ông.
Tưởng chừng sử dụng chiêu bài không chung thủy để có
thể đánh ngã gục được Bill Clinton, nhưng không ngờ, nhờ
bàn tay và sự hiểu biết của vợ, Bill đã đắc cử lần thứ hai. Có
những điều tưởng chừng rất nhỏ, không đáng, nhưng với một
chút mềm lòng, nhiều người đàn ông đã sập bẫy, dẫn đến đổ
vỡ hạnh phúc gia đình lẫn sự nghiệp. Những người vợ, nếu
xác định tình thương yêu của vợ chồng vẫn còn mặn nồng,
thấy được ở người đó khả năng hồi đầu và làm mới về nhân
cách, thì ta nên tha thứ. Bên cạnh đó, có nhiều người vẫn cố
chấp không bỏ qua, họ chọn cuộc sống ly thân 9-10 năm, 20
năm… chỉ bởi không quên được nỗi đau khi tận mắt nhìn
thấy vợ hay chồng phản bội.
TÙY HỶ ĐỂ XẢ BỎ CÁI TÔI •  29
Sự tha thứ sẽ làm cho ta bớt đi nỗi đau quá khứ và làm
mới lại cuộc đời. Đây chính là nghệ thuật sống hiện tại lạc
trú, tức là bằng lòng với những gì đang có ở hiện tại, quên
đi quá khứ và đừng mơ tưởng đến tương lai, vì hai yếu tố
này làm con người sống trong điên đảo tưởng, quên đi chính
mình và nhìn người khác bằng cặp kính màu.
Thay vì ghen tuông mù quáng, ta hãy nhìn lại chính mình
và so sánh với người kia. Phải chăng mình “sư tử Hà Đông”
đến độ chồng sợ quá phải đi kiếm người dễ thương hơn? Phải
chăng mình vụng về đến độ không biết nấu cơm, chăm sóc
con nên chồng chán mà đi tìm người khác, dịu dàng khéo léo
hơn để chăm sóc cho họ và con của họ?
Nếu ta tìm ra nguồn gốc và khắc phục thành công những
điểm yếu kém của mình về công, dung, ngôn, hạnh thì chồng
sẽ quay về. Nếu ngược lại, chồng là kẻ có thói quen bướm
hoa, rượu chè, cờ bạc, thì việc anh ta đến với người khác
lại là một điều may. Đó là cơ hội để ta chia tay với “của
nợ” nặng nhọc. Như vậy, mình phải cảm ơn người “hốt” ổng
dùm, gánh cái khổ đau đã hành hạ mình suốt thời gian qua,
còn mình hết khổ, có gì mà buồn. Nếu biết được đạo lý, hiểu
được Phật pháp, có khả năng hành trì, có năng lực để tha thứ,
thì trước khi chia tay hãy tha thứ cho nhau, nhân quả ai làm
sai sẽ lãnh chịu, không phải do mình hận thù họ mới bị quả
báo. Mình tha thứ giải hòa, rồi sau đó hãy chia tay, nhìn nhau
nhẹ nhàng thư thái, và những đứa con chung của hai người
không phải bất hiếu với mẹ cha.
Nhiều người mẹ thiết lập liên minh với con, buộc chúng
đứng về phía mình và phải khinh thường, bất hiếu với cha.
Họ ngày đêm mắng nhiếc: “Cha của tụi mày là kẻ bất nhẫn,
là kẻ bất lương làm cho mẹ phải khổ đau ngày đêm, ổng theo
vợ bé mà bỏ mẹ con mình”. Nỗi đau của người mẹ truyền
30 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
nhiễm cho đứa con rồi cấm chúng không được gặp cha, khiến
chúng trở thành đứa con bất hiếu là điều không nên.
Nếu chồng/vợ cũ muốn thăm con mỗi tuần, ta cứ tạo điều
kiện cho lòng hiếu thảo của con được thể hiện trọn vẹn. Vậy
ta nên chuyển tâm lý tị hiềm, ghen tuông thành tinh thần
thông thoáng, buông xả, không chất chứa nỗi đau trong lòng.
Làm được như vậy, ta mới giải phóng được sự bi ai, buồn,
khổ, đau, sầu, ưu, phiền não v.v…
***
MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY 2
(Điều 5 đến điều 8)
Giảng tại chùa Phú Thọ, tỉnh Bình Định, ngày 04-07-2008
Đánh máy: Nguyễn Hoa, Diệu Tịnh Đinh Phi Khanh
ĐIỀU V:
ĐỪNG ĐÁNH MẤT
CHÍNH MÌNH
Điều thứ năm: Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh
mất chính mình.
Khái niệm đánh mất chính mình là sự phóng thích cái tôi
để nó bay nhảy và mất tự chủ.
Có hai nguyên nhân căn bản để đánh mất chính mình: Một
là do lòng tham chi phối, hai là do bệnh sân dẫn dắt. Người để
cho lòng tham chi phối thì mua vui bằng cách hưởng thụ, tức là
hướng về đời sống thực dụng. Khi có khuynh hướng đó tức là
đời sống nhân phẩm và phong cách đạo đức đang sa sút.
Mỗi người có một hướng đi riêng do cộng nghiệp văn
hóa, cộng nghiệp xã hội và biệt nghiệp của cá nhân tác động,
ảnh hưởng. Xã hội nào, chủng tộc nào cũng có truyền thống,
phong tục, đạo đức, chúng ta đi trên quỹ đạo và sống theo
những quy điều đó thì ở mức độ thấp nhất, ta có thể trở thành
người gương mẫu. Đánh mất chính mình là chạy theo sự kêu
34 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
gọi của lòng vị kỷ. Có những lòng tham tưởng chừng rất nhỏ
mà mình cho rằng đúng, nhưng càng đi theo càng mất sự
kiểm soát của tâm. Dầu bị dẫn dắt bởi lòng tham hay sân thì
sự đánh mất chính mình là một điều không nên.
Ngày 31-5-2008, chúng tôi cùng phái đoàn Phật giáo Từ
thiện Đạo Phật ngày nay đến viếng thăm lần thứ 5, tại trại
giam K.20 tỉnh Bến Tre. Nơi đây có 2.000 phạm nhân với
mức án hình sự từ 5 năm đến 20 năm tù. Họ đang phải từng
ngày gỡ lịch, mong một ngày được tái đoàn tụ gia đình.
Cũng như bốn lần thuyết giảng trước, sau khi chia sẻ,
chúng tôi đã gặp gỡ các phạm nhân, trong số đó có các em
thiếu niên tuổi 15, 16. Hỏi một em trong số đó nguyên do tại
sao bị vào đây, em trả lời: “Thưa thầy, hôm đó đi chơi với
bạn bè, con gặp một đứa mặt mày rất láu cá. Nhìn nó con
thấy tức khí quá, mà nó lại ăn hiếp con nữa, nên con lấy con
dao Thái Lan đâm nó cho đỡ tức”. Kết quả là em phải vào
đây 20 năm tù. Ở đây, hành động của em thiếu niên đó là biểu
hiện của việc không kiểm soát được chính mình.
Như vậy, bớt giận đâu chưa thấy, nhưng hậu quả nhãn tiền là
em phải lãnh án 20 năm tù, mất luôn cả tuổi thanh xuân. Thay vì
được ăn học rồi phát triển về nhân phẩm, đạo đức; được cha mẹ
lo lắng, chăm sóc, hướng dẫn… thì các em phải lao động mỗi
ngày 8 giờ trong trại giam. Không có tivi để xem, không có
báo chí để đọc, không có các phương tiện giải trí để thưởng
thức. Các em phải sống trong hoàn cảnh rất thiếu thốn, nóng
nực, mỏi mệt, căng thẳng, biệt lập với thế giới bên ngoài. Đó
là điều rất khổ đau. Một giây phút đánh mất chính mình có
thể dẫn đến kết quả rất thương đau, phải ân hận suốt đời.
Thường thì các cậu choai choai mới lớn luôn muốn chứng
tỏ mình là người lớn nên tập hút thuốc, uống rượu… Nếu có
ĐỪNG ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH •  35
lân la với các anh chị trong xã hội đen, giới giang hồ thì
chúng chửi thề, đánh lộn, tranh chấp, thậm chí là cướp giựt,
chém giết nhau không gớm tay để tập tành làm dân anh chị
và tưởng như thế là “ta đã được trưởng thành”. Nhưng thực
tế là càng làm như vậy, họ càng đánh mất chính mình.
Có một chị tuổi ngũ tuần, nghẹn ngào khóc và kể rằng:
Gia đình chỉ có hai mẹ con, cô rất hiếu thảo, người mẹ già
ngoài bảy mươi tuổi, mất sức lao động... Hôm nọ đi bán bị
ế, trong lòng đã cau có khó chịu rồi, vừa về đến đầu ngõ thì
thấy mẹ khóc và nói rằng bị nhà hàng xóm qua ăn hiếp. Hai
mẹ con vừa về đến nhà, người hàng xóm đó lại qua mắng
chửi thêm một lần nữa. Thấy mẹ bị khinh thường, cô ta giận
quá nên có phản ứng. Lời qua tiếng lại rồi hai bên đánh nhau,
không kiềm chế được tánh nóng, cô cầm cái búa trong nhà
có sẵn đập vào đầu bà hàng xóm thiếu lễ độ kia, bà ta chết
tươi tại chỗ.
Lần đó chúng tôi thuyết giảng về đề tài “Đứng dậy sau
vấp ngã”, cô nghe và giải tỏa được những mặc cảm. Chỉ vì
một phút sai lầm, thiếu kiểm soát mà nông nỗi như thế, trong
khi bản thân cô là người hiền lương chân chất, hiếu kính với cha
mẹ, hòa ái với những người xung quanh. Chỉ vì bức xúc do ngày
hôm đó bán không được, ế ẩm quá, về nhà thì không có tiền
mua gạo, thực phẩm cho mẹ già nên tâm sân dễ dàng trỗi lên.
Ở gần chùa Giác Ngộ nơi chúng tôi ở, có một bé trai
khoảng chừng 15 tuổi cũng đang ở tại trại giam này do dính
vào đường dây ma túy. Em đua đòi theo đám anh chị giang
hồ sống buông thả, họ tặng cho một loại bột trắng, kêu hít
vào sẽ có cảm giác kỳ diệu. Vì kiến thức chưa có, em này đã
hít vào, liền có cảm giác lâng lâng như trong thế giới thiên
bồng lạc cảnh, hạnh phúc lắm. Được anh chị đại ca cho thêm
một vài lần nữa, em bị ghiền luôn. Sau đó, họ buộc em phải
36 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
mua khi lên cơn nghiện. Để có thuốc cứu cơn nghiện, em bất
chấp tất cả. Gia đình thì nghèo, tìm đâu ra tiền? Không có
tiền thì phải đi ăn cắp và buôn bán bột trắng mới có đủ tiền
cho một tuần được một phần để hút và chích. Rồi cũng bị
phát hiện, cậu bé đã phải chịu án 10 năm tù.
Lần nào chúng tôi đi thuyết giảng ở trại tù, mẹ của em
cũng xin đi theo. Mẹ con nhìn nhau qua những giọt nước mắt.
Chỉ vì nỗi đam mê bồng bột, không nghe theo lời khuyên của
cha mẹ, nghe theo lời xúi giục của bạn xấu, cuối cùng phải
ra nông nỗi...
Do đó, nỗi bất hạnh lớn nhất là không làm chủ được
chính mình. Cứ thả mình theo thói quen, theo bản năng, theo
sự buông thả thì hậu quả kéo theo là rất nghiêm trọng. Giờ
đây, họ phải ngồi tù gỡ từng trang lịch trong sự khổ đau, hối
hận muộn màng.
Nhiều người phải chịu những hậu quả khác: Họ ăn chơi
sa đọa một thời gian, sau bỗng thấy cuộc đời vô vị, mất hết ý
nghĩa nên quyên sinh hoặc trở thành bợm nhậu. Mỗi khi có
chuyện buồn thì mượn rượu giải sầu, nhưng càng uống vào
sầu không hết mà càng tăng thêm, sức khỏe sa sút, gia đình
ly tán, vợ chồng bất hòa, cuối cùng tạo ra những địa ngục
trong nhà.
Đối với các em thiếu nhi mới chập chững vào đời thì sự
làm chủ chính mình là hiếu thảo với cha mẹ, học hành siêng
năng, nghe lời thầy cô giáo. Ở nhà thì chịu khó học bài, phụ
giúp cha mẹ, không được lân la chơi những trò chơi điện
tử quá nhiều, vừa bị cận thị, vừa tốn tiền, thậm chí bỏ học,
không có tương lai.
Thế giới ngày nay đang đối mặt với tình trạng nghiện
Internet và các trò chơi điện tử. Trung Quốc là quốc gia đầu
ĐỪNG ĐÁNH MẤT CHÍNH MÌNH •  37
tiên có một trung tâm giam và cai nghiện cho những người
nghiện Internet. Mặc dầu không phải là tội phạm, nhưng họ
chính là mầm mống gây án sau này. Một người ghiền Inter-
net có thể mất 8 tới 9 giờ bám vào màn hình nhỏ để chat, tâm
sự giãi bày với người không hề biết mặt mũi, cá tính, đời
sống, đạo đức như thế nào. Họ làm vậy chỉ để giải sầu thôi,
để trút hết cái tôi hưởng thụ của mình ra.
Nếu là người con ngoan thì sẽ không buông thả và thiếu
trách nhiệm với gia đình như thế. Học sinh, trẻ em thường
nghiện các trò chơi điện tử bởi bị những phần thưởng hấp
dẫn và muốn chứng tỏ mình là một game thủ nổi tiếng. Vì
vậy bao nhiêu tiền ông bà cha mẹ cho, thay vì để mua sách
vở học thì chúng trút hết vào tiệm Internet. Đó là một cách
đánh mất chính mình.
Những người có chồng/vợ rồi đôi khi nghiện internet
cũng bỏ luôn chồng/vợ bởi họ cứ lo tâm sự với người mà
mình không quen biết. Mỗi khi vợ/chồng hỏi đến thì nói
“Anh đang có thảo luận online” hoặc “Em đang có công tác
đột xuất phải giải quyết bằng email”, “Em đang tìm tài liệu
để tham khảo, nghiên cứu”. Mình đánh lừa người kia, nhưng
trên thực tế như vậy là đánh mất chính mình, bỏ mình vào
trong những cuộc vui không có tương lai.
Các em tuổi còn trẻ phải ráng hiếu kính cha mẹ. Nhận
thức của mình chưa đầy đủ, nếu được cha mẹ hướng dẫn
bài bản, có trình tự và nghe lời thầy cô giáo sẽ không đánh mất
chính mình. Đừng như các anh chị mới 16-17 tuổi đã phải vào
trại giam thay vì được ngồi ở trường để học. Được mẹ cha, thầy
cô dìu dắt trong cuộc đời thì sung sướng và hạnh phúc biết mấy.
***
ĐIỀU VI:
HIẾU KÍNH CHA MẸ
Điều thứ sáu: Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu.
Bất hiếu bao gồm có 3 phương diện:
Bất hiếu thứ nhất là không nghe theo lời khuyên chân
thành, đứng đắn của mẹ cha ông bà nên trở thành kẻ hư đốn,
đánh mất chính mình.
Bất hiếu thứ hai là ta thừa kế gia tài, sự nghiệp ông bà
tổ tiên để lại một cách thiếu khôn ngoan, dẫn đến tình trạng
“cha làm thầy con đốt sách”, đi ngược lại đạo lý nhiều đời
mà gia tộc để lại, làm cho truyền thống đó bị cắt đứt và thân
bằng quyến thuộc phải bị mang tiếng có những đứa con hư,
không nên nết. Uy tín của gia đình đối với xã hội, vì đó mà
bị giảm sút rất nhiều.
Bất hiếu thứ ba là sống trong vòng tay thương yêu của
mẹ cha với những sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình mà ta không thể
thành đạt để trở thành người hữu dụng trong xã hội. Ta ăn
bám và ỷ lại mẹ cha, trở thành những cậu ấm cô chiêu, giống
như gà công nghiệp, không làm gì được, vài ba chục tuổi đầu
HIẾU KÍNH CHA MẸ LÀ ĐỨC HẠNH CAO QUÝ NHẤT •  39
mà phải chìa tay xin tiền cha mẹ. Dầu có sức khỏe, trí thông
minh nhưng không chịu làm, lệ thuộc mãi rồi quen, mỗi lần
cần gì thì xin, mẹ cha thương quá nên chiều, tạo ra tâm lý ỷ
lại và kết quả là không có cơ nghiệp gì trong xã hội.
Những người như thế, khi cha mẹ qua đời thì họ khó có
thể đứng dậy tự đi lên vì năng lực tự lập không có. Họ dễ
dàng rơi vào tình trạng bế tắc, trở thành người tha phương
cầu thực. Đó là chưa nói đến những hành vi bất hiếu, làm cho
cha mẹ buồn, mang tiếng, hổ mặt với đời, không dám ngước
nhìn gia tộc, lối xóm, người thân.
Ở trại giam K.20, phần lớn phạm nhân nằm trong độ tuổi
từ 14-35, cái tuổi lẽ ra có rất nhiều tiềm năng, sức khỏe để
phục vụ, đóng góp thì họ lại rơi vào trong con đường tội lỗi,
sai lầm. Nhiều anh chị ở đây tâm sự với chúng tôi: “Phải chi
mà mấy năm trước nghe lời mẹ cha dạy thì đâu nên nông
nổi này”. Khi cha mẹ cấm phạt do phát hiện con cái hư đốn,
không chịu học hành, lo ăn chơi đua đòi với chúng bạn, có
những dấu hiệu sa sút về đạo đức.., có nhiều đứa hư quá bỏ
nhà đi luôn, sống lang thang vỉa hè, đường phố như những kẻ
hành khất. Bữa thì xin được tiền, bữa thì không, đói quá thì
phải ăn cắp, giựt dọc lừa đảo, móc túi, may mắn thì được vài
ba trăm ngàn để sống. Vì tiền phi nghĩa nên tiêu xài rất dễ,
tổn thất rất là mau. Làm được vài lần tưởng dễ ăn, nào ngờ
không lọt khỏi lưới pháp luật và bị công an bắt. Từ đó, mỗi
khi họ nhớ lại lời cha mẹ đã dạy khuyên thì chảy nước mắt.
Trong những năm tháng quá khứ, dù cha mẹ phải chân lấm
tay bùn mới nuôi nổi cả năm bảy mặt con nhưng gia đình vẫn
sống một cách đàng hoàng.
Thời đại này, mấy chàng thanh niên muốn làm giàu,
muốn chưng diện, muốn chứng tỏ ta đây là đại gia giàu sang
nên dễ dàng lao vào con đường tội lỗi, kết quả là trở thành
40 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
người con bất hiếu. Khi làm cho cha mẹ buồn, ta sẽ bị mất
phước, nên ta phải sống làm sao để cha mẹ tin tưởng, khiến
cho cha mẹ hãnh diện với họ hàng. Khi cha mẹ già phải chăm
lo báo đáp, giúp cha mẹ hiểu được đạo lý, sống cuộc đời an
vui hạnh phúc ở tuổi về già.
Có nhiều đứa con gây áp lực khi thấy cha mẹ có tiền, nói:
“Bà mà không cho tôi tiền, tôi sẽ bỏ nhà ra đi” hoặc “Ông
mà không cho tôi vài trăm mét vuông đất để tôi bán thì về
sau này tôi sẽ không nhìn mặt ông nữa, tôi không xem ông
là ba của tôi nữa”… Những đứa con bất hiếu luôn tìm
cách gây áp lực vì chúng biết rằng cha mẹ không thể nào
rũ bỏ đứa con của mình. Lợi dụng tình thương đó, cuối cùng
chúng trở thành những đứa con làm cho cha mẹ tủi sầu, khổ
đau, bịnh tật.
Nhiều cha mẹ vì giận quá, lâm vào tình trạng tai biến
mạch máu não mà chết. Khi nhận ra được việc này thì đã quá
muộn màng. Cho nên hiếu kính với cha mẹ trước nhất là thái
độ sống có đạo đức, ăn học đến nơi đến chốn, về nhà không
vui chơi với internet hay ra đầu làng ngả xóm uống rượu,
chơi bời mà phải có trách nhiệm giúp đỡ cha mẹ.
Đừng sợ làm như thế sẽ không có thời giờ học bài. Nếu
mình có lòng hiếu thảo thì phải học bài ngay tại lớp, bằng
cách tập trung vào bài vở trong lúc thầy cô giảng bài. Như
vậy là vừa kết thúc tiết học, ta đã hiểu và làm được bài rồi.
Về nhà chỉ cần ôn và tư duy thêm thì có thể thi đỗ đạt cao.
Bằng cách này, ta có thể dành thời gian một vài tiếng một
ngày để phụ giúp công việc gia đình.
Phần lớn số thanh niên vào trại cai nghiện ma túy đều là
đứa con hư trong những gia đình giàu có. Chúng không nghe
lời cha mẹ, ăn chơi lêu lổng, cuối cùng trở thành con nghiện.
HIẾU KÍNH CHA MẸ LÀ ĐỨC HẠNH CAO QUÝ NHẤT •  41
Khi nghiện ngập rồi thì ngày đêm nó hành hạ ghê gớm lắm,
giằng xé thân thể rất khó chịu. Phải nỗ lực rất nhiều mới cắt
được cơn ghiền trong vòng 15 ngày, sau đó phải có bản lĩnh
chịu đựng thêm từ 16 đến 18 tháng, cơn nghiện mới dứt.
Có nhiều em thiếu bản lĩnh, tiếp tục nhờ người thân chu
cấp bằng cách đút lót người quản trại giam nên chúng tiếp tục
nghiện trong trại. Khi hết thời gian ở trại về thì cơn nghiện
gia tăng gấp hai ba lần. Giống như một con hổ đói, mức độ
đòi hỏi và lệ thuộc cao hơn.
Bất hiếu làm cho mình sống thiếu trách nhiệm, do vậy
mà đánh mất tương lai. Những người con thảo cháu hiền thì
cố gắng tạo điều kiện cho cha mẹ già có được sự bình an về
đời sống nội tâm. Có như vậy, mỗi khi nhắc đến con cái, cha
mẹ mới hãnh diện và tự hào về sự trưởng thành của chúng.
Muốn làm người con hiếu thảo, ta phải phấn đấu đạt được
thành quả trong học tập để đóng góp cho xã hội cộng đồng
từ nhiều phương diện khác nhau, qua đó làm rạng danh gia
tộc. Nếu mình là người kế thừa sự nghiệp của cha mẹ thì
ta làm cho truyền thống văn hóa của gia tộc ngày càng nổi
tiếng hơn, nhiều người biết đến hơn, khiến cho ông bà cha
mẹ hãnh diện, tự hào vì mình hơn. Nếu cha mẹ chưa biết tu
hành theo Phật giáo thì nhiệm vụ làm con một mặt phải cung
phụng, mặt khác ra sức hướng họ về Tam bảo.
Nhiều người thành đạt tưởng hiếu kính cha mẹ là chiều
theo những nhu cầu của cha mẹ. Có nhiều ông bà cụ ghiền
phim kiếm hiệp Hồng Kông, Đài Loan, đòi thì con cái đáp
ứng bằng cách thuê về cả lô phim chưởng. Hết bộ này đến
bộ khác, cha mẹ coi liên tục ngày 8 tiếng đến ốm o gầy mòn,
bệnh tật nằm trên giường. Chỉ trong vòng hai năm là bị tiểu
đường, mắt mờ, tai điếc, thần kinh suy giảm, độ minh mẫn
42 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
giảm đi. Thậm chí nhiều người vì suy nhược thần kinh quá
nên bị loạn tưởng, đêm nào ngủ cũng nằm mơ thấy ma...
Là người con có hiếu, ta phải biết: Ngoài cung ứng
những phương tiện giải trí chân chính, chúng ta cũng phải
tìm kiếm những băng giảng, phim Phật, những bài nhạc
Phật giáo để cha mẹ hiểu thêm về Tam bảo mà tu cho giảm
bớt nghiệp. Chiều chuộng không có nghĩa là có hiếu mà
phải phụng sự sao cho cha mẹ sống hạnh phúc và bình an.
Điều đó không dễ làm, nhưng nếu có lòng thì ta có thể
làm được.
Có lần chúng tôi đến gia đình của một vị luật sư ở San
Jose, Hoa Kỳ. Hai vợ chồng này nổi tiếng trong cộng đồng
người Việt Nam tại đây. Họ thiết đãi chúng tôi một bữa cơm
chay thân mật, các món ăn đều được chế biến rất ngon.
Chúng tôi hỏi anh chị ăn chay trường, chay kỳ, hay là ngày
hôm nay mới tổ chức ăn chay, ông nói hai vợ chồng và đứa
con ăn chay trường, lý do rất đơn giản: Ngày sinh nhật 6 tuổi
của con gái, người mẹ bắt con gà ra cắt cổ, nhổ lông, con gà
la thất thanh, giẫy giụa. Cô bé nói với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ ác độc
quá!”. Người mẹ giật mình nói: “Hôm nay sinh nhật con, mẹ
mới làm gà đãi để mừng sinh nhật, sao lại ác độc?”. Đứa bé
nói: “Hằng ngày ba mẹ đi làm, con ở nhà chơi với con gà, vịt,
chó. Nó là bạn của con, mẹ giết bạn của con là mẹ ác độc”.
Nghe như vậy, bà giật mình về kể lại cho chồng nghe. Từ đó
cả gia đình phát nguyện ăn chay trường.
Từ lúc mới sinh ra, cô bé này đã không thích ăn thịt cá,
ăn vào là ói. Khi ăn chay thì bé thích và mập mạp hơn. Hạt
giống lòng từ bi đã có sẵn trong tâm của em từ đời trước, nên
khi sanh ra là đòi ăn chay như một thói quen, không chịu ăn
mặn. Trong trường hợp này, đứa con tuy chưa làm được gì
giúp cha mẹ, nhưng đã khiến cha mẹ bỏ được nghiệp sát sanh
HIẾU KÍNH CHA MẸ LÀ ĐỨC HẠNH CAO QUÝ NHẤT •  43
và phát nguyện ăn chay trường, đó cũng là hạnh hiếu thảo.
Người mẹ có thêm một nghề mới là nấu cơm chay.
Chỉ cần biết cách, ta không cần giàu có vẫn có thể hiếu
thảo với cha mẹ. Làm cho cha mẹ hồi đầu, sống tốt hơn, bình
an hơn là ta đang trả hiếu. Không phải trả hiếu là cho cha mẹ
một nửa đồng lương hay một phần ba tài chánh mình có được
là hiếu đâu. Nếu mình không mang lại được hạnh phúc cho
cha mẹ thì không phải là hiếu. Nhiều đứa con cho tiền cha
mẹ còn tính từng đồng từng cắc, nói nặng nói nhẹ.
Có anh thanh niên làm giám đốc một công ty nên rất bận
rộn. Người cha già của anh mất sức lao động, đi đứng rất khó
khăn. Vì bận với công việc làm ăn nên anh ta rất ít khi về
thăm. Thỉnh thoảng người cha gọi điện thăm thì anh giận dữ,
nói rằng: “Con đang bận mà cha cứ làm phiền con hoài”. Vài
ba ngày sau, nhớ con, người cha lại gọi điện, mong con mình
đến thăm. Anh ta lại cằn nhằn tiếp: “Ba cứ làm phiền con
hoài, để cho con làm việc. Mỗi tháng con còn trách nhiệm lo
cho ba vài ba trăm ngàn để ba uống thuốc, ăn bánh, dưỡng
già chứ! Ba làm phiền hoài, sao con làm việc được?” Người
cha không trách móc gì, cũng không gọi điện thoại nữa, ông
cảm thấy rất buồn tủi và cô đơn.
Mấy tháng sau, anh ta mới dành được thời gian đến thăm
nhưng khi đến, người cha lại không thèm nói năng gì hết vì
giận. Người cha để trước mặt anh một cuốn nhật ký, trong
đó ghi lại bao nhiêu yêu cầu của anh: “Ba ơi dẫn con đi chợ,
ba ơi dẫn con đi mua đồ chơi, ba ơi dẫn con đến trường, ba
ơi dẫn con đi du lịch”… Tất cả những điều đó, ông đều ghi
lại năm tháng ngày giờ ở đâu, sự việc gì… xong ông bỏ ra
ngoài vườn, không thèm nói chuyện với anh. Anh ngồi lật
từng trang sách mới thốt lên: “Trời ơi! Bất cứ lúc nào mình
cần, dù là 12 giờ khuya, lúc đang giờ ngủ trưa, ba mình đều
44 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
ngưng hết tất cả để chiều chuộng mình. Bây giờ ba nhớ mình
quá, chỉ gọi một hai lần mà mình cằn nhằn, nói nặng nói nhẹ,
làm cho ba buồn đau”. Đọc được những trang nhật ký như
vậy anh ta mới hối hận, xin lỗi ba và kể từ đó, anh rất hiếu
thảo với ba.
Thông thường, người con không nhận ra sự đau khổ của
cha mẹ. Khi ở trong giai đoạn tiền lương không bao nhiêu,
phải chân lấm tay bùn mới có được chén cơm manh áo cho
con, nhưng vì là cha mẹ nên nào kể công. Ngược lại, con cái
khi giúp đỡ cha mẹ lại thường hay kể công. Làm như thế là
bất hiếu vì đã tạo cho cha mẹ mặc cảm vì sống mà phải làm
phiền con cái, mặc cảm về sự cô đơn, mặc cảm về sự thiếu
thốn. Tất cả những điều đó phải tránh vì bất hiếu là trọng tội.
Trong kinh Vu Lan, Phật dạy: Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh
hiếu là hạnh Phật. Tâm Địa Quán cũng nói như thế và khẳng
định cha mẹ là hai vị Phật ở trong nhà.
Cha mẹ mà ta còn không lo được thì làm sao có tâm để
giúp đỡ cho cộng đồng, xã hội? Ngược lại, dầu dấn thân
vào xã hội, cộng đồng, ta cũng phải lo tròn chữ hiếu thì mới
không vương vào những tội lỗi. Nếu ta hiếu thảo thì phước
rất lớn, bằng không, sống bất hiếu thì tội lỗi rất nặng.
Ngài Mục Kiền Liên nổi tiếng là thần thông đệ nhất. Ngài
đã dùng thần thông xuống địa ngục cứu mẹ vượt qua nỗi đau
bị đày đọa ở ranh giới ngạ quỷ vì lòng tham lam và bỏn xẻn.
Thấy mẹ bị đày đọa chốn địa ngục, ngài lấy cơm dâng mẹ,
bà đói quá vội bốc ăn. Cơm vừa đưa vào miệng mẹ thì hóa
thành than, ngài khóc lóc vì biết rằng tội lỗi của mẹ quá nặng.
Ngài về thưa với Phật, xin Phật chỉ bảo phương pháp nào
báo hiếu và giải tội địa ngục cho mẹ. Phật dạy: “Dù ngươi có
thần thông cũng không thể một mình mà cứu được mẹ. Ngươi
HIẾU KÍNH CHA MẸ LÀ ĐỨC HẠNH CAO QUÝ NHẤT •  45
phải nhờ thần lực của chư Tăng cầu kinh và sự tu hành thanh
tịnh của chư Tăng trong ba tháng an cư kiết hạ. Nhằm ngày
rằm tháng 7 là ngày tự tứ của chư Tăng sau 3 tháng chuyên
tu tập, cũng là ngày chư Tăng hoan hỷ mà lập đàn cúng
dường trai Tăng gồm cơm canh hoa quả, thành tâm cúng
dường thì mới mong có phước báu để cầu siêu cho thân mẫu
ở chốn địa ngục”.
Ngài Mục Kiền Liên đã làm đúng theo lời Phật dạy. Hôm
đó, không những mẹ ngài được siêu sanh mà toàn thể tội
nhân ở địa ngục cũng nương phước lực đó mà được siêu sanh
về tịnh cảnh. Cũng từ đó, như thường lệ, ngày rằm tháng 7
được gọi là Ngày báo hiếu phụ mẫu thâm ân, cũng được gọi
là Ngày xá tội vong nhân ở chốn địa ngục.
Là người con có hiếu như vậy mà vào cuối cuộc đời, ngài
Mục Kiền Liên lại chết hết sức thảm thương. Ngài bị những
kẻ ngoại đạo ganh ghét, bằm chặt thân thể ra từng mảnh vụn
vì chúng biết ngài có thần thông, nếu còn thể xác có thể biến
hóa trở lại.
Lần thứ nhất chúng đến giết, ngài sử dụng phép thần
thông để tàng hình nên họ không phát hiện ra. Lần thứ hai
cũng như thế. Trước khi những kẻ xấu trở về, họ đe dọa rằng:
“Nếu ông không xuất hiện, cả ngôi chùa này sẽ trở thành
bình địa, Phật tử lai vãng xung quanh chùa sẽ bị giết chết
hết”. Vì có thần thông, ngài hiểu được với tâm địa ác độc,
bọn chúng có thể hành động. Ngày hôm sau chúng đến lần
nữa, ngài đã chấp nhận để cho chúng giết. Nhờ đó mà dân
chúng ở vùng lân cận được bình yên. Ngài hy sinh bản thân
xem như là trả nghiệp quá khứ.
Rất nhiều người đau xót, thương tâm trước cái chết của
ngài Mục Kiền Liên. Khi hỏi đức Phật thì Ngài nói rằng:
46 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
“Trong một kiếp rất xa, mấy trăm kiếp về trước. Mục Kiền
Liên là một người con bất hiếu. Ông thương một cô vợ trẻ
đẹp nhưng lại rất ích kỷ. Khi bất hòa giữa con dâu và cha
mẹ chồng diễn ra, cô con dâu ích kỷ này đã gây áp lực buộc
chồng phải chọn một trong hai: Nếu thương cô ta thì phải giã
từ và giết cha mẹ ruột đi, bằng không cô ta sẽ ly dị.
Vì mê đắm người đàn bà xinh đẹp mà độc ác nên ông đã
chọn con đường bất hiếu. Ông đặt cha mẹ ngồi trên chiếc xe
lăn (vì cha mẹ già yếu, tàn tật, lại bị mù), đưa vào rừng sâu.
Đi đến mỏm núi có vực sâu, ông đã gài những viên đá ở bánh
xe trước và giã từ cha mẹ. Sau đó, chính ông dùng tay lắc
chiếc xe, đánh đập vào thân thể của cha mẹ để cho chiếc xe
theo phản ứng dao động qua lại mà rớt xuống vực sâu.
Trong lúc bị đánh, người cha và người mẹ đã la lên: “Con
ơi! Con ơi! Cướp!…Cướp giết cha mẹ! Con đừng lại đây! Bà
con ơi hãy cứu con tôi! Con hãy trốn đi bằng không con sẽ
chết!”. Lúc ông vừa nghe được những lời cảm động bi ai thì
cũng là lúc hai ông bà rớt xuống vực sâu, chết thành người
thiên cổ. Ông trở về bị tâm thần luôn, khổ đau ngày đêm,
không ngờ trước cái chết mà cha mẹ còn thương tưởng và lo
lắng tới mình, trong khi đó ông giả vờ và gài bẫy để đẩy cha
mẹ xuống vực sâu cho rảnh nợ.
Chỉ vì ham mê sắc đẹp mà ông trở thành kẻ bất hiếu. Ăn
năn hối lỗi biết bao nhiêu mà ngài vẫn còn phải trả nghiệp
rất nặng là thân thể bị bằm những mảnh vụn. Ngài là người
đã tu thành chánh quả, có thần thông phép Phật nhiệm mầu
mà vẫn không tránh được nghiệp quả xấu. Tội lỗi lớn nhất
của kiếp người là bất hiếu, đây là một bài học chúng ta cần
phải suy nghĩ.
***
ĐIỀU VII:
TỰ TI LÀ KHÓA
CÁC TIỀM NĂNG
Điều thứ bảy: Lòng đáng thương nhất của kiếp người
là tự ti.
Tự ti là mặc cảm, không thấy được khả năng của chính
mình nên họ luôn nghĩ mình thấp kém. Họ rụt rè, làm việc
gì cũng nhút nhát. Những người có tính e lệ, thẹn thùng,
sợ hãi đều rơi vào trạng thái tự ti và đánh giá thấp chính
mình. Dù có khả năng thật nhưng sau khi học từ trường
lớp xong, đỗ đạt cao cũng không thành công vì làm gì
cũng sợ thất bại. Chuẩn bị cái gì cũng lo, đầu tư cái gì
cũng không dám, làm điều gì cũng do dự chần chừ, thiếu dứt
khoát nên những nguồn năng lực đều bị đốt cháy. Mặc cảm
về bản thân đã đốt cháy lòng tự tin. Đó cũng là ổ khóa, khóa
lại tất cả các tiềm năng.
Con người sử dụng rất ít những khả năng mình có, các
nhà khoa học ngày nay đã chứng minh điều đó. Những nếp
48 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
nhăn trên não là cơ sở cho sự thông minh. Não của loài cá
heo có nếp nhăn nhiều hơn con người nên mức độ thông
minh cao hơn, nhưng chúng không có hai bàn tay, hai bàn
chân nên không làm được việc như con người. Bên cạnh đó,
chúng cũng không có ngôn ngữ để truyền đạt được những
kiến thức như con người... Vì vậy mà loài cá heo không thể
nào làm chủ trái đất.
Trong các loài động vật, ta thấy khỉ vượn thông minh hơn
những loài khác. Kế đến là loài chó bởi chúng có thể hiểu
được những gì con người nói, ra lệnh, yêu cầu... và chúng có
thể làm theo. Trong các rạp xiếc, những con vật thông minh
như cọp, beo, chó sói, gấu, chó, voi, sư tử… xem như đã
chuyển được nghiệp ngu si của loài súc vật. Sau khi chết, nếu
được tái sanh làm người, chúng sẽ rất thông minh.
Nếu mình có khả năng mà không tự tin thì khả năng đó
không phát huy được. Chúng tôi gặp một số người ở Hoa Kỳ,
trong thời gian học thì đỗ đạt cao nhưng vì đánh mất tự tin
nên khi ra thị trường thì không dám đầu tư, sợ thua lỗ và thất
bại. Suốt ngày lấy tiền cha mẹ bỏ ngân hàng lấy tiền lãi tiêu
xài chứ không dám làm gì hết. Bản ngã tự ti nên làm gì cũng
sợ thua thiệt, đến đâu cũng bị lệ thuộc.
Ta thử hình dung một chiếc xe, hai bánh xe đều căng
phồng hơi, khi di chuyển chiếc xe sẽ bị dằn và dễ bể bánh.
Ngược lại, nếu như hai bánh xe bị xẹp thì cũng không thể
đưa người ngồi trên xe đi đến nơi, về đến chốn được. Đó
là chưa kể xe chạy như vậy bánh xe sẽ bị hư, ruột xe sẽ bị
nghiền nát và dễ gây ra tai nạn giao thông.
Tình trạng bánh xe quá căng hơi dễ bị nổ cũng giống như
cái tôi căng sình, xem không ai bằng mình. Thua người khác
nhưng vẫn không thừa nhận, sống ngông nghênh tự phụ, tự
TỰ TI LÀ KHÓA CÁC TIỀM NĂNG •  49
cao, đi đến đâu chúng ghét tới đó, có tài năng cũng không ai
muốn sử dụng. Người tự ti thì ngược lại, luôn đánh giá thấp
chính mình, giống bánh xe bị xẹp lép không chạy được. Dù
có bánh có ruột, có máy bơm nhưng không chịu bơm, cuối
cùng cũng không phục vụ được cho ai. Do đó phương diện tự
ti đối lập hoàn toàn với lòng tự cao tự đại. Đây là hai phương
diện tiêu cực của cái tôi, chúng đều đi ngược lại với hạnh
phúc, tiến bộ.
Phật tử thường tu tập vô ngã, có nghĩa là trong quá trình
giao lưu tiếp xúc, mình phát huy được năng lượng, đóng góp
những tài năng, tinh hoa của mình mà vẫn xem mọi người là
thân thương, không phân biệt đối xử chủ, tớ, cao thấp, lớn nhỏ.
Năm 1988, có một chú bé khoảng 8 tuổi vào chùa được
Hòa thượng bổn sư chúng tôi nhận làm con nuôi. Cậu bé này
bị chứng bệnh mặc cảm tự ti rất nặng, mức độ thông minh
của chú lại kém. Hòa thượng giao chúng tôi đỡ đầu và dạy
chú học. Mỗi ngày chúng tôi bỏ ra hai tiếng đồng hồ để dạy
chú đánh vần, chú học không vào đầu nổi, nếu nhớ được chữ
b thì quên chữ a, nhớ chữ c thì quên chữ b. Tập như vậy ba
tháng trời chú mới đánh vần được a b c đ. Chậm như thế nên
chúng tôi áp dụng kỷ luật sắt, không nản lòng. Cuối cùng,
chú cũng đánh vần được hết chữ cái, học thuộc được kinh.
Thay vì các chú tiểu khác học một trang kinh chỉ trong vòng
hai tiếng thì chú học một câu kinh có bốn chữ mà mất một,
hai ngày. Nhưng cuối cùng chú cũng học được.
Khi không có người, chú thường chui xuống gầm giường,
chân ghế giống như một con vật ở trong nhà. Nhìn như thế,
mình biết chú có mặc cảm rất lớn. Chúng tôi mới phạt, nói
rằng: “Nếu chú còn chui xuống giường thì thầy phạt quỳ gối
hai tiếng đồng hồ”. Chú nói: “Thà con bị phạt chứ không
dám ngồi trên ghế”. Chú sợ đến như thế. Có lẽ trong một tiền
50 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
kiếp nào đó, chú đã bị người ta hành hạ, trừng phạt ghê gớm
quá, đối xử với chú như một con vật nên ấn tượng đó chưa
phai nhòa trong tâm.
Chú sợ hãi, mất tự tin, phải trải qua vài năm mới có thể
lột bỏ được mặc cảm. Do đó chúng tôi dùng phương pháp
khen thưởng: “Nếu ngày nào chú ngồi trên ghế được hai
tiếng đồng hồ thì thầy sẽ thưởng cho chú hai bịch bánh, ngồi
được bốn tiếng thì được bốn bịch bánh”. Chú mừng lắm,
ngồi được hai tiếng rồi trốn chui dưới gầm giường lại. Vừa
phạt vừa khen, vừa cứng rắn vừa nhu mì, đến ba năm chú
mới bỏ được thói quen này.
Chúng ta thấy, tâm lý mặc cảm làm cho con người không
phát huy được tiềm năng, trong khi đó ai cũng có tiềm năng.
Các em thiếu nhi phải tin rằng kho tàng tiềm năng của mình
không có giới hạn. Kinh điển Đại thừa gọi là vô tận tạng,
“vô” là không, “tạng” là kho tàng và “tận” là đáy, vô tận
tạng là kho tàng không đáy, không có kết thúc. Ta khai thác
hoài mà vẫn còn, dùng hoài không hết. Cũng giống như đại
dương, dù có dùng hàng trăm ngàn cái máy để bơm hút nước
suốt cả mấy tỷ năm thì nó cũng vẫn còn y nguyên. Luật tuần
hoàn bảo toàn năng lượng cho phép ta tin vào điều đó.
Kho tàng trí tuệ và tri thức của con người cũng như vậy.
Đối với người phàm, họ thường mặc cảm cho rằng mình là
kẻ phàm phu nên không thể tu được giống như Phật, Bồ tát.
Đức Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh như
Như Lai, đừng khinh thường họ và cho rằng họ vô dụng.
Hãy nhìn về phía mặt trời để ta quên đi cái ánh sáng của con
đom đóm. Lửa của đom đóm không phải lửa thật, nó chỉ lấp
lóe lên vào ban đêm thôi. Một người dù có khả năng như mặt
trời mà mặc cảm nghĩ mình là con đom đóm thì cũng không
TỰ TI LÀ KHÓA CÁC TIỀM NĂNG •  51
làm được gì. Mình có thể là một quả núi mà nghĩ mình như là
một hạt cát, dĩ nhiên, khiêm tốn là tốt, nhưng khiêm tốn quá
mức thì không nên. Rụt rè, sợ hãi mất tự tin là một điều đáng
thương, đáng tội nghiệp. Những người cha, mẹ và những
người thầy cô giáo có khả năng nắm bắt tâm lý tốt phải làm
sao giúp con em của mình rũ bỏ được mặc cảm thua sút bạn
bè, nên biết cách khích lệ bằng nghệ thuật khen thưởng chứ
đừng trừng phạt.
Trong chương trình cúp thế giới, khi rơi vào tình trạng
bất phân thắng bại, hai bên ngang tài ngang sức, sau hai hiệp
chính và hiệp phụ thì phải đá phạt đền. Vấn đề đặt ra ở đây là
tâm lý. Huấn luyện viên giỏi sẽ không đưa cầu thủ siêu sao
ra đá đầu tiên vì sức ép tâm lý ở người đó rất lớn. Là một cầu
thủ siêu sao, hay là cầu thủ đạt giải quả bóng vàng, dù anh
ta có sút vào khung thành của đối phương thêm một quả nữa
cũng không nổi tiếng thêm. Nhưng nếu anh ta sút trật thì sẽ
bị mang tiếng, bị nguyền rủa. Điều này có thể làm sa sút tinh
thần của cầu thủ. Chúng ta thấy Platini nổi tiếng như thế mà
đã có lần sút không vào khung thành, Golit cũng vậy, Mara-
dona cũng có lần sút trật.
Nếu huấn luyện viên tâm lý thì sẽ cử một cầu thủ đang
lên, anh ta sẽ phấn chí, vì sút không vô cũng không sao, sút
vô thì cả một danh dự. Đó là một cách khích lệ, huấn luyện
viên tin tưởng chọn anh ta đá đầu nên anh ta phấn chấn,
thành ra khả năng có một mà trở thành hai ba.
Ngôn ngữ dân gian có câu: “Nhón chân với tay”. Mỗi
ngày, các con chịu khó áp sát vào tường, nhón chân lên, nhón
tay lên thật cao trong vòng mười giây rồi hạ xuống sẽ giúp
cơ thể phát triển cao hơn bình thường. Đó cũng là một nghệ
thuật thư giãn, vừa có sức khỏe vừa nâng được chiều cao.
Trong cuộc sống hằng ngày cũng vậy, nếu chúng ta nỗ
52 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
lực để khả năng từ bảy phải thành mười thì ta sẽ được
bảy rưỡi, tám rưỡi. Bám theo người thủ khoa thì ta có thể
thành hạng hai, hạng ba; còn so đo với người hạng chót,
thì ta có thể cũng hạng chót. Phải tìm kiếm thần tượng của
mình để theo gương đó vươn lên trong cuộc đời thì mới
xóa được mặc cảm tự ti.
Khi dự thi giọng ca vàng, những người tập ca phải chọn
một chất giọng mà mình thích nhất để bắt chước, học hỏi.
Chẳng hạn ai có giọng gào thét thì bắt chước Phương Thanh,
ai có giọng rền rền thì bắt chước Khánh Ly, ai có giọng ngọt
ngào dân ca thì bắt chước Cẩm Ly. Thi cải lương thì bắt
chước Lệ Thủy, có chất giọng yểu điệu thục nữ thì bắt chước
Bạch Tuyết, có giọng ngọt ngào dễ đi vào lòng người thì bắt
chước Út Bạch Lan… Phải bám lấy một giọng tiêu chuẩn
để luyện ngày luyện đêm trên nền tảng chất giọng riêng của
mình thì ta sẽ giỏi hơn. Phải có điểm để bám mặc dầu khả
năng của mình chưa được như vậy. Dần dà, mặc cảm tự ti sẽ
biến mất, ta cảm thấy tự tin hơn.
Trong học tập cũng thế. Thí dụ như trong trường có một
người luôn là thủ khoa suốt mười hai năm, mình có thể ghi
tên nhân vật đó trên bàn học để tự nhắc nhở và hạ quyết tâm:
“Tôi sẽ trở thành anh Nguyễn Văn A trong kỳ thi này”. Phải
nghĩ mình là thủ khoa thì mình mới được hạng hai, ba, tư,
năm. Mình ở hạng 45 mà lúc nào cũng bắt chước cậu đứng
hạng 43 thì mình đứng mãi ở hạng 45, học bao nhiêu năm
cũng không tiến bộ. Vì vậy, phải phấn chấn, tự tin lên.
***
ĐIỀU VIII:
BIẾT ĐỨNG DẬY
SAU VẤP NGÃ
Điều thứ tám: Vĩ đại lớn nhất của đời người là biết
đứng dậy sau khi vấp ngã.
Đây là câu gối đầu giường của trại giam K.20, được viết
rất to bằng sơn rất đẹp ngay chính giữa trại. Chúng tôi cho
rằng, người viết những lời đó là người có chiều sâu về giáo
dục và đạo đức. Đây là lời Phật dạy sau sự kiện A Xà Thế
chiếm ngôi vua cha bằng cách giết cha mình một cách rất tàn
nhẫn và ác độc.
Vua Ba Tư Nặc thương con rất nhiều, thương đến độ ông
muốn giao ngai vàng cho con sớm hơn ở tuổi khoảng 21.
Ông đã tuyên bố trước bá quan văn võ, ấy thế mà A Xà Thế
vẫn không tin nên tổ chức mưu sát vua cha để lên ngôi vua
sớm hơn.
Lần đầu mưu hại vua cha không thành, A Xà Thế bị cha
phát hiện, giam vào ngục. Vua vẫn đến thăm vì ông quá
54 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
thương con. Vua cha hỏi: “Tại sao con ra nông nỗi như thế
này! Con chỉ cần chờ sáu tháng sau là con được lên ngôi
rồi”. A Xà Thế khóc lóc nói với cha rằng: “Cha ơi! Vì con
muốn làm vua quá, con sợ cha lừa con, không chiều theo ý
con muốn cho nên con đã làm nên tội tày trời”. Lẽ ra đức vua
phải xử A Xà Thế tội chết, nhưng ông vẫn tha tội cho con. A
Xà Thế giả vờ là một người hiếu thảo để lập mưu sát hại đức
vua lần thứ hai. Lần này ông thành công.
Ông nhốt cha vào trong ngục tối, cấm không ai được vào
thăm viếng và ra lệnh không cho cha ăn bất cứ thứ gì, để ông
chết dần chết mòn trong ngục giam. Hoàng hậu Vi Đề Hi là
mẹ ruột của A Xà Thế, cả hai đều là Phật tử thuần thành của
Thế Tôn. Quá thương chồng, bà nghĩ ra một kế: Bà lấy bột
và sữa trộn với mật ong rồi bôi lên cơ thể, mặc áo cẩm
bào vào thăm vua. Bà đi tay không nên không ai hồ nghi.
Khi vào trong ngục, bà mới gỡ lấy bột sữa mật ong trên
thân thể cho chồng ăn để giữ được mạng sống. Giam trong
ngục nhiều ngày không cho ăn uống như thế mà cha vẫn
chưa chết nên A Xà Thế nghi ngờ, cấm luôn không cho
mẹ vào thăm cha nữa. Ông muốn cha mình chết sớm hơn
vì sợ phục thù.
Ông đã ra lệnh cho dùng dao thật bén cắt vào da thịt của
cha và sát muối vào như làm một con cá. Mấy tiếng sau, vua
cha tắt thở chết. Trước khi chết, đức vua vẫn luôn niệm danh
hiệu Phật và cầu nguyện: “Nếu như giữa con và A Xà Thế có
nghiệp ân oán nhiều đời thì xin được tháo gỡ từ đây. Con
không hận thù con của con và mong sao cho tuệ giác được
phủ chiếu trong tư duy của A Xà Thế, để A Xà Thế trở thành
một minh quân, không gây đại họa cho bá tánh”. Nói xong,
ông ra đi với hơi thở nhẹ nhàng, với nụ cười thư thái, bình
an, không hận thù.
BIẾT ĐỨNG DẬY SAU VẤP NGÃ •  55
Ngày vua cha chết cũng là ngày A Xà Thế làm cha. Đứa
con vừa được sanh ra, trên cơ thể của nó có một mụt ghẻ,
nó đau nhức la cả ngày lẫn đêm. A Xà Thế và vợ không ngủ
được, thương lo cho đứa con của mình. Thương con nhưng
không biết làm sao cho nó đỡ khóc, ông chạy đến phòng cầu
cứu mẹ: “Mẹ ơi! Con thương con nhiều quá, không biết làm
sao cho con của con bớt khóc. Nó mà khổ đau thì con khổ
đau biết chừng nào. Không biết lúc cha còn sống có thương
con như thế không?”. Nghe vậy, bà Vi Đề Hi nghẹn ngào
khóc và kể lại rằng: Lúc mẹ mang thai con, các nhà tiên tri
vào bẩm báo với phụ hoàng rằng: “Bệ hạ nên giết chết đứa
con này khi còn trong thai, vì nó là một nghịch tử. Nếu bệ hạ
không giết thì sau này nó sẽ giết chết bệ hạ”. Nghe nói như
thế, vua Ba Tư Nặc giận lắm, đuổi nhà tiên tri đi vì cho rằng
nhà tiên tri đã bị mua chuộc, tạo kế ly gián giữa cha và con.
Ai cứ cố tình lý giải thì vua còn phạt nặng hơn nên bảo vệ
được mạng sống của A Xà Thế. Có một hôm con bị mụn nhọt
trên tay, đau nhức lắm, trong cung có nhiều vị thái y rất giỏi
nhưng cha con vẫn không nhờ đến. Cha con đã dùng miệng
ngậm mụn nhọt đó, mút hết những chất mủ và máu trên mụn
nhọt cho con đỡ đau nhức, để con được ngủ ngon. Với tư
cách là một nhà vua, ông có thể ra lệnh cho những người
khác làm việc đó, nhưng vì quá thương con nên phụ hoàng
đã tự làm. Ấy thế mà khi con lớn lên, khi phụ hoàng đã tính
giao quyền cai trị ngai vàng cho con trước thời gian dự định,
con lại giết cha chiếm ngôi. Con đã làm cho hoàng triều lâm
vào cảnh đau thương tột cùng!.
Nghe mẹ kể xong, ông rơi vào chứng bệnh tâm thần hỗn
loạn. Tòa án lương tâm giằng xé, hành hạ ông chưa từng
thấy. Rất may, có một vị cận thần hướng dẫn ông đến gặp
đức Phật. Đức Phật dạy rằng: “Nếu ông đã thấy được đây là
56 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
lỗi lầm thì phát tâm sám hối, từ đây về sau không làm như
thế nữa và phấn đấu trở thành một vị minh quân, mong cha
tha tội và mong bá tánh bỏ qua tội bất hiếu. Có như vậy, ông
mới đứng vững trong xã hội”. Sau đó đức Phật kết luận bằng
câu: Vĩ đại lớn nhất của đời người là biết đứng dậy sau khi
vấp ngã.
Ngài dạy thêm rằng có hai hạng người được tán thán,
hạng người thứ nhất là chưa từng tạo tội và hạng người thứ
hai là sau khi tạo tội đã biết hối lỗi ăn năn, không tái phạm.
Giữa hai hạng người đó, hạng thứ hai đáng tán thán hơn. Khi
còn là người phàm kẻ tục, ta đã phạm phải những lỗi lầm, sơ
xuất do lòng tham, sân, si hay kém hiểu biết; do bị cám dỗ,
bắt buộc, hành hung; do mất cảnh giác... Quan trọng không
phải là sau khi biết tội lỗi mà vẫn hành hạ chính mình hay
đánh mất niềm tin. Có một số anh chị phạm nhân hỏi rằng:
“Tôi gây tội lỗi nhiều quá, xã hội có tha cho tôi hay không?
Luật pháp ngày đêm trừng trị, lương tâm tôi cắn rứt. Tôi
nghĩ rằng đây là dấu chấm cuối cùng rồi, dù lún sâu thêm
vào con đường tội lỗi nữa cũng không có gì, lỡ làm rồi thì
theo luôn”. Như vậy, tội lỗi ngày một thêm cao.
Khi hiểu ra, ta đứng dậy làm mới lại cuộc đời, gieo hạt
giống đạo đức để chuyển hóa nghiệp, chuộc tội lỗi thì ta vẫn
trở thành người hữu dụng cho xã hội. Nhiều anh chị đã khóc
nhờ hiểu được triết lý rất sâu sắc của đạo Phật, nhờ đó mà họ
có một đời sống mới, được tái sanh lần thứ hai cho dù chưa
chết. Sống lại với niềm tin mới, ta phải làm người tốt, lao
động giỏi để mau đoàn tụ với gia đình và trở thành người hữu
dụng. Không dùng bàn tay, khối óc thông minh để lươn lẹo
hại người nữa mà chỉ dùng để làm lợi ích cho xã hội.
Như vậy dù ai có vấp ngã, dù nặng hay nhẹ, nhiều hay
ít, hãy đứng dậy. Ta vẫn còn khối óc, niềm tin, lý tưởng, chí
BIẾT ĐỨNG DẬY SAU VẤP NGÃ •  57
nguyện thì còn làm được những việc khó làm. Như thế cuộc
sống sẽ rất bình an, sau màn đêm tăm tối sẽ là bình minh tươi
đẹp của ngày mới. “Hãy nhìn về phía mặt trời bóng tối sẽ
ngả phía sau lưng”. Sau cơn mưa trời lại sáng; sau bão giông
mọi thứ lại bình lặng; sau động đất và sóng thần, mọi thứ lại
trở về vị trí ban đầu. Cho nên phải có niềm tin, phải làm mới
cuộc sống thì mới có được cuộc đời hạnh phúc.
***
MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY 3
(Điều 9 đến 12)
Giảng tại chùa Minh Tịnh, tỉnh Bình Định, ngày 05-07-2008
Đánh máy: Bích Thảo, Sơn Dương
ĐIỀU IX:
NUÔI DƯỠNG ƯỚC MUỐN
Điều thứ chín: Phá sản lớn nhất trong đời người là sự
tuyệt vọng.
Tuyệt vọng có thể được định nghĩa là niềm hy vọng chân
chính không đạt được thành tựu. Khi mình mất niềm hy vọng
A, ta có thể xây dựng lại niềm hy vọng B hoặc C, còn người
bị tuyệt vọng là hoàn toàn đánh mất tất cả mọi sự hy vọng.
Trước mặt người bị tuyệt vọng chỉ còn một hố thẳm, vực sâu
và bóng đêm khổ đau, bế tắc và thất bại. Họ bỏ cuộc, đầu
hàng và gần như không còn năng lực để tự vươn lên trong
cuộc đời nữa. Đó chính là sự phá sản lớn nhất trong tất cả các
nỗ lực chân chính.
Nói về sự hy vọng, ta có thể suy nghiệm qua hình ảnh con
lừa. Lừa là một loài động vật có sức khỏe, nhưng chí nguyện
và lập trường đi đến phía trước của nó không được xác định.
Nếu không có người hướng dẫn giỏi, con lừa không thể mang
hành lý đến được nơi mà chủ nhân muốn đến.
Chủ nhân nó mới nghĩ ra một kế sách: Đặt một bó lúa
nàng hương cách khoảng chừng hai tấc trước mõm con lừa,
62 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
khi nghe mùi thơm của lúa nàng hương phảng phất do gió
ngược thổi về, miệng lừa sẽ tiết ra dịch vị, trong đầu nó khởi
lên một ý niệm mong sao ăn được bó lúa này. Cứ như thế
con lừa phải đi tới phía trước từng bước, từng bước, nhanh
dần đều, cương quyết rút ngắn khoảng cách với bó lúa để nó
nhanh chóng thuộc về phần sở hữu của chính mình.
Nó đi từ giờ này sang giờ khác, khoảng cách đó vẫn
không được rút ngắn, nhưng khoảng cách vật lý từ điểm xuất
phát đến địa điểm tới lại dần được thu hẹp. Chủ nhân của con
lừa nhờ vậy được toại nguyện.
Trong câu chuyện triết lý này, ta thấy có hai chủ thể: Con
người và con lừa. Sự đi và đến của con lừa là do chủ thể con
người đặt ra, món mồi nhử là bó lúa nàng hương. Vì con lừa
muốn ăn được bó lúa nên nó phải đi, và nhờ sự di chuyển của
nó mà mục đích của người chủ được thực hiện; trong khi đó,
con lừa vẫn không ăn được bó lúa. Dĩ nhiên sau khi đến đích,
con lừa sẽ được thưởng một phần quà lớn hơn bó lúa rất nhiều.
Câu chuyện này dạy cho ta một bài học: Niềm hy vọng
chân chính sẽ trở thành nguồn động lực đẩy ta đi tới phía
trước, để giúp ta biết rằng khoảng cách giữa ước mơ và hiện
thực rất gần mà cũng rất xa, dù đi hoài đi mãi vẫn không tới
nhưng ta vẫn phải nỗ lực đi. Nhờ những niềm hy vọng đó
mà mỗi động tác, những bước đi hướng về phía trước của ta
không mệt mỏi, đó chính là năng lực giúp ta thành công.
Để trở thành một bác sĩ thì ước muốn phải chiếm từ 30%
trở lên, để trở thành một người Phật tử cũng vậy. Ước muốn
đi trước, thành quả sẽ kéo theo sau. Vấn đề là ta phải nuôi
dưỡng ước muốn này như thế nào.
Ý thức của người chủ trong tình huống này được xem là
trí tuệ dẫn đường, chỉ cần đặt ý thức của con lừa vào quỹ đạo
NUÔI DƯỠNG ƯỚC MUỐN •  63
của sự di chuyển, tưởng thưởng nó bằng một bó lúa thì nó sẽ
làm được điều người chủ muốn. Điều đó trong đạo Phật gọi
là “Tán dương công đức”. Nhiều Phật tử khi cúng dường,
chùa gởi phiếu công đức lại nói: “Tôi thực hiện vô ngã, thôi
thầy đừng gởi bằng tán dương này làm gì”. Hiểu như thế là
hiểu phiến diện, việc làm lành cần phải được tán dương. Ta
không yêu cầu ai tán dương, nhưng khi có người tán dương,
ta nên tiếp nhận một cách hết sức trân trọng.
Trong kinh A Di Đà, đức Phật Thích Ca được mười
phương chư Phật tán dương, đức Phật A Di Đà cũng được
đức Phật Thích Ca tán dương, các Ngài dạy chúng ta không
nên bận tâm vào vấn đề khen chê, nhưng sự tán dương chân
chính là một nghệ thuật để thừa nhận giá trị của những đóng
góp về đạo đức và tâm linh; để từ đó người đời mạnh dạn sử
dụng và đi theo những giá trị đóng góp đó. Cho nên các đức
Phật vẫn tán dương lẫn nhau.
Là đệ tử Phật, ta vẫn phải học theo gương này. Tán
dương công đức để trước hết, ta có được công đức của sự
tùy hỷ, sau đó là công đức của sự khích lệ và cuối cùng
làm cho người được tán dương có niềm hy vọng lớn. Từ
đó họ vượt qua được mọi gian truân, thử thách, chướng
ngại để thành công.
Làm người ai cũng cần có nguyện ước chân thành, như
các hành giả Tịnh Độ tông được huấn luyện gieo niềm tin
vào bản thân, niềm tin vào nhân quả, vào tiềm năng và sự
thành công. Sau đó ta được hướng dẫn về những lời nguyện
ước chân thành, cầu cho tất cả chúng sinh để tâm lượng ngày
càng lớn như vũ trụ bao la. Nhờ chí nguyện lớn, ta có thể làm
được những việc khó làm.
“Nguyện” chính là nguồn năng lực để đưa ta đến hành
64 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
động và thực tập, do đó trong phương pháp tu Tịnh Độ tông
(bao gồm Tín, Nguyện và Hạnh), yếu tố thứ hai là “Nguyện”
quyết định sự thành công. Có niềm tin mà không có chí
nguyện lớn thì niềm tin đó bị bó buộc trong khuôn khổ.
Muốn thực tập, dấn thân mà không phát nguyện lớn thì ta
làm không xong, có thể bỏ cuộc nửa chừng. Chí nguyện lớn
nếu được sự hỗ trợ của hành động dấn thân thì không còn là
mơ ước nữa, mà sẽ là hiện thực.
Trong khi đó, những người sống trong sự tuyệt vọng có
thể phát xuất từ những ý niệm không có nền tảng nhân quả.
Họ mong mỏi ước nguyện thật nhiều nhưng làm thì chẳng
bao nhiêu. Như một người ngồi dưới gốc cây, mong cho có
những con thỏ vô tình đâm đầu vào gốc cây, thỏ chết lấy
thịt mà ăn. Điều mong ước đó năm họa mười thì mới có
được một lần, còn nghĩ tưởng mong mỏi điều đó như là một
phương thức để sống thì sẽ dẫn đến tình trạng tuyệt vọng và
mất hết phương hướng.
Người tuyệt vọng có thể là do mơ ước quá nhiều, nhưng
lại hành động thiếu phương pháp, rồi tình trạng họa vô đơn
chí diễn ra như một chuỗi của các sự kiện nghịch lý, tựa như
mình vừa mới dùng hai bàn tay gượng chống dậy, lập tức bị
té lần thứ hai; nỗ lực bám vào gốc cây gượng đứng dậy thì bị
ngã lần thứ ba; đi tới phía trước được vài bước thì bị hất đổ,
phải bò lăn từng li, từng tí mà vẫn không gượng dậy được
trong cuộc đời. Từ đó, sự tuyệt vọng như một nỗi ám ảnh
hành hạ những người có ước nguyện mà không thành công.
Để tránh tình trạng phá sản trong tuyệt vọng, người Phật
tử phải học theo gương hạnh của đức Phật qua hình ảnh nghìn
tay nghìn mắt - hóa thân của Bồ tát Quan Thế Âm. Mỗi một
bàn tay tượng trưng cho một hành động. Ta nói rằng ta thương
cuộc đời, thương người thân, hiếu kính với cha mẹ; nhưng
NUÔI DƯỠNG ƯỚC MUỐN •  65
khi cuộc đời, người thân, cha mẹ ta đang có nhu cầu cần giúp
đỡ ta lại ngoảnh mặt làm ngơ, viện nhiều lý do rằng là mình
thế này thế kia, thiếu thốn thế nọ, chưa đủ điều kiện để thực
hiện… nên nguyện ước của ta chỉ đơn thuần là lời hứa hão,
không có giá trị lợi ích. Lời nguyện trong đạo Phật phải được
thể hiện qua hành động - được hình dung bằng một bàn tay.
Bàn tay của tình thương, nếu thiếu sự hướng dẫn có thể
rơi vào tình trạng cảm tính. Cha mẹ thương con không có
phương pháp sẽ khiến con dễ hư hỏng hơn là thành công.
Cho nên mỗi bàn tay phải có một con mắt - biểu tượng soi
sáng dẫn đường giúp chúng sanh vượt qua cơn khốn khó, trở
về với cảnh giới bình an. Do vậy con người cần có trí tuệ dẫn
đường, đừng để cho hy vọng đơn thuần khống chế, chi phối;
rốt cuộc ta không thực hiện được gì.
Để tránh sự tuyệt vọng, đức Phật dạy tất cả những nỗ lực
chân chính cần có thời gian để trổ quả. Có người tính tình
vội vã, muốn đầu tư buổi sáng, chiều phải có kết quả để ăn;
muốn gieo trồng hôm nay thì ngày hôm sau có thành tựu
để hưởng. Do đó khi thành quả chưa đến, chưa có quả chín
muồi, họ chán nản thất vọng. Họ nghĩ rằng không có nhân
quả thiện ác, kết cuộc của người làm thiện thật là bi đát, từ
đó mất hết niềm tin với Phật pháp, đó là điều đáng buồn và
tội nghiệp.
Ta thử hình dung, mình gieo phước báu như mở tài khoản
trong một ngân hàng. Tài khoản được mở định kỳ 12 tháng,
đến tháng 12 ta không lãnh, không vì thế mà tiền bị mất đi.
Số tiền gửi và tiền lãi vẫn còn nguyên vẹn, ta vẫn được tính
lãi không định kỳ. Cũng vậy, khi làm các việc lành, công
đức, phước báu mà quả chưa trổ thì ta nên vui vì khoản tiết
kiệm đó vẫn còn nguyên, đến một lúc nào đó ta cần xài, có
thể rút ra được. Thay vì buồn, thất vọng, chán nản, dẫn đến
66 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
sự tuyệt vọng thì mình phải nghĩ như thế. Nhờ đó mà niềm
vui, nụ cười, sự hân hoan sẽ có mặt.
Cuối năm 2007, có một phụ nữ khoảng 28 tuổi là kỹ sư
xây dựng, cô bị rơi vào trạng thái tuyệt vọng, tự tử đến sáu
lần vẫn không chết. Dì của cô là Phật tử chùa Ấn Quang, thấy
cảnh cháu ruột bi thảm quá nên dẫn đến chùa Giác Ngộ để
gặp chúng tôi, hy vọng cô cháu gái sẽ rũ bỏ được sự tuyệt vọng.
Tôi hỏi thăm lý do tại sao cô tự tử đến sáu lần, cô trả lời:
“Khi còn ở quê con có thương một người thanh niên, gia
đình không ủng hộ, bế tắc quá con tự vẫn mà không chết.
Lần thứ hai thi vào trường đại học, cha mẹ bắt chọn ngành
y, sau này làm bác sĩ để có tương lai, con lại thích ngành xây
dựng. Con nộp đơn chọn khối để thi vào ngành xây dựng và
đậu nhưng cha mẹ không đồng tình, gây một áp lực rất lớn,
con chán nản quá tự vẫn lần thứ hai. Cũng may nhờ người
ta phát hiện đưa đi cấp cứu. Cuối cùng gia đình cũng đồng ý
cho con lên thành phố học ngành xây dựng. Trong bốn năm
làm sinh viên con tự tử thêm ba lần. Mỗi khi có người bạn
nào phê bình, chỉ trích thì con cảm thấy tuyệt vọng vô cùng,
nghĩ rằng trên cuộc đời này tại sao bất hạnh dồn đến với
mình nhiều quá, bạn bè thân quyến không ai như mình nên
con không muốn sống nữa và uống thuốc để chết. Nhưng khi
uống thuốc, bị bạn bè phát hiện, đưa đến bệnh viện nên cuối
cùng không chết.
Lần thứ sáu, con thương một người chủ công trình. Con
là kỹ sư, ký hợp đồng giám sát một công trình. Ông chủ thầu
này lớn hơn ba con đến vài tuổi. Trong lúc con tuyệt vọng
không có tiền để lo việc thuê nhà ở Sài Gòn, ông ta đến như
là người cứu nguy, tặng cho con một cái phao. Cuối cùng
tình yêu đã chớm nở, con cảm thấy rất hạnh phúc. Nhưng sau
đó vài tháng thì vợ của ổng phát hiện, buộc con phải giã từ
NUÔI DƯỠNG ƯỚC MUỐN •  67
chồng của bà. Con tuyệt vọng quá nên treo cổ trên cái quạt
máy của trường đại học Bách Khoa để tự tử. Lúc đó điện
bị cúp nên các công nhân chạy vào từng phòng để kiểm tra
xem điện bị đứt chỗ nào không. Khi họ vào phòng thì phát
hiện con vừa nhảy khỏi ghế mới vài giây thôi nên đã đưa con
xuống, vào bệnh viện cấp cứu kịp nên con sống lại”.
Kể từ lần thứ sáu đó, người dì ngày đêm lo lắng, lúc nào
cũng ở bên cạnh cô. Lúc cô ngủ thì bà ngủ theo, cô thức thì thức
theo, cô đi ra nhà sau thì bà cũng đi theo dõi, đi ra nhà trước thì
bà cũng phải đi tháp tùng, khổ sở mấy tháng trời như vậy, mặt
mày xanh xao vô cùng, cuối cùng nhờ chúng tôi giúp đỡ.
Chúng tôi phân tích cho cô hiểu bản chất cuộc sống vốn
dẫy đầy những điều oan khiên, oán trái, những điều mình
muốn mà không đạt được vì nó bị chi phối bởi quy luật nhân
quả, khi duyên chưa hội đủ thì quả không thể nào phát sinh.
Do đó, thay vì buồn rầu tuyệt vọng thì ta hãy hoan hỷ để làm
mới, nỗ lực lần thứ hai. Nếu vẫn không làm xong thì ta cố
gắng lần thứ ba, thứ tư… cho đến lúc nào ta đạt được thành
quả thì thôi.
Các bậc vĩ nhân không ai nỗ lực làm lần đầu mà thành
công. Các bậc thiên tài và nhân tài cũng thế, chủ yếu là do
phấn đấu. Những nghịch cảnh đối với cô thực ra rất nhỏ so
với người khác, nhưng vì có thói quen cường điệu hóa, quan
trọng hóa, thần tượng hóa khiến cho vấn đề càng trở nên
căng thẳng, rối rắm, phức tạp, mỏi mệt… và mình nghĩ rằng
cái chết chính là giải pháp tốt nhất để giúp ta thoát khỏi cơn
bế tắc hiện tại, nhưng đó là một tư duy sai lầm.
Những khó khăn hiện tại, nếu ta không nỗ lực giải quyết,
chúng sẽ còn đeo mang đến tương lai hoặc đến tận kiếp sau.
Người Phật tử trong lúc còn khỏe mạnh, còn đủ bản lĩnh,
68 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
những quả xấu nào đến như một quy luật tất yếu từ đời sống
quá khứ, ta cứ hoan hỷ chấp nhận để giải nghiệp. Về sau ta
trở thành người thong dong không còn nợ, không còn bị hàm
oan, không còn chướng duyên, không còn bế tắc.
Chúng tôi hướng dẫn cô thực tập: “Hãy quán nhìn bầu
trời để quên đi bóng đêm, hãy nhìn ánh sáng mặt trời để
quên đi lửa của con đom đóm, hãy nhìn thấy con sư tử để
quên đi con cừu, hãy nhìn thấy biển khơi để quên đi từng giọt
nước”. Nhiều người cứ nhìn trở ngại nhỏ thành to, nhìn hạt
cát thành tảng đá. Có những trục trặc tựa một tảng đá nhỏ thì
họ nghĩ như một quả núi; có tình huống là quả núi, thì họ lại
nghĩ như dãy Trường Sơn, Vạn Lý Trường Thành, hay núi Tu
Di… Cứ như thế, vấn đề không đáng mà cứ hình dung, cường
điệu. Từ đó, những lần thất bại rất nhanh dẫn đến sự tuyệt vọng,
ta mau chóng đánh mất hết niềm tin về khả năng tái sinh hạnh
phúc, khả năng dấn bước đi về phía trước của bản thân.
Sự sống của những người tuyệt vọng tựa như một kẻ chết
rồi, thờ thẫn, cầu an, bế tắc, không muốn nỗ lực, không làm
gì hết, chỉ chờ đến ngày chết, thả trôi vận mệnh như chiếc lục
bình trôi trên dòng nước. Thủy triều lên xuống, lúc thì mắc
cạn, lúc thì tấp vào bờ, lúc thì trôi một cách vô định, không
hề có một chủ ý, khuynh hướng nào, đó là sự phá sản rất lớn
đối với tất cả các công đức, sự nghiệp mà chúng ta đang dấn
thân, theo đuổi.
Muốn phá bỏ sự tuyệt vọng thì ta phải thừa nhận bản chất
cuộc đời này là tương đối, nếu có một sự tuyệt đối trong xã
hội thì sự tuyệt đối đó chính là tương đối, mà tương đối nói
theo nghĩa nhà Phật là nhân duyên. Cái này có, tạo tiền đề
cho cái kia có, cái này không tạo cơ sở cho cái kia không, cái
này sanh tạo điều kiện cho cái kia phát sanh, cái này diệt tạo
điều kiện cho cái kia biến mất.
NUÔI DƯỠNG ƯỚC MUỐN •  69
Hiểu được như vậy thì ta không nên thần tượng hóa con
người, không nên quan trọng hóa bất cứ vấn đề gì mà xem
mọi thứ diễn ra như cơn gió đi ngang qua rừng tre, tiếng tre
kêu xào xạc, xào xạc. Khi gió ngừng thì tất cả những âm
thanh không còn nữa. Mỗi âm thanh xào xạc có thể là tốt,
hoặc xấu, nếu ta không lưu giữ chúng thì tâm được bình yên.
Như vậy trong lúc khốn đốn giữa cuộc đời ta vẫn đứng vững
như kiềng ba chân. Người sống được như thế sẽ vẫy tay vĩnh
biệt với sự tuyệt vọng của bản thân.
***
ĐIỀU X:
CÓ SỨC KHỎE LÀ CÓ TẤT CẢ
Điều thứ mười: Tài sản lớn nhất của đời người là sức khỏe.
Trong những tờ sớ, tờ phướn hay những câu thư pháp, có
một số bản người ta thêm chữ trí tuệ bên cạnh chữ sức khỏe,
hai chữ cách nhau bằng dấu phẩy hoặc dấu gạch ngang.
Chúng tôi đã có dịp tra lại nguyên bản của chùa Thiếu Lâm
Tung Sơn - Trung Quốc thấy trong điều minh triết thứ mười
không có chữ trí tuệ, chỉ có sức khỏe thôi. Câu này xuất xứ
từ kinh Pháp Cú. Sức khỏe là tài sản lớn nhất, bởi vì có nhiều
người dù sống cuộc đời giàu sang phú quý, phương tiện vật
chất, tiện nghi đầy đủ, nhưng họ vẫn không được hạnh phúc
vì thiếu sức khỏe.
Ở chùa Giác Ngộ có một Phật tử năm nay 92 tuổi. Năm
2002, khi chúng tôi trở về sau chuyến du học Ấn Độ 8 năm,
gặp bà, bà than thở: “Tôi khổ lắm thầy ơi! Tôi không muốn
sống chút nào”. Tôi hỏi: “Sao bà buồn, bà than thở đến thế?
Con bà có hiếu với bà không?”
Bà trả lời: “Con của tôi năm nay cũng 70 rồi, có cháu
ngoại, cháu nội, tất cả bốn đời cháu, ai cũng có công ăn việc
CÓ SỨC KHỎE LÀ CÓ TẤT CẢ •  71
làm, tháng nào con cháu cũng gởi tiền cho tôi làm từ thiện
cúng chùa”.
“Thế sao bà còn than khổ?” Cụ bà ngồi xuống thở dài
nói: “Hỏi thầy tôi không khổ sao được. Ngày nào tôi cũng
phải uống thuốc Bắc đắng vô cùng. Hết thuốc Bắc tới thuốc
Nam, tới uống thuốc gia truyền. Toàn là thuốc đen thui, đắng
lắm! Hỏi thầy, vậy chớ còn gì khổ cho bằng!”
Sống thọ trên 90 là đại phúc, không phải ai muốn cũng
được. Đó là kết quả do ta gieo trồng hạt giống nhân từ, tôn
trọng sự sống, bảo vệ hòa bình, thương các loài động vật, bảo
vệ môi trường sinh thái… từ nhiều đời nhiều kiếp. Ngoài ra
còn phải kết hợp với việc nghỉ ngơi, ăn uống, làm việc, giải
trí, sinh hoạt lành mạnh; luôn luôn trong trạng thái thăng
bằng và quân bình; không để tâm lý căng thẳng bởi công việc
làm; không để những chướng duyên, thử thách làm mình
chao đảo. Vì trạng thái năng lượng của người này không bị
mất nên sức khỏe được đảm bảo. Còn giàu sang mà bệnh tật
thì bao nhiêu tiền bạc làm được đều tốn vào những khoản trả
tiền thuốc, tiền bệnh viện.
Ở nước ngoài, phần lớn người ta đều mua bảo hiểm sức
khỏe vì tiền dịch vụ y tế rất cao. Một tháng lương trung bình
khoảng 2.000usd đến 3.000usd, nếu bệnh sơ sơ mà vào bệnh
viện, nằm chừng hai ngày thì phải trả khoảng 10 ngàn đô là
chuyện thường. Làm suốt cuộc đời, chắt chiu tiết kiệm mà
không chịu mua bảo hiểm thì chỉ có nước đổ nợ, dù sanh ra
thêm một kiếp nữa trả vẫn chưa hết.
Chúng tôi có quen một Phật tử nam khoảng chừng 35
tuổi. Anh ta rất cần cù làm việc nhưng vẫn khai gian với
nhà nước là thất nghiệp để được làm thêm ca hai và ăn tiền
trợ cấp thất nghiệp. Vậy là trong một tháng, anh ta có tới
72 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
ba nguồn tiền. Trong thời gian rất ngắn, anh trả được phân
nửa số tiền mua nhà, anh mừng lắm. Lần đầu gặp, chúng
tôi khuyên không nên làm như thế, sức khỏe là quan trọng,
bươn chải nhiều quá thì 12 con giáp đều trở thành con trâu
hết. Người ta thường nói đùa với nhau: Sanh ra ở đây, nhà
giàu cỡ nào thì cũng đều là con trâu, làm việc quần quật suốt
ngày. Vì căn nhà khoảng 1.000 mét vuông mà chỉ có hai vợ
chồng, nội quét dọn vệ sinh, chăm sóc mọi thứ cây cỏ, hoa
kiểng sân trước, sân sau là thấy hết giờ; huống hồ 8 tiếng làm
việc ở công sở, 2 tiếng đi về, 14 tiếng còn lại thì 8 tiếng ngủ,
6 tiếng sinh hoạt gia đình, ăn uống, giặt giũ, xem ti vi… Sáng
hôm sau cứ tiếp tục như thế mà làm, quần quật suốt ngày.
Cày riết rồi có người bị tâm thần do quá căng thẳng. Đời
sống ở phương Tây rất khó có được sự bình an như đời sống
ở phương Đông, bao gồm nước Việt Nam, mặc dù chúng ta
có phần hơi nghèo về điều kiện kinh tế và vật chất.
Ngoài số tiền kiếm được từ ba nguồn thu nhập, anh ta keo
đến độ không chịu mua bảo hiểm y tế. Một lần anh làm ca
hai, vì sơ suất nên bàn tay bị đưa vào trong máy cuộn, cắt đứt
hết cả mấy ngón. Khi vào bệnh viện, do không mua bảo hiểm
nên anh phải tốn hết 40 ngàn đôla mà bàn tay cũng không
lành lặn. Sau khi xuất viện, phải tốn tiền để tiếp tục điều trị,
tốn thêm khoảng chừng 20 ngàn đô nữa là 60 ngàn đô. Trong
khi mua bảo hiểm mỗi tháng chỉ tốn khoảng 100 đô, một năm
chỉ tốn khoảng hơn một ngàn đô mà tiết kiệm.
Ở phương Tây, tất cả đều phải mua bảo hiểm, nhà cửa
cũng phải mua bảo hiểm, bảo hiểm ăn trộm, bảo hiểm chống
cháy v.v... lỡ kẻ nào ghét mình phóng hỏa thì ngôi nhà dành
dụm mấy chục năm không còn gì cả, đó là chuyện thường
xuyên xảy ra ở các nước phương Tây. Nhưng nếu ta mua bảo
hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm.
CÓ SỨC KHỎE LÀ CÓ TẤT CẢ •  73
Bảo hiểm tài sản cũng như thế. Do đó ở nước ngoài, tiền
bảo hiểm chiếm khoảng gần 30% số tài chánh mình tạo ra.
Không hòa nhập được với cộng nghiệp mới này thì khi có
sự cố xảy ra ta sẽ trắng tay, khổ đau, dẫn đến sự tuyệt vọng.
Hay đang khỏe mạnh mà bị trục trặc sức khỏe thì gần như
ta không còn gì hết, dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Sau đó, phải mất rất nhiều năm ta mới có thể gầy dựng lại
cơ nghiệp.
Trong kinh A Di Đà, đức Phật dạy chúng ta một nghệ
thuật sống rất đơn giản để có được sức khỏe: “Phạn thực
kinh hành” - ăn cơm xong rồi đi từng bước thảnh thơi, chứ
ăn cơm xong mà nằm xuống ngủ hay ngồi thì dễ phát sinh
bệnh béo phì, mỡ trong máu, mỡ trong gan hay các chứng
bệnh tim mạch, đau nhức xương khớp..., nhiều chứng bệnh
liên quan đến bao tử, thận, gan.
Các hành giả Tịnh Độ tông bận gì thì bận, cũng cố gắng
đi kinh hành sau khi ăn xong, đi trong thiền, đi trong niệm
Phật, trong an lành, hạnh phúc và thảnh thơi. Điều đó hỗ trợ
ta rất lớn, mỗi lần đi khoảng chừng 20 đến 30 phút, dù có vẻ
như mất thời gian nhưng rất cần thiết. Chẳng những thay thế
cho thói quen tập thể dục để có sức khỏe mà còn có phước
báu, có công phu tu tập. Làm được như vậy thì người nữ không
cần đến trung tâm thể dục thẩm mỹ để làm đẹp, người nam
không cần đến trung tâm thể dục tập thể hình để giữ sức khỏe.
Đi kinh hành sau giờ ăn cơm trưa, cơm chiều còn giúp
mình có được sức khỏe cường tráng. Nhiều Phật tử, từ khi
gặp được đạo pháp bèn nhiệt tình phát tâm ăn chay trường.
Họ sai lầm ở chỗ ăn uống quá khắc khổ, gần như cơ cấu
bữa ăn chẳng có gì, chỉ có nước tương, chao, rau, rồi vài bát
canh…, sơ sài như thế. Tiền bạc có, đủ điều kiện chẳng thiếu
gì nhưng quen với việc ăn uống tiện tặn, cho nên duy trì được
74 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
chừng mười năm, hai chục năm… thường mắc chứng bệnh
loãng xương, suy nhược cơ thể, dẫn đến suy nhược thần kinh.
Bản chất việc ăn chay rất tốt vì nó bảo đảm sức khỏe và
tránh được các bệnh hiểm nghèo. Ở phương Tây, các siêu thị
và quán chợ phần lớn đều có bán đồ chay, ta muốn mua thực
phẩm chay rất dễ. Họ dành riêng một góc nhỏ chuyên bán thực
phẩm chay. Trong khi đó, đạo Phật có mặt ở Việt Nam trên dưới
hai chục thế kỷ, vậy mà kiếm một quán đồ chay không phải là
chuyện dễ. Điều đó cho thấy khuynh hướng ăn chay để duy trì
tuổi thọ và sức khỏe đang diễn ra như một nhu cầu.
Người Phật tử ăn chay, ngoài yếu tố sức khỏe còn tránh
được các bệnh tật do tiêu thụ các loại thịt mỡ. Ta cần phải
phát triển thêm lòng từ bi, đây chính là nền tảng, là trọng tâm
quan trọng nhất để ta có sức khỏe và tuổi thọ lâu dài. Không
có sức khỏe, ta sẽ rơi vào tình trạng “lực bất tùng tâm”, muốn
thật nhiều, nhưng làm chẳng được bao nhiêu, làm chút xíu là
mỏi mệt phải nằm nghỉ. Do đó khi ta sống, có được tuổi thọ
là ta có điều kiện thực hiện chí nguyện cao thượng của mình
suốt cuộc đời mà không hề bị gián đoạn.
Nếu chỉ sống được khoảng 60 tuổi rồi chết thì sau tuổi 60,
ta không làm được gì nữa, phải bắt đầu lại, làm phôi thai, rồi
làm đứa con được sự dìu dắt, thương tưởng, nuôi nấng, chăm
sóc của cha mẹ. Mất đi 20 năm sau đó ta mới có thể tiếp tục
sứ mệnh của mình.
Các vị Hòa thượng, cao Tăng ở Việt Nam sống đến tuổi
tám, chín mươi là chuyện thường. Nhờ sống thọ nên con
đường Phật sự của các ngài mới được hanh thông. Hai mươi
tuổi trở thành một vị Tỳ kheo, sống cho đến 90 tuổi, như vậy
trong suốt bảy chục năm, con đường hoằng hóa được nối dài
liên tục, tạo niềm tin tâm linh tựa như tàng cây bồ đề rộng
CÓ SỨC KHỎE LÀ CÓ TẤT CẢ •  75
mát phủ che cái âm đức cho thế hệ học trò. Những người kế
thừa được là một duyên phúc rất lớn. Ông bà, tổ tiên, cha mẹ
sống thọ cũng là phúc cho con cháu. Do đó khi lớn tuổi thì
nên buông xả, đừng để những mối lo bám víu vào tâm, bởi
sức khỏe cũng theo đó mà mất đi.
Năm 2006, chúng tôi thuyết giảng tại một thành phố gần
San francisco. Hôm đó nhân dịp lễ mừng thọ 80 tuổi cho một
bà cụ, chúng tôi thuyết giảng đề tài “Chuyển hóa tâm thức”
để hướng dẫn cho tất cả cháu con được đoàn tụ tại Hoa Kỳ
trên dưới một năm, có thể từ đó mà biết được đạo pháp.
Sau buổi thuyết giảng, gia đình thỉnh mời chúng tôi về
thăm bà cụ tại tư gia. Khi vào nhà, thấy bà cụ đang cầm cây
chổi quét nhà, rồi bà bỏ chổi xuống lau bàn, chùi ghế, thỉnh
thoảng bà bắc ghế đứng lên để lau chiếc tủ cổ xưa được đưa
từ Việt Nam sang. Con cháu rầu vô cùng, bảo cụ hãy nghỉ
đi đừng làm, tất cả mọi thứ trong gia đình đã có người giúp
việc. Bây giờ tuổi lớn, bà/mẹ nên lo an dưỡng, lỡ trượt té là
làm khổ cho con cháu, làm khổ cho bản thân. Nhưng thói
quen của người lớn tuổi không muốn buông, bởi họ đã làm
quá nhiều trong cuộc đời, bỗng dưng ngừng hoạt động là họ
cảm thấy trống vắng, cô đơn; khiến họ cảm thấy họ đang già
đi và mất sức lao động, không còn khả năng bươn chải như
thuở nào. Trong khi ở thời lão niên, họ lẽ ra phải an dưỡng,
nghỉ ngơi cho tâm trí được an lạc.
Nhiều người già mà vẫn tiếp tục làm. Mặc dù sức khỏe
tốt, nhưng những sơ suất, trục trặc lao động nho nhỏ không
đáng là bao có thể xảy ra làm giảm tuổi thọ, giới hạn người
đó trên chiếc giường hay xe lăn do những tai biến, tật ách. Vì
thế chúng ta phải thực tập, làm sao ở tuổi 70 trở đi thì phải
buông xả, đừng bận tâm quá nhiều vào những việc gia đình,
76 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
rồi công ăn việc làm của con cháu mà khiến sức khỏe hao
mòn. Nhiều ông cụ, bà cụ lo cho đời con chưa đủ, lo đến đời
cháu, đời chít. Suốt cuộc đời phải phục vụ cho ba, bốn thế hệ
con, cháu, chít… hết sức là khổ.
Đứa nào đi về muộn một chút là hỏi han, đứa con nào
đi làm xa thì tối ngày trông ngóng mong chờ, như thế cũng
không giải quyết được gì mà làm cho sức khỏe ngày một sa
sút bệnh tật. Do vậy, người già có thể nương danh hiệu đức
Phật A Di Đà, Quan Thế Âm Bồ tát để tâm mình được an lạc,
nhờ đó sức khỏe được đảm bảo.
“Phạn thực kinh hành” - niệm danh hiệu đức Phật A Di
Đà là một nghệ thuật rất căn bản nhưng có thể giúp ta bảo vệ
sức khỏe. Những người lớn tuổi nếu đi ra ngoài bất tiện, đi
tới lui dễ trượt té thì có thể dùng cây gậy đi từ sân sau ra sân
trước. Nếu thực tập được thói quen này thì đây cũng là nghệ
thuật bảo vệ sức khỏe.
Các bản dịch để thêm chữ “trí tuệ” là không đúng, nguyên
văn trong kinh đức Phật có nói: “Tài sản quý nhất của con
người là sức khỏe”. Dù tài sản hay gia đình bị sụp đổ thì ta
nỗ lực tái tạo vẫn thành công. Đức Phật cũng thường nói, đặc
biệt là trong kinh Di Giáo “Duy tuệ thị nghiệp” - chỉ có trí tuệ
là sự nghiệp chứ không phải trí tuệ là tài sản, tài sản phải là
sức khỏe, nó giúp cho mình bền bỉ, thậm chí có thể làm được
những việc khó làm.
***
ĐIỀU XI:
ÁI TÌNH LÀ
SỢI DÂY RÀNG BUỘC
Điều thứ 11: Món nợ lớn nhất của đời người là tình cảm.
Chữ “tình cảm” trong tiếng Việt rất nhiều nghĩa, tốt có,
xấu có. “Tình cảm” trong ngữ cảnh này không phải là tình
cảm giao tế trong xã hội giữa người thân với người thân,
người dưng với người dưng, không phải tình làng nghĩa xóm
mà là sự quyến luyến bịn rịn của chữ tình, hay là tâm lý không
buông xả được, do vậy bị vướng nhiều chuyện không đâu.
Những chứng bệnh lo thuộc về tâm lý tình cảm. Người
mẹ thường có thói quen lo, lo cho con từ thuở nhỏ, con lớn
lên mẹ vẫn không an tâm, lo gần lo xa, lo trong lo ngoài, lo
ngày, lo đêm. Có nhiều việc ta chỉ cần đầu tư trong hai giờ là
làm xong, nhưng người có bệnh lo thì lo đến hai ngày, thậm
chí là hai chục ngày, hai tháng… Việc cũ lo xong rồi, đáng lẽ
ta có thể buông bỏ để làm việc mới thì vẫn còn ký ức và nỗi
lo canh cánh bên lòng, điều đó làm ta tổn thất rất nhiều năng
78 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
lực hiện tại vào những chuyện không đâu. Cho nên ta phải
thực tập chuyển hóa cảm xúc, đừng quyến luyến bịn rịn, để
khi còn sống ta có được an vui thì lúc chết mới được siêu. Do
đó, huấn luyện tình cảm là tạo ra sự quân bình về cảm xúc.
Dòng cảm xúc của con người có hai khuynh hướng:
Hạnh phúc và khổ đau. Đối với những việc hạnh phúc, ta có
khuynh hướng bám chắc, muốn giữ hoài, gọi là lòng tham.
Đối với những điều bất hạnh ta muốn kháng cự, loại trừ và
đẩy nó ra bên ngoài. Cuối cùng, ta sống với hai phản ứng:
Hoặc là lòng tham, hoặc là sân. Bám víu thích thú và tư hữu
hóa nó thuộc về lòng tham; kháng cự chống đối, loại trừ và
thanh toán nó thuộc về lòng sân. Hai tâm pháp này có mặt
nơi nào thì lòng si đồng lúc tồn tại và phát triển. Tham, sân,
si là ba chân vạc của khổ đau, là nỗi ám ảnh khiến cho ta khó
được an vui và hạnh phúc.
Những người sống quá nặng về tình cảm, lẽ ra phải quyết
định, họ lại chần chừ do dự, tiến thoái lưỡng nan, cuối cùng
thì cơ hội không còn nữa, do đó thất bại tiếp nối không dứt.
Để chuyển hóa được tình cảm, đức Phật dạy phải vận dụng
niềm tin về nhân quả để dứt khoát thoát khỏi những tình
trạng không vui.
Có hai vợ chồng khoảng ngoài 50 tuổi đến gặp chúng
tôi với tâm trạng rất khổ đau! Bà có năm căn nhà ở Sài Gòn,
ngoài ra đất đai ở các tỉnh cũng rất nhiều. Họ có hai đứa con,
một đứa chuẩn bị cưới vợ, một đứa đã có gia đình và hai con.
Căn nhà họ ở có năm tầng lầu, họ phân phát cho con đứa một
tầng, có phương tiện đầy đủ. Dù vậy, những đứa con cũng
không cảm thấy hạnh phúc. Anh con trưởng yêu cầu ba mẹ
cho hẳn một căn nhà. Bà bảo: “Hãy chờ sau khi ba mẹ chết
thì sẽ để lại di chúc cho con, cũng đâu có muộn gì. Bây giờ
các con sống chung với ba mẹ cho vui, con cái mà ở nhà
ÁI TÍNH LÀ SỢI DÂY RÀNG BUỘC •  79
riêng thì ba mẹ sống với ai?” Nhưng anh ta không chịu sống
chung, cuối cùng nó không thèm nhìn mặt ông bà khiến bà
rất khổ tâm!
Gặp lại bà tại chùa Xá Lợi, chúng tôi yêu cầu bà trả lời
thật lòng thì mới có thể giúp bà được: - “Bà có thật sự thương
hai đứa con không?” Bà nói: “Nếu tôi không thương con thì
thương ai bây giờ!” Đó là điều tốt.
“Bà có thật sự muốn giao gia tài cho con khi bà chết hay
không?”. “Điều đó là tất yếu, con của tui nếu tui không làm
di chúc để giao cho nó thì giao cho ai bây giờ! Ngoại trừ tôi
không có con mới giao cho cháu”. “Vậy thì tốt lắm”. Tôi trả
lời - “Bà vừa xác định rằng bà rất thương hai đứa con, và
bà cũng có dụng ý, và trên thực tế bà cũng đã làm một tờ di
chúc giao cho con tài sản đó rồi, vấn đề còn lại bây giờ là
thời gian. Vấn đề thứ hai là bà chưa an tâm giao cho con
trong khi chúng còn quá trẻ tuổi - chưa được 30 - cả một gia
tài là căn nhà độc lập, bởi nó có thể ăn chơi mà không nhìn
thấy sự đóng góp khổ cực của ba mẹ trước đây, từ đó có thể
phá sản gia tài. Đó là mối lo của bà phải không?” Bà nói:
“Phải lắm!”
Chúng tôi yêu cầu bà hãy an tâm bởi bà có lo cũng không
giải quyết được gì. Không phải do bà lo mà căn nhà đó không
bị mất, hay bà không lo thì nhà cửa còn y nguyên. Mất hay
không còn thuộc về điều kiện và nhân duyên. Bây giờ có gia
tài và sự nghiệp đủ đầy, nhà cửa dư dả, nếu có ý trao cho
nó thì cứ trao, con cái sẽ biết ơn. Bằng không nó nghĩ rằng
ba mẹ keo kiệt không muốn cho rồi sanh tâm bất hiếu thì
cũng không lợi ích gì. Dầu sống chung trong nhà mà con cái
không nhìn mặt, cha mẹ hờn dỗi nói con bất hiếu nên sinh ra
chửi mắng, cuối cùng cả một gia đình không hạnh phúc, mất
hết niềm vui.
80 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Chúng tôi khuyên: “Trong một tuần bà hãy chia gia tài
cho hai đứa con”. Bà đã làm theo. Một tháng sau, bà gọi điện
thoại lại cám ơn thầy đã góp ý đúng: “Bây giờ, đứa con trai
đã có gia đình cứ mỗi tuần có khi hai lần, có khi ba lần, dẫn
vợ con đến thăm viếng chúng tôi; đứa con chuẩn bị đính hôn
thì dẫn người yêu về. Chúng cảm ơn hết mình”. Như vậy căn
nhà này đã sử dụng đúng mục đích, và lòng hiếu kính của
con cái cũng được thể hiện trọn vẹn với cha mẹ.
Thông qua chuyện này, chúng tôi muốn nói rằng: Có nhiều
bậc cha mẹ dành dụm của cải, cố giữ gia tài sự nghiệp của tổ tiên
như đất đai, nhà cửa… thấy rằng tâm tánh của con có khuynh
hướng ăn chơi, họ nên không yên tâm khi giao gia tài.
Chính vì vậy mà khi làm di chúc, chúng tôi xin cảnh báo
là rất khó được siêu sau khi chết! Bởi tâm của mình lúc nào
cũng hướng về tờ di chúc đó, vẫn chưa an tâm vì không biết
là người thân, con cháu trong gia đình có theo tờ di chúc đó
mà làm đúng sở nguyện của ta khi còn sanh tiền hay không.
Ai phát sinh tâm như thế thì điều bất hạnh sẽ đến vì họ sẽ
không chịu ra đi, cứ lẩn quẩn mãi trong căn nhà để theo dõi
xem việc thực hiện di chúc tới đâu.
Cho nên là Phật tử thì phải cân phân mọi thứ trước khi
qua đời. Nếu như vì một lý do tế nhị, khó xử mà ta không
thể phân chia gia sản khi còn khỏe mạnh, thì sau khi di chúc
được ký xong ta phải buông xả. Đừng bận tâm nghĩ tưởng
rằng con cháu phải làm thế này thế kia, ai không làm thì
mình buồn, giận, hờn, tức; bởi vì những tư duy và nghĩ tưởng
như thế sẽ trở nên mỏi mệt vô cùng. Sở dĩ ta không dứt khoát
được để quyết định mọi việc là do những sợi dây tình cảm
đẩy chúng ta rơi vào tình trạng phân vân. Cho nên tốt nhất,
cứ làm hết bổn phận và trách nhiệm của mình, xong rồi ta
phải dứt khoát. Đó là người có kiến thức về nhân quả, là
ÁI TÍNH LÀ SỢI DÂY RÀNG BUỘC •  81
người sống được tinh thần của bậc trí, nhờ vậy biết nhìn xa
trông rộng, quyết định việc gì thành công việc đó. Sau khi quyết
định không được nuối tiếc, không chán nản, không thất vọng,
không mong cầu, thành quả đạt được bao nhiêu ta tạm thời hài
lòng bấy nhiêu, bởi có muốn hơn cũng không được. Làm như
thế không có nghĩa là ta đang đầu hàng số phận. Nhân cộng
duyên tạo ra kết quả, khi duyên và nhân như thế thì thành quả
chỉ chừng đó mà thôi. Cho nên thay vì buồn tủi, chán nản ta nên
hài lòng. Vấn đề sẽ được tháo mở, sẽ trở nên sáng và khai thông.
Ai sống nặng về tình cảm thì sẽ khổ đau, ăn không ngon,
ngủ không yên do cảm xúc rất nhiều. Họ thường rất nhạy
cảm. Đi ra đường người ta nói bóng gió, nhiều khi nói ông A,
ông B, mình có cảm giác là người ta ám chỉ, người ta nói xấu
mình nên về khổ đau, ăn không no, ngủ không yên, trằn trọc
băn khoăn giấc chẳng lành. Người mà dứt được món nợ tình
cảm sẽ được nhẹ nhàng, tinh tấn tu hành và giải thoát được
khỏi luân hồi sanh tử.
Có nhiều người có mối quan hệ vợ chồng thường lục đục,
không tâm đầu ý hợp, đời sống tư cách đạo đức của hai người
như một trời một vực. Xa nhau thì buồn, mà gần thì khổ đau,
sau khi ly dị một thời gian rồi tái hôn lần nữa. Cứ như thế
cuộc đời lận đận, lẩn quẩn.
Nhiều người vẫn biết đó là món nợ tình cảm do mình
thích ngọt, thích ngon, thích bùi, ai nói gì chiều theo ý ta thì
thích, ủng hộ. Trên thực tế nó đang biến ta thành nô lệ, vì ta
đang bị họ xỏ mũi, sai khiến bằng những lời ngọt mật chết
ruồi. Cho nên người vượt qua được tình cảm thì sống bằng
lý trí, việc nào cần thì làm, việc nào không thì không. Sống
được như thế là đang trên đà hướng tới tự giác, là con người
tỉnh thức. Là người Phật tử thì phải có thói quen ứng xử như
thế để được bình an.
ĐIỀU XII:
KHOAN DUNG ĐỘ LƯỢNG
Điều thứ 12: Lễ vật lớn nhất của đời người là sự khoan dung.
Khoan dung là thái độ độ lượng. Người độ lượng là người
có tâm hạnh Bồ tát. Không chỉ là ngoại giao, do mọi ứng xử
đều phát xuất từ trái tim hiểu biết và lòng vô ngã vị tha nên
ta không hề câu chấp bất kỳ lời nói, việc làm xấu nào của
tha nhân. Nếu có người sau khi nhận thấy lỗi lầm, đến xin
lỗi để cầu hòa, ta hãy hoan hỷ chấp nhận và xem như không
hề nhìn thấy những oan trái hay cái gút trong quá khứ, để họ
không bị đẩy vào thế chân tường, buộc phải kháng cự như
cùi không sợ lở, điếc không sợ súng.
Người khoan dung độ lượng là người nhìn thấy được
tiềm năng của người khác, luôn tạo điều kiện nâng đỡ họ và
nghĩ rằng “con hơn cha là nhà có phúc”. Những người đàn
em, cộng sự làm việc dưới trướng, nếu ai có tài năng ta nên
tạo điều kiện cho họ cơ hội đóng góp. Đừng sợ rằng nếu cho
người này một vai trò, vị trí thì sức ảnh hưởng và hình bóng của
mình sẽ bị lu mờ. Ai nghĩ như thế là người bỏn xẻn tri thức, cơ
hội; hậu quả đời này và đời sau sẽ rất tai hại. Nâng đỡ thế hệ
KHOAN DUNG ĐỘ LƯỢNG •  83
tương lai sẽ mang đến cho ta cơ hội làm những việc quan trọng
hơn. Thái độ ứng xử như thế được gọi là người rộng lượng.
Các chùa Bắc tông thường có thờ tượng đức Phật Di Lặc.
Điểm đặc biệt của Ngài là nụ cười rất vui tươi và cái bụng rất
to. Tại sao đức Phật Di Lặc có cái bụng to? Trong kinh mô tả
các đức Phật, các vị Bồ tát đều có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp,
trong đó không có tướng tốt và vẻ đẹp nào là bụng to cả. Nữ
thì phải có eo, còn ở nam là sự phương phi vạm vỡ, tại sao
đức Phật Di Lặc lại có bụng to?
Bởi vì hình tượng đức Phật Di Lặc chịu ảnh hưởng từ nền
văn hóa Trung Hoa. Người Trung Hoa quan niệm bụng bự là
sang, từ đó dẫn đến một ý nghĩ: Ai rộng lượng, có tấm lòng
tốt thì có bụng to. Cho nên người ta thường lấy đó làm tiêu
chuẩn mà cưới vợ, gả chồng.
Quan niệm này cũng hoàn toàn phù hợp với nền văn hóa
Ấn Độ. Ở đây người phụ nữ nào thon thả quá thì dễ ế chồng
vì họ nghĩ rằng cô này không có phúc, sợ rằng cưới cô đó thì
con cháu sinh ra mất đi cái phúc. Vì vậy mà phụ nữ Ấn Độ
thường có vóc dáng mập hơn phụ nữ các nước khác.
Chúng ta đừng bắt chước đức Phật Di Lặc có bụng to như
thế bằng hình thức, mà phải bằng cái tâm. Muốn có tâm rộng
lượng hoan hỷ thì ta phải có nụ cười tươi vui, thái độ ứng
xử linh hoạt, thoải mái, thong dong tự tại, không câu chấp,
không giữ lại nỗi buồn và niềm đau. Có được niềm vui như
thế, ta sẽ có được hạnh phúc và độ lượng. Hai điều này hỗ
trợ cho nhau rất nhiều.
Có lần chúng tôi đến thăm viếng các bệnh nhân ở bệnh
viện Ung bướu Tuy Hòa - nơi nhà thơ Hàn Mặc Tử đã từng
đến điều trị. Chúng tôi rất hoan hỷ khi nhìn thấy ngôi nhà
84 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
nhỏ đã được sử dụng như một Phật đường, bên trong có thờ
đức Phật Di Lặc, tượng Bồ tát Quan Thế Âm và tượng đức
Phật đản sanh. Các Phật tử ở đây đều mặc áo tràng, tiếp đón
chúng tôi bằng những nụ cười.
Chúng tôi đã chia sẻ cho họ một bài thuyết pháp ngắn,
nói về “Nghệ thuật giữ sức khỏe trong khi bệnh tật” và yêu
cầu họ mỗi ngày phải làm sao để có được nụ cười, có được
niềm vui. Nhờ vậy, tâm mình mới luôn được hân hoan, bình
an và hạnh phúc. Bệnh tật đến với con người như một quy
luật chứ không phải chỉ đến với tuổi già. Rất nhiều người còn
trẻ phải chết non, nếu không chết thì mang tật ách suốt cuộc
đời như một phế nhân.
Nếu ta có được niềm vui, sự phấn chấn, chí nguyện lớn,
ta vẫn tạo được sự nghiệp và thành công trong cuộc sống.
Vấn đề là ta thấy được tiềm năng và giá trị trong những đóng
góp của mình. Có được nụ cười, ta có thể làm được việc khó
làm. Muốn có được tâm rộng lượng thì ta phải luôn quán tưởng
về hình ảnh đức Phật Di Lặc và liên tưởng đến Bồ tát Địa Tạng.
“Địa” là quả đất, “Tạng” là kho tàng, Bồ tát Địa Tạng là
người làm chủ được kho tàng tâm - nơi chứa tất cả những
tính cách tốt xấu mà con người có thể có. Khi thấy được mỗi
người chúng ta đều có mảnh đất tâm như quả địa cầu thì ta
thực tập sự rộng lượng và khoan dung rất dễ dàng: Dưới lòng
sâu của đất có nhiều loại quặng, khi khai thác hiệu quả sẽ làm
giàu cho quốc gia.
Các nước Trung Đông giàu nhờ có nhiều quặng dầu,
một số nước khác giàu nhờ quặng Uranium, một số nước có
nhiều quặng đồng, quặng bạc, quặng vàng và nhiều khoáng
sản khác có giá trị kinh tế cao, giúp nước đó có cơ hội trở
thành cường quốc về kinh tế.
KHOAN DUNG ĐỘ LƯỢNG •  85
Đức Phật nói trong kinh: Kho tàng mảnh đất tâm của con
người cũng có rất nhiều quặng: Quặng từ bi, quặng trí tuệ, quặng
an vui, quặng hạnh phúc, quặng tinh tấn, quặng vô ngã, quặng vị
tha, quặng bố thí, quặng cúng dường và hàng trăm ngàn quặng
khác có giá trị và ý nghĩa cho cuộc đời. Vấn đề ở chỗ ta có biết
cách khai thác các quặng đó để sử dụng hay không.
Ngược lại, quả đất cũng là nơi chứa các vật dơ nhất. Bao
nhiêu chất phóng thải như rác, phân, xác chết… đều được
chôn xuống lòng đất. Biết bao con vật truyền nhiễm những
bệnh dịch như H5N1 đã bị giết thiêu tập thể cũng được chôn
xuống đất. Vì vậy đất bị ô nhiễm, mạch nước bị ô uế. Có
một số chất khi thấm vào lòng đất một thời gian thì được
thanh lọc ở một mức độ tương đối. Nhưng cũng có những
chất không thể phân hủy được như cao su, bao ni lon hoặc là
các loại rác thải bằng nhựa… Điều này dẫn đến sự ô nhiễm
nghiêm trọng môi trường đất.
Mảnh đất tâm của ta cũng thế. Ta phải làm sao cho nó
được cao thượng để thanh lọc những phiền muộn, chướng
duyên, thử thách đến với mình. Nhất là với những người
thân, dù họ vô tình hay cố ý mang lại nỗi đau cho chúng ta,
ta cũng cần rộng lượng tha thứ và bỏ qua. Đừng nên cố chấp,
thề cay rủa độc làm cho ân oán cứ nối kết mãi.
Dân gian Việt Nam có câu: “Một cái giá bằng ba cái
đánh”. Bị đánh một cái đau rồi hết, có sưng, đau, nhức cũng
có thuốc để điều trị. Giá thì không biết bị đánh lúc nào, đau hay
không, nên tâm ta lúc nào cũng phập phồng, lo sợ, hoài nghi,
từ đó mất bình tĩnh. Người nào tâm không bình an thì không có
hạnh phúc và niềm vui. Do vậy phải có lòng khoan dung, không
sợ kẻ tiểu nhân, sợ những người độc ác, kẻ bần tiện.
Mỗi người đều có khả năng tự chuyển hóa khi có chất
86 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
xúc tác, môi trường, điều kiện thuận lợi. Tin tưởng như thế,
ta nên tiếp tục nuôi hy vọng giúp họ hồi đầu hướng thiện, trở
thành người có lợi ích cho cộng đồng và xã hội. Đó là thái độ
ứng xử khoan dung. Người có lòng khoan dung thường rất tự
tin, không nghĩ sự đa dạng là trở ngại mà nghĩ sự đa dạng là
phong phú, cho ta điều kiện tham khảo những gì chưa biết.
Nhờ đó mà họ thu hoạch được nhiều cái hay, cái tốt, đạt được
thành công trong cuộc đời.
***
MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY 4
(Điều 13 và điều 14)
Giảng tại chùa An Lạc, Ventura, CA, ngày 13-07-2008
Đánh máy: Ngọc Phương
ĐIỀU XIII:
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC
Điều thứ 13: Khiếm khuyết lớn nhất của đời người là
kém hiểu biết.
Đây là phương diện người xuất gia cần phải nhấn mạnh
nhiều. Đối lập với kém hiểu biết là con đường tuệ giác.
Phật tử tại gia cũng cần phải học Phật pháp, để mỗi người
trở thành ngọn đuốc của tư tưởng nhà Phật bằng chính những
hành động thiết thực của mình. Người xuất gia trong thời
hiện đại cũng phải khác xưa, ngoài việc chuyên tu rèn luyện
đời sống tâm linh thì còn phải dấn thân vào các hoạt động từ
thiện xã hội.
Hai yếu tố này cũng như sự song tu về phước và huệ mà
mỗi người đệ tử Phật đều phải hành trì. Trong điều minh triết
thứ 13, cái khiếm khuyết được định nghĩa ở đây là sự thiếu
sót tri thức, khiến mình vĩnh viễn là kẻ vô học. Nhu cầu về
việc học, con đường đạo đức và tâm linh là không hạn lượng.
Đường kính của sự học là vô tận. Biên giới của sự học là
không giới hạn. Cho đến lúc nào ta phá vỡ được vô minh thì
toàn bộ tiến trình học mới được xem là có điểm dừng.
90 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Sự kém hiểu biết giống như con mắt của ta đang nhắm
lại, chức năng của nó bị mất đi. Phật giáo gọi sự kém hiểu
biết là vô minh.
Vô minh là thuật ngữ chuyên môn, được định nghĩa là sự
thiếu tri thức về nhân quả. Khi sống bằng các phương tiện
tư duy như loại suy, quy nạp, diễn dịch và tổng hợp trên nền
tảng chủ quan hay khách quan, nếu tách rời khỏi quy luật vận
hành của vũ trụ là nhân, quả với sự nối kết là duyên thì tất
cả mọi giả định đều được xem là loại tri thức kém hiểu biết.
Theo định nghĩa căn bản này thì chưa hẳn các nhà khoa
học, bác học, thiên tài, nhân tài trong mọi lĩnh vực, đã có
nhiều đóng góp cho sự phát triển tư tưởng của nhân loại là
những người thoát khỏi sự kém hiểu biết. Phi hành gia đầu
tiên đặt chân lên Mặt trăng trong chương trình khám phá vũ
trụ cách đây vài chục năm đã thực hiện động tác đầu tiên khi
ông đặt chân xuống Mặt trăng là: Vẽ một dấu thánh giá để tạ
ơn Chúa đã giúp cho ông còn sống.
Là một nhà khoa học vật lý thiên văn học thì rõ ràng ông
ta biết vũ trụ không bắt nguồn từ một nguyên nhân đầu tiên
nào, dù được định danh là Thượng đế dưới nhiều danh nghĩa
khác nhau. Những tri thức về sự tạo dựng nên vũ trụ được
cài đặt như một con chíp trong đầu của ông khi còn nhỏ. Khi
lớn lên, các tri thức khoa học vẫn không đủ sức tẩy não con
chíp này. Do vậy, quan điểm có Thượng đế thương tưởng,
ban tặng sự sống và mọi thứ khác vẫn còn là nỗi ám ảnh. Các
loại tri thức như thế vẫn bị xem là kém hiểu biết.
Khái niệm kém hiểu biết trong Phật giáo khác với thuật
ngữ xã hội học. Sự hiểu biết trong xã hội học có nghĩa là linh
hoạt, khôn ngoan trong các mối quan hệ giao tế giữa mình và
người để làm sao có được sự hài lòng. Trong giao dịch kinh
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  91
tế, khôn ngoan là làm thế nào để ta có nhiều hợp đồng có giá
trị lợi nhuận cao. Được lòng khách hàng cũng được xem là
một nghệ thuật đi bằng con đường hiểu biết: Hiểu biết quy
luật cung cầu của kinh tế, tâm lý của khách hàng, thời cơ đầu
tư và thời điểm chào hàng để công việc được hanh thông và
mang lại lợi nhuận cao.
Khái niệm kém hiểu biết trong 14 điều minh triết là thiếu tuệ
giác, là những loại nhận thức tư duy và giải quyết vấn đề không
đặt trên nền tảng của nhân quả. Như vậy, nhân quả theo nhà
Phật là gì? Dân gian thường nói: “Trồng dưa được dưa, trồng
đậu được đậu”. Kiến thức nhân quả này tạm gọi là nhân quả mặt
phẳng, nó khác hoàn toàn với kiến thức nhân quả trong thực tế
mà chúng tôi tạm gọi là nhân quả hình học không gian. Xin tạm
mượn hai khái niệm toán học để dễ dàng mô tả.
Ở trình độ tiểu học trở xuống, kiến thức về hình học trên
mặt phẳng được xem là chân lý. Nó như là một quy luật.
Nhưng từ trung học trở lên, bản chất vận hành của vũ trụ
được hiểu không phải là mặt phẳng nữa mà nó đa chiều, thậm
chí là n chiều. Nhân quả còn chịu sự tác động của các duyên
mang tính điều kiện, do vậy những yếu tố được gọi là nhân
gieo trồng trong quá khứ của đời trước, của mấy chục năm
vừa qua hay của ngày hôm qua, và cả thành quả của tương
lai đều phải trải qua tính thời gian của hiện tại bởi nhiều tác
động khác nhau. Nên có những lúc trồng dưa mà không được
dưa, trồng đậu mà không được đậu.
Ở Việt Nam, vào cuối năm 2007, miền Bắc phải chịu một
đợt khí hậu lạnh, giá rét với gió bấc đã làm cho những thiệt
hại mùa màng lên tới vài chục tỷ đô la. Tất cả những người
làm nông trong vụ mùa đó đều thất bát. Cho nên trồng lúa,
rau, củ, quả… hầu như chẳng được gì mà còn bị tổn thất.
92 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Như vậy trong nhân quả mặt phẳng, ta nói “trồng lúa được
lúa, trồng đậu được đậu” thì phải hiểu là tính chất của nhân
và quả tuy đồng nhất nhưng không có nghĩa là theo tỷ lệ
thuận về khối lượng.
Do vậy, nhân quả hình học không gian mới là quy luật để
giải quyết các vấn nạn trong xã hội. Khi ta gieo trồng những
hạt giống xấu, tiêu cực, không có nghĩa là sẽ trả quả trong
tương lai theo những gì ta đã gieo trồng. Tiến trình chuyển
đổi nghiệp, thay thế hành vi, làm chủ cảm xúc, làm chủ được
nhận thức dẫn đến vận mệnh con người bắt đầu thay đổi theo.
Như vậy, nhân quả trong tình huống này là mối tổng hòa
giữa những hạt giống xấu và tốt. Xấu trong quá khứ, tốt trong
hiện tại tương tác lẫn nhau theo quy luật bù trừ, kết quả là
cái nào mạnh cái đó khống chế. Hạt giống đã gieo trồng nếu
không có những cản lực tích cực hay tiêu cực, nó sẽ trổ quả
ngay thời điểm nhất định với kết quả như ta mong đợi. Như
vậy, bởi có sự tác động nên kết quả đôi lúc không đồng nhất
với cái nhân được gieo trồng ban đầu.
Do đó, yếu tố duyên chính là dữ liệu quyết định sự thành
công trong tiến trình đầu tư nhân quả. Khi ta hiểu được nhân
quả dưới góc độ có sự tương tác, sẽ không có cái gọi là định
mệnh an bài với những quy luật số phận mà ta thường nghĩ
nó gắn liền với con số năm, tháng, ngày, giờ sinh hay là năm,
tháng, ngày, giờ đầu tư một công trình, khai trương công
việc. Lúc đó ta đã có tri thức gọi là tri thức tuệ giác về nhân
quả. Điều đó giúp chúng ta thoát khỏi giới hạn của sự kém
hiểu biết vốn làm cho con người lún sâu trong mê tín dị đoan.
Trước khi đến Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp thuyết giảng tại
10 tỉnh thành của miền Bắc. Trong mỗi buổi giảng đều có hai
phần: Phần giảng về đề tài chính và phần vấn đáp. Ấn tượng
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  93
chúng tôi đã đúc kết được là: Không có ở ngôi chùa nào mà
quần chúng không hỏi đến việc đốt giấy vàng mã, cách thờ
phượng. Quá nhiều yếu tố đa thần giáo đã có sự ảnh hưởng
rất đậm đặc đến các ngôi chùa miền Bắc.
Phật giáo miền Bắc khoảng 20 năm trở lại đây, cơ hội
phục sinh mới bắt đầu trỗi dậy. Sự kém hiểu biết về nhân quả
trở thành một yếu tố trong nhận thức của con người. Đồng
lúc đó, nạn mê tín dị đoan diễn ra rất nghiêm trọng.
Các chùa thờ rất nhiều Thần: Thượng đế, Nam tào, Bắc
đẩu, Cửu thiên Huyền nữ, Quan Công, Mẹ sanh Mẹ độ…
ngay trên chánh điện chứ không đơn thuần ở nhà các Phật tử.
Chùa Phật giáo miền Nam thì hoàn toàn khác. Ngoài một số
chùa do gốc gác của người kiến dựng nên ngôi chùa có tín
ngưỡng đa thần giáo trước khi theo đạo Phật, chín mươi mấy
phần trăm là không thờ như vậy.
Hiện nay Phật tử thuần thành tại miền Nam cũng không
còn thờ phượng theo tín ngưỡng đa thần giáo. Họ hiểu rất rõ
rằng nhân quả quyết định tất cả hạnh phúc và khổ đau của
con người chứ không phải do Thượng đế hoặc các vị thần
linh có chức trách như trước đây người ta quan niệm.
Loại tri thức về nhân quả theo cấu trúc hình học không gian
sẽ giúp ta giải phóng được quan niệm về định mệnh, vốn là nỗi
ám ảnh dẫn người ta đến con đường tôn giáo nhiều hơn.
Trong kinh Trường Bộ, đức Phật dạy: “Nếu những gì
chúng ta có trong hiện tại được lý giải có gốc gác từ quá khứ
thì họ sẽ khó có thể khởi lên ý niệm phấn đấu đời sống đạo
đức ở hiện tại để làm mới chính mình”. Các Tổ Trung Hoa
dạy “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị, yếu tri lai
thế quả, kim sanh tác giả thị”. Muốn biết về các nguyên nhân
đời sống của mình trong quá khứ, thì hãy xem những gì mình
94 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
tiếp nhận hôm nay. Và muốn xem tương lai mình như thế nào
thì hãy xem những gì mình đang làm ở hiện tại.
Ở đây chúng tôi tạm gọi là nhân quả mặt phẳng, nó như lời
tuyên huấn đạo đức có tính xúc tác, đẩy con người vào quỹ đạo
của đời sống đạo đức, để con người có sự chuẩn mực trong đời
sống hiện tại và trong tương lai, họ được an vui và hạnh phúc.
Còn nếu xem đó là chuẩn mực, là quy luật diễn ra phải tất yếu
như thế thì nó đi ngược lại hoàn toàn với câu tuyên bố của
đức Phật trong kinh Trường Bộ. Có những cái thuộc nguyên
nhân hiện tại nhưng người ta cố tình lý giải nó là quá khứ.
Trong mùa Phật đản từ ngày 14 đến 17-5-2008 xảy ra hai
sự kiện rất thương tâm. Ngày 2-5-2008, cơn bão Nargis tấn
công Miến Điện đã làm thiệt mạng trên 150 nghìn người,
sự tổn thất hoa màu không tính đếm được. 10 ngày sau đó,
vào ngày 12-5, cơn động đất diễn ra ở tỉnh Tứ Xuyên, Trung
Quốc đã cướp đi mạng sống của trên 80 ngàn người.
Chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhiều người trong thời
gian thuyết giảng ở Hà Nội, có người đã nhận xét: “Miến
Điện và Trung Quốc đang trả quả” - Một viên chức rất lớn
nói: - “Miến Điện trả quả vì đã cưỡng bức các nhà sư trong
một năm qua, gây ra cảnh tượng rất đau lòng”. Nhưng đó
là nhận xét về nhân quả mặt phẳng, không chuẩn xác lắm.
Chính quyền Miến Điện đàn áp nhà sư chứ người dân của
Miến Điện có đàn áp đâu! Chính quyền tạo mà người dân
phải chịu hậu quả như thế thì đó không phải là nhân quả.
Nếu chính quyền tạo thì phải trả quả đời sống của họ lận đận,
lao đao. Đằng này nạn nhân là người dân vô tội. Trung Quốc
cũng thế, gia đình của trên 80 ngàn nạn nhân đang phải sống
trong cảnh màn trời chiếu đất, không nơi nương tựa. Mọi lý
giải cho rằng những khốn khó, bế tắc đang đối đầu đều là kết
quả quá khứ là không đúng.
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  95
Trong tình huống này, ta thấy hệ thống dự báo Thiên văn
cho đến nay vẫn còn giới hạn, chưa ai dám cam đoan rằng
mình tiên liệu được một cách chuẩn xác về sự xuất hiện của
động đất, ngay cả các cơn bão thông thường. Sau ngày động
đất diễn ra, các nhà khoa học ở Trung Quốc mới đưa ra một
thống kê về xã hội học: Ở những nơi diễn ra động đất, người
ta thấy dấu hiệu của các con vật di chuyển từ bỏ trú xứ của
nó sang một nơi khác. Và người ta dẫn đến kết luận rằng xúc
giác, khứu giác của các loài vật này tinh vi hơn con người,
nên với những biến động dưới lòng đất, con người chưa cảm
nhận được mà chúng đã biết.
Dựa vào đó, họ đưa ra bài học mới có giá trị tương đương
Thiên văn học. Trước đây, dân gian Việt Nam thường kinh
nghiệm rằng hàng loạt ổ kiến ở dưới gốc cây mà bò lên trên
thân cây thì biết khu vực đó khoảng chừng 3 ngày nữa sẽ có
lụt. Bởi vì các loài vật này, nhất là kiến có xúc giác và khứu
giác rất nhạy, nó phát hiện ra điều đó trước hết. Nhờ đó ta
tránh được những tổn thất đầu tư mùa màng.
Những điều đó đều liên hệ đến quy luật nhân quả của vũ
trụ. Nó tác động mật thiết với nhân, quả, phước báu của con
người. Do đó, ta phải quy trách nhiệm về mặt khai thác môi
trường, thiên nhiên, sinh thái quá cạn kiệt trong thời gian
ngắn khiến chúng không thể tái tạo được nguồn nhiên liệu mới
để phục vụ con người. Kết quả là có những biến động như động
đất, sóng thần, lũ lụt mà các nhà khoa học đã lý giải. Đây là
nguyên nhân chính dẫn đến sự tổn thất về nhân mạng.
Chúng ta khắc phục về phương diện này sẽ hạn chế tối đa
các thiên tai. Có người lý giải: Do trong quá khứ, con người
ở những nước đó tạo nhiều điều ác, điều xấu nên đất nước
gặp phải thiên tai. Vậy làm sao ta có thể lý giải cơn động đất
ở Nam Á và Đông Nam Á cách đây vài năm mà trong thời
96 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
điểm đó, hai nước Phật giáo là Tích Lan và Thái Lan có số
người chết tương tự như các nước Hồi giáo. Ta lý giải như
thế nào đây? Chẳng lẽ những người như thế đều xấu hết?
Không hẳn như thế.
Do đó, nhân quả mặt phẳng chỉ giúp giải thích được một
phần, có giá trị khuyến tấn giáo dục nhiều hơn là giải quyết
các vấn nạn thực tế mà phần đầu đã đặt ra cho chúng ta.
Trong khi đó, việc tri thức về nhân quả theo tinh thần Phật
dạy trong kinh Trường Bộ, tạm gọi là nhân quả hình học
không gian là loại nhân quả rất năng động, do vậy ta không
được phép đầu hàng số phận. Khi biết nếu mình tạo thêm
những điều kiện tích cực vào cơ cấu nhân quả trong đời sống
đạo đức của bản thân thì hạt giống quá khứ sẽ được khắc phục
và vượt qua, ta sẽ trở thành một người an vui và hạnh phúc.
Định nghĩa thứ hai trong kinh tạng Pàli về sự kém hiểu
biết là thái độ nhận thức và phương thức sống không phù hợp
với nguyên lý vô thường và vô ngã. Rất nhiều nhà khoa học,
nhà tri thức đã lâm vào tình trạng thế trí biện thông, cũng là
một trong tám chướng nạn. Trên cơ sở đó, họ vẫn bị liệt vào
loại kém hiểu biết dưới góc độ tuệ giác.
Ta thấy chữ Pàli gọi vô ngã là “anatta”. Nếu dịch sát
nghĩa chữ Hán, ta không dịch là vô ngã mà là phi ngã, vì tiếp vị
ngữ “a” đặt trước một danh từ tức là phi. Nó mang tính cách loại
trừ tân ngữ đi theo sau. Nếu gọi là vô ngã nghĩa là không có cái
ngã, thì lại bị hiểu theo nghĩa rằng ta phủ định linh hồn.
Trên thực tế, đạo Phật vẫn chủ trương có hình thức tái
sanh sau khi con người mất, cái chết không phải là dấu chấm
cuối cùng. Dù là khái niệm linh hồn hay tái sanh cũng chỉ là
một tiến trình chuyển tiếp của tâm thức, chứa đầy hạt giống
nhân quả trong quá khứ và hiện tại.
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  97
Do đó, khái niệm vô ngã mà các dịch giả Trung Hoa sử
dụng không phản ứng đúng được thuật ngữ đức Phật đã sử
dụng trong bản kinh là phi ngã (anatta). Dựa vào chữ phi
ngã này, ta vẫn thấy có một cái tôi. Cái tôi đó được cấu tạo
bằng thân thể vật lý gồm có 4 nguyên lý: Chất rắn, chất lỏng,
chất nhiệt, chất vận động. Và cõi tâm thức có 4 nguyên lý:
Nguyên lý cảm xúc, nguyên lý tri giác, nguyên lý tâm tư và
nguyên lý nhận thức. Tất cả hai nhóm nguyên lý về vật chất
và tâm tạo ra cái tôi được đức Phật khẳng định là phi ngã,
tức chẳng phải tôi. Phi ngã không phủ định không có cái tôi,
chẳng phải là tôi và không có. Hai cái đó khác nhau.
Ví dụ ta nói hoa hồng này chẳng phải hoa lan, hoa cúc,
chứ không phải không có nó. Không có hoa hồng khác hoàn
toàn. Trên tay ta vẫn cầm cái hoa hồng, ta không thể nào
phủ định tính hiện thực của nó là không có, mà ta chỉ nói nó
không thuộc về cái khác thôi.
Khi phân tích về học thuyết duyên khởi, đức Phật nói:
Những cái gì được hình thành bởi nhiều yếu tố, điều kiện
mà khoa học vật lý hiện đại gọi là nguyên tử, phân tử; giữa
chúng có một khoảng cách rất lớn, nó lại được vận hành tạo bởi
những nguyên tố khác, cái đó chẳng phải là chính nó. Bởi vì nó
vay mượn từ những cái khác để tổ hợp lại và hình thành.
Học thuyết về phi ngã cho ta nhận thức: Không thần
tượng hóa thân thể này như là Thượng đế. Chủ nghĩa duy vật
và vật chất đã chủ trương dựa trên thân thể để mà làm giàu.
Bởi tôn vinh nó nhiều quá nên người ta phải chịu hệ lụy, dẫn
đến trạng thái bám víu về cảm xúc, về thân xác. Cho nên
mỗi khi thân thể bị đau ốm, con người bị khủng hoảng
rất lớn. Thân thể đối diện với cái chết, con người lại không
muốn thừa nhận để sẵn sàng vẫy tay chào nó. Những hậu quả
98 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
khác khi thương tổn đến thân thể, ta đã thấy trong lịch sử của
nhân loại.
Việc đánh đồng cả khối cảm giác, tri giác, tâm tư, nhận
thức của chính mình cũng làm cho con người khổ đau nhiều
hơn. Những người như thế thường rất nhạy cảm. Mỗi lời
nhận xét, lời qua tiếng lại của người khác khi chỉ tên mình
do cha mẹ đặt ra thì mình có khuynh hướng đánh đồng danh
xưng chính là mình, nỗi khổ niềm đau bắt đầu có mặt.
Trong khi đó, loại tri thức phi ngã dạy ta cách ứng xử
mới. Tức là những gì tốt ta lấy làm phương châm để phấn
đấu; còn những gì thuộc về phê bình, chỉ trích, vu khống,
xuyên tạc thì mình nên nghĩ cái này không phải là tôi, tôi
không bị lệ thuộc vào những cái này. Từ đó nó không có cơ
sở để bám víu.
Nỗi khổ và niềm đau thuộc về hai phần: Khổ thuộc về
tâm lý, đau thuộc về vật lý. Nỗi khổ và niềm đau chỉ có hai
cơ sở để bám víu, hoặc là thân, hoặc là tâm. Thân bao gồm
các loại bệnh hay sự biến hoại về vấn đề sinh học làm cho
chúng ta già rồi mất đi sắc đẹp, làm cho ta chán nản, thất
vọng, dễ dàng thất điên bát đảo.
Khi có được loại tri thức về phi ngã, ta không đánh đồng
hai thứ đó là mình, cũng không phủ định nó. Nó vẫn có nên
mình mới đau, nó có nên mình phải chăm chuốt, ăn mặc sang
trọng; phải giao lưu, tiếp xúc… những cái đó ta không thể
phủ định được. Nhưng tri thức không đánh đồng là chính
mình sẽ giúp ta rũ bỏ nỗi khổ niềm đau rất dễ dàng, không
cần sử dụng những loại thuốc giảm đau mà vẫn có tác dụng.
Như vậy, kiến thức về vô ngã là sự hiểu biết, ai không có
kiến thức vô ngã thì người đó vẫn còn bị xem là đang sống
trong vòng lẩn quẩn và kém hiểu biết. Còn tri thức về vô
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  99
thường thì ta thấy nó diễn ra hằng ngày, hằng giờ. Quy luật
của thời gian gồm ba cái mốc: Quá khứ, hiện tại và tương lai.
Thời gian luôn luôn là dòng chảy không có điểm dừng, tương
lai sẽ tiếp tục trở thành hiện tại rồi trở thành quá khứ. Cứ như
thế, nó tiếp tục trôi qua trong đời người và luân chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác. Khi nhận thức được tiến trình vô
thường, ta sẽ thấy được quy luật vô ngã, nó áp dụng trên cơ
thể vật lý và tâm lý, làm cho con người bớt đi nỗi đau. Bởi
mình biết là vô thường nên ta phải thừa nhận, chấp nhận nó
như một hiện thực.
Vài năm gần đây, hiện tượng ngoại cảm tại Việt Nam trở
nên rất nổi cộm. Ở trong nước, những nhà ngoại cảm có tên
tuổi khoảng chừng trên dưới 100 vị. Nhà ngoại cảm nổi tiếng
nhất là cô Phan Thị Bích Hằng, gần đây có cô Nguyễn Thị
Phương ở Hàm Rồng - Thanh Hóa. Họ đều là những người
có thành tích tìm kiếm và phát hiện ra hài cốt mất tích trên
dưới mấy ngàn trường hợp. Điều đó khẳng định rằng có tồn
tại trạng thái sau khi chết.
Trong việc truy tìm hài cốt, người ta chỉ mới đặt nặng
vấn đề là làm sao tạo ra được sự hội ngộ giữa người sống và
người chết chứ không chú ý đến góc độ tâm linh mà nhà Phật đã
dạy, đó là làm thế nào giúp cho hương linh rũ bỏ được cảnh khổ
đau dưới hình thức ngạ quỷ để ra đi. Đôi lúc, sau khi phát hiện
ra hài cốt của họ thì nỗi khổ đau tiếp tục nhiều hơn nữa.
Một câu hỏi được đặt ra là: Tại sao có nhiều hương linh
chết mấy chục năm mà vẫn chưa được siêu? Trong khi kinh
Địa Tạng dạy chỉ sau 7 tuần thất, tiến trình tái sinh sẽ được
kết thúc. Hoặc theo Phật giáo Nam tông: Con người và các
loài động vật sau khi rũ bỏ xác thân 5 uẩn sẽ tái sinh vào cảnh
giới tương thích về nhân duyên quả báo đối với gia đình mà
sau này họ sẽ làm con.
100 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Câu trả lời rất đơn giản: Trong các cảnh giới tái sanh đức
Phật dạy có cảnh giới ngạ quỷ. Ngạ quỷ không phải là cảnh
giới dưới lòng đất mà dân gian thường gọi là âm phủ. Những
nhu cầu đời sống xã hội hoàn toàn không có đối với ngạ quỷ
vì họ không còn thân thể vật lý. Họ không còn miệng để
nhai, không còn cổ để nuốt, không còn bao tử để chứa, không
còn hệ thống tuần hoàn tiêu hóa để tạo ra tiến trình sống như
khi còn làm người. Do quan niệm có một cõi âm phủ, nên rất
nhiều người rơi vào tình trạng mê tín, đốt giấy vàng mã để lo
cho người thân quyến thuộc.
Phần lớn các hương linh khi còn sống không tin chết là có
thêm kiếp sau, nhất là những nhà duy vật dễ rơi vào tình trạng
lẩn quẩn sau khi chết. Họ không có chỗ để bám, không có chỗ
để ra đi nên họ kháng cự lại cái chết, không muốn thừa nhận nó
là sự thật. Nguyên lý vô thường sẽ dạy cho các hương linh rằng
thừa nhận năm, tháng, ngày giờ mà cái chết diễn ra không chỉ là
sự khai tử về phương diện giấy tờ mà còn là hiện thực. Cho đến
lúc nào tri thức về sự thừa nhận có mặt thì họ mới được tái sinh.
Nếu bám víu và không có thừa nhận sự thật thì mặc dù tâm thức
đã thoát ra khỏi thân thể vật lý, nhưng nó vẫn có khuynh hướng
bám víu nơi cái chết diễn ra: Ở căn nhà hay nơi mộ huyệt, hay
là nơi nhà thờ họ tộc, nơi chứa đựng hài cốt v.v...
Quy luật về vô thường, vô ngã luôn tác động quy luật đến
không gian và thời gian. Kiến thức về nhân quả buộc ta phải
có hai kiến thức đính kèm là vô ngã và vô thường. Có như
vậy, tiến trình tái sinh sẽ diễn ra trong tích tắc. Sau khi chết,
ta sẽ đi theo nghiệp và nghiệp sẽ trở thành lực đẩy đưa ta vào
tiến trình tái sinh. Đối với những người làm chủ được sống
chết, tức là trên tiến trình chứng đắc và đã chứng đắc thì sự
tái sinh sẽ theo nguyện ước, tức nếu họ phát nguyện khi chết
đi về đâu thì họ sẽ có mặt ở đó.
CON ĐƯỜNG TUỆ GIÁC •  101
Hiểu được vô ngã và vô thường sẽ làm cho con người
không còn mê tín dị đoan vào thế giới cõi âm, Thượng đế,
thần linh và vận mệnh nữa. Mỗi người tự làm chủ số phận
và đời sống của mình. Tri thức đó giúp con người được rất
nhiều hạnh phúc.
Ở đây gọi là sự khiếm khuyết lớn cũng còn hơi nhẹ, lẽ ra
phải là “nỗi khổ đau lớn nhất của kiếp người là kém hiểu biết”
(thiếu hiểu biết về nhân quả, thiếu hiểu biết về vô thường vô
ngã). Khiếm khuyết là chưa đủ thôi để diễn tả được mức độ
thiếu thốn như thế nào. Ví dụ: Người nghèo dưới mức trung
bình vẫn có được chén cơm manh áo. Người dân Ấn Độ một
ngày chỉ cần khoảng 7.000 đồng Việt Nam là sống tốt rồi. Họ
mua 1 ký bột làm bánh rồi ăn luôn 1 tuần, ngày thứ hai có
được 5.000 đồng họ dành dụm để mua sữa. Chỉ cần như vậy,
họ đã có thể vượt qua cơn khốn khó.
Cho nên, dùng từ “khiếm khuyết” vẫn chưa đủ để thể hiện
điều đức Phật muốn nói là: Cái khổ, cái đau, bế tắc do kém
hiểu biết về nhân quả sẽ đến với sinh mệnh con người và các
chủng loại ở mức độ như thế nào. Tuy nhiên, dù gọi là kém,
khiếm khuyết thì ta vẫn thấy sự tổn thất đó rất lớn và không
thể xem thường.
***
ĐIỀU XIV:
BỐ THÍ SẼ ĐƯỢC AN VUI
Điều thứ 14: An ủi lớn nhất của đời người là biết bố thí.
Nhịp cầu bố thí sẽ giúp ta thiết lập được tình thương, trên
cơ sở đó tạo ra tình thân, các mối quan hệ xã hội cộng đồng
cũng từ đó được phát triển tốt đẹp.
Nhiều người ngạc nhiên hỏi: Lý do nào mà chúng tôi có
thể vào được các trại giam lớn như K.20 có trên 2.000 phạm
nhân với mức án hình sự từ 5 năm đến 20 năm tù, hoặc các
trung tâm cai nghiện ma túy, trung tâm mại dâm và nhiều
trung tâm bảo trợ xã hội như trung tâm bảo trợ người già,
người tàn tật và các trẻ em phạm pháp v.v..
Câu trả lời là: Chúng tôi làm theo lời Phật dạy trong Tứ
nhiếp pháp và Lục độ, bố thí là yếu tố đi đầu. Yếu tố này
được xem là phương pháp dấn thân rất năng động của đạo
Phật nhưng ít ai để ý, đôi khi còn xem thường. Thậm chí
nhiều nơi còn sử dụng ngôn ngữ phân biệt đối xử: Bố thí là
từ để chỉ một người cao sang tặng biếu cho người thấp hơn,
nghèo cùng thiếu thốn, cúng dường là từ được sử dụng để chỉ
thái độ rất cung kính và tôn trọng khi dâng hiến cho những
BỐ THÍ SẼ ĐƯỢC AN VUI •  103
người cao hơn mình ít nhất là về phương diện đạo đức và tâm
linh. Phật tử có thói quen dùng từ cúng dường cho quý thầy,
dùng chữ bố thí cho những người trong cộng đồng và xã hội.
Thật ra, trong ngôn ngữ Pàli và Sanskrit chỉ có một từ
duy nhất là Dana để chỉ bố thí và cúng dường. Người Trung
Hoa thích rắc rối nên dịch ra theo hai kiểu phân biệt đối xử
- điều vốn tối kỵ trong đạo lý bình đẳng của nhà Phật. Thái
độ trong lúc ta hành thí, tức chia sẻ, hay tặng hiến tài sản của
mình cho người khác là cách thức ứng dụng, hành trì về học
thuyết vô ngã. Bởi vì khi biết được ta không phải là ta nữa
thì mọi thứ chỉ có chức năng, là công cụ trong một thời điểm,
trong khoảng thời gian mấy chục năm trong cuộc đời.
Do đó, ta phải làm những nghĩa cử cao thượng để chia sẻ bớt
nỗi khổ niềm đau trong cuộc đời. Từ đó mới có được tri thức
đính kèm là vô ngã sở hữu. Từ đó ta dễ dàng ban tặng với
niềm hạnh phúc, nhằm hoàn thiện tất cả những gương hạnh
đạo đức cần có của chính mình. Do đó, nếu không hiểu được
học thuyết vô ngã thì khó có thể bố thí, cúng dường lắm. Vấn
đề ở chỗ ta không nên tạo ra sự phân biệt đối xử với nhau.
Ngôn ngữ miền Bắc đặt nặng vấn đề cảm xúc. Ví dụ: Khi
một Phật tử tới nhờ thầy làm một việc gì đó, họ thường dùng
từ rất khiêm tốn: “Xin thầy bố thí cho con” hoặc là “Con xin
được ăn mày công đức”. Người ta dùng những từ chịu ảnh
hưởng bởi chế độ quân chủ: Bẩm, thưa, trình, cáo, bạch v.v..
Hành xử như thế sẽ làm mất đi ý nghĩa đạo đức về các mối
quan hệ xã hội trong phương pháp hành thí mà đức Phật đã
dạy trong kinh.
Về phương diện đạo đức, từ “cúng dường” xem ra lại
dở hơn từ “bố thí’’ vì “cúng dường” là cách đọc trại âm của
từ “cung dưỡng”. Cung là cung cấp, dưỡng là dưỡng nuôi.
104 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
Cung cấp ở đây chỉ đơn thuần về mặt vật chất để dưỡng nuôi
thân thể vật lý này. Trong khi đó, “bố thí” là một động từ chỉ
thái độ ban bố một cách đồng đều, không phân biệt. Ý nghĩa
đạo đức trong xã hội của nó cao hơn nhiều so với từ cúng
dường. Cho nên trong bố thí đã có phần cung cấp và dưỡng
nuôi về mặt vật chất rồi. Ở đây ta không yêu cầu người đã thọ
ơn mình sau này phải đền trả ơn nghĩa xứng đáng.
Ví dụ người ta thường nói: “Bây giờ cho tôi vay, tương
lai tôi sẽ đền trả lại bằng một khoản nhiều hơn”; hay ta vay
ngân hàng cũng phải trả một khoản lãi. Do đó, ý nghĩa xã hội
bị mất hết, tình người không có nữa. Cho nên khi dấn thân
vào xã hội mà bỏ đi yếu tố về từ thiện sẽ không thành công.
Các chương trình chúng tôi tổ chức khi vào những trung
tâm cải tạo và trại giam luôn luôn có 3 phần. Thứ nhất là làm
từ thiện, mỗi phần quà từ 50-75 ngàn, chẳng là bao so với
những gì họ có trước khi vào tù. Khi họ vào tù thì bị cha mẹ
giận dỗi, có nhiều gia đình còn không tới thăm con vì nghĩ
rằng mình trút đi được gánh nặng là đứa con bất hiếu, hư
đốn. Có nhiều người vợ, người chồng khi người bạn đời của
mình vào tù thì họ đi tìm người tình mới.
Trong thế giới giang hồ, lúc còn tiền còn bạc thì nhất
hô bá ứng, khi hết tiền hết bạc thì hết ông tôi, làm cho họ
thấy nhân tình thế thái thật vô thường, chóng vánh. Lúc đó,
họ mới phản chiếu lại cái mình gọi là hạnh phúc trong việc
sử dụng các mánh khóe để qua mặt luật pháp, làm giàu trên
xương máu và nỗi khổ niềm đau của xã hội. Đó chỉ là ảo
giác, xảy ra như một phản ứng hóa chất trong bộ não chứ nó
không phải là hạnh phúc nội tại mà đạo Phật đã dạy. Từ đó
họ mới thấm thía về bản thân mình hơn.
Chính vì thế, khi đạo lý Phật pháp được đưa vào, họ tiếp
BỐ THÍ SẼ ĐƯỢC AN VUI •  105
nhận một cách rất nồng nhiệt, còn hơn các đạo tràng có Phật
tử tu học. Đó là điều tôi cảm nhận được trong thời gian mấy
năm tham gia tại đây bằng con đường bố thí đi đầu.
Phần thứ hai là văn nghệ. Trong các trại giam ở Việt Nam,
báo không có để đọc, tạp chí không có để coi, tivi không có
để thưởng thức. Ngoài lao động chính 8 tiếng mỗi ngày, trở
về, họ chỉ ngồi tán gẫu đợi đến giờ ngủ thôi. Cuộc sống trong
đây buồn tẻ, khổ đau cùng cực lắm, nên khi chúng tôi đưa
chương trình văn nghệ chuyên nghiệp, các ca sĩ nổi tiếng vào
phục vụ từ thiện, họ thấy hân hoan vô cùng.
Trong chương trình có phần hướng dẫn đạo ca. Chúng
tôi mời các nhạc sĩ Phật giáo vào đây hướng dẫn cho họ hát
các bài Đạo ca. Các vị Tăng Ni trẻ cùng họ ca những bài đơn
giản và rất hay. Yếu tố tôn giáo mất đi nhiều, chỉ còn lại sự
thực tập đời sống đạo đức. Điều đó phần nào xóa được ranh
giới của sự khác biệt tôn giáo. Trong đây, tín đồ của tôn giáo
nào cũng có, những người không có tôn giáo cũng có, những
người theo chủ nghĩa cộng sản cũng có, đủ thành phần. Nó là
một mặt trái của xã hội kiếp người.
Những bài Đạo ca như thế khiến cho họ thấm hơn, từ từ
sống đời sống giống những người trong tu viện. Chúng tôi
thường dùng cách chơi chữ là “tù và tu” - “nhà tù và nhà tu”
chỉ khác nhau dấu huyền. Dấu huyền đó được chúng tôi định
nghĩa là lòng tham, lòng sân, lòng si đè mình xuống, bây giờ
mình chỉ cần xóa bỏ dấu huyền thì cái nhà tù trờ thành nhà tu.
Ba tháng an cư của người xuất gia là cơ hội để tái nạp lại
bình năng lượng tâm linh sau 9 tháng hoạt động Phật sự, để
năng lượng đó không bị mất đi mà còn sung mãn hơn. Tương
tự, các phạm nhân nên tận dụng thời gian ở trong trại giam
để thực tập việc rèn luyện đạo đức, nên nghĩ rằng mình ở đây
106 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
không phải chỉ để trả quả những hành động xấu của mình. Để
từ đó, mặc cảm tội lỗi giảm đi, hướng về đời sống tâm linh thì
họ sẽ trở thành con người rất mới. Nên sau khi mãn án tù, họ sẽ
không còn là những người sống cuộc đời lêu lỏng, ăn chơi nữa.
Ông Phùng Văn Yến là thượng tá tổng giám thị trại giam.
Trong đợt ngày 31-5-2008, chúng tôi mời thêm giám đốc
trung tâm Thông tấn xã nghe nhìn ở các tỉnh phía Nam và
Ban thường trực của đài truyền hình VTV1 tới. Khi trả lời
phỏng vấn, ông Yến cho biết rằng trong hơn 10 năm làm
công tác này, khoảng một năm rưỡi vừa qua là thời gian ông
cảm thấy nhẹ nhàng nhất. Kể từ khi chương trình “Quay đầu
là bờ” được đưa vào, các anh chị em được huấn luyện thái
độ làm công quả. Thay vì nghĩ rằng mình đang phải lao động
khổ sai để trả tội ác mà mình đã tạo, bây giờ họ nghĩ mình
đang làm công quả nên họ tình nguyện, giành nhau để làm.
Khi có người bị bệnh không làm được, họ xung phong làm
thế. Làm công quả với tâm hân hoan thì phước báu rất lớn,
tội sẽ giảm nhanh hơn thời hạn bình thường.
Một điều nữa là tình trạng đại bàng xanh, đại bàng đen,
đại bàng đỏ… cũng không còn nữa, bởi vì người ta nghĩ đây
là nơi tu dưỡng đạo đức chứ không phải là nơi trừng phạt lẫn
nhau như trong thế giới giang hồ. Do đó, hiệu quả cải tạo tốt
hơn rất nhiều.
Đây là điều đáng trân trọng mà chúng tôi trả lời phỏng
vấn trên đài VTV1: Nếu chính quyền mạnh dạn đưa Thiền, tu
pháp môn niệm Phật và đạo đức học Phật giáo vào trong trại
giam thì xã hội Việt Nam sẽ giảm các nhà tù. Thứ hai nữa là
ai lỡ vào tù rồi thì họ có cơ hội trở thành người tốt. Cho nên
mạnh dạn sớm chừng nào thì xã hội bớt khổ đau chừng đó.
Dĩ nhiên chính sách đó rất khó thực hiện, cho nên trước tiên
phải đi bằng con đường từ thiện.
BỐ THÍ SẼ ĐƯỢC AN VUI •  107
Việc bố thí không đơn giản chỉ là sự an ủi, vì an ủi chỉ
đơn thuần là việc thiết lập tình thân và tình thương. Bố thí
của nhà Phật gồm có 3 phương diện: Tài thí, pháp thí và vô
úy thí. Tài thí đi đầu. Nhưng nếu như chỉ có tài thí mà không
có pháp thí thì các hoạt động từ thiện sẽ không đạt hiệu quả
cao. Đây là điều đức Phật Dược Sư đã nói trong lời nguyện
thứ 11 của Ngài.
Lời nguyện thứ 11: “Ai đói thì Ta tặng thực phẩm để ăn,
ai khát thì tặng nước để uống, ai lạnh thì tặng áo quần để
mặc. Sau đó mới ban pháp vị nhiệm mầu”. Như vậy, ta thấy
tài thí và pháp thí luôn luôn song hành với nhau. Nhưng tiếc
là trong rất nhiều năm qua, các Phật tử, thậm chí là Tăng Ni
đi làm công tác từ thiện chỉ mới chú trọng đến phần tài thí
thôi chứ không chú trọng phần pháp thí. Phần tài thí về vật
chất giống như những giọt nước rải vào trong sa mạc, từng
giọt bốc khói, không thấm vào đâu.
Nỗi khổ niềm đau của con người do thiên tai, không xảy
ra ở chỗ này thì xảy ra ở chỗ khác. Không bao giờ chúng ta
đủ sức để làm hết những thứ đó. Còn nỗi khổ nhân tai do
chính con người tạo ra bởi thiếu hiểu biết về nhân quả, vô
ngã, vô thường, thiếu đi tuệ giác đạo Phật thì khổ đau vẫn
còn y nguyên. Ăn bữa sáng, chiều có thể đói. Ăn ngày hôm
nay, ngày mai tiếp tục đói. Còn khi hiểu được Phật pháp rồi
thì đói khổ về vật chất không phải là nỗi ám ảnh hoành hành
con người nữa, ta vẫn có thể sống hạnh phúc và bình an.
Cho nên đi tới đâu làm từ thiện, chúng tôi đều đưa ra điều
kiện là phải cho phép thuyết giảng và luôn được các trung
tâm này chấp nhận. Ngoài phần thuyết giảng, chúng tôi còn
làm kinh Pháp Cú dưới dạng các thẻ nho nhỏ. Mặt trước là
ảnh Phật, mặt sau là Phật ngôn. 423 câu Pháp Cú được viết
trên 423 thẻ. Chúng tôi tặng mỗi người một xâu chuỗi và một
108 • MƯỜI BỐN ĐIỀU PHẬT DẠY
câu Pháp Cú, yêu cầu họ chuyền tay nhau. Chúng tôi còn
thành lập một tủ sách Phật học về nhân quả, nghiệp báo, luân
hồi, những câu chuyện Phật giáo và những quyển sách học
làm người… và yêu cầu họ đọc những sách này.
Lúc đầu, có nhiều người không có kiến thức học vấn nên
gặp nhiều khó khăn trong việc đọc chữ. Chúng tôi yêu cầu
những người biết đọc thì đọc lại cho những người không
biết nghe. Ở những trung tâm khác, chúng tôi cũng làm một
thư viện nho nhỏ. Đó được gọi là phần Pháp thí, cái này mới
chính là nền tảng giúp họ một cách lâu dài.
Đạo Phật của ta với lời dạy của đức Phật rất có chiều
sâu về phương diện này. Rất tiếc là ta làm chưa đến nơi đến
chốn. Khi mình thực tập đúng được hai phương pháp tài thí
và pháp thí, kết quả mà người tiếp nhận đạt được là vô úy, tức
là không sợ hãi. Người có tri thức về Phật pháp thì không sợ
hãi, chỉ những người không có tri thức về nhân quả mới sợ:
Sợ bị cuộc đời trù dập, hãm hại, áp lực, những lời thị phi; sợ
nên ta phải thế này thế kia, chạy theo cuộc đời như cuốn theo
chiều gió; không dám bước đi bằng bản lĩnh của mình; nói
những điều cần nói; làm những điều cần làm; thể hiện đúng
nhân cách, đạo đức mà đức Phật đã dạy.
Cho nên tri thức Phật pháp là nguồn năng lượng tâm linh rất
quan trọng để ta có được thái độ không sợ hãi. Người biết sống
với đạo đức thì không sợ hãi. Chỉ khi nào sống trái với lương
tâm, ta mới sợ. Nỗi sợ hãi quan trọng nhất, lớn nhất trong kiếp
người là sợ chết. Nhưng nếu hiểu được vô ngã thì không sợ chết
nữa. Thân này cũng chỉ là một phương tiện được sử dụng trong
vài chục năm thôi, có gì đâu mà phải buồn, đau, sợ sệt.
Kiến thức Phật pháp giúp xóa bỏ trạng thái sợ hãi trong
đời sống của con người. Đi ra xã hội, cá nhân nào nếu thiếu
BỐ THÍ SẼ ĐƯỢC AN VUI •  109
đi bố thí thì sẽ khó thành công. Ngoài yếu tố an ủi, bố thí còn
là yếu tố đạo đức, tâm linh, giúp tái thiết lại xã hội ở nhiều
góc độ và tình huống khác nhau. Ngoài ra, thông qua phương
pháp bố thí, ta có thể đưa Phật pháp vào xã hội bằng những
ngôn ngữ không phải Phật pháp. Với tinh thần và nội dung
như thế, ta mới thực hiện thành công những gì đức Phật dạy.
Đây chính là trọng tâm nhập thế của Phật giáo.
Với phương pháp nhập thế như vậy, chúng tôi tin chắc
không chỉ người tại gia mà người xuất gia cũng thực hiện
thành công. Do đó, khi đi làm từ thiện, ta cố gắng đính kèm
những câu Phật ngôn được in, photo lên từng gói quà. Ăn
xong gói quà hết, nhưng câu Phật ngôn còn được giữ lại với
họ. Đó chính là nền tảng đạo đức giúp họ vượt qua những
khó khăn, thử thách mà vươn lên trong cuộc đời.
Các phương tiện truyền thông đại chúng như: Truyền
hình, radio, báo chí, internet là những phương tiện dành cho
người giàu có. Người dân sống ở nông thôn làm gì có những
phương tiện này. Không chỉ nông thôn Việt Nam, nông thôn
ở những nước nghèo khó cũng lâm vào tình cảnh tương tự.
Cho nên khi ta tặng họ những hình ảnh Phật nho nhỏ có câu
Phật ngôn, thì dù là người Thiên Chúa giáo họ vẫn thích,
những người Hồi giáo vẫn say mê.
Lần đầu tiên, chúng tôi đưa vào trong trại giam 2.500
xâu chuỗi, họ giành giật nhau bởi sợ không đến phần của
mình trong khi số lượng tù nhân chỉ có 2.000. Mỗi lần như
thế, trong suốt 5 lần vừa qua, lần nào chúng tôi cũng mang
theo hơn 2.000 xâu chuỗi mà vẫn hết. Những hình ảnh Phật
được họ tiếp nhận rất trân trọng. Điều đó cho thấy, nếu ta đi
đúng phương pháp Phật dạy, bố thí vật chất đính kèm với bố
thí tinh thần để tạo ra sự vô úy, thái độ sống đạo đức, an vui,
bình an thì hành động dấn thân sẽ có kết quả cao hơn.
14 ĐIỀU PHẬT DẠY
Thích Nhật Từ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
BÙI VIỆT BẮC
Biên tập: Quỳnh Trang – Thế Vinh
Sửa bản in: Quảng Tâm
Bìa & Trình bày: Ngọc Ánh
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
A2 - 261 Thụy Khuê - Tây Hồ - Hà Nội
ĐT: 08044806 - Fax: 08043538
In lần thứ nhất 1.000 quyển, khổ 14x20 cm, tại Xí nghiệp In
Fahasa, 174 Trường Chinh, Quận Tân Bình, TP.HCM.
Giấy phép xuất bản số: 168-2012/CXB/45/01-05. Cấp ngày
22 tháng 03 năm 2012.In xong và nộp lưu chiểu tháng 05
năm 2012.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét