Thứ Hai, 16 tháng 7, 2018

100 câu hỏi phật pháp

Phật Lịch 2551
Dương Lịch 2007 - Việt lịch 4886
THÍCH PHƯỚC THÁI
100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP
TẬP 1
Published by:
Quang Minh Temple
18 Burke St, Braybrook,Victoria 3019 AUSTRALIA
Tel: 61 3 9312 5729
Fax: 61 3 9311 0278
Email: thichphuocthai@gmail.com
Website: http://www.quangminh.org.au
National Library of Australia Cataloguing-in Publication entry:
ISBN 978-0-9803726-0-1
100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP
Thích Phước Thái @2007
First edition 2007
1000 copies
**************************
Editor: Thích Phước Thái
Proof Reader: Minh Quang
Book Designer: Minh Quang - Hồ Sĩ Trung
Cover Designer : Thích Phước Quảng
***************************
Ðôi lời giới thiệu.
Trên bước đường tu học Phật, ít nhiều gì, Phật tử cũng
thường hay gặp phải những thắc mắc, nghi vấn các vấn
đề mà tự mình chưa có thể tìm ra giải đáp. Có những
nghi vấn mang tính chất thuần túy kinh điển, nặng về
phần nghiên cứu học thuật. Bên cạnh đó, cũng có
những nghi vấn liên quan thiết thân trong đời sống sinh
hoạt hằng ngày mà bất cứ người Phật tử nào cũng gặp
phải trong khi tu học.
Khởi đi từ yếu tố thiết thực đó và cũng muốn để trao
đổi trong nhu cầu nghiên cứu, học hỏi Phật pháp, nhứt
là đối với những người hằng quan tâm đến Phật giáo,
suốt thời gian qua, trong các khóa tu học ngắn hay dài
hạn, đều có đề ra mục Phật Pháp Vấn Ðáp, để cho quý
Phật tử nêu ra những nghi vấn thắc mắc. Và những
nghi vấn thắc mắc nầy, đã được thầy Phước Thái gom
góp lại để giải đáp thành 100 Câu Hỏi Phật Pháp.
Nhận thấy qua những lời hỏi đáp trong đây, không
những nó đem lại những bổ ích có thêm phần kiến thức
Phật pháp cho người Phật tử, mà nó còn mang lại
những giá trị thiết thực ích lợi trong việc thật hành của
đời sống thực tế hằng ngày.
Hiện nhơn loại đang sống trong một xã hội quá thiên
trọng về vật chất, mà xem nhẹ, xao lãng về phần tinh
thần, đánh mất những yếu tính nhân bản, đạo đức, gây
ra biết bao xáo trộn, tệ nạn, bất an cho xã hội.
Ðứng trước thảm trạng bi đát đó, chúng tôi thiết nghĩ,
tập sách 100 Câu Hỏi Phật Pháp nầy, tuy lượng không
bao nhiêu, nhưng phẩm thì rất bổ ích. Nó sẽ là một
món ăn tinh thần rất quý giá về mặt bổ dưỡng cho đời
sống tâm linh, nhứt là trong chiều hướng xây dựng nếp
sống đạo đức nhân bản hiện nay.
Dựa trên những yếu tố xây dựng cơ bản đó, chúng tôi
xin hân hạnh trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả tác
phẩm hữu ích nầy mà soạn giả đã dày công biên soạn
để cống hiến cho quý độc giả Phật tử xa gần trong tinh
thần cầu tiến học hỏi, chuyển hóa, tu tập.
Chúng tôi xin có mấy lời giới thiệu và cũng xin tán
thán công đức việc làm nầy của soạn giả.
Trụ Trì Chùa Quang Minh.
Ðại Ðức Thích Phước Tấn
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
1
Lời đầu sách
Quyển sách 100 Câu Hỏi Phật Pháp nầy, những câu trả
lời trong đây, phần lớn, là chúng tôi giải đáp những
nghi vấn thắc mắc của quý tu sinh trong những khóa tu
Kết kỳ niệm Phật, do chúng tôi cùng với quý thầy đứng
ra tổ chức. Ngoài ra, chúng tôi góp nhặt lại những giải
đáp thắc mắc đã được đăng trong các số báo Hương
Đạo từ số đầu cho đến số 7. Ở đây, chúng tôi cũng xin
thưa rõ để quý độc giả khỏi phải ngộ nhận: Tại sao
chúng tôi lại dám góp nhặt những bài giải đáp của Ban
Hoằng Pháp mà lại đem in vào đây làm riêng cho
quyển sách của chúng tôi? Xin thưa: Những điều giải
đáp đó, là do cá nhân chúng tôi phụ trách. Vì chúng tôi
làm trong Ban Hoằng Pháp, nên khi giải đáp, thì chúng
tôi chỉ nêu là Ban Hoằng Pháp, chớ chúng tôi không có
nêu rõ đích danh của chúng tôi.
Nay vì muốn in lại thành một quyển sách để phổ biến
rộng rãi cho nhiều người đọc, nên chúng tôi gom nhặt
lại để in chung vào đây cho tiện bề quý độc giả tìm
hiểu. Do đó, nên chúng tôi thấy cần phải thưa rõ để quý
vị khỏi phải thắc mắc.
Qua những câu hỏi của quý liên hữu, phật tử mà chúng
tôi đã giải đáp, thật ra, những điều giải đáp ngắn gọn sơ
sài nầy, cũng chưa đạt được sự thỏa mãn yêu cầu của
quý vị. Nhưng với tinh thần trao đổi học hỏi với nhau,
tùy theo khả năng hiểu biết của chúng tôi tới đâu, thì
chúng tôi thật tâm, cố gắng giúp cho quý vị tới đó.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
2
Khi cho in quyển sách nầy, mục đích chính của chúng
tôi là nhằm đáp lại lời hứa của chúng tôi trước quý tu
sinh của Cực lạc liên hữu - Liên Xã Quang Minh đạo
tràng trong khóa tu kết kỳ niệm Phật kỳ 4, tổ chức tại
đạo tràng Quang Minh, từ ngày 5/4/05 đến ngày
12/4/05. Trong khi trả lời trực tiếp qua những câu hỏi
mà những vị đó đã ghi bằng giấy, sau đó, chúng tôi có
nói là chúng tôi sẽ ghi lại những điều giải đáp nầy,
cũng như gom góp lại những câu hỏi của những khóa
tu học của những lần trước ở Quang Minh và Phước
Huệ, in lại thành sách để cống hiến cho quý vị đọc và
tìm hiểu thêm. Thiết nghĩ cũng rất hữu ích trong việc
học hỏi.
Có những câu hỏi nêu ra, tuy hết sức tầm thường,
nhưng lại là điều rất thực tế và đã được những vị đó ôm
ấp từ lâu. Hơn nữa, khi giải đáp qua những câu hỏi thật
thà đầy chân tình nầy, thật chúng tôi cũng vô cùng xúc
động. Vì đây, mới thật sự là xuất phát tự cõi lòng của
người thật tâm muốn biết. Cho nên, khi xem qua những
câu hỏi và những câu trả lời mộc mạc chân tình của
người hỏi và người trả lời, mong quý độc giả thương
tình cảm thông cho sự hiểu biết thô sơ nông cạn của
chúng tôi.
Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành tri ân quý liên
hữu, phật tử đã nêu ra những câu hỏi. Nhờ đó, mà hôm
nay, mới có được quyển sách nầy ra mắt quý vị. Như
vậy, quyển sách nầy có thể nói là do sự đóng góp của
tất cả quý vị, nên mới được hình thành. Đồng thời,
chúng tôi cũng xin tri ân Ðại Ðức Thích Phước Tấn,
Ðại Ðức Thích Phước Quảng và các Phật tử: Minh
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
3
Quang, Hồ Sĩ Trung, Diệu Lương đã tận tình giúp cho
phần kỹ thuật trình bày và sửa bản in. Chúng tôi cũng
không quên cám ơn Thầy Phước Viên đã giúp cho phần
in ấn, và quý liên hữu, phật tử xa gần đã đóng góp tịnh
tài để in quyển sách nầy. Và trên hết là chúng con kính
bái tạ thâm ân Hòa Thượng thượng Phước hạ Huệ đã
chứng minh cho việc làm nầy của chúng con.
Nguyện đem công đức pháp thí nầy, hồi hướng cho
pháp giới chúng sanh đều trọn thành Phật đạo.
Soạn giả cẩn chí.
Thích Phước Thái.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
4
1. Nghi thức quá đường.
Hỏi: Nghi thức thọ trai quá đường, khi tụng bài cúng
dường, tại sao bàn tay trái phải co 2 ngón lại và dựng
đứng 3 ngón lên, rồi để chén cơm lên trên đó? Còn bàn
tay mặt thì bắt ấn, rồi đưa lên ngang trán. Xin hỏi:
Điều này có ý nghĩa gì?
Đáp: Nghi thức thọ trai quá đường là một trong nhiều
nghi thức của Phật giáo. Mỗi tôn giáo đều có những lễ
nghi hành trì đặc biệt của tôn giáo đó. Phật giáo cũng
thế. Đây là nghi thức mà chỉ có trong các chùa thuộc hệ
phái Bắc Tông (Đại Thừa); còn Phật giáo Nam Tông
(Tiểu Thừa) thì không có thực hành nghi thức giống
như thế nầy. Vì lẽ, Phật giáo Bắc Tông chịu ảnh hưởng
sâu đậm Phật giáo Trung Hoa. Mà Phật giáo Trung
Hoa rất chú trọng đến phần lễ nghi hình thức. Đây cũng
là một sắc thái văn hóa đặc thù của họ. Tuy nhiên, hình
thức lễ nghi, theo Phật giáo, chúng chỉ có tác dụng là
phương tiện chớ không phải cứu cánh. Phật giáo chủ
trương: “Sự, Lý phải viên dung”. Nương sự để hiển lý
hay tức lý để hiển sự. Vì vậy, mọi nghi thức trong thiền
môn, đều có một ý nghĩa tiêu biểu đặc thù của nó.
Hình ảnh ba ngón tay (ngón cái, trỏ và út) dựng đứng
lên giữ một tư thế rất vững vàng, giống như hình ba trái
núi đứng sừng sững, đó là biểu trưng cho Tam vô lậu
học. Tam vô lậu học là ba môn học rất quan trọng trong
Phật giáo. Ba môn học đó là gì? Tức là Giới học, Định
học và Huệ học. Có thể nói, toàn bộ hệ thống giáo điển
của Phật giáo đều xây dựng trên ba môn học nầy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
5
Chúng tóm thâu tất cả và hỗ tương với nhau rất là chặt
chẽ. Nếu thiếu một trong ba, thì giáo lý Phật giáo sẽ
sụp đổ ngay. Giống như ba ngón tay đưa lên, nếu thiếu
một ngón, thì ta không thể nào giữ vững chén cơm
được. Vì thế nên kinh nói: "Nhơn Giới sanh Định và
nhơn Định mới phát Huệ." Người tu hành muốn chóng
thành quả vị Phật, thì không thể nào xao lãng ba môn
học nầy. Tuy nhiên, trong ba môn học nầy, thì Huệ học
đóng vai trò quan trọng hơn. Dù hành giả tu môn nào,
nếu thiếu trí huệ thẩm sát chỉ đạo thì không thể nào
thành tựu kết quả tốt đẹp được.
Còn tay mặt bắt ấn, đó là ấn Cam lồ. Cam là ngọt. Lồ
là sương mốc. Cam lồ là những hạt sương ngọt dịu tươi
mát. Cam lồ là tượng trưng cho từ bi. Trong đạo Phật
trí huệ và từ bi luôn luôn đi đôi với nhau. Chúng hỗ
tương nhau không thể tách rời ra được. Nếu chỉ có trí
huệ mà không có từ bi, thì đó là loại trí huệ khô, không
làm lợi ích cho chúng sanh. Ngược lại, chỉ có từ bi mà
thiếu trí huệ kèm theo, thì đó là thứ từ bi mù quáng.
Thí dụ một người đam mê cờ bạc thua hết tiền, đến xin
tiền bạn để họ tiếp tục chơi nữa. Khi đó, nếu bạn vì
thương mà cho tiền họ, thì chẳng khác nào bạn tiếp tay
cho họ lún sâu vào con đường nghiện ngập tội lỗi. Như
thế, thì bạn có từ bi mà thiếu trí huệ quan sát tường tận,
nhà Phật gọi đó là thứ từ bi mù quáng. Thế nên, Phật
dạy người Phật tử luôn luôn trang bị cho mình đầy đủ
cả Bi lẫn Trí. Mà trí huệ là cái dẫn đầu để hướng dẫn
lòng từ bi của chúng ta đặt đúng nơi đúng chỗ. Như
thế, mới ích lợi cho mình và cho tất cả chúng sanh. Do
đó, mà hai tay bắt ấn phải để ngang nhau không cao
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
6
không thấp, đó là tiêu biểu cho Bi và Trí phải luôn
song hành đi đôi với nhau vậy.
Tại sao phải đưa lên ngang trán? Thật ra là đưa lên
ngang chân mày, gọi là “cử án tề mi”. Đưa lên ngang
chân mày là tiêu biểu cho lòng tôn kính. Bởi vì ngày
xưa, theo tập tục của người Trung Hoa, mỗi khi người
dưới dâng thực phẩm hay đồ vật cho người trên, thì
phải đưa lên ngang chân mày, để biểu lộ lòng kính
trọng rất mực. Trong Kiều có câu:
Hiên sau treo sẵn cầm trăng
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Hai câu này diễn tả lúc Kiều sang nhà trọ của Kim
Trọng và được Kim Trọng ra phía sau hiên lấy cây đờn
nguyệt cầm rồi hai tay trân trọng đưa lên ngang mày để
dâng cây đờn cho Kiều. Đó là tỏ ý kính trọng Kiều vậy.
Sỡ dĩ như thế, là vì Kim Trọng muốn noi theo tích xưa:
Nàng Mạnh Quang là người vợ hiền, mỗi khi dâng cơm
lên cho chồng là Lương Hồng ăn, nàng thường nâng
mâm cơm cao ngang lông mày. Trong truyện Quan Âm
Thị Kính cũng có câu:
Án kia nâng ở ngang mày,
Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.
Như vậy, đưa lên ngang mày là để tỏ lòng kính trọng
dâng cơm lên cúng dường Tam Bảo vậy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
7
2. Tại sao không thờ Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm
sơ Tổ?
Hỏi: Theo thiền sử, thì Tổ Tỳ Ni Đa lưu Chi là vị Tổ
đầu tiên từ Trung Hoa mang Thiền tông đến Việt Nam.
Như vậy, lẽ ra chúng ta phải thờ Ngài là vị sơ Tổ Thiền
tông Việt Nam mới đúng. Tại sao lại phải thờ Tổ Bồ đề
Đạt Ma?
Đáp: Thiền có nhiều phái. Đại loại có năm hệ phái
chính sau đây:
1. Tỳ Ni Đa Lưu Chi 2.Vô Ngôn Thông 3. Thảo Đường
4. Tào Động 5. Lâm Tế. Tất cả năm hệ phái nầy, đều
bắt nguồn từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Vì Tổ Bồ Đề Đạt Ma
là sơ Tổ Trung Hoa. Sau đó, truyền cho Tổ Huệ Khả,
rồi đến Tổ Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và sau
cùng là Tổ Huệ Năng.
Từ Tổ Huệ Năng truyền xuống cho các đệ tử. Từ đó về
sau mới có chia các tông phái thiền. Như vậy, chỉ thờ
sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma là đã trùm khắp hết các thiền phái
khác. Còn nếu chúng ta chỉ thờ Tổ Tỳ ni đa lưu chi
không thôi, thì làm sao trùm hết các thiền phái khác
được. Vì Tổ Tỳ ni đa lưu chi cũng chỉ là một thiền phái
như các thiền phái kia. Nếu thờ như thế, thì có tánh
cách thiên lệch và không thể đại diện cho các thiền phái
hết được. Do đó, mà người ta chỉ thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma
là bao trùm khắp cả. Và như thế, thì không ai có thể
chống đối được.
3. Kinh sách nào giúp cho người mới học Phật.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
8
Hỏi: Tôi là người mới bước chân vào đạo, muốn tìm
hiểu học hỏi Phật Pháp. Nhưng không biết phải học hỏi
kinh sách nào trước, cho nó có thứ lớp dễ hiểu hợp với
trình độ sơ cơ của tôi?
Đáp: Thưa bạn, qua câu hỏi của bạn, chúng tôi biết bạn
là người đang có nhiệt tâm muốn tha thiết nghiên tầm
giáo điển của Phật giáo. Đây là điều thật đáng kính và
đáng khích lệ.
Về kinh sách của Phật giáo thì có rất nhiều loại. Vì
Phật giáo có cả một Đại tạng kinh bằng chữ Hán. Hiện
nay (2007) điều rất hãnh diện cho người Phật tử Việt
Nam chúng ta, theo chỗ chúng tôi được biết là, chư
Tôn thiền đức đã dịch xong bộ Đại tạng kinh từ chữ
Hán sang chữ Việt. Đây là điều thật đáng vui mừng cho
Phật Giáo Việt Nam, nay đã có một Đại tạng kinh bằng
chữ Việt. Tuy đã phiên dịch xong, nhưng còn phải chờ
đợi sự in ấn, ít nhứt cũng phải trải qua một thời gian
vài năm mới hoàn thành. Tất cả, lâu hay mau hoàn toàn
đều tùy thuộc vào phần tài chánh. Phần tài chánh nầy là
do sự đóng góp của toàn thể Phật tử. Theo Hội Đồng
Phiên Dịch trong nước cho biết, công trình in ấn nhanh
hay chậm đều do sự đóng góp tài chánh của Phật tử
khắp nơi. Nếu Phật tử tích cực đóng góp, thì công trình
thực hiện in ấn, chắc chắn là sẽ hoàn thành sớm hơn.
Tuy nhiên, Đại tạng kinh Phật giáo dù đã được hình
thành bằng Việt ngữ, nhưng đối với người mới sơ cơ
học Phật cũng không phải dễ dàng nghiên cứu học hỏi.
Bởi có rất nhiều Kinh, Luật, Luận khác nào như một
khu rừng rậm, mà người đi vào quờ quạng mò mẫm, rối
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
9
rắm không biết lối ra. Nghĩa là, không biết nên học cái
nào trước cái nào sau. Đó cũng là điều rất khó cho
người sơ cơ học Phật.
Thế nên, theo tôi, nếu bạn muốn nghiên cứu học hỏi
cho có hệ thống từ thấp lên cao, thì từ trước tới nay,
theo chỗ chúng tôi được biết, thì chưa có bộ sách nào
biên soạn hay hơn bộ Phật Học Phổ Thông. Bộ sách
nầy do Cố Hòa Thượng Thiện Hoa biên soạn. Toàn
sách gồm có 12 quyển, gọi là 12 nấc thang giáo lý.
Sách được trình bày qua Ngũ Thừa Phật Giáo. Mỗi
Thừa đã được soạn giả trình bày qua từng bài học, biên
soạn rất công phu, trình bày rất sáng sủa, có thể nói,
đây là một loại sách giáo khoa, dễ học, dễ hiểu, giúp
cho người học đở tốn thời gian phải tìm tòi lục lọi các
kinh điển khác. Thiết nghĩ, mỗi Phật tử chúng ta, nên
có bộ sách nầy được xem như là sách gối đầu giường.
Tuy sách để là Phật Học Phổ Thông, nhưng cũng
không kém phần quan trọng. Về Nhơn Thừa và Thiên
Thừa, bạn có thể đọc dễ hiểu. Nhưng từ Thanh Văn
Thừa trở đi đến Bồ Tát Thừa, gồm có các bộ kinh luận
cũng không phải là dễ nhận dễ hiểu, nếu không có thầy
trực tiếp giảng dạy. Do đó, tôi thành thật khuyên bạn,
tốt hơn hết là bạn nên đến chùa học hỏi với quý thầy,
những vị đã có trình độ Phật học căn bản vững chắc.
Hoặc giả bạn có thể trực tiếp ghi danh tham dự những
khóa học giáo lý do các chùa khai giảng, để từ đó bạn
có một số vốn liếng căn bản Phật học, rồi tìm đọc các
bộ kinh luận khác, thì sẽ dễ tiến hơn. Đó là lời khuyên
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
10
thành thật của chúng tôi. Mong bạn hoan hỉ. Kính chúc
bạn vững tiến trên con đường tu học Phật Pháp.
4. Vấn đề sát sanh hại vật.
Hỏi: Trong khi trao đổi với một người bạn về giới thứ
nhất không sát sanh. Tôi cho rằng mạng sống giữa con
người và con vật dù nhỏ nhít như con trùng hay con
châu chấu, cũng đều có mạng sống như nhau, cần phải
được bảo vệ và tôn trọng. Nếu giết hại chúng thì cũng
phạm tội sát sanh như giết con người. Hay ngược lại,
nếu cứu mạng sống chúng thì cũng như cứu mạng sống
con người, bởi vì mỗi loài đều có tánh giác bình đẳng
như nhau. Bạn tôi không đồng ý và cho rằng mạng
sống con người quan trọng hơn, nên cần phải được tôn
trọng và bảo vệ hơn loài vật. Như thế, thì xin hỏi: lý lẽ
giữa tôi và bạn tôi ai đúng ai sai?
Đáp: Nếu bảo xác quyết đúng hay sai, thì theo tôi, cả
hai đều đúng, nhưng đúng chỉ ở một phương diện mà
thôi. Lý do tại sao? Bởi vì theo bạn, thì bạn đứng trên
lập trường từ bi và lý tánh để quyết định. Ngược lại,
ông bạn của bạn thì đứng trên lập trường giá trị của
mạng sống mà so sánh quyết định. Vấn đề nầy, chúng
tôi xin được góp ý như sau:
Về phương diện từ bi, thì điều bạn nêu ra rất là hữu lý.
Bởi Phật dạy, người Phật tử phải luôn luôn nuôi dưỡng
lòng từ bi với muôn loài. Vì mọi sinh vật đều có mạng
sống và chúng muốn được tự do sinh tồn. Theo lẽ công
bằng, hễ mình biết quý trọng thân mạng mình, thì kẻ
khác hay loài khác cũng đều biết quý trọng thân mạng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
11
của chúng. Do đó, người có lòng thương, thì không nở
ra tay sát hại từ loài người cho đến loài vật.
Tiến thêm một bước nữa, Phật dạy tất cả chúng sanh
đều có Phật tánh. (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật
tánh, Kinh Niết Bàn). Trên thân tướng của mỗi loài, tuy
hình hài có khác nhau, mà tánh giác nào có khác nhau.
Thế là, vì tôn trọng tánh giác bình đẳng, mà không nên
tàn sát sanh mạng, dù sanh mạng đó nhỏ nhít như con
trùng hay con châu chấu mà bạn đã nêu ra.
Như vậy, điều mà bạn nêu ra, rất phù hợp với lời Phật
dạy và cũng rất phù hợp với lòng nhân của con người.
Tôi dám quả quyết là bạn đúng. Tuy nhiên, nếu đứng
về phương diện giá trị mạng sống, cân phân nặng nhẹ,
giữa mạng sống con người và mạng sống con vật, thì
sự quả quyết của người bạn của bạn là đúng.
Bởi lẽ, chúng ta cần phải minh định rõ ràng về phạm
vi của giới bất sát sanh nầy. Trên nguyên tắc chủ yếu
chính là Phật cấm người Phật tử không được sát nhơn.
Bởi giá trị mạng sống của con người, xét về hai mặt:
sinh lý và tâm lý có nhiều yếu tố thù thắng mà các loài
động vật khác không thể sánh kịp. Do đó, mà người ta
gọi loài người là thượng đẳng, còn loài vật là hạ đẳng.
Thử chúng ta xét qua vài đức tánh căn bản:
- Về trí năng, con người có một trí năng rất tinh khôn
và khả năng phát minh sáng tạo những kỹ thuật, những
vật dụng máy móc tinh xảo, bằng chứng như các nhà
khoa học, bác học hiện tại. Đồng thời, con người có
khả năng biện biệt phải trái, thiện ác và biết tu tạo
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
12
phước đức, làm sai trái, biết phục thiện, cải hối và có
tâm hướng thượng thăng tiến đến quả vị cao tột giải
thoát, như chư Phật, chư Bồ Tát chẳng hạn. Ngoài ra,
con người còn có khả năng tư duy và một trí nhớ rất
siêu đẳng. Tóm lại, những yếu tố khả năng trí thức nầy,
các loài động vật khác làm gì có được.
- Về phước báo, loài người có thân tướng thắng diệu,
đẹp đẽ hơn loài vật nhiều. Về cách sống loài người có
văn minh, văn hóa cao hơn loài vật. Về thọ dụng thụ
hưởng, loài người thọ dụng thụ hưởng những thứ thực
phẩm sang trọng như cao lương mỹ vị v.v...
- Về giá trị mạng sống, không cần phải biện minh dài
dòng, ai cũng biết giá trị mạng sống con người cao gấp
trăm ngàn lần các loài động vật khác. Điều nầy chúng
ta thử xét nghiệm vào đời sống thực tế qua một vài
trường hợp thí dụ điển hình, chúng ta sẽ thấy rõ.
Thí dụ trong nhà bạn, một hôm, con của bạn bị đau sắp
chết, có thầy thuốc nói bệnh nầy muốn trị hết, cần phải
có một loại thuốc quý trị giá khoảng 20 ngàn Úc kim,
mới có thể trị được. Nghe thế, vì muốn cứu sống sanh
mạng con bạn, chắc hẳn là bạn sẽ sẵn sàng, dù phải vay
nợ để có được số tiền đó trị liệu, miễn sao con bạn lành
mạnh, thì bất cứ giá nào bạn cũng không từ nan. Đồng
thời, trong khi đó nhà bạn cũng có con chó bệnh sắp
chết và thầy thuốc cũng nói y như vậy, thử hỏi bạn có
chạy kiếm đủ số tiền đó để chữa trị cho con chó hay
không? Hay là bạn chỉ cho uống thuốc qua loa rồi cũng
tùy theo nghiệp của nó mà phải chịu. Như vậy, so hai
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
13
sanh mạng, dĩ nhiên, sanh mạng con người được quý
trọng gấp trăm ngàn lần con vật.
Một thí dụ khác, như có một bọn khủng bố xâm nhập
vào nước Úc, chúng lùng bắt hết những con ruồi, muỗi
rồi đem giết sạch hết. Thử hỏi Chánh phủ Úc và nhơn
dân Úc sẽ đối xử với bọn khủng bố đó như thế nào? Họ
cám ơn hay dốc hết toàn lực binh hùng tướng mạnh
đem quân đi đánh trả thù bọn khủng bố như người Mỹ
đã làm. Sở dĩ Mỹ trả thù, vì bọn khủng bố giết nhiều
sanh mạng người. Chớ nếu như bọn chúng giết hằng
vạn hằng triệu con ruồi, con muỗi, thì chẳng những
người Mỹ không tỏ ra chút hờn giận mà còn cám ơn họ
rối rít nữa. Bạn thấy sao? Mạng sống nào quý hơn?
Nếu như bạn cho rằng giết một con châu chấu, thì cũng
phạm tội nặng như giết một con người. Điều nầy e
không đúng. Bởi vì, như trên đã nói, mạng sống con
người có giá trị lớn hơn muôn lần con vật, vậy thì
không thể cho rằng phạm trọng tội như nhau. Theo tôi,
thì giết người là trọng tội, giết vật là tội nhẹ. Đối với
luật pháp thế gian cũng thế. Luật pháp chú trọng đến sự
bảo vệ con người hơn là con vật. Dù rằng con vật cũng
được bảo vệ, nhưng không bằng con người.
Tóm lại, qua những ý kiến lập luận của hai người thì,
theo tôi, mỗi người đều đúng ở một phương diện, như
trên đã trình bày. Tuy nhiên, nếu kết hợp bổ sung hai ý
kiến trên lại, thì thiết nghĩ mới đầy đủ ý nghĩa của giới
bất sát sanh nầy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
14
5. Dọn cơm cúng vong như thế nào mới đúng ?
Hỏi: Tôi thường thấy lúc cúng vong, có ba chén cơm
để ngang nhau. Chén cơm chính giữa thì để một đôi
đủa, còn 2 chén cơm 2 bên, thì chỉ để có 2 chiếc đủa.
Xin hỏi, điều nầy có ý nghĩa gì ?
Đáp: Nghi cúng cơm nầy là do tổ tiên ta bày ra. Đây là
một tập tục có từ ngàn xưa. Khi cúng để 3 chén cơm,
một chén chính giữa phải đầy cơm và 2 chén 2 bên thì
lưng. Chén cơm và đôi đủa ở giữa là để cúng cho
hương linh mới chết, còn 2 chén và 2 chiếc đủa 2 bên
là để cúng cho 2 bên vai giác, tức là tả mạng thần
quang và hữu mạng thần quang. Thường là để cúng 3
chén, 6 chén hoặc 9 chén, chớ để 5 chén là sai. Lý do
để 2 chiếc đủa 2 bên, ý nói rằng, ma cũ thường ăn hiếp
ma mới, nên chỉ để một chiếc mà không để nguyên đôi.
Nếu để nguyên đôi, thì hương linh mới chết đó khó có
thể ăn được trọn vẹn, mà bị các cô hồn giành giựt ăn
hết vậy. Cần nói rõ, cách thức cúng cơm nầy không
phải là nghi thức của Phật giáo, mà là theo tục lệ tín
ngưỡng nhân gian xưa bày nay làm mà thôi.
6. Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết pháp bằng
thân nào?
Hỏi: Phật có 3 thân: Pháp thân, Ứng thân, Báo thân.
Kinh Địa Tạng nói: Phật lên cung trời Đao Lợi thuyết
pháp cho Thánh Mẫu nghe. Vậy xin hỏi, khi lên cung
trời thuyết pháp, Phật đi bằng thân nào?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
15
Đáp: Xin thưa ngay là Phật đi bằng Ứng thân. Lý do
tại sao? Bởi vì, đức Phật có lục thông. Trong lục thông,
có một thông gọi là Thần túc thông. Thông nầy có năng
lực hiện thân tùy ý muốn tự do vô ngại. Điều nầy,
chúng ta cũng không lạ gì, khi đọc các sách truyện xưa,
nhứt là truyện Tàu. Như truyện Phong Thần chẳng hạn.
Trong đó, diễn tả các vị có phép lạ đằng vân giá võ hay
độn thổ tàng hình v.v... Hoặc như các vị thiên tiên bay
qua lại tự do. Đó là những người chưa tu hành đắc đạo
mà còn biến hóa như thế. Ngược lại, đức Phật là một
bậc Đại Giác Ngộ. Ngài có đủ thần thông lực dụng biến
hóa không lường mà có lẽ nào lại không bằng các vị
tiên đó hay sao? Do đó, Phật hiện thân ở các cõi, các
nơi đều là cái ứng thân hay hóa thân chớ không phải
báo thân hay pháp thân vậy.
7. Ý nghĩa chắp tay như thế nào?
Hỏi: Tại sao người Phật tử khi tụng kinh lễ bái hoặc
chào hỏi nhau lại chắp tay. Vậy xin hỏi ý nghĩa chắp
tay như thế nào ?
Đáp: Chắp tay, nguyên tiếng Hán Việt là Hiệp chưởng.
Tiếng Phạn là Ãnjali. Hiệp chưởng còn gọi là hiệp
thập. Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang tập 4 trang
2863 có giải thích như sau: “Chắp 2 bàn tay, tập trung
tư tưởng, cung kính lễ bái. Đây là cách lễ bái từ xưa ở
Ấn Độ, được Phật giáo thật hành theo.
Người Ấn Độ cho rằng tay phải là tay thần thánh, tay
trái là tay bất tịnh. Nhưng nếu 2 tay hiệp lại làm một thì
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
16
trở thành sự hợp nhất giữa phương diện thánh thiện và
nhiễm ô, cho nên hiệp chưởng là biểu hiện bộ mặt chân
thật nhất của con người. Nghĩa " Bất cấu bất tịnh "
trong Bát Nhã Tâm Kinh chính là ý nầy.
Trong các Kinh Luận có rất nhiều chỗ nói về hiệp
chưởng, như Phẩm Phương Tiện Kinh Pháp Hoa (Đại
9,9 Hạ) ghi :" Cung kính hiệp chưởng lễ"; Kinh Quán
Vô Lượng Thọ (Đại 12, 345 thượng) ghi: "Hiệp
chưởng chắp tay, khen ngợi chư Phật."
Ngoài việc biểu thị ý cung kính trong tâm, hiệp chưởng
còn biểu thị ý trở về nguồn cội, đạt đến chỗ phi quyền,
phi thật, sự lý khế hợp.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký 2, hiệp chưởng là cách
thứ tư trong 9 cách lễ ở Ấn Độ.
Mật Giáo phối hợp 2 tay với Kim Cang giới và Thai
Tạng giới, hoặc lý và trí, hoặc định và huệ v.v... đồng
thời phối hợp 10 ngón với 5 đại, 10 Ba La Mật v.v...
Ngoài ra, Đại Nhật Kinh Sớ 13 có nêu 12 cách hiệp
chưởng :
1. Kiên thật tâm hiệp chưởng (hai tay chắp chặt vào
nhau các đầu ngón tay bằng nhau).
2. Hư tâm hiệp chưởng, còn gọi không tâm hiệp
chưởng (hai tay chắp lại, các đầu ngón tay bằng nhau,
hơi rỗng ở giữa).
3. Vị (hai) liên hiệp chưởng (các ngón tay bằng nhau
chắp lại, lòng bàn tay phình ra hình hoa sen búp).
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
17
4. Sơ các liên hiệp chưởng (chắp tay 2 ngón cái và 2
ngón út dính lại, các ngón kia hở ra, giống như hoa sen
hàm tiếu).
5. Hiển lộ hiệp chưởng (hai bàn tay chạm đầu, ngửa
lên).
6. Trì thủy hiệp chưởng (hai tay cũng ngửa lên như
trước, dáng khum lại như đang vốc nước).
7. Quy mạng hiệp chưởng, còn gọi Kim cang hiệp
chưởng (đặt ngón của bàn tay mặt lên trên ngón của
bàn tay trái).
8. Phản xoa hiệp chưởng (hai tay chắp ngược đầu nhau
đặt tay phải lên tay trái).
9. Phản tịch (bối) hổ tương trước hiệp chưởng (lưng 2
bàn tay đâu nhau, tay phải để ngửa trên lưng bàn tay
trái ).
10. Hoành trụ chi hiệp chưởng (hai bàn tay nằm ngửa,
đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
11. Phúc thử hướng hạ hiệp chưởng (hai bàn tay nằm
úp, đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
12. Phúc thủ hiệp chưởng (hai bàn tay úp xuống hai
ngón cái chạm nhau).
Mười hai loại hiệp chưởng nầy đều có ý nghĩa sâu xa
khác nhau.
8. Tại sao khi cúng vong tụng chú biến thực biến
thủy?
Hỏi: Tại sao khi cúng vong hoặc tiến linh cho các bậc
Tôn Sư, lại đọc 2 bài chú : Biến Thực và Biến Thủy.
Xin hỏi, điều nầy có ý nghĩa gì ?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
18
Đáp: Biến thực chân ngôn hay biến thực chú, hoặc
biến thực đà la ni, đây là thần chú biến hóa thức ăn để
cúng thí cho chư thiên và ngạ quỷ. Về nguyên nhân có
ra thần chú nầy, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang
quyển 1 trang 752 có ghi như sau: “Kinh Cứu Bạt
Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni có nói: Phật thuyết
pháp ở Tăng già lam ni câu luật na thành Ca tỳ la. Lúc
bấy giờ, Tôn giả A Nan ngồi một mình nơi thanh vắng
tu tập thiền định. Sau canh ba, chính Tôn giả A Nan
thấy một ngạ quỷ Diệm Khẩu, thân hình xấu xí khô
gầy, trong miệng lửa cháy, yết hầu nhỏ như đầu kim,
tóc rối, răng móng dài nhọn rất đáng kinh sợ.
Ngạ quỷ ấy bảo A Nan rằng: Sau 3 ngày nữa A Nan sẽ
chết và cũng đọa vào trong loài ngạ quỷ. A Nan sợ hãi
liền hỏi phải làm cách nào để được thoát khổ? Ngạ quỷ
Diệm Khẩu bèn chỉ rõ cho A Nan: Nếu cúng thí vật
thực cho vô lượng ngạ quỷ cùng trăm ngàn Bà La Môn
Tiên (là một loại tiên trong loài quỷ) và cúng dường
Tam Bảo rồi hồi hướng công đức cho chúng để chúng
được sanh lên cõi trời và người ấy được tăng thêm tuổi
thọ. Tôn giả A Nan liền đến chỗ Phật, đem việc ấy
bạch lên và cầu xin Phật chỉ dạy. Đức Phật vì ngạ quỷ
Diệm Khẩu tuyên nói Đà la ni biến thực chân ngôn có
vô lượng oai đức tự tại quang minh thù thắng diệu lực.
Theo Tiêu Thích Kim Cang Khoa Nghi Hội Yếu Chú
Giải 2 thì hành giả niệm chân ngôn nầy được 3 biến, 7
biến hoặc 21 biến thì nhờ thần lực của chân ngôn, các
vật cúng tự nhiên biến thành các món ăn ngon của chư
thiên, món nào cũng đều rất nhiều như cả núi Tu Di.
Thực hành phép biến thực nầy, trước dùng Tịnh pháp
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
19
giới chân ngôn chữ “Lam” và bắt ấn kiết tường gia trì
21 biến để làm cho thức ăn được thanh tịnh, kế đó niệm
Biến thực chân ngôn rồi sau niệm Phổ cúng dường
chân ngôn (Đại 92, 137 hạ) Án, nga nga nẳng, tam bà
phạ, phiệt nhật ra hồng".
Ngoài ra, theo bộ Oánh Sơn Hòa Thượng Thanh Qui hạ
của Nhật Bản thì có thêm chân ngôn rảy nước trì tụng
trong hội cúng thí cho ngạ quỷ (Đại 82, 446 trung) là:
Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ chỉ đế, án, tam
bạt ra, tam bạt ra hồng.
9. Tại sao đưa linh cữu còn ghé thăm nhà?
Hỏi: Những người tu tịnh nghiệp theo pháp môn niệm
Phật, mục đích là để cầu sanh Cực Lạc. Muốn như thế,
người tu, ngoài việc niệm Phật ra, còn cần phải có tâm
niệm xả ly luyến ái duyên trần. Thế nhưng, không hiểu
sao, người tu tịnh nghiệp khi qua đời lúc đưa linh cữu
thiêu hay chôn, tôi thường thấy hay ghé lại nhà để
viếng thăm gia cảnh lần cuối. Xin hỏi: Điều nầy có trái
với bản nguyện xả ly để cầu sanh Tịnh Độ hay không?
Đáp: Vấn đề nầy, xin được giải thích qua hai phương
diện:
Về phương diện đời, tức Thế tục đế mà nói, thì điều
nầy không có gì trái với lẽ đạo thường tình. Nói rõ hơn
là rất phù hợp với tập tục văn hóa cổ truyền của người
Việt Nam. Theo quan niệm của tổ tiên chúng ta thì, con
người sống có cái nhà, thác có cái mồ. Vì vậy, nhà cửa
đối với người Việt Nam rất là quan trọng. Làm chi thì
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
20
làm, việc đầu tiên là phải có căn nhà trước đã. Vì thế
mới có câu nói là an cư lạc nghiệp.
Khi còn ở Việt Nam, phần nhiều là người bệnh qua đời
ở tại nhà. Dù có chết tại bệnh viện đi chăng nữa, thì
thân quyến của người quá cố nhứt quyết là phải chở
người thân của họ đem về quàn tại nhà để lo việc ma
chay tang lễ. Nhưng ngược lại, ở Úc nầy thì có khác.
Người chết phần nhiều là ở trong bệnh viện rồi sau đó
người ta đưa thi thể vào nhà quàn.
Bởi thế, thi thể ít khi quàn tại nhà, vì có nhiều lý do bất
tiện. Bởi vậy, nên khi đưa linh cữu đi thiêu hay chôn,
thì thân quyến của người chết (hoặc có sự di chúc của
người chết) hay cho linh xa ghé nhà để cho hương linh
thăm nhà lần cuối cùng. Tuy nhiên, điều nầy, nếu đứng
về phương diện đạo lý giải thoát mà nói, nhứt là đối với
những người tu tịnh nghiệp với bản nguyện là sau khi
xả bỏ báo thân nầy nguyện sanh về cõi Cực lạc, thì việc
làm nầy không mấy hợp lý. Lý do tại sao ? Bởi có
nhiều lẽ. Xin đơn cử một vài việc :
Thứ nhứt, trái với bản nguyện lúc sanh tiền. Vì bản
nguyện của người chuyên tu tịnh nghiệp với một tâm
nguyện tha thiết là sau khi bỏ báo thân nầy nguyện
sanh về Cực lạc. Đó là một nguyện vọng thiết tha duy
nhứt của người chuyên tu tịnh nghiệp. Đã có một bản
nguyện thiết tha như thế, thì đối với việc nhà cửa của
cải vật chất, tất cả chỉ là những thứ phù vân hư huyển
có gì quan trọng đâu mà luyến tiếc viếng thăm. Vả lại,
khi viếng thăm cũng đâu có mang theo được vật gì, chỉ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
21
làm tổn hại chướng duyên cho bản nguyện cầu vãng
sanh Cực Lạc mà thôi.
Thứ hai, làm cho hương linh mất chánh niệm khởi tâm
luyến ái. Kinh dạy: “Niệm bất nhứt, bất sanh Tịnh Độ.
Ái bất nhiễm, bất sanh Ta Bà”. Chánh niệm hay tịnh
niệm đối với người mới lâm chung thật là quan yếu.
Khi chúng ta đưa họ trở về nhà thăm lại những kỷ niệm
mà hằng ngày họ thường ưa thích, chắc gì họ không
khởi niệm luyến tiếc. Hơn nữa, theo trong Kinh nói,
những người chưa phải là cực thiện hay cực ác, thì phải
rơi vào thân trung ấm, tất nhiên thần thức của họ rất là
yếu đuối.
Chúng ta chẳng những không trợ duyên hộ niệm cho họ
thức tỉnh, mà còn gây cho họ một thuận duyên ái nhiễm
tham trước như thế, thì thử hỏi làm sao mà họ siêu
thoát cho được ? Chúng ta nên nhớ, Phật dạy, tâm tham
ái là đầu mối của sanh tử, chính nó là động cơ thúc đẩy
thần thức tạo nghiệp để thọ khổ. Vì vậy, nếu trong thân
quyến thật sự thương thân nhân ruột thịt của mình, hãy
nên nghe theo lời Phật Tổ dạy mà suy xét lại. Nếu là
liên hữu, thì càng nên cẩn trọng trong việc dặn dò con
cháu làm điều nầy. Vì nó chỉ có tác hại thêm, chớ
không có lợi lạc gì cả.
Mong quý liên hữu nên bình tâm suy xét cho thật kỹ.
Không ai thấy rõ sự lợi hại bằng chư Phật chư Tổ. Phật
Tổ đã dạy như thế, thì chúng ta chớ nên làm trái ngược
lại, mà phải chiêu cảm quả khổ. Chừng đó, dù có kêu
than khóc lóc đến đâu, Phật Tổ cũng không thể nào cứu
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
22
chúng ta được. Chi bằng tốt hơn hết là tránh nhân khổ
thì không bao giờ gặt hái quả khổ. Mong lắm thay !
Thứ ba, là trái với việc hộ niệm. Việc hộ niệm, tức trợ
giúp cho người sắp lâm chung giữ được chánh niệm
hay tịnh niệm thật là hết sức quan trọng. Trong gia
đình, nếu có người bệnh sắp lâm chung, thì tất cả thân
quyến, bạn bè có đến thăm nên vì người bệnh mà hết
lòng niệm Phật. Trường hợp ở xứ Úc nầy, việc hộ niệm
trực tiếp có phần khó khăn. Vì phần nhiều bệnh nhân
khi bệnh nặng đều phải nằm bệnh viện để điều trị. Do
đó, mà việc hộ niệm của thân quyến hay bạn bè có
phần trở ngại. Tuy nhiên, chúng ta nên khéo quyền
chước phương tiện bằng cách là mở băng nhựa niệm
Phật cho bệnh nhân vừa đủ nghe. Bệnh nhân nghe liên
tục như thế, thì rất là có lợi, vì dễ được định tâm niệm
phật theo.
Đó là một phương tiện hộ niệm rất tốt. Đó là nói, khi
người bệnh còn có chút tỉnh táo. Nếu như sau khi lâm
chung rồi, trong những ngày đầu khi chưa thiêu hay
chôn, thì việc hộ niệm vẫn rất cần thiết để giúp cho
hương linh. Hoặc niệm phật, hoặc tụng kinh, hoặc dùng
những lời thức nhắc cho hương linh tỉnh giác, gắng dằn
lòng chớ nên bi lụy khóc than mà gây tổn hại cho
hương linh. Nhờ thế, mà hương linh có phần nào hồi
tâm chuyển ý, cộng thêm tập khí tu niệm hằng ngày khi
còn sống, thì hương linh mới sớm được siêu thoát.
Ngược lại, đằng nầy, chẳng những chúng ta không thiết
thiệt hộ niệm như thế, mà còn tạo cho hương linh một
sự ái nhiễm tham đắm nhà cửa của cải, thì quả thật đó
là một tai hại vô cùng.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
23
Tóm lại, việc đưa hương linh ghé thăm nhà lần cuối
qua câu hỏi của người hỏi, chỉ giới hạn trong phạm vi
của người tu tịnh nghiệp, thì chúng tôi cũng chỉ trả lời
góp chút thành ý trong phạm vi đó thôi.
Mong rằng, những liên hữu đang tu tịnh nghiệp, xin
quý vị cần nghiệm xét kỹ lại, để cho việc cầu vãng
sanh của mình không bị trở ngại. Điều nầy, ta cần phải
chọn và quyết định một trong hai. Nếu thuận theo
duyên đời, thì rất trở ngại cho việc vãng sanh của mình.
Nếu theo bản nguyện của mình, thì đương nhiên là trái
lại với đời. Chúng ta là người tu hành trọn đời chỉ có
một việc làm là niệm phật cầu vãng sanh Cực lạc để
thoát kiếp khổ đau luân hồi trầm luân nơi biển ái, thì
thà chấp nhận trái với đời hơn là trái mất bản nguyện
của mình.
Còn một điều ích lợi thực tế hơn nữa là không làm mất
thời giờ của những thân hữu tiễn đưa. Và như thế, thì
hương linh càng tăng thêm phước. Bởi nếu vì mình mà
họ phải mất thời giờ, thì mình sẽ bị tổn phước. Đó là
điều ích lợi thực tế thiết thực.
Trên đây, chỉ là những thành tâm góp ý của người giải
đáp dựa theo kinh điển Phật Tổ chỉ dạy, còn việc chọn
lựa quyết định thì tùy ở nơi mỗi người.
10. Vấn đề bản ngã thật giả thế nào ?
Hỏi: Trong Phật giáo, khi thì nói cái ngã không thật,
khi lại nói cái ngã chơn thật. Lắm khi lại còn đề cao
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
24
cái ngã cho là độc tôn duy nhứt nữa. Như khi Phật mới
ra đời có nói câu: “Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã
độc tôn”. Tại sao đồng là ngã, khi nói thật, khi nói
không thật. Như vậy có mâu thuẫn chống trái nhau
không ?
Đáp: Không có gì chống trái nhau cả. Chữ ngã là đọc
âm Hán tự, có nghĩa là tôi, ta, hay mình v.v... Để bạn
hiểu rõ hơn về chữ ngã, tôi xin trích một đoạn về phần
định nghĩa chữ ngã trong bộ Từ Điển Phật Học Huệ
Quang Tập 5: “Ngã nguyên nghĩa là hô hấp, chuyển
thành nghĩa sanh mạng, tự kỷ, thân thể, tự ngã, bản
chất, tự tánh, hoặc chỉ chung cho chủ thể độc lập vĩnh
viễn, tiềm ẩn trong nguồn gốc của tất cả vật và chi
phối cá thể thống nhất. Đây là một trong các chủ đề
trọng yếu nhất thuộc thế giới tư tưởng Ấn Độ”.
Phàm nói ngã phải hội đủ ba yếu tố: “Chủ tể, thường
nhứt và tự tại”. Cái ngã mà Phật giáo phủ nhận hay chủ
trương vô ngã, đó là chỉ rõ cái ngã do quan hệ nhân
duyên kết hợp. Đã do nhân duyên kết hợp, tất nhiên là
nó không có chủ tể, không thường nhứt và không được
tự tại. Như cái thân xác mà chúng ta đang mang đây,
nhà Phật gọi là cái thân giả tạm, bởi do ngũ uẩn kết
hợp. Ngũ uẩn đó là: Sắc, thọ, tưởng, hành thức. Sắc
chất thuộc về phần tứ đại, tức gồm có 4 nguyên tố tụ
hợp tạo thành. Như đất, nước, gió, lửa. Bốn thứ nầy kết
hợp trong nhu cầu cưỡng ép. Bởi thế, nên chúng
thường chống trái nhau và chính vì thế, nên chúng ta
thường hay đau yếu luôn luôn.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
25
Đấy là phần kết hợp vật chất. Còn về phần tinh thần
hiểu biết, cũng do bốn thứ kết hợp: Thọ, tưởng, hành,
thức. Thọ là sự cảm nhận vui hoặc buồn, hoặc không
vui không buồn. Tưởng là nhớ lại những việc đã qua
hay tưởng tượng đến những việc sắp đến. Hành là sự
biến đổi từng sát na của dòng tâm thức. Thức là sự
phân biệt phải trái tốt xấu v.v... Bốn thứ nầy cấu tạo
thành hiện trạng tâm lý.
Như vậy, mỗi thân thể chúng ta được cấu tạo bởi hai
phần: Vật chất và tinh thần. Đã nói cấu tạo, tất nhiên, là
phải do nhiều thứ hợp lại, đã có hợp, tất phải có tan. Đó
là một định lý duyên sinh bất di bất dịch. Do đó, mà
nhà Phật gọi thân nầy là vô ngã (Bởi do nhiều yếu tố
hợp thành tạm bợ không thật). Ngược lại, cái ngã mà
nhà Phật gọi là Chơn Ngã tức là cái “Ta” chơn thật.
Nói đến cái Ta là chỉ cho chủ thể mạng sống. Nhưng
mạng sống có hai: Giả tạm và vĩnh hằng. Mạng sống
giả tạm là mạng sống còn bị hệ thuộc trong phạm trù
duyên sinh nhân quả. Còn mạng sống vĩnh hằng, thì
vượt ngoài phạm trù duyên sinh nhân quả đối đãi.
Mạng sống nầy, trong nhà Phật nói, có nhiều tên gọi
khác nhau. Như Chơn Ngã, Pháp Thân, Phật Tánh, Niết
Bàn, Bản Lai Diện Mục, Chơn Lý Tuyệt Đối v.v...
Đó là một thực thể bất sinh bất diệt. Câu nói: “Thiên
thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chữ Ngã đây là chỉ
cho Chơn Ngã, chớ không phải là cái ngã tầm thường
do nhân duyên kết hợp. Ta không nên hiểu lầm cho
rằng Phật tự cao tự đại, nêu cao cái bản ngã của mình là
trên hết. Chữ Ngã nầy là một trong bốn đức tánh Niết
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
26
Bàn mà trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Phật đã nêu ra:
Chơn Thường, Chơn Lạc, Chơn Ngã, Chơn Tịnh.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã có bài kệ :
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Tạm dịch :
Nếu người nào dùng sắc thấy ta
Dùng âm thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy được Như Lai.
Muốn thấy được Như Lai phải thấy bằng cách nào?
Không thể thấy bằng mắt thịt qua hình ảnh sắc tướng
của Phật (vì sắc tướng do duyên hợp, nên vô ngã) Cũng
không thể dùng tai nghe âm thanh của Phật mà cho là
thấy Phật (vì tiếng cũng do duyên hợp giả có) Như vậy,
người nào chạy theo trên hình tướng hay âm thanh để
tìm phật, thì bị Phật quở là kẻ đó hành đạo tà, không
bao giờ thấy được Phật.
Thế thì, muốn thấy Phật, ta không thể thấy bằng mắt
thịt mà phải thấy bằng tâm, tức thầm nhận ra được cái
thực thể hằng thanh tịnh sáng suốt, bất sanh bất diệt
trong mỗi con người của chúng ta, đó là thấy được Phật
hay Như Lai. Như Lai ở đây, ta phải hiểu là Phật pháp
thân, chớ không phải là Phật báo thân. Mà Phật pháp
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
27
thân đó là tên khác của Chơn ngã hay Đại ngã. Người
nào trực nhận được tánh thể sáng suốt nầy, thì gọi
người đó là ngộ đạo hay kiến tánh.
Tóm lại, khi nói ngã không thật, tất nhiên, ta phải hiểu
đó là cái ngã do nhân duyên cấu tạo hợp thành. Tạm
gọi là giả ngã (Giả có cái ta trống rỗng tạm sinh hoạt
trong một thời gian). Còn nói Chơn ngã, thì ta biết đó
là cái Ngã vượt ngoài duyên sinh đối đãi. Cái Ngã đó
không hình, không tướng, tạm gọi là Chân ngã hay
Chân lý tuyệt đối v.v...
11. Ý nghĩa Phật bước đi bảy bước.
Hỏi: Khi đức Phật ra đời, Ngài bước đi bảy bước rồi
dừng lại mà không bước tám bước hay sáu bước, rồi
trên mỗi bước lại có một hoa sen. Vậy xin hỏi: bảy
bước là tượng trưng cho ý nghĩa gì ?
Đáp: Vấn đề nầy có nhiều thuyết giải thích khác nhau.
Cho đến nay, người ta cũng chưa nhứt trí là thuyết nào
đúng. Vì mỗi thuyết có mỗi lập luận khác nhau. Có
thuyết nói: theo quan niệm của Phật giáo nói riêng và
quan niệm của người Ấn Độ thuở xưa nói chung, tất cả
đều cho rằng: Sự hình thành của một thế giới là do sự
cấu tạo của nhiều hạt vi trần kết hợp lại. Nếu nói theo
khoa học ngày nay là do nhiều nguyên tử hay phân tử
kết hợp. Từ những hạt vi trần nhỏ kết hợp lại thành
những vi trần lớn. Cứ như thế mà kết hợp dần lên thành
ra một thế giới. Tuy nhiên, sự kết hợp của những hạt vi
trần nầy theo phương cách nào? Điều nầy, theo nhà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
28
Phật nói, chính giữa có một cái hạt nhân chánh, rồi
chung quanh có sáu hạt vi trần phụ. Chung lại, theo
danh từ chuyên môn của Phật giáo gọi là thất lân hư
trần. Tức là 7 hạt bụi rất nhỏ nhiệm gần như hư không
kết hợp lại, nếu chẻ ra, thành ra hư không.
Từ thất lân hư trần hợp lại, thành một ngưu mao đầu
trần (đầu lông con trâu). Từ thất ngưu mao đầu trần
hợp lại, thành một thố mao đầu trần (đầu lông con thỏ)
v.v..
Như vậy, con số 7 có ra là do nhiều hạt bụi tạo thành.
Nói rõ ra, là không có hạt bụi nào tự nó đơn độc mà có,
tất nhiên, là nó phải nhờ nhiều hạt bụi li ti khác để tạo
thành. Bởi thế, nên hình ảnh đức Phật khi mới giáng
sanh, Ngài bước đi bảy bước là để tiêu biểu cho Ngài
bước đi khắp tất cả mọi nơi trên thế giới. Đồng thời
cũng để tiêu biểu cho pháp âm của Ngài nói ra vang dội
khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Còn hoa sen là tiêu
biểu cho sự thanh khiết. Ý nói, mặc dù đức Phật sanh
ra trong cõi đời ô trược nầy, nhưng Ngài không bao giờ
bị nhiễm trần. Đó là vì nguyện lực của Ngài ra đời là để
hóa độ chúng sanh vậy.
12. Phúng điếu người chết có mắc nợ hay
không?
Hỏi: Tôi thấy có một vài đám tang trong giới Phật tử
của mình, thân quyến có viết cáo phó là: “Miễn Phúng
Điếu”, (không nhận tiền) hỏi ra, thì họ nói: Nếu nhận
tiền, thì người chết phải mắc nợ. Vậy xin hỏi: nhận
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
29
tràng hoa người ta phúng điếu, thì người chết có mắc
nợ hay không? Và nếu so sánh giữa tiền và tràng hoa,
thì cái nào có lợi ích thiết thực hơn?
Đáp: Nếu căn cứ theo luật nhân quả, thì phàm hễ có
vay, tất nhiên phải có trả. Nếu bảo nhận tiền, thì người
chết mắc nợ, vậy thì nhận tràng hoa, người chết không
mắc nợ hay sao? Tràng hoa đâu phải tự nhiên mà có,
tất cũng phải dùng tiền để mua. Chẳng qua dưới một
hình thức khác thôi. Như vậy, bạn bè thân thuộc đến
phân ưu phúng điếu, vì ai mà họ phúng điếu, tất nhiên
là vì người chết. Nếu không có người chết, thì họ đâu
có phúng điếu. Do đó, đương nhiên là người chết phải
mang nợ.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây là, việc phúng điếu
bằng tràng hoa phát xuất từ đâu? Và có phải đó là một
tập tục của người Việt Nam chúng ta hay không ?
Theo chỗ chúng tôi được biết, thì việc phúng điếu bằng
tràng hoa là do người Việt mình ảnh hưởng người Tây
phương. Vì người Tây phương họ rất yêu chuộng hoa
tươi. Chúng ta cũng không lạ gì, khi thấy họ đến thăm
thân nhân hay bạn bè thân, trên tay của họ thường có
một bó hoa tươi. Đây là để biểu lộ tấm lòng thân
thương của họ. Đây cũng là một tập tục hay đẹp của họ.
Do đó, nên người mình bắt chước làm theo. Điều nầy,
nếu xét theo phong tục xưa của ta, như trong quyển
Phong Tục Việt Nam của giáo sư Toan Ánh đã viết:
“Phúng là lễ vật đi điếu người chết, còn viếng nghĩa là
thăm. Ta thường nói phúng viếng hoặc phúng điếu
nghĩa là đem lễ vật tới hỏi thăm nhà có tang.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
30
Người chết sau khi đã nhập quan và tang chủ đã làm lễ
thành phục, con cháu khóc lóc, bạn bè thân thuộc mới
bắt đầu tới phúng điếu. Trước đó, cũng có người tới,
nhưng chỉ là để hỏi thăm và chia buồn cùng tang chủ
chứ chưa có lễ viếng và cũng chưa lễ trước linh cữu.
Lễ phúng viếng thường là trầu cau trà rượu, hoặc
những tay văn tự thì dùng những bức trướng hoặc
những đôi câu đối, trong nêu lên những đức hay tính tốt
của người chết.
Con cháu cũng có câu đối để khóc ông bà cha mẹ.
Những trướng đối của bạn bè thường làm bằng lụa,
bằng da màu xanh, vàng, trắng, còn những câu đối của
con cháu chỉ viết bằng chữ xanh hoặc chữ đen trên vải
trắng.
Ở thôn quê, người trong làng xã thường dùng tiền để
phúng viếng, một cách trực tiếp giúp đỡ thiết thực tang
chủ trong lúc cần thiết v.v..." (Phong Tục Việt Nam,
Toan Ánh, trang 512, nhà xuất bản Đại Nam ).
Chúng tôi trích dẫn những đoạn văn trên để chúng ta
biết sơ qua về phong tục phúng điếu của ông bà ta ngày
xưa là như thế. Từ ngày người Tây phương có mặt ở xứ
ta, nhứt là trong thời kỳ chiến tranh có quân đội Mỹ,
mỗi khi một quân nhân cấp lớn tử trận, thì người chết
sẽ được nhận những tràng hoa danh dự, tưởng niệm
thân thiết phúng điếu. Và cũng từ đó, người dân thành
thị bắt chước theo hay dùng hoa tươi hoặc hoa cườm để
phúng điếu cho người chết.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
31
Ngược lại, ở thôn quê thì lại khác. Chúng ta thấy, trong
làng xã có người mất, thì người ta thường dùng tiền để
phúng điếu. Đây là một hình thức trực tiếp giúp đỡ cho
tang chủ tiện bề chi dụng trong lúc cần thiết. (Người
viết đã chứng kiến nhiều đám táng ở thôn quê là như
thế).
Đây cũng là một tập tục rất hay và rất thực tế trong việc
tương tế. Tổ tiên ta có câu: “Nhứt gia hữu sự bá gia
ưu”. Nghĩa là, một nhà có việc, thì trăm nhà đều chung
lo. Điều nầy, vừa nói lên tinh thần tương thân tương trợ
của người dân quê mộc mạc, cũng vừa nói lên tình
đoàn kết keo sơn gắn bó tình tự của một dân tộc hiền
hòa.
Chính vì tinh thần hỗ tương sớm tối có nhau nầy, nên ta
thấy, ngoài việc bà con thân hữu xúm xít nhau lại
chung lo đám sám, họ còn nghĩ đến việc giúp đỡ tiền
bạc cho gia đình người chết có chút ít phương tiện để
xoay trở tiêu phí trong việc tang lễ. Vì vậy, ở thôn quê,
ít có gia đình nào từ khước không chấp điếu. Vì họ
nghĩ, hôm nay mình nhận của người ta, thì mai kia
mình sẽ đi trả lại. Giống như một hình thức cho vay mà
không lời vậy.
Tuy nói là vì người chết, mà kỳ thật là vì giúp đỡ cho
người sống. Nếu là người khá giả, có đủ khả năng, thì
họ sẽ đem số tiền mà bà con phúng điếu để làm những
việc từ thiện giúp ích cho xã hội hoặc cúng chùa v.v...
Việc làm đó, hương linh chẳng những không mắc nợ,
mà còn được tăng thêm phước đức nữa. Còn nếu như
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
32
những gia đình nghèo không đủ khả năng chi dụng cho
đám sám, thì tạm thời họ dùng số tiền nầy để trang trải
cho việc tang lễ, rồi sau đó, con cháu hoặc người thân
từ từ họ sẽ đi hoàn trả lại.
Như thế, trên thực tế, ta thấy người chết như mắc nợ,
nhưng xét cho cùng, thì đây là một hình thức tương trợ
lẫn nhau mà thôi. Theo tôi, đây là một hình thức tương
trợ vừa giữ được tập tục xưa mà cũng vừa ích lợi rất
thực tế, nếu chúng ta khéo sử dụng đồng tiền nầy vào
những việc làm hữu ích cho xã hội.
Ngược lại, đối với những tràng hoa, xét ra, chỉ tô điểm
cho tang lễ thêm phần trang trọng, chỉ dùng được một
hai ngày, rồi sau đó khi đưa đám đến huyệt mộ hay đến
lò thiêu, thì những tràng hoa nầy cũng theo người chết
mà vứt bỏ luôn, thật là uổng phí! Chi bằng, nếu trong
thân quyến e ngại sự nhận tiền phúng điếu của bằng
hữu, thì ta có thể làm theo phương cách mà Đại Đức
Thích Phước Tấn trụ trì chùa Quang Minh đã đề xướng
một phương pháp phúng điếu mới, vừa có lợi ích thiết
thực cho xã hội mà cũng vừa đem lại sự lợi lạc cho
hương linh.
Phương pháp đó như thế nào? Nhân đám tang của phật
tử Nguyễn Thị Hoàng Ánh, tịnh danh là Tịnh Mẫn, là
một liên hữu của Cực Lạc Liên Hữu Liên Xã Quang
Minh Đạo Tràng, Thầy kêu gọi quý Liên hữu phật tử
mỗi người nhận một Tràng Hoa Công Đức. Tràng hoa
công đức nầy hình thức là một khổ giấy giống như
phiếu công đức vậy. Thầy in màu rất đẹp. Thầy trao
phát cho những liên hữu phật tử nào đã phát tâm nhận
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
33
lãnh ghi vào. Ghi như thế nào? Có vị thì ghi sẽ hiến
cúng 50 đô, hoặc 100 đô... để gởi tặng cho các bệnh
viện cô nhi, hoặc các bệnh viện cùi hay ung thư v.v...
Có người thì hứa là sẽ tụng một bộ Kinh Pháp Hoa, có
người thì phát nguyện mỗi đêm niệm một ngàn câu
hiệu Phật, có người thì phát nguyện làm bao nhiêu việc
phước thiện trong thời gian 49 ngày, tất cả những việc
làm và những điều phát nguyện trên, thảy đều hồi
hướng cho hương linh sớm được siêu sanh Tịnh Độ.
Qua việc đề xướng nầy, chúng tôi thấy quý liên hữu
phật tử hưởng ứng rất mạnh mẽ. Và mỗi người đem hết
lòng thành của mình để thực hiện những điều mà mình
đã phát nguyện. Tất cả chỉ vì hương linh và cho hương
linh. Đây mới thật là một loại Tràng Hoa thật vô cùng
quý giá. Âm vang của những việc làm nầy, như tụng
kinh, niệm phật, công quả, làm phước v.v... nó vẫn còn
vang dội mãi cho đến trải qua hết 49 ngày, chớ không
như những đám khác, là khi bạn bè hay đồng đạo đưa
đám xong rồi, thì người chết sẽ đi vào trong quên lãng,
không còn ai nhớ biết đến để cầu nguyện dù đó là một
câu hiệu phật.
Riêng chúng tôi, chúng tôi nhận thấy điều nầy rất phù
hợp với tinh thần vị tha của Phật giáo và cũng rất phù
hợp trong việc hộ niệm cho hương linh trong tinh thần
nhiếp tâm cầu nguyện, gọi là đức chúng như hải vậy.
Trên đây, là góp chút thành ý của người phụ trách mục
giải đáp nầy. Mong rằng tất cả liên hữu, phật tử chúng
ta, tưởng cũng nên suy xét lại cho thật kỹ, để chúng ta
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
34
có thể chuyển đổi qua một hình thức như Đại Đức
Thích Phước Tấn đã làm vừa qua trong đám tang của
phật tử Nguyễn thị Hoàng Ánh. Qua đó, theo tôi được
biết, mọi người đều rất hoan hỷ tán đồng. Vì nó rất hữu
ích cho cả hai: kẻ còn và người mất đều được lợi lạc
vậy.
13. Sự thờ Phật khác nhau giữa Nam Bắc Tông
Phật Giáo.
Hỏi: Cùng tu theo đạo Phật, nhưng không hiểu sao
giữa Phật giáo Nam Tông và Phật giáo Bắc Tông lại
thờ phụng Phật khác nhau ở trong các chùa. Bên Nam
Tông thì chỉ thờ duy nhứt một tượng Phật Thích Ca và
các vị A la hán, giống người Ấn Độ. Ngược lại, Phật
giáo Bắc Tông, ngoài việc thờ đấng Trung Tôn đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ra, còn thờ nhiều tượng Phật và
Bồ tát khác nữa. Riêng hình tượng Phật Thích Ca, thì
quốc gia nào tạc tượng thờ giống người quốc gia đó.
Xin hỏi: Tại sao có sự khác biệt như vậy?
Đáp: Sở dĩ có sự thờ phụng khác biệt đó, là do quan
niệm về việc thờ phụng Phật của hai hệ phái khác nhau.
Theo quan niệm của Phật giáo Nam Tông, tức Phật
giáo Nguyên Thủy, họ cho rằng, đức Phật Thích Ca
Mâu Ni là một con người bình thường như bao nhiêu
con người bình thường khác. Ngài cũng có những nhu
cầu cho đời sống: ăn, mặc, ở v.v… và cũng chịu chung
một định luật vô thường chi phối, phải trải qua những
nỗi thống khổ của kiếp nhơn sinh là sanh, già, bịnh,
chết. Tuy nhiên, Ngài chỉ khác hơn người thường là ở
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
35
chỗ, Ngài đã hoàn toàn giác ngộ, do sau khi xuất gia nỗ
lực tu hành mà thành đạt được đạo quả.
Ngược lại, chúng sanh vì còn mê, nên tạo nghiệp thọ
khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Phật đã thoát hẳn sanh
tử luân hồi. Khác nhau ở điểm căn bản giữa mê và ngộ
đó thôi.
Theo Nam Tông, thì ngoài đức Phật Thích Ca ra,
không có một vị Phật nào khác. Do đó, họ chỉ tôn thờ
một hình tượng Phật Thích Ca và tạc hình tượng giống
như người Ấn Độ, bởi lẽ, Phật là người Ấn Độ đi tu
thành Phật. Đó là một quan niệm dứt khoát thực tiễn
của hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy, xuất phát từ bốn
bộ kinh Nikaya.
Ngược lại, Phật giáo Bắc Tông (tức Phật giáo Phát
triển hay Đại thừa), thì quan niệm có khác. Theo Bắc
Tông, thì đức Phật Thích Ca khác hơn người thường.
Cái thân của Phật, đó chỉ là cái ứng thân hay hóa thân
thị hiện mà thôi. Vì muốn độ chúng sanh, nhứt là loài
người, nên đức Phật mới thị hiện ở nơi loài người để
tiện bề giáo hóa họ. Kỳ thật, thì đức Phật đã thành Phật
từ vô lượng kiếp rồi. Vì Bắc Tông quan niệm rằng, mỗi
chúng sanh đều có Phật tánh hay pháp thân, mà pháp
thân thì lặng lẽ, không sanh, không diệt, trùm khắp cả
pháp giới. Bởi thế, nên không nơi nào, xứ nào mà
chẳng có Phật. Cái thân Phật thị hiện người Ấn Độ, chỉ
là trong một giai đoạn tạm thời trong muôn triệu giai
đoạn, một hóa thân trong muôn triệu hóa thân.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
36
Qua đó, thì đức Phật Thích Ca không hẳn là người Ấn
Độ mà là người của tất cả chúng sanh. Vì tùy duyên
ứng hiện hay hữu cảm tất ứng, nên người nước nào
tưởng nhớ Phật, thì Phật hiện người nước đó để giáo
hóa. Những vị Phật khác cũng thế, các Ngài hỗ tương
để hóa độ chúng sanh và đồng thời giới thiệu công
hạnh cho nhau.
Như đức Phật Thích Ca giới thiệu nhân địa và công
hạnh của đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc,
cho chúng sanh cõi nầy được biết, để niệm danh hiệu
Ngài mà cầu sanh về cõi đó. Đến chư Bồ tát cũng thế,
các Ngài thị hiện khắp các cõi. Bất cứ nơi nào có chúng
sanh đau khổ, khẩn cầu cứu độ, thì các Ngài thị hiện để
cứu khổ. Đó là bản hoài của các vị Bồ tát, dù ở cõi Ta
bà nầy hay ở những quốc độ khác, như Bồ tát Quán
Thế Âm chẳng hạn.
Đồng thời, các vị Bồ tát cũng trợ lực cùng với chư Phật
để độ sanh, mỗi vị đều có những công hạnh thù thắng
đặc biệt. Bởi do quan niệm như thế, nên chúng ta thấy
các nước Phật giáo theo hệ phái phát triển (Đại thừa),
mỗi quốc gia đều tạc hoặc tô vẽ hay đúc hình tượng
Phật Thích Ca, đều có những nét giống người của họ;
vì như thế mới thực sự là Phật giáo của họ, vì mỗi
người đều có ông Phật của riêng mình. Và như thế, mới
thực sự thân thiết gần gũi, dễ cảm hóa. Đây cũng là
một sắc thái văn hóa đặc thù. Vì vậy, nên các chùa Phật
giáo Bắc Tông đều tôn thờ nhiều vị Phật và nhiều vị Bồ
tát.
14. Ý nghĩa tràng hạt.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
37
Hỏi: Là một phật tử tu theo pháp môn niệm Phật, con
thường lần tràng hạt để niệm Phật. Tuy nhiên, thú thật
là con chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó như thế nào. Tại
sao phải xâu kết làm 108 hạt, mà không phải là 107
hay 109? Như vậy, 108 có ý nghĩa gì? Và tại sao khi
niệm Phật, tay cần phải lần chuỗi? Nó có công dụng gì
cho việc diệt trừ phiền não không?
Đáp: Tràng hạt là một phương tiện trong muôn ngàn
phương tiện khác. Trong Phật giáo có vô số phương
tiện. Mọi hình thức pháp khí hay vật thể đều là những
phương tiện. Tuy nhiên, không phải vô cớ mà người ta
bày ra. Dĩ nhiên, mỗi một hình thức của một vật thể
đều có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt của nó.
Thí dụ như cái mõ, cái chuông, cái trống v.v… Điều
quan trọng cần nêu ra là: Nương phương tiện để đạt
cứu cánh, tức như nhờ nôm mà bắt được cá, nhờ ná mà
bắn được chim. Nếu nói theo cung cách ngôn ngữ của
nhà Thiền thì “kiến sắc minh tâm”. Nói cách khác là:
“nương sự để hiển lý, sự lý phải viên dung”. Đó là cái
chủ đích chính yếu mà Phật giáo nhắm tới và đó cũng
là thái độ khôn khéo của người tu học Phật.
- Câu hỏi thứ nhứt là tại sao người ta xâu chuỗi kết
108 hạt mà không phải 107 hay 109 ?
Xin thưa: sở dĩ có con số 108, là vì người ta đem 6
căn, 6 trần và 6 thức cộng lại, thành ra thập bát giới
(18) rồi nhân cho 6 món căn bản phiền não (tham, sân,
si, mạn, nghi, ác kiến) thành ra có con số là 108 (18 x 6
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
38
= 108). Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin được giải
thích thêm một chút về con số 108 tượng trưng nầy.
Như chúng ta đều biết, trong khế kinh Phật có dạy, sở
dĩ chúng sanh cứ trôi lăn mãi trong vòng sanh tử luân
hồi, gốc từ ở nơi vô minh. Mà vô minh có ra, gốc từ ở
nơi căn, trần và thức. Thường gọi chung là Thập bát
giới.
Ba thứ nầy, nếu xét kỹ, thì chúng ta thấy, lỗi là ở nơi
căn và thức, chớ trần (6 trần cảnh: sắc, thinh, hương,
vị, xúc, pháp) không có lỗi gì cả, vì chúng chỉ là đối
tượng nhận thức của căn và thức mà thôi. Khi căn (tức
6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) tiếp xúc với trần (6
trần nói trên) khởi thức (6 thức nói trên) phân biệt. Khi
ý thức phân biệt lại cộng thêm 6 món căn bản phiền
não vào. Nói rõ hơn là 6 món căn bản phiền não nói
trên, chúng hợp tác cùng chung làm việc với Ý thức
một cách rất chặt chẽ, đắc lực, nên mới có phân biệt tốt
xấu, rồi sanh tâm yêu ghét. Cái niệm yêu ghét phát
sanh là gốc từ ở nơi: tham, sân, si. Đây là đầu mối của
vô minh phiền não (vọng tưởng) .
Từ đó, mới tạo nghiệp để thọ khổ. Nếu nói một cách
nghiêm khắc và ngắn gọn hơn nữa, thì như kinh Lăng
Nghiêm, Phật có nêu ra: “luân hồi hay giải thoát, gốc
từ ở nơi 6 căn mà ra”. Như vậy, cho chúng ta thấy
rằng, ba thứ nầy tối hệ trọng mà mỗi hành giả cần phải
thẩm sát thật kỹ để đoạn trừ phiền não. Mà muốn đoạn
trừ phiền não, thì hành giả cần phải có phương tiện,
hay một pháp môn hành trì. Đối với người tu tịnh
nghiệp, thì Phật Tổ đều dạy cần phải niệm Phật. Mà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
39
pháp môn niệm Phật, để đi đến nhứt tâm, thì bước đầu
cần phải có phương tiện để cột tâm. Phương tiện đó,
ngoài câu niệm Phật ra, còn cần phải có thêm tràng hạt
để lần từng hạt theo mỗi câu hiệu Phật làm chuẩn cứ
trong khi niệm Phật công cứ vậy.
- Đến câu hỏi thứ hai, tại sao khi niệm Phật, tay phải
lần chuỗi?
- Xin thưa rằng: không phải nhứt thiết ai niệm Phật
cũng lần chuỗi cả. Điều nầy, còn tùy theo căn tánh và
thói quen của mỗi người. Tuy nhiên, đối với những liên
hữu nào đã phát nguyện niệm Phật công cứ, theo lời
chư Tổ Liên tông đã chỉ dạy, thì cần nên lần chuỗi để
tiện bề đếm số đúng như lời mình đã phát nguyện. Bởi
vì đối với những người sơ cơ, nhiều nghiệp chướng
như chúng ta, tâm chưa thuần nhứt, còn dẫy đầy vọng
tưởng tạp loạn, thì tốt hơn hết nên dùng phương tiện
tay lần chuỗi, để khi niệm Phật dễ cột tâm hơn, như
trên đã nói. Hơn nữa, chúng ta cũng thường nghe nói,
người tu tịnh nghiệp, thì tam nghiệp (thân, khẩu, ý) cần
phải giữ thanh tịnh. Tay lần chuỗi thuộc về thân
nghiệp, miệng niệm Phật thuộc về khẩu nghiệp, ý
chuyên chú vào câu hiệu Phật không rời ra, thuộc về ý
nghiệp. Rồi cũng trong kinh nói:“Tam nghiệp hằng
thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Như vậy, tay
lần chuỗi cũng là mục đích để ghi nhớ mỗi một hạt
chuỗi là niệm một câu hiệu Phật, đồng thời cũng là để
ghi nhớ số không lộn lạo vậy.
- Đến câu hỏi thứ ba, nó có công dụng gì cho việc diệt
trừ phiền não không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
40
Xin thưa: đương nhiên là có. Như trên đã nói, công
dụng của nó chỉ là một phương tiện như muôn ngàn
phương tiện khác. Người ta dùng nó để niệm Phật. Nhờ
lần chuỗi ghi số câu mà tâm ít tán loạn hơn. Tuy nhiên,
điểm căn bản để diệt trừ phiền não, chính là ở nơi cái
tâm. Người niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm lăng xăng,
nghĩ xằng, tính bậy, chạy đông, chạy tây, thì đó chỉ là
miệng niệm cho có niệm, chứ không thể nào kết quả
định tâm được.
Mục đích chính của việc niệm Phật là để được định
tâm. Vì niệm Phật là nhớ Phật, đằng nầy Phật không
nhớ, mà nhớ những chuyện tào lao khác, niệm như thế,
thì đâu có đúng ý nghĩa niệm Phật. Thế nên, muốn sớm
mau hết phiền não, thì hành giả phải giữ tâm và tiếng
cho hợp nhất và phải thường xuyên khắn khít nhau,
đồng thời niệm câu hiệu Phật phải thật cho rành rõ.
Trong quyển sách Hạ Thủ Công Phu niệm Phật, Đại
lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh có khuyến nhắc người
niệm Phật bằng một bài kệ như sau:
Nam mô A Di Đà!
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn nhau
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là định học
Nhận rõ chính huệ học
Chánh niệm trừ vọng hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
41
Nhứt tâm Phật hiện tiền
Tam muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam Mô A Di Đà!
Nam Mô A Di Đà!
Cố gắng hết sức mình
Cầu đài sen thượng Phẩm.
15. Ý nghĩa bánh xe chuyển pháp luân.
Hỏi: Nhìn phù hiệu bánh xe có 12 căm, có người nói,
đó là bánh xe luân hồi. Họ giải thích 12 căm là tượng
trưng cho Thập nhị nhân duyên. Có người lại nói, đó là
bánh xe Chuyển pháp luân. Xin hỏi: Qua 2 điều nói
trên, không biết điều nào đúng ?
Đáp: Nếu bảo điều nào đúng, thì chúng tôi xin được
thưa ngay: người nói bánh xe có 12 căm, tượng trưng
cho bánh xe luân hồi là đúng. Lý do tại sao? Tại vì giáo
lý 12 nhân duyên từ “Vô minh đến Lão tử” là một
chuỗi xích, một vòng lẩn quẩn mà chúng sanh bị trói
buộc mãi trong “Tam giới lục đạo”. Muốn thoát khỏi
hay cắt đứt chuỗi xích trói buộc nầy, thì mỗi người cần
phải đoạn trừ vô minh, vì nó là tên thủ phạm chính gây
ra đau khổ. Do đó, người ta dùng hình ảnh bánh xe có
12 căm để nói lên cái ý nghĩa luân hồi mà con người cứ
mãi trầm luân thọ khổ.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
42
Còn bánh xe chuyễn pháp luân, thì người ta làm bánh
xe có 8 căm để tượng trưng. Con số 8 là tượng trưng
cho Bát chánh đạo. Bát chánh đạo gồm có: Chánh kiến,
Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Vì
trong Tứ diệu đế ( Khổ, Tập, Diệt, Đạo), thì Bát chánh
đạo thuộc về Đạo đế. Đạo đế gồm có 37 phần hay
phẩm, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy
phẩm trợ đạo gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ
như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần và Bát
chánh đạo phần. Trong 37 phẩm trợ đạo nầy, thì Bát
chánh đạo là quan trọng hơn cả. Vì đó là tám con
đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ giải thoát. Nói
cách khác, đó là 8 phương pháp diệt khổ để đạt được
Niết bàn an lạc ( Diệt đế ). Do đó, để nhắc nhở mọi
người luôn nhớ đến tám con đường quan trọng nầy, nên
người ta dùng bánh xe có 8 căm để biểu trưng cho ý
nghĩa chuyển pháp luân vậy.
16. Chư thiên thỉnh Phật thuyết pháp.
Hỏi: Ai cũng biết, Đức Phật vì lòng từ bi, nên Ngài
mới thị hiện ra đời để hóa độ chúng sanh. Đã thế, thì lẽ
ra, sau khi Ngài chứng quả đạt đạo rồi, phải đi thuyết
pháp hoằng hóa độ sanh ngay, chớ tại sao lúc đầu
Ngài có ý là muốn nhập diệt, rồi phải chờ đợi chư
Thiên cung thỉnh Ngài, bấy giờ Ngài mới chiều theo ý
chư Thiên mà đi hoằng hóa. Xin hỏi: Như thế, thì có
trái với bản nguyện hay bản hoài ban đầu của Ngài khi
ra đời không ?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
43
Đáp: Xin thưa, không có gì là chống trái cả. Đọc lịch
sử đức Phật, chúng ta đều biết, sau khi đắc đạo dưới cội
bồ đề, hẳn nhiên, lúc đầu, Ngài có ý định nhập diệt. Lý
do tại sao? Bởi vì, cái chân lý mà Ngài mới thâm
chứng, nó quá cao siêu. Trong khi đó, căn cơ của chúng
sanh thì quá nông cạn, nên khó có thể lãnh hội. Cho
nên, lúc đầu, đức Phật có khởi ý muốn nhập Niết bàn.
Điều nầy, nếu xét kỹ, chúng ta thấy rất hợp lý. Hợp lý
ở chỗ, cái mà đức Phật muốn đem ra chỉ bày cho chúng
sanh, thì nó quá siêu việt vượt hơn trí năng thường tình
của con người. Nếu nói ra, chắc gì họ hiểu được.
Chẳng những không hiểu thôi mà họ còn kích bác
chống lại, thì đó là một điều thật tai hại vô cùng.
Thí dụ một người vừa mới tốt nghiệp tiến sĩ, có thể
nào ông ta đứng trước giữa một đám người mà trình độ
học vấn của họ chưa xong lớp tiểu học, để thuyết giảng
cái đề tài luận án tiến sĩ mà ông ta mới vừa đạt được
không? Ông ta biết chắc rằng, họ không thể nào nghe
mà lãnh hội được. Do đó, ông ta không thể nào đứng ra
thuyết giảng. Dẫu ông có thuyết giảng, người nghe
không hiểu, họ sẽ sanh tâm chê bai khinh thường và tệ
hơn nữa là họ sẽ chống đối kích bác. Như thế, nếu
không khéo ông sẽ là người có tội. Vì chính ông gây ra
cho người ta có niệm khinh chê. Dù rằng, trong lòng
ông ta rất thương xót những người đó.
Đức Phật cũng thế. Lúc đầu, Ngài cảm thấy rất khó
khăn trong sự du thuyết hóa độ.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
44
Điểm thứ hai, một chân lý cao siêu như thế, không thể
tự nhiên Phật rao bày thuyết giảng. Bởi chung quanh
Ngài toàn là ngoại đạo. Hơn nữa, nếu Ngài nói liền, e
rằng, người ta có ý khinh thường. Cái gì người ta khao
khát mong muốn, thì điều mình nói mới có giá trị. Thế
nên, phải có người cung thỉnh, Phật mới thuyết giảng.
Đây là một khía cạnh tâm lý rất độc đáo, mà ta cần phải
học. Vào tai ra miệng, không khéo trở thành khua môi
múa mép. Vì thế, sự cung thỉnh của các vị Phạm thiên
thật đúng thời và hợp lý.
Nhờ vào sự cung thỉnh của các vị đó, bấy giờ đức Phật
mới nghĩ đến phương cách giáo hóa. Đồng thời, Ngài
quán sát căn cơ để rồi Ngài sẽ theo thứ lớp mà hóa độ.
Những ai hữu duyên, thì Ngài độ họ trước. Và cuối
cùng, Ngài không bỏ sót một ai. Ngài chuyển hóa tất
cả, không một giai cấp nào mà Ngài không độ họ. Như
thế, lòng từ bi của Ngài thật quá tràn trề. Vì đó là bản
hoài của Ngài ra đời. Một bản hoài như trong Kinh
Pháp Hoa đã nói: Khai « tri kiến Phật » cho tất cả
chúng sanh. Và mục đích tối hậu của đức Phật là mong
muốn mọi người đều thể nhập Tri kiến Phật đó.
17. Vấn Đề Quỷ Thần.
Hỏi: Đạo Phật là đạo giác ngộ. Mọi sự mê tín không
bao giờ đạo Phật chấp nhận. Thế thì xin hỏi: Tại sao
chúng tôi thấy rãi rác trong các kinh lại có nêu ra các
vị Thần, như Thiên Thần, lâm Thần, thọ Thần, Quỷ,
Thần v.v... điều nầy, có ý nghĩa gì ? Có phải Phật giáo
cũng tin có Quỷ, Thần mơ hồ hay không? Và có phải
Phật giáo cũng tin tưởng vào đa Thần giáo không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
45
Đáp: Xin thưa, Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp
nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin
nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được
điều động bởi lý trí. Phật giáo cũng không chủ trương
lấy việc cúng tế Quỷ, Thần như là một điều van xin cầu
khẩn để được các vị Thần linh ban phước, giải khổ.
Tuy nhiên, theo quan niệm của Phật giáo, thì giữa vũ
trụ bao la, thế giới vô lượng, và lẽ dĩ nhiên có vô số
chúng sanh xuất hiện dưới mọi hình thức tùy theo
nghiệp quả của mỗi loài mà có ra thiên hình vạn trạng
sai biệt. Sự sai biệt đó, theo kinh điển của Phật giáo
cho chúng ta biết, thì tùy theo nghiệp nhân của mỗi loài
đã tạo, nên quả báo thọ thân chẳng đồng.
Như có loài sống ở dưới nước, như tôm, cá v.v... Có
loài ở trên không, như chư Thiên... Có loài sống trên
đất liền, như loài người và các loài động vật, thực vật
khác. Như thế, Quỷ, Thần cũng là một loại chúng sanh
như vô số chúng sanh khác. Vì vậy mà rãi rác trong các
kinh điển của Phật giáo, tiêu biểu như Kinh Địa Tạng
chẳng hạn, trong đó, Phật nêu ra có nhiều loại Quỷ,
Thần. Nhưng nêu ra như thế, để nói lên nghiệp cảm sai
biệt của mỗi chúng sanh trong thế giới lục đạo luân hồi,
chớ không phải Phật nêu ra như thế là có ý chấp nhận
Quỷ, Thần có quyền ban phước giáng họa, để rồi Phật
khuyên mọi người nên tin tưởng cúng bái Quỷ, Thần .
Điều nầy là một điều tối kỵ trong Phật giáo. Kinh Phật
còn cho chúng ta biết thêm về thế giới quan, có chúng
sanh hữu tình, có loài chúng sanh vô tình, có loài hữu
hình hữu tướng, có loài vô hình vô tướng vân vân và
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
46
vân vân. Tất cả đều tùy theo căn thức và nghiệp cảm
mà có ra vô số sai khác. Như thế, thì không có một
chúng sanh nào cai quản chúng sanh nào, ngoại trừ sự
hỗ tương sinh thành theo luật nhân duyên nhân quả.
Do đó, Đức Phật không bao giờ khuyên dạy bất cứ ai
cầu xin nơi Quỷ, Thần, vì Quỷ, Thần vẫn còn là một
chúng sanh cũng vẫn đang chịu khổ như bao nhiêu
chúng sanh khác, chưa biết bao giờ thoát khỏi, nếu như
Quỷ, Thần đó không biết hồi tâm chuyển ý lo tu niệm.
Tóm lại, theo giáo lý của Phật giáo, Phật giáo có nói
đến các loại Quỷ, Thần, như là một chúng sanh bị
nghiệp cảm thọ báo mang hình hài nghiệp thức trong
loài đó, chớ Phật giáo không chấp nhận quyền năng của
bất cứ vị Thần sáng tạo nào, dù là nhất Thần, hay đa
Thần cũng thế.
Hơn thế nữa, Đức Phật chưa bao giờ khuyên đệ tử của
Ngài tin tưởng vào Thần quyền. Và cũng không bao
giờ chấp nhận cho đệ tử của Ngài cúng bái, cầu khẩn
van xin điều nầy việc nọ với Quỷ, Thần. Nếu là đệ tử
của Phật, đã quy y theo Phật giáo, thì trong 3 điều quy
y có một điều Phật răn cấm là không được quy y với
Thiên, Thần, Quỷ, Vật. Ngay cả như chư Thiên, người
phật tử cũng không được nương tựa. Lý do tại sao? Xin
thưa, vì các vị trời cũng vẫn là một chúng sanh, nói rõ
hơn, họ với ta sánh vế thì ngang nhau, vì ta cùng họ
đều là đệ tử của Đức Phật. Tất nhiên là huynh đệ với
nhau. Chẳng qua là họ hơn ta ở chỗ thọ dụng phước
báo mà thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
47
Nhưng có một điều họ thua ta là không gặp Phật pháp
để tu. Một khi họ hưởng hết phước báo rồi, họ cũng
phải trở lại nhơn gian để bắt đầu tu lại. Như thế luận
cho cùng cũng chưa biết ai hơn ai? Nói thế, để thấy các
vị trời hơn phước ta một bậc, thế mà Phật còn cấm
người phật tử không được nương theo họ, hà tất gì đối
với các loại Quỷ, Thần là những vị kém phước báo hơn
chư Thiên, thế mà ta lại tin tưởng quy y với họ sao?
Tin tưởng như thế, thì chỉ chuốc lấy thêm tai hại cho ta
mà thôi, vì chính mình đã đi ngược lại với giáo lý nhân
quả Phật dạy, và gởi gắm thân phận mình ở một nơi mơ
hồ mông lung nào đó, mà quên đi hạnh phúc hay khổ
đau, tất cả đều do chính mình định đoạt lấy đời mình.
18. Sự khác biệt giữa Phật Đản và Phật Lịch.
Hỏi: Giữa Phật Lịch và Phật Đản khác nhau như thế
nào ?
Đáp: Hai danh từ nầy khác nhau rất xa. Phật Lịch là
nói Phật nhập Niết Bàn. Còn nói Phật Đản là chỉ cho
Phật ra đời. Căn cứ theo lịch sử, thì kể từ khi Phật ra
đời cho đến khi Phật Nhập Diệt là 80 năm, tức ứng
thân Phật sống được 80 tuổi. Do đó, nên mới có con số
khác biệt giữa Phật Đản và Phật Lịch.
Nói Phật Đản là người ta tính thời gian từ lúc Phật ra
đời cho đến nay (2007) là 2631 năm. Lý do tại sao có
ra con số 2631 nầy ? Bởi vì Phật ra đời trước Tây Lịch
624 năm (Theo tài liệu Phật Học Phổ Thông Khóa thứ
nhứt, Bài thứ 2 nói về Lược Sử Phật Thích Ca Mâu Ni,
do cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn) .
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
48
Năm nay tính theo Tây Lịch là 2007 Đem con số 2007
nầy cộng với 624 thành ra là 2631 (2007 + 624 =
2631). Còn Phật Lịch, thì người ta đem con số 624
(trước Tây Lịch) trừ đi 80 năm Phật tại thế, thành ra
còn lại là 544 năm, rồi đem con số 544 cộng với 2007
thành ra là 2551. (624 - 80 = 544 + 2007 = 2551 ) Như
vậy tính theo năm nay là 2007, thì Phật Lịch là 2551
năm. Còn Phật Đản là 2631 năm.
19. Ý nghĩa những từ ngữ diễn tả Phật ra đời.
Hỏi: Cùng là nói lên ý nghĩa Phật ra đời, tiếng Anh chỉ
dùng một từ là Buddha Birthday, trong khi đó thì tiếng
Việt của chúng ta lại dùng nhiều từ ngữ diễn tả quá,
nào là đản sanh, giáng sanh, thị hiện, xuất thế, lâm
phàm, giáng trần v.v...Vậy xin hỏi: ý nghĩa của mỗi từ
ngữ nầy như thế nào? Và nó có giống nhau hay là
khác nhau?
Đáp: Qua câu hỏi nầy cho chúng ta thấy rằng, ngôn từ
của tiếng Việt ta rất là phong phú. Cùng một vấn đề,
nhưng lại có rất nhiều từ ngữ để diễn tả. Không phải
như tiếng Anh chỉ có một từ ngữ để diễn tả thôi. Thế
thì, ta phải hãnh diện về ngôn từ của ta rất là giàu có về
từ ngữ chớ không phải nghèo nàn.
Những từ ngữ diễn tả trên, về danh từ tuy có khác,
nhưng về ý nghĩa của mỗi từ ngữ thì không có khác
mấy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
49
Danh từ « đản sanh » là nói lên ý nghĩa sự ra đời của
Đức Phật nhằm đem lại cho muôn loài (trong đó loài
người là quan trọng nhứt) một niềm vui hân hoan xán
lạn, và đồng thời cũng là để tô điểm cho cõi đời nầy
thêm nhiều hương hoa tươi đẹp.
Còn chữ « giáng sanh » hàm có nghĩa là Đức Phật từ
một nơi cao xa mà xuống một chỗ thấp để sanh ra. Chữ
« thị hiện », ý nói rằng, Đức Phật tu hành đã thành Phật
trải qua nhiều đời nhiều kiếp rồi, nay vì muốn hóa độ
chúng sanh ở cõi Ta bà nầy, nên Ngài giả đò hiện ra cái
thân hình bằng xương bằng thịt như bao nhiêu con
người trần tục khác, (Nhưng có điều khác là thân Ngài
có 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp) để cho Ngài dễ bề cảm
hóa chúng sanh mà thôi. Nên trong kinh thường gọi cái
thân Phật thị hiện là ứng thân, tức là một trong 3 thân
Phật vậy.
Danh từ « xuất thế » có nghĩa là ra đời. Chỉ cho Đức
Phật vì thương xót chúng sanh đang trầm luân trong
biển ái vô minh nghiệp thức tràn đầy khổ lụy, nên Ngài
xuất hiện ở thế gian nầy để cứu độ họ chóng được giải
thoát.
Còn chữ « lâm phàm »: lâm là đến, phàm là chỉ cho cõi
đời ngũ trược ác thế nầy. Nghĩa là ý nói rằng, vì chúng
sanh đang lăn lộn trong cõi đời trược ác nầy, nên Đức
Phật thương xót mà đến cõi nầy để độ họ. Chữ « giáng
trần » cũng đồng nghĩa như giáng thế hay giáng sanh.
Tóm lại, những từ ngữ mà chúng tôi tạm giải thích khái
lược qua, chúng ta thấy rằng, mỗi từ ngữ nó đều có
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
50
mang một ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy phạm vi ý
nghĩa rộng hẹp có khác, nhưng tựu trung cũng đều nói
lên ý nghĩa chỉ cho Đức Phật ra đời để hóa độ chúng
sanh. Hiện nay, danh từ Phật Đản là một danh từ rất
được thông dụng phổ cập trên thế giới, hầu hết mọi
người đều hay nói đến.
20. Sự khác biệt giữa cúng dường Tam Bảo Và
Trai Tăng.
Hỏi: Sự phát tâm cúng dường Tam Bảo và cúng dường
Trai Tăng giống nhau và khác nhau như thế nào ?
Đáp: Xét chung, trên căn bản hay động cơ chính yếu
của sự phát tâm thì có phần nào giống nhau. Vì cả hai
đều có tấm lòng tốt và cả hai đều muốn gây tạo phước
duyên với Tam Bảo. Như vậy là giống nhau trên căn
bản phát tâm lành.
Tuy nhiên, nếu xét vi tế hơn, thì đôi khi cũng không
giống nhau hẳn. Lý do tại sao? Bởi vì sự phát tâm nầy
còn tùy theo tâm địa khởi phát của mỗi người rộng hẹp
khác nhau, tức là cái chánh nhân gây tạo bất đồng, và
lẽ đương nhiên khi kết quả cũng bất đồng. Bất đồng ở
điểm nào? Nếu khi phát tâm cúng dường mà tâm ta
phát khởi rộng lớn, vì lợi ích chúng sanh, muốn cho
Tam Bảo mãi mãi được trường tồn trên thế gian, để
mọi người biết đến mà tu tạo phước đức, được an vui
giải thoát. Phát tâm như vậy, gọi là phát tâm rộng lớn.
Và khi kết quả phước báo cũng rộng lớn.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
51
Ngược lại, nếu khi cúng dường mà ta chỉ mong cầu chư
Phật, Bồ tát gia hộ độ trì cho bản thân mình hoặc cho
gia đình mình được bình an. Đồng thời được mua may
bán đắt, nhà cửa giàu sang, con cái thành tài đỗ đạt,
mọi sự đều được hanh thông như ý muốn, người phát
tâm cúng dường như vậy, gọi là phát tâm nhỏ hẹp,
cộng thêm có lòng tham muốn quá ích kỷ, chỉ nghĩ
riêng cho mình và gia đình mình thôi.
Do sự phát tâm ích kỷ nhỏ hẹp đó, kết quả cái phước
báo cũng rất là nhỏ hẹp. Đó là điểm khác biệt vi tế ở
nơi cái nhân khi phát tâm cúng dường. Đó là nói giống
nhau và khác nhau ở nơi tâm niệm cũng như giống
nhau và khác nhau ở nơi mục đích đạt được.
Còn nếu xét trên hình thức, thì giữa cúng dường Tam
Bảo và cúng dường Trai Tăng rất khác nhau. Khác
nhau như thế nào? Xin thưa, nói Tam Bảo gồm có Phật,
Pháp và Tăng.
Cúng dường Phật Bảo là như thế nào? Về Phật, thì tuy
rằng Đức Phật không còn tại thế, nhưng để tưởng nhớ
công ơn lớn lao mà Đức Phật đã giáo hóa chúng sanh,
nên người ta tạc tạo hoặc chạm đúc những hình tượng
để tôn thờ. Do đó, nên người Phật tử phát tâm ủng hộ
tịnh tài để thỉnh tượng Phật thờ phụng trong các chùa,
hoặc xuất tiền thỉnh tượng Phật về thờ ở nhà v.v... đều
được gọi là cúng dường Phật Bảo.
Cúng dường Pháp Bảo là như thế nào? Vì muốn cho
chánh giáo của Phật mãi được lưu truyền sâu rộng trên
thế gian, nên người phật tử cùng nhau góp tiền lại để in
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
52
kinh ấn tống cho mọi người cùng tụng đọc, hiểu đạo
mà tu hành, thì đó gọi là hùng phước cúng dường Pháp
Bảo.
Cúng dường Tăng Bảo là sao? Nếu Phật, Pháp đã có
mà không có chư Tăng, Ni những bậc tu hành chơn
chánh, để thay Phật hoằng truyền thuyết giảng giáo
pháp của Phật, thì người phật tử tại gia cũng không thể
nào am hiểu được để ứng dụng tu hành.
Thế nên, người phật tử cần phải tu tạo phương tiện
bằng cách Tứ sự cúng dường (y phục, sàng tòa, thực
phẩm và y dược) để cho chư Tăng Ni có thêm chút ít
phương tiện tu hành cũng như trong việc hoằng hóa.
Đó gọi là cúng dường Tăng Bảo.
Nói tóm lại, đây là cúng dường Thế Gian Trụ Trì Tam
Bảo. Còn cúng dường Trai Tăng, chỉ trong phạm vi nhỏ
hẹp. Đây là người Phật tử noi theo tấm gương hiếu
hạnh của Tôn Giả Mục Kiền Liên, thiết lễ Trai tăng
cúng dường để cầu siêu độ cho mẫu thân của Ngài.
Buổi lễ Trai tăng nầy, được các chùa thực hiện vào
ngày rằm tháng 7 âm lịch hằng năm, sau khi chư Tăng
Ni làm lễ Tự Tứ mãn hạ. Từ đó, mới có lễ Trai tăng
truyền thống nầy. Do cớ đó, nên người Phật tử mỗi khi
trong thân quyến của họ có người thân qua đời, (thông
thường đến 49 ngày cúng chung thất), thì họ thường
hay thiết lễ Trai tăng ở trong chùa hoặc ở tại nhà
(thường là tổ chức Trai tăng ở chùa nhiều hơn, vì có
nhiều tiện lợi) để cầu siêu độ cho người quá cố. Như
vậy, buổi lễ nầy, những phẩm vật mà người phật tử
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
53
dâng lên cúng dường chỉ riêng chư Tăng Ni hiện tiền
được quyền hưởng dụng. Nói rõ ra, những tài vật nầy là
thuộc quyền sở hữu cá nhân của những vị có mặt trong
buổi lễ Trai tăng đó thôi.
Điều nầy, không có liên hệ gì đến phần cúng dường
Tam Bảo như đã nói ở trên. Phần trên là phần chung,
thập phương tăng đều có quyền hưởng dụng. Còn phần
nầy là phần riêng của mỗi người. Mặc dù trong Tam
Bảo có cúng dường tăng, nhưng đây cũng là của chung
của Tam Bảo mà chư Tăng Ni không có quyền xử dụng
tài vật đó cho riêng mình, ngoại trừ Phật tử ủng hộ
riêng thì được. Đó là điểm khác biệt giữa cúng dường
Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng đại khái là như thế.
21. Người tăng sĩ lấy họ Thích từ lúc nào?
Hỏi: Tại Việt Nam, tất cả tu sĩ Phật giáo không phân
biệt nam nữ đều lấy họ Thích. Xin cho biết truyền
thống nầy chỉ có ở Việt Nam hay còn được áp dụng tại
một vài quốc gia khác nữa? Ngoài ra, cũng xin cho biết
truyền thống nầy phát xuất từ nguyên do nào và từ
khoảng nào trong lịch sử?
Đáp: Về câu hỏi thứ nhứt, xin được giải đáp qua 2
phương diện :
Thứ nhứt, xét chung, trên nguyên tắc, thì không riêng
gì tu sĩ Phật giáo Việt Nam, mà tất cả tu sĩ Phật giáo
khắp nơi trên thế giới, đều mang chung họ Thích cả. Vì
Đức Phật là họ Thích. Những vị nầy được mệnh danh
là con đầu lòng của chánh pháp; là trưởng nam của lịch
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
54
sử truyền thừa, là con của đấng Điều Ngự, thì lẽ đương
nhiên là các ngài phải lấy họ Thích rồi. Xét chung trên
nguyên tắc là như thế.
Thứ hai, nếu xét riêng, thì có khác. Vì việc lấy họ
Thích, không phải là một quy luật chung áp dụng cho
tất cả. Vấn đề nầy, còn tùy theo đặc tính và sở thích của
mỗi người. Không phải ai cũng đặt cho mình là họ
Thích cả, ít ra là về cách xưng hô cũng như trên những
văn kiện giấy tờ. Đối với những tu sĩ Phật giáo Việt
Nam, có rất nhiều vị, kể từ khi xuất gia cho đến khi
viên tịch, các Ngài không bao giờ lấy chữ Thích.
Không những thế, có vị còn để ngay tên đời của mình
trên những kinh sách đã trước tác cũng như dịch thuật.
Trường hợp như cố Đại Lão Hòa Thượng Hành Trụ,
Ngài thường để là Sa Môn Lê Phước Bình. Còn nhiều
vị khác nữa. Chỉ nêu đơn cử thế thôi. Có nhiều vị chỉ
để pháp danh hay pháp hiệu mà thầy tổ đã đặt cho,
hoặc là lấy bút hiệu gì đó v.v... chớ các Ngài không tự
xưng mình là Thích. Đôi khi có người lại thích chơi
chữ hay mỉa mai châm biếm, họ nói là Thích Đô La
chẳng hạn...
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy sử ghi lại
các bậc cao tăng thạc đức thời xưa, hầu hết các Ngài
không bao giờ để họ Thích trước pháp danh hay pháp
hiệu của các Ngài. Như Vạn Hạnh, thì để là Vạn Hạnh,
còn hai chữ Thiền sư do người ta tôn xưng Ngài, vì
Ngài tu thiền đạt ngộ được lý Thiền, nên người ta gọi
Ngài là Thiền sư. Chỉ có thế thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
55
Riêng về các quốc gia khác, theo chỗ chúng tôi được
biết qua một số tài liệu sách báo, thì chúng tôi không
thấy họ để chữ Thích (Sàkya) bao giờ. Ngoại trừ Phật
Giáo Trung Hoa và Đài Loan, hiện nay thì có một số vị
lấy họ Thích. Nhưng phần nhiều chúng tôi thấy họ
thường để 2 chữ Pháp sư ở đầu. Như Pháp Sư Tịnh
Không chẳng hạn.
Về câu hỏi thứ hai, nguyên nhân và thời điểm nào lấy
họ Thích? Xin thưa: Về vấn đề nầy, trong quyển Từ
Điển Phật Học Hán Việt có nêu rõ như sau: “Đạo Phật
hồi mới truyền sang Trung Quốc, các tăng còn được
gọi bằng họ thế tục của mình, hoặc lấy họ Trúc, hoặc
lấy họ của bậc sư phụ, như ngài Chi Độn vốn họ Quan,
vì sư phụ là ngài Chi Khiêm, nên lấy họ là Chi. Ngài
Bạch Đạo Du vốn họ Phùng, học với ngài Bạch thi lê
mật đa, nên lấy họ Bạch.
Đến ngài Đạo An, một cao Tăng Trung Hoa đời Đông
Tấn (312 - 385) tức thế kỷ thứ tư Tây Lịch, mới bắt đầu
nói: Đức Phật có họ là Thích Ca, nay những người xuất
gia nên theo họ của Phật, tức họ Thích. Về sau khi
Kinh A Hàm được đem về, trong Kinh cũng nói như
vậy. Do đó khắp thiên hạ đều theo. Trong quyển Dị Cư
Lục 22 có chép: “Sa môn từ thời Ngụy Tấn lấy họ theo
của thầy dạy. Ngài Đạo An suy tôn Đức Thích Ca, bèn
lấy chữ Thích làm họ. Sau lại thấy A Hàm nói: Bốn con
sông nhập vào bể, không còn có tên của con sông. Bốn
họ Sa môn, đều dòng họ Thích. Từ đấy trở thành lệ cố
định, các Sa môn bắt đầu lấy họ Thích.”
22. Sự khác biệt giữa Tứ Đại Và Thất Đại .
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
56
Hỏi: Ý nghĩa Tứ đại và Thất đại khác nhau như thế
nào?
Đáp: Tứ đại và thất đại đương nhiên là có sự khác biệt.
Tứ đại là nói theo kinh điển của hệ Phật Giáo Nguyên
Thủy (Tiểu Thừa) ý nghĩa của nó hạn hẹp. Còn nói thất
đại là nói theo hệ Phật Giáo phát triển (Đại Thừa). Ý
nghĩa của nó rộng hơn.
Tứ đại gồm có: đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố nầy kết
hợp lại chỉ tạo nên một vật thể mà thôi. Đất là chất
cứng, tức ở thể đông đặc. Nước là chất trơn, tức ở thể
lỏng. Gió là chất động, tức ở thể hơi (biến dịch). Lửa là
chất nóng, tức ở thể ấm. Lẽ ra phải thêm vào một đại
nữa đó là không đại. Vì bất cứ vật thể nào, nó cũng cần
có những lỗ trống để thở mới sinh tồn được. Như thân
người cần phải có những lỗ trống, thì máu huyết mới
lưu thông và hơi thở (phong đại) mới vận hành điều
hòa. Nhờ thế, con người mới sống được. Điều nầy,
khoa học đã chứng minh cho chúng ta thấy rất rõ qua
kiến hiển vi.
Nói thất đại ngoài 4 yếu tố: đất, nước, gió, lửa ra, người
ta còn thêm vào 3 đại nữa, đó là không đại, kiến đại và
thức đại. Riêng về kiến đại và thức đại, nghĩa của nó
cũng có rộng hẹp khác nhau. Kiến đại cũng là sự hiểu
biết, nhưng ở một trình độ thấp hơn thức đại. Như các
loài thú vật, thuộc loại động vật hạ đẳng, trình độ hiểu
biết nhận thức của chúng so với loài người thì kém hơn
nhiều. Do đó, chúng chỉ có kiến đại chớ không có thức
đại, chỉ có loài người mới có đầy đủ cả 7 đại mà thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
57
23. Phóng sanh như thế nào mới đúng ý nghĩa ?
Hỏi: Vào những ngày Đại Lễ của Phật giáo như Phật
Đản, Vu lan, con thường thấy một vài Phật tử mua
chim hay bồ câu để phóng sanh. Nhưng họ mua không
thả liền, mà họ đem vô chùa để nhốt chờ quý thầy làm
lễ rồi mới thả. Có khi thầy bận việc, không làm lễ liền
phải nhốt chúng trong lồng có khi qua cả đêm đến sáng
hôm sau, đợi đến lúc thầy rảnh mới làm lễ thả, hoặc có
khi phải chờ đến giờ hành lễ chánh thức (trường hợp
như lễ Phật Đản) mới phóng sanh. Xin hỏi: phóng sanh
như thế có đúng với ý nghĩa phóng sanh hay không? Và
người mua vật để phóng sanh như thế có phước đức
nhiều không ?
Đáp: Điều nầy, nếu xét kỹ, ta thấy không đúng với ý
nghĩa phóng sanh cho lắm. Thật ra, đúng nghĩa phóng
sanh là sau khi mua con vật phải thả ngay. Động cơ
phóng sanh là gì? Phải chăng tất cả đều do lòng từ bi
mà ra. Vì lòng từ bi, nên thương xót con vật nào đó
đang bị đau khổ kêu la cầu cứu. Chúng ta vì thương
chúng không nở nhìn thấy chúng phải chết một cách
đau thương, nên người Phật tử động lòng trắc ẩn từ bi
mà bỏ tiền ra để mua chúng. Nhưng sau khi mua xong,
thì tức tốc phải thả chúng ra ngay, để chúng được tự do
thoải mái.
Người xưa nói: “Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại.”
Nghĩa là: một ngày bị nhốt trong lao tù, bằng một ngàn
năm sống được tự do ở bên ngoài. Như thế, thì mới
đúng với ý nghĩa phóng sanh. Và như thế, mới thực sự
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
58
có phước và mới thực sự là thể hiện đúng với lòng từ bi
Phật dạy.
Ngược lại, đằng nầy không thế. Mua rồi phải đem vô
chùa chờ thầy làm lễ mới phóng thích. Gặp lúc thầy
bận việc, không quan tâm tới, thế là những con vật bất
hạnh kia phải kêu la, chen lấn đạp nhau trong lồng, thật
là đau khổ. Nếu chúng nói được, thì chúng sẽ cất cao
giọng mà nói to lên rằng: “Xin mọi người hãy thương
xót chúng tôi mà giùm ơn thả chúng tôi ra ngay, chớ
đợi tới giờ mới làm lễ rồi khi làm lễ, thầy lại kéo dài
giọng tụng ê a nữa, như thế chắc là chúng tôi phải chết
mất đi thôi! Thà rằng hãy để cho người ta bắt chúng
tôi mà họ làm thịt xơi chúng tôi đi, thì chúng tôi khỏi
phải kéo dài sự đau khổ lê thê như thế nầy! Chớ các
người ra ơn tế độ chúng tôi cái kiểu nầy, thì thật là tội
nghiệp cho chúng tôi quá!”
Lời kêu than của chúng thật là hữu lý. Sự thật là như
thế. Có khi chờ thầy làm lễ xong, có con thì chết, có
con thì què quặt bay đi không nổi... Như vậy, thì lại
càng thêm tội chớ nào có phước đâu! Thử hỏi chúng ta
làm lễ để ai chứng minh? Phật hay Bồ Tát? Hay chư
Tôn Đức Tăng Ni? Chắc chắn Phật và Bồ Tát không
thể chứng minh kéo dài sự đau khổ của chúng sanh như
thế nầy rồi! Chư Tôn Đức Tăng Ni ư? Những vị nầy
đầy lòng từ bi cũng không thể nào nhẫn tâm nhìn thấy
cảnh tượng đau thương kêu la thảm thiết chúng bị nhốt
lâu như thế!
Tóm lại, cũng một việc làm, mới nhìn thì thấy như là
có phước lắm, nhưng nếu không khéo, thì trở thành
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
59
mang tội. Thế thì phóng sanh như thế, chẳng những
không đúng ý nghĩa của việc phóng sanh mà nó còn
không được phước như ý mình muốn. Vì vậy, mong
rằng người Phật tử khi có hảo tâm muốn mãi vật phóng
sanh, thì nên lưu tâm hơn về việc làm nầy.
24. Sự khác biệt Tam Thừa.
Hỏi: Phật Pháp thì có một, nhưng tại sao lại có ra ba
thừa ?
Đáp: Lý do có ra ba thừa sai khác là y cứ vào trình độ
hiểu biết rộng hẹp, sâu cạn, cao thấp bất đồng của mỗi
chúng sanh. Từ đó, trong Phật Pháp mới có chia ra sự
sai biệt nầy. Tất cả, cũng chỉ vì nhắm thẳng mục đích
làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà thôi.
Trong Khế Kinh có nêu ra một thí dụ. Thí như có 3 con
thú: thỏ, nai và voi đồng lội qua một con sông. Con thỏ
nhỏ con lại có đôi chân ngắn, nên chỉ bơi lội 2 chân là
đà trên mặt nước thôi. Con nai thì to con hơn và đôi
chân lại dài hơn, nên 2 chân lội lưng chừng nước. Còn
con voi thì thân thể to lớn vạm vỡ và có đôi chân bự lại
dài hơn, nên đôi chân của nó lội đạp xuống tới đất.
Con thỏ là dụ cho hàng Thanh văn thừa. (Tiểu Thừa)
Thanh Văn vì trí kém, tâm hẹp, nên dụ như con thỏ vừa
nhỏ con lại vừa có đôi chân ngắn chỉ bơi lội là đà trên
mặt nước. Con nai là dụ cho Duyên giác thừa. (Trung
Thừa) Vì trí huệ của hàng Duyên Giác cao rộng hơn
Thanh Văn, nên dụ như con nai, vì con nai lớn con và
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
60
có đôi chân dài hơn con thỏ. Đến con voi là dụ cho Bồ
tát thừa (Đại Thừa ). Vì trí huệ nhận thức ở nơi các
pháp của hàng Bồ Tát hơn hẳn hàng Nhị Thừa (Thanh
Văn và Duyên Giác) nên dụ như con voi, vì hình thể
của con voi vừa to lớn mập mạp lại có thêm đôi chân
bự và dài, nên lội sâu hơn 2 con kia.
Qua thí dụ nầy chúng ta thấy, con sông thì chỉ có một,
tức Phật Pháp chỉ có một, mà thú thì có ba. Ba con thú
là tiêu biểu, nói lên sự sai biệt của ba thừa. Chính vì sự
sai khác đó, nên trong Phật Giáo mới tạm chia ra có ba
thừa. Kỳ thật chỉ có một Thừa, tức Phật Thừa mà thôi,
như trong Kinh Pháp Hoa đã nói rõ.
25. Niệm Phật cầu vãng sanh có ích kỷ hay
không?
Hỏi: Có người nói, những người tu Tịnh Độ niệm Phật
cầu vãng sanh về Cực lạc, thì những người đó thật là
ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho mình được lợi lạc, mặc cho
những người thân hay bạn bè nói rộng ra là tất cả mọi
người ở cõi Ta bà nầy ai khổ mặc ai, miễn sao phần
mình được sung sướng thì thôi. Xin hỏi: người nói như
thế có hợp lý hay không ?
Đáp: Nếu bảo rằng có hợp lý hay không, theo tôi, thì
chỉ hợp lý ở một giai đoạn nào đó thôi, chớ không thể
nói là hợp lý hoàn toàn. Nếu khẳng quyết cho rằng
những người niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc
là hoàn toàn ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình. Lời trách
nầy, e có hơi quá đáng! Vì sao? Bởi vì bản nguyện của
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
61
người niệm Phật cầu sanh Tây phương, họ không phải
nguyện về Cực lạc để rồi thọ hưởng những thú vui bên
đó luôn, mà tâm nguyện của họ, chỉ về bên đó tiếp tục
tu học một thời gian, cho đến khi nào hoàn toàn giác
ngộ thành Phật, chừng đó, họ sẽ trở lại cõi Ta bà nầy để
hóa độ chúng sanh.
Như vậy, rõ ràng họ không phải là những kẻ bạc tình
bạc nghĩa. Chẳng qua cũng chỉ vì lòng thương mọi
người, mà họ không muốn cùng nhau chết chìm, khi
mình chưa biết lội, mà dám xông pha nhảy xuống nước
cứu vớt người. Họ không muốn mạo hiểm phiêu lưu
như thế. Vì vậy, để được an toàn bảo đảm trong việc
cứu vớt người, chính họ phải tìm cách bảo đảm cho
mình có một nội lực thật vững chắc trước, rồi sau đó,
họ sẽ trở lại cứu độ mọi loài. Như thế, quả họ là những
người biết lo xa, và biết dự phòng vững chắc. Việc họ
làm, không phải tùy hứng hay ngẫu nhiên, mà họ chỉ
làm đúng theo những gì mà Đức Phật Thích Ca chỉ
dạy, giới thiệu.
Thế thì, trong thời gian họ vắng mặt ở cõi nầy, người ta
coi họ như là người ích kỷ. Nhưng kỳ thật, không hẳn
là như thế. Thí như những vị xuất gia, khi vào chùa, họ
xa lìa cha mẹ, bà con họ hàng, những người thân thuộc,
bạn bè thân thiết. Thời gian ở chùa, các ngài quyết chí
tu học. Chả lẽ trong thời gian ở trong chùa tu học, thì
những vị nầy lại là những kẻ ích kỷ, bạc tình bạc nghĩa
hết hay sao? Mới nhìn qua như là có ích kỷ, nhưng xét
sâu hơn, chưa hẳn là như thế. Vì sau khi ngộ đạo, các
ngài vân du hóa đạo làm lợi ích cho chúng sanh.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
62
Như vậy, khi các ngài không còn có mặt ở ngoài đời,
giam mình tu học ở trong chùa, hay một nơi nào khác,
thì người ta cho rằng các ngài là yểm thế hay ích kỷ?
Nhưng đây lại là thời gian mà các ngài chuẩn bị hành
trang tư lương cho mình khả dĩ thật chu đáo chín mùi,
để sau nầy các ngài ra hoằng pháp lợi sanh. Thế thì, ta
lại vội trách các ngài ích kỷ được sao? Nếu vội trách
như thế, xét ra, thật hơi quá đáng! Nếu không muốn nói
là quá hàm hồ nông cạn.
Lại thêm một thí dụ nữa. Thí như có một sinh viên ở
nước Việt Nam ta, anh ta nghe sự giới thiệu của một
giáo sư đại học rất tài giỏi, ông ấy nói rằng, ở bên Mỹ
có một trường đại học chuyên đào tạo những người có
khả năng chuyên ngành kỹ thuật điện tử, đây là ngành
mà anh thấy rất thích hợp cho khả năng anh. Sau khi
nghe vị giáo sư đó giới thiệu, anh ta quyết tâm bằng
mọi cách phải qua được bên Mỹ để học. Tâm nguyện
của anh là sau khi anh học xong chương trình của
trường đại học đó giảng dạy, bấy giờ anh sẽ trở về lại
Việt Nam để dấn thân phục vụ làm việc, hầu giúp ích
cho đồng bào anh.
Như vậy, việc anh sinh viên qua Mỹ du học, và cưu
mang một tâm nguyện như thế, thử hỏi: anh sinh viên
kia có ích kỷ hay không? Chả lẽ trong thời gian anh
vắng mặt ở quê nhà để đi qua nước người du học, thì ta
lại lên án kết tội anh sinh viên đó là người ích kỷ chỉ
nghĩ cho riêng mình được sao? Bạn sẽ nghĩ thế nào về
người kết tội anh sinh viên đó như thế?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
63
Cũng vậy, sở dĩ hôm nay, người ta biết được Pháp môn
niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Cực lạc là do từ
kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu.
Cũng như anh sinh viên kia, sở dĩ anh biết được trường
đại học bên Mỹ, là nhờ sự giới thiệu của vị giáo sư đó.
Và khi nghe xong, anh sinh viên kia không phải tự
nhiên mà qua được bên Mỹ để học, tất phải hội đủ
những điều kiện theo sự đòi hỏi của trường đại học ở
Mỹ. Vì ở đây có rất nhiều thuận duyên tiện lợi cho sự
trau dồi học hỏi của anh ta.
Cũng thế, người muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc
của đức Phật A Di Đà cũng phải hội đủ 3 điều kiện:
Tín, Nguyện và Hạnh. Và đồng thời ở cõi đó có nhiều
thắng duyên thuận lợi hơn.
Sau khi hội đủ điều kiện rồi, anh sinh viên kia, khi sang
Mỹ du học, anh ta chỉ có một tâm nguyện duy nhất là
sau khi tốt nghiệp mãn khóa, có mảnh bằng tiến sĩ
trong tay, anh ta sẽ trở lại quê nhà để thi thố tài năng để
làm lợi ích cho quê hương xứ sở của mình.
Cũng thế, người niệm Phật sau khi về Cực lạc có đủ
mọi thắng duyên tu học, nỗ lực tu học cho đến khi nào
hoàn toàn giác ngộ, bấy giờ họ sẽ trở lại cõi nầy để
hoằng hóa lợi sanh. Một tâm nguyện như thế, thì tại sao
ta cho họ là ích kỷ?
Có người lại nói, họ chưa hề thấy ai từ cõi Cực lạc trở
về? Đã là do nguyện lực độ sanh của Bồ tát, thì làm
sao chúng ta biết rõ họ từ đâu đến. Và sách sử cũng đã
chứng minh cho chúng ta thấy, khi nào có ai phát hiện
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
64
ra các Ngài là Bồ tát, thì các Ngài sẽ ẩn diệt ngay.
Trường hợp như các Ngài Hàn Sơn, Thập Đắc hay như
Hòa Thượng Thiện Đạo, sử nói Ngài là hóa thân của
đức Phật A Di Đà.
Tóm lại, theo tôi, thì những người niệm Phật phát
nguyện vãng sanh về Cực lạc để tiếp tục tu hành (tất
nhiên là có sự đảm bảo hơn cõi nầy về mọi mặt, theo
như lời Phật Thích Ca giới thiệu) sau đó, họ sẽ trở lại
cõi nầy để hoằng hóa độ sanh đúng theo bản nguyện
của họ. Như thế, xét bề ngoài thì dường như có ích kỷ,
nhưng xét về bên trong, tức tâm nguyện, thì không có
gì là ích kỷ cả. Vì bản nguyện đó, cũng chỉ nhắm vào
chúng sanh mà nguyện, tất nhiên là thuận theo bản hoài
của chư Phật, trừ phi, những ai chỉ nguyện cho mình về
Cực lạc không thôi mà không phát đại nguyện hoàn lai
Ta bà để độ sanh, người như thế, thì đáng trách là quá
ích kỷ chỉ nghĩ đến sự lợi lạc cho riêng mình, không
đoái hoài thương cảm ai cả. Như thế, thì quả là trái với
lòng từ bi Phật dạy. Người như thế, mới nên đáng
trách. Ngược lại, thì ta không nên vội trách.
26. Ý Nghĩa Vu Lan Và Tự Tứ.
Hỏi: Ý nghĩa của Vu Lan Bồn là gì? và tại sao ngày
rằm tháng 7 còn gọi là ngày lễ Tự tứ? Vậy ý nghĩa của
hai chữ Tự tứ là gì?
Đáp: Vu lan bồn, phiên âm từ chữ Phạn là Uilambana
(Hành sự). Còn gọi là Ô lam bà noa. Dịch là Đảo
huyền, chỉ nỗi đau khổ cùng cực. Trong quyển Huyền
Ứng Âm Nghĩa 13 có giải thích như sau: “Vu lan bồn,
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
65
là nói sai. Nói đúng là Ô lam bà noa, dịch là Đảo
huyền.
Theo phép nước Tây Trúc vào ngày Tự Tứ của chư
tăng, người ta mua sắm thực phẩm, đặt cổ bàn linh
đình, dâng cúng Phật Tăng để cứu cái khổ treo ngược
(đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói là một cái chậu
đựng thức ăn, đó là nói sai”. Vu Lan Bồn Kinh Sớ
Tông Mật nói: “Vu Lan là từ ngữ của Tây Vực, nghĩa
là Đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng
cứu chữa. Nếu theo cách nói của địa phương thì phải
nói là cứu đảo huyền bồn.”
Trong quyển Vu Lan Bồn Tâm Ký quyển thượng của
Nguyên Chiếu bác lại: “Theo Ứng Pháp Sư Kinh Âm
Nghĩa thì: Tiếng Phạm Ô lam bà noa dịch là đảo huyền,
nay xét Ô Lan tức là Vu Lan, Bà noa là cái chậu. Thế
là 3 chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng âm thì có sự xê xích
sai lầm.” Đó là ý nghĩa của 3 chữ Vu lan bồn.
Còn Tự tứ là gì ? Tự tứ là một thuật ngữ của Phật giáo.
Tiếng Phạn là Pravaranà (Bát Thích Bà) cách dịch cũ là
Tự tứ, cách dịch mới là Tùy ý. Buổi lễ nầy được diễn ra
vào ngày cuối cùng của 3 tháng an cư kiết hạ, theo luật
tiền an cư là ngày 16 tháng 7, hậu an cư là ngày 16
tháng 8, ngày đó mọi người tự nêu ra các tội lỗi mà
mình đã phạm phải trước mặt các vị Tỳ kheo khác, và
tự sám hối, nên gọi là Tự tứ. Còn gọi là Tùy ý, vì là tùy
theo ý của người khác mà nêu ra các lỗi mình phạm
phải, nên gọi là Tùy ý. ( Từ Điển Phật Học Hán Việt
trang 1447 )
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
66
Đó là chúng tôi trích dẫn nguyên văn trong quyển Từ
Điển Phật Học Hán Việt để giải thích ý nghĩa của 2 chữ
Tự tứ. Ở đây, chúng tôi cũng xin được nói rõ thêm về
ý nghĩa của buổi lễ quan trọng nầy. Đây là một buổi lễ
mà chư Tăng Ni sau 3 tháng an cư kiết hạ, ai có lỗi lầm
gì phải tự phát lồ sám hối trước đại chúng. Hoặc đại
chúng thấy, nghe, hay nghi vị nào đó có phạm tội lỗi,
thì có thể chỉ bảo cho vị đó sám hối.
Quả đây là một tinh thần tự giác cao độ của đạo Phật.
Thông thường, ai cũng che đậy những lỗi lầm của
mình, ít ai dám phơi bày cái lỗi lầm của mình cho
người khác biết. Bởi thế có câu: “Xấu che, tốt khoe.”
Ngược lại, đằng nầy chư Tăng Ni không vì tự ái bản
ngã cá nhân, mà tự thổ lộ những điều sái quấy của
mình trước mặt mọi người. Bởi do sự thành thật chỉ lỗi
cho nhau trong tinh thần hòa ái, tương kính, nên chư
Phật trong mười phương thảy đều hoan hỷ. Do đó, nên
ngày nầy còn gọi là ngày Phật hoan hỷ là như thế.
27. Chư tăng chú nguyện có siêu độ hay không?
Hỏi: Việc chư tăng chú nguyện cho bà Mục Liên Thanh
Đề thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Xin hỏi: Việc cầu nguyện
đó ảnh hưởng thế nào đối với người có tội lỗi? Và việc
làm nầy có rơi vào mê tín hay không?
Đáp: Qua câu hỏi trên, để tiện trả lời, chúng tôi xin
được tách ra làm 2 câu hỏi :
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
67
1- Việc cầu nguyện đó ảnh hưởng thế nào đối với
người có tội lỗi? Xin thưa: Rất có ảnh hưởng. Tuy
nhiên, việc ảnh hưởng đó, nó còn tùy thuộc vào nhiều
yếu tố. Nếu những yếu tố tốt, thì ảnh hưởng kết quả tốt.
Ngược lại, thì không như thế.
Những yếu tố tốt như thế nào? Như trường hợp bà
Mục Liên Thanh Đề, sở dĩ bà được thoát khỏi cảnh khổ
ngạ quỷ, là vì bà có nhiều yếu tố thắng duyên tốt .
Thứ nhứt, là ngài Mục Kiền Liên con của bà rất là chí
hiếu. Ngài đã hết lòng tha thiết trong việc thiết lễ trai
tăng cúng dường đúng theo lời Phật dạy.
Thứ hai, chư Tăng, những người chú nguyện cho bà
đều là những vị tu hành thanh tịnh suốt thời gian 3
tháng an cư kiết hạ. Nhờ tâm các Ngài thanh tịnh, nên
sức chú nguyện của các Ngài có một ảnh hưởng rất
mạnh đến mục tiêu mà các Ngài nhắm tới. Mục tiêu đó
là bà Mục Liên Thanh Đề.
Điều nầy, nếu nói theo triết học, thì gọi là: “Thần giao
cách cảm”. Tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh
rất mãnh liệt. Người xưa nói: “Thành tâm sở chí, kim
thạch vị khai.” Nghĩa là: Sức thành khẩn tha thiết
hướng đến đâu, có thể chẻ núi phá vàng đến đó. Xin
nêu ra đây một câu chuyện để chứng minh:
Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu trang 104, cố Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm có thuật câu chuyện như sau:
“ Có một vị bên Pháp tuổi trẻ, góa vợ, buồn lòng đến
miền quê du ngoạn để giải khuây. Nhân khi ngụ ở nhà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
68
người thợ rèn, thấy cô gái con gia chủ có sắc đẹp, mới
tỏ thật chuyện mình, xin cưới cô nầy làm vợ, và được
chấp thuận. Nhưng lúc chưa làm lễ cưới, bác sĩ đã ăn
nằm với cô gái, rồi bỏ về đô thị. Người thợ rèn thấy
con gái mình bụng ngày một lớn, còn chàng sở khanh
kia thì tuyệt tích như cánh chim hồng, nghĩ mình nhà
nghèo thế yếu không thể kiện thưa, tức giận quá mỗi
buổi chiều cầm búa đập vào tấm sắt kêu gọi tên vị bác
sĩ đòi đánh bể đầu, để tiết bớt niềm phẩn hận. Nhưng ở
đô thành cứ vào 5 giờ chiều, vị bác sĩ nọ bổng ôm đầu
rên la, chữa trị đủ cách vẫn không khỏi.
Sau người bạn của bác sĩ trong lúc về thăm quê, vào
buổi chiều đi ngang nhà thợ rèn nghe tiếng đập sắt và
kêu gọi tên bạn mình trách mắng, mới vào gạn hỏi. Khi
hiểu rõ sự việc, suy gẫm ra biết nguyên nhân căn bệnh
của bạn mình. Ông về khuyên vị bác sĩ phải đến xin lỗi
và cưới cô gái con người thợ rèn. Sau khi hôn lễ thành,
bệnh vị bác sĩ mới khỏi.”
Qua đó, chúng ta thấy, tâm lực có một sức mạnh vô
hình như thế.
Thứ ba, là bà Mục Liên Thanh Đề. Bà ta mới thực sự
là yếu tố chính và quan trọng hơn hết. Sự gia trì của
Phật cũng như sức chú nguyện của chư tăng, tất cả đều
là những tác động trợ duyên tốt. Và nhờ sức trợ duyên
mạnh mẽ đó, mà đánh động được tâm thức của bà ta.
Bà ta đã ăn năn hối cải, và tha thiết sám hối. Nhờ sự
thành tâm cải hối đó, mà bà được siêu thoát sanh lên
cõi trời Thiên Hoa Quang.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
69
Kinh nói: “Tội tùng tâm khởi, tùng tâm sám. Tâm
nhược diệt thời, tội diệc vong. Tội vong, tâm diệt lưỡng
câu không, thị tắc danh vi chơn sám hối”. Nghĩa là:
Tội lỗi từ tâm (vọng) khởi, cũng từ tâm mà sám. Khi
tâm lặng rồi, thì tội cũng tiêu. Tội tiêu, tâm lặng cả hai
đều không còn nữa, đó mới thật là chơn thật sám hối.
2- Việc làm nầy có rơi vào mê tín không? Xin thưa:
Việc làm nầy, chẳng những không phải là mê tín mà lại
còn rất phù hợp với tinh thần giác ngộ của Đạo Phật.
Tức là tinh thần tự giác. Lý do tại sao ? Trước hết, xin
dẫn ra đây một vài mẩu chuyện ngắn, do Hòa Thượng
Thích Thanh Từ thuật kể trong quyển Bước Đầu Học
Phật, để chứng minh.
Hòa Thượng nói: Mặc dù đây là những mẩu chuyện có
tánh cách ngụ ngôn, nhưng để chúng ta thấy cái tinh
thần tự giác của Đạo Phật. Đức Phật có kể lại tiền thân
của Ngài: “Thuở nọ Ngài là đứa con bất hiếu. Khi
Ngài chết rồi vào địa ngục. Ngay trong ngục tối, Ngài
thấy ở đàng xa một đóm lửa sáng rực đi đến dần dần tới
Ngài. Tới gần, Ngài nhìn rõ ra là người đang bị một
vòng lửa cháy rực trên đầu. Người đó rên la thảm thiết.
Khi tới gần, Ngài hỏi: Anh ơi, anh làm tội gì mà chịu
khổ lắm vậy? Chàng đó nói: Không giấu gì ông, thuở
xưa tôi ở nhân gian, vì bất hiếu với cha mẹ, nên giờ đây
tôi mới khổ như thế nầy.
Ngài hỏi: tới bao giờ anh mới hết tội đó ?
Chàng kia đáp: Chừng nào ở nhân gian có người nào
bất hiếu như tôi, đến thế cho tôi, thì tôi mới hết.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
70
Vừa nói thì vòng lửa bên đầu anh kia chụp qua đầu của
Ngài. Ngài bị đốt cháy đỏ rực, đau khổ quá Ngài rên la
thảm thiết. Khi tỉnh lại Ngài hỏi: “ Đầu tôi bị vòng lửa
đốt cháy như thế nầy, thưa anh chừng nào mới hết, mới
khỏi cái khổ nầy? Anh kia nói: Chừng nào có người ở
trên nhân gian bất hiếu như ông, xuống thế cho ông thì
ông mới hết”.
Khi đó Ngài liền nhớ cái khổ bị đốt như thế nầy đau
đớn vô ngần, nếu có người chịu khổ như mình thì tội
nghiệp họ quá, chi bằng để một mình mình chịu khổ
thôi. Cho nên lúc đó Ngài liền phát nguyện: “Nguyện
tất cả người trên thế gian, từ đây về sau đừng có ai bất
hiếu như tôi, để một mình tôi chịu cái khổ nầy suốt đời
suốt kiếp”. Ngài vừa nguyện xong, bất thần vòng lửa
bay đâu mất. Ngài thấy Ngài sanh lại ở chỗ khác tốt
đẹp, không còn vòng lửa nữa.
Qua câu chuyện đó tuy có tánh cách ngụ ngôn, nhưng
cho chúng ta thấy rõ một khi phát tâm từ bi rộng lớn,
phát tâm đạo đức, thì bao nhiêu cái khổ cái xấu tan đi.
Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể lại: “Một thuở nọ
Ngài là một thợ săn hung ác tàn bạo. Sau khi chết đọa
vào địa ngục. Khi đó quỷ sứ bắt Ngài kéo một chiếc xe
cồng kềnh, phía sau có người cầm roi đánh. Ngài kéo
nặng nề quá. Kéo qua chỗ tra tấn người Ngài thấy
những người khác bị đánh đập hành hạ đau khổ rên siết
quá đổi. Ngài động lòng thương nguyện rằng: “Tôi xin
thế tất cả cái đau khổ của những người ở trong đây! Tất
cả cái khổ của những người đang chịu, xin để cho mình
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
71
tôi chịu”. Ngài vừa phát nguyện như vậy thì tự thấy
Ngài không còn ở địa ngục nữa.
Thuật qua 2 câu chuyện trên, Hòa Thượng kết luận:
“Qua 2 câu chuyện trên đó, chúng ta thấy bà Thanh Đề,
sở dĩ ra khỏi vòng ngạ quỷ không phải chư Tăng có tài
xuống đó dẫn bà lên. Không phải có một ông Diêm
Vương hay ông chúa ngục nào mở thả bà, ân xá cho bà.
Cũng không phải ông Phật trên đài sen xuống cứu bà,
mà chính vì tinh thần sáng suốt và ý chí mạnh mẽ cầu
tiến của chư Tăng đồng chung một tâm niệm hướng về
bà, mong bà cải đổi tâm niệm xấu xa. Do sự giao cảm
đó mà bà tỉnh giác, chính bà tỉnh giác biết được tội lỗi
của bà, nên bà hối hận chừa bỏ. Do đó, bà thoát khỏi
cái khổ ngạ quỷ. Thoát khỏi là do tâm hối cải tỉnh giác
chứ không phải do sức bên ngoài bắt mình hay thả
mình. Đó là sự thật do tinh thần tỉnh giác của con
người mà ra. Chỗ đó đối với quý vị hơi lạ, nhưng sự
thật là thế”.
Cũng theo tinh thần tự giác đó, chúng tôi xin được nêu
ra một thí dụ cụ thể và thực tế hơn. Thí dụ: Ông A bị
ghiền á phiện rất nặng, (dụ như bà Thanh Đề vì tạo
nghiệp ác phải đọa vào ngạ quỷ) con ông là anh B rất
hiền từ chí hiếu và kính trọng thương ông (dụ như Ngài
Mục Kiền Liên). Vì quá thương xót tình cảnh nghiện
ngập của người cha, nên anh A tìm đủ mọi phương
cách để khuyên cha. Một hôm, anh ta trông thấy người
cha lên cơn ghiền dữ dội, tứ chi rả rời, thân thể gần như
hết cựa quậy, trong khi đó, thuốc lại không có, anh ta
chạy tìm được chút ít đem về cho cha. Người cha hút
vào, sau đó tỉnh lại. Chứng kiến cảnh đau thương đó
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
72
(dụ như Ngài Mục Kiền Liên dùng tuệ nhãn xem thấy
người mẹ đang bị cơn đói khát hoành hành đau khổ
ngút ngàn) anh ta quyết định tìm cách cứu cha thoát
khỏi bệnh ghiền.
Bấy giờ, anh ta nghĩ đến vị Thầy của anh ta, là một bậc
tu hành giới luật nghiêm minh, đạo cao đức trọng (dụ
như Đức Phật). Anh ta đến quỳ bạch xin thầy chỉ dạy
cách nào để cứu thoát người cha ra khỏi bệnh ghiền.
(dụ như Ngài Mục Liên bạch Phật để Phật chỉ dạy cách
cứu mẹ Ngài). Vị thầy đó bảo anh ta, nếu con muốn
cứu thoát cha con bỏ hút á phiện, thì con nên vì cha mà
hết lòng mua sắm những thứ mà cha con thường ưa
thích nhất, đồng thời con nên cung thỉnh quý thầy khác
mà hằng ngày cha con kính trọng, cũng như một số bạn
bè thân thuộc nhứt của cha con, rồi chọn ngày mời mọi
người đồng đến hiệp lực cùng con để cùng nhau
khuyên cha con cai nghiện. (dụ như Ngài Mục Liên
sắm sanh lễ vật và cung thỉnh chư tăng chú nguyện).
Anh A thực hiện đúng theo những gì thầy dạy. Hôm đó
là một ngày rất đẹp, khí trời ấm áp (dụ như ngày rằm
tháng 7) anh A trịnh trọng mời cha đến ngồi vào bàn
ghế sang trọng và trước những vật dụng quý giá mà
người cha thường mong ước. Sau khi người cha ngồi
vào ghế, bấy giờ , anh A và những người thân thuộc
trong gia đình đến quỳ trước mặt người cha, đồng khẩn
khoản tha thiết lên tiếng khuyên cha nên vì bản thân, vì
con cái và vì bạn bè thân thuộc mà nên cương quyết cai
nghiện ma túy cho bằng được. Thêm vào đó, quý thầy
có mặt cũng như toàn thể bạn bè cũng đồng lòng hết lời
chí thiết khuyên bảo.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
73
Trước tình cảnh đó, người cha quá xúc động đến rơi lệ,
nghẹn ngào và rồi ông ta dõng dạt tuyên bố trước mặt
mọi người rằng: “Kể từ ngày hôm nay, tôi cương quyết
sẽ cai nghiện. Không phải nói suông bằng lời cho mọi
người vui, mà tôi nhứt quyết thực hiện bỏ hút cho bằng
được. Vì tôi đã sáng mắt nhận ra sự tai hại khốc liệt
của thứ ma túy nầy rồi”! Nói xong, mọi người đều vui
lên như ngày mở hội. Nhứt là người con trai chí hiếu
của ông vui mừng không kể xiết. Và từ đó trở đi, người
ta thấy ông ta đã bỏ hẳn và thân thể của ông được mạnh
khỏe trở lại như xưa. Thế là ông đã tự cởi trói được cái
khổ mà từ lâu nay nghiệp ghiền ma túy nó đã treo
ngược xiết cổ ông.
Qua thí dụ đó cho chúng ta thấy rằng, sở dĩ người cha
bỏ được á phiện, là chính do ông ta cương quyết cải hối
chừa bỏ, còn mọi người chỉ là trợ duyên tốt giúp cho
ông ta tăng thêm phần ý chí nghị lực mà thôi. Còn
chánh nhân chính là ông ta. Chính nhờ lòng chí thành
tha thiết thương cha của anh A, tức con trai của ông, là
trợ lực chính giúp cho ông ta từ bỏ được. Lời khuyên
của mọi người (Dụ như sự chú nguyện của chư tăng) đã
đánh động được sự tỉnh giác của ông. Như thế, sự cai
nghiện của ông có kết quả tốt là do ông tự ý thức và tự
tỉnh giác lấy. (Dụ như bà Thanh Đề được thoát hóa là
do chính bà tự cải hối ăn năn tâm địa độc ác của bà).
Điều nầy, tuyệt nhiên không do ai cầu nguyện mà được
cả. Như vậy, rõ ràng nào có phải là mê tín đâu !
28. Danh Xưng Quán Thế Âm Và Quán Tự Tại.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
74
Hỏi: Danh xưng Quán Thế Âm Bồ Tát và Quán Tự Tại
Bồ Tát là một vị Bồ Tát hay hai vị Bồ Tát khác nhau ?
Đáp: Chỉ là một vị Bồ Tát Quán Thế Âm chớ không
phải hai. Sở dĩ có tên gọi khác nhau như thế, là vì
đứng trên hai phương diện mà nói. Gọi Quán Thế Âm
là đứng về mặt tu nhân. Vì Bồ Tát Quán Thế Âm khi
còn ở địa vị tu nhân, thì Ngài dùng nhĩ căn để tu, gọi
là : “Phản văn văn tự tánh”, có nghĩa là Ngài nghe lại
tánh nghe của chính mình.
Thông thường, chúng ta khi nghe tiếng là chạy theo
tiếng, phân biệt tiếng hay tiếng dở v.v…Ít có ai nghe
lại tánh nghe của mình. Tiếng thì lúc có lúc không, còn
tánh nghe thì thường hằng không bao giờ vắng mặt với
mình. Nhưng khổ nổi là tất cả chúng ta đều nhận ở nơi
tiếng mà quên mất tánh nghe thường hằng. Do đó,
trong Kinh Lăng Nghiêm Phật quở là: “Quên mình theo
vật.”
Ngược lại, Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ ứng dụng tu đúng
phương pháp Phật dạy: « Phản văn văn tự tánh » mà
Ngài chứng được Nhĩ căn viên thông, hoàn toàn làm
chủ chính mình không còn lệ thuộc ở nơi thinh trần...
tới lui tự tại vô ngại, bấy giờ gọi Ngài là Quán Tự Tại.
Như vậy, danh xưng Quán Tự Tại là đứng về phương
diện quả vị mà nói.
29. Tịnh Độ tông có truyền thừa Tổ vị không?
Hỏi: Về sự truyền thừa Tổ vị, bên Thiền tông thì ai
cũng biết, nghĩa là có sự truyền thừa hẳn hoi. Ngược
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
75
lại, bên Tịnh Độ tông, thì đâu có sự truyền thừa như
thế. Thế thì tại sao gọi các Ngài là Tổ?
Đáp: Đúng vậy. Bên Tịnh độ không có sự Tổ Tổ tương
truyền như bên Thiền tông, nhưng các Ngài sở dĩ được
tôn xưng là Tổ, bởi có nhiều lý do. Tiêu biểu như bốn
lý do sau đây mà chúng tôi thấy trong phần Dẫn Nhập
nói về Liên Tông Thập Tam Tổ của cố Hòa Thượng
Thích Thiền Tâm có nêu ra như sau: “ Sở dĩ chư Tổ
Liên Tông được tôn xưng các Ngài là Tổ, bởi do các vị
Tăng Tục tu môn niệm Phật đời sau họp lại chọn lựa ra
những vị siêu xuất mà suy tôn lên.
Sự siêu xuất đó được biểu lộ qua bốn quan điểm chính
yếu sau đây :
1- Về phần kiến thức :
- Phải là các bậc thông hiểu thâm sâu cả Tông lẫn
Giáo.
- Giải ngộ Phật Pháp đến mức Thượng Thừa.
2- Về Phần Đạo Hạnh :
- Phải giữ giới phẩm tinh nghiêm, hoàn toàn thanh
tịnh.
- Tu hành tinh tấn.
- Lâm chung hiện rõ thoại tướng vãng sanh.
3- Về Phần Hoằng Hóa :
- Phải có công lao lớn trong việc tuyên dương pháp
môn Tịnh độ.
- Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
76
- Khuyến dắt, dẫn đạo đến ngàn muôn người niệm
Phật.
4- Về Phần Trước Tác Phiên Dịch :
- Phải có trước tác (biên soạn) tối thiểu từ ba bộ sách
khuyến dạy hoặc hoằng tuyên Tịnh độ trở lên.
- Phải có khả năng phiên dịch và chú sớ Kinh điển đến
mức Thượng Thừa.
Bốn điều kiện nầy phải hoàn toàn đầy đủ hết mới được
suy tôn lên hàng Tổ sư Tịnh độ.
30. Sự khác biệt giữa chánh niệm và vô tâm.
Hỏi: Giữa Chánh niệm và Vô tâm khác nhau như thế
nào ?
Đáp: Giữa Chánh niệm và Vô tâm khác nhau ở điểm
căn bản là: Chánh niệm là một trong Bát chánh đạo, nó
thuộc về hệ giáo lý Phật Giáo Nguyên thủy. Chánh
niệm có nghĩa là ghi nhớ những điều hay, lẽ phải,
những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý
chân chính quý trọng cao siêu. Nói rõ ra chữ chánh
niệm nầy ta có thể hiểu là làm việc gì ta nhớ đến việc
đó. Tất nhiên, là ta phải chăm chú vào việc ta làm,
không để tâm nhớ nghĩ đến chuyện khác.
Còn Vô tâm là thuộc về Thiền tông. Thiền tông nói Vô
tâm, không có nghĩa là không có tâm gì cả, như cây đá,
mà Vô tâm ở đây có nghĩa là không có tâm chấp trước
vào các sự vật. Nói cách khác là không dấy khởi vọng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
77
niệm phân biệt ở nơi tiền trần. Tâm thể phải luôn luôn
vắng lặng.
Ngược lại, chánh niệm còn có dấy tâm khởi nghĩ vào
những động tác hay việc làm. Vì thế, Chánh niệm và
Vô tâm không thể giống nhau. Vô tâm chỉ tương đồng
với Chánh định. Vì Chánh niệm chưa phải là chặng
cuối cùng, mà Chánh định mới là chặng cuối cùng của
Bát chánh đạo.
31. Ý nghĩa chữ vạn.
Hỏi: Tại sao trước ngực của tượng Phật Thích Ca có
hình chữ Vạn? và ý nghĩa của chữ vạn như thế nào? Và
không hiểu lý do tại sao hình chữ Vạn có khi có chiều
xoay bên phải, có khi có chiều xoay bên trái?
Đáp: Chữ vạn là một trong 32 tướng tốt của Đức Phật.
Đây là biểu thị cái công đức của Phật. Sở dĩ nó ứng
hiện ở nơi ngực của Phật là để nói lên cái ý nghĩa giác
ngộ vẹn toàn của Phật. Ở chính giữa ngực là tượng
trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên, vượt ngoài
đối đãi.
Về ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang
giải thích, thì nó có nghĩa là cát tường hải vân hay cát
tường hỷ toàn. Còn về chiều xoay bên phải, bên trái
không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học Huệ
Quang giải thích như sau:
“ Hình chữ Vạn,(xin vẽ chữ vạn có chiều trên xoay về
bên trái vào đây) vốn là dấu hiệu biểu thị sự tốt lành ở
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
78
Ấn Độ thời xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều
có phù hiệu nầy, thông thường được xem là tượng
trưng cho mặt trời, ánh chớp, lửa, nước chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa, Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na
giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn Độ cho
rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm
thiên, Tỳ thấp nô (Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn:
Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu của sự tốt
lành, thanh tịnh, tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn
(chiều trên xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở trước
ngực của Phật và hàng Bồ tát Thập Địa, về sau dần dần
trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa nay có nhiều thuyết nói về chữ vạn. Về Hán dịch
chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền Trang dịch là chữ
« Đức », Ngài Bồ đề lưu chi thì dịch là chữ Vạn, biểu
thị ý nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao
Tăng Truyện 3 thì cho rằng nếu chữ Vạn (chiều trên
xoay về bên trái) mà dịch là vạn thì chẳng phải dịch ý
mà là dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban
đầu không được đưa vào Kinh truyện, đến năm 639
thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ nầy, đọc là vạn và
cho rằng chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn
điều tốt lành. Nhưng chữ Vạn (chiều trên bên trái) vốn
là một ký hiệu chứ chẳng phải là một chữ. Sở dĩ xưa
nay đọc liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu
nhất là do lầm lẫn khi dịch từ tiếng Phạn sang Hán. Vì
chữ Phạn Laksana, dịch âm là Lạc sát nẳng, nghĩa là
tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la,
nghĩa là Tự. Có lẽ 2 âm Laksana và aksara gần giống
nhau cho nên ý nghĩa của chúng bị lẫn lộn. Nói theo
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
79
đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là
tướng, (vạn tướng) mới phù hợp với nghĩa gốc của chữ
Phạn.
Từ xưa, chữ Vạn đã có 2 trường hợp xoay về bên tả và
xoay về bên hữu khác nhau. Đối với Ấn Độ giáo, phần
nhiều dùng chữ vạn (chiều xoay về bên trái) để biểu thị
cho nam tánh thần và chữ vạn (có chiều xoay về bên
phải) để biểu thị cho nữ tánh thần. Đối với Phật giáo,
có ngôi tháp cổ hiện còn ở vườn Lộc dã, chữ trên tháp
toàn là chữ Vạn, (có chiều xoay về phía phải) ngôi tháp
nầy là vật kiến trúc thời vua A Dục, được xây dựng để
kỷ niệm nơi ngày xưa Đức Phật đã nhập định.
Tại Tây Tạng, tín đồ Lạt Ma Giáo thường dùng chữ
Vạn (có chiều xoay về phía bên trái) tín đồ Bổng giáo
thì dùng chữ Vạn (cũng xoay về phía trái) . Tại Trung
Quốc, qua nhiều đời đều dùng cả 2 cách. Huệ Lâm Âm
Nghĩa và Cao Ly Đại Tạng Kinh đều chủ trương chữ
Vạn (chiều xoay về phía trái) , Nhật Bản Đại Tạng
Kinh cũng mô phỏng theo và sử dụng chữ Vạn (chiều
xoay về phía phải) , nhưng 3 bản Tạng Kinh đời Tống,
Nguyên, Minh, đều dùng chữ Vạn (chiều xoay về phía
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
80
phải), sự phân chia chữ xoay về bên tả và bên hữu chủ
yếu là do nơi lập trường khác nhau.
Trong Kinh có nhiều chỗ nói “xoay về bên hữu”, sợi
lông trắng giữa 2 đầu chân mày cũng uyển chuyển
xoay về bên hữu, lại như khi lễ kính Phật, Bồ tát cũng
phải đi nhiểu về bên hữu, cho nên từ ngữ “xoay về bên
hữu” đã thành luận thuyết nhất định, nhưng rốt cuộc thì
chữ Vạn là xoay về bên phải hay là xoay về bên trái
vẫn còn là đầu mối gây ra sự tranh luận. Nếu đặt chữ
Vạn ở phía trước chúng ta, nhìn chữ Vạn từ chỗ đứng
của chúng ta thì xoay về bên hữu sẽ thành chữ Vạn
(chiều xoay về bên hữu) ; nhưng nếu nói theo bản thân
của chữ thì chữ Vạn (chiều xoay về bên phải) là phù
hợp với phương hướng xoay về bên hữu .
32. Mười Hai Loại Cô Hồn.
Hỏi: Xin cho biết 12 loại chúng sinh hay cô hồn gồm
có những loại nào ?
Đáp: Mười hai loại cô hồn gồm có :
1. Lụy triều đế chúa (các vua chết vì phản loạn, tai nạn
đổi đời)
2. Quan tướng vương triều và Oai tướng phản thần.
3. Bá quận danh thần.
4. Bạch ốc thư sinh.
5. Xuất trần thượng sĩ (tức là hàng tu sĩ chỉ nói suông
lời Phật dạy, không thực hành pháp và còn bị vướng
mắc một cái gì đó ).
6. Huyền môn đạo sĩ.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
81
7. Thương gia lữ khách và kẻ buôn tảo bán tần.
8. Chiến sĩ trận vong.
9. Sản phụ bất hạnh (lúc thai sản mất cả mẹ lẫn con).
10. Khuyết tật thiếu tu.
11. Cung phi mỹ nữ và hạng buôn hương bán phấn.
12. Tù nhân tử tội.
Ngoài ra, còn phải kể đến kẻ chìm sông lạc suối, kẻ
nằm cầu gối đất, kẻ cơ bần khất cái và kẻ gieo giếng
thắt dây...” (Theo quyển sách “ Cốt Tủy Giáo Lý Phật,
Bốn tiến trình đi tới Hạ Thủ Công Phu” của tác giả
Tâm Tịnh, trong phần Thay Lời Tựa Viết Cho Một
Người Khách Đường Xa )
33. Tụng Kinh ở nhà có cần đánh chuông mõ
không ?
Hỏi: Ở nhà, chúng con thường tụng kinh vào những
buổi tối, nhưng con không biết đánh chuông mõ, vậy
chúng con chỉ tụng niệm không cần đến chuông mõ có
được không? Và tụng như thế nào mới được lợi ích?
Đáp: Việc tụng niệm, mục đích là để hiểu nghĩa lý
trong kinh, xem Phật dạy những gì, rồi từ đó chúng ta
áp dụng vào đời sống hằng ngày. Như thế mới có lợi
ích. Vì vậy, khi tụng đọc, chúng ta nên tụng đọc chậm
rãi, không nhứt thiết là phải có chuông mõ. Sở dĩ có
chuông mõ là vì có nhiều người tụng đọc. Công dụng
của mõ là để giữ trường canh để mọi người tụng đọc,
cho nó có nhịp nhàng hòa âm với nhau, không có kẻ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
82
tụng trước, người tụng sau. Nên việc đánh mõ cũng khá
quan trọng.
Người đánh mõ cần phải học cách đánh sao cho nó giữ
trường canh đều đặn. Bởi thế, trong Thiền môn gọi
người đánh mõ là Duyệt chúng. Duyệt là vui vẻ, chúng
là nhiều người, nghĩa là làm cho mọi người trong thời
khóa lễ tụng niệm, tất cả đều được an vui. Như thế, thì
người đánh mõ mới có phước. Bằng ngược lại, không
biết cách đánh, trường canh nhịp điệu không đều, khi
thì nhanh quá, lúc lại chậm quá, làm cho mọi người
tụng đọc không hài lòng, nổi phiền muộn. Như thế, thì
người đánh mõ càng thêm mang tội.
Còn người giữ bên chuông để thỉnh chuông, gọi là Duy
Na. Duy na có nghĩa là người điều khiển buổi lễ.
Thường ở chùa, vì có nhiều người tụng niệm, nên cần
phải có chuông mõ.
Ngược lại, ở nhà, nếu Phật tử chỉ tụng niệm một mình,
thì không cần phải đánh mõ chuông. Nếu như trong nhà
đã có mõ chuông, thì khi tụng niệm muốn đánh cũng
được không có sao. Tuy nhiên, tốt hơn là không cần sử
dụng đến những khí cụ nầy. Trường hợp không có thì
thôi. Khi tụng niệm, tùy theo sức khỏe và thói quen,
tụng lớn tiếng hay nhỏ tiếng hoặc tụng niệm thầm đều
được cả.
Xin nhắc lại, mục đích của sự tụng niệm cốt để hiểu rõ
nghĩa lý trong kinh qua những lời Phật dạy, để từ đó,
chúng ta đem ra ứng dụng vào đời sống, như vậy mới
có lợi ích thiết thực. Nếu như, khi tụng mà không hiểu
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
83
rõ nghĩa lý Phật dạy, thì Phật tử nên đến chùa cầu chư
Tăng, Ni chỉ dạy cho.
34. Nêm nếm đồ mặn vào những ngày ăn chay.
Hỏi: Con ăn chay một năm 4 tháng, một tháng con ăn
10 ngày, nhưng những ngày ăn chay, con phải nấu cơm
cho gia đình ăn. Cho nên khi nấu ăn, con vẫn nêm nếm
bình thường, vì sợ gia đình ăn không ngon, rồi dư thức
ăn bỏ thì tội, nên con làm như vậy có được hay không?
Đáp: Người Phật tử phát nguyện ăn chay là một điều
tốt. Vì ăn chay, mục đích là để nuôi dưỡng lòng từ bi,
tránh bớt việc giết hại sinh vật. Tuy nhiên, vì còn sống
chung trong gia đình, lại là người nội trợ lo việc nấu
nướng cho gia đình, nên khi nấu cần phải nêm nếm
thức ăn. Thật ra, việc nêm nếm không có gì là tội lỗi
cả. Vì xưa kia, Đức Lục Tổ Huệ Năng khi còn trong
thời gian lánh nạn, sống chung với những người thợ
săn, nên mỗi bữa ăn, Ngài hái rau bỏ luộc chung trong
nồi thịt của họ, rồi Ngài vớt lấy rau mà ăn. Ngài ở ngôi
vị Tổ, vì hoàn cảnh bắt buộc phải ăn như thế.
Nay Phật tử cũng vì hoàn cảnh gia đình, nên không thể
vì mình mà để những người thân: chồng con trong gia
đình phải mất vui. Theo chúng tôi, thì việc nêm nếm đó
không có gì tội lỗi cả. Điều quan trọng là ở nơi tâm ý
của mình. Nếu trong khi nếm thử như thế, mà mình
khởi tâm tham muốn thèm thuồng, thì điều đó là có lỗi.
Có lỗi là tự mình dối với lòng mình, chớ không có lỗi
với ai. Còn nếu, trong khi nêm nếm mà không có tác ý
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
84
thèm muốn, thì không sao. Vậy, Phật tử nên tự hỏi lại
lòng mình có như thế không? Nếu có, thì tốt hơn hết là
hãy để cho những người ăn mặn chính họ tự nêm nếm
lấy.
35. Ý nghĩa kiết thất và đả thất.
Hỏi: Kiết thất, đả thất và kết kỳ niệm Phật ý nghĩa của
chúng giống nhau hay khác nhau?
Đáp: Kiết thất, đả thất và kết kỳ niệm Phật ý nghĩa
không khác nhau. Cả ba danh từ nầy, đều có một ý
nghĩa chung là hành giả tránh bớt duyên trần để yên tu.
Kiết thất là ở trong ngôi nhà nhỏ hay một gian phòng,
dứt hết duyên ngoài, chỉ chuyên tu (tùy theo pháp môn
mà hành giả đã chọn) như niệm Phật trong khoảng bảy
ngày. Nhưng tại sao phải bảy ngày, không sáu ngày
hoặc tám ngày? Kinh dạy: “Nếu có thiện nam tử thiện
nữ nhơn nào, nghe nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm
danh hiệu, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba
ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày,
hoặc bảy ngày một lòng không loạn”. Trong Kinh
không nói chỉ sáu ngày, hay quá đến tám ngày, cho nên
người tu Tịnh độ xưa nay căn cứ theo kinh quy định
thời gian để kết kỳ niệm Phật trong bảy ngày. Từ đó,
hành giả có thể tùy ý tăng thời gian thêm hoặc 21 ngày
hay 49 ngày v.v… Mục đích là để hành giả đạt được
Chánh định hay Nhứt tâm bất loạn mà thôi.
Còn nói Đả thất, chữ đả có nghĩa là đánh. Nói đủ là
“đả thành nhứt phiến”, nghĩa là đánh cho thành một
khối tịnh niệm. Đả thất niệm Phật có khi nhiều người
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
85
đồng tu, hoặc chỉ một người cho dễ được thanh tịnh.
Như vậy, ba danh từ tuy có khác, nhưng, tựu trung ý
nghĩa cũng giống nhau.
36. Ý nghĩa tướng lưỡi rộng dài.
Hỏi: Trong Kinh Di Đà có nói tướng lưỡi của Phật
rộng dài che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Xin
hỏi: hiện tượng nầy như thế nào? Có đúng như vậy
không?
Đáp: Hiện tượng đó, chỉ là ý nghĩa tiêu biểu tượng
trưng thôi. Chớ không phải là có thật như vậy. Ý nói:
Sở dĩ Phật được tướng lưỡi rộng dài như thế, do vì trải
qua vô số kiếp, Phật chưa từng nói dối, nên mới được
như vậy. Ngược lại, phàm phu chúng ta vì trải qua
nhiều đời nói dối, nói thêu dệt, nói lời trau chuốt để gạt
gẫm thiên hạ, mưu đồ trục lợi cho mình, nên kết quả,
tướng lưỡi của chúng ta hiện nay dài không quá 3 tấc.
Trong Kinh nói: người nào ba đời không nói dối, thì
lưỡi le ra đụng tới chót mũi. Kinh diễn tả nêu ra như
thế, nhằm mục đích khuyên chúng ta không nên nói
dối, mà phải nói lời chân thật. Lời nói chân thật, kết
quả nói ra ai cũng tin và nghe theo. Nếu như, chúng ta
y theo kinh mà giải nghĩa, tướng lưỡi của Phật trùm
khắp như vậy, thì làm sao Phật nói chuyện thuyết
giảng. Cho nên nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật
oan, ly kinh nhứt tự, tức đồng ma thuyết”. Qua lời nói
nầy, chúng ta cần phải cẩn trọng trong khi giảng giải
kinh điển Phật giáo.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
86
37. Chư Thiên dâng hoa cúng dường.
Hỏi: Trong kinh diễn tả, khi Đức Phật thuyết pháp có
các chư thiên đến tung hoa cúng dường. Xin hỏi: chư
thiên từ cõi nào đến? và hoa từ đâu mà có?
Đáp: Nếu bảo chư Thiên từ cõi nào đến, thật sự chúng
tôi không biết. Chỉ thấy trong kinh nói là chư Thiên ở
các cõi Trời, như cõi Dục gồm có 6 cõi Trời: Tứ thiên
vương thiên, Đao lợi thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất
thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa tự tại thiên. Nhưng
thực tế, thì chúng ta không thấy. Mà không thấy, thì
làm sao nói được.
Tuy nhiên, theo chỗ chúng tôi hiểu, thì chư Thiên cũng
từ nơi con người mà ra, chớ không có ở đâu xa. Tại sao
chúng tôi dám nói như thế? Bởi vì, chúng ta thử
nghiệm xét kỹ lại coi: Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên
Giác… những vị nầy từ đâu mà có? Có phải các ngài từ
cõi nào xa xôi đến đây không? Hay tất cả cũng chỉ là
con người? Đã là con người, thì các ngài cũng có một
đời sống: ăn, mặc, ở bình thường như chúng ta. Chẳng
qua các Ngài khác hơn chúng ta là ở chỗ trình độ giác
ngộ của các Ngài hơn chúng ta mà thôi. Xét nhân địa tu
hành và quả vị đạt được của những vị nầy mỗi mỗi đều
có sai khác. Căn cứ trên nhân và quả mà các Ngài có
những tên gọi khác nhau. Nhưng tựu trung cũng là con
người và sống ở cõi nầy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
87
Chư Thiên cũng thế. Những vị nầy cũng là con người,
nhưng khác hơn con người thường là ở chỗ, những vị
nầy do thực hành Thập Thiện mà kết quả được thụ
hưởng phước báo an vui hơn những người giữ 5 giới và
những người không biết tu hành giữ giới. Nên gọi
những vị nầy là Trời. Như vậy, thì chúng ta thấy nó rất
thực tế trong sự tu hành. Tất cả đều căn cứ trên quả vị
đạt được mà có những tên gọi khác nhau đó thôi. Đây
là theo chỗ nghiên cứu hiểu biết của chúng tôi. Dĩ
nhiên, mỗi người có những lý giải và nhận xét hiểu biết
khác nhau.
Nhưng theo tôi, lý giải nào cũng phải phù hợp và phải
dựa trên thực tế. Vì đạo Phật là đạo thực tế, không viễn
vông mơ hồ, huyền hoặc. Nếu bảo rằng, chư Thiên ở
các cõi khác đến, cõi đó ở đâu? Và hình thù của họ ra
sao? Nhân địa tu hành của họ, chỉ là tu mười điều lành
thôi. Nếu họ từ các cõi khác đến, tất nhiên họ phải có
thần thông. Thần thông của họ phải nhanh hơn gấp mấy
ngàn lần phi thuyền hiện nay.
Các khoa học gia dùng phi thuyền khám phá các hành
tinh khác, bay lượn khắp trong không gian, cho đến nay
cũng chưa tìm thấy một vị Trời nào cả. Như vậy, hiện
tại có người, họ cố gắng giữ đúng mười điều lành,
nhưng họ nào có thần thông đâu. Những vị xuất gia tu
hành hiện nay, dĩ nhiên các ngài nầy tu hành phải vượt
hơn mười điều lành, nhưng thực tế, ta chưa từng thấy vị
nào có thần thông biết bay từ nơi nầy đến nơi kia. Thần
thông của những vị nầy là máy bay, thì có. Chư Thiên
không phải từ cõi khác đến, thì làm gì có hoa từ cõi
khác.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
88
Tóm lại, qua những luận cứ trên, theo tôi quả quyết,
trong kinh nói chư Thiên cũng chính là con người mà
thôi. Nhưng con người giữ tròn Thập Thiện, nên được
phước báo an vui hơn những người thường khác. Và
hoa họ dùng để cúng dường Phật, cũng chính là những
đóa hoa ở trên mặt đất nầy. Chỉ có thế thôi.
38. Ý nghĩa danh hiệu Đại Thế Chí và sự động
đất.
Hỏi: Danh hiệu Đại Thế Chí có ý nghĩa gì? Và trong
kinh có nói: Khi Phật ra đời đại địa rúng động. Vậy xin
hỏi: hiện tượng quả đất rúng động nầy có giống với
hiện tượng động đất hiện nay không?
Đáp: Danh hiệu Đại Thế Chí là tiêu biểu cho người có
một trí huệ siêu việt và một ý chí, nghị lực phi thường.
Ngài là một vị Bồ tát hầu cận bên đức Phật Di Đà. Căn
cứ theo tượng Tam Thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế Chí)
thì Ngài đứng bên hữu và Bồ tát Quán Âm đứng bên tả.
Ngài tiêu biểu cho đại trí huệ. Bồ tát Quán Âm tiêu
biểu đại từ bi. Bi và trí phải song vận. Cả hai không
thể thiếu một trong sự tu hành, cũng như khi ra giáo
hóa. Thế nên Bồ tát Đại Thế Chí và Bồ tát Quán Âm
không tách rời nhau.
Ngài luôn dùng trí huệ soi sáng để hóa độ chúng sanh ở
cõi đời uế trược nầy.Vì trí huệ có công năng phá tan
mọi si mê. Hình ảnh của Ngài nói lên một sức mạnh trí
huệ phi thường mà người tu hành cần phải có. Nhờ có
trí huệ chỉ đạo nên mới dẹp trừ hết vô minh phiền não.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
89
Có như thế, thì hành giả tu hành mới mau được giải
thoát. Nên mỗi khi niệm đến danh hiệu Ngài, chúng ta
nhớ đến trí huệ sáng ngời và ý chí kiên cường dũng
mãnh của Ngài. chúng ta quyết noi gương Ngài và kiên
quyết vượt thắng mọi chướng duyên thử thách trên
bước đường tu học. Có thế, thì mới xứng đáng niệm
danh hiệu Ngài. Và chúng ta mới có được lợi ích.
Còn nói Phật ra đời, cả đại địa đều chấn động, đây
cũng là một sự tiêu biểu mà thôi. Thường khi có một vị
Thánh nhơn ra đời, thì có những hiện tượng khác
thường. Điều nầy nói lên một sự kỳ đặc mà người
thường không bao giờ có. Sự chấn động đó không phải
là như động đất hiện nay. Nếu cả đại địa đều động đất
như hiện nay, thì cả nhơn loại làm sao sống sót. Như
vậy, Phật ra đời có ích lợi gì cho nhơn loại đâu? Chẳng
những không đem đến sự lợi ích cho nhơn loại, mà còn
hủy diệt nhơn loại nữa. Như thế, sao gọi là Phật được?
Hiện tượng động đất hiện nay là một hiện tượng tự
nhiên của thiên nhiên. Đó là dấu hiệu cho chúng ta biết
quả địa cầu đã đến hồi nứt rạn và đi lần đến tan hoại.
39. Thờ Phật Thích Ca mà chào nhau A Di Đà.
Hỏi: Tại sao ở cõi nầy, đại đa số đều thờ Phật Thích
Ca, mà Phật tử gặp nhau, thì lại chào nhau bằng câu
Phật hiệu A Di Đà Phật mà không niệm Bổn Sư Thích
Ca Mâu Ni Phật?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
90
Đáp: Vì Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ ở cõi
Ta Bà nầy, nên người ta tôn thờ Ngài là để nhớ đến
công ơn giáo hóa lớn lao của Ngài. Nhờ sự chỉ giáo của
Ngài mà người ta noi theo tu hành nên được giải thoát.
Do đó, hầu hết các chùa Phật giáo Bắc Tông cũng như
Nam Tông đều kính trọng tôn thờ Ngài. Còn về danh
hiệu của Ngài, người ta chỉ niệm vào những dịp lễ lộc
hoặc vào những thời khóa lễ tụng niệm. Chớ người ta
không niệm danh hiệu Ngài khi gặp và chào nhau. Bởi
lẽ, phật giáo có nhiều Tông phái, nhưng chỉ có những
người tu theo Tịnh độ tông mới chào nhau bằng câu
Phật hiệu A Di Đà mà thôi. Còn các Tông phái khác,
thì không có.
Sở dĩ những liên hữu phật tử khi gặp và chào nhau như
thế, mục đích là để họ thức nhắc cho nhau về một vị
Giáo Chủ mà họ đang hướng lòng về mong mỏi gặp
Ngài. Đây là một cách chào nhau vừa lịch sự trang
trọng mà cũng vừa thức nhắc cho nhau đừng quên câu
hiệu Phật. Vì người tu Tịnh Độ, lấy câu trì danh Phật
hiệu: “Nam Mô A Di Đà Phật” làm phương châm hành
trì. Bất luận thời gian và nơi chốn nào, hành giả cũng
phải lưu tâm nhớ niệm. Có thế, thì mới mong đạt thành
ý nguyện vãng sanh về Cực lạc. Do đó, nên việc thức
nhắc cho nhau bằng cách chắp tay xá chào và cả hai
đồng niệm câu A Di Đà Phật, thật là hợp lý và hữu ích.
40. Làm sao cho mẹ con khỏi tội.
Hỏi: Vào những ngày thọ Bát, con nhờ con của con
chở giùm, thì thấy nó không vui. Con kêu xe taxi đi, khi
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
91
đến chùa thọ Bát tu học, thì con cảm thấy rất buồn.
Vậy xin hỏi làm sao cho hai mẹ con đều không mang
tội?
Đáp: Nếu Phật tử buồn vì nhờ con chở đến chùa mà nó
không vui lòng giúp cho, thì tôi thành thật khuyên Phật
tử không nên buồn. Vì Phật tử nhờ mà nó không chở,
đôi khi nó có những lý do riêng của nó. Phật tử nên
chịu khó tìm hiểu mà cảm thông với tuổi trẻ ở xứ nầy.
Nếu nó không chở, Phật tử kêu taxi đi, thì có gì đâu
phải buồn và cũng không có gì là mang tội cả.
Nếu Phật tử buồn, thì chỉ thêm thiệt thòi cho mình
trong ngày thọ Bát tu học mà thôi. Mục đích phật tử
đến chùa tu học là để cho tâm được an tĩnh vui vẻ. Chớ
nếu như mang tâm sự buồn phiền thì đâu có lợi ích gì!
Cho nên, khi nào mình nhờ con mà nó vui vẻ giúp chở
giùm, thì đó là đứa con có hiếu và rất tốt. Vì nó ý thức
bổn phận làm con, biết yêu thương tôn kính và đây
cũng là dịp tốt để chúng nó báo ân phần nào cho cha
mẹ. Còn nếu nó không chở, thì mình nên tự xét, biết
đâu vì mình thiếu phước, nên không thể nhờ con được.
Xét như thế, thì mình lại cố gắng tu nhiều hơn. Phật tử
nên tìm hiểu: vì sao nó không chở mình? Phật tử có
làm gì nó buồn không? Hay là tại vì nó làm việc gì đó
mệt nhọc, hoặc thức khuya học hành hay cuối tuần tiệc
tùng với bạn bè, nên nó cảm thấy mệt mỏi cần phải ngủ
thêm cho đủ sức khỏe. Như thế, thì Phật tử nên thương
và cảm thông nhiều hơn, chớ đừng có thái độ trách móc
hay la rầy làm mình mất vui mà chúng nó cũng mất
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
92
vui. Đã mất vui, thì việc đi chùa của Phật tử thật sự
không được lợi ích.
Tốt hơn hết, là Phật tử nên khéo léo linh động mà xử sự
sao cho việc đi chùa của mình và trong gia đình đều
được hòa thuận an vui, như thế, mới xứng đáng là một
Phật tử hiểu đạo tu hành và mới cảm hóa được gia
đình. Bằng ngược lại, thì sẽ gây thêm sự phiền não cho
mình và cho gia đình mà thôi.
Không nên vì một việc nhỏ nhoi như thế, mà làm cho
gia đình mất đi hòa khí. Nhứt là tình mẹ con phải bị sứt
mẻ. Đôi khi chúng nó còn chê cười mình là chỉ biết đi
chùa thôi, chớ thật sự không biết tu hành gì cả. Vì
người biết tu là phải luôn sửa đổi tâm tánh, làm thế nào
cho phiền não tham, sân, si… càng ngày càng mỏng
dần, thì điều đó mới hay và mới thực sự là người biết tu
hành.
Tóm lại, nếu phật tử nhờ nó mà nó không chở, phật tử
buồn giận nó, thì lòng phật tử bất an. Như vậy, thì
chính mình càng thêm phiền não, sự tu hành không
được tiến bộ. Còn con của phật tử không phải có tội với
Phật mà chỉ có lỗi là làm cho phật tử không vui. Như
vậy, tốt hơn hết là mẹ con nên hiểu và thông cảm,
thương yêu giúp đỡ cho nhau, thì thật là tốt đẹp biết
mấy. Và như thế, thì việc tu hành hay đi chùa của phật
tử cũng như bổn phận làm con trả hiếu phần nào cho
cha mẹ, cả hai đều được lợi ích thiết thực vậy.
Kính chúc phật tử nên cố gắng an nhẫn tu hành.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
93
41. Sau khi thọ bát về nhà nấu đồ ăn mặn có lỗi
không?
Hỏi: Ngày con đi thọ bát đến chiều về nhà. Khi về nhà,
con làm thức ăn mặn cho con của con ăn. Xin hỏi: như
thế có được hay không?
Đáp: Câu hỏi của Phật tử không nói rõ là khi Phật tử
thọ Bát từ sáng đến chiều trong ngày chủ nhật, hay là
thọ Bát ngày thứ bảy mà Phật tử không ngủ lại chùa,
chiều lại về lo cơm nước cho con. Nếu Phật tử chỉ thọ
Bát ngày chủ nhật, sáng thọ giới tu học đến chiều xả
giới, thì việc nấu nướng của Phật tử không có gì sai
trái.
Ngược lại, nếu Phật tử phát nguyện thọ Bát trong thời
gian 24 tiếng đồng hồ, nghĩa là từ sáng thứ bảy cho đến
sáng chủ nhật mới xả giới, thì việc về nhà nấu mặn của
Phật tử, nó không đúng luật Phật chế. Vì Phật tử đã
phát nguyện tịnh tu trọn một ngày đêm ở tại chùa, mà
Phật tử về nhà ngủ nghỉ, như thế là đã trái với luật Phật
chế cho người tại gia thọ Bát quan trai giới tập tu theo
công hạnh của người xuất gia rồi. Như vậy, nếu Phật tử
hỏi về việc thọ Bát trọn một ngày đêm, thì tôi thành
thật khuyên Phật tử tốt hơn hết là nên sắp xếp việc nhà
cho ổn thỏa, trước khi Phật tử đến chùa thọ Bát. Có
như thế, thì cả hai mới được an vui, lợi ích.
42. Giải quyết thế nào giữa mẹ con được vui .
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
94
Hỏi: Nếu ngày thọ Bát, con của con cần đến con giúp
một vài việc cần thiết, khi ấy, con không đến chùa thọ
Bát được, thì lòng con cảm thấy bất an. Còn nếu con
không nhận giúp cho con của con, thì nó không vui.
Vậy xin hỏi: Phải giải quyết như thế nào cho cả hai
đều được vui vẻ?
Đáp: Việc nầy thật khó giải quyết cho cả hai đều được
lưỡng toàn. Vì ở đời, người ta thường nói: “Không ai
có thể bắt cá hai tay”. Nếu cố tình bắt như thế, thì rốt
lại chỉ là uổng công mà không được gì cả.
Trường hợp trên, chúng tôi chỉ xin thành thật khuyên
nhắc Phật tử, nên mở rộng cõi lòng mà giúp cho con nó
được vui vẻ. Bởi lẽ, Phật tử còn ở tại gia, đương nhiên
là nó còn sự quan hệ mật thiết trong gia đình rất lớn.
Nếu chỉ vì sự lợi ích cho riêng cá nhân mình, mà mình
không nghĩ gì đến sự giúp đỡ cho kẻ khác, thì điều đó
nó cũng chưa đúng ý nghĩa của sự tu hành. Hơn nữa, sự
giúp đỡ đó, lại là giúp cho người thân ruột thịt của
mình. Sự tu hành ở tại gia, Phật tử nên cố gắng giữ làm
sao cho mình và người, nói chung là trong gia đình đều
được thuận thảo trong ấm ngoài êm, như thế, mới thật
là quý giá tốt đẹp. Bằng ngược lại, mình chưa thật sự
cắt đứt mối giây liên hệ, thì làm sao lòng không áy náy
buồn phiền khi mình làm theo ý mình.
Như vậy, cả hai đều mất vui. Giả như, ngày hôm ấy,
Phật tử nhứt quyết là phải tới chùa thọ Bát, nhưng Phật
tử nên tự tra vấn lại lòng mình, mình có thật sự an tâm
tu học hay không? Hay là thân tuy ở trong chùa, mà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
95
tâm thì mãi bị ray rứt dày xéo khó chịu khi nghĩ đến
mình không giúp được cho con mình.
Từ đó, mình cảm thấy hối hận buồn lòng cho chính
mình. Như vậy, thì thử hỏi suốt ngày thọ Bát hôm đó,
Phật tử có được yên tâm tu học với chúng bạn hay
không? Và có được chút gì lợi lạc cho tâm hồn hay
không? Chẳng những không được lợi lạc mà còn có tội
nữa. Vậy tốt hơn hết, Phật tử nên giúp cho con của Phật
tử và đồng thời tìm cách giải thích cho chúng nó biết về
việc đi chùa thọ Bát, tu hành của phật tử. Mục đích là
để cho chúng nó cảm thông mà sau nầy ít phải nhờ vả
đến Phật tử. Như vậy, thì tình mẹ con không bị sứt mẻ
và càng yêu thương nhiều hơn. Vì thỉnh thoảng chúng
nó mới nhờ giúp giùm, chớ đâu phải nó nhờ mình hoài
như thế.
Tóm lại, người Phật tử biết tu nên khéo léo linh động
uyển chuyển trong việc tu hành, chớ đừng có cố chấp
quá mà làm mất đi sự hòa khí trong gia đình, nhứt là
tình mẹ con. Đó là điều trái với lẽ đạo và trái với sự tu
hành của chúng ta. Cố gắng càng tập tu hạnh hỷ xả
chừng nào, thì Phật tử càng được an lạc nhiều chừng
ấy. Kính chúc Phật tử nên an nhẫn mà cố gắng tu tập.
43. Chỉ cạo tóc không xuất gia bị người lầm
nhận xá chào có lỗi không ?
Hỏi: Con chưa xuất gia mà đã cạo tóc, nên người ta
lầm tưởng con là người xuất gia, mỗi khi gặp con ai
nấy cũng đều chắp tay kính cẩn xá chào, con cũng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
96
cung kính xá lại. Xin hỏi: Như thế, con có bị tổn phước
hay không?
Đáp: Việc đó không có gì là tổn phước cả. Chẳng qua
là người ta hiểu lầm mà thôi. Vả lại, Phật tử đâu có ý
muốn như thế. Nhưng trong khi người ta xá chào Phật
tử, thì Phật tử cũng xá chào lại. Điều đó, cả hai đều rất
tốt. Bị tổn phước, với điều kiện là khi người ta cung
kính chắp tay xá chào Phật tử mà Phật tử không cung
kính xá chào đáp lại. Chẳng những thế, Phật tử lại còn
có tâm đắc chí kiêu mạn, thích để người ta lầm tưởng
mà cung kính tôn trọng mình, xem mình như người
xuất gia. Nếu Phật tử có tâm như thế, thì không nên và
sẽ bị tổn đức rất lớn. Bằng không, thì không có gì là
tổn phước cả. Phật tử yên tâm không có gì phải lo sợ.
44. Sức khỏe kém muốn xuất gia ở nhà tu được
không ?
Hỏi: Con có ý định xuất gia, nhưng vì lý do sức khỏe
hay đau yếu bệnh hoạn, con không thể ở tại chùa được.
Vậy xin hỏi: sau khi xuất gia con có thể ở tại nhà tu
được không?
Đáp: Điều nầy chúng tôi không thể trả lời dứt khoát
được. Nếu Phật tử có ý muốn như thế, thì tốt hơn hết là
nên trình bày rõ cho vị thầy nào mà Phật tử định muốn
thế phát xuất gia. Sau khi trình bày cặn kẻ, thì tùy vị
thầy đó chỉ dạy và giải quyết cho Phật tử được mãn
nguyện. Nhưng, theo ý tôi, Phật tử vì sức khỏe kém,
hay đau yếu bịnh hoạn, tốt hơn là Phật tử nên giữ hình
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
97
thức của người tu tại gia, và cố gắng tập tu theo bản
nguyện của người xuất gia, là diệt trừ phiền não ra khỏi
Tam giới, như thế, được phần nào thì tốt phần ấy.
Nếu Phật tử xuất gia mà không học hỏi và hành trì
đúng theo hạnh nguyện của người xuất gia, thì chỉ càng
thêm tội mà thôi. Chi bằng Phật tử cứ tu tại gia, (vì lớn
tuổi yếu đuối không tu học ở trong chùa được) gắng
công chí thành niệm Phật, cầu vãng sanh, như thế, theo
tôi, thì có lẽ tốt hơn. Trên hình thức, Phật tử tuy ở tại
gia, nhưng xét về tánh, thì Phật tử đang hướng về xuất
gia. Bởi xuất gia có 3 nghĩa: 1. Xuất thế tục gia. 2.
Xuất phiền não gia. 3. Xuất Tam giới gia. Về 3 nghĩa
nầy, nếu Phật tử ở tại gia mà có ý hướng xuất gia,
quyết chí tu tập để ra khỏi nhà phiền não và tiến lên là
ra khỏi nhà Tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới)
Được như thế, thì thân tướng tuy ở tại gia mà tâm tánh
thì đã xuất gia rồi vậy.
Mong Phật tử suy xét lại cho thật kỹ trước khi quyết
định một vấn đề rất hệ trọng cho đời tu của mình. Đó là
lời khuyên thành thật của chúng tôi. Kính chúc Phật tử
luôn được an vui mạnh khỏe và luôn tinh tấn tu hành.
45. Ăn chay trường nấu mặn có tội không ?
Hỏi: Con ăn chay trường, nhưng vì hoàn cảnh con
phải nấu thức ăn mặn, phải xắt thịt cá để nấu ăn, như
vậy con có mang tội hay không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
98
Đáp: Việc ăn chay trường là chuyện phát nguyện riêng
của Phật tử. Điều đó rất tốt. Nhưng không vì thế, mà
Phật tử không nghĩ và lo đến những người khác trong
gia đình. Đó là hoàn cảnh bắt buộc. Bởi lẽ, Phật tử còn
ở tại gia, chỉ ở trong phạm vi tu nhơn thừa, chưa phải là
người tu hạnh xuất thế. Nên việc nấu nướng cho gia
đình, đó là bổn phận của Phật tử.
Việc xắt thịt cá, nấu đồ ăn mặn, thì không có tội lỗi gì
cả. Có tội lỗi là khi nào Phật tử mua những con vật còn
sống, rồi chính Phật tử ra tay giết hại chúng nó để nấu
cho gia đình ăn, thì điều đó là Phật tử đã phạm tội sát
sanh. Đã thế, thì việc ăn chay trường của Phật tử chỉ là
vô ích mà thôi. Vì trái với lương tâm và bản nguyện
cũng như đã phạm giới sát.
Ngoài ra, nếu Phật tử nấu ăn mà không có trực tiếp sát
hại sanh vật, thì Phật tử yên tâm không có gì là tội lỗi
cả.
46. Ăn chay trường mà mua thịt cá nấu cho gia
đình ăn có tội không?
Hỏi: Con ăn chay trường, thường ngày, sáng con tụng
kinh Pháp Hoa và chiều lại niệm Phật công cứ. Nhưng
khi đi chợ, thấy thịt cá tươi ngon, con thường mua về
nấu cho con của con ăn. Xin hỏi: Như vậy con có tội
hay không?
Đáp: Việc ăn chay trường và giữ đúng thời khóa tụng
niệm của Phật tử, thật là điều rất tốt và quý giá. Nhưng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
99
Phật tử nên nhớ, Phật tử vẫn còn là người tu tại gia, tức
tu theo nhơn thừa. Mà tu nhơn thừa, thì Phật dạy người
Phật tử giữ gìn 5 giới cấm căn bản. Việc giữ giới, tùy
theo mỗi người gìn giữ nghiêm nhặt hay không nghiêm
nhặt và tùy theo nghiệp sát hại nặng nhẹ mà quả báo có
sai khác. Mặc dù Phật tử ăn chay trường, tụng kinh
niệm Phật, nhưng, vì còn sống trong gia đình, nên việc
lo cho gia đình hay con cái ăn uống là chuyện không
sao tránh khỏi. Nói rõ hơn, đó là chuyện sinh hoạt bình
thường.
Tuy nhiên, nếu Phật tử mua những con vật đã chết,
ngoài thịt ra, thì không có gì mang tội cả. Ngược lại,
nếu Phật tử mua những con vật còn sống, rồi Phật tử tự
tay giết chúng để nấu ăn, thì điều đó, tất sẽ mang tội sát
sanh. Và đó cũng là phạm cái tội cố sát. Bằng ngược
lại, Phật tử chỉ mua những con vật đã chết và người ta
đã làm sẵn, thì không đến đổi phải mang tội.
Đó là luận theo tương đối, chớ nếu nói cho cùng, thì
hiện chúng ta là phàm phu sống trong vòng nghiệp thức
sai sử, mọi hành động, ý nghĩ, nói năng, ít nhiều gì
chúng ta cũng đều có tội lỗi cả. Nên Phật tử chúng ta
cố gắng giữ được phần nào thì tốt phần đó. Bởi thế,
giới luật tiếng Phạn gọi là Ba la đề mộc xoa, Trung
Hoa dịch là Biệt giải thoát. Nghĩa là giải thoát từng
phần, từng giới. Người Phật tử giữ được giới nào thì
thoát khổ giới đó. Thí dụ chúng ta giữ giới không trộm
cắp, thì cuộc sống chúng ta khỏi phải lo sợ tù tội và quả
báo đời sau cũng được tốt đẹp.
47. Thờ Phật Thích Ca mà niệm Di Đà.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
100
Hỏi: Tại sao trong chùa trên chánh điện thì thờ Phật
Thích Ca, mà khi tu thì người Phật tử lại niệm Phật Di
Đà?
Đáp: Thờ Phật Thích Ca, vì Ngài là giáo chủ cõi Ta bà
nầy. Chúng ta ngày nay biết đến và tu theo Đạo Phật,
cũng nhờ sự thuyết giáo chỉ dạy của Ngài. Nên chúng
ta tôn thờ Ngài là để một mặt, nhớ đến công ơn giáo
hóa của Ngài, mặt khác, cũng để noi gương học hỏi và
làm theo những điều Ngài đã thật hành được giác ngộ,
giải thoát.
Còn tại sao phật tử khi tu lại niệm Phật Di Đà? Không
phải người Phật tử nào khi tu cũng trì niệm danh hiệu
Phật Di Đà hết. Sở dĩ chúng ta niệm danh hiệu Phật A
Di Đà, lý do, là vì chúng ta là những người đang tu
theo pháp môn Tịnh Độ. (Và chỉ có những người tu
theo pháp môn Tịnh độ). Mà pháp môn Tịnh độ lấy sự
trì danh niệm Phật làm tiêu đích chính. Do đó, nên Đức
Phật Thích Ca khuyên chúng ta nên cố gắng niệm danh
hiệu Đức Phật Di Đà. Nếu chúng ta thiết thiệt niệm
danh hiệu Ngài, chẳng những hiện đời chúng ta được
an lạc mà tương lai cũng được an lạc.
Ngoài ra, chúng ta, vì căn cứ theo bản nguyện của Đức
Phật Di Đà, trong 48 điều đại nguyện của Ngài, nguyện
nào Ngài cũng muốn tiếp dẫn chúng sanh về cõi nước
của Ngài. Nếu như có chúng sanh nào thành tâm tha
thiết ngày đêm tưởng niệm đến danh hiệu Ngài, thì khi
lâm chung, Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về cõi nước
Cực Lạc của Ngài. Bởi thế, nên người tu Tịnh độ đều
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
101
hết lòng niệm danh hiệu Ngài để được vãng sanh về
Cực lạc. Ngược lại, những người tu theo các pháp môn
khác, thì không có niệm danh hiệu Ngài. Đó là tùy theo
căn cơ trình độ và sở thích của mỗi người.
48. Tại sao cha mẹ chết, người xuất gia không
lạy?
Hỏi: Tại sao người xuất gia, khi cha mẹ mất mà không
lạy lúc tẩn liệm cũng như lúc thiêu hay chôn? Như thế,
thì có phạm tội bất hiếu hay không?
Đáp: Xin thưa ngay là không có gì phạm tội bất hiếu
cả. Vì người xuất gia, trước khi vào chùa cạo tóc, đã có
xin phép cha mẹ và được cha mẹ đồng ý. Và trước khi
làm lễ thế phát xuất gia, người con lạy cha mẹ 3 lạy. Ba
lạy đó, nói lên lòng biết ơn cha mẹ và cũng để trả hiếu
đáp đền lại công ơn giáo dưỡng sâu dầy của cha mẹ. Từ
đó về sau, người xuất gia không còn lạy cha mẹ nữa.
Lý do, là vì sợ cha mẹ bị tổn đức. Bởi người xuất gia,
tuy hình hài là do cha mẹ sanh ra, nhưng huệ mạng là
do giới luật của Phật làm tăng trưởng. Mà “pháp thân
huệ mạng” đối với người xuất gia thật rất quan trọng.
Nên sau khi thọ giới luật rồi, người xuất gia phải gìn
giữ một cách rất nghiêm nhặt. Nhứt là sau khi thọ giới
Tỳ kheo, tức Đại giới hay Cụ túc giới, thì người xuất
gia càng phải thận trọng gìn giữ nhiều hơn nữa. Do đó,
nên giới đức ngày càng tăng trưởng.
Trong khi đó, thì cha mẹ là người tại gia, chỉ gìn giữ 5
giới cấm, cho nên xét về giới đức thì kém hơn rất
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
102
nhiều. Do đó, theo luật Phật dạy, thì cha mẹ kỉnh Phật
phải trọng Tăng. Dù ngày xưa là con, nhưng bây giờ là
người của đạo pháp, sống trong hàng ngũ Tăng già, nên
cha mẹ cũng phải kính trọng như bao nhiêu vị Tăng
khác. Đã kính trọng như thế, thì làm sao cha mẹ dám
để cho người xuất gia lạy mình.
Tóm lại, vì sợ cha mẹ bị tổn đức mà không lạy, chớ
không phải có ý xem thường hay bất hiếu như người
đời lầm tưởng. Hơn nữa, sự báo hiếu của người xuất
gia không phải chỉ có hình thức lễ lạy bề ngoài như
người thế gian, mà những vị đó thường đem những lời
Phật Tổ dạy để khuyến nhắc cha mẹ, hầu để cha mẹ
thức tỉnh mà lo tu hành để được an vui giải thoát. Đó
mới thật sự là báo ân cho cha mẹ vậy.
49. Thế nào mới là phạm ăn phi thời ?
Hỏi: Trong những ngày tu, con lãnh phần nấu cơm, khi
con giở cơm nguội ra, để lấy nồi nấu cơm mới. Khi rửa
nồi, thấy trong nồi còn dính vài hạt cơm, con sợ bỏ thì
tội, nên con đã bốc ăn. Vậy xin hỏi: Con có phạm giới
ăn phi thời không?
Đáp: Nếu bảo rằng phạm giới ăn phi thời, thì Phật tử
đã phạm. Đúng luật Phật dạy, thì quá giờ ngọ những
người xuất gia không được ăn. Phật tử đến chùa thọ Bát
quan trai giới, coi như quý vị tập tu theo hạnh người
xuất gia một ngày, hay nhiều ngày cũng thế.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
103
Tuy nhiên, cũng trong luật nói: chư Tổ xét thấy, người
đời nay cơ thể yếu đuối hay sanh đau yếu bịnh hoạn,
nên các Ngài tạm cho người xuất gia ăn chiều gọi là
Dược thạch. Chữ dược thạch có ý nghĩa là ngày xưa
người ta lấy đá mài thành kim để chích trị bịnh. Từ đó,
trong thiền môn dùng hai chữ nầy để nói lên người tu
khi dùng cơm chiều chẳng khác nào như là uống thuốc
để trị bịnh (bịnh đói) nên trong khi ăn không được sanh
vọng tâm tham đắm.
Và cũng trong luật, Tổ nhắc nhở là khi ăn, chúng ta
phải sanh lòng hổ thẹn. Như vậy, chư Tổ tạm cho,
nhưng khi ăn phải biết hổ thẹn, rằng, mình không giữ
đúng như lời Phật dạy.
Như vậy, thì việc ăn vài hạt cơm của Phật tử là đã
phạm phi thời trong phi thời. Nghĩa là Phật tử đã ăn
thêm sau giờ ăn chiều, dù chỉ là vài hạt cơm thôi. Tuy
nhiên, dù sao Phật tử cũng có lòng sợ tội, đối với
những hạt cơm do Đàn na thí chủ dâng cúng. Đó là
điều đáng khen. Nhưng lần sau, nếu khi rửa nồi mà nó
còn dính những hạt cơm trong nồi như thế, thì tốt hơn
hết là Phật tử nên để vào vật gì đó cho chim ăn. Đó
cũng là điều bố thí cho chúng sanh. Như thế, thì được
vẹn toàn cả hai vậy.
50. Người chết sau 49 ngày tiếp tục cầu siêu
được không ?
Hỏi: Trong gia đình, nếu có người thân qua đời, con
cháu cúng cầu siêu trong 49 ngày, niệm Phật mỗi đêm
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
104
trước bàn Phật. Nhưng sau 49 ngày, thì còn cầu siêu
bằng cách niệm Phật tiếp tục nữa không?
Đáp: Việc con cháu tụng kinh niệm Phật cho người
thân của mình trong vòng thời gian 49 ngày, đó là điều
rất quý kính. Đây cũng là noi theo trong kinh dạy mà
Phật tử làm theo. Như thế, thì rất đúng không có gì là
sai trái cả. Tuy nhiên, điều quan trọng là trong khi tụng
niệm, mọi người phải thành tâm tha thiết, đem hết lòng
thành để tụng niệm cầu nguyện. Được thế, thì người
tụng niệm được lợi lạc mà hương linh cũng được phần
nào lợi lạc.
Theo kinh Địa Tạng nói: người chết sau 49 ngày, gọi là
chung thất, thì vong linh của người mất, tùy nghiệp mà
thọ sanh chiêu cảm quả báo. Nếu hiện đời tạo nhiều
điều lành, thì sẽ thọ sanh về cảnh giới an lành. Ngược
lại, thì thọ sanh vào cảnh khổ. Tùy chỗ tạo nghiệp thiện
ác, mà thọ sanh qua các loài và các cảnh giới sai biệt
trong vòng lục đạo luân hồi. Cũng chính theo lời dạy
nầy, mà Phật tử thường hay cúng Trai Tăng vào ngày
chung thất.
Mục đích là nhờ sức chú nguyện của chư Tăng Ni, gọi
là đức chúng như hải, mà hương linh thác sanh về cảnh
lành. Tuy nhiên, nếu luận theo ý nghĩa của hai chữ cầu
siêu, thì không phải chỉ trong 49 ngày thôi. Vì cầu siêu
có nghĩa là cầu mong vượt qua: “từ cảnh giới tối tăm
xấu ác, vượt qua đến cảnh giới tốt đẹp an lành”. Hiểu
theo nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải cầu siêu, cầu
siêu cho chính bản thân ta, đồng thời cũng cầu siêu cho
mọi người luôn luôn được sống trong an lành.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
105
Theo ý nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải cầu siêu cho
ta và cho người mãi mãi thoát khỏi khổ đau để được an
vui giải thoát, chớ không phải chỉ trong phạm vi 49
ngày thôi.
Vì thế, sau 49 ngày, phật tử và những thân nhân trong
gia đình tiếp tục tụng kinh niệm Phật, thì đó là điều rất
tốt. Dù cầu siêu hay không, người Phật tử cũng nên
tụng kinh niệm Phật để cho hiện đời mình được an lạc
và đời sau cũng được an lạc. Và sau mỗi lần tụng kinh
niệm Phật như thế, thì Phật tử cũng nên cầu nguyện
cho hương linh thân nhân của mình, cũng như cho
những vong hồn khác, rộng ra là cho cả pháp giới
chúng sanh hữu tình vô tình đều trọn thành Phật đạo.
Đây là thể hiện tấm lòng từ bi vị tha của người Phật tử,
như thế, cũng rất là tốt đẹp vậy.
51. Làm lành chết bất đắc kỳ tử có được siêu
không?
Hỏi: Hiện đời nầy, con vâng theo lời Phật dạy làm
lành lánh dữ, như làm phước, niệm Phật v.v.. nhưng
một hôm nào đó, con bị tai nạn chết bất ngờ, như khi
đang tắm biển bị sóng thần cuốn mất. Như vậy, thì thần
thức của con sẽ đi về đâu? Có được về cõi Cực lạc
không?
Đáp: Luận về nghiệp báo, trong kinh Phật dạy có nhiều
loại nghiệp. Trong số những loại nghiệp đó, thì có 2
loại nghiệp báo mà người Phật tử thường nghe nói đến
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
106
nhiều nhứt. Đó là: “Tích lũy nghiệp và Cận tử nghiệp”.
Về Tích lũy nghiệp, tích lũy nó có nghĩa là cất chứa
chồng chất thêm lên, còn nghiệp là hành động lặp đi
lặp lại nhiều lần thành thói quen, Phật giáo gọi đó là
nghiệp. Như vậy, hiện đời, nếu Phật tử thường tạo
những nghiệp lành, như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật,
lạy Phật, bố thí, cúng dường v.v… thì những nghiệp
lành nầy càng ngày càng nhiều, nó được cất chứa vào
trong kho A Lại Da Thức hay Tàng thức. Chắc chắn là
không bao giờ mất. Trái lại, tạo nghiệp ác cũng như
thế. Đó gọi là Tích lũy nghiệp.
Còn Cận tử nghiệp thì sao? Cận là gần, tử là chết,
nghĩa là cái nghiệp gần với cái chết. Trong khi sắp
chết, trong tâm ta khởi lên nghiệp lành hoặc nghiệp dữ,
thì lúc đó ta tắt thở, tất nhiên là ta sẽ đi theo cái nghiệp
mà mình khởi lên trong khi sắp tắt thở. Cái nghiệp khởi
lên rất mạnh.
Thí dụ như người nào đó làm cho ta phải bực mình, nổi
sân hận lên, hoặc ta nhớ lại một hình ảnh nào đó quá
sâu đậm, như thương hoặc ghét người nào hoặc là món
đồ nào, liền khi đó ta tắt thở, thì thần thức sẽ theo cái
nghiệp thức nầy mà thọ sanh vào cảnh đó. Đó là đi theo
Cận tử nghiệp ác. Ngược lại, khi gần chết, bỗng có
người niệm Phật làm ta nhớ đến Phật, hoặc giả hằng
ngày ta thường xuyên niệm Phật, tuy lúc đó không có
người niệm Phật, nhưng nhờ cái thói quen niệm Phật
hằng ngày, nên lúc sắp chết ta trực nhớ đến Phật, ngay
lúc đó tắt thở, thì chắc chắn là ta sẽ đi theo Phật. Đó là
Cận tử nghiệp lành.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
107
Như vậy, nếu hằng ngày ta tu tạo những điều lành, mà
lúc sắp chết ta khởi nghiệp dữ, hoặc lưu luyến thương
tiếc điều gì, khi nhắm mắt, phải theo Cận tử nghiệp dữ
mà thọ báo. Tuy nhiên, trong lúc thọ báo của Cận tử
nghiệp, thì cái Tích lũy nghiệp thiện ác kia không bao
giờ mất. Khi trả hết Cận tử nghiệp, tùy thời gian lâu
mau không nhứt định, thì ta trở lại thụ hưởng cái Tích
lũy nghiệp mà hiện đời ta đã gây tạo. Nếu là nghiệp
lành, thì ta hưởng cảnh lành, như làm người được có
địa vị cao trong xã hội. Hay giàu sang tột bực v.v…
Ngược lại, thì chiêu cảm trả quả ác .
Tóm lại, Phật tử đừng có lo sợ, khi hiện đời mình làm
lành, tu tạo nhiều phước đức, bất thần bị tai nạn chết,
gọi là: “chết bất đắc kỳ tử”, thì thần thức không biết đi
đâu. Nghĩa là sớm hay muộn gì, nó cũng đi theo con
đường mà mình đã chọn khi còn mạnh khỏe. Điều quan
trọng là trong khi còn mạnh khỏe, ta nên cố gắng tu tạo
nhiều nghiệp lành, để sau khi nhắm mắt ta thác sanh về
cảnh lành. Như cây ngã, thì sẽ ngã theo chiều mà nó đã
nghiêng sẵn. Điều quan trọng là hằng ngày ta nên cố
tạo cho mình có một chiều nghiêng sẵn về những điều
lành cho thật mạnh, thì khi nhắm mắt ta sẽ ngã theo
chiều nghiêng điều lành đó.
52. Khi chấp tác nhổ cỏ làm chết những con vật
nhỏ có tội không?
Hỏi: Khi chúng con thọ giới Bát quan trai, trong 8
giới, thì giới không sát sanh lại đứng đầu. Tuy nhiên,
khi chấp tác, chúng con làm vệ sinh hay tảo địa…
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
108
chúng con quét đi rất nhiều con vật nhỏ, nhứt là kiến,
nhện, cuốn chiếu v.v… Chúng con cố gắng tránh mà
cũng không khỏi. Như vậy, xin hỏi: đối với giới sát và
luật nhân quả chúng con có phạm tội và có phải trả
quả báo hay không?
Đáp: Căn cứ vào giới bất sát cũng như luật nhân quả,
thì việc làm của Phật tử đương nhiên là đã phạm và
phải trả quả. Tuy nhiên, vấn đề nặng nhẹ có khác. Nếu
luận về tội, thì dù cố ý hay vô tình, thì cũng giết những
sinh vật khác, dù là sinh vật rất nhỏ nhít như con kiến,
con trùng v.v… Đã có giết, tất nhiên là đã thành tội.
Song có điều, ta cũng cần nên hiểu thêm, giới sát sanh
mà Phật cấm, chủ yếu là Phật cấm giết người. Vì mạng
sống của con người quý giá hơn hết. Rồi từ đó cứ hạ
thấp dần xuống, như trâu, bò, ngựa, chó v.v… những
sinh vật mà chúng nó có ân nghĩa với loài người chúng
ta, thì Phật dạy người phật tử nên mở rộng lòng thương
không nên cố ý giết hại chúng nó.
Đối với những loài sinh vật nhỏ hơn, ta cố giữ được
chừng nào, thì tốt chừng ấy. Luận cho cùng, thì thử hỏi
trong đời có mấy ai giữ trọn vẹn giới bất sát sanh nầy.
Vì bảo vệ mạng sống, khi bịnh chúng ta uống thuốc
cũng đã giết chết biết bao vi trùng trong cơ thể chúng
ta. Cho nên, Phật khuyên loài người nên tôn trọng sinh
mạng trên hết là loài người, chỉ cần cả nhơn loại biết
yêu thương và tôn trọng mạng sống con người lẫn
nhau, không nên ra tay sát hại nhau, giữ được ngần ấy,
thì lo gì thế giới không hòa bình. Nhưng ngặt gì nhơn
loại không giữ được cái giới không giết người nầy, nên
nhơn loại luôn luôn sống trong khổ đau. Giết người là
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
109
mạng sống lớn mà con người còn không giữ được, thì
nói chi đến những loài sinh vật nhỏ nhít khác.
Đối với người Phật tử, Phật cấm chúng ta chẳng những
không được giết người mà còn phải thương yêu tất cả
muôn loài vạn vật khác. Đó là thể hiện lòng từ bi. Nhứt
là tránh được quả báo oán thù.
Tóm lại, qua hành động sát hại sinh vật của Phật tử như
trong câu hỏi của Phật tử nêu ra, theo tôi, thì y cứ luật
nhân quả hễ có gây nhân dù là rất nhỏ, cũng đều có
quả, không thể nào tránh khỏi. Tuy nhiên, trong nhân
quả đó, nó còn có nhiều yếu tố phụ thuộc khác của cái
nhân trong khi gây tạo, do đó, mà kết quả có nặng nhẹ
sai khác nhau.
Trường hợp của Phật tử, thật ra, không phải tự ý Phật
tử đi tìm nó để giết hại. Việc làm của Phật tử là do quý
thầy và đại chúng công cử, sai bảo, chớ không phải
Phật tử tự ý đứng ra làm việc đó. Nên, nếu có tội là tội
chung, chớ không phải chỉ riêng một mình Phật tử lãnh
chịu. Thứ hai, là chủ tâm của Phật tử làm là quét dọn
chung quanh sân chùa cho được sạch sẽ, chớ Phật tử
đâu có chủ tâm tìm chúng để giết.
Như vậy, chúng bị chết, chẳng qua đó cũng là cái
nghiệp quả của chúng mà thôi. Chả lẽ vì sợ chúng chết,
rồi mặc cho cỏ rác mọc um tùm và tràn ngập cả sân
chùa, cứ để vậy mà chịu sao? Nếu thế, thì tại sao có bài
kệ được đề cao việc quét dọn sân chùa:
Thường tảo già lam địa
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
110
Thời thời phước huệ sanh
Tuy vô nhơn khách chí
Diệc hữu Thánh nhơn hành.
Nghĩa là:
Thường quét đất sân chùa
Phước huệ luôn luôn sanh trưởng
Tuy không du khách đến viếng
Cũng có Thánh nhơn đi qua.
Như vậy, Phật tử cũng đừng lo sợ, nếu có tội là tội
chung chớ không phải một mình Phật tử. Vì Phật tử
làm là do đại chúng sai bảo vậy.
53. Tạo tội như núi cả …
Hỏi: Trong phần nghi thức tụng kinh Pháp Hoa, có bài
kệ khen ngợi kinh, trong đó có 2 câu:
“Dù cho tạo tội hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu Pháp vài ba hàng”.
Xin hỏi: Có phải người dù tạo tội to như núi Tu Di đi
nữa, chỉ cần tụng vài hàng trong kinh Pháp Hoa, thì tất
cả tội chướng đều tiêu tan hết phải không?
Đáp: Xin chớ hiểu lầm ý của bài kệ nói. Không có
chuyện ngược đời như vậy được. Nếu như thế, thì tu
hành chi cho mệt sức. Trong khi sống, cứ tha hồ tạo tội,
đến khi bệnh nặng chỉ cần tụng vài ba hàng kinh Pháp
Hoa là xong ngay, bao nhiêu tội chướng chất chồng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
111
đều tiêu tan hết. Nếu hiểu như thế, thì chắc là cả thế
gian nầy đại loạn mất. Cuộc sống sẽ trở thành hỗn độn,
không còn ai biết lo sợ nhân quả báo ứng gì cả.
Ý của hai câu đó, theo chỗ chúng tôi hiểu là như vầy:
Đây là bài khen ngợi kinh, mà chủ yếu của kinh Pháp
Hoa là Phật dạy không ngoài bốn chữ: “Khai, Thị, Ngộ,
Nhập”. Bốn chữ nầy nhằm một mục đích chính mà
Phật muốn chỉ bày cho tất cả chúng sanh nhận ra và
sống được với cái “Thể tánh thanh tịnh sáng suốt” mà
mỗi người đều sẵn có, trong kinh gọi là: “Phật tri kiến”.
Nếu người nào nhận ra và sống đúng trọn vẹn với thể
tánh thanh tịnh bản nhiên sáng suốt nầy, thì dù cho bao
nhiêu tội lỗi đã có cũng đều tiêu tan hết. Lý do tại sao?
Bởi vì tội tánh vốn không.
Trong Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói:
“Chứng Thật tướng vô nhơn pháp, sát na diệt khước A
tỳ nghiệp”. Hay “Vô minh thật tánh tức Phật tánh, ảo
hóa không thân, tức Pháp thân. Pháp thân giác liễu Vô
Nhứt Vật….” Khi chứng Thật tướng, tức là “Tướng
Không” của muôn pháp, thì nhơn và pháp sẽ không
còn. Thật tướng là tên khác của Tri kiến Phật. Khi chưa
chứng được Thật tướng hay chưa chứng thật Tri kiến
Phật, thì nhơn ngã bỉ thử, tức là mọi vọng chấp đều có
đủ. Nhưng khi chứng ngộ rồi, thì mọi thứ đều tan biến
hết. Vì vô minh nó không có thật thể. Dụ như bóng tối
nó không có thật thể cố định. Như trong một căn
phòng, ban đêm tối đen như mực, bỗng có ánh sáng
chiếu vào, tất nhiên bóng tối kia không còn, nó tan biến
một cách rất nhanh chóng. Dù bóng tối đó trải qua hằng
mấy trăm năm cũng thế.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
112
Tại sao nó tan biến nhanh như vậy? Tại vì nó không có
thật thể cố định. Như vậy, bóng tối là dụ cho vô minh
hay tội lỗi, vì tội lỗi có ra là gốc từ vô minh, mà gốc
không có thì làm gì cái ngọn có? Như vậy, hai câu kệ
trên ý nói: Khi chúng ta nhận được cái Diệu Pháp, (tức
tên khác của Phật tri kiến), và sống trọn vẹn với cái
Diệu Pháp đó, thì không cần phải nhọc công tụng đọc,
dù chỉ là vài hàng thôi, thì bao nhiêu tội lỗi cũng không
còn. Ngược lại, dù chúng ta khổ công tụng không biết
bao nhiêu bộ, trải qua không biết bao nhiêu lần, rốt lại
tội lỗi vẫn còn nguyên vẹn. Lý do tại sao vậy? Tại vì
chúng ta tụng đọc suông trên văn tự chữ nghĩa, hay
tụng cho có phước. Thế thôi! Chúng ta không nhận
được ý kinh Phật dạy.
Tụng hết năm nầy đến năm khác, nhìn lại, phiền não
tham, sân, si vẫn không tiêu mòn chút nào. Thử hỏi
tụng đọc như vậy, thì làm sao tiêu tội cho được?! Muốn
hết tội, phải thấy Tánh (Diệu Pháp) và phải hằng sống
với cái Tánh thể đó, thì tội gì cũng không còn. Như mặt
trời hiển hiện chiếu sáng, thì tất cả mây mù đều tan
biến hết. Điều quan trọng là làm sao cho mặt trời Trí
Huệ hiển hiện…Chính đó mới là điều quan trọng.
54. Có phải vì bệnh làm phiền trong chúng…
Hỏi: Mỗi lần nhập chúng tu học, vì cơ thể già nua yếu
đuối, nên dễ sanh bệnh. Cứ mỗi lần bệnh làm phiền đến
những người khác phải quan tâm lo lắng. Vậy xin hỏi:
Như vậy, con có mắc cái tội làm động chúng không?
Và con có mất công đức tu học không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
113
Đáp: Bệnh là một trong bốn nỗi khổ lớn của con
người: sanh, già, bệnh, chết. Đã là quy luật chung thì
không ai tránh khỏi. Tuy nhiên, bệnh trạng nặng nhẹ,
còn tùy thuộc vào nghiệp lực của mỗi người mà có
nặng nhẹ khác nhau.
Trường hợp của Phật tử, không có gì là mang tội làm
động chúng cả. Tội động chúng là khi nào tới giờ ngủ
nghỉ mà Phật tử không chịu nằm yên để ngủ, hoặc vì
ngủ không được, nên Phật tử đi đứng gây tiếng động
làm ồn những người khác không ngủ được, như thế, thì
Phật tử mang tội làm động chúng. Vì trong thời gian tu
học, mọi người rất cần đến sức khỏe để hành trì giữ
đúng theo thời khóa, mà Phật tử không tôn trọng giờ
giấc ngủ nghỉ của những người khác, như vậy, Phật tử
vừa phạm nội quy mà cũng vừa làm động chúng nữa.
Đây là điều mà mọi người dự tu trong những khóa tu
ngắn hay dài hạn do chùa tổ chức, cần nên chú ý để
tránh những lỗi lầm nầy. Còn trường hợp của Phật tử
có khác. Vì bệnh là ngoài ý muốn của Phật tử.
Vả lại, trong tinh thần sống chung hòa hợp của một tập
thể, thì cần phải thể hiện tinh thần tương trợ cho nhau,
nhứt là trong khi có một người nào đó đau yếu bệnh
hoạn. Nên việc những người khác giúp cho Phật tử, đó
là chuyện bình thường và rất tốt, không có gì là động
chúng cả. Như vậy, hai trường hợp khác nhau rất xa.
Phật tử yên tâm không có gì là mang tội. Phật tử cũng
không có mất công đức tu học. Tuy nhiên, như trên
chúng tôi có nói, bệnh là nghiệp quả của mỗi người,
nhứt là trong khi tu học mà Phật tử lại bị bệnh, như
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
114
vậy, thì nghiệp của mình hơi nặng. Phật tử nên thành
tâm sám hối cho tiêu bớt nghiệp. Nếu trong khi bệnh,
nhưng mọi thời khóa tu học, Phật tử vẫn giữ đều đặn,
thì không có gì là mất công đức.
Ngược lại, nếu Phật tử vì bệnh mà không theo đúng
thời khóa cùng với đại chúng, thì đương nhiên, Phật tử
sẽ bị thua thiệt hơn người ta. Nhưng, nếu trong lúc
bệnh nằm trong phòng không đi tụng niệm được, mà
Phật tử vẫn cố gắng nhiếp tâm niệm Phật, được như
thế, thì không có gì phải mất công đức cả. Mất công
đức là khi nào, Phật tử khỏe mạnh, mà tìm cách lẩn
trốn thời khóa không đi tụng niệm cùng với đại chúng,
đó mới là mất công đức. Chẳng những thế, mà còn
mang thêm tội thọ dụng của Đàn na thí chủ nữa. Vì
những người nầy, họ bỏ công sức ra lo nấu nướng cho
mình ăn mà mình không lo tu và thêm cái tội sống
không hòa chúng. Trường hợp nầy, khi tu học cùng với
đại chúng, thì không nên có. Ngoài ra, Phật tử yên tâm
không sao cả. Không ai chấp nhứt những người thật sự
bệnh hoạn như Phật tử đâu.
55. Ý nghĩa câu tình dữ vô tình…
Hỏi: Trong bài phục nguyện cũng như trong bài sám
có câu: tình dữ vô tình giai cộng thành Phật đạo. Hoặc
tình dữ vô tình đồng viên chủng trí. Xin hỏi: ý nghĩa
của hai câu nầy như thế nào?
Đáp: Muốn hiểu ý nghĩa của hai câu nầy, trước hết,
chúng ta cần hiểu ý nghĩa của những từ ngữ: “Phật đạo
và Chủng trí”. Phật đạo ở đây không có nghĩa là chỉ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
115
cho Phật quả. Mà ta có thể hiểu là chỉ cho Tánh giác.
Còn danh từ “chủng trí” cũng là tên khác của Tánh giác
mà thôi. Bởi trong kinh có nói đến 3 loại trí: 1. Nhứt
thiết trí là trí của hàng Thanh Văn. 2. Đạo chủng trí là
trí của Bồ tát. 3. Nhứt thiết chủng trí là trí của Phật.
Như vậy, chủng trí nói cho đủ là “Nhứt thiết chủng
trí”, tức cái trí biết tất cả chủng loại. Còn tình, nói đủ
là hữu tình, tức chỉ cho những loài có tri giác tình thức
phân biệt. Còn vô tình là những loài không có tri giác.
Mà những loài không có tri giác, thì làm sao biết tu
hành thành Phật được.
Cho nên, nếu chúng ta hiểu hai chữ Phật đạo là Phật
quả, thì không làm sao giải nghĩa được hai câu trên.
Còn nếu chúng ta hiểu Phật đạo hay chủng trí ở nơi cái
Tánh thể, thì mới giải thích được. Lý do tại sao? Bởi vì
tất cả các loài hữu tình hay vô tình đều có chung một
Tánh thể. Vạn vật đồng nhứt thể. Dụ như muôn ngàn
lượn sóng to nhỏ có khác nhau, nhưng tất cả đều từ
nước mà có. Sóng tuy có khác mà nước thì chỉ có một.
Nước là thể mà sóng là tướng và dụng của nước vậy.
Tánh thể nầy là tánh thanh tịnh bản nhiên của muôn
vật. Ở nơi loài hữu tình, thì gọi nó là Phật tánh; ở nơi
loài vô tình, thì gọi nó là Pháp tánh. Như vậy, giữa Phật
tánh và Pháp tánh, danh từ tuy khác, nhưng Thể không
hai. Tuy nhiên, nếu ta nói một cũng không đúng. Tại
sao? Vì tánh thể nầy khi tác dụng ở nơi loài hữu tình,
tiêu biểu như loài người, thì gọi đó là trí huệ và dùng trí
huệ nầy nhận ra được tánh thể của muôn loài, thì gọi đó
là pháp tánh. Người nào nhận ra và sống trọn vẹn với
cái tánh thể đó, thì gọi người đó là Phật hay bậc Đại
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
116
giác. Như vậy là hai mà không hai, (trong kinh thường
gọi là Pháp môn bất nhị), vì giác ngộ việc đó nên thành
phật thì Phật cũng không ngoài Pháp tánh. Nói chung,
hữu tình và vô tình đều có chung một bản thể sáng suốt
thanh tịnh, nên nói là đồng thành Phật đạo hay đồng
viên chủng trí cũng thế.
56. Kiến Tư hoặc Và Trần sa hoặc khác nhau
thế nào?
Hỏi: Kiến hoặc, tư hoặc và trần sa hoặc, ba thứ hoặc
nầy giống nhau và khác nhau như thế nào?
Đáp: Ba thứ nầy có điểm giống nhau và cũng có những
điểm khác nhau. Giống nhau ở chỗ, ba thứ nầy đều là
vô minh phiền não, đều có tác dụng làm cho chúng
sanh mãi bị trầm luân trong sanh tử. Tuy nhiên, chúng
cũng có những điểm khác nhau. Trước hết xin nói sự
khác biệt giữa kiến hoặc và tư hoặc, rồi sau mới nói
đến khác biệt với trần sa hoặc.
Kiến hoặc là gì? Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc
về Lý. Chúng gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà
kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Còn tư hoặc là những
thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5 thứ:
tham, sân, si, mạn, nghi. Gọi chung 10 thứ nầy là 10
thứ căn bản phiền não. Vì chúng là cội gốc gây ra bao
nhiêu sự khổ đau mà con người luôn luôn hứng chịu.
Mười thứ nầy, tuy cũng là gốc phiền não, nhưng cường
độ sâu, cạn, hay mạnh, yếu của chúng có khác nhau.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
117
Nhà Duy thức chia chúng ra làm hai loại: “ngũ độn sử
và ngũ lợi sử”.
Đối với 5 món: tham, sân, si, mạn, nghi, hành tướng
của chúng rất sâu và mạnh, nên gọi chúng là độn (chậm
lụt và khó trừ). Ngược lại, 5 thứ kia: thân kiến, biên
kiến… thì hành tướng của chúng yếu hơn, nên gọi là
lợi sử. Sử có nghĩa là sai khiến, chúng sai khiến người
ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng. Đối với 5 thứ
trước, hành giả phải tu đến địa vị “Tu đạo” mới trừ
được. Còn 5 món sau, vì tánh cách mê lý cạn cợt, nên
hành giả tu hành đến địa vị “Kiến đạo” (thấy rõ chân
lý và tin chắc lý nhân quả) thì trừ được chúng.
Nói chung, hai thứ nầy, khác nhau về cường độ mạnh
yếu và hành tướng chậm lụt cũng như nhạy bén có sai
khác. Và khi đoạn trừ, cũng có sự khác nhau ở địa vị tu
chứng. Đó là đại khái sự khác nhau giữa Kiến, Tư hoặc
là như thế.
Còn đối với trần sa hoặc thì có khác. Bởi trần sa hoặc
không phải là thứ phiền não của các vị A la hán. Vì
những vị A la hán đã đoạn hết kiến, Tư hoặc, nhưng
các ngài bị chướng ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của
chúng sanh. Nghĩa là các ngài thấy phiền não của
chúng sanh nhiều như là cát bụi (trần sa). Do đó, các
ngài không dám ra độ sanh như các vị Bồ tát. Như vậy,
sự khác biệt giữa kiến, Tư hoặc và trần sa hoặc là như
thế.
57. Thọ Tam quy không sanh về cảnh giới ác…
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
118
Hỏi: Trong kinh nói: quy y Phật bất đọa địa ngục, quy
y Pháp bất đọa ngạ quỷ, quy y Tăng bất đọa bàng
sanh. Người Phật tử sau khi quy y, không còn đọa vào
các loài nầy nữa, tức không đọa vào Tam đồ, tất nhiên
sẽ sanh vào cảnh giới an vui. Như thế, thì tại sao người
Phật tử sau khi chết lại thỉnh chư Tăng Ni tụng kinh
cầu siêu? Như vậy có chống trái hay không?
Đáp: Thật ra không có gì là chống trái. Trong kinh nói
về Tam quy y ở trên, không có nghĩa là ám chỉ cho con
người sau khi chết mới không bị sa đọa. Nếu chúng ta
hiểu như thế, mới là chống trái lại với ý kinh. Kinh nói
rất rõ. Muốn hiểu được nghĩa lý trên, chúng ta cần phải
hiểu rõ về ý nghĩa của từng câu một.
Tại sao quy y Phật không đọa vào địa ngục? Quy y có
nghĩa là trở về nương tựa, còn Phật nghĩa là giác ngộ,
sáng suốt. Như vậy quy y Phật, nghĩa là trở về nương
tựa với một bậc giác ngộ sáng suốt. Qua câu nầy, nếu
chúng ta chỉ hiểu đơn sơ ở phần sự tướng bề ngoài, thì
không đúng. Bởi vì, hiện tại có lắm người sau khi quy
y Tam Bảo rồi , họ tạo nghiệp bất thiện như cướp của,
giết người v.v… Họ lại bị bắt nhốt trong lao ngục. Như
thế, thì ta thử hỏi tại sao họ đã quy y Tam Bảo rồi mà
họ còn phải bị đọa như vậy? Đó có phải là vì họ chỉ
quy y suông, chớ họ không có gìn giữ giới cấm hay thật
sự trở về với Phật.
Một người, sau khi quy y Tam Bảo, chỉ cần biết nương
theo Tam Bảo thế gian, rồi cố gắng làm lành theo
những lời Phật dạy, thì làm gì có xảy ra cảnh tù tội
giam cầm. Đó là nói quy y theo nghĩa cạn cợt hình
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
119
tướng mà còn được lợi ích như thế, hà tất gì quy y ở
nơi phần lý tánh. Cho nên, người phật tử khi quy y phải
biết quy y có hai phần: “Sự quy y và Lý quy y”.
Ý nghĩa trong kinh nói về Tam quy ở trên, không phải
nói về Sự quy y mà nói về Lý quy y. Lý quy y là sao?
Lý là lý thể, tức chỉ cho phần tánh giác sáng suốt của
mỗi người sẵn có. Mỗi người chỉ cần trở về nương tựa
(đấy là một cách nói theo ngôn ngữ) với tánh giác sáng
suốt, thì làm gì có rơi vào địa ngục. Bởi địa ngục là nơi
tối tăm (nghĩa đen) nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn của
chúng ta bị phiền não cấu nhiễm nổi lên làm bức bách
khó chịu. Đó là trạng thái bị rơi vào địa ngục. Hễ có tối
tăm, thì không có sáng suốt, hay ngược lại cũng thế.
Còn ngạ quỷ là loài quỷ đói, do nhân bỏn xẻn mà có ra
cái quả đau khổ đó. Nếu một người đã thật sự trở về
nương tựa với chánh pháp, với tánh thể bình đẳng, trải
rộng lòng từ bi thương yêu muôn loài, không có tâm
keo kiết bỏn xẻn, luôn giúp đỡ cho mọi người thoát khổ
được vui. Người có tâm như thế, thì làm gì đọa vào loài
quỷ đói.
Còn súc sanh cũng thế, một tâm hồn si mê u tối, sống
không có luân thường đạo đức, không phân biệt phải
trái, tốt xấu, hành động càn bướng, đó là nếp sống của
loài súc sanh. Ngược lại, người có tâm hồn sáng suốt
thanh tịnh, sống theo chân lý, không chút tà tâm sái
quấy, thì làm gì đọa vào súc sanh hay bàng sanh.
Nói tóm lại, người Phật tử đã thật sự quy y Tam bảo cả
Sự lẫn Lý, đúng theo ý nghĩa quy y, thì bảo đảm người
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
120
đó hiện đời sẽ không đọa vào tam đồ ác đạo như đã nói
ở trên. Đã thế, thì sau khi họ chết, có cầu siêu hay
không, không thành vấn đề. Vì hiện đời họ đã siêu rồi,
tức họ đã vượt qua cảnh giới khổ đau rồi. Nhân đã như
thế, thì quả cũng phải như thế. Không thể quả trái
ngược lại nhân. Cho nên việc cầu siêu đó, chẳng qua
làm theo lệ thường tình mà thôi. Như vậy, có cũng tốt
mà không có cũng chẳng sao. Hiểu như vậy, thì không
có gì là chống trái cả.
58. Tụng Kinh cầu siêu có thật sự siêu hay
không?
Hỏi: Việc tụng kinh cầu siêu cho người chết có thật sự
siêu hay không?
Đáp: Vấn đề nầy, thú thật chúng tôi không thể nào trả
lời một cách quả quyết dứt khoát được. Bởi không
thấy, không biết, thì làm sao dám nói quả quyết. Tuy
nhiên, theo chỗ học hiểu của chúng tôi, thì người Phật
tử hay không phải Phật tử, tốt hơn hết là mình nên cầu
siêu cho chính mình lúc còn sống.
Cầu siêu lúc còn sống là sao? Bởi vì hai chữ cầu siêu,
nó có nghĩa là mong mỏi vượt qua mọi khổ đau. Nhưng
nếu chúng ta chỉ cầu siêu suông bằng cách nói như thế,
thì ngàn đời cũng không thể nào vượt qua khỏi khổ đau
được. Muốn vượt qua khỏi khổ đau, thì chúng ta cần
phải tu. Nghĩa là chúng ta cần phải làm lành lánh dữ.
Điều gì xấu ác, không lợi cho bản thân và tha nhân, thì
chúng ta quyết định không làm. Như người Phật tử, sau
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
121
khi quy y thọ ngũ giới rồi, quyết tâm gìn giữ không
phạm, được thế, thì hiện đời đã siêu rồi, còn nói gì đến
đời sau. Ngược lại, điều xấu ác luôn làm, thì làm sao
tránh khỏi quả báo khổ đau.
Có người vì quá tham lam, sân hận, gây ra thảm cảnh
cướp của giết người. Có người vì nghiện ngập cờ bạc,
rượu chè say sưa, hút xách, không kiềm chế được tánh
xấu, nên đã gây ra nhiều tội phạm, bị pháp luật trừng trị
hình phạt tương xứng theo nhân mà họ đã gây tạo, như
bị đánh đập tra khảo tù đày v.v…
Như thế, thì làm sao chúng ta có thể cầu cho người đó
siêu được? Không thể người nầy ăn, người khác lại no,
hay người nầy học, người kia biết chữ. Làm gì có
chuyện ngược đời như thế. Như vậy là phản với luật
nhân quả. Cũng thế, khi một người tạo tội đã bị giam
cầm hình phạt, thì ta không thể tối ngày cầu nguyện nói
rằng: Xin cho người đó hết tội! xin cho người đó hết
tội!
Thử hỏi cầu nguyện như thế người đó có hết tội hay
không? Hay là chính do người đó phải cải hối ăn năn
qua những hành động mình đã làm và phải thể hiện
những hành động cụ thể cho người có trách nhiệm
trông coi mình, biết mình có thật tâm cải thiện. Chừng
đó, người ta mới xét đến mà ân xá hoặc tha cho.
Còn những lời cầu nguyện van xin kia, chỉ có tánh cách
giúp cho tội nhân kia cảm động mà hồi tâm cải ác tùng
thiện, cải tà quy chánh, chuyển đổi ở nơi tâm thức và
hành động. Chớ nó không có một thần lực nào cứu vớt
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
122
người đó khỏi tội được. Như vậy, việc cầu siêu chỉ là
một trợ duyên thôi. Tất cả đều tùy thuộc vào đương sự.
Khổ vui chính do người đó tự quyết định lấy.
Hiểu theo ý nghĩa cầu siêu như thế, thì người Phật tử
không còn ỷ lại vào chư Tăng, Ni tụng kinh cầu siêu
nữa. Bởi thực tế, thì chư Tăng Ni cũng phải cầu siêu
cho chính họ. Và khi tụng thì tụng theo xưa bày nay
làm, chớ thật sự không có một vị Tăng Ni nào dám quả
quyết là siêu hay không siêu. Vì có thấy biết đâu mà
dám nói càn. Thực tế là như thế.
Tóm lại, tự mỗi người phải lo tu, đừng bao giờ ỷ lại
vào bất cứ ai kể cả Phật, Bồ tát, vì các Ngài cũng
không thể cứu vớt chúng ta, bằng thần lực hay đưa tay
cứu khổ. Các Ngài chỉ cứu khổ cho chúng sanh bằng
cách chỉ dạy qua những lời được kết tập trong kinh
điển. Nếu chúng ta y cứ vào đó mà hành trì, thì đó là
chính ta tự cứu lấy ta vậy. Và như thế mới là thượng
sách và mới đúng với ý nghĩa cầu siêu. Bằng ngược lại,
thì chúng ta sẽ chuốc khổ dài dài đi mãi trong vòng
luân hồi khổ đau bất tận. Kính mong mọi người nên tự
xét lấy!
59. Giản biệt giữa tu phước và tu huệ.
Hỏi: Xin giản biệt giữa tu phước và tu huệ khác nhau
như thế nào ?
Đáp: Tu phước và tu huệ khác nhau trên ý niệm và trên
kết quả. Thế nào khác nhau trên ý niệm? Như chúng ta
thấy một người nghèo khổ, động lòng từ bi, chúng ta
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
123
tìm cách giúp đỡ cho họ. Từ đó, chúng ta bố thí cho họ
tiền bạc, của cải v.v… để cho họ được no cơm ấm áo.
Đó là chúng ta khởi niệm tu phước.
Còn khởi niệm tu huệ là sao? Khi chúng ta khởi nghĩ đi
đến chùa để học hỏi nghe giáo lý Phật dạy, liền đó
chúng ta đi ngay. Và khi đến chùa, chúng ta vào lớp
học để nghe quý thầy giảng dạy. Trong khi nghe, chúng
ta chăm chú nghe từng lời nói của vị giảng sư rồi chúng
ta suy nghĩ thật chính chắn qua từng lời nói, sau đó,
chúng ta đem ra ứng dụng thật hành để được lợi lạc cho
bản thân ta.
Như vậy, giữa hai ý niệm khác nhau, một đàng là
chúng ta khởi niệm muốn giúp đỡ người khác để chúng
ta được có phước. Ngược lại, đằng nầy, chúng ta khởi
nghĩ học hỏi chánh pháp để trau dồi trí năng của chúng
ta, ngày thêm được sáng suốt hơn. Như vậy, rõ ràng có
sự khác biệt ở nơi cái nhân của Ý Niệm. Và khi kết quả
cũng có khác nhau. Kết quả của sự bố thí, cúng dường,
thì chúng ta hưởng được phước báo giàu sang, an vui.
Ngược lại, kết quả của sự trau dồi học hỏi qua 3
phương pháp: “Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ”, kết quả,
chúng ta sẽ được trí huệ sáng suốt.
Như thế, tu phước, thì xuất phát từ lòng từ bi, vì có
thương người, thương vật nên chúng ta mới thi ân giúp
đỡ. Còn tu huệ, thì xuất phát từ lý trí, biện biệt được lẽ
chánh tà chân ngụy. Trong kinh Phật dạy, người Phật
tử cần phải gia công tu tập cả hai: “Phước trí lưỡng
toàn mới phương tác Phật”. Chúng ta không nên chỉ tu
nghiêng một bên. Nếu chỉ đặt nặng một bên, thì chẳng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
124
những không đạt được kết quả tốt đẹp lợi lạc, mà còn
gây ra nhiều tai hại nữa. Nếu chỉ có từ bi mà không có
trí huệ đi kèm, thì từ bi đó dễ trở thành mù quáng.
Ngược lại, chỉ có biết tu huệ không thôi, thì đó là trí
huệ khô, chẳng làm lợi lạc cho ai. Vì vậy, người Phật
tử cần phải tu hết cả hai vậy.
60. Vô thường có phải là chủ thuyết bi quan
không?
Hỏi: Vô thường có phải là chủ thuyết bi quan không?
Đáp: Vô thường không phải là chủ thuyết bi quan, mà
trái lại, nó là chủ thuyết lạc quan. Lý do tại sao? Bởi vì,
mọi vật trên đời nầy, nhờ vô thường nên chúng luôn
luôn đổi mới. Như dòng nước trôi chảy không bao giờ
đứng yên một chỗ. Nhờ có sự thay đổi đó, mà xã hội
luôn luôn tiến bộ. Nếu mọi vật đứng yên một chỗ, thì
cuộc đời nầy vô cùng buồn tẻ, và có lẽ, cũng không còn
ai tha thiết muốn sống.
Như chúng ta trồng một cây kiểng, nếu cây kiểng đó, tự
nó không có sự biến chuyển thay đổi, thì làm gì nó trở
nên tươi đẹp. Dù chúng ta có ra công chăm sóc tới đâu
đi nữa, thì nó cũng không bao giờ thay đổi. Cũng như
dòng nước trong xanh tươi mát kia, sở dĩ nó được trong
xanh như thế, là vì nhờ nó luôn luôn trôi chảy không
dừng, nó cuốn phăng đi những thứ rác rến, nhơ nhớp,
không bị tù hảm thành dơ bẩn. Một thí dụ khác, như
khi chúng ta dùng thực phẩm hằng ngày, nếu không vô
thường, thì thực phẩm kia làm sao tiêu hóa. Nếu không
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
125
tiêu hóa, vật nào nguyên vẹn vật đó, thì làm sao chúng
ta có thể sống được?
Tóm lại, sự đời nhờ vô thường mà cuộc sống luôn luôn
đổi mới, thú vị, yêu đời. Hiểu như thế, thì chúng ta nên
khéo lợi dụng sự vô thường đó mà luôn luôn đổi mới
thân tâm của chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp để làm
thăng hoa trong cuộc sống. Đó là một thái độ khôn
ngoan và luôn luôn lạc quan, yêu đời vui sống. Như
vậy, theo lý vô thường, tự nó sẽ đào thải tất cả những gì
lỗi thời không phù hợp thích nghi với nền văn minh
tiến bộ của nhơn loại mỗi ngày mỗi đổi mới.
61. Có nên tụng Kinh Kim Cang Bát Nhã
không?
Hỏi: Trong lúc thảo luận, nói chuyện về việc tụng kinh,
có một bà bạn nói với con: Tụng kinh gì cũng được,
nhưng đừng có tụng kinh Kim Cang Bát Nhã. Con hỏi
tại sao? Bà ta không giải đáp được. Vậy xin hỏi lý do
tại sao như vậy?
Đáp: Đây là một huyền thoại đã có từ lâu. Huyền thoại
nầy không biết xuất phát từ đâu và thời nào. Một huyền
thoại vô căn cứ, không lý lẽ, người không hiểu cứ thế
mà nói chuyền nhau, gây ra lắm điều tai hại.
Trường hợp như bà Phật tử kia, chỉ nói như thế mà
không biết lý do vì sao. Vì truyền thuyết cho rằng, tụng
kinh Kim Cang Bát Nhã gia đình sẽ xào xáo lộn xộn,
bất an, vườn tượt khô héo, mọi việc đều xui xẻo không
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
126
may. Thử hỏi Kinh Kim Cang Bát Nhã do ai nói? Hẳn
ai cũng biết kinh nầy là do Phật nói. Đã do Phật nói, thì
tại sao người tụng đọc kinh nầy lại bị những hiện tượng
bất an nói trên? Nói như thế, chả lẽ Phật lại lường gạt
gài bẫy chúng sanh hay sao? Nếu có ác tâm như thế, thì
sao gọi là Phật? Những ai bịa đặt nói thế, nếu không
phải là có ác ý qua hệ tư tưởng thâm sâu của kinh nầy,
thì quả thật họ không hiểu gì về diệu lý thâm ý của
kinh cả. Nếu vì không hiểu, thì nên tìm hiểu. Bằng
chưa hiểu thì không nên nói càn nói bướng như thế. Kẻ
nói như thế khác nào hù dọa người ta, thật là tội lỗi!
Toàn bộ hệ thống kinh Bát Nhã gồm có sáu trăm
quyển, mà kinh Kim Cang Bát Nhã chỉ là kết tinh của
toàn bộ 600 quyển đó thôi. Đây là một hệ tư tưởng siêu
việt, nhằm phá vỡ tất cả mọi vọng chấp của chúng
sanh. “Phá vọng hiển chơn” là mục đích chính của
kinh nầy. Một hệ tư tưởng cao siêu như thế, mà họ dám
cho rằng người tụng đọc kinh nầy thì gia đình lại bị xáo
trộn bất an.
Vì trong phạm vi trả lời câu hỏi, nên ở đây, chúng tôi
không muốn luận giải đi sâu vào thâm ý của kinh.
Chúng tôi chỉ xin trả lời một cách ngắn gọn vắn tắt và
dứt khoát rằng: “Nội dung toàn Kinh Kim Cang Bát
Nhã, đức Phật chỉ nhắm vào một mục đích duy nhất là
phá chấp bốn tướng: “Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ
giả”. Nói gọn hơn là phá hai thứ vọng chấp mà tất cả
chúng sanh chấp chặt nặng nhứt, đó là “Ngã chấp và
Pháp chấp”. Người nào không còn hai thứ vọng chấp
nầy, thì họ sẽ đạt được cứu cánh giải thoát, tức đồng
với Phật quả vậy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
127
Ý kinh thậm thâm vi diệu như thế, nhưng tiếc vì người
ta không hiểu, nên mới có vọng truyền sai lầm như vậy.
Than ôi! Quả thật họ là kẻ mù lòa đi trong đêm tối!
Thật là đáng thương xót biết bao! Người Phật tử không
nên tin tưởng một điều gì mà không được sự kiểm
chứng của trí huệ. Phải vận dụng trí huệ soi sáng cho
thật cặn kẽ vấn đề trước khi đặt định niềm tin. Có thế,
mới không bị sai lầm và niềm tin của chúng ta mới thật
sự là chánh tín.
62. A Tu La là gì ?
Hỏi: A Tu La là gì? Có mấy loại A Tu La? Và thân
hình của chúng ra sao?
Đáp: A Tu La tiếng Phạn là Asura. A Tu La có nhiều
tên gọi khác nhau: A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A
tu luân. Trong Kinh thường nêu ra ba loại A Tu La: 1/
A Tu La thiên đạo. 2/ A Tu La quỉ đạo. 3/ A Tu La súc
đạo.
Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, quyển 1, trang 84
giải thích: “A Tu La là 1 trong 6 đường, 1 trong 8 bộ
chúng, 1 trong 10 giới, một trong những vị thần xưa
nhất ở Ấn Độ.
Một loại quỷ thần hiếu chiến, thường bị coi là ác thần
và thường tranh đấu với trời Đế Thích không ngừng
nên có danh từ A Tu La trường, A Tu La chiến v.v…
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
128
Theo phẩm A Tu La Luân trong Kinh Tăng Nhất A
Hàm 3 : Thân hình của A Tu La cao 84.000 do tuần,
miệng rộng mỗi bề 1.000 do tuần. Còn phẩm A tu La
Luân trong Kinh Trường A Hàm 20, phẩm A tu luân
trong Kinh Đại Lâu Thán 2. Kinh Khởi Thế Nhân Bản
5 v.v…đều ghi rõ chỗ ở và sự tích của A Tu La.
Về nghiệp nhân của A tu la, các Kinh thường nêu ra 3
thứ nhân làm cho chúng sanh sanh trong loại nầy: Sân,
mạn, nghi.
Theo Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp
Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 thứ nhân làm cho chúng
sanh sanh trong loài A tu la.
1.Thân làm việc ác nhỏ. 2. Miệng nói lời ác nhỏ. 3. Ý
nghĩ điều ác nhỏ. 4. Khởi tâm kiêu mạn. 5. Khởi tâm
ngã mạn. 6. Khởi tâm tăng thượng mạn. 7. Khởi tâm
đại mạn. 8. Khởi tâm tà mạn. 9. Khởi tâm mạn mạn.
10. Hướng về các căn lành.
Hình tượng của A tu la có nhiều thuyết khác nhau. Có
chỗ cho rằng: A tu la có 9 đầu, 1000 mắt, miệng phun
lửa, có 990 tay, 6 chân, thân to gấp 4 lần núi Tu di. Có
chỗ cho rằng: A tu la có 1000 đầu, 2000 tay; 10.000
đầu, 20.000 tay; 3 đầu, 6 tay. Có chỗ cho rằng: A tu la
có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ, lõa hình và có 6 cánh
tay.
63. Lục chủng chấn động.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
129
Hỏi: Đọc trong Kinh có chỗ nói: Khi đức Phật Thích
Ca ra đời có 6 thứ chấn động. Con không hiểu 6 thứ
chấn động nầy là gì? Và nếu như khi Phật ra đời mà cả
đại địa đều chấn động như thế, thì cả nhơn loại làm
sao mà sống sót? Như thế, thì lòng từ bi của Phật ra
sao?
Đáp: Sáu tướng chấn động trong chữ Hán gọi là Lục
chủng chấn động. Nói về sáu thứ chấn động nầy, trong
Kinh có nhiều chỗ nói khác nhau. Trong Từ Điển Phật
Học Huệ Quang có dẫn ra 3 kinh nói về 6 thứ chấn
động nầy.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 1 nói rằng: sự chấn động của
mặt đất tùy theo phương hướng mà có 6 tướng: Đông
trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc sụt, Bắc
trồi, Nam sụt, Bên trồi Giữa sụt và Giữa trồi Bên sụt.
Theo Kinh Hoa Nghiêm 16 ( bản tân dịch ) Kinh
Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân 1
v.v… nói rằng: 6 tướng chấn động là: Động, Khởi,
Dũng, Chấn, Hống và Kích. Động là lay động không
yên, Khởi là từ thấp dần dần lên cao, Dũng là bỗng
nhiên vọt lên, 3 thứ nầy chỉ cho hình thức địa chấn.
Chấn là phát ra tiếng động ầm ỉ, Hống là tiếng rống
mạnh của loài thú, Kích là phát ra tiếng dội ầm ầm, 3
thứ nầy chỉ cho âm thanh địa chấn.
Theo Kinh Đại Phương Quảng Đại Trang Nghiêm thì
cho rằng, 6 tướng chấn động là: 1. Diêu động, Cực diêu
động, Biến diêu động; 2. Khấu kích, Cực khấu kích,
biến khấu kích. 3. Di chuyển, cực di chuyển, biến di
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
130
chuyển. 4. Dũng phú, cực dũng phú, biến dũng phú. 5.
Xuất thinh, cực xuất thinh, biến xuất thinh. 6. Bên trồi
giữa sụt, giữa trồi bên sụt, Đông trồi tây sụt…
Trên đây là chúng tôi y cứ vào trong các kinh nêu ra về
6 thứ chấn động. Tuy nhiên, qua câu hỏi của Phật tử là
khi Phật ra đời mà cả đại địa đều chấn động (động đất)
như thế, thì cả nhơn loại làm sao sống sót? Về điểm
nầy, theo ngu ý của tôi, thì sự chấn động đó không phải
nói về sự chấn động ở bên ngoài. Vì phần nhiều trong
các kinh điển Đại thừa thường hay nêu ra nhiều ẩn dụ.
Khi đọc kinh mà ta không hiểu được điều nầy, có đôi
khi ta lại lầm nhận ý kinh. Chẳng hạn như trong Kinh
Pháp Hoa có một phẩm gọi là “Tùng Địa Dõng Xuất”.
Nghĩa là nói rằng, các vị Bồ tát từ lòng đất vọt lên
v.v… Hay phẩm « Hiện Bảo Tháp » chẳng hạn. Đây là
ý tại ngôn ngoại. Nếu chúng ta chỉ một bề y cứ vào
phần sự tướng tiêu biểu đó mà hiểu, thì đôi khi oan cho
ba đời chư Phật.
Cho nên khi nghiên cứu kinh điển của Phật giáo, ta
phải lưu ý điều nầy. Nếu không, thì sẽ hiểu lầm nơi ý
kinh, nói rõ ra là ta không hiểu thâm ý lời Phật dạy và
như thế thì thật là đắc tội. Ở đây cũng thế. Trong kinh
nêu ra 6 thứ chấn động đó, theo tôi, thì không phải là
nói đất bên ngoài chấn động. Nếu nói thế, thì làm sao
chúng ta có thể giải thích được. Nói đại địa chấn động
đây, đó là một ẩn dụ.
Trong Kinh thường nói, bản tâm của chúng ta giống
như là đất. Cho nên có một quyển kinh có tên là Tâm
Địa Quán. Còn nói 6 thứ chấn động đó là ý nói ở nơi 6
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
131
căn. Vì tâm ta, khi tác động vào căn nào, thì có sự chấn
động ở căn đó. Như tác động vào mắt, thì mắt thấy rõ;
khi tác động vào tai, thì tai nghe rõ âm thinh v.v…. Các
căn kia cũng như thế. Tâm ta thí như một dòng điện,
tùy theo các bộ phận mà dòng điện vào, tất nhiên phát
ra công dụng. Phật ra đời là nói khi tâm ta được giác
ngộ bừng sáng. Khi bản tâm đã hoàn toàn giác ngộ, thì
6 căn trở nên một chấn động rất lớn. Bấy giờ chính 6
căn đó sẽ trở thành 6 lực dụng thần thông.
Ngược lại, nếu ta hiểu theo sự chấn động như động đất
bên ngoài, thì như thế, rất là tai hại cho nhơn loại. Chả
lẽ Phật ra đời làm cho nhơn loại phải chịu đau khổ như
thế sao?! Thật là phi lý. Phật ra đời với mục đích là cứu
độ chúng sinh, cho chúng sinh hết khổ được vui. Đằng
nầy vui đâu chưa thấy mà thấy đau khổ trước mắt. Tất
cả đều bị hủy hoại chôn vùi. Có trận động đất nào mà
không gây ra cảnh chết chóc tang thương, nhà tan cửa
nát? Hiện trạng nầy cả nhơn loại đã và đang kinh hoàng
lo sợ.
Ra đời gây ra cảnh tang thương thống khổ cho nhơn
loại như thế, thì thử hỏi Phật ra đời có ích lợi gì? Điều
nầy, quả thật là trái ngược với lòng từ bi của Phật. Hiểu
theo nghĩa chấn động bên ngoài, thì thật là không có lý
lẽ và rất tai hại cho Phật giáo. Nói lên điều nầy, cũng
chỉ là sự nhận hiểu nông cạn của chúng tôi mà thôi. Dĩ
nhiên, mỗi người sẽ có những nhận định hiểu biết khác
nhau. Tuy nhiên, sự nhận định nào cũng phải dựa trên
thực tế và hợp với chân lý mà xét đoán luận giải.
64. Ý nghĩa chuông trống bát nhã.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
132
Hỏi: Mỗi khi chùa có lễ lớn, con thường thấy chư
Tăng Ni hay đánh chuông trống bát nhã. Con không
hiểu đánh chuông trống bát nhã có ý nghĩa gì? Kính
xin Thầy hoan hỷ giải đáp cho con.
Đáp: Trong nhà Phật, mỗi một phật cụ đều có một ý
nghĩa đặc biệt. Tiếng trống hay tiếng chuông trong
thiền môn khi đánh lên đều ngầm có ý là cảnh tỉnh mọi
người nên thức tỉnh tu hành. Mỗi thứ khi sử dụng, đều
có pháp thức riêng.
Chuông trống bát nhã rất quan trọng trong thiền môn.
Chuông trống bát nhã thường đánh lên vào những buổi
lễ pháp sự đặc biệt, như thuyết pháp, truyền giới, Sám
hối v.v…Và mỗi khi đánh lên ngầm ý thỉnh Phật
thượng đường chứng minh. Đồng thời cung nghinh chư
Tôn Đức và cũng để cho mọi người chú ý nhiếp tâm trở
về với chánh niệm. Cụ thể là giờ hành lễ quan trọng.
Về cách thức đánh chuông trống bát nhã cho đúng,
người đánh cần phải y cứ vào bài kệ:
Bát nhã hội ( 3 lần )
Thỉnh Phật thượng đường
Đại chúng đồng văn Bát nhã âm
Phổ nguyện pháp giới đẳng hữu tình
Nhập Bát nhã ba la mật môn ( 3 lần )
Muốn đánh chuông trống bát nhã cho đúng theo bài kệ
trên, thì người học cần phải học trực tiếp với những vị
đã biết qua. Trống bát nhã, thường chỉ có chư Tăng Ni
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
133
trong chùa sử dụng thôi. Phật tử tại gia muốn học đánh,
cần phải đến chùa nhờ chư Tăng Ni chỉ dạy.
Về ý nghĩa, ngoài âm vang của tiếng trống cảnh tỉnh
khách trần ra, nó còn nói lên một ý nghĩa đặc thù siêu
việt. Mục đích là nhằm nhắc nhở mọi người cần phải
trang bị cho mình có đầy đủ trí huệ sáng suốt. Vì trí
huệ rất là quan trọng. Dù hành giả tu bất cứ pháp môn
nào, mà thiếu trí huệ chỉ đạo, thì coi như sự tu hành
không có kết quả tốt đẹp. Nếu không có trí huệ sáng
suốt để biện biệt chánh tà, chân ngụy, thì trong khi ứng
dụng tu hành, chúng ta dễ bị sai lệch và đi vào con
đường tà ngoại.
Vì Bát nhã quan trọng như thế, nên chư Tổ mượn hình
thức cái trống, để khi đánh lên nhằm thức nhắc mọi
người tăng cũng như tục phải luôn nhớ đến cái trí Bát
nhã sẵn có ở nơi chính mình. Trí Bát nhã nầy, còn gọi
là Vô sư trí. Nhưng muốn nhận ra cái Vô sư trí nầy,
hành giả cần phải nương cái trí hữu sư, tức cái trí do
học hỏi ở nơi thầy bạn mà có được.
Sự thức nhắc cho chúng ta nhớ lại cái bản tâm sẵn có,
trong nhà Phật có nêu ra rất nhiều phương tiện hình
thức. Ở mức độ thấp hơn, khi nghe âm thanh của những
pháp khí đó, như trống, chuông, mõ v.v… thì người
nghe chóng hồi tâm thức tỉnh để gắng lo tu niệm. Phải
hết lòng siêng năng làm lành lánh dữ, không nên gây
tạo những nghiệp ác mà phải chuốc lấy quả khổ đau.
Cho nên, khi chúng ta đến chùa mỗi khi nghe những
âm thanh của những thứ nói trên, thì lập tức chúng ta
hãy trở về với chánh niệm. Hay nói rõ hơn là phải luôn
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
134
thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm. Muốn có trí huệ, tất
nhiên người Phật tử cần phải học hỏi trau dồi qua 3
môn học Văn, Tư, Tu. Đó là ba món huệ học tối thiết
yếu mà người Phật tử cần phải lưu tâm nỗ lực nghiên
tầm. Có thế, thì mới xứng đáng là người Phật tử chơn
chánh học Phật.
65. Nhứt nhơn hành đạo cửu huyền thăng.
Hỏi: Câu nói: Nhứt nhơn hành đạo cửu huyền thăng.
Nếu nói như thế, thì có trái với luật nhân quả không?
Xin hỏi: câu nầy ý nghĩa như thế nào? Kính xin thầy
giải đáp.
Đáp: Không có gì chống trái với luật nhân quả cả. Câu
nói, mới nghe qua người ta dễ hiểu lầm. Không phải
một người tu hành, thì cả dòng họ chín đời đều được
siêu thăng hết. Chữ siêu thăng ở đây, xin chớ vội hiểu
là về Cực lạc hay an hưởng cảnh giới Niết bàn. Nếu chỉ
một người biết lo tu hành mà mọi người khác trong
thân tộc đều được về Cực lạc hay an trụ Niết bàn hết,
thì thật là khỏe khoắn vui sướng biết bao! Hiểu như thế
là chống trái với luật nhân quả. Vì trên đời nầy, không
có chuyện người nầy ăn mà người khác no. Ai ăn nấy
no, ai học nấy biết chữ. Ai tu nấy thành, ai hành nấy
đắc. Luật tắc nhân quả là như thế.
Câu nói trên, theo chỗ hiểu của chúng tôi, thì ngầm ý
nói rằng: Nếu trong dòng họ mà có một người xuất gia
tu hành chơn chánh, thì có thể cảm hóa được những
người thân thuộc khác. Có nghĩa là những người trong
thân tộc sẽ phát tâm tu theo. Trải qua một đời cho đến
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
135
nhiều đời đều như thế. Như trường hợp đức Phật Thích
Ca, Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cứ mỗi đời
Ngài phát nguyện tu, thì đều có những người thân
thuộc phát tâm tu theo. Cho đến sau khi thành Phật,
những người thân có duyên xưa kia phát tâm tu theo
Ngài, tất cả đều có mặt trong pháp hội thuyết giáo của
Ngài. Và những người nầy tu hành đều được giải thoát
cả. Cụ thể hơn, là sau khi xuất gia tu hành đắc đạo,
Ngài trở về hoàng cung hóa độ được những người thân
theo Ngài tu hành giải thoát.
Sự tác động ảnh hưởng của Ngài quá lớn. Ngài đã gây
ảnh hưởng cho những người khác phát tâm bồ đề
hướng thiện tu hành, nói siêu thăng là như thế. Siêu
thăng là vượt lên cái tâm bất thiện để trở thành cái tâm
thiện. Nói rõ hơn là vượt lên cái tâm phàm tình gây tạo
ác nghiệp để chuyển thành cái tâm thánh thiện hiền
lương. Còn nói cửu huyền là một cách nói trải qua
nhiều đời. Cứ mỗi đời trong thân tộc có người xuất gia
tu hành, thì những người thân khác phát tâm tu theo.
Nghĩa là một người tu được giải thoát, thì nó có một tác
động mạnh mẽ, đánh thức được bao nhiêu người trong
thân tộc khác để hướng về đạo đức tu hành làm lành
lánh dữ v.v…
Hiểu như thế, thì không có gì là chống trái với nhân
quả cả. Chẳng những không chống trái mà còn đúng
theo luật nhân quả. Bởi vì nhờ vào hình ảnh của một
người thân thuộc tu hành có đức độ mà cảm hóa ảnh
hưởng đến những người khác hướng thiện tu hành. Đó
là điều rất thực tế và tốt đẹp. Đức Phật cảm hóa trong
hoàng tộc của Ngài là như thế, chớ không phải Ngài
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
136
dùng thần thông đưa hết dòng họ của Ngài về Cực lạc
hay Niết bàn. Nhờ vào hình ảnh siêu thoát của Ngài mà
đánh động được tâm thức những người khác phát tâm
tu theo, nên kết quả họ cũng được siêu thoát như Ngài.
Nói siêu thăng là như thế.
66. Vấn đề chánh tín và mê tín.
Hỏi: Người Phật tử đã quy y thọ ngũ giới rồi, tại sao
còn tin vào bói toán và coi ngày giờ tốt xấu, xin xăm,
cúng sao hạn v.v… Như thế có trái với luật nhân quả
hay không?
Đáp: Xin thưa ngay là hoàn toàn chống trái với luật
nhân quả.
Đây là điều mà phần lớn người Phật tử chúng ta vướng
mắc phải. Có những người, tuy đã quy y Tam Bảo,
nhưng hạt giống tà ngoại của họ còn quá sâu dầy, nên
việc mê tín dị đoan, thật họ khó lòng bỏ hẳn. Đối với
Phật pháp, tín tâm của họ rất mỏng. Hơn nữa, sự
nghiên cứu học hỏi Phật pháp của họ cũng không được
sâu rộng lắm. Do đó, mà lòng tin ở nơi chánh lý nhân
quả của họ không được vững chắc. Điều nầy, là một
hiện tượng chung thật quá đau lòng !
Người Phật tử quy y Tam Bảo thì nhiều, nhưng tin sâu
vào Tam Bảo và hiểu được Phật pháp, thì chẳng có bao
nhiêu. Thế nên, tình trạng mê tín vẫn còn kéo dài mãi.
Sự mê tín nầy không những chỉ ở nhơn gian thôi, mà
ngay cả ở trong chùa cũng vẫn có. Nghĩa là, Tăng, Ni
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
137
vẫn còn coi ngày, coi sao, đoán quẻ v.v… Như thế, thì
trách gì Phật tử! Tệ trạng nầy, không phải mới đây, mà
nó đã có từ lâu đời.
Việc mê tín ở Việt Nam hiện nay, phải nói xảy ra rất
nhiều và tai hại rất trầm trọng. Dù đã được những bậc
Tôn đức tu hành chơn chánh thuyết giảng kêu gọi Phật
tử không nên mê tín mù quáng. Đặt niềm tin không
đúng chỗ, nó sẽ gây ra tai hại lớn lao. Chẳng những hại
mình trong đời nầy mà nó còn kéo dài nhiều đời sau
nữa. Thế nên, người Phật tử cần phải xây dựng cho
mình một lòng tin đặt trên nền tảng trí tuệ. Nói cách
khác, người Phật tử phải dùng ngọn đuốc trí tuệ soi
sáng và chỉ đạo cho niềm tin. Có thế, thì mới mong
thoát khỏi vòng khổ đau lẩn quẩn.
Trong Kinh Di Giáo, trước khi vào Niết Bàn, đức Phật
đã ân cần dặn dò khuyến nhắc các thầy Tỳ kheo, các
thầy nên ghi nhớ, sau khi tôi diệt độ, các thầy không
được: … “Xem tướng lành dữ, trông xem sao hạn,
xem xét thạnh suy, coi ngày đoán số, đều không nên
làm…” Dù đã có lời răn nhắc của Phật, nhưng tệ trạng
tập tục nầy từ xưa tới nay cũng vẫn còn tiếp diễn và
chưa biết đến bao giờ mới thật sự chấm dứt!
Xin nhắc lại: “Tin như thế, thì hoàn toàn chống trái với
luật nhân quả”. Chánh tín và mê tín là hai phạm trù dị
biệt, như sáng với tối. Hễ có sáng thời không có tối. Hễ
có tà kiến, thì không có chánh kiến. Hễ có mê tín, thì
không có chánh tín. Ngược lại cũng thế. Đạo Phật là
đạo giác ngộ, là đạo chủ trương chánh kiến, chánh tín.
Đạo Phật không bao giờ chấp nhận tà kiến, mê tín. Là
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
138
người Phật tử dù xuất gia hay tại gia, chúng ta phải có
bổn phận nêu cao chánh lý nhân quả và hướng dẫn mọi
người đi đúng trên lộ trình giác ngộ. Đúng theo lời Phật
dạy. Lệch quỹ đạo giác ngộ là chính ta đã đánh mất vai
trò xiển dương chánh pháp và như thế, thật là đắc tội
với Tam Bảo.
Trong quyển Bước Đầu Học Phật, do Hòa Thượng
Thích Thanh Từ biên soạn, có bài viết nói về:”Mê Tín
Và Chánh Tín” ở đoạn kết luận, ( trang 122 ) có đoạn
Hòa Thượng viết: “Đạo Phật chủ trương chánh tín,
không bao giờ chấp nhận mê tín. Do vì người truyền
đạo không thông lý đạo, nên ghép những tập tục thế
gian vào trong đạo, khiến người ta hiểu lầm đạo Phật
mê tín. Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ,
làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong
chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội
phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan tình của
đạo Phật. Tất cả những Kinh Phật không có nói những
việc mê tín ấy chẳng qua một số người vì tùy tục, vì
thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi. Người học Phật
chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm
ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy
giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó,
có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng
ta cương quyết vì chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng,
vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì sợ mất mát
bổn đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người
lãnh đạo tín đồ, mới không hổ thẹn là hàng Tăng Bảo.”
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
139
67. Những ngày kinh nguyệt có nên tụng niệm
bái sám không ?
Hỏi: Là người nữ trong thời kỳ kinh nguyệt, chúng con
có được phép tụng Kinh bái sám như những ngày
thường được không?
Đáp: Xin thưa ngay là không có gì trở ngại cả. Trong
Luật Phật không có ngăn cấm điều nầy. Bởi lẽ, kinh
nguyệt là một hiện tượng sinh lý tự nhiên của người
phụ nữ. Điều đó, không ai muốn như thế. Đó là một
định lý tự nhiên mà không người phụ nữ nào tránh
khỏi. Đã thế, thì tại sao Phật tử lại lo sợ? Phật tử đừng
có ái ngại lo sợ gì cả. Chỉ lo sợ là Phật tử giải đãi rồi
viện cớ lý do mà bỏ ngang sự tu hành, thì đó mới là
điều đáng trách và đáng nói. Ngoài ra, không có gì phải
bận tâm lo lắng.
Nếu bảo rằng, đó là những bài tiết dơ dáy, thì thử hỏi
trong cơ thể con người, tất cả những chỗ bài tiết khác
có chỗ nào sạch sẽ hết đâu? Phật dạy, thân nầy vốn là
bất tịnh kia mà! Không lẽ vì sự bất tịnh mà chúng ta lại
bỏ phế việc tu hành sao? Hơn nữa, chư Phật, Bồ tát,
các Ngài đâu còn có tâm phân biệt chấp trước nhơ sạch
như phàm phu tục tử chúng ta. Các Ngài lúc nào cũng
mong mỏi khuyến khích chúng ta tinh tấn tu hành. Đã
thế, thì thời gian đối với sự tu hành của người Phật tử
phải nói là vàng bạc quý báu. Không giờ phút nào lại
không tu hành. Dù tu theo thời khóa hay không thời
khóa cũng thế. Vì một ngày qua, thân ta mỗi suy tàn
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
140
già yếu. Bệnh hoạn và cái chết đến với chúng ta không
biết lúc nào. Thử hỏi có mấy ai lường trước được?
Thế thì, tại sao chúng ta không nghĩ đến sự vô thường
nhanh chóng mà nỗ lực gắng chí lo tu? Phật tử nỗ lực
tu hành, công phu tụng kinh, bái sám, chư Phật, Bồ tát,
các Ngài thương không hết có đâu lại quở trách sự
không trong sạch của Phật tử.
Đối với Phật Pháp, sự nhơ bên ngoài không đáng kể,
mà đáng kể nhứt là cái nhơ trong lòng của chúng ta.
Cái cấu trược phiền não tham, sân, si, mới là cái đáng
cho chúng ta quan tâm mà gấp lo tiêu trừ. Nói thế,
không phải chúng ta coi thường phần sự tướng bên
ngoài. Nhưng chúng ta phải biết cái nào quan trọng và
cái nào thứ yếu. Cái nào gốc, cái nào ngọn. Cái quan
trọng, thì chúng ta phải quan tâm nhiều hơn. Đó là sự
sáng suốt khéo biện biệt của người Phật tử trong lãnh
vực tu hành.
Tóm lại, Phật tử cứ yên tâm không có gì phải lo ngại.
Phật tử cứ sinh hoạt tụng kinh bái sám như thường lệ.
Không có gì là tội lỗi cả. Chỉ mong sao Phật tử cố gắng
giữ thời khóa tụng niệm bình thường. Được vậy, chư
Phật và Bồ tát rất hoan hỷ và khen ngợi sự tinh tấn tu
hành của Phật tử.
Chúc Phật tử luôn an vui và luôn tinh tấn trên bước
đường tu niệm, cầu nguyện Phật tử chóng đạt thành
đạo quả.
68. Ăn chay dùng trứng gà được không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
141
Hỏi: Vào những ngày ăn chay, Phật tử tại gia chúng
con có ăn trứng gà được không? Con nghe người ta
nói, trứng gà không trống ăn được. Nếu ăn, có bị mang
tội không?
Đáp: Phật giáo Bắc tông (Đại Thừa) chủ trương ăn
chay, là vì lòng từ bi và hơn nữa là muốn tránh quả báo
oán thù. Không vì mạng sống của mình mà làm tổn
thương đến những mạng sống của những con vật khác.
Nếu bảo ăn chay là tu, theo tôi, thì chưa đúng hẳn. Bởi
vì, Phật giáo Nam tông (Nguyên Thủy) đâu có ăn chay
ngày nào. Ngay cả đức Phật và các vị Thánh Tăng theo
Phật thời xưa, các Ngài đâu có ăn chay. Các Ngài ôm
bát đi khất thực, ai cúng gì ăn nấy. Phật tử Ấn Độ thời
Phật, họ ăn mặn chớ đâu có ăn chay. Như vậy, chả lẽ
các Ngài không ăn chay là không tu sao? Không tu, sao
các Ngài thành Phật và thành A la hán? Song có điều
các Ngài không tự tay sát hại mà thôi. Người Phật tử
cần phải hiểu cho thật rõ giới thứ nhất nầy.
Trong giới thứ nhất, Phật dạy người Phật tử không
được sát sanh, nhưng chủ yếu Phật dạy, là không được
giết người. Vì mạng sống con người rất là quan trọng
so với các loài vật khác. Điều nầy, đối với luật pháp thế
gian cũng thế. Giết người là một trọng tội, tất nhiên
phải bị ở tù. Ngược lại, giết hại sinh vật, thì không.
Cho nên, người Phật tử không được giết người. Gìn giữ
không giết người là căn bản, rồi từ đó hạ xuống dần
đến những loài súc vật nhỏ khác. Tránh sát hại được
bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Chớ nếu giữ một cách tuyệt
đối, thì không ai giữ đúng cả. Kể cả chư Tăng Ni ở
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
142
trong chùa cũng không tránh khỏi. Thử hỏi khi Tăng Ni
bệnh có cần uống thuốc không? Nếu uống, thì cũng đã
giết hại biết bao con vi trùng rồi. Thế thì, luận cho
cùng, không một ai tránh khỏi cả.
Câu hỏi của Phật tử, theo tôi, thì người Phật tử tại gia
ăn trứng gà vào những ngày ăn chay là không có gì tội
lỗi cả. Vì sao, vì trứng gà vốn không có trống. Mà
không có trống, tức không có mầm sanh. Không có
mầm sanh, thì làm gì có sự giết hại? Nếu có mầm sanh
mà mình giết, thì hơi tàn nhẫn. Đấy là nói, những
người tu hạnh xuất thế cần giữ, để tiến lên đạo quả Bồ
đề nhanh chóng. Còn đối với Phật tử tại gia, tu theo
nhơn thừa, tức theo hình thức giới tướng giữ 5 giới, thì
việc ăn trứng gà không trống, thật không có gì tội lỗi.
Điều nầy, đối với người tu Tiên, thì cấm kỵ. Vì tu Tiên
là họ luyện tập để cho thân thể được nhẹ nhàng. Cho
nên, họ không ăn những thức ăn trược uế. Ngược lại,
người tu Phật thì không thế.
Lý do tại sao chúng tôi dám quả quyết như thế, Vì theo
Luật Phật dạy, cái gì có mầm sanh mà mình đoạn tuyệt
mạng sống của nó, thì mới có tội. Còn trứng gà, như
Phật tử đã nói là không có trống, đã không trống, thì ăn
có gì là sát sanh hại vật đâu mà sợ.
Nếu Phật tử còn nghi, thì xin Phật tử nghe lại bộ băng
nhựa nói về 33 vị Tổ Thiền Tông Ấn Độ và Trung Hoa,
do Hòa Thượng Thanh Từ thuyết giảng tại Thiền Viện
Thường Chiếu. Trong đó, có câu hỏi cũng tương tợ như
câu hỏi của Phật tử đã hỏi và Hòa Thượng cũng đã trả
lời khẳng định là ăn trứng gà không trống thì không có
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
143
gì là tội lỗi cả. Phật tử cứ yên tâm, nếu thích thì cứ ăn.
Chỉ sợ ăn nhiều sanh bệnh hoạn mà thôi.
69. Cúng heo quay trả lễ có mang tội không?
Hỏi: Con có khẩn vái với thần linh, khi nào con trai
của con có việc làm ở Úc, thì con sẽ cúng một con heo
quay để trả lễ. Bây giờ thì con của con đã có việc làm.
Nhưng, sau khi nghe quý thầy giảng pháp nói về việc
sát sanh tội lỗi, con không muốn cúng heo quay nữa.
Vậy bây giờ con xin cúng trái cây để trả lễ có được hay
không?
Đáp: Tin là một đức tính quý báu của người Phật tử.
Nhưng điều quan trọng là phải đặt định niềm tin đúng
chỗ. Nói rõ hơn, người Phật tử phải chánh tín. Người
Phật tử không tin sâu vào nhân quả, thì chưa phải là
Phật tử. Thay vì tin nhân quả, Phật tử lại đặt niềm tin ở
nơi Quỷ Thần. Vì tin vào sự gia hộ của Quỷ Thần, nên
Phật tử mới van vái cho con trai của mình mau có việc
làm. Lúc Phật tử van vái khẩn cầu, thì khẩn cầu là cúng
heo quay trả lễ. Sau khi van vái, thì con trai của Phật tử
may mắn được có việc làm. Nay, Phật tử đổi ý vì sợ
mang tội sát sanh. Như vậy Phật tử không sợ Thần linh
nổi giận hay sao? Vì Phật tử đã gạt Thần linh kia mà!
Đó là Phật tử thêm một lỗi nữa là thiếu đức tánh thành
thật.
Vấn đề nầy, tôi xin giải đáp phân hai, rồi tùy ý Phật tử
suy xét mà quyết định.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
144
Thứ nhứt, Nếu Phật tử cúng heo quay đúng như lời van
vái (vì Phật tử đã tin như thế) thì phải chấp nhận mang
tội sát sanh. Giả như, bây giờ tôi khuyên Phật tử nên
cúng trả lễ bằng trái cây, sau khi cúng, nếu yên xuôi
không có chuyện gì xảy ra cho con trai hay gia đình
của Phật tử, thì mọi việc không sao. Nhưng, nếu có
chuyện gì xảy ra, (ở đời nhân quả làm sao biết trước
được) thì đổ thừa tại tôi khuyên bảo cúng như thế, nên
mới xảy ra cớ sự nầy. Bởi vì, Phật tử tuy đã quy y Tam
Bảo, nhưng lòng tin của Phật tử thì lại khác. Nghĩa là
Phật tử chưa có đủ tín tâm vào Tam Bảo. Trong khi
Phật tử quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng, thì Phật đã
dạy rõ : « Sau khi quy y Phật rồi, Phật tử không được
quy y ở nơi Thiên, Thần, Quỷ, Vật ». Phật tử đã coi
Thiên, Thần, Quỷ, Vật hơn Phật, nên mới cầu khẩn van
vái như thế. Bởi Phật tử không có đủ niềm tin Phật, nên
mới van vái cầu khẩn với Quỷ Thần.
Điều nầy, nếu luận xa hơn một chút, căn cứ vào nhân
quả mà nói, thì con trai của Phật tử xin được việc làm,
đâu có phải do Phật tử van vái cầu nguyện mà được.
Đó chẳng qua do nhân và quả của đứa con trai của Phật
tử mà thôi.
Thử đặt vấn đề, nếu nhờ cầu khẩn van vái mới xin
được việc làm, vậy thì, thử hỏi ở xứ Úc nầy, biết bao
nhiêu người có việc làm, chả lẽ những người đó đều
phải khẩn cầu van vái cúng heo quay hết sao? Tại sao
người ta không van vái gì cả mà họ vẫn có việc làm?
Phải chăng, tất cả đều do khả năng và ý chí của họ.
Việc làm ở Úc có rất nhiều công việc khác nhau. Người
chủ nhận việc, căn cứ vào trình độ học lực và khả năng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
145
cũng như sức khỏe của người xin việc mà họ nhận hay
không, đó là quyền của họ.
Giả như sau nầy, công việc mà con trai của Phật tử
đang làm, xảy ra điều gì đó làm mất lòng người chủ,
người chủ liền sa thải, tất nhiên con của Phật tử phải bị
thất nghiệp. Khi đã thất nghiệp, muốn có việc làm lại,
thì Phật tử phải tiếp tục van vái cầu khẩn cúng heo
quay nữa. Nếu trong gia đình của Phật tử giả sử có 10
người con, mỗi người tới tuổi trưởng thành phải đi làm,
thì những người đó, Phật tử đều phải van vái cúng tế
một con heo quay hết sao? Nếu Phật tử tin như thế, thì
tôi cũng xin đầu hàng, không còn gì nữa phải nói. Khi
tin một điều gì, chúng ta cần phải biện luận cho có lý
lẽ. Người Phật tử không thể nhắm mắt tin càn, tin một
cách mù quáng được. Nếu tin như thế, thì còn gì gọi là
Phật tử. Xin Phật tử hãy dùng trí huệ suy xét thật kỹ về
vấn đề nầy.
Thứ hai, nếu Phật tử sợ mang tội sát sanh, phải chịu
quả báo sau nầy, thì Phật tử nên cúng trả lễ bằng trái
cây. Thật ra cúng hay không cúng là do lòng tin của
Phật tử. Tin thì có, không tin thì không có. Người xưa
có câu nói: “linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Có khi nào
Phật tử cúng mà vị Thần nào đó đến thụ hưởng đồ vật
cúng đó hay không? Hay là mọi người trong thân bằng
quyến thuộc hưởng dụng. Mọi người hưởng dụng béo
bổ ngon miệng, trong khi đó, thì tội lỗi gây ra chỉ một
mình Phật tử lãnh lấy hết. Như thế, Phật tử có cam tâm
làm như thế không? Phật tử tin chắc vào nhân quả. Mọi
việc xảy ra xấu tốt cho mình, tất cả đều do mình gây
tạo. Nếu mình đời trước gây tạo nhân lành, thì đời nầy
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
146
mình sẽ gặt hái quả lành. Ngược lại, nếu đời trước hoặc
nhiều đời trước nữa mà mình tạo nhân bất thiện, thì đời
nầy khi quả thuần thục xảy đến, thì mình phải nhận lấy.
Vì nhân quả không chỉ xảy ra trong hiện đời mà nó đã
trải qua nhiều đời. Người Phật tử phải có niềm tin chắc
chắn đúng theo chân lý nhân quả như thế, thì không có
gì gây ra cho ta sợ hãi cả. Mình làm mình chịu, không
than oán trách ai.
Tôi khuyên Phật tử nên sáng suốt mà nhận định vấn đề.
Phật tử nếu có lòng tin vào Tam Bảo, nhân quả, thì
đừng bao giờ nghe theo ai. Vì ở đời, không ai có quyền
quyết định cho mình, mà tất cả nên hư, thành bại, xấu
tốt… đều do mình định đoạt lấy. Nên tin theo lời Phật
Tổ dạy mà cố gắng làm lành. Cứ gây tạo nhân lành, thì
tất nhiên sẽ có quả lành. Nhân quả không bao giờ sai
chạy, chẳng qua nó đến với mình có mau chậm mà
thôi.
Tóm lại, Những điều giải đáp của chúng tôi trên đây,
tất cả đều căn cứ theo luật nhân quả mà chúng tôi có
đôi lời khuyến giải. Tùy Phật tử quyết định lấy.
70. Không có thiết lập bàn thờ Phật có tụng kinh
được không?
Hỏi: Kính thưa thầy, nhà con không có thờ Phật, chỉ có
bàn thờ ông bà, mặc dù con rất tin tưởng Phật Pháp,
nhưng vì hoàn cảnh gia đình chật chội, nên con không
có lập bàn thờ Phật. Vậy xin hỏi: con có tụng kinh
được không ?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
147
Đáp: Xin thưa ngay là được, không có gì trở ngại. Tuy
nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin góp thêm chút ý kiến
nói rộng hơn về vấn đề nầy. Đứng về phương diện hình
thức sự tướng lễ nghi mà nói, thì khi tụng niệm bái
sám, Phật tử cần phải có thiết lập bàn thờ Phật và phải
tôn thờ Ngài nơi chỗ trang nghiêm thanh tịnh.
Phật hay Bồ tát, tuy là hình tượng, nhưng người Phật tử
phải luôn kính trọng tôn thờ. Ta tôn thờ Phật là vì ta
nhớ đến công ơn giáo hóa của Ngài. Vì Ngài là người
giác ngộ hoàn toàn. Tuy Phật đã nhập diệt rất lâu xa,
nhưng Ngài còn để lại cho chúng ta một kho tàng kinh
điển vô giá, gồm có ba tạng kinh điển. Nhờ đó mà
chúng ta mới nghiên cứu học hỏi và mới biết được
đường lối tu hành thoát ly sanh tử khổ hải. Như vậy,
công ơn của Ngài thật quá lớn lao, không sao kể xiết.
Thế nên người Phật tử sau khi quy y, nghĩ đến công ơn
lớn lao đó của Ngài mà ta nên thỉnh tượng Phật về nhà
để tôn thờ.
Thờ Ngài với mục đích chính là để chúng ta ra vô thấy
hình tượng của Ngài để chúng ta bắt chước noi theo
tấm gương công hạnh cao cả giác ngộ giải thoát của
Ngài. Để từ đó, chúng ta cố gắng thật hành theo những
gì mà Ngài đã chỉ dạy. Chúng ta nên đem những lời
dạy đó mà ứng dụng trong đời sống thực tế hằng ngày.
Có thế, thì việc thờ Ngài mới được lợi ích. Và thờ Phật
như thế mới đúng với ý nghĩa thờ Phật.
Ngược lại, nếu ta thờ Phật, Bồ tát để mong cầu các
Ngài ban ơn giáng phước, hay trừ tà giải nạn, gia hộ độ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
148
trì cho mọi người trong gia đình luôn được mạnh khỏe,
quanh năm suốt tháng gia đạo luôn được bình an,
không xảy ra tai họa. Thờ Phật hay Bồ tát như thế thì
thật là một sai lầm rất lớn. Thờ với quan niệm như thế,
có khác nào xem Phật hay Bồ tát như là một vị thần
linh. Tệ hơn nữa, có người còn lo cúng kiến như lo lót
hối lộ cho các Ngài phù hộ. Nếu không được như ý, thì
các Ngài không linh. Phật hay Bồ tát là những người
giác ngộ, mà ta lại xê dịch biến các Ngài qua vị trí trở
thành Thần linh gia hộ. Thật là quá mê lầm tội lỗi! Thế
nên, người Phật tử khi thờ Phật hay Bồ tát, cần phải
học hỏi hiểu rõ ý nghĩa của sự tôn thờ nầy. Nếu không,
thì chúng ta sẽ mang trọng tội với các Ngài.
Tại sao Phật tử lại thờ kính ông bà? Có phải Phật tử vì
nghĩ đến công ơn sanh thành giáo dưỡng sâu nặng của
cha mẹ ông bà mà Phật tử tôn thờ hay không? Cha mẹ
ông bà chỉ là người cho ta cái hình hài thể chất nầy mà
ta còn phải nhớ ơn quý kính tôn thờ như thế, huống gì
đối với đức Phật đã chỉ dạy cho ta có thêm nhiều trí
huệ sáng suốt và vạch bày cho chúng ta một con đường
giác ngộ giải thoát vĩnh viễn không còn sanh tử khổ
đau. Như thế, thì thử hỏi ân đức của Ngài đối với
chúng ta lớn lao đến bực nào? Vì thế việc thờ Phật ở
trong gia đình đối với người Phật tử tại gia cũng rất là
thiết yếu quan trọng.
Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử tuy có lòng tin
tưởng Phật pháp, nhưng vì gia cảnh chật chội nên
không thể thiết lập riêng bàn thờ để thờ Phật. Mặc dù
Phật tử không có thờ Phật, nhưng vẫn có thờ ông bà.
Việc thờ cúng tổ tiên ông bà là một điều rất tốt theo
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
149
phong tục truyền thống hiếu đạo của người Việt Nam.
Việc thờ phụng ông bà đó là điều rất quý tôi hết lòng
tán dương Phật tử.
Nếu gia cảnh của Phật tử chật chội, không thể thiết lập
một bàn thờ Phật riêng, nhưng khi tụng niệm lễ bái, thì
Phật tử cũng có ý muốn là có hình tượng Phật để chiêm
ngưỡng lễ bái. Theo tôi, thì Phật tử nên linh động, thay
vì đã có bàn thờ ông bà, thì tại sao Phật tử không thờ
Phật ở trên. Phật tử nên tìm cách tạo phương tiện như
thế nào đó cho nó thích hợp. Nghĩa là vừa thờ ông bà
mà cũng vừa thờ Phật.
Như thế, thì được lưỡng lợi cả hai. Vì ông bà cũng phải
tôn kính Phật, nên thờ Phật ở tầng trên, và thờ ông bà ở
tầng dưới, như thế có gì là thất kính mà có lỗi đâu. Và
thờ như thế cũng đâu có chiếm thêm vị trí nào khác mà
chật chội. Tại vì hoàn cảnh mình phải làm như thế.
Phật và ông bà không có trách cứ Phật tử đâu, ngược
lại, chẳng những không trách cứ mà các vị đó còn
thương xót Phật tử nhiều hơn nữa. Vì biết Phật tử là
người có tấm lòng tốt, chí hiếu, nhưng vì gia cảnh chật
chội phải thờ phụng như thế mà thôi.
Tôi thành thật khuyên Phật tử nên làm như thế. Vì có
thờ Phật, khi Phật tử tụng niệm bái sám, nhìn thấy hình
tượng tướng hảo của Phật hay Bồ tát, thì nó càng tăng
thêm niềm tin và lòng quy kính của Phật tử hướng về
Tam Bảo. Và do đó, việc tụng niệm của Phật tử càng
có thêm sự tha thiết chí thành. Nhờ đó mà lòng của
Phật tử càng cảm thấy vui tươi an lạc dịu hiền tươi mát
hơn. Đây cũng là một điều rất hệ trọng cho đời sống
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
150
tâm linh, xin Phật tử hãy quan tâm suy xét lại cho thận
trọng kỹ càng.
Đó là nói theo phần sự tướng bên ngoài, còn luận về lý
tánh bên trong, thì Phật tử thường xoay về tự tâm quán
chiếu từng giây phút không cho phiền não phát sanh,
như thế thì Phật tử đang thờ Phật và thật sự tôn kính
ông Phật của Phật tử rất mực rồi. Vì mỗi người đều sẵn
có ông Phật. Thờ Phật ngoài để làm sáng tỏ Phật tự tâm
của mình. Thờ Phật như thế, mới đúng là « Sự Lý viên
dung ». Và thờ Phật như thế, mới thật sự đúng với ý
nghĩa thờ Phật. Kính mong Phật tử phải thờ Phật cả hai
như thế. Có thờ như thế, thì mới mong thoát khổ. Còn
nếu chỉ biết có ông Phật ở bên ngoài không thôi, thì
thật sự chưa đúng với ý nghĩa thờ Phật vậy.
71. Khi niệm Phật thấy hình tượng Phật có lỗi
không?
Hỏi: Kính thưa thầy, vào giờ con niệm Phật công cứ,
trong tư tưởng con thường hay mong muốn thấy hình
tượng Phật Di Đà và hình tượng của Bồ Tát Quán Thế
Âm. Xin hỏi: sự mong muốn đó có lỗi gì không ?
Đáp: Xin thưa ngay trong lúc liên hữu đang niệm Phật
mà vọng cầu như thế thì thật là có lỗi. Lỗi nầy liên hữu
cần nên tránh. Liên hữu nên nhớ, Phật Tổ dạy chúng ta
niệm Phật với thâm ý là để cho chúng ta diệt trừ phiền
não, cho tâm ta được an định. Niệm Phật mà tâm không
an định, đó là chúng ta đã niệm Phật sai rồi. Lẽ ra khi
niệm Phật công cứ hay không công cứ cũng phải như
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
151
thế. Ngược lại, đằng nầy liên hữu không niệm như thế
mà còn niệm Phật với tâm vọng động mong cầu cho
được thấy hình tượng Phật và Bồ tát, thì quả đó là một
sai lầm rất lớn. Vì sao? Vì có mong cầu là có vọng
tưởng. Niệm Phật mà còn có vọng tưởng như thế, thì
làm sao tương ưng với pháp môn niệm Phật. Và như
thế, thì đã trái với yếu lý niệm Phật mà Phật Tổ đã chỉ
dạy rồi.
Tôi xin nhắc lại để cho liên hữu chú ý là: “niệm Phật
mục đích chính là để dứt trừ phiền não”. Phiền não có
giảm thiểu, thì tâm ta mới được an lạc. Tâm có an lạc,
thì mới có được lợi ích hiện đời và tương lai mới có hy
vọng vãng sanh. Bởi tâm có an lạc thì mới tương ưng
với cảnh giới Cực lạc mà chúng ta đang quy hướng.
Nhưng ở đây thì trái lại, liên hữu niệm Phật mà còn có
khởi vọng tâm mong cầu để thấy Phật và Bồ tát, thì đó
là điều trái với sự niệm Phật. Khi niệm Phật, hành giả
chỉ nhiếp tâm vào câu hiệu Phật không nên vọng nghĩ
điều gì. Chư Tổ thường dạy là : « tâm và tiếng phải
hiệp khắn nhau và phải niệm cho rành rõ ».
Niệm Phật tuy có nhiều cách, nhưng cách tốt nhứt vẫn
là trì danh niệm Phật. Nhưng dù niệm Phật cách nào đi
chăng nữa, điều tối kỵ là có vọng tâm mong cầu. Bất
cứ mong cầu điều gì cũng là bệnh cả. Đó là bệnh vọng
tưởng phiền não. Tối kỵ nhứt là vọng cầu thấy hình
tượng Phật bên ngoài. Có vọng cầu dù là vọng cầu thấy
Phật, đó cũng là phiền não vọng tưởng mà thôi. Đã có
phiền não thì đã trái với Sự và Lý niệm Phật rồi. Liên
hữu nên nhớ, tất cả đều từ tâm mà ra.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
152
Nếu khi liên hữu mong muốn thấy Phật, thì chính cái
mong muốn đó là vọng tưởng. Còn có vọng tưởng là
còn sanh diệt, tức nhiên còn có vui buồn vừa ý hoặc
không vừa ý. Vừa ý thì vui, không vừa ý thì buồn. Đó
là ma vui ma buồn dẫn dắt liên hữu. Như vậy là niệm
trên sự buồn vui chớ đâu phải niệm Phật. Điều nầy rất
quan trọng mà tất cả liên hữu chúng ta cần phải lưu ý.
Có người khi họ niệm Phật, thay vì tập trung tâm ý vào
câu Phật hiệu, cho tâm được thuần nhứt an định, họ lại
mơ ước thấy Phật tượng bên ngoài. Khi thấy Phật
tượng bên ngoài hiện ra, thì họ rất vui mừng, cho đó là
kết quả của sự niệm Phật. Từ đó, mỗi khi niệm Phật, họ
đều khởi ý mong cầu cho thấy Phật như thế. Liên hữu
nên nhớ, tất cả cảnh đều từ tâm. Dù cảnh tốt hay cảnh
xấu cũng đều từ tâm vọng mà ra. Phật Tổ dạy ta niệm
Phật là để cho tâm ta được an định. Có an định mới có
trí huệ. Có định huệ thời không có phiền não. Không
phiền não, thì mới được nhứt tâm. Đó là chủ yếu mà
trong Kinh tiểu bổn Di Đà, đức Phật Thích ca đã dạy
chúng ta như thế. Niệm Phật để được đi dần đến chỗ
« Nhứt tâm bất loạn », niệm Phật như thế mới hợp với
ý Phật Tổ dạy.
Còn có tâm vọng cầu là còn chạy theo cảnh duyên bên
ngoài. Còn theo cảnh duyên bên ngoài đó là cửa ngỏ dễ
bị ma dẫn dắt. Giả như có thấy Phật thiệt ứng thân đi
nữa, cũng chưa phải là thấy Phật, đừng nói chi thấy
Phật qua hình tượng.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật đã từng dạy :
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
153
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai.
Nghĩa là:
Nếu ai cho rằng thấy sắc tướng của Phật mà cho là thấy
Phật hay nghe âm thanh của Phật thuyết giảng mà khởi
tâm tìm cầu Phật. Phật nói: « kẻ đó đang thật hành đạo
tà, không bao giờ thấy được Như Lai ». Tại sao thế?
Cũng trong Kinh nầy, ở một đoạn khác Phật nói:
“Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư
tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: phàm
cái gì có hình tướng đều là hư dối, nếu thấy các tướng,
chẳng phải tướng thật, chính đó mới thấy được Như
Lai. Như lai là bất sanh bất diệt, còn các tướng đều
sanh diệt hư dối không thật. Đã là hư dối, thì tại sao ta
lại mong cầu? Phật tử nên nhớ, Phật dạy, ngoài tâm mà
cầu Phật đó là ngoại đạo.
Như vậy, người muốn thấy Phật phải thấy bằng cách
nào? “Phải thấy không chỗ để thấy, tức là phải ưng vô
sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Còn có tâm dính mắc vào bất
cứ cảnh nào, cũng đều là tà ngoại cả, chớ không phải
thấy Phật thiệt. Phật thiệt phải chính ở nơi bản tâm
mình. Khi nào tâm mình lặng hết vọng tưởng, thì ngay
đó Phật thiệt của mình mới hiện ra, khỏi cần tìm kiếm
ở đâu xa. Còn có khởi tâm tìm kiếm là đã sai rồi. Nói
rõ hơn là đã mất ông Phật thiệt của mình rồi. Vì ông
Phật ứng thân giáng sanh ở Ấn Độ sống được 80 năm
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
154
rồi nhập diệt, ông Phật đó cũng là ông Phật giả mà thôi.
Vì ông Phật đó có sanh có diệt.
Bây giờ, người ta đi qua Ấn Độ đâu có ai còn thấy ông
Phật Thích Ca đó nữa. Ông Phật có sắc thân với 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp mà còn không có thiệt, hà tất gì
ông Phật do người ta tạo ra bằng cốt sắt xi măng hay
bằng gỗ giấy mà có thiệt hay sao?
Tu hành mà dụng tâm sai, thì đó là đầu mối của ma
vương dẫn dắt. Nếu hành giả không khéo thì sẽ nguy
hiểm vô cùng. Chúng ta nên nhớ rằng, bọn ma nó có
ngũ thần thông, nó muốn hiện ra thứ gì cũng được. Tùy
theo ý muốn của mình, ham thích thứ gì thì nó sẽ hiện
ra thứ ấy.
Thuở xưa, chính Tổ Ưu Ba Cúc Đa là vị Tổ sư thứ tư
bên Ấn Độ còn phải bị lầm lẫn khi nó hiện ra hình ảnh
đức Phật và các vị Thánh chúng. Là Tổ mà còn lầm ma
tưởng là Phật, như thế, còn đối với phàm phu chay như
chúng ta thì sao? Bản thân mình đã là ma rồi mà không
chịu lo tìm cách để tiêu trừ, mà lại còn vọng cầu thấy
nầy thấy nọ, đó là ma lại chồng chất thêm ma nữa.
Tệ hại hơn nữa, có người lại còn đi khoe khoang với
mọi người cho rằng mình niệm Phật đã thấy Phật. Hỏi
thấy Phật như thế nào? thì họ trả lời là thấy qua Phật
tượng giấy. Nếu thấy Phật tượng giấy thì có gì khó
khăn đâu. Chúng ta cứ mở to đôi mắt ra là nhìn thấy
rồi. Đâu cần đợi đến khi niệm Phật mới thấy hình
tượng đó. Như vậy, rõ ràng là họ thấy bằng vọng tưởng
của họ. Vậy mà cũng đi khoe với mọi người. Người
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
155
không hiểu biết, nghe nói tưởng là người đó tu hành
công phu khá, vì nhờ tu khá nên mới thấy Phật.
Ngược lại, đối với những người có chút ít kinh nghiệm
trong sự tu hành hay họ học hỏi nghiên cứu kỹ kinh
điển Phật dạy, nghe nói thế, thì họ lại đâm ra lo sợ và
thật đáng thương xót cho người đó. Vì họ biết người đó
đã sai lầm rồi. Nhưng vì người đó đã mang nặng mặc
cảm định kiến, thì dù cho họ có thật tâm khuyên bảo,
nhưng đâu dễ gì mà người đó chịu bỏ.
Thuở xưa, sơ tổ Liên Tông là Huệ Viễn đại sư khi nhập
định, ở trong định, Ngài thấy Thánh cảnh Tây phương
hiện ra 3 lần. Nhưng Ngài tuyệt nhiên không dám hở
môi. Vì sợ người ta hiểu lầm chạy theo cái giả tướng
mà mong cầu, thì đó là tai hại vô cùng. Cho nên Tổ yên
lặng không bao giờ tiết lộ cho ai biết. Mãi cho đến khi
sắp viên tịch, bấy giờ, Tổ mới nói cho các vị đệ tử
biết.
Chúng ta nên nhớ, Ngài thấy Thánh cảnh trong lúc
nhập định, bởi do nhập định tâm của Ngài thanh tịnh,
an định nên nó mới tương ưng với cảnh Cực lạc. Do
đó, nên cảnh cực lạc mới hiện ra, chớ không phải do
Ngài vọng tâm mong cầu mà thấy. Đó là điều mà ta
nên cẩn thận lưu ý.
Ngược lại, chúng ta chưa được như thế, mà khởi tâm
mong cầu thì dễ bị ma nó dẫn dắt. Và cái thấy của ta là
do vọng tưởng nó lòa hiện ra thôi, chớ không phải là
thiệt. Nếu không khéo buông bỏ cứ mãi đắm mê chạy
theo cái giả cảnh đó, thì có ngày chúng ta sẽ bị bệnh
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
156
loạn trí. Đến khi bị ma nó dẫn dắt đi vào con đường mê
loạn rồi, thì chừng đó chúng ta có hối hận ăn năn thì
cũng đã muộn màng lắm rồi! Chi bằng chúng ta nên
tránh nhân thì không có quả. Một khi đã vướng bệnh
nặng rồi, thì hết phương cứu chữa. Đó là điều rất tai hại
nguy hiểm mà chúng tôi xin thành thật khuyên hành giả
nên dè dặt cẩn trọng.
Tóm lại, liên hữu niệm Phật cứ nắm chắc sáu chữ Di
Đà mà chuyên niệm, đừng khởi tâm vọng cầu muốn
thấy thứ gì cả. Khi nào tâm của liên hữu được an định
thanh tịnh rồi, thì chừng đó lo gì liên hữu không thấy
Phật. Bởi vì khi đó tâm của liên hữu cùng tâm Phật
tương ưng với nhau, nghĩa là nó có cùng một tần số, thì
chắc chắn sẽ cảm ứng gặp nhau thôi. Kính mong liên
hữu nên chú tâm cẩn trọng vấn đề nầy. Kính chúc liên
hữu thành công trong việc niệm Phật cầu vãng sanh.
72. Vì tánh nóng nảy nên mất hạnh phúc trong
gia đình.
Hỏi: Kính bạch thầy, khi xưa tánh con rất nóng,
thường hay cãi vã gây lộn với chồng con, ông chịu
không nỗi tánh nóng nảy ngang bướng hỗn hào của
con, nên ông bỏ nhà ra đi để lại cho con nuôi 3 đứa
con. Nay các con của con đã trưởng thành, giờ nghĩ lại
con cảm thấy rất có lỗi với chồng con và con mãi mặc
cảm ray rứt ăn năn về những tội lỗi mà con đã gây ra.
Vậy xin hỏi: Có cách nào làm cho con giảm bớt được
tội lỗi nầy không?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
157
Đáp: Tôi rất cảm thông về nỗi lòng của Phật tử. Nóng
nảy là hiện tướng thô bạo của lòng sân hận. Sân là một
trong 6 món căn bản phiền não : tham, sân, si, mạn,
nghi, ác kiến. Nói gọn hơn, phiền não sân là một trong
3 món Tam độc : « Tham, sân, si ». Sở dĩ gọi chúng là
căn bản, bởi vì những thứ phiền não nầy chúng có gốc
rễ rất sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Không phải chỉ có
trong hiện đời nầy mà chúng đã có từ vô lượng kiếp.
Nhơn loại bị đau khổ luôn luôn bất an cũng chỉ vì bọn
chúng. Những thứ nầy không ai lại không có. Nhưng
hiện tướng của chúng nặng hay nhẹ mạnh hay yếu còn
tùy thuộc ở nơi sự dụng công huân tu của mỗi người.
Sự dụng công tu hành nầy không những hiện đời mà
còn trong nhiều đời trước.
Thế nên, khi chúng hiện hành mới có sự nặng nhẹ hay
mạnh yếu khác nhau. Nếu là người có tập khí sân hận
sâu dầy và họ không biết tu tâm sửa tánh, tất nhiên là
cường độ nóng nảy của họ rất mạnh bạo hung tợn. Họ
dám giết người và gây ra nhiều tội ác tày trời mà chúng
ta không thể nào lường trước được. Ngược lại, nếu
người khéo biết dụng công tu hành, thì tương đối
cường độ hiện hành của chúng đỡ hơn.
Qua sự trình bày của Phật tử, thì tập khí sân hận của
Phật tử khá sâu nặng, nên mới hiện tướng nóng nảy dữ
tợn. Sân hận (căn bản và tùy phiền não) tuy chúng có
gốc rễ sâu dầy, nhưng bản chất của chúng là giả tướng
không thật. Vì chúng không thật nên khi tu, chúng ta
mới chuyển đổi được chúng.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
158
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói trong Chứng Đạo
Ca: “Tam độc thủy bào hư xuất một”. Nghĩa là: Ba thứ
tham, sân, si nầy, chúng chỉ là bọt nước chìm nổi
không nhứt định. Bởi thực thể của chúng vốn là giả dối
không thật. Nếu chúng thật, thì làm sao chúng ta có thể
chuyển hóa được. Và như thế, thì làm sao tu hành
thành Phật Tổ được ?
Chúng phát hiện nổi lên sóng gió là tùy duyên. Khi nào
gặp hoàn cảnh trái ý nghịch lòng, thì chúng mới xuất
hiện. Bình thường chúng ta không nhận diện ra chúng.
Bởi thế, nên Duy Thức học gọi chúng là những thứ tập
khí. Tuy chúng không thật, nhưng khi chúng hiện khởi
mà ta nghe theo mệnh lệnh sai khiến của chúng rồi
hành động, thì hậu quả sẽ gây ra một tác hại rất lớn lao,
có thể giết người hàng loạt không biết gớm tay. Năng
lực của chúng rất mạnh bạo là như thế. Kém hơn một
chút thì đánh đập, chửi rủa mắng nhiếc v.v…
Trường hợp của Phật tử nằm trong dạng thức nhẹ hơn
là chỉ mới chửi rủa hỗn hào thôi. Tuy nhiên, dù nhẹ,
nhưng hậu quả cũng mang đến một tác hại là mất hạnh
phúc hòa khí trong gia đình. Cụ thể bằng chứng là ông
chồng của Phật tử phải bỏ nhà ra đi. Như thế, chứng tỏ
rằng, ông ta đã không còn đủ sức chịu đựng qua sự
hành hạ nặng nhẹ của Phật tử. Chỉ còn một cách duy
nhứt là phải bỏ nhà ra đi mà thôi.
Người đàn ông là cột trụ trong gia đình có trách nhiệm
nặng nề và nhẫn nại cũng khá, thế mà phải bỏ nhà ra đi,
thì chứng minh việc đối xử của Phật tử đối với ông ta
cũng rất là nặng ký. Chính vì thế, mà nay Phật tử nghĩ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
159
lại mới ăn năn hối cải những lỗi lầm mình đã gây ra. Sự
ăn năn nào cũng đều là muộn màng cả. Chi bằng tránh
nhân, thì không có quả. Rất tiếc, có lẽ ngày xưa, Phật
tử thiếu tu, vì chưa hiểu được đạo lý, nên mới có
những cử chỉ hành động như thế. Hoặc giả cũng vì
hoàn cảnh nào đó mà đưa đẩy Phật tử phải như vậy.
Tuy sự thể đã xảy ra khá lâu, nay Phật tử biết ăn năn
cải hối, đó là điều rất tốt. Phật dạy: đã là con người
không một ai trọn vẹn, không ai lại không có lỗi lầm.
Khổng Tử cũng nói: “nhơn vô thập toàn”. Con người
vì còn sống trong vòng vô minh nghiệp thức, ít nhiều gì
cũng đều có gây ra những nghiệp bất thiện. Nhưng khi
đã gây tạo mà mình biết ăn năn sám hối, thì những lỗi
lầm kia sẽ có lúc phải hết. Chỉ sợ là khi đã gây tội mà
không biết cải hối, thì tội lỗi kia càng ngày càng chồng
chất thêm nặng mà thôi.
Trường hợp lỗi lầm của Phật tử đã gây ra, chiếu theo
luật nhân quả mà xét, thì ít nhiều gì Phật tử cũng phải
có quả báo. Đã có gây nhân, tất nhiên phải có quả. Tuy
nhiên, sự trả quả báo nầy nó còn có sự nặng nhẹ khác
nhau. Nếu như hôm nay Phật tử biết tu hành lo làm
lành lánh dữ tích công bồi đức, ăn năn sám hối về cái
tội hỗn hào mang khẩu nghiệp hiếp đáp nặng nhẹ ông
chồng, thì chắc chắn là những tội lỗi đã gây khi xưa lần
lần sẽ giảm bớt, tức chuyển nặng thành nhẹ vậỵ. Bởi
thế, nên nói tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không
chuyển được, thì ai tu làm gì cho thêm nhọc sức. Đó là
chúng tôi nêu ra có tánh cách chung chung trong sự tạo
nghiệp bất thiện và biết cải hối mà thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
160
Còn như trong trường hợp của Phật tử, nếu muốn chấm
dứt mặc cảm tội lỗi, giải quyết cụ thể hay nhứt chỉ có
cách là Phật tử phải mạnh dạn can đảm xin lỗi với ông
ta về những việc đã gây ra mất hòa khí khi xưa. (xin lỗi
không biết ông ta có còn sống không ?) Nếu như ông ta
chịu tha thứ bỏ qua tất cả, thì Phật tử sẽ không còn gì
phải ân hận mặc cảm tội lỗi nữa. Giả như ông ta vẫn cố
chấp không chịu tha thứ bỏ qua, thì Phật tử cũng không
còn gì phải ray rứt khó chịu, vì Phật tử đã biết lỗi và
xin lỗi rồi. Theo tôi, đó là cách giải quyết hay nhứt.
Nhưng không biết Phật tử có đủ can đảm hay không.
Biết có lỗi đến xin lỗi, thì đây là chuyện bình thường
trong cuộc sống, không có gì phải tự ái hay tự ty mặc
cảm cả.
Qua những điều chúng tôi góp ý trình bày trên, xin
Phật tử cứ yên tâm, cũng đừng mang nặng mặc cảm tội
lỗi nữa. Vì còn mang nặng mặc cảm tội lỗi, thì đó cũng
là một chướng đạo rất lớn trên bước đường tu tập của
Phật tử. Điều gì đã qua thì hãy cho nó qua luôn. Dù
mình có nghĩ đến, thì sự việc cũng đã qua rồi, tốt hơn
hết là mình hãy cố gắng tập sống ngay trong giây phút
hiện tại. Tôi thành thật khuyên Phật tử nên để tâm niệm
Phật, tụng kinh, sám hối và làm mọi việc lành nhiều
hơn, để cho tội nghiệp càng ngày càng thêm nhẹ, đó là
điều tốt đẹp nhứt mà Phật tử phải gắng công tu niệm.
Kính chúc Phật tử an vui khỏe mạnh tinh tấn trên bước
đường tu tập.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
161
73. Những lỗi lo âu vì sống đơn độc, nhưng khi
giao tiếp thì lại bất bình không chịu nỗi sự gian
trá.
Hỏi: Kính bạch thầy, con có 3 điều thắc mắc mà lâu
nay nó cứ mãi ray rứt vương vấn trong lòng không sao
giải quyết:
1. Hiện con đang sống một mình nên con rất lo sợ khi
con ngã bệnh, không ai hay biết và tuổi đời của con
hiện nay đã trên 50, dẫu có đi học cũng không ai mướn
mình làm.
2. Tánh con hay nóng nảy, nên con không thích gần
những kẻ chỉ biết sống giả dối bề ngoài, dễ gây ra
chuyện không hay, dù đó là bà con thân thích.
3. Con rất sợ phạm tội sát sanh, lòng muốn ăn chay
trường, nhưng con ăn không được.
Xin thầy từ bi dẫn dắt cho con hiểu phải làm sao cho
ổn thỏa ?
Đáp: Phật tử đã nêu ra 3 vấn đề thắc mắc, tôi cũng xin
lần lượt theo mỗi vấn đề mà góp thêm chút ý kiến mọn
cùng Phật tử. Hy vọng sẽ làm giảm bớt phần nào nỗi lo
lắng vướng mắc của Phật tử hiện nay.
1. Phật tử hiện đang sống đơn độc, nên Phật tử rất lo
lắng là khi ngã bệnh không ai hay biết để chăm sóc.
Vấn đề nầy, Phật tử lo lắng thì cũng phải. Song có điều,
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
162
tôi thiết nghĩ Phật tử cũng không nên lo lắng lắm.
Trong Kinh Phật dạy: “Có những điều đáng lo mà
không lo, ngược lại, có những điều không đáng lo mà
lại lo”.
Thế nào là những điều đáng lo?
Những điều đáng lo là hiện tại mình có lo tu tạo được
nhiều phước đức không? Hằng ngày mình có siêng
năng niệm Phật, hành thiện, tu tâm sửa tánh ở nơi chính
bản thân mình và mình có hết lòng giúp đỡ người khác
không? Nghĩa là mình đã có thật sự chuẩn bị chu đáo
cho cái ngày mình từ giả cõi đời nầy chưa? Vì cái ngày
mình vĩnh viễn ra đi, chính lúc đó mới thật sự là hành
trình đơn độc. Và những tài sản vật chất mà mình đã
tạo lập xây dựng cả cuộc đời đó, cuối cùng đến khi
nhắm mắt, thử hỏi mình có mang theo được cái gì
không? Hay tất cả đều để lại cho đời. Còn lại, mình chỉ
mang theo được hai thứ, đó là: nghiệp lành và nghiệp
ác mà thôi.
Như vậy, mình muốn tương lai của mình được vui
sướng, hưởng phước báo tốt đẹp, thì tại sao hiện tại
mình không lo tu tạo phước đức? Đó là điều đáng lo
mà mình lại quên không quan tâm tới.
Thế nào là những điều không đáng lo?
Sanh, già, bệnh, chết, đó là bốn nỗi thống khổ lớn của
con người, mà không một ai tránh khỏi. Cái mà mình
không tránh khỏi, thì thử hỏi có nên lo hay không? Bởi
vì, dù mình có lo lắng đến đâu, thì những thứ đó nó vẫn
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
163
xảy đến với mình. Bệnh là một điều mà không ai tránh
khỏi. Có thân thì phải có bệnh. Nó là một định luật,
một quy trình tự nhiên. Đã thế, thì mình có lo cũng chỉ
uổng công phí sức mà thôi.
Ở xứ Úc nầy, là một nước tương đối có đời sống văn
minh cao. Có đầy đủ mọi thứ tiện nghi vật chất. Hơn
nữa, trong lãnh vực y tế, chánh phủ cũng rất quan tâm
lo lắng cho người dân, nhứt là đối với những vị cao
niên sống một mình.
Nhà của Phật tử có điện thoại, khi nào Phật tử đau
bệnh, thì chỉ cần nhấc ống điện thoại lên gọi là có
người sẽ đến giúp ngay. Bệnh nặng, thì có xe cứu
thương đến cấp cứu chở vào bệnh viện. Còn vấn đề
chăm sóc, thì dù cho thân nhân ruột thịt của mình cũng
chưa chắc chăm sóc bằng các vị y tá ở đây. Những
người y tá họ phục vụ cho bệnh nhân với tất cả tấm
lòng bằng lương tâm nghề nghiệp. Họ là những người
đối xử rất tốt với bệnh nhân. Thế thì, Phật tử còn bận
tâm lo lắng làm chi cho mệt sức.
2. Đến vấn đề thứ hai, Phật tử nên biết, mỗi người sanh
ra đời đều có nghiệp riêng, không ai giống ai. Dù đó là
anh chị em ruột thịt cùng một dòng huyết thống, cũng
không giống nhau. Thể xác và tinh thần đều không
giống.
Khi lớn lên mỗi người lại hấp thụ mỗi môi trường sinh
hoạt khác nhau. Khác nhau từ sự giáo dục, gia đình và
xã hội. Thế thì, bảo người nầy giống hệt người kia sao
được.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
164
Sống trong một xã hội, tất cả đều có sự tương quan mật
thiết với nhau. Dù mình có muốn tách mình ra khỏi xã
hội cũng không thể nào được. Hiện tại, mình sống được
là nhờ đâu? Có phải là nhờ tất cả không? Trong nhà
Phật gọi là tương duyên tương quan mà hình thành. Nói
cách khác là do nhân duyên nhân quả tương tức tương
nhập với nhau mà sinh thành. Như quần áo, cơm ăn,
thuốc men v.v… tất cả Phật tử có làm ra không? Mình
không tạo ra, do người khác tạo ra cho mình có phương
tiện để sống, như vậy là mình đã nợ những người tạo ra
đó.
Thế thì, có phải những người đó là ân nhân của mình
hết hay không? Đã là ân nhân với nhau, thì mình nên
thương kính hay là thù ghét? Có ai thù ghét những
người thi ân cho mình không? Nếu có, thì quả thật
mình đã đánh mất đi nhân tính của mình rồi. Như thế,
thì mình không còn xứng đáng làm người nữa. Do tư
duy như thế, ai mình cũng thấy thật đáng thương và
đáng cho mình kính trọng cả.
Như trên đã nói, do biệt nghiệp, nên cá tánh mỗi người
mỗi khác. Mà cá tánh đó có ra là do sự huân tập ở
những môi trường sống khác nhau. Như Phật tử xác
nhận, Phật tử vì có tánh nóng nảy, nên không muốn gần
gũi giao tiếp với những người mà họ chỉ biết sống bãi
buôi giả dối bề ngoài. Vì thế, mà Phật tử muốn xa lánh
họ.
Xét người phải nghĩ lại mình. Người có tật xấu, còn
mình có phải tốt hết không? Hay mình cũng có những
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
165
tật xấu khó ưa mà mình không thấy. Thế nên trong sự
giao tiếp, mình có quyền chọn lựa bạn để giao du kết
thân. Nhưng tuyệt đối mình không nên phê bình chỉ
trích cá tánh người khác. Sống trên đời nầy, không có
ai hoàn hảo một trăm phần trăm hết đâu. Chỉ ngoại trừ
có một người, đó là Đức Phật. Phật nói, hàng Bồ tát
vẫn còn chút ít vi tế vô minh.
Sở dĩ chúng tôi nói dài dòng như thế, mục đích là để
cho Phật tử thấy rõ nghiệp dĩ sai khác của mỗi người.
Từ đó, Phật tử sẽ có cái nhìn cởi mở và rộng rãi hơn.
Còn sự giao du hay không, đó là quyền của Phật tử
chọn lựa. Nếu mình thấy sự gần gũi qua lại có nhiều sự
phiền phức mà mình không thích, thì tốt hơn là mình
nên tránh bớt. Nhưng Phật tử nên nhớ, cuộc sống mình
không thể đơn độc được. Dù mình không có giao du
với bạn hay người thân của mình nhiều, nhưng ít ra
mình cũng phải có một vài người bạn thân để khi hoạn
nạn hữu sự sớm tối tương trợ lẫn nhau.
Người ta nói: bà con xa không bằng láng giềng gần là
như thế. Như trên Phật tử lo sợ sống một mình không
có ai, mà giao tiếp bạn thân thì Phật tử lại không muốn.
Như thế, thì Phật tử rơi vào trạng huống mâu thuẫn.
Phật tử nên nhớ, hễ mình cư xử tốt với người, dù người
đó không giúp mình, thì cũng có người khác giúp mình.
Đó là luật nhân quả không sai. Cứ xử sự tốt với mọi
người, thì mình sẽ có kết quả tốt là không ai bỏ mình.
Phật tử nên tin chắc vào luật nhân quả mà hành xử để
tạo cho mình có một cuộc sống vui tươi và có thêm
nhiều ý nghĩa thú vị hơn.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
166
3. Vấn đề thứ ba, rõ ràng nghiệp thích ăn thịt cá của
Phật tử còn nặng. Mặc dù lòng thì muốn ăn chay,
nhưng cái miệng và cái lưỡi thì nó không cho phép.
Cho nên cuối cùng Phật tử phải chiều theo cái miệng
lưỡi để cho chúng nó được thỏa mãn.
Phật tử thấy không, nội cái vấn đề ăn mặn và ăn chay,
cũng đã là một sự cương quyết khó khăn rồi, đừng nói
chi đến những chuyện cao xa khác. Tuy nhiên, hiện
Phật tử là người tu tại gia, tức tu theo nhơn thừa, Phật
tử phát nguyện ăn chay kỳ được mấy ngày, thì tốt mấy
ngày. Phật không bắt buộc ai cả. Phật tử còn thích ăn
mặn thì cứ ăn không sao. Nhưng điều quan trọng là
Phật tử không nên sát hại sanh vật để làm thỏa mãn
theo nhu cầu của cái lưỡi thì không nên. Vì đó là phạm
tội sát sanh. Phật tử nên nhớ :
Ngỡ rằng ngon miệng béo thân
Nào ngờ oan nghiệt xoay vần trả vay.
Ngoài ra, Phật tử mua thịt cá ngoài chợ người ta bán
đem về nấu ăn thì không sao cả. Không ăn chay trường
được thì giữ ăn chay kỳ cũng tốt. Đến khi nào Phật tử
cảm thấy ngán thịt cá thì chừng đó sẽ ăn chay trường.
Chúc Phật tử vui sống và luôn luôn tinh tấn tu hành.
74. Vấn đề ý nghĩa hoa sen.
Hỏi: Kính bạch thầy, mỗi khi vào chùa nhìn lên bàn
Phật, thấy tượng Phật ngồi trên tòa sen, nhưng thú thật
con không hiểu ý nghĩa của hình ảnh hoa sen như thế
nào? Mà khi vào chùa nhìn đâu cũng thấy hoa sen cả.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
167
Kính mong thầy giải thích cho chúng con hiểu. Con
cám ơn thầy.
Đáp: Điều thắc mắc của Phật tử về vấn đề ý nghĩa tiêu
biểu của hình ảnh hoa sen, thật là hữu lý và rất thú vị.
Vì ý nghĩa của hoa sen, trong nhà Phật giải thích rất
rộng và rất quý trọng hoa sen. Có thể nói hoa sen là
một đặc trưng mà phần lớn rãi rác trong các kinh điển
Phật giáo: Nguyên Thủy và Phát Triển đều có đề cập
đến. Một bộ Kinh Đại Thừa trọng đại mà hầu hết Phật
tử thuộc Phật giáo Bắc Tông ít nhiều đều có đọc tụng
qua, chẳng những đọc tụng thôi mà còn quan tâm
nghiên cứu học hỏi nữa, đó là bộ Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa.
Ngoài ra, hoa sen còn được biểu trưng qua những lãnh
vực khác mang tính đặc thù văn hóa của mỗi quốc gia
dân tộc theo Phật giáo. Nhứt là đối với các nước Phật
giáo Á Châu. Đối với các nước Phật giáo Á Châu, tiêu
biểu là Trung Hoa và Việt Nam… hoa sen được trưng
bày trong chùa hoặc qua các phù hiệu cờ đoàn hay các
phù hiệu khác của một vài đoàn thể trong Phật giáo.
Như đoàn thể Gia Đình Phật Tử chẳng hạn. Và trong
các Tông phái Phật giáo có một Tông lấy hoa sen mà
đặt tên cho một Tông phái, đó là Tịnh Độ Tông, còn
gọi là Liên Tông. Như vậy, cho chúng ta thấy một cách
khái quát rằng, hình ảnh hoa sen trong Phật giáo cái
thâm nghĩa của nó quan trọng đến ngần nào. Vì thế, ở
đây, chúng tôi chỉ xin giải thích một cách khái lược qua
một vài đặc tính tiêu biểu mang tính ẩn nghĩa trong
giáo lý Phật giáo mà thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
168
Đại loại hoa sen có 8 đặc tính tuyệt diệu sau đây: 1.
Không nhiễm. 2. Trừng thanh. 3. Kiên nhẫn. 4. Viên
dung 5. Thanh lương. 6. Hành trực. 7. Ngẩu không. 8.
Bồng thực.
1. Đặc tính không nhiễm: Hoa sen dù mọc lên từ bùn
nhơ, nhưng tính chất của nó vẫn không mang mùi hôi
của bùn. Ca Dao Việt Nam có bài nói về đặc tính
không cấu nhiễm nầy:
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù nằm trong bùn trải qua nhiều ngày tháng, nhưng
hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình lên khỏi mặt nước để
nở ra và rồi khoe hương khoe sắc, ngát tỏa hương thơm
cùng khắp đất trời. Ta thấy giữa bùn và hoa không dính
dáng gì nhau. Bùn là tượng trưng cho phiền não nhiễm
ô, còn hoa sen là tiêu biểu cho thanh tịnh. Điều nầy, để
nói lên cái ý nghĩa thâm trầm là chư Phật Bồ tát ra đời,
các Ngài vẫn sinh hoạt trong dòng đời, nhưng các Ngài
không bao giờ bị cấu nhiễm. Cư trần bất nhiễm trần là
thế. Ngược lại, chúng ta thì có khác. Chúng ta đụng đâu
nhiễm đó. Mặc dù trong mỗi người chúng ta đều sẵn có
hoa sen bất cấu nhiễm nầy. Hoa sen là để tiêu biểu ẩn
dụ cho mỗi người chúng ta ai ai cũng sẵn có Phật tánh.
Mà Phật tánh vốn không cấu nhiễm, vì bản chất của nó
thanh tịnh sáng suốt. Nhưng vì chúng ta theo dòng vô
minh vọng nghiệp mà tạo ra nhiều tội lỗi để rồi bị dính
mắc trong trần lao ô nhiễm. Đó là đặc tính thứ nhứt.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
169
2. Trừng thanh: Trừng thanh là lóng trong. Điểm đặc
biệt là chỗ nào có hoa sen mọc, thì chỗ đó nước không
bao giờ đục. Do đó, khi chúng ta hái hoa sen, thì khỏi
cần phải rửa, bởi hoa sen không dính bùn nhơ. Bởi vì
bản chất của nó mang sẵn tính trừng thanh. Điều nầy để
nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng, nơi nào có chư
Phật, Bồ tát ra đời, thì nơi đó sẽ đem lại cho chúng
sanh có sự an ổn mát dịu. Ngược lại, nơi nào có những
phần tử xấu ác bất lương, thì nơi đó chắc chắn là sẽ xảy
ra lắm điều phiền phức họa hại bất an.
Đặc tính trừng thanh nầy, các loài hoa khác không có.
Đặc tánh nầy, nếu chúng ta khéo biết áp dụng vào đời
sống thực tế hằng ngày, thì cũng rất là lợi ích. Vì sao?
Vì có thường xuyên lóng lặng cấu uế phiền não thì
nước hồ tâm của chúng ta mới trong sạch thanh lương
được. Mà phiền não không có, tất nhiên là chúng ta sẽ
có an lạc hạnh phúc ngay.
3. Kiên Nhẫn: Như chúng ta đã biết, hoa sen là loại túc
căn thảo, tức một loại có nẩy mầm từ rễ củ của năm
trước. Hoa sen mang đặc tính kiên nhẫn rất là kỳ thú.
Rễ củ của nó nằm trong bùn thật lâu để chờ đợi khi hội
tụ đầy đủ nhân duyên là nó sẽ nẩy mầm ngay. Sự chờ
đợi đó, tức là đức tánh kiên nhẫn. Đức tánh nầy, rất cần
thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người nào
có đức tánh kiên nhẫn nầy, thì người đó khi ra làm việc
gì chắc chắn sẽ dễ đạt được thành công. Bằng ngược
lại, thì khó mong đạt được.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
170
Có nhiều khi, vì một việc rất nhỏ nhặt nào đó xảy ra mà
chúng ta cũng không đủ sức kiên nhẫn để vượt qua, thì
đừng nói chi đến việc trọng đại. Việc đời cũng như việc
đạo muốn có kết quả tốt đẹp, tất nhiên, chúng ta phải
có đức tánh kiên nhẫn nầy. Nếu không, thì khó mà
thành công trong bất cứ lãnh vực nào. Cho nên, đức
tánh kiên nhẫn là một đức tánh tối thiết yếu trong đời
sống hướng thượng thăng hoa, khác nào hoa sen đã
kiên nhẫn vươn lên tìm sự sống cao đẹp vậy.
4. Tánh Viên Dung: Đức tánh nầy, đặc biệt chỉ có hoa
sen mới có. Vì hoa sen có những cánh hoa bao bọc
gương sen tròn trịa. Đây là tiêu biểu cho tánh viên giác
của mỗi chúng sanh sẵn có. Tánh viên giác vượt ngoài
phạm trù nhân duyên đối đãi. Hoa sen từ lúc nở cho
đến lúc tàn, không bị loài ong bướm làm hư hoại, khác
với các loài hoa khác bị ong bướm tìm đến bu đậu và
hút lấy nhụy. Điều nầy, nói lên tánh viên giác tròn sáng
vô ngại, không bị cảnh nào có thể làm tiêu hoại ô
nhiễm nó được.
5. Thanh Lương: Thông thường các loài hoa thi nhau
đua nở vào mùa Xuân, vì mùa Xuân là mùa mát mẻ.
Ngược lại, chúng không thể nở hoa vào mùa Thu hay
mùa Ðông. Vì mùa Thu là mùa hay có mưa phùn còn
mùa Ðông thì giá lạnh. Do đó, không thích hợp cho các
loài hoa khai hoa nở nhụy. Khác hơn các loài hoa khác,
hoa sen lại nở vào mùa Hạ, đây là mùa nóng bức. Điều
nầy, để nói lên ý nghĩa chư Phật Bồ tát ra đời trong cõi
đời ngũ trược, chúng sanh dẩy đầy phiền não, bức bách
khó chịu, các Ngài mang lại nước cam lồ từ bi để tưới
tẩm làm mát dịu cho mọi người.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
171
Giữa mùa hè oi ả nóng bức, nhưng hoa sen vẫn bất
chấp sự nóng bức đó mà vẫn vươn mình mọc lên, để
nói lên rằng, dù chúng ta đang sống trong nhà lửa tam
giới đang bị thiêu đốt bởi những thứ lửa dục vọng tham
sân si…nhưng chúng ta vẫn cố gắng bền tâm nhẫn nại
chịu đựng để khắc phục vượt qua. Đồng thời dùng
nước chánh pháp để tưới tẩm làm mát dịu tâm hồn.
6. Hành trực: Hành trực là chỉ cho thân ngay thẳng.
Không có loài hoa nào mọc lên mà có thân hình (cọng
sen) ngay thẳng như hoa sen. Điều nầy, để tiêu biểu:
“người tu hành cần phải sửa thân và tâm cho ngay
thẳng”. Trong Kinh Duy Ma Cật có câu nói: “Trực tâm
tức thị đạo tràng”. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh
thuận nghịch nào hay ở bất cứ nơi đâu mà tâm ta ngay
thẳng, tức không khởi nghĩ hai bên: có, không, phải trái
v.v…dù là ở nơi giữa chợ búa, thì ta cũng biến nơi đó
thành đạo tràng. Đạo tràng là nơi thanh tịnh. Như vậy,
đức tánh ngay thẳng là đức tánh mà người Phật tử cần
phải áp dụng hành trì trong đời sống thực tế. Có thế, thì
chúng ta mới có sự lợi lạc, như hoa sen mọc từ bùn
thẳng lên và rồi khoe hương khoe sắc vậy.
7. Ngẩu không: Hoa sen tuy thân ngay thẳng, nhưng
trong ruột thì trống rỗng. Điểm đặc biệt nầy để nói lên
một ý nghĩa rất thâm trầm là người tu hành cần phải có
tánh hỷ xả. Hai đức tánh nầy Bồ tát luôn thực hiện. Nói
đến hạnh hỷ xả, chúng ta liền nghĩ ngay đến Bồ tát Di
Lặc.
Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
172
Bao bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc cho thế cuộc đầy vơi
Dửng dưng như một nụ cười an nhiên.
Đối với Bồ tát Di Lặc mọi việc đến và đi, tất cả chỉ là
một nụ cười an nhiên. Một nụ cười khi nhìn thấy:
Mắt trông thấy sắc thì thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước trong vòng trần ai.
8. Bồng thực: Các loài hoa khác, khi bông tàn mới kết
nụ thành trái và có hột. Ngược lại, hoa sen thì không
như thế. Hoa sen nở ra thì đã có gương có hột sẵn rồi.
Đó là nhân quả đồng thời. Điều nầy, nói lên một triết lý
sống; nhân quả không bao giờ sai khác. Nhân quả như
hình với bóng, hình thế nào, thì bóng như thế đó.
Thế nên, muốn cho đời sống được an ổn tươi mát thơm
tho như hoa sen, thì chúng ta nên nhớ đến lý nhân quả
mà hành xử tu nhân tích đức, làm lợi ích cho mình và
người, thì chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc an lạc
ngay trong đời sống hiện thực, không cần phải tốn công
hao sức tìm nơi đâu xa xôi. Niết bàn hay đau khổ, rốt
lại ở nơi tâm chúng ta mà thôi.
Trên đây, chúng tôi chỉ nêu ra trình bày một cách khái
yếu về những đặc tánh của hoa sen mà thôi. Thật ra, ý
nghĩa của hoa sen rất thâm thúy, không thể nào giải
thích hết được. Tuy nhiên, qua 8 đặc tánh tiêu biểu
trên, thiết nghĩ, cũng tạm đủ để chúng ta hiểu được
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
173
phần nào về triết lý và hình ảnh hoa sen biểu trưng
trong Phật giáo.
75. Vấn đề xả tang cho cha mẹ.
Hỏi: Kính bạch thầy, trường hợp cha mẹ mình chết ở
Việt Nam, nhưng vì hoàn cảnh bất như ý mà không về
để chịu tang cho cha mẹ được, con có thể tới chùa ở
đây để xin làm lễ thọ tang và sau 49 ngày xin xả tang.
Xin hỏi: như thế có được không ?
Đáp: Xin thưa ngay là được không có gì trở ngại.
Trường hợp của Phật tử vì một lý do hoàn cảnh nào đó
quá đặc biệt, ngoài ý muốn, nên khi hay tin cha hay mẹ
mình mất mà không thể về Việt Nam được để thọ tang,
thì Phật tử và gia quyến trong thân thuộc có thể đến
chùa để xin chư Tăng Ni làm lễ thọ tang. Điều nầy,
theo tôi, thì không có gì là bất hiếu hay khó xử cả.
Cần nói thêm, việc cư tang, đây là một phong tục bắt
nguồn từ Nho Giáo mà ra. Trong Phật giáo không có đề
cập đến việc phục sức tang chế. Tang chế là một hình
thức biểu lộ lòng thành hiếu thảo của người con. Quan
niệm của tổ tiên ta, coi sự tử như sự sinh. Lúc còn sống
mình đối xử với những người thân thuộc như ông bà
cha mẹ… của mình như thế nào, thì khi chết cũng phải
cư xử như thế đó. Do vậy, nên việc để tang là một biểu
nghi hình thức để bày tỏ nỗi nhớ thương người đã
khuất bóng.
Ngày xưa, việc cư tang rất lâu, phải qua cái lễ cúng đại
tường. Đại tường là 2 năm còn tiểu tường là một năm.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
174
Cho nên, ngày xưa các con cháu phải để tang cho cha
mẹ ông bà phải đúng 2 năm mới xả. Nghĩa là phải qua
cái lễ giỗ đại tường. Nhưng về sau nầy, người ta lại
giảm lần đi. Vì để tang lâu, có nhiều việc bất tiện, trở
ngại nhiều thứ, nhứt là trong vấn đề cưới hỏi hoặc làm
ăn v.v…
Từ đó mà người mình không còn giữ đúng theo phong
tục ngày xưa nữa. Bây giờ, thông thường là sau 49
ngày là con cháu có thể làm lễ xả tang.
Như vậy, Phật tử cứ đến chùa xin chư Tôn đức Tăng Ni
để làm lễ thọ và xả tang đều được cả. Đây là vì hoàn
cảnh bất khả kháng, chớ kỳ thật Phật tử đâu có muốn
như thế. Vì cha mẹ hay ông bà là những người thân
thuộc nhứt đời mình, lẽ ra là mình phải về để cư tang
mới đúng đạo làm con, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc
phải như thế. Xin Phật tử cứ yên tâm, không ai trách cứ
Phật tử khi mà hoàn cảnh không cho phép.
76. Sự khác biệt giữa trí thức và trí tuệ.
Hỏi: Kính bạch Thầy, lâu nay con cứ mãi thắc mắc sự
khác biệt giữa trí thức và trí tuệ. Con không hiểu tại
sao trong nhà Phật chỉ đề cập đến trí tuệ mà không nói
đến trí thức? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng
con được hiểu rõ.
Đáp: Theo nhà Phật, đứng trên mặt hiện tượng nhận
thức, giữa trí thức và trí tuệ có khác. Nhưng không
khác, nếu đứng trên mặt bản thể mà xét. Bởi thức
không ngoài trí mà có. Như sóng không rời nước mà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
175
có. Nhưng sóng không phải là nước, mặc dù nước vẫn
ngầm có trong sóng. Cho nên giữa sóng và nước không
thể xác quyết một hay là hai được. Nói theo lý bất nhị
thì sóng tức là nước và nước tức là sóng. Vì hai thứ nói
một là sai mà nói hai thì không đúng. Giữa trí và thức
cũng thế. Đứng về mặt hiện tượng, thì nói là Thức.
Đứng về mặt bản thể, thì nói là Trí. Nói cách khác,
Thức là dụng mà Trí là Thể.
Tuy nhiên, nếu xét theo nghĩa thông thường mà người
ta thường nói, thì giữa trí thức và trí tuệ trong nhà Phật
dùng thì nghĩa của nó khác nhau xa. Bởi trí thức của
người đời nói, đó là thứ trí thức bởi do tích tụ kinh
nghiệm mà có. Nói rõ hơn, là do học hỏi huân tập bởi
những môi trường chung quanh mà có ra. Như hấp thụ
kinh nghiệm qua các lãnh vực của đời sống từ trong gia
đình, nhà trường và xã hội. Trong nhà Phật gọi đây là
Hữu sư trí. Tức thứ trí do vay mượn bên ngoài đem vào
mà tạm có ra.
Ngược lại, trí tuệ cũng còn gọi là Vô sư trí, tức trí tuệ
không do sự vay mượn bên ngoài mà được. Mà tự nó
sẵn có, nhưng sở dĩ nó không hiển lộ được là do phiền
não che ngăn. Một khi phiền não không còn, thì trí tuệ
sẽ hiện bày. Thí như bản chất của gương là trong sáng,
nhưng vì bị bụi bám quá nhiều, nên ánh sáng của
gương không hiển lộ được. Bản chất của trăng là sáng,
nhưng bị mây che dày đặc, nên ánh sáng của trăng
không hiển lộ được. Bụi hết, gương sáng, mây tan,
trăng hiện. Cũng thế, mây vô minh phiền não không
còn, thì mặt trời trí huệ sẽ hiện bày. Bởi do đặc tính đó,
mà nhà Phật gọi là trí huệ bát nhã, hay Phật tánh v.v…
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
176
Nói thế là để biện biệt với trí huệ mà đôi khi người thế
gian cũng hay đề cập đến.
Tóm lại, trí thức còn trong phạm vi phân biệt, chấp
trước bởi do tích tụ kinh nghiệm vay mượn bên ngoài
mà có. Đây là thứ trí thức thuộc Hữu lậu pháp, hay thế
trí biện thông. Ngược lại, trí huệ là cái trí sẵn có không
do vay mượn bên ngoài. Trí nầy khi phát sáng toàn
triệt, không còn một chút cáu bợn vô minh phiền não
che ngăn, thì gọi đó là trí huệ cứu cánh, tức là Phật quả
vậy.
77. Thế nào gọi là chuyển nghiệp ?
Hỏi: Kính bạch Thầy, con thường nghe nói tu là
chuyển nghiệp, nhưng con không biết phải chuyển
nghiệp như thế nào? Và nghiệp là gì mà phải chuyển?
Kính xin thầy giải đáp cho chúng con được hiểu.
Đáp: Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất
sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách
đại khái sơ lược thôi. Nghiệp nguyên tiếng Phạn là
karma, Trung Hoa dịch là nghiệp. Nó có nghĩa là một
hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần thành thói quen,
nên gọi đó là nghiệp. Như nghiệp hút thuốc, nghiệp cờ
bạc, nghiệp rượu chè say sưa v.v… Như người ghiền xì
ke ma túy, lúc đầu mới hút hay chích một hai liều thì
không sao, nhưng khi làm nhiều lần thì thành ra thói
quen nghiện ngập. Khi đã thành ghiền rồi thì thiếu
vắng nó không được. Bấy giờ nó có một sức mạnh rất
lớn. Nó khống chế sai sử chúng ta phải làm theo mệnh
lệnh sai khiến của nó. Bởi thế nên có câu nói: “Thói
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
177
quen ban đầu chỉ là khách lạ qua đường, sau trở thành
người bạn thân và cuối cùng làm ông chủ khó tánh”.
Khi đã trở thành ông chủ khó tánh rồi, chúng ta khó mà
cưởng lại những gì ông chủ sai khiến. Đó là một hậu
quả vô cùng tai hại.
Ngoài ra, chữ nghiệp còn được dùng trong các ngành
nghề khác. Như người cùng làm chung một nghề dạy
học với nhau, thì người ta gọi những vị ấy là bạn đồng
nghiệp. Bất cứ ngành nghề nào mà cùng làm chung với
nhau, thì đều gọi là bạn đồng nghiệp cả. Nghiệp có
nhiều loại. Nếu nói một cách tổng quát, thì có hai loại
chính, đó là: nghiệp lành và nghiệp dữ. Chỗ phát ra và
tạo thành nghiệp gồm có: thân, miệng, ý. Trong 3 thứ
nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính,
so đo phân biệt, Duy Thức Học gọi nó là “liễu biệt
cảnh thức”. Nó là chủ động tạo nghiệp. Khi nó nghĩ
điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và
cái thân làm điều lành. Ngược lại, khi nó nghĩ điều xấu
ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu ác hung dữ
và thân hành động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy
là động cơ tạo thành thiên đường hay địa ngục ở nhơn
gian.
Tất cả mọi khổ vui của con người, từ cá nhân, đến đoàn
thể, nói rộng ra là cả nhơn quần xã hội, đều do nó tạo
ra cả. Cho nên, trong nhà Phật rất chú ý đến 3 nghiệp
quan trọng nầy. Sự tu hành của người Phật tử, Phật dạy
không cần tu đâu xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở nơi 3
nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3 nghiệp
lành. Như trước kia, chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói
năng hành động xấu ác, như miệng chửi rủa, mắng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
178
nhiếc, thân hành động tà hạnh, cướp của, giết người
v.v… nay biết tu hành, chúng ta nên chuyển đổi lại
quyết định không gây tạo những điều xấu ác đó nữa.
Đó là chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3 nghiệp.
Như trước kia, vì si mê khờ dại ta đi vào con đường
nghiện ngập, nay ta biết được tai hại của bệnh ghiền
nầy rất nguy hiểm, ta quyết định cai bỏ nghiện ngập, đó
là ta đã chuyển nghiệp ghiền thành hết ghiền. Khi đã
hết ghiền rồi, đời ta thật vui vẻ hạnh phúc biết bao và ta
có rất nhiều tự do, không còn bị bệnh ghiền nó khống
chế sai sử ta nữa. Một cá nhân biết tu chuyển nghiệp,
thì cá nhân đó được lợi lạc trong hiện tại và mai sau.
Gia đình nào biết tu chuyển nghiệp xấu thành nghiệp
tốt, thì gia đình đó được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm.
Và từ đó, lan rộng ra xã hội được trật tự, an bình, hạnh
phúc, lợi lạc, đó là mục đích mà người Phật tử hướng
đến.
Tóm lại, tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không
chuyển được thì không ai tu làm gì. Chuyển là chuyển
xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà thành
chánh, chuyển dở thành hay v.v… Sở dĩ nói chuyển
nghiệp mà không nói sửa nghiệp, bởi chữ sửa nghĩa của
nó rất rộng, không sâu sắc bằng chữ chuyển. Như nhà
hư, xe hư, người ta cũng dùng chữ sửa. Vì thế, nên mới
nói là đại tu, tiểu tu.
Do đó, nên nói chuyển nghiệp mà không nói sửa
nghiệp. Bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên bên trong nội
tâm hơn là nói cái bên ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu
để trở thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển
nghiệp mà không nói sửa nghiệp là vậy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
179
Mong sao Phật tử chúng ta nên ý thức sự khổ đau trong
hiện tại và mai sau mà cố gắng thường xuyên tu tạo 3
nghiệp lành. Chỉ cần gìn giữ và tu tạo ở nơi 3 nghiệp :
thân, miệng, ý cho tốt đẹp, thì bảo đảm đời ta sẽ dứt
khổ. Đó là gốc của sự tu hành. Bởi thế, nên Kinh nói:
“Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây
phương”. Vãng Tây phương là không còn khổ đau nữa
vậy.
78. Sự khác biệt giữa A la hán và Bồ tát.
Hỏi: Kính bạch Thầy, con thường nghe nói A la hán và
Bồ tát, nhưng con không hiểu giữa A la hán và Bồ tát
khác nhau như thế nào ? Kính mong Thầy từ bi giải
đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: A la hán và Bồ tát có nhiều điểm khác nhau:
1. Khác nhau danh xưng: A la Hán, tiếng Phạn gọi là
Arahat. Bồ tát, tiếng Phạn gọi là Bodhisatva, phiên âm
là Bồ đề tát đỏa. Nói gọn là Bồ tát.
2. Khác nhau về ý nghĩa: A la hán chỉ là phiên âm từ
tiếng Phạn Arahat. Chữ Arahat hay A la hán có 3
nghĩa: Sát tặc, Vô sanh và Ứng cúng.
a. Sát tặc là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm. Bọn
giặc phiền não chúng nó hung tợn dữ dằn lắm. Những
thứ phiền não gốc ngọn gì, các Ngài cũng đều giết sạch
hết, nên gọi là sát tặc.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
180
b. Vô sanh đồng nghĩa với Niết bàn. Nghĩa là các Ngài
đã đạt được một trạng thái tâm lý yên tịnh không còn
sanh diệt nữa. Nói rõ, là các Ngài không còn sanh tử
luân hồi.
c. Ứng cúng là các Ngài thật xứng đáng cho trời người
cúng dường. A la Hán có 3 nghĩa như thế.
Còn nghĩa của Bồ tát thì sao ? Bồ tát có 2 nghĩa : một
là hữu tình giác, hai là giác hữu tình. Thế nào là hữu
tình giác? Bồ tát cũng là một con người như chúng ta,
nhưng là một con người giác ngộ và sau khi giác ngộ,
các Ngài đem sự giác ngộ đó giáo hóa cho mọi người
cũng đều được giác ngộ như các Ngài, thì gọi các Ngài
là Bồ tát. Như vậy, ai cũng có thể làm Bồ tát được cả.
Nếu chúng ta chịu khó tu học và có tấm lòng vị tha
nhân ái làm lợi ích cho mọi người, cũng đều gọi là Bồ
tát. Tóm lại, Bồ tát chỉ là một con người, nhưng là
người giác ngộ, làm lợi mình và lợi người, đó là Bồ tát.
3. Khác trên hình thức : Bồ tát không nhứt thiết phải
là người có hình thức xuất gia mà người tại gia vẫn làm
Bồ tát. Như vậy, Bồ tát có hai hạng: xuất gia và tại gia.
Ngược lại, A la hán, thì phải là người xuất gia, vì các
Ngài thọ đại giới Tỳ kheo, hay Sa môn vậy.
4. Khác biệt về giới luật : A la hán khi tu nhân thì gọi
là Tỳ kheo thọ 250 giới. Khi chứng quả gọi là A la hán.
Tức các Ngài nặng về phần giới tướng, không đặt nặng
về giới tánh. Ngược lại, Bồ tát thì nặng về phần giới
tánh và có tam tụ tịnh giới. Đồng thời còn thọ 10 giới
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
181
trọng và 48 giới khinh, tổng cộng là 58 giới. Đó là nói
Bồ tát xuất gia. Còn Bồ tát tại gia thì gồm có 6 giới
trọng và 28 giới khinh.
Nói tam tụ tịnh giới có nghĩa là : Tam là ba, tụ là
nhóm, tịnh là trong sạch, giới gọi là ngăn cấm. Tam tụ
tịnh giới, tức là 3 nhóm giới của Bồ tát. Một là nhiếp
luật nghi giới (dứt các điều ác). Hai là nhiếp thiện pháp
giới (hành các điều lành). Ba là nhiêu ích hữu tình giới
(độ tất cả chúng sanh). Đó là khác biệt về giới luật.
5. Khác về tâm niệm: A la hán có tâm lượng hẹp hòi,
chỉ lo tự độ mình thôi, chứ không nghĩ đến độ người
khác. Nên các Ngài bị Phật quở là Trầm không trệ tịch
hay Khôi thân diệt trí. Ngược lại, Bồ tát thì Phật khen
có tâm lượng rất rộng lớn. Các Ngài chẳng những lo
phần độ mình mà còn luôn nghĩ đến độ chúng sanh
nữa.
6. Khác nhau về pháp tu: A la hán sau khi nghe Phật
giảng pháp Tứ Đế: khổ, tập, diệt, đạo, rồi, các Ngài
ứng dụng tu hành. Nhờ đó mà các Ngài chứng quả A la
hán. Nên còn gọi các Ngài là Thanh văn. Tức nhờ nghe
pháp âm của Phật mà tu hành chứng quả. Ngược lại Bồ
tát thì ứng dụng thật hành pháp Lục độ. Tức bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ.
7. Khác nhau về quả vị: Hàng A la hán chứng được
quả vị Niết bàn, mà Niết bàn của các Ngài gồm có hai
loại: Hữu dư y niết bàn và Vô dư y niết bàn. Ngược lại,
Bồ tát thì gọi là Vô trụ xứ niết bàn. (Niết bàn không có
chỗ nơi an trụ cố định ).
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
182
8. Khác biệt về độ sanh: A la hán sau khi chứng quả
các Ngài an trụ quả vị Niết bàn mà không ra độ sanh.
Ngược lại, Bồ tát ngoài việc tự lợi, các Ngài luôn lấy
việc độ sanh làm lợi ích cho muôn loài không biết mỏi
mệt.
9. Khác nhau ở bản nguyện: Bản nguyện của A la hán
lúc tu nhân chỉ lo diệt trừ hết phiền não rồi an trụ Niết
bàn, không ra độ sanh. Dù có đi chăng nữa, cũng không
được rộng lớn. Ngược lại, bản nguyện của các vị Bồ tát
rất rộng lớn, như Bồ tát Địa Tạng nói: “Chừng nào địa
ngục trống không, thì Ngài mới thành Phật”, nhưng
biết bao giờ địa ngục mới trống không. Thật đó là một
đại nguyện vậy.
10. Khác nhau ở tiến trình tu chứng: A la hán từ địa
vị phàm phu các Ngài phải trải qua các ngôi vị, như Tứ
gia hạnh: Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất và 3 quả vị:
Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A Na hàm rồi mới đến quả
vị A la hán. Ngược lại, Bồ tát thì phải tuần tự trải qua
52 ngôi vị. Từ địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh,
Thập hồi hướng, Thập địa rồi bước lên Đẳng giác và
cuối cùng là Diệu giác tức thành Phật.
Tóm lại, Sự khác biệt giữa A la hán và Bồ tát đại khái
gồm có 10 điểm chính yếu sau đây:
1.Khác về danh xưng.
2.Khác về ý nghĩa.
3.Khác về hình thức.
4.Khác về giới luật.
5.Khác về tâm niệm.
6. Khác về pháp tu.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
183
7. Khác về quả vị.
8. Khác về độ sanh.
9. Khác về bản nguyện.
10. Khác về tiến trình tu chứng.
79. Vấn đề linh hồn và nghiệp báo.
Hỏi: Kính bạch Thầy, con nghe người ta nói, con
người sau khi chết có một cái hồn tồn tại và rồi đi đầu
thai, chớ không có nghiệp báo gì hết. Họ nói như thế có
đúng không? Kính xin Thầy giải đáp cho chúng con
được rõ.
Đáp: Vấn đề sau khi chết, linh hồn tồn tại hay không
tồn tại và linh hồn người chết sẽ đi về đâu? Đây là một
vấn đề rất phức tạp, thật khó chứng minh. Vấn đề nầy,
có nhiều luận giải quan niệm khác nhau, tùy theo quan
niệm giải thích của mỗi Tôn giáo và tùy theo niềm tin
của mỗi người. Tuy nhiên, người Phật tử khi đặt định
niềm tin theo một điều gì, chúng ta cần nên phối kiểm
tìm hiểu vấn đề bằng lý trí và qua sự sát nghiệm luận
cứ kỹ càng, chớ không nên nghe đâu tin đó. Nhứt là đối
với những người nói bừa không có một luận cứ vững
chắc và không có một niềm tin nào cả. Tốt hơn hết là
chúng ta nên cẩn trọng trong khi nghe người khác nói.
Qua câu hỏi trên, nếu phải luận giải cặn kẻ rõ ràng, thì
thật là dài dòng. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa theo quan
điểm của Phật giáo, mà xin được trình bày góp ý qua
một vài nhận xét thô thiển của chúng tôi, còn vấn đề tin
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
184
hay không là tùy ý ở nơi mỗi người.
Bảo rằng, con người sau khi chết còn có một cái hồn
tồn tại và rồi đi đầu thai, chớ không có nghiệp báo gì
hết, theo Phật giáo, thì quan niệm lý giải đó không thể
chấp nhận được. Phật giáo không chấp nhận có một
linh hồn bất tử. Vì đó là lối chấp của ngoại đạo. Ngày
xưa, thời Phật, có 2 phái ngoại đạo nêu ra 2 chủ thuyết:
một là « Thường kiến » hai là « Đoạn kiến ». Phái
Thường kiến cho rằng, linh hồn con người mãi mãi là
con người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái
sinh trở lại làm người. Ngược lại, phái Đoạn kiến thì
cho rằng, con người sau khi chết là không có linh hồn
tồn tại đời sau, nghĩa là mất hẳn. Họ chấp như thế, nên
Phật gọi họ là phái Đoạn diệt hay Đoạn kiến. Vì quan
niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm ác, vì không có
tội lỗi quả báo ở đời sau. Đây là 2 phái gây tác hại lớn
làm đại loạn trật tự an bình cho xã hội. Hai phái nầy,
theo chủ trương của họ là, không có nhân quả báo ứng.
Nhưng chúng ta đừng quên rằng, nhân quả là một chân
lý phổ biến, tiềm tàng trong mọi sự vật và chi phối tất
cả. Không một loài nào thoát khỏi nhân quả. Do Phật
sau khi giác ngộ chân lý, Ngài nói ra cho chúng ta biết
như thế.
Vì căn cứ theo luật nhân quả mà nhà Phật nêu ra thuyết
nghiệp báo. Hễ chúng ta gây tạo nghiệp nhân gì, sớm
hay muộn gì cũng phải có kết quả. Phật giáo không
chấp nhận có một linh hồn bất tử như thế. Vì như thế là
rơi vào lối chấp thần ngã của ngoại đạo như đã nói ở
trên.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
185
Theo Phật giáo, tất cả đều do nhân duyên sanh. Nghiệp
báo cũng từ nhân duyên, nhân quả mà hình thành. Theo
Duyên khởi luận của Phật giáo, trong đó, có nêu ra
thuyết A lại da duyên khởi. Thuyết nầy thuộc Đại thừa
thỉ giáo. A lại da là thức thứ tám sau thức Mạt na. Thức
nầy còn gọi là Tàng thức. Là cái thức trùm chứa tất cả
chủng tử thiện ác. Nói Tàng thức, vì thức nầy có 3 công
năng: « năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng ».
Năng tàng là thức nầy có khả năng hay dung chứa tất
cả pháp. Sở tàng là khả năng để đựng chứa chủng tử
các pháp. Do 2 công năng nầy, nên khi chúng ta gây
tạo nghiệp thiện ác, thì tất cả những hạt giống thiện ác
đó đều được huân chứa vào cái kho Tạng thức nầy.
Đến khi đủ nhân duyên, thì những chủng tử ấy phát
khởi hiện hành. Những chủng tử (hạt giống) được cất
giữ vào trong kho nầy gọi đó là nghiệp thức. Chính cái
nghiệp thức nầy là chủ động theo duyên mà tiếp nối thọ
sanh đời sau. Nhà Phật gọi đây là tiếp nối vòng sanh tử
luân hồi trong Lục đạo ( Trời, người, A tu la, địa ngục,
Ngạ quỷ, Súc sanh ).
Như vậy, theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi và A lại
da duyên khởi của Phật giáo, thì mỗi ý nghĩ, lời nói,
hành động của 3 nghiệp: thân, miệng, ý tạo tác của
chúng ta, đều được cất giữ trong cái kho Tạng thức nầy
hết, không sót mất một hạt giống thiện ác nào.
Dụ như một thửa đất chúng ta gieo nhiều loại hạt giống
khác nhau, khi mới gieo xuống ta không thấy chúng
nẩy mầm lên, vì không thấy nên ta tưởng là chúng bị
mất hay không lên, nhưng khi gặp mưa ướt đất, đủ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
186
duyên, thì chúng lại nẩy mầm lên. Khi nẩy mầm lên, thì
giống nào nẩy mầm theo giống nấy. Như hạt cam, hạt
ớt, hạt ổi v.v…mỗi thứ lên khác nhau, chúng không
bao giờ lộn lạo. Khi chưa đủ duyên, chúng nằm yên đó,
chớ không bao giờ mất.
Cũng thế, nếu hiện đời, chúng ta huân tập nhiều hạt
giống lành như niệm Phật, làm lành, làm phước v.v…
vào Tàng thức, thì chính những hạt giống đó nó có
công năng dẫn dắt chúng ta đến cảnh giới lành sanh ra,
để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp mà do chúng
ta đã gây tạo trong hiện đời nầy. Nhà Phật gọi đó là
nghiệp dẫn. Ngược lại, nếu chúng ta tạo nghiệp ác thì
cũng như thế. Nên nói, tùy nghiệp thọ sanh là vậy. Nên
biết, nghiệp là hành động lặp đi lặp lại nhiều lần thành
thói quen. Chính thói quen nầy khi thuần thục, thì nó
có một sức mạnh phi thường để tùy duyên chiêu cảm
thọ sanh.
Như người ghiền cờ bạc, họ đi kiếm nơi nào có sòng
bài, thì họ nhào vô chơi. Người ghiền nhạc, thì đi tìm
phòng nhạc để ca hát v.v… Khi tập thói quen, dĩ nhiên
có thói quen tốt và có thói quen xấu. Thói quen tốt hay
thói quen xấu, một khi đã tiêm nhiểm thành ghiền nặng
rồi, thì chính thói quen đó nó dẫn dắt chúng ta, tùy theo
sở thích mà chiêu cảm, Thói quen hay sở thích nào
nặng (cực trọng nghiệp), thì nó có một năng lực rất
mạnh để tìm đến môi trường thích hợp mà thọ sanh,
nên gọi là nghiệp cảm. Về điểm nầy, trong Quy Sơn
Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn cũng có nói: “Như nhơn phụ
trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
187
thiên trụy”. Nghĩa là: Như kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo
trước, trong tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.
Thường ta nghe trong kinh nói, người khi chết, thần
thức xuất ra. Nói thần thức, chính là cái nghiệp thức A
lại da, nói rõ ra là những chủng tử thiện hoặc ác đã kết
thành nghiệp. Và chính nghiệp thức nầy là đầu mối của
việc thọ sanh đời sau đó vậy.
Người đời vì không biết, nên cho là có một cái linh hồn
đi đầu thai. Chữ đầu thai có nghĩa là có một cái hồn
nhẩy vào cái bào thai để thọ thai. Hiểu như thế, thì
không phù hợp với hai thuyết: Nghiệp cảm và A lại da
duyên khởi của Phật giáo như đã nói ở trên. Không
phải có một cái linh hồn đi đầu nầy đầu kia để kiếm
đường chui vào một chỗ nào đó. Theo thuyết A lại da
duyên khởi, thì không chấp nhận quan niệm đó. Vì
trong thức nầy có đủ chủng tử hữu lậu và chủng tử vô
lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống tùy duyên mà
phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức hiện tượng giới; còn
chủng tử vô lậu, có thể đưa đến chỗ giải thoát.
Tóm lại, người nào đó nói rằng sau khi con người chết,
có một cái hồn tồn tại đi đầu thai và không có nghiệp
báo gì hết, thì điều nầy như chúng tôi đã tạm nêu ra đôi
nét giải thích trên, thì quan niệm đó không đúng.
Trong quyển Quy Sơn Cảnh Sách giảng giải của Thiền
Sư Thích Thanh Từ ở trang 77 có đoạn Hòa Thượng
nói: “Người thế gian cho rằng mọi người đều riêng có
một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà
đã khôn ngoan thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
188
nghĩ rằng sau khi chết linh hồn mình sẽ sinh ra làm
người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình.
Đạo Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức nầy tùy
theo chỗ huân tập thiện ác mà đến, chứ không cố định.
Vì không cố định nên nó không phải là cái khôn ngoan
biết lựa chọn, mà chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức
khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu nói chúng ta có linh hồn
thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là
duy nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi.
Nhưng tâm thức chúng ta luôn luôn biến chuyển, gần
người lành thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp thụ
điều ác. Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác sanh
diệt, chính dòng thiện ác đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ
lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó là ý
Tổ Quy Sơn nói “trọng xứ thiên trụy”.
Như vậy, Phật giáo không chấp nhận có một cái linh
hồn trước sau như nhứt và càng không chấp nhận cái
hồn đó đi đầu thai, như người đời lầm tưởng. Còn bảo
rằng không có nghiệp báo gì hết, quan niệm nầy, theo
Phật giáo cho đó là thuộc hạng người Nhứt xiển đề,
tức bất tín cụ. Đây là hạng người họ không có lòng tin
nhân quả. Chẳng những không tin mà họ còn bài bác
nhân quả nữa. Hạng người như thế, thật chúng ta khó
trao đổi luận giải với họ được.
Như đã nói, thuyết nghiệp báo là đặt định trên chiều
thời gian nhân quả mà nói. Người nói như thế, thiết
nghĩ, họ chưa tìm hiểu về thuyết nghiệp báo. Và chưa
hiểu nghiệp là gì. Nếu vì chưa hiểu, thì tốt hơn hết là
nên tìm hiểu, chớ không nên nói càn bướng mà chuốc
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
189
lấy khổ lụy vào thân. Thật là một tai hại vô cùng và
thật đáng thương xót lắm thay!
80. Số mạng và nghiệp báo đồng hay khác ?
Hỏi: Kính bạch Thầy, con chưa hiểu rõ giữa số mạng
và nghiệp báo giống nhau hay khác nhau? Kính xin
Thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Con cám ơn Thầy.
Đáp: Theo Nho giáo, con người sinh ra đời, mỗi người
đều có số mạng hay thiên mạng định sẵn. Chính vì thế
mà người ta thường nói đùa là giày dép còn có số, Tuy
đây là câu nói đùa, nhưng ngầm ý là muốn nói mỗi
người đều có số đã được một bàn tay nào đó đã đặt
định an bày sẵn. Như những việc thành bại, thạnh suy,
nhục vinh, vui khổ v.v… ở đời mỗi mỗi đều do trời sắp
đặt cho. Bởi thế nên mới có câu nói: “nhứt ẩm nhứt
trác giai do tiền định”. Nghĩa là một miếng ăn một
miếng uống đều đã được an bày sẵn trước.
Theo nhà Phật, thì cho những điều xảy ra mà con người
phải nhận lãnh, gọi đó là nghiệp báo. Nghiệp báo là cái
nhân do chúng ta tạo từ trong quá khứ, nay sanh ra đời
phải chịu thọ lãnh, như tật nguyền hay đau ốm v.v…
Nghiệp là nhân đã tạo, báo là quả phải trả. Như vậy,
nếu đứng về mặt sẵn có, thì cả hai bên đều thừa nhận
như nhau.
Sự sai biệt của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu trong
cuộc sống là một chứng minh cho điều đó. Sự sai khác
nầy do ai đặt định? Nho nói: “Số trước đã định”. Phật
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
190
nói: “Nghiệp trước gây nên”. Nghĩa là cả hai bên đều
thừa nhận có cái sẵn từ trước. Chẳng qua chỉ dùng từ
ngữ diễn tả khác nhau mà thôi. Một bên nói số, một
bên nói nghiệp. Như vậy, cả hai bên giữa nhà Nho và
nhà Phật chấp nhận giống nhau. Tuy nhiên, vấn đề nầy,
nếu xét sâu hơn, chúng ta thấy có rất nhiều điểm không
giống nhau. Không giống nhau về nguyên nhân, về xuất
phát, về cảm thọ, về hoán cải và về định chế v.v…
Về nguyên nhân và xuất phát. Người tin vào số mạng
hay thiên mạng, thì suốt đời ta không cải đổi được.
Như số đã định nghèo, thì suốt đời phải chịu nghèo,
không thể nào cất đầu lên nổi. Ngược lại người giàu có
cũng thế. Như vậy, là ta phải bó tay cam chịu trong cái
khuôn định sẵn, suốt đời không thoát ra được. Đã thế,
thì còn gì là giá trị ý nghĩa của sự sống ? Số định cho ta
vui, thì ta vui; số định cho ta khổ, thì ta khổ. Nghĩa là
mọi việc ta đều thả trôi buông xuôi theo số phận, tới
đâu hay đó.
Như thế, quả ta là kẻ bất lực, vô trách nhiệm gởi gắm
thân phận mình cho một cái viễn vông mơ hồ, mà ta
không hề biết. Với tinh thần khoa học thực tế, thì
không ai có thể chấp nhận được vấn đề nầy. Thế thì,
nếu xét về nguyên nhân, xuất phát, thì ta không biết do
ai gây ra, cứ đổ trút cho số phận hay trời đã định là
xong chuyện.
Phật giáo, với thuyết nghiệp báo, không chấp nhận như
thế. Theo Phật giáo, bất cứ việc gì xảy ra trên cõi đời
nầy, dù nhỏ hay lớn, dù hữu hình hay vô hình, tất cả
đều phải có nguyên nhân cả. Không có một việc gì gọi
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
191
là tự nhiên hay khi không mà có. Theo thuyết nghiệp
báo, thì đời nầy ta chịu khổ đau hay vui sướng, đó là
kết quả của đời trước hay nhiều đời trước mà chính do
ta đã gây ra. Không một bàn tay nào tạo thế cho ta.
Mình làm mình chịu trách nhiệm, không đổ thừa, đổ
tháo cho ai cả. “Đã mang lấy nghiệp vào thân, cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa” (Truyện Kiều). Như
đời nay sanh ra ta bị nghèo khổ, sống trong cảnh cơ cực
lầm than, bởi do đời trước ta không tu hạnh bố thí.
Thấy ai nghèo khổ đói khát, ta ngoảnh mặt làm ngơ,
không một chút từ tâm thương xót. Nêu ra một việc
nhỏ như thế, để từ đó chúng ta có thể xét đến trăm ngàn
việc khác.
Về cảm thọ và hoán cải hay định chế. Người tin vào số
mạng cho rằng, làm sao đổi được số? Nhất là số trời đã
định còn ai dám can thiệp vào. Trời đã định, không
dám làm trái lòng trời. Người Phật tử tin vào thuyết
nghiệp báo thì không như thế. Vì nghiệp có thể chuyển
đổi được. Cho nên nói, tu là chuyển nghiệp.
Như người xưa kia có tánh nóng nảy hay sân si, nay
biết tu chuyển đổi bỏ bớt. Hay như người nghiện ngập
cờ bạc, hút xách, rượu chè say sưa v.v… vì trước kia
mê lầm nên tạo lắm điều khổ mình khổ người, nay tỉnh
giác hồi đầu hối cải sửa sai, quyết định cai bỏ nghiện
ngập và từ đó, họ có một đời sống thay đổi an vui hạnh
phúc cho bản thân và gia đình.
Thế thì, nghiệp lực có thể chuyển được từ xấu trở thành
tốt, chớ không phải cố định cứng ngắc, theo kiểu trời
kêu sao dạ vậy. Nếu tin vào một định chế bất di bất
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
192
dịch, thì xã hội nầy làm sao cải tiến và mọi người phó
thác cho định mệnh, không thể nào vươn lên cầu tiến.
Như thế, thì thử hỏi làm sao cá nhân, gia đình và xã hội
tiến bộ cho được? Người tin vào số mạng, theo kiểu
định kiến, thì chỉ còn có nước ngồi đó khoanh tay chờ
chết, chớ làm sao cải đổi cho được. Như thế thì trách
nhiệm con người ở đâu? Và như thế, thì xã hội sẽ trở
thành lạc hậu mất rồi!
Tóm lại, giữa số mạng hay thiên mạng và nghiệp báo
thật khác nhau rất xa. Chỉ giống nhau một điểm là cái
sẵn có như trên đã nói qua. Ngoài ra, tất cả đều dị biệt.
Để so sánh rõ hơn về vấn đề nầy, sau đây, chúng tôi xin
trích dẫn một đoạn so sánh phê bình giữa thuyết số
mạng và nghiệp báo trong quyển sách Hé Mở Cửa Giải
Thoát do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn. Ở đoạn
kết luận Phê bình, trang 64, Hòa Thượng có nêu ra so
sánh phê bình như sau: “Nói số mạng là mơ hồ không
xác thực. Nghiệp báo là thực tế rõ ràng. Thuyết số
mạng đưa con người vô trách nhiệm về hành động của
mình. Nghiệp báo dạy người nhận lấy trách nhiệm do
mọi hậu quả tốt xấu đến với mình. Số mạng khiến con
người thụ động, tiêu cực phó thác liều lĩnh. Nghiệp báo
xây dựng con người chủ động, tích cực, nỗ lực và sáng
tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận đầu
hàng. Nghiệp báo chỉ cho ta phải cố gắng can đảm và
thăng tiến. Số mạng thích hợp với thời quân chủ phong
kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứng
dụng thuyết nghiệp báo trong cuộc sống, chúng ta thấy
mình đồ sộ hiên ngang đầy đủ quyền năng trong cuộc
kiến tạo con người và vũ trụ”.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
193
81. Vấn đề hộ niệm cho người sắp lâm chung.
Hỏi: Con nghe nói hộ niệm vãng sanh, nhứt là cho
người hấp hối sắp chết, nhưng con không hiểu phải hộ
niệm như thế nào mới đúng cách? và phải làm sao cho
người chết được lợi lạc vãng sanh? Kính xin Thầy
hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được hiểu rõ.
Đáp: Đây là một vấn đề rất hệ trọng đối với những
người tu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng
sanh. Những người mà tịnh nghiệp của họ đã thuần
thục, hiện đời họ đã niệm Phật chứng được niệm Phật
Tam Muội, tức được nhất tâm bất loạn, Thánh cảnh
hiện tiền rồi, thì việc hộ niệm không cần thiết nữa. Vì
họ đã vãng sanh ngay trong hiện đời rồi. Thật ra, trong
thời mạt pháp nầy, đối với hạng người nầy thật không
phải dễ có. Đó phải là bậc thượng căn thượng trí mới
có được.
Ngoài ra, nếu chưa được như thế, thì giờ phút sắp lâm
chung, đối với việc hộ niệm hay trợ niệm là điều tối
thiết yếu, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên tìm hiểu
thật kỹ về vấn đề nầy.
Trong khuôn khổ giới hạn của trang giấy phạm vi vấn
đáp, chúng tôi không thể nào trình bày cho tận tường
chi tiết hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ xin được trình
bày một cách khái yếu vấn đề mà thôi.
Đời người, khi sắp mất, hay cuối nẻo đường trần có 3
lối rẽ để đi. Một là tiến thẳng lên Thánh đạo, vãng sanh
Cực Lạc tức thời, lối đi nầy chỉ dành cho những người
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
194
cực thiện. Hai là lối đi vào thiện đạo và ba là lối đi vào
ác đạo. Lối đi vào thiện đạo dù có được tốt đẹp ít khổ,
nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển vào nhơn đạo
hoặc thiên đạo. Thứ ba là lối đi vào ác đạo, đây là con
đường trầm luân thọ khổ muôn kiếp, mà không một ai
muốn bước chân vào. Tuy không muốn, nhưng nghiệp
ác hiện đời đã gây tạo, thì phải tránh như thế nào đây?
Cho nên đối với hai hạng người sau nầy, thì việc hộ
niệm trong giờ phút sắp lâm chung thật vô cùng quan
yếu. Nhưng phải hộ niệm như thế nào để cho người sắp
lâm chung mới được lợi lạc vãng sanh? Đó là điều mà
người đóng vai trò hộ niệm giúp cho những người sắp
chết, thiết nghĩ, cũng cần nên biết qua.
Hai chữ hộ niệm có nghĩa là giúp cho người sắp chết có
được chánh niệm. Chữ niệm nầy, có nghĩa là chánh
niệm. Nói cách khác là mình giúp (hộ) cho họ nhớ
(niệm) Phật, tức đồng với tâm niệm Phật, vì tâm niệm
Phật là chánh nhân thành Phật. Vì muốn nhắc nhở
người bệnh luôn nhớ đến Phật, mà không nhớ đến
duyên trần, vì nhớ đến duyên trần là mất chánh niệm
hay tịnh niệm, thì rất trở ngại cho việc vãng sanh. Do
đó, mà người hộ niệm là chiếc phao nổi để người bệnh
sắp chết nương vào.Vì sao? Vì lúc nầy, người bệnh tứ
chi đau nhức rã rời, nếu là người bị mang chứng bệnh
nan y, như ung thư chẳng hạn, thì sự hành hạ xác thân,
bởi cơn đau nhức hoành hành thật là khó tả. Do đó, tâm
thần của họ dễ bị tán loạn, dù cho bình thường, họ có
công phu niệm Phật, nhưng vì chưa đạt đến chỗ thuần
thục, nên dễ bị tán tâm. Bởi thế, nên họ rất cần người
khác hộ niệm. Lúc nầy, người bệnh hoàn toàn mất hết
tự chủ, tinh thần rối loạn, nghĩ nhớ lung tung, thật khó
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
195
tập trung vào câu hiệu Phật. Nên người hộ niệm phải
giúp cho họ tập trung tinh thần về với chánh niệm bằng
cách chí thành tha thiết niệm Phật.
Điều ta nên nhớ, người bệnh vừa dứt hơi thở, nhưng
chưa thật chết hẳn, thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi
thể xác, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ, nên giờ phút nầy,
vẫn còn rất cần thiết cho việc hộ niệm, niệm Phật.
Người bệnh được vãng sanh hay không, ngoài phần
chánh nhân tu niệm bình nhật của họ ra, phần lớn là
nhờ vào giờ phút hộ niệm nầy. Do đó, những người
thân quyến hay con cháu trong gia đình, là những nhân
tố chánh giúp cho người thân của mình không bị đọa
lạc vào cảnh khổ. Nếu giờ phút quan trọng nầy, mà
thân nhân hay bạn bè, không biết cách hộ niệm, chẳng
những không niệm Phật giúp cho người thân mình có
thêm chánh niệm, trái lại, còn gây thêm cho họ nhiều
rối loạn, lo âu, buồn bực v.v… thì thật là tai hại nguy
hiểm vô cùng. Cho nên, nếu mọi người thật sự thương
thân nhân của mình, thì chỉ nên một lòng chắp tay tha
thiết mà thành tâm niệm Phật.
Ngoài ra, không nên có thái độ hay lời nói gây xúc
phạm đến người bệnh sắp lâm chung. Vì lúc nầy hơn
bao giờ hết, người bệnh dễ hay sanh bực tức giận hờn.
Cách hay nhất trong giờ phút nầy, nên cần có ít nhất là
một người biết cách trợ niệm, để giúp đỡ chỉ bảo mọi
việc cho thân nhân và bạn bè. Người nầy rất là cần
thiết. Vì thân nhân của người sắp chết, ai nấy đều tỏ ra
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
196
rất bối rối lo buồn, nên không còn đủ bình tĩnh để lo trợ
niệm giúp đỡ cho bệnh nhơn.
Thế nên, theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì phải có
người thông hiểu mọi việc hộ niệm túc trực bên cạnh
bệnh nhơn, vừa nhắc nhở bệnh nhơn niệm Phật, vừa
khuyên nhủ thức nhắc bằng những lời pháp ngữ cảnh
tỉnh, để bệnh nhơn tăng thêm đạo lực tín tâm và dễ
được định tâm niệm Phật hơn. Bởi vậy, những người
hộ niệm nầy, phải được thay phiên nhau niệm Phật liên
tục, tùy hoàn cảnh mà khéo léo dùng chước phương
tiện để giúp cho bệnh nhơn và trong thân quyến. Điều
nầy, thật rất là cần thiết quan trọng. Người hộ niệm
phải có tấm lòng bi cảm và hòa ái nhẫn nại đối với
bệnh nhơn. Đó là thể hiện lòng từ bi vị tha nhân ái cao
cả của Bồ tát Quán Thế Âm.
Tóm lại, muốn cho việc hộ niệm vãng sanh đạt được
kết quả cao, theo thiển nghĩ của chúng tôi, cần phải hội
đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện qua 3 yếu tố
quan trọng như sau :
I. Người hộ niệm
II. Bệnh nhơn.
III. Thân bằng quyến thuộc.
I. Người hộ niệm.
Đối với người hộ niệm đóng một vai trò chủ chốt rất
quan trọng trong việc hộ niệm, nên cần phải thông hiểu
về việc hộ niệm nầy. Sau đây là những điều mà người
hộ niệm cần biết:
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
197
1. Nên khuyên bảo thân quyến và sắp xếp mọi việc cần
thiết trong lúc hộ niệm cho người bệnh hấp hối sắp lâm
chung. Tối kỵ nhứt là gây xáo trộn khóc than trong giờ
phút nầy. Những ai không dằn lòng được xúc động, thì
tốt hơn hết là nên mời họ bước ra ngoài, đừng để bệnh
nhơn nghe tiếng khóc than.
2. Thái độ và cung cách, nhứt là lời nói đối với người
bệnh phải hiền hòa dịu ngọt, nên khuyến nhắc người
bệnh nhớ niệm Phật và cần gợi lại những công hạnh mà
người bệnh đã thực hiện.
3. Ngoài việc niệm Phật và khuyến nhắc bệnh nhơn ra,
tuyệt đối không được nói lời gì khác, mà gây cho bệnh
nhơn không vui dễ mất tín tâm và tán loạn.
4. Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhơn nằm, mà
linh động niệm Phật to tiếng hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết
là chỉ niệm Phật cho bệnh nhơn vừa đủ nghe, không
nhỏ quá và cũng không nên lớn tiếng quá. Theo kinh
nghiệm cho biết, lúc nầy, càng niệm lớn tiếng, bệnh
nhơn càng không nghe rõ. Tốt hơn hết, là nên niệm vừa
đủ cho bệnh nhơn nghe thôi. Và khi niệm, phải niệm đủ
6 chữ : Nam Mô A Di Đà Phật. Phải niệm chậm rãi và
từng chữ cho thật rõ ràng.
5. Phải thay phiên nhau niệm Phật liên tục không cho
gián đoạn, cần khuyến khích thân nhân cùng thay phiên
nhau niệm Phật. Trong phòng bệnh, ngoài tiếng niệm
Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được nói
chuyện ồn ào làm loạn tâm bệnh nhơn vô ích.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
198
6. Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để như vậy mà
chí thành niệm Phật liên tục, không nên sửa làm động
đậy bệnh nhơn, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ. Điều nầy rất
quan trọng, chúng ta cần phải lưu ý. Vì khi bệnh nhơn
mới tắt thở, thần thức chưa rời khỏi xác thân. Nên rất
cẩn trọng quan tâm về vấn đề nầy. Còn nhiều chi tiết
khác, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra 6 điều quan
trọng mà người hộ niệm cần ghi nhớ trong khi hộ niệm
mà thôi.
II. Bệnh nhân.
Người bệnh là yếu nhân chính trong việc quyết định
cuộc đời mình. Đây là giờ phút quan trọng để mình
quyết định cho sự chọn lựa. Nếu là một liên hữu đã
phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh, thì trong lúc
bệnh nặng, nên buông bỏ tất cả duyên trần, không bận
tâm với bất cứ vấn đề gì, nhứt là đối với việc gia đình
nhà cửa con cháu v.v… Không ai thương mình bằng
chính mình thương mình. Trước giờ phút phân ly đôi
ngã, dù đó là người thân yêu nhứt đời mình, họ cũng
không thể nào thay thế được gì cho mình.
Trong nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng, cái chết gần kề với
mình, thì thử hỏi mình còn tham đắm luyến tiếc thứ gì
nữa chớ! Nghĩ thế, mình nên dốc hết tâm lực còn chút
hơi tàn mà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương,
theo bản nguyện sanh tiền của mình đã phát nguyện.
Nên nhớ đến lời khuyên dạy chí tình chí thiết của Hòa
Thượng Thiện Đạo, vị Tổ thứ hai của Liên Tông. Ngài
thường khuyên dạy cho những người tu Tịnh độ, niệm
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
199
Phật như sau: “Người niệm Phật khi sắp mãn phần,
muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng
sợ chết. Phải thường nghĩ thân nầy nhơ nhớp, biết bao
điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ,
sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ
thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô sự an vui. Ví như
bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi
đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm
không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bệnh, liền
tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết.
Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc
hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên
vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác…”.
Đó là chúng tôi trích dẫn một đoạn khuyến nhắc của
Ngài, để chúng ta nhớ đến mà hết lòng niệm Phật. Nên
biết, Tổ Thiện Đạo là hóa thân của đức Phật A Di Đà.
Lời Ngài dạy thật là thiết tha bi mẫn. Đây là lời khuyên
chung của Tổ, không nhứt thiết là chỉ có liên hữu
không thôi. Nếu ai nghe theo lời khuyên dạy nầy của
Ngài, mà thật tâm tha thiết hành trì, dốc lòng niệm
Phật, thì cũng được lợi lạc vãng sanh về Cực Lạc.
Xin tất cả hãy nghĩ đến tương lai sướng hay khổ của
đời mình mà tự mình phải cố gắng buông bỏ tất cả, chỉ
có một con đường trước mắt là niệm Phật cầu vãng
sanh về Cực Lạc mà thôi. Hãy nhớ đến bản nguyện của
đức Từ Phụ A Di Đà lúc nào Ngài cũng sẵn sàng chờ
đón chúng ta. Đó là trọng tâm chính yếu mà người
bệnh sắp lâm chung cần ghi nhớ thực hành để được lợi
lạc cho chính mình.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
200
III. Thân bằng quyến thuộc.
Việc hộ niệm người bệnh được vãng sanh hay không,
những người trong thân quyến đóng vai trò không kém
phần quan trọng. Nếu thật sự thương thân nhân của
mình trong giờ phút quyết định cuộc đời vui hay khổ
nầy, y cứ theo lời chư Phật Tổ chỉ dạy, chúng tôi xin
thành thật có đôi lời khuyến nhắc chung qua một vài
điều thiết yếu sau đây:
1. Phải tỏ thái độ có lòng thương kính từ ái và tuyệt đối
không được dùng lời nói mất hòa khí trong gia đình.
Tuyệt đối, không nên đem việc nhà ra bàn luận. Nếu để
cho người bệnh biết được những sự việc không hay xảy
ra, thì sẽ gây tác hại lớn cho việc vãng sanh, vì người
bệnh sẽ phiền muộn, tham, sân, si nổi lên dễ sa vào ác
đạo như tên bắn.
2. Phải làm và nghe theo sự thức nhắc, sắp xếp của
người có trách nhiệm hộ niệm cho thân nhân của mình.
Những người nầy, họ vì thân nhân của mình mà hết
lòng hộ niệm, nên chúng ta cần tôn trọng những lời chỉ
bảo của họ.
3. Không nên kêu khóc lớn tiếng và kể lễ bất cứ điều
gì, chỉ một bề niệm Phật. Phải gắng dằn lòng xúc động
trong giờ phút nầy. Nên nhớ đây là yếu tố quan trọng
mà người mới lâm chung có được vãng sanh hay
không, đều tùy thuộc vào thân quyến.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
201
4. Tất cả nên vì người mất mà phải thành tâm niệm
Phật, tụng kinh cầu siêu suốt trong thời gian từ khi mất
cho đến trải qua 49 ngày.
5. Trong thời gian cư tang, nên tu tạo nhiều phước lành
để hồi hướng cho người quá cố sớm được siêu sanh
thoát hóa.
Riêng đối với thân hữu bạn bè, chúng ta cũng nên quan
tâm lưu ý. Tục ngữ ta có câu: “một con ngựa đau cả
tàu không ăn cỏ”. Hay “nhứt gia hữu sự bá gia ưu”.
Nghĩa là: một nhà có việc trăm nhà đều quan tâm lo
lắng giúp đỡ. Vì thế, nên khi hay tin người bạn thân
của mình bệnh nặng, thì bạn bè thường hay đến thăm.
Đến thăm là vì nghĩ tình thương bạn. Do đó, nếu thật
thương người bạn mình trong giờ phút quan trọng nầy,
thì chỉ nên hiệp lực cùng với những người khác mà
đồng tâm niệm Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng
ta cũng không nên nói những chuyện gì khác. Vì như
thế, chỉ làm cho người bạn của mình đang nằm chờ
chết càng thêm rối loạn tinh thần mà thôi, chớ không
có ích lợi gì.
Thế nên, nếu thật sự thương bạn mình, thì chúng ta chỉ
nên giữ yên lặng là tốt lắm rồi. Được thế, thì chẳng
những người bệnh được lợi ích mà những thân quyến
của người bệnh cũng mang ơn chúng ta rất nhiều. Xin
tất cả hãy quan tâm cho vấn đề nầy. Đừng vì thói quen
tình cảm của mình mà gây tác hại cho người bệnh,
đang cần đến sự trợ niệm thiết thực của chúng ta. Nếu
không như thế, thì rất tội nghiệp cho người bạn của
chúng ta lắm! Họ đang khao khát cần sự giúp đỡ của
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
202
chúng ta, như người sắp chết đuối mong chúng ta cứu
vớt họ vậy. Mong lắm thay!
82. Sau khi chết nghiệp còn hay mất ?
Hỏi: Kính thưa thầy, sau khi mình chết rồi nghiệp còn
hay mất ? Con chưa hiểu rõ vấn đề nầy, xin thầy từ bi
chỉ dạy.
Đáp: Tôi xin thưa ngay, con người sau khi chết, nghiệp
không bao giờ mất. Trừ phi, những người hiện đời đã
dứt sạch ý nghiệp. Nói rõ ra, là những người đã đạt
đạo, thì mới thấy được: “nghiệp tánh bổn lai không”.
Tuy nhiên, nghiệp nhân đã gây, tất nhiên phải có
nghiệp quả. Dù người đó đã ngộ đạo. Trường hợp như
đức Phật vẫn còn phải trả quả. Ngài còn phải trả quả
báo “kim thương mã mạch”. Và như trường hợp Tổ
Huệ Khả phải bị ngồi tù, hay Ngài Mục Kiền Liên bị
đám côn đồ đánh chết. Tuy nhiên, đối với các Ngài khi
trả nghiệp thì khác hơn chúng ta. Chúng ta trả nghiệp
trong sự thống khổ kêu khóc rên la. Còn đối với các
Ngài không có gì là khổ đau cả. Vì sao ? Vì các Ngài
đã thấy rõ “ngũ uẩn giai không”. Đã thế, thì nói gì trả
hay không trả. Cho nên, sự trả nghiệp của các Ngài như
trò chơi, không có gì phải lo âu sợ hãi.
Nói thế, để chúng ta thấy rằng, một khi nghiệp nhân đã
gây, thì sẽ không bao giờ mất. Nếu nói như vậy, thì
nghiệp không có thể chuyển được sao? Dĩ nhiên, là
chuyển được. Nếu không chuyển được, thì chúng ta tu
làm gì. Nên nhớ, chuyển là chúng ta chuyển nặng thành
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
203
nhẹ. Chớ không thể nào chuyển cái có, hoàn toàn trở
thành cái không được. Kinh nói :
“Giả sử bá thiên kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ thời
Quả báo hoàn tự thọ”.
Tạm dịch :
Dù trải qua trăm ngàn kiếp
Chỗ tạo nghiệp không mất
Khi nhân duyên đến rồi
Quả báo tự chịu lấy.
Như thế, thì làm sao hoàn toàn mất được. Chúng tôi xin
nhắc lại, để Phật tử khỏi phải nghi ngờ, nghiệp tuy
không mất, nhưng nếu chúng ta biết tu, ăn năn sám hối,
thì có thể chuyển nghiệp quả nặng thành nghiệp quả
nhẹ.
Thí như anh A vì nóng giận đánh anh B bị trọng
thương, lẽ ra, thì anh B và thân nhân của anh B sẽ tìm
cách đánh trả thù anh A cho hả giận, nhưng anh A, sau
đó, biết lỗi lầm sái quấy mà anh ta đã gây ra, anh liền
đến anh B để năn nỉ, xin anh B tha lỗi. Thế là, anh B
thay vì đánh anh A để trả thù, nhưng nay, thấy anh A
đã tỏ lòng ăn năn hối cải lỗi lầm, nên anh B tha thứ.
Thay vì đánh anh A, anh B chỉ dùng những lời lẽ nặng
nề trách móc anh A mà thôi. Anh B nói để cho hả cơn
giận, chớ không đến nỗi phải đánh anh A trả thù. Đó là
anh A đã chuyển được cái nghiệp quả nặng thành ra cái
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
204
nghiệp quả nhẹ rồi. Chuyển nghiệp là như thế. Còn
hành động anh A đánh anh B bị trọng thương, không
bao giờ mất ở trong lòng anh B. Bởi hành động đánh
đập (nghiệp) đó không bao giờ mất. Tuy anh B đã tha
thứ, nhưng trong lòng anh không bao giờ quên.
Xin nêu thêm một thí dụ nữa, như có 3 gia đình cùng
tọa lạc trên một đường phố. Trong 3 gia đình đó, ông A
làm nghề thầy giáo, ông B làm nghề bác sĩ, ông C làm
nghề kỹ sư. Bỗng một hôm, cả 3 căn nhà đều bị cháy
sạch hết, tất cả đồ đạc, của cải trong nhà đều bị thiêu
hủy, chỉ có những người trong 3 gia đình đó còn sống.
Như vậy, nhà cửa của cải tuy cháy hết, nhưng nghề
nghiệp của 3 ông đó có cháy mất không? Ông thầy giáo
vẫn tiếp tục hành nghề dạy học. Ông bác sĩ vẫn tiếp tục
hành nghề chữa bệnh và ông kỹ sư cũng vẫn tiếp tục
hành nghề như cũ.
Như thế, để chứng minh rằng, cái gì có hình tướng đều
bị hư hoại, thiêu hủy, nhưng còn cái nghề nghiệp
không hình tướng kia không hề bị mất. Qua ví dụ nầy
cho chúng ta thấy, ngày mai khi thân chúng ta chết,
nhưng nghiệp chúng ta đã gây, thì không bao giờ mất,
nó sẽ theo sát chúng ta như hình với bóng. Chúng ta tu
Tịnh nghiệp, thì được vãng sanh về cõi Tịnh, vì còn
nghiệp, nên nói là vãng sanh, mà không nói là Vô sanh.
Do đó, nhân và quả không bao giờ sai chạy vậy.
Đến đây, chúng tôi cũng xin nói rõ thêm, nếu không,
thì khi quý vị đọc hoặc nghe trong Chứng Đạo Ca của
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Sát na diệt khước A
tỳ nghiệp”. Nghĩa là, Ngài nói cái nghiệp A tỳ, tức là
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
205
Vô gián địa ngục, chỉ diệt đi trong một sát na thôi. Nếu
không hiểu chỗ nầy, quý vị sẽ đâm ra hoang mang nghi
ngờ và cho rằng, có sự mâu thuẫn với nhau. Nên nhớ,
Ngài Huyền Giác nói, là Ngài đứng trên lập trường của
giáo lý tối Thượng thừa, thuộc Kinh Liểu Nghĩa. Người
ta đọc câu đó mà quên câu đầu của bài Ca nói: “Chứng
thật tướng vô nhơn pháp”. Nghĩa là, người chứng được
Thật Tướng, tức Vô Tướng, thì còn gì là Nghiệp A
Tỳ ? Bởi vì, đến đây là người chứng đạo, sống trọn vẹn
với cái chân lý Tuyệt Đối, nên thấy rất rõ : « Nhơn
Không và Pháp Không », như vậy, thì có gì là nghiệp
với không nghiệp ? Đó là cái thấy cùng tột, vượt ngoài
đối đãi của người chứng đạo.
Như trên đã nói, đối với các Ngài thì không thấy có,
nhưng không phải là không có địa ngục A tỳ. Có là có,
đối với những ai còn si mê vọng chấp. Còn không là
không, đối với những ai đã tròn chứng Pháp thân, nghĩa
là không còn vô minh vọng chấp. Hiểu như vậy, thì
chúng ta sẽ không còn nghi ngờ và cho là mâu thuẫn
với nhau nữa.
Tóm lại, vì biết rõ nghiệp quả không mất, nên người
Phật tử mới gia công nỗ lực tu tạo phước lành, để mai
sau sanh về cõi lành, hưởng quả báo tốt đẹp, chớ nếu
mất đi, thì ai tu tạo điều lành làm gì. Người không tin
nhân quả nghiệp báo, đối với tự thân và xã hội đều là
họa hại lớn, vì họ mãi gây tạo nghiệp ác. Một khi đã
gây tạo nghiệp ác, thì vĩnh kiếp trầm luân trong bể khổ.
Thật là đau xót lắm thay!
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
206
83. Người chết bất đắc kỳ tử, thì nghiệp quả sẽ
ra sao?
Hỏi: Kính bạch Thầy, nếu người sắp chết, được có
nhiều người tụng kinh, niệm Phật, thì người đó niệm
Phật theo, nên sau khi chết được sanh về cảnh giới
lành. Ngược lại, đối với những người họ bị tai nạn chết
bất đắc kỳ tử thì sao? Kính xin Thầy hoan hỷ giải đáp
điều nầy cho con rõ.
Đáp: Điều thắc mắc nầy, tuy Phật tử lo hơi xa, nhưng
xét kỹ ra cũng thật là chánh đáng. Nhưng Phật tử đừng
lo, vì xưa kia, ở thời Phật, cũng có một người thắc mắc
hỏi Phật, y như Phật tử hôm nay hỏi chúng tôi vậy.
Xưa kia, Ngài Ma Ha Nam là em bà con chú bác với
đức Phật. Khi đức Phật trở về hoàng cung giáo hóa
trong thân tộc, thì ông đến xin Phật cho ông quy y giữ
5 giới và tu thập thiện. Đức Phật tán thán sự phát tâm
của ông và cho ông được toại nguyện. Từ ngày đó, ông
trở thành một vị Ưu bà tắc rất thuần thành.
Một hôm, ông nêu ra vấn đề đó hỏi Phật. Ông nghĩ
rằng, cả đời vâng theo lời Phật dạy tu hành, bỗng một
hôm nào đó, bất thần xảy ra tai nạn, chết bất đắc kỳ tử,
như vậy, thì thần thức sẽ sanh về đâu? Có bị sa đọa
không? Vì chết như thế, đâu có ai hộ niệm cho mình
mà được siêu thoát!
Đức Phật không trả lời thẳng câu hỏi của ông, mà đức
Phật hỏi vặn lại:
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
207
- Nầy Ma Ha Nam, giả như có một cái cây mà nó đã
nghiêng sẵn, bỗng một hôm có người đến cưa, thì cây
đó ngã về đâu ?
- Thưa Thế Tôn, cây nghiêng chiều nào, khi cưa thân
cây sẽ ngã theo chiều đó.
Phật dạy: “Cũng vậy, hàng ngày ông thường tạo
nghiệp lành, khi chết thì ông sẽ theo nghiệp lành mà tái
sanh vào cõi lành. Ngược lại, nếu người nào hàng ngày
tạo nghiệp ác, thì khi chết sẽ tái sanh vào cõi ác.
Không phải chết bất đắc kỳ tử là đọa địa ngục”. Chúng
ta chết nghiệp không mất, mà thần thức theo nghiệp
thiện hoặc nghiệp ác sanh vào cõi lành hay cõi dữ.
Điều quan trọng là hàng ngày chúng ta nên kiểm điểm
lại mình tạo nghiệp lành nhiều hay nghiệp ác nhiều.
Hiện đời mình nặng về nghiệp gì, thì khi nhắm mắt
mình sẽ đi theo nghiệp đó.
Căn cứ theo lời Phật dạy cho ông Ma Ha Nam ở trong
Kinh A Hàm, thì chúng ta đừng lo sợ, khi chết bất đắc
kỳ tử không biết có sanh về cảnh lành hay không? Vấn
đề nầy, nếu nghiệm vào đời sống thực tế, thì chúng ta
cũng thấy rõ.
Người có thói quen niệm Phật, bất thần ai làm họ giựt
mình, thì họ liền Mô Phật. Vậy tiếng Mô Phật đó, họ
đâu có cần phải suy nghĩ. Do « tập quán nghiệp và tích
lũy nghiệp » hàng ngày của họ huân tập, mà tự động họ
phát ra như thế thôi. Ngược lại, người có tập quán
nghiệp hay văng tục chửi thề, bất thần có ai chọc giận
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
208
họ, thì họ sẽ tự động cho văng tục bằng tiếng chửi thề
ra ngay, mà không cần phải suy nghĩ.
Lại như, hai người cùng đi chung một đường, một
người thì ghiền cờ bạc; một người thì thích chơi kiểng.
Khi đi ngang qua, có một khu vườn trưng bày đủ thứ
hoa kiểng, người thích chơi kiểng liền vội ghé vào
xem. Trong khi đó, người thích chơi đỏ đen, thì không
ngó ngàng đếm xỉa gì đến vườn hoa kiểng đó, mà họ đi
riết tới nhà chứa bài để chơi. Cũng vậy, chết là một, (dụ
như cùng đi chung một đường) nhưng tùy theo nghiệp
thiện ác của mỗi người mà thọ sanh có khác. Và quan
trọng là ở nơi Tập quán nghiệp và Tích lũy nghiệp. Khi
hai nghiệp nầy thuần thục, sẽ đưa đến « Cực trọng
nghiệp ». Nghĩa là nghiệp nào nặng sẽ lôi đi trước.
Nghiệp lành nặng sẽ lôi người đó đi vào đường lành.
Ngược lại, nghiệp ác nặng, thì cũng sẽ lôi người đó đi
vào con đường ác. Tất cả đều đi đúng theo luật nhân
quả báo ứng, không ai thưởng phạt mình cả, mà do
nghiệp thiện ác của mình dẫn dắt mình đi mà thôi.
Vậy Phật tử đừng lo sợ, cứ ráng lo tu tạo phước lành
cho nhiều, thì khi chết, cũng sẽ theo con đường lành
mà đi. Tuy nó không được thắng duyên bằng khi mình
chết có người hộ niệm nhắc nhở, vì lúc đó, tín tâm
hướng về Phật của mình mạnh hơn, nên sẽ được vãng
sanh về cõi Phật. Nhưng có điều, theo lời Phật dạy cho
ông Ma Ha Nam ở trên, thì chắc chắn sẽ không bị đọa
vào đường ác vậy.
Kính chúc Phật tử tinh tấn tu hành, để khỏi phải lo sợ
sau khi chết không như ý sẽ bị rơi vào đường ác.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
209
84. Tập tục đốt giấy tiền vàng mã.
Hỏi: Kính bạch thầy, tục lệ đốt giấy tiền vàng mã có
phải là của Phật giáo mình bày ra không? Hay là do ai
bày ra? Có một người bạn hỏi con như thế mà con
không hiểu, kính xin thầy từ bi giải đáp cho con được
rõ.
Đáp: Tôi xin trả lời khẳng định một cách dứt khoát
rằng, tục lệ nầy không phải do Phật giáo bày ra. Theo
chỗ chúng tôi được biết, đây là một tục lệ có từ lâu đời
trong dân gian. Truy nguyên về nguồn gốc của tục lệ
đốt giấy tiền vàng mã nầy, chúng tôi thấy, xuất phát từ
thời cổ đại trong xã hội Trung Hoa. Theo nhà tư tưởng
Vương Dư đời Đường cho rằng: “Từ thời nhà Hán, đã
có tục chôn tiền và đời sau lấy giấy thay tiền”. Theo
niềm tin thuần phác của người Trung Hoa ở vào thời cổ
đại thì, người ta tin rằng, người chết không phải là mất
hẳn mà biến thành quỉ (nhân tử viết quỉ – Nguyễn Tôn
Nhan, Kinh Lễ, Thiên Tế pháp, NXB. Văn Học, 1999,
tr. 192 ). “Quan niệm nhân tử viết quỉ” được hình
thành từ thời Ngũ đại (khoảng hơn 2000 năm trước Tây
lịch) Từ quan niệm nầy, người ta tin rằng, người chết
cũng như người sống, tức sự sanh như sự tử. Những gì
mà người ta lúc còn sống tiêu xài như thế nào, thì khi
chết cũng cần đến như thế đó. Do tin tưởng như vậy,
nên sau khi chết đi, thân nhân của người chết họ chôn
theo những vật dụng cần thiết kể cả tiền bạc để cho
người chết tiêu xài. Đây là họ biểu lộ mối thâm tình sâu
đậm khi sống sao thì lúc chết cũng như thế.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
210
Theo các nhà khảo cổ, họ đã khám phá từ những cuộc
khai quật và đã xác quyết điều nầy. Nhưng về sau,
người ta thấy rằng, việc chôn theo các đồ vật dụng và
tiền bạc thiệt, thì quá lãng phí, cho nên dần dần người
ta mới bày ra cách sử dụng những đồ vật dụng và tiền
bạc làm đồ giả, giấy giả, để cho người chết tiêu xài.
Như vậy, việc đốt giấy tiền vàng mã là tập tục của
người Trung Hoa có nguồn gốc từ thời cổ đại. Dĩ
nhiên, tục lệ nầy có tác động ảnh hưởng rất lớn trong
tinh thần biểu lộ tình cảm sâu sắc của người dân Trung
Hoa. Từ đó lan rộng ảnh hưởng đến những quốc gia
chịu ảnh hưởng nếp sống văn minh văn hóa của họ.
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng sâu
đậm nhứt, vì đất nước ta đã trải qua một thời gian dài
bị họ cai trị.
Cần nói rõ tập tục nầy, theo cái nhìn của Phật giáo, thì
đây là một việc làm lãng phí tốn kém vô ích. Vì Phật
giáo quan niệm, người chết chậm nhất là sau 49 ngày
nhất định sẽ tùy nghiệp thác sinh vào những cảnh giới
thiện ác khác nhau, do hiện đời người đó đã gây tạo.
Cảnh giới khác nhau, thì vật dụng của mỗi loài tùy
nghiệp thức, mà họ cũng thọ dụng khác nhau. Do đó,
không thể đem những vật dụng ở cõi người mà cung
cấp cho những chúng sinh ở các cõi khác. Như thế, thì
làm sao họ thụ hưởng cho được?
Thí dụ cùng là loài người sống chung trên một trái đất,
chỉ khu biệt khác nhau ranh giới thôi, ấy thế mà giữa
tiền của nước nầy, không thể mang sang qua nước khác
mà có thể xài được, muốn tiêu xài, cần phải đổi ra. Như
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
211
thế, thì thử hỏi tiền bằng giấy đốt ra thành tro bay hết,
làm sao mà người chết nhận để tiêu xài được? Đây
chẳng qua, là để biểu lộ tấm lòng thương tưởng hiếu
thảo của người còn sống đối với người đã khuất bóng.
Việc làm nầy, xuất phát từ nỗi lòng ước nguyện thành
kính của người sống muốn cho người chết được đầy đủ
an vui. Nhưng đối với Phật giáo, hoàn toàn không chấp
nhận việc làm nầy. Vì nó không đem lại lợi lạc gì cho
người chết, mà chỉ lãng phí tiền của, công sức và gây
thêm ô nhiểm môi sinh, nhiều khi bất cẩn sẽ gây ra tai
nạn hỏa hoạn nữa không chừng.
Đối với những Phật tử vì chưa thông hiểu giáo lý Phật
dạy và chưa có một niềm tin nhân quả thấu đáo sáng
suốt, nên có đôi khi cũng hay đốt giấy tiền vàng mã
cho người chết. Thay vì, bỏ tiền ra mua đốt giấy tiền
vàng mã, thì tại sao chúng ta không làm những việc
khác có lợi ích cụ thể thiết thực hơn như mãi vật phóng
sinh, bố thí giúp cho những kẻ tàn tật nghèo đói v.v… ?
Đem những việc làm nầy, hồi hướng phước đức cho
hương linh người chết, thì người chết sẽ hưởng được
lợi lạc biết bao! Đây mới là việc làm chánh lý “âm
dương lưỡng lợi”, đúng theo quan điểm từ bi và trí tuệ
của đạo Phật. Là Phật tử, chúng ta nên nghe theo lời
Phật Tổ dạy mà tránh những việc làm mê tín vô ích, chỉ
có gây thêm thiệt hại cho mình mà thôi.
85. Vấn đề thờ ông Địa và Thần Tài.
Hỏi: Kính bạch thầy, lâu nay con có một thắc mắc, quý
thầy thường dạy, người Phật tử sau khi quy y, trong
nhà chỉ thờ Phật thôi. Thế nhưng, con thấy có nhiều
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
212
Phật tử trong nhà vẫn còn thờ ông Địa và ông Thần
Tài. Con muốn biết nguồn gốc ông Địa và ông Thần
Tài như thế nào mà người Phật tử phải thờ? Và thờ
như thế có lỗi gì không? Kính mong thầy hoan hỷ giải
đáp cho con hiểu.
Đáp: Qua câu hỏi của Phật tử, Phật tử chỉ nêu ra trong
phạm vi Phật tử của mình, nên chúng tôi cũng chỉ xin
trả lời và nhắc nhở trong phạm vi giới hạn của Phật tử
mình thôi. Ngoài ra, thì chúng tôi không dám có ý đề
cập đến bất cứ ai. Đó là chúng tôi tôn trọng niềm tin
của mỗi người.
Có nhiều Phật tử quy y mà không quan tâm ghi nhớ
những lời quý thầy giảng dạy trong khi làm lễ quy y.
Khi quy y, quý thầy y theo Kinh có nêu ra và chỉ dạy
rất rõ: Trong Tam quy y, quy y đầu tiên là quy y Phật.
Quy y Phật, thì người Phật tử nguyện suốt đời chỉ quy y
Phật thôi, tuyệt đối, không được quy y Thiên, Thần,
Quỷ, Vật. Đó là lời phát nguyện của Phật tử nói trước
Tam Bảo.
Thế mà, sau khi quy y rồi, có lẽ, một, là vì lu bu bận
rộn lo tính toán với nhiều công việc làm ăn, nên Phật tử
đó quên những gì mà mình đã phát nguyện, nay lại
thỉnh ông Địa và ông Thần Tài về thờ trong nhà. Hai, là
vẫn nhớ, nhưng vì không bỏ được cái tập tục thờ cúng
các vị Thần nầy. Vì muốn thờ các vị Thần nầy phụ lực
với Phật phò hộ thêm cho mình và gia đình luôn được
bình an, mua may bán đắt, tiền vô như nước.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
213
Nếu quả thật thờ Thần Tài mà ổng hộ độ cho mình
được giàu có, tiền vô trong túi ào ào, thì mấy nhà sản
xuất ông Thần Tài chắc là họ phải giàu to, trên đời
không ai sánh kịp. Thử hỏi mấy ông đó, có thật giàu to
không? Và thật sự ông Thần Tài có phò hộ cho mấy
ổng không? Hay là mấy ông đó cũng phải làm ăn trối
chết mới kiếm ra tiền.
Nói thế, để Phật tử thấy rằng, tuy Phật tử đó đã quy y
Tam Bảo, nhưng lòng tin Tam Bảo và tin nhân quả
không được vững chắc. Đây cũng là bệnh chung của đa
số Phật tử chúng ta chưa có đủ niềm tin nơi Tam Bảo
và lý nhân quả nên mới có tình trạng thờ ông nầy ông
kia.
Trở lại vấn đề, Phật tử hỏi về nguồn gốc của hai ông
nầy, theo chỗ tìm hiểu của tôi, thì cho đến hôm nay,
người ta cũng chưa khẳng quyết rõ ràng về nguyên lai
của hai vị Thần nầy. Đại khái, có nhiều thuyết quan
điểm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số nét
chung về xuất xứ của tập tục thờ tự nầy. Thật ra, tập
tục thờ Thần đối với người Việt Nam cũng đã có từ lâu
đời. Có thể nói, từ khi có người Việt là đã có đạo thờ
Thần. Cũng như các dân tộc khác, người Việt Nam
quan niệm và tin tưởng mỗi một hiện tượng là có một
vị Thần ngự trị cai quản. Như Thần Thổ Địa hay còn
gọi là Thổ Công là vị Thần cai quản đất đai trong khu
vực vườn tược nhà cửa. Trong dân gian có câu: “Đất
có Thổ Công, sông có Hà Bá”. Ngoài Thổ Công, các vị
Thần khác cũng được người ta thờ tại nhà như Thần
Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan v.v…
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
214
Thổ Công là một vị Thần được dân gian thờ cúng rất
quan trọng. Vì vị Thần nầy trông coi gia đình, dự định
họa phúc. Trong gia đình muốn được bình an, và ruộng
vườn muốn được sung túc, tất cả đều do Thần Thổ
Công trông coi và phò hộ. Về hình tượng tôn thờ, có
khi là một ông già to béo (ông Địa) bụng phệ, vẻ mặt
hiền lành, miệng cười thoải mái. Có lúc, tượng Thổ Địa
được thể hiện dưới hình thức râu tóc bạc phơ, mặc áo
dài, đội mũ mỏ quạ, râu trắng như cước. Sở dĩ có
những hình tượng sai khác như thế, là do ảnh hưởng
văn hóa của từng khu vực. Đạo giáo rất coi trọng và
siêng năng thờ cúng vị Thần nầy.
Còn Thần Tài, theo tập tục dân gian cho rằng, vị Thần
nầy đem lại tài lộc cho mọi người. Thông thường
những nhà kinh doanh thương mãi, người ta rất quý
trọng thờ vị Thần nầy. Đây là một tập quán tín vọng,
xưa bày nay theo, cứ thế mà thờ, còn việc linh ứng có
không tùy ở nơi người tin. Về bàn thờ của 2 vị Thần
nầy, người ta chỉ thờ ở một góc khuất nào đó trong nhà
hay trong shop, không cần phải bài trí ở chỗ cao ráo.
Thường ở Việt Nam, có một số nơi, người ta thờ chung
hai vị Thần nầy, chớ không thờ tách riêng, vì theo họ,
tài và lợi phải đi đôi với nhau. Thổ Công thuộc về lợi,
Thần Tài thuộc về tài. Khi thờ chung, chúng ta thấy có
đôi câu đối dán trước bàn thờ hai ông như thế nầy:
“Thổ năng sinh bạch ngọc, Địa khả xuất hoàng kim”.
Nghĩa là : Đất thường sinh ngọc tốt, vàng ròng cũng từ
đất mà ra.
Rãi rác trong các Kinh điển Phật giáo, đôi khi cũng có
đề cập đến các vị Thần. Như Kinh Địa Tạng cũng có
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
215
nêu ra rất nhiều vị Thần. Tuy nhiên, theo Phật giáo,
Quỷ Thần cũng là một trong nhiều loài chúng sanh.
Cho nên, Phật dạy người Phật tử không được quy y với
các vị Quỷ Thần. Người Phật tử, sau khi quy y Tam
Bảo, trong nhà chỉ nên thiết lập một bàn thờ Phật và
nếu có thờ thêm, thì cũng chỉ thờ tổ tiên, ông bà, hay
cha mẹ mà thôi. Ngoài ra, không nên thờ bất cứ vị
Thần nào khác. Vì thờ như thế, là trái với lời Phật Tổ
dạy. Đã chống trái lại, tất nhiên, là mình đã có lỗi rồi.
Nếu là Phật tử, thì chúng ta nên lưu tâm về vấn đề nầy.
Có thế, thì chúng ta mới xứng danh mình là người Phật
tử chơn chánh tu học Phật vậy.
86. Vấn đề tuổi tác và duyên số trong hôn nhân.
Hỏi: Kính bạch thầy, con thấy có nhiều gia đình Phật
tử, vợ chồng cũng có học thức cao, kinh tế gia đình của
họ cũng khá đầy đủ, nhưng không hiểu sao gia đình
của họ không có hạnh phúc. Vợ chồng cứ gây gổ lục
đục nhau hoài. Như vậy, có phải là do tuổi tác của họ
không hợp? Hay là do duyên số, định nghiệp của họ,
nên họ phải chịu quả báo như vậy. Kính xin Thầy giải
thích cho con được rõ, trường hợp nầy như thế nào ?
Đáp: Đây là trường hợp hầu như đại đa số gia đình
không ít thì nhiều đều vướng phải. Vấn đề hạnh phúc
hôn nhân không thể hoàn toàn đặt định trên vấn đề kiến
thức, lại càng không phải do tuổi tác hay kinh tế vật
chất tạo nên. Nếu đặt định tin tưởng như thế, chưa đủ
yếu tố để xây dựng hạnh phúc gia đình. Học thức cao,
kinh tế đầy đủ, cũng chỉ là một trong nhiều yếu tố khác.
Mặc dù hai yếu tố nầy rất cần thiết trong đời sống lứa
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
216
đôi. Ngoài hai yếu tố nầy ra, nó còn đòi hỏi nhiều yếu
tố khác nữa. Theo Phật giáo, là cần phải hội đủ nhân
duyên. Nói đến nhân duyên, tất nhiên, phải có chánh
nhân và trợ nhân hay trợ duyên. Thí dụ hiểu và thương
là chánh nhân. Ngoài ra, những yếu tố khác có thể nói
đều là trợ duyên.
Ở đây, thiết nghĩ, chúng tôi cũng cần nói rõ minh định
lập trường của Phật giáo trước sau như một. Phật giáo,
ngoài việc chủ xướng đề cao lý nhân quả ra, Phật giáo
không bao giờ chủ trương người Phật tử tin vào những
điều gì khác, có tánh cách tà tín, nhứt là vấn đề bói
toán, xem tuổi tác và ngày giờ tốt xấu để phán xét,
đoán định vận mạng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai. Phật
giáo chủ trương và luôn khuyến khích người Phật tử tin
sâu lý nhân quả nghiệp báo, với mục đích là để chúng
ta tìm ra nguyên nhân hình thành ác nghiệp, để từ đó
tìm mọi phương cách khắc phục, hoán cải, những nhân
xấu để trở thành nhân tốt. Đồng thời, cũng chuyển hóa
những ác nghiệp trở thành thiện nghiệp. Có thế, thì mới
cải thiện được đời sống của chúng ta ngày càng thăng
hoa tốt đẹp hơn .
Do đó, theo Phật giáo, những chuyện xảy ra cơm không
lành canh không ngọt, mất hòa khí trong gia đình,
không phải là do tuổi tác không hợp, mà là do tập khí
chủng nghiệp của mỗi người huân tập ở những môi
trường sống khác nhau, mà người ta thường nói là tánh
tình không hợp. Khi nói tánh tình không hợp, ta phải
xét tìm nguyên nhân lý do tại sao? Nếu bảo rằng, do
tuổi tác, thì lẽ ra từ đầu chí cuối phải là xung khắc luôn
luôn, chớ tại sao khi hợp khi khắc? Khi vui thì hợp, khi
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
217
buồn thì khắc. Khi vừa ý thì hợp, khi trái ý thì khắc.
Như vậy, sự xung khắc bất hòa nầy do đâu? Tại sao
mỗi người không chịu tìm hiểu lại chính mình mà đổ
thừa cho tuổi tác?
Từ nhỏ đến lớn, trước khi thành vợ chồng, mỗi người
có một đời sống hoàn cảnh khác nhau. Không ai hoàn
toàn giống ai. Chỉ hợp nhau ở một khía cạnh nào đó,
như trình độ học vấn, sở thích, cá tánh… Đây mới chỉ
là hợp nhau trong bước đầu. Hợp nhau trong cái thuở
ban đầu lưu luyến ấy. Bước đầu bao giờ cũng rất là
đẹp. Vì hai bên đều giữ kín những tật tánh xấu của
mình. Không ai dám để lộ ra cái chân tướng của mình
cho đối phương biết rõ. Nhưng khi thành vợ chồng
chung sống với nhau một thời gian, bấy giờ nó mới
hiện ra rất nhiều thứ không hợp. Những thứ không hợp
nầy, nó ẩn khuất tiềm tàng sâu kín, mà cả hai khó tìm
thấy nhau. Nếu biết rõ nhau ngay từ lúc đầu, thì nguyện
ước hôn nhân khó thành. Cho nên, cả hai đều phải che
giấu.
Nhưng khi sống chung, thì biệt nghiệp cá tánh của mỗi
người đều hiện rõ. Từ đó, cả hai mới nhận thấy có
nhiều điểm bất đồng. Và mọi việc không còn như ý
muốn ban đầu. Và cũng từ đó chiến tranh lạnh bắt đầu
có cơ bộc phát. Vậy nguyên nhân bất hòa gây ra chiến
tranh nầy do đâu? Vì cả hai không chịu tìm hiểu, bởi
tìm hiểu thì mỗi người sẽ để lộ chân tướng xấu của
mình ra, rồi vì bản ngã, vì tự ái, nên bây giờ chỉ còn có
cách đổ thừa cho tuổi tác, cho ông tơ bà nguyệt se
duyên không đúng, hay là do duyên nghiệp trớ trêu
v.v… Nghĩa là phải tìm đủ mọi cách để chạy tội đổ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
218
thừa trách nhiệm cho kỳ được, chớ không ai chịu tìm
hiểu lại lỗi lầm của chính mình. Phật giáo, với cái nhìn
của tuệ giác, không thể chấp nhận cho việc tránh né đổ
thừa nầy.
Thử hỏi trên đời có ai làm vừa ý mình hết không?
Chính mình có đôi khi còn không vừa ý với chính
mình, thì có ai mà làm vừa ý mình. Như vậy, rõ ràng
không phải do tuổi tác xung khắc mà là do nhiều yếu tố
khác. Yếu tố nào gây ra sự bất hòa? Đó là điều mà
người Phật tử cần phải truy nguyên tận nguồn gốc của
sự bất hòa đó. Trên đời nầy, không có gì là không có
nguyên nhân. Thường chúng ta hay mắc phải chứng
bệnh chủ quan. Mà bệnh chủ quan là con đẻ của bệnh
chấp ngã. Vì chấp ngã, nên cái gì mình cũng đúng hết.
Mọi lỗi lầm đều do người kia gây ra, mà chúng ta
không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề của chính
mình.
Đạo Phật dạy rằng, sự sống hình thành bởi nghiệp và
chính nghiệp trở lại chi phối đời sống của ta. Như
người có tánh nóng nảy, đụng tới là lửa sân hận nổi lên
đốt cháy người khác. Tánh nóng nảy, đó là một tập khí
do huân tập mà có, tự tánh của nó là không. Vì vậy,
cho nên khi gặp nghịch duyên bất như ý là nổi sân lên,
đến khi vừa ý, thì lại êm dịu.
Như vậy, tánh nóng nảy kia đâu phải là có thật. Tuy nó
không thật, nhưng chính nó lại là nguyên nhân chi phối
đời sống chúng ta. Hạnh phúc bị đổ vở, phần lớn cũng
do một trong hai người thiếu sự bình tĩnh. Từ mất bình
tĩnh, thiếu sáng suốt, cho nên lửa sân nổi lên đốt cháy
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
219
hoành hành. Thế là từ việc bé xé thành to. Do đó, Phật
dạy, người Phật tử cần phải thường xuyên tu tập để
chuyển hóa thân tâm.
Muốn chuyển hóa thân tâm, từ những hạt giống xấu trở
thành những hạt giống tốt, thì cần phải có trí huệ. Trí
huệ hay chánh niệm rất thiết yếu trong đời sống. Khi có
trí huệ hay chánh niệm kịp thời can thiệp, thì chắc chắn
những hậu quả không tốt khó có thể xảy ra. Khi sự việc
xảy ra, ta phải tìm rõ nguyên nhân, chớ không nên đổ
thừa bừa bãi. Tại sao phải nổi nóng gây ra mất hòa khí
trong gia đình? Do nguyên nhân nào? Do tuổi tác hay
do tánh nóng? Hay do những thứ gì khác, mà mình
không chịu tìm ra. Tại sao mình hay đổ thừa người
khác? Lý do nào mình hay đổ trút tội lỗi lên đầu người
ta?
Khi hai người bất hòa, hãy bình tĩnh ngồi xuống để tư
duy tìm rõ nguyên nhân trong tinh thần hòa giải, hòa
hợp để tìm cách thiết lập cảm thông, chớ không nên
tranh nhau ăn thua đủ. Có tìm ra nguyên nhân, thì mới
có hiểu và cảm thông nhau và từ đó mới có thể hóa giải
mọi gút mắc bất hòa để rồi yêu thương quý kính nhau.
Nếu thiếu hai yếu tố “Hiểu” và “Thương” nầy, thì khó
có thể cởi mở, hỷ xả sống chung hòa hợp với nhau
được.
Đời sống là một chuỗi dài trả nghiệp và gây nghiệp.
Nghiệp đã gây tạo từ quá khứ và trong hiện tại, tất
nhiên, không thể không trả. Nhưng nghiệp, ta có thể
chuyển được, một khi đã tìm rõ nguyên nhân tác
nghiệp. Tính chất cơ bản của nghiệp là bất định tính.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
220
Nghiệp luôn luôn chuyển biến theo chiều hướng thiện
hoặc ác, tùy theo hành động của thân, khẩu, ý mà mỗi
cá nhân gây ra. Dù rằng sự đổ vở hôn nhân, tuy có sự
can dự vào của nghiệp nhân quá khứ, nhưng đó chưa
phải là hoàn toàn chi phối quyết định tất cả. Mà phần
lớn là do nghiệp nhân hiện tại gây nên. Cho nên, muốn
tìm hiểu về nghiệp phải căn cứ trên chiều thời gian. Mà
thời gian hiện tại mới là điều quan trọng để chúng ta
chỉnh hướng cho hiện tại và tương lai.
Tóm lại, vấn đề hạnh phúc gia đình, cần nên cư xử tế
nhị trong nhiều vấn đề. Mỗi người cần phải có cái nhìn
sắc bén bằng tuệ giác trong việc cư xử với nhau. Vì
sống chung với nhau không sao tránh khỏi những cá
tánh bất đồng. Sự bất đồng đó, muốn dung hợp được,
chỉ có một nhịp cầu duy nhứt nối liền hai đầu lại với
nhau, đó là “Hiểu” và “Thương”. Có hiểu và thương
thì mới có tương kính và nhường nhịn nhau. Thiếu nhịp
cầu nầy, thật khó có sự cảm thông. Không cảm thông
nhau, rất khó hòa hợp. Vì có tìm hiểu tánh tình, sở
thích, và những cá tánh dị biệt khác, thì mới cảm thông
và thương yêu nhau hơn. Từ đó mới có thể chuyển hóa
mọi mâu thuẫn, xung khắc bất đồng cùng chảy về một
dòng suối yêu thương và hạnh phúc. Có thế, thì người
Phật tử mới có kỳ vọng xây dựng vững chắc được mái
ấm hạnh phúc gia đình. Có hạnh phúc mới có an hưởng
những niềm vui của những ngày tháng sống tạm bợ
trên cuộc đời đầy khổ đau hệ lụy nầy.
87. Lễ hằng thuận tại chùa.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
221
Hỏi: Kính bạch thầy, con thấy thỉnh thoảng có những
cặp hôn nhân làm lễ kết hôn ở chùa. Con không hiểu ý
nghĩa tại sao trong chùa lại có làm lễ kết hôn như thế?
Kính xin thầy giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Hôn nhân, đối với tổ tiên ta ngày xưa, được xem
rất là quan trọng. Việc định vợ gả chồng là chuyện
trăm năm, nên phải có sự chọn lựa kỹ càng. Có nhiều
gia đình giàu có sang trọng, họ thường chọn môn đăng
hộ đối. Cho nên, một lễ cưới ngày xưa rất là rườm rà,
đủ thứ lễ nghĩa. Ngày nay, người ta đơn giản đi rất
nhiều. Đại khái chỉ còn giữ tập tục 2 lễ chánh thức, đó
là lễ hỏi và lễ cưới.
Ở Việt Nam, việc làm lễ cưới tại chùa, rất hiếm thấy.
Nhưng từ khi người Việt mình ra hải ngoại đến giờ, thì
việc làm lễ cưới tại chùa dường như không còn xa lạ
đối với người Việt mình nữa. Sở dĩ người Phật tử tổ
chức lễ cưới trong chùa, theo chỗ chúng tôi được biết
thì, cũng có nhiều lý do. Trước hết, cần nói rõ, Phật
giáo không có một nghi thức cố định cho lễ cưới nầy.
Lễ nầy, theo Phật giáo gọi là lễ “hằng thuận”. Tùy thời
gian và hoàn cảnh ở mỗi nơi mà chư Tăng Ni linh động
hành lễ cho nó thích hợp.
Đối với người Việt tỵ nạn ly hương, thật đây là một
hoàn cảnh mà tận thâm tâm của mỗi người không ai
muốn xa quê hương xứ sở của mình. Nhưng vì hoàn
cảnh mà phải bỏ nước ra đi. Khi đến xứ lạ quê người,
bao nhiêu tình cảm yêu thương gắn bó đối với quê
hương, xóm giềng, chùa chiền đã mất mát đi quá nhiều.
Do đó, người Phật tử muốn tìm lại cái không khí mái
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
222
ấm gia đình của quê hương thân thiết ngày nào trong
tình tự hài hòa của một dân tộc, thì không đâu hơn
bằng mái ấm đầy tình người của một ngôi chùa. Vì:
“Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Do đó, mà sự tổ chức một lễ cưới tại chùa cũng mang
lại nhiều ý nghĩa cho đời sống tâm linh của chú rể và
cô dâu sau nầy.
Buổi lễ diễn ra trước sự chứng kiến của hai họ và trước
Tam Bảo chứng minh, nhứt là lại được nghe những
điều giảng dạy về đạo đức làm người trong đời sống
hôn nhân theo tinh thần Phật dạy trong Kinh Thiện
Sanh của chư Tăng Ni. Từ đó, sẽ gây một ấn tượng sâu
đậm thêm trong việc đối xử của đôi nam nữ sau nầy,
nhứt là, ý nghĩa rất sâu xa của chiếc nhẫn.
Khi chú rể và cô dâu trao nhẫn cưới cho nhau, điều đó
nói lên, biểu trưng cho việc cư xử trong tinh thần
nhường nhịn yêu thương tương kính lẫn nhau của hai
người. Cuộc sống lứa đôi nếu thiếu đi yếu tính nầy, thì
khó có thể xây dựng được hạnh phúc lâu bền. Do đó,
khi hai bên trao nhẫn cho nhau, dưới sự chứng minh
của Tam Bảo và hai họ, thì đây quả là một điều mang ý
nghĩa thật hết sức quan trọng. Vì thế mới gọi đây là lễ
hằng thuận. Hằng là luôn luôn, thuận là hòa thuận.
Muốn luôn luôn hòa thuận với nhau, thì cả hai đều phải
biết tương kính nhường nhịn nhau. Đó cũng là ý nghĩa
của chiếc nhẫn mà tổ tiên ta đã bày ra cho mọi người
noi theo.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
223
Ngoài ra, còn có việc ký hôn thú cho hôn nhân. Nhưng
điều nầy, theo tôi, không quan trọng lắm. Điều quan
trọng là làm sao cho đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của
đời sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa kính
theo những lời Phật dạy. Đó mới là trọng tâm ý nghĩa
của buổi lễ. Và đó mới thật sự có tác động mạnh trong
đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau nầy.
Tóm lại, việc tổ chức một nghi thức đơn giản cho lễ
cưới của người Phật tử trong chùa, mặc dù, đây không
phải là một truyền thống của Phật giáo, nhưng nó cũng
nói lên một ý nghĩa đặc thù trong chiều hướng xây
dựng hạnh phúc gia đình trong tinh thần yêu thương
qua nếp sống cư xử hòa kính của người Phật tử. Những
lời phát nguyện trước Tam Bảo của hai người, nó có
một tác động rất mạnh mẽ cho đời sống tâm linh về
sau. Vì thế, mà việc tổ chức lễ cưới trong chùa, nó
cũng mang lại nhiều ý nghĩa tốt đẹp và rất là hữu ích
vậy.
88. Hiến cơ phận (organs) có lợi và hại thế nào?
Hỏi: Kính bạch thầy, hiến cơ phận là một việc làm rất
cao quý, nhưng là phàm phu như chúng con thì việc
làm nầy có lợi hại thế nào? Vì theo lời Thầy Tổ dạy là
sau khi chết, thần thức chưa rời khỏi xác thân, thì dễ
sanh tâm sân hận, nếu thân thể bị xúc chạm. Kính xin
thầy cho con biết, việc làm nầy như thế nào mới được
vẹn toàn ?
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
224
Đáp: Việc hiến cơ phận trong thân thể sau khi chết là
do sự phát nguyện của đương sự. Nghĩa cử cao đẹp
nầy, không phải ai cũng có thể làm được. Đây là hạnh
bố thí rộng lớn của Bồ tát. Vì bố thí có nội tài và ngoại
tài. Ngoại tài là cho những vật dụng ngoài thân mình,
như tiền bạc của cải v.v… Ngược lại, nội tài là bố thí
những bộ phận trong cơ thể, như hiến máu hay bất cứ
một bộ phận nào khác còn lành mạnh.
Nói về lợi, thì sau khi chết, dù thiêu hay chôn thân thể
người ta cũng phải tan rã. Thay vì tan rã một cách vô
ích, người ta lại tình nguyện cho những bộ phận nào đó
còn tốt trong thân thể của họ, để cho các nhà y khoa
nghiên cứu, thí nghiệm rồi đem ra chữa trị giúp người.
Đó là một điều rất hữu ích cho nhơn loại. Phải nói, đây
là một hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát mà người
thường không thể làm được. Vì Bồ tát khi còn sống,
các Ngài lợi dụng cái thân thể còn mạnh khỏe để làm
lợi ích cho tha nhân, đến khi chết, các Ngài cũng nghĩ
đến mọi người mà hiến bộ phận trong thân thể để cứu
mạng sống cho những ai không may bị mang bệnh
nặng hiểm nghèo.
Một việc làm do phát tâm nguyện vị tha cao cả như thế,
thì thử hỏi làm gì có lòng sân hận mà có hại? Nếu có
hại, với điều kiện là người đó không có sự phát nguyện
mà người ta tự nhiên mổ xẻ cắt xén lấy một bộ phận
nào đó trong người của họ, thì điều đó mới thật sự là
xúc chạm gây ra tai hại cho người mới chết. Và như
thế, thì chắc chắn là thần thức của người mới chết đó,
sẽ sân hận mang lại hậu quả không tốt. Điều đó, thì rất
là tai hại. Bằng ngược lại, thì không có gì là tai hại cả.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
225
Chẳng những không hại mà nó còn mang lại một lợi
ích thiết thực rất lớn cho người sống, vì đã cứu được
mạng người.
Đối với hạng người tầm thường, vì ngu si chấp ngã quá
nặng, nên khi còn sống thì họ một bề chỉ nghĩ đến
những điều gì có lợi lộc cho riêng mình, cung phụng
cho thân thể đủ mọi thứ nhu cầu sung túc, đến sau khi
chết, cũng vẫn còn luyến tiếc thân thể, không muốn cho
thân thể bị hư hoại. Đó là hạng người quá ích kỷ, chỉ
biết có mình mà không nghĩ đến ai. Họ coi thân thể của
họ nặng hơn núi Tu di. Người như thế, khi còn sống
cũng không làm điều gì lợi ích cho ai, dù là một việc
làm rất nhỏ nhặt cũng không có. Hạng người như thế
quả họ sống không có ích lợi gì cho nhân quần xã hội
cả.
Trong xã hội, ta thấy có lắm người giàu có, tiền kho
bạc đụng, nhưng vì không có từ tâm, nên họ không bao
giờ biết thương xót cứu giúp ai cả. Khi còn sống, thì họ
lo xây dựng cơ đồ sự nghiệp của họ cho thật vững chắc,
ai chết mặc ai, đến khi gần chết, họ trăn trối lại cho con
cháu phải xây lăng mộ cho họ thật kiên cố sang trọng.
Dù biết trước rằng, đó chỉ là chôn cất một cái thây thúi.
Đó là hạng người mà Phật gọi là tham si chấp ngã quá
nặng.
Ngược lại, đối với những người mà họ coi thường bản
ngã, sống, thì làm lợi ích cho mọi người, đến khi chết,
họ cũng vẫn nghĩ đến làm lợi ích mọi người. Quả đây
không phải là hạng người tầm thường dễ tìm thấy trong
xã hội loài người.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
226
Tuy nhiên, người có tâm nguyện hiến cơ phận, thiết
nghĩ, cũng nên giải thích rõ với những người thân
thuộc trong gia đình về bản nguyện của mình, để không
gặp sự cản trở có thể xảy ra sau khi lâm chung. Mặt
khác, tang quyến cũng nên nói rõ cho quý Tăng Ni biết
về bản nguyện hiến cơ phận của bệnh nhân trong giờ
phút hộ niệm mà bệnh nhân đang trong tình trạng hấp
hối hay lúc tẩn liệm. Mục đích là để thức nhắc cho
bệnh nhân nhớ lại bản nguyện vị tha cao đẹp của mình
lúc còn sống và hết lòng hộ trì cho nhân viên bệnh viện
thực hành nhiệm vụ cắt lấy cơ phận.
Tóm lại, khi đã nói hiến cơ phận là đã có sự phát
nguyện rồi. Đã có phát nguyện như thế, thì làm gì có sự
giận hờn. Vì người khác chỉ làm theo những gì mà
mình đã phát nguyện. Như thế, thì đây là điều hoàn
toàn có lợi chớ không có hại chi cả.
89. Vấn đề ăn ngũ vị tân.
Hỏi: Kính bạch thầy, con không hiểu lý do tại sao
người Phật tử khi ăn chay không được ăn ngũ vị tân?
Ăn ngũ vị tân có hại như thế nào mà không được ăn?
Kính xin thầy từ bi giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo truyền thống Phật giáo Bắc truyền hay còn
gọi là Phật giáo Phát triển, thì người Phật tử khi ăn
chay nên kiêng cử ngũ vị tân. Ngũ vị tân là năm món
gia vị có mùi cay nồng gồm: Hành (cách thông) hẹ (từ
thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên
khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình
dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
227
và Việt Nam (Từ điển Phật học Hán – Việt, NXB
KHXH tr. 806 ).
Lý do tại sao người Phật tử không nên ăn những thứ
nầy, bởi vì đặc tính của những thứ nầy nó chứa nhiều tố
chất kích thích và mùi vị cay nồng, nếu ăn nhiều thì
thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục. Do đó,
mà trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy: “Các
chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn
năm món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng
đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh nóng
giận. Người nào ăn năm món cay nồng ấy thì dẫu có
tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư Thiên mười
phương đều chê bai hôi thúi và xa lánh. Ma quỷ nhìn
người ăn mấy món đó liền kéo đến liếm môi, liếm mép
họ, vì thế nên thường ở chung với ma quỷ. Phước đức
của người ăn ngũ tân mỗi ngày một tiêu dần. Bồ tát và
thiện thần trong mười phương không đến ủng hộ người
ấy”. Vì thế, Kinh Phạm Võng, quyển hạ, Phật dạy: “Là
Phật tử thì không được ăn ngũ vị tân, nếu ai cố ý ăn thì
phạm khinh cấu tội”.
Tuy nhiên, theo khoa y học cho biết, ngũ vị tân có chứa
nhiều hoạt chất làm tăng sức đề kháng cho cơ thể, được
dùng để phòng và trị bệnh. Những nghiên cứu mới nhất
của tổ chức sức khỏe thế giới ( WHO) về tỏi và hành
có khả năng chữa các thứ bệnh cảm cúm, tim mạch và
ung thư v.v… Do vậy, nên vì mục đích ngăn ngừa hay
chữa trị bệnh, thì ở một chừng mực nào đó, người Phật
tử ăn chay cũng có thể dùng được.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
228
Theo Đại Đường Tây Vực Ký của Tam Tạng Pháp Sư
Huyền Trang thì: “Các nhà sư ở Tây Vực, nếu người
nào bị bệnh nặng, theo sự chỉ dẫn của thầy thuốc phải
dùng Ngũ vị tân thì tạm được dùng nhưng phải ở riêng
một chỗ, biệt lập. Sau khi hết bệnh, phải tắm gội sạch
sẽ, thay đổi y phục, mới cho vào ở chung với chúng
Tăng.”
Điều nầy, người tu theo Mật giáo, chuyên trì chú, thì
tuyệt đối không được ăn. Vì ăn những loại nầy, sự trì
chú sẽ không được linh nghiệm. Nhưng đối với những
người tu theo Hiển giáo, thì có khác. Vì Hiển giáo
không chú trọng vào sự trì chú, nên Phật không có cấm
một cách tuyệt đối. Theo lời giải đáp của Hòa Thượng
Thanh Từ về vấn đề nầy, qua câu hỏi của một Phật tử,
được ghi lại trong bộ băng nhựa giảng giải về 33 vị Tổ
Thiền tông Ấn Độ và Trung Hoa, thì Hòa Thượng cho
rằng, người Phật tử tu theo Hiển giáo, thì vẫn có thể
dùng được những thứ nầy. Nhưng như trên đã nói, chỉ
được dùng trong một chừng mực nào đó, để ngăn ngừa
trị bệnh mà thôi, chớ không nên dùng thái quá, phản tác
dụng mà có hại cho sức khỏe. Tuy nó là một vị thuốc,
nhưng nếu sử dụng quá mức, thì cũng dễ gây ra tai hại.
Nói tóm lại, việc kiêng cử Ngũ vị tân, đối với những
Phật tử xuất gia hoặc tại gia tu theo Mật tông, thì tuyệt
đối họ không bao giờ dùng. Ngược lại, những Phật tử
tu theo Hiển giáo, thì không có kiêng cử tuyệt đối. Tuy
nhiên, nếu Phật tử nào ăn chay mà gìn giữ kiêng cử
không ăn, thì đó cũng là điều rất tốt vậy.
90. Chích lý tây quy ( quảy hài về Tây )
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
229
Hỏi: Kính bạch thầy, khi vào các chùa thuộc Phật giáo
Bắc tông, ở hậu tổ, con thấy đa phần các chùa đều có
thờ hình Tổ Bồ Đề Đạt Ma trên vai có quảy một chiếc
dép. Con không hiểu về sự tích và ý nghĩa nầy như thế
nào? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ.
Kính đội ơn thầy.
Đáp: Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị sơ Tổ Trung Hoa. Sử ghi
lại, Ngài từ Ấn Độ đến Trung Hoa truyền pháp đi bằng
đường biển tới Quảng Châu ngày 21 tháng 9 năm Canh
Tý nhằm đời nhà Lương, niên hiệu Phổ Thông năm đầu
(520. TL ).
Sau khi hội kiến cùng vua Lương Võ Đế, Ngài thấy căn
cơ của nhà vua không lãnh hội được yếu chỉ Thiền
tông, nên Ngài rời khỏi Kim Lăng (kinh đô nước
Lương) đến Lạc Dương, trụ tại chùa Thiếu Lâm ở Tung
Sơn, trọn ngày ngồi xoay mặt vào vách im lặng. Nơi
đây, Ngài đã độ một vị đệ tử đầu tiên tên là Thần
Quang pháp danh là Huệ Khả. Huệ Khả đã được Ngài
truyền tâm ấn và kế vị làm Tổ thứ hai.
Thời kỳ cuối đời Ngài hiện có nhiều truyền thuyết quan
niệm khác nhau. Theo Thiền Luận, quyển thượng của
Thiền sư Suzuki do Trúc Thiên dịch thì: “Những ngày
cuối cùng của Đạt Ma ở Trung Hoa bao trùm trong bí
mật; ta không biết rằng bằng cách nào, lúc nào và tại
đâu Sư lìa cõi thế tục nầy. Có người nói Sư bị đối
phương đầu độc, người nói Sư băng qua sa mạc về
Ấn…” Tuy vậy, căn cứ Sử 33 vị Tổ Thiền tông Ấn –
Hoa do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn, thì
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
230
Ngài an nhiên thị tịch tại Trung Hoa nhằm ngày mùng
9 tháng 10 năm Bính Thìn, niên hiệu Đại Thông năm
thứ hai, nhà Lương (529 TL). Nhục thân của Ngài an
táng tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Nhưng khi
Tống Vân đi sứ Ấn Độ về lại gặp Ngài tại núi Thông
Lãnh, quảy một chiếc dép và đi nhanh như bay. Tống
Vân sau khi về Triều tấu trình mọi sự lên vua, nhà vua
liền cho khai quật mộ Ngài, thì quả nhiên không thấy
thi thể của Ngài và chỉ còn thấy có một chiếc dép. Mục
kích điều kỳ diệu nầy, nhà vua liền ra lệnh đem chiếc
dép về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Từ đó về sau, các chùa
Phật giáo Bắc tông, ở hậu tổ đều có thờ tôn tượng qua
hình ảnh trên vai quảy chiếc dép nầy, gọi là quảy hài về
Tây.
Đó là chúng tôi lược kể về chuyện tích của Ngài.
Nhưng tại sao Ngài không quảy một đôi dép mà Ngài
chỉ quảy một chiếc? Vậy quảy một chiếc có ý nghĩa gì?
Và tại sao không xách mà phải quảy trên vai? Đó là
điều mà đại đa số chúng ta đều thắc mắc. Vấn đề nầy,
thú thật, thì chúng tôi chưa thấy sách sử nào ghi chép
giải thích, nhưng, theo chỗ học hỏi tìm hiểu của chúng
tôi, thì điều nầy, chỉ là mang một ý nghĩa có tánh cách
biểu trưng mà thôi.
Theo nhà Thiền, muốn giải thoát thì hành giả phải vượt
ra ngoài đối đãi vọng chấp hai đầu. Hiện tại, chúng ta
đang sống bị dính kẹt vào lối chấp đối đãi hai đầu: có,
không, phải, trái v.v… Chính vì sự dính mắc nầy mà
chúng ta phải chịu triền miên đau khổ. Vì còn thấy có
hai bên là còn có vọng chấp phiền não tạo nghiệp. Đã
có tạo nghiệp là có sanh tử luân hồi nổi trôi để thọ quả
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
231
báo. Muốn chấm dứt vòng sanh tử khổ đau, thì hành
giả cần phải buông xả vọng chấp hai đầu nầy. Do đó,
một chiếc dép là để biểu trưng cho yếu lý vượt ngoài
đối đãi và phải đạt cho kỳ được diệu lý Nhứt thừa viên
đốn.
Còn quảy trên vai là nói lên ý nghĩa gánh vác đảm
đang. Trọng trách của người tăng sĩ, nhứt là người tu
Thiền thì phải có trách nhiệm hoằng truyền chánh
pháp. Tục diệm huệ đăng hay dĩ tâm truyền tâm, để cho
chánh pháp được lưu truyền mãi trên nhơn gian làm lợi
ích cho chúng sanh, đó là một trọng trách lớn lao của
người tăng sĩ: “tác Như lai sứ và hành Như lai sự”
vậy.
91. Cha ăn mặn con khát nước.
Hỏi: Kính bạch thầy, con thường nghe người ta nói
câu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Con chưa
hiểu rõ ý nghĩa của câu nói nầy như thế nào? Và nói
như thế có trái với luật nhân quả hay không? Kính xin
thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Câu nói nầy mới nghe qua, thì dường như có
chống trái với luật nhân quả. Vì theo luật nhân quả, ai
làm nấy chịu, không thể người nầy ăn mà người khác
lại no, hay người nầy uống mà người kia đã khát.
Nghiệp quả mình gây, thì mình phải chịu nhận lấy,
không ai thay thế cho ai. Thế thì, tại sao ở đây nói, đời
cha ăn mặn, đời con khát nước? Câu nói nầy, theo chỗ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
232
hiểu của chúng tôi, thì nó nói lên cái tác động ảnh
hưởng qua lại trong đời sống gia đình.
Đã sống chung trong một gia đình, tất nhiên, ngoài biệt
nghiệp ra, nó còn có sự cộng nghiệp trong đó. Nếu
không có sự cộng nghiệp, thì chắc chắn không có sự
quan hệ gắn bó tương quan qua tình nghĩa cha con hay
vợ chồng. Dù đây là duyên nợ oan gia chằng chịt của
mỗi người với nhau trong quá khứ.
Đã nói là cộng nghiệp, thì ít nhiều gì cũng có ảnh
hưởng với nhau. Theo biệt nghiệp, thì ai làm nấy chịu.
Như cha phạm pháp, thì cha phải chịu tù tội trước luật
pháp, không ai có thể thay thế. Tuy nhiên, nếu xét trên
bình diện cộng nghiệp, thì việc làm của người cha sẽ
gây ra ảnh hưởng đến gia đình rất lớn. Ảnh hưởng tác
động qua nhiều phương diện. Như sa sút về phương
diện làm ăn, khó khăn trong vấn đề kinh tế gia đình,
ảnh hưởng đến sự học hành của con cái về mặt lý lịch,
vật chất cũng như tinh thần.
Điều liên hệ ảnh hưởng về việc học hành thi cử nầy,
chúng ta thấy rất rõ, sau năm 1975, đa số các con em
học sinh trong những gia đình có cha làm sĩ quan cấp
lớn thời quốc gia, đều bị đánh rớt vì lý lịch không tốt.
Như vậy, việc cha làm có ảnh hưởng cho gia đình và
con cái là như thế.
Đó là một cộng nghiệp chung của gia đình phải gánh
chịu. Còn người cha bị pháp luật trừng trị hành hạ đó là
nghiệp riêng của ông ta. Từ đó suy ra, hành động tốt
hay xấu của mỗi thành viên trong gia đình hay trong
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
233
một đoàn thể, rộng ra là cả quốc gia dân tộc, đều có tác
động ảnh hưởng chung. Vì thế mới có những câu nói :
“Tốt lá tốt nem, tốt em, tốt chị. Hay ngược lại cũng thế.
Hoặc: một người làm xấu cả bọn mang nhơ; một người
làm tốt cả bọn được nhờ. Một con sâu làm sầu nồi
canh v.v…” Còn và còn rất nhiều những câu nói như
thế.
Nếu làm cha mẹ ăn ở không có đạo đức, thì người con
dễ bị hư hỏng. Thí dụ trong gia đình, người cha thì hay
rượu chè say sưa be bét, còn mẹ thì cũng hay thích chơi
bài bạc đỏ đen. Đã vậy, hai người còn xung khắc cãi vã
rầy rà với nhau mãi. Cuộc sống giữa hai người không
có một chút hạnh phúc. Cả hai đều sống buông thả như
thế, thì bảo làm sao con cái trong gia đình nên thân cho
được? Bởi cha mẹ thiếu đạo đức, thì làm sao dạy dỗ
con cái. Tất nhiên, con cái cũng có cuộc sống bê tha mà
thôi. Điều nầy, đã và đang xảy ra nhan nhãn hằng ngày
trong xã hội.
Trong cuộc đời tương đối, đôi khi cũng có những
trường hợp đặc biệt ngoại lệ. Như cây đắng mà sanh
trái ngọt. Có những gia đình, cha mẹ thiếu đạo đức,
kém học thức, nhưng có những đứa con rất ngoan hiền,
học giỏi đổ đạt thành tài. Những trường hợp ngoại lệ
nầy, thật sự mà nói, ta thấy rất ít. Đại đa số, đều tác
động chịu ảnh hưởng bởi cộng nghiệp rất lớn.
Tóm lại, câu nói trên, theo tôi, thì không có gì là chống
trái với luật nhân quả cả. Vì luật nhân quả, ta phải xét
qua nhiều mặt. Không thể xét một cách đơn phương,
cục bộ, một chiều được. Bởi lý nhân quả nó tương quan
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
234
theo ước định của chiều thời gian. Và sự ảnh hưởng
qua lại giữa biệt nghiệp và cộng nghiệp đương nhiên là
phải có. Đời cha gây ra những hành động xấu, tốt, tất
nhiên, phải có ảnh hưởng đến đời con. Nếu đời cha là
người ăn ở có đạo đức, hiền từ, có trình độ học vấn
kiến thức khá, và có một đời sống cư xử gương mẫu,
thì đời con chắc chắn là phải có ảnh hưởng tốt đẹp lây.
Trường hợp nầy đã xảy ra nhan nhãn trong xã hội xưa
nay.
Ngược lại, nếu người cha là một người kém đạo đức,
đời sống bê tha trụy lạc, có nhiều tánh xấu, thì tất nhiên
sẽ gây tác động ảnh hưởng đến tánh tình và đời sống
của người con rất lớn. Như ăn mặn là nhân mà khát
nước là quả. Chính vì cha mẹ ăn ở không có đạo đức
mà có thể gây ảnh hưởng hậu quả cho đời con gánh
chịu. Đây là nhân quả tương đồng tác động ảnh hưởng
bởi cộng nghiệp mà ra.
92. Tại sao phải ăn chay trong các ngày trai
giới?
Hỏi: Kính bạch thầy, người Phật tử ăn chay có ăn chay
kỳ và ăn chay trường, con chưa hiểu tại sao phải ăn
chay trong các ngày trai giới? Và những ngày trai là
những ngày gì? Kính xin thầy từ bi giải đáp cho chúng
con được rõ.
Đáp: Theo kinh Thế Ký trong Trường A Hàm và Luận
Đại Trí Độ nói, thì những ngày trai là ngày tuần thú của
sứ giả các cõi trời Tứ Thiên Vương và trời Ma Hê Thủ
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
235
La. Những vị nầy lãnh sứ mạng thị sát nhơn gian xem
sự hành thiện tu tập của nhơn gian như thế nào rồi về
tâu lại với Thiên vương. Nếu như mọi người biết lo làm
lành tạo phước như bố thí và hiếu thảo với ông bà cha
mẹ thì số lượng sanh thiên sẽ được gia tăng. Bằng
ngược lại, thì sự sanh thiên sẽ bị giảm thiểu. Do đó, mà
ở nhơn gian người ta cố gắng tu tạo phước lành trai
giới, chay tịnh trong những ngày trai để được sinh về
các cõi trời. Đồng thời, vào những ngày trai các vị quỷ
thần cũng thường du hành trong nhơn gian và thường
quở phạt gây ra tai họa cho những người không tu tập,
kém phước đức. Chính vì thế, mà Phật dạy các hàng
Phật tử tại gia nên cố gắng tu tạo phước đức vào những
ngày chay tịnh. Nhờ tăng trưởng phước đức tu trì mà
có thể vượt qua mọi tai nạn khổ ách.
Trong một tháng có nhiều ngày trai, tùy theo sự phát
nguyện thọ trì trai giới của Phật tử mà có ra nhiều ngày
trai khác nhau. Nhưng chủ yếu là các ngày mùng tám,
mười bốn, rằm và ba mươi. Vì những ngày nầy, các vị
Thiên sứ vâng mệnh của Thiên vương tuần hành
thường xuyên để khuyến khích nhơn gian tu phước
sanh thiên. Bởi thế, nên trời Đế Thích có bài kệ tán
thán:
Người nào lấy ngày tám
Mười bốn, rằm mỗi tháng
Để tu hành trai giới
Người ấy đồng với ta.
Ngoài ra, còn có các ngày trai khác. Nếu người nào ăn
chay mười ngày, thì ăn vào các ngày 1, 8, 14, 15, 18,
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
236
23, 24, 28, 29, 30. Đây gọi là thập trai. Còn nếu ăn sáu
ngày (lục trai) thì: 8, 14, 15, 23, 29, 30 . Nếu ăn bốn
ngày (tứ trai) thì: 1, 14, 15, 30. Nếu ăn hai ngày (nhị
trai) thì: mùng 1 và rằm. Ngoài ra, còn có tam nguyệt
trai, tức thọ trì trai giới vào những tháng: tháng giêng,
tháng bảy và tháng mười. Có người ăn luôn ba tháng,
thì bắt đầu ăn từ rằm tháng tư cho đến rằm tháng bảy.
Việc thọ trì trai giới để tu tập tạo thêm phước đức là
tùy thuộc vào sự phát nguyện của người Phật tử. Thông
thường, người Phật tử sau khi quy y, tối thiểu phải thọ
trì 2 ngày chay: mùng một và rằm. Vào những ngày trai
giới, người Phật tử nên cố gắng gìn giữ tâm ý mình cho
được thanh tịnh bằng cách tụng kinh, niệm Phật và tu
tạo nhiều phước thiện v.v… Đó là điều rất tốt cho
người Phật tử bền chí tu tập vậy.
93. Tượng Phật có từ lúc nào ?
Hỏi: Kính bạch thầy, con thường phát tâm hỷ cúng
tượng Phật cho các chùa, nhưng thú thật, con chưa
hiểu rõ lắm về nguyên nhân do đâu mà có tượng Phật
và tượng Phật có từ lúc nào? Ai là người tạo tạc tượng
Phật đầu tiên? Kính xin thầy từ bi hoan hỷ giải đáp cho
chúng con được rõ.
Đáp: Căn cứ vào kinh Phật Thuyết Đại Thừa Công
Đức Tạo Tượng (Đại chính tân tu đại tạng kinh, tập 16,
tr. 790a), thì tượng Phật đã có ngay từ thời Phật còn tại
thế. Nguyên khởi là do vua Ưu Đà Diên, trị vì nước
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
237
Câu Diệm Di là người đầu tiên dùng gỗ thơm chiên đàn
tạo ra hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Kinh văn nguyên tác rất dài, ở đây, chúng tôi chỉ xin
được tóm lược nội dung qua một vài ý chính như sau:
“Sau gần 49 năm thuyết pháp độ sanh, trong mùa an cư
cuối cùng, Đức Phật liền nghĩ đến thánh mẫu Ma Da,
nên Ngài tạm xa rời nhơn gian để lên cung trời Đao Lợi
thuyết pháp cho thánh mẫu và chư Thiên nghe. Trong
thời gian nầy, vua Ưu Đà Diên, ngày đêm hằng trăn trở
thao thức nhớ nghĩ đến Phật. Vì ông là một Phật tử rất
thuần thành và luôn sùng kính Tam Bảo. Do tấm lòng
nhớ nhung tha thiết đó, là động cơ chính yếu thúc đẩy
ông phải gấp rút tạo hình tượng Phật. Đó là một việc
làm nhằm mục đích thể hiện lòng khao khát kính
ngưỡng của ông đối với Đức Phật. Đồng thời, ông cũng
muốn lưu lại hình bóng của Đức Thế Tôn trong những
lúc Ngài không có mặt ở nhân gian.
Sau khi nghĩ thế, nhà vua liền ra lệnh triệu tập các điêu
khắc gia nổi tiếng trong nước để điêu khắc tạo hình
tượng Phật để chiêm bái. Nhưng, lệnh truyền ra, mà
không có ai dám đảm nhận trọng trách nầy. Vì họ nghĩ
rằng, thân Phật tướng hảo quang minh, oai nghiêm cao
quý, hình dung của Ngài siêu trần tuyệt thế, làm sao có
thể tạc tượng chuyển tải được những đức tướng giống
hệt Ngài được. Thật là một việc làm vô cùng khó khăn,
nếu không khéo sẽ trở thành đắc trọng tội với Đức
Phật. Do nghĩ thế, mà không một người thợ điêu khắc
nào dám nhận lãnh.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
238
Lúc bấy giờ, có một vị Trời tên là Tỳ Thủ Yết Ma, biết
được việc đó, liền biến hóa ra một người thợ mộc. Vị
thợ mộc nầy, liền đến trước mặt nhà vua tâu rằng:
“Muôn tâu Đại vương, tôi là một thợ mộc khéo tay
nghề, xin hết lòng vì nhà vua mà tạo tượng Phật. Việc
làm của tôi, quyết không để cho nhà vua thất vọng.
Vậy, cúi xin Đại vương chớ tìm người khác hãy để cho
tôi đảm nhận trọng trách nầy”.
Nghe qua, nhà vua chấp thuận và ra lệnh phải thi hành
ngay. Với bàn tay tuyệt xảo của vị trời nầy, chỉ trong
vòng thời gian một ngày, thì tượng Phật đã được hoàn
tất. Hình tượng Phật điêu khắc tuyệt đẹp, nhà vua rất
ưng ý hài lòng. Nhà vua chiêm ngưỡng trầm trồ khen
ngợi, phát hỷ tâm thanh tịnh, liền chứng Nhu thuận
nhẫn. (Nhu thuận nhẫn nghĩa là tâm nhu, trí thuận; theo
Vô Lượng Thọ Kinh, thì nhu thuận là một trong 3 pháp
nhẫn : Âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, và Vô sinh
pháp nhẫn). Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn,
nhà vua vô cùng hoan hỷ mừng rỡ, bao nhiêu phiền
muộn đều tiêu tan hết.
Về công đức tạo tượng, cũng theo kinh văn nói trên,
Đức Phật dạy rằng: “bất cứ ai dùng những vật liệu
như: tơ sợi thêu thùa tượng Phật hoặc dùng chì, kẽm,
vàng, bạc hay các loại gỗ thơm chiên đàn v.v… tô đắp
tạc tượng, khiến mọi người chiêm ngưỡng lễ bái, thì
đều được phước báo vô lượng vô biên. Người đó sẽ
được hình tướng đoan trang và sẽ tiêu trừ được những
tội cực trọng”.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
239
Qua đó cho chúng ta thấy rằng, người tạo nên tượng
Phật hoặc người góp tịnh tài hỷ cúng vào công việc tạo
tượng nầy, thì cả hai đều được phước đức rất lớn lao.
Vì người Phật tử góp phần vào việc duy trì Tam Bảo để
làm lợi lạc cho nhơn sinh. Nhờ đó, mà Phật pháp mãi
được lưu truyền rộng rãi và cũng nhờ đó mà mọi người
mới nghĩ nhớ đến ân đức cao sâu rộng rãi bao la của
Đức Phật. Có tưởng niệm như thế, người Phật tử mới
thiết tha nỗ lực hành trì và quyết lòng noi theo tấm
gương hạnh nguyện từ bi vị tha cao cả của Đức Phật
mà gắng công tu hành để chóng được giác ngộ giải
thoát.
Tóm lại, nhờ vua Ưu Đà Diên mà hôm nay, chúng ta
mới có được những tượng Phật để tôn thờ. Dù điêu
khắc hay tô đắp tạc tạo với bất cứ hình thức vật liệu
nào, tất cả cũng nhằm một mục đích chung là mang lại
một sắc thái thẩm mỹ để phát khởi tín tâm của những
người hâm mộ sùng bái ở nơi Đức Phật. Thế nên, các
nhà điêu khắc tạo tượng cũng phải có một năng lực
chuyên môn và một cảm quan sâu sắc, mới có thể thực
hiện hoàn mỹ công việc nầy. Đó là một phước đức rất
lớn lao mà không phải ai cũng có thể tạo nên được.
94. Tam đức là gì?
Hỏi: Kính bạch thầy, con có nghe băng giảng nói về
tam đức: trí đức, đoạn đức và ân đức. Nhưng con
không hiểu ý nghĩa về ba đức nầy như thế nào? Kính
xin thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
240
Đáp: Tam đức thuộc về pháp số hay danh số. Tam đức
gồm có:
1. Trí đức hay còn gọi là quán đức nó có nghĩa là,
người tu hành cần phải dùng trí huệ quán sát các pháp
đều là hư giả không thật. Nhờ quán sát như thế, nên
không nhiễm trước ở nơi các pháp. Do đó, hành giả sẽ
được giải thoát.
2. Đoạn đức là chỉ cho đoạn dứt hết các thứ vô minh
phiền não lậu hoặc.
3. Ân đức là chỉ cho cái đức ban ân huệ cho chúng
sanh. Ân đức nầy là do nguyện lực của Phật và Bồ tát
luôn luôn cứu độ chúng sanh. Người có ân đức là người
luôn có tâm hồn rộng lượng bao dung tha thứ và làm
lợi ích cho muôn loài.
95. Ý nghĩa lá cờ Phật giáo.
Hỏi: Kính bạch thầy, có người hỏi con về ý nghĩa lá cờ
Phật giáo. Họ hỏi tại sao có 5 màu khác nhau. Vậy 5
màu đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Thật sự con không
hiểu, xin thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Lá cờ Phật giáo đã được chấp thuận bởi Hội Nghị
Liên Hữu Phật giáo Thế Giới, tổ chức lần đầu tiên tại
thủ đô Colombo Tích Lan, từ ngày 26 tháng 5 năm
1950 đến ngày 7 tháng 6 năm 1950. Lá cờ 5 sắc là
tượng trưng cho Ngũ căn Ngũ lực. Ngũ căn gồm có:
tín, tấn, niệm, định, huệ. Còn Ngũ lực chỉ là tăng sức
cho ngũ căn thêm lực dụng mạnh mẽ hơn mà thôi.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
241
Như chúng ta tin vào Tam bảo hay lý nhân quả, nhưng
lòng tin của chúng ta chưa được vững chắc mạnh mẽ,
nên cần phải có niềm tin vững chắc mạnh mẽ hơn, đó
là phạm vi của tín lực. Nghĩa là có thêm năng lực thúc
đẩy niềm tin vững mạnh hơn lên. Tấn là tinh tấn, tức
siêng năng hành trì về một pháp môn nào đó. Như
siêng năng niệm Phật chẳng hạn. Mặc dù chúng ta có
siêng năng, nhưng sự siêng năng của chúng ta chưa
được mạnh mẽ, nên cần phải có tấn lực vào, thì sức
siêng năng niệm Phật của chúng ta mới được dũng tiến
hơn. Nhờ sức tinh tấn nên chúng ta luôn luôn nhớ đến
danh hiệu Phật mà chuyên trì không gián đoạn. Sự
chuyên chú hằng nhớ, đó là Niệm. Từ niệm chuyên chú
lâu ngày thuần thục, thì Ðịnh lực phát sanh. Khi đã có
định, tất nhiên là có Huệ. Ðó là ý nghĩa đại khái của
Ngũ căn và Ngũ lực.
Tóm lại, Năm màu của lá cờ là biểu trưng cho ý nghĩa
ngũ căn ngũ lực là như thế. Ngoài ra, nó còn biểu trưng
cho ý nghĩa tinh thần hòa hợp của Phật giáo. Phật giáo
luôn chủ trương hòa bình. Cho nên, nhơn loại khắp
năm châu, tuy màu da chủng tộc có khác nhau, nhưng
Phật giáo xem nhau như tình huynh đệ một nhà.Với
tinh thần từ bi, bình đẳng, lục hòa, Phật giáo không có
phân chia giai cấp hay phân biệt khác nhau màu da
chủng tộc. Vì tất cả đều có chung một nguồn tuệ giác
(Phật tánh) như nhau. Vì vậy, nên lá cờ Phật giáo ngoài
ý nghĩa biểu trưng cho giáo lý, nó còn nói lên tinh thần
thích nghi hòa hợp đó.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
242
96. Sự khác biệt giữa tượng Phật Thích Ca và
Phật Di Đà.
Hỏi: Kính bạch thầy, xin thầy chỉ cho chúng con sự
khác biệt giữa hình tượng Phật Thích Ca và Phật A Di
Đà khác nhau ở điểm nào?
Đáp: Sự khác biệt giữa hai tôn tượng Phật Thích Ca và
Phật A Di Đà qua một vài đặc điểm của biểu tướng như
sau:
1. Phật Thích Ca thường trong các chùa Phật giáo Bắc
Tông (Đại Thừa) đều thờ Ngài ở chính giữa chánh
điện. Nên gọi Ngài là đấng Trung Tôn, vì Ngài là vị
Giáo chủ cõi Ta bà nầy.
2. Hình tượng Ngài không nhứt thiết phải giống người
Ấn Độ, vì theo quan niệm Phật giáo Bắc tông, nhứt là
Thiền tông cho rằng, mỗi người đều có ông Phật (Phật
tánh) nên người nước nào tạc tượng giống người nước
đó. Từ nét mặt cho đến hình tướng. Nên hình tượng thờ
trong các chùa không nhứt thiết phải giống nhau. Đó là
xét trên đại thể, còn các chi tiết thì tương đối giống
nhau.
Như ngồi trên tòa sen, hai bàn tay bắt ấn Tam muội,
nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt mở ba phần tư, và mặc
ca sa (y) v.v… Đó là một vài nét biểu tướng của Phật
Thích Ca. Ngoài ra, các chùa còn có thờ tôn tượng Đức
Phật Thích Ca sơ sinh tay chỉ thiên tay chỉ địa.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
243
Về Tôn tượng đức Phật Di Đà, thông thường, có hai
tượng mà chúng ta thường thấy: Tượng Ngài ngồi kiết
già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tợ Phật Thích
Ca và tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không,
bên dưới là bể cả sóng nổi lên rất cao, mắt Ngài nhìn
xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai, tay
mặt duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi cứu vớt những
chúng sanh đang đắm chìm trong bể khổ. Tượng nầy
gọi là tượng Di Đà phóng quang. Về tượng đứng,
thường bên cạnh Ngài có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và
Thế Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng bên tay trái và Bồ
tát Thế Chí đứng bên tay phải của Ngài. Đây gọi là
tượng Tam Thánh. Về tượng nầy, thì rất dễ phân biệt
khác với tượng Phật Thích Ca. Còn về tượng ngồi, ta
nên lưu ý sự khác biệt giữa hai tôn tượng như sau:
1. Tượng Phật Thích Ca không bao giờ duỗi một cánh
tay.
2. Tượng Phật Thích Ca thường đắp y choàng qua cổ
không có đắp y khoát vuông để trống trước ngực có
chữ vạn. Ngược lại, tượng Phật Di Đà có đôi khi người
ta tạc tượng Ngài ngồi tư thế kiết già và duỗi xoè bàn
tay mặt. Y khoát cổ vuông và trước ngực có chữ vạn.
Đó là hai nét chính khác với tượng Phật Thích Ca.
97. Bát kỉnh pháp là gì?
Hỏi: Kính thưa thầy, con nghe nói bát kỉnh pháp mà
con không hiểu bát kỉnh pháp là gì? Xin thầy hoan hỷ
giải thích cho con rõ.
Đáp: Bát kỉnh pháp hay còn gọi là bát kỉnh giới hoặc
bát trọng pháp, gọi tắt là bát kỉnh. Đây là tám pháp mà
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
244
Phật dạy Tỳ kheo ni phải cung kính tôn trọng Tỳ kheo
tăng. Bát kỉnh pháp gồm có:
1.Tỳ kheo ni dầu 100 tuổi hạ, thấy vị Tỳ kheo tăng mới
thọ giới, cũng phải đứng lên tiếp đón lễ bái và trải tòa
sạch sẽ mời ngồi.
2. Tỳ kheo ni không được chê bai mắng nhiếc Tỳ kheo
tăng.
3. Tỳ kheo ni không được cử tội, nói lỗi của Tỳ kheo
tăng, ngược lại Tỳ kheo tăng được quyền nói lỗi của Tỳ
kheo ni.
4. Thức xoa ma na ( Sa di ni học pháp trước khi thọ
giới Tỳ kheo ) học giới xong, nên theo chúng tăng cầu
thọ đại giới.
5. Tỳ kheo ni phạm tội tăng tàn, nên phải nửa tháng ở
hai bộ tăng hành pháp ma na đỏa.
6. Tỳ kheo ni nên trong nửa tháng theo Tỳ kheo tăng
cầu thọ học.
7. Tỳ kheo ni không được an cư ở nơi không có Tỳ
kheo tăng mà an cư.
8. Tỳ kheo ni an cư kiết hạ xong, nên ở trong chúng Tỳ
kheo tăng cầu xin 3 việc để tự tứ sám hối. ( Từ Điển
Phật Học Huệ Quang tập 1 trang 574 )
98. Bát nạn là gì?
Hỏi: Kính bạch thầy, con đọc trong kinh thấy nói Bát
nạn, nhưng con không hiểu Bát nạn là gì? Xin thầy
hoan hỷ giải đáp cho con được rõ. Cám ơn thầy.
Đáp: Bát nạn còn gọi là Bát nạn xứ hay Bát nạn giải
pháp v.v… Nó có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
245
trung cũng chỉ cho tám chỗ mà chúng sanh thọ khổ. Bát
nạn gồm có:
1.Nạn địa ngục: chúng sanh do tạo nghiệp ác, nên phải
chiêu cảm quả báo đọa vào địa ngục, chịu khổ không
ngừng, không được thấy Phật nghe pháp.
2. Nạn ngạ quỷ: Tức là loài quỷ đói. Chúng sanh do
tạo nghiệp tham lam bỏn xẻn nên chiêu cảm thọ sanh
vào loài ngạ quỷ phải chịu đói khát khổ sở trăm bề.
3. Nạn súc sanh: Chúng sanh do si mê tối tăm, hành
động phi pháp trái với luân thường đạo lý, nên phải
chiêu cảm quả báo thọ sanh vào loài súc sanh nầy.
4. Nạn sanh lên cõi trời Trường thọ: Cõi trời nầy thọ
mạng dài lâu, bị chướng ngại không được thấy Phật
nghe pháp.
5. Nạn sinh ở Uất đan việt hay còn gọi là Bắc cu lô
châu hoặc Thắng xứ. Vì người sanh về cõi nầy, họ
mãi mê tham đắm hưởng lạc, nên không gặp được Phật
pháp tu hành.
6. Nạn đui điếc câm ngọng: Tuy sanh được làm người
nhưng sáu căn của họ không được vẹn toàn, nên cũng
không được thấy nghe học hỏi Phật pháp.
7. Nạn thế trí biện thông: hạng người nầy, tuy họ rất
thông minh lanh lợi, chuyên nghiên cứu học sách ngoại
đạo, nên họ không tin chánh pháp, không biết tu hành
để được giải thoát sanh tử khổ đau.
8. Nạn sanh trước Phật và sau Phật: Chúng sanh do
nghiệp chướng sâu dầy, nên sanh ra đời không được
gặp Phật.
Đại khái trong Kinh nói Bát nạn là như thế.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
246
99. Tại sao Bồ tát Địa Tạng tay mặt cầm tích
trượng và tay trái nắm hạt minh châu?
Hỏi: Kính bạch thầy, mỗi khi lạy Bồ tát Địa Tạng, nhìn
thấy Ngài tay mặt cầm tích trượng còn tay trái thì nắm
hạt minh châu, con không hiểu ý nghĩa nầy như thế
nào? Kính xin thầy giải đáp cho con rõ.
Đáp: Tích trượng là một trong những pháp khí do Phật
chế ra. Thời xưa, Phật và các Thánh chúng đi khất thực
thường vai mang bát và tay cầm tích trượng. Công
dụng của tích trượng là để dẹp trừ những chướng ngại
vật làm trở ngại bước chân của các Ngài đi. Như rắn rết
v.v…
Còn trên đầu tích trượng sở dĩ có 12 khoen, đó là biểu
trưng cho 12 nhân duyên. Đức Phật do giác ngộ 12
nhân duyên mà được thành tựu đạo quả. Từ đó, Ngài
đem 12 nhân duyên để giáo hóa chúng sanh, vì Ngài
muốn mọi người đều được giác ngộ đạo lý như Ngài.
Vì thế, tay mặt của Bồ tát Địa Tạng cầm cây tích
trượng trên đầu có 12 khoen là nói lên ý nghĩa tiêu biểu
đó. Còn tay trái Ngài nắm hạt minh châu là tượng trưng
cho trí huệ. Vì muốn phá vô minh, cần phải có trí huệ.
Một khi có trí huệ chiếu sáng thì vô minh không còn.
Đầu mối của 12 nhân duyên là vô minh. Nên 12 khoen
là tượng trưng cho vô minh. Hạt minh châu là tượng
trưng cho trí huệ. Khi trí huệ bừng sáng như hạt minh
châu chiếu sáng, thì bóng tối vô minh không còn.
Ngang đó, sẽ được giải thoát sanh tử chấm dứt mọi khổ
đau ràng buộc. Bởi thế, nên hình ảnh của Bồ tát Địa
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
247
Tạng là biểu trưng người xuất gia, khác hơn các vị Bồ
tát khác tượng trưng một người cư sĩ tại gia. Tất cả đó
là nói lên ý nầy.
100. Tứ ma là gì?
Hỏi: Kính bạch thầy, con nghe nói người tu hành hay
bị bốn thứ ma làm chướng ngại, nhưng con không hiểu
bốn thứ ma đó là gì? Cúi xin thầy từ bi giải đáp cho
con rõ.
Đáp: Trong Kinh Bát Đại Nhơn Giác có câu nói: “Tồi
phục tứ ma, xuất ấm giới ngục”. Nói bốn loại ma đó là:
Phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma.
Bốn loại ma nầy, làm chướng ngại cho người tu hành
rất lớn.
Thứ nhứt là phiền não ma. Đây là ma trong tâm của
mỗi người. Phiền não gồm có rất nhiều loại, nhưng
không ngoài hai loại chính: căn bản phiền não và tùy
phiền não. Căn bản là gốc rễ. Tức là những loại: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Đây là những loại có gốc rễ
sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Chính nó là nguyên
nhân gây ra cho người ta phải đau khổ triền miên.
Còn tùy phiền não, thì nhẹ hơn, nhưng chúng nó cũng
gây ra cho người ta luôn luôn bất an. Chúng gồm có 20
thứ. Cường độ của chúng, cũng có loại mạnh loại yếu.
Nên các nhà Duy Thức chia chúng ra làm ba loại: tiểu
tùy, trung tùy và đại tùy.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
248
Về tiểu tùy thì có 10 thứ: phẩn, hận, phú, não, tật, xan,
cuống, siểm, hại, kiêu.
Trung tùy gồm có 2 loại: vô tàm và vô quý.
Đại tùy gồm có 8 thứ: điệu cử, hôn trầm, bất tín, giải
đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Thứ hai là ngũ ấm ma. Ngũ ấm ma gồm có: sắc, thọ,
tưởng, hành và thức. Tại sao gọi 5 thứ nầy là ma? Vì 5
thứ nầy không thật có mà người ta cố chấp cho là thật
có, rồi từ đó mà tạo nghiệp thọ khổ nên gọi nó là ma.
Thứ ba là thiên ma. Đây là loại ma vương ở cõi trời
Dục giới. Chúng có khả năng biến hóa khuấy phá nhiễu
loạn làm trở ngại sự tiến đạo của hành giả. Loại ma
nầy, khuấy phá Phật khi Phật sắp thành đạo. Vì bọn
chúng không muốn cho ai thoát khỏi ngũ dục. Chúng
thấy ai tu hành tinh tấn, không còn mê đắm ngũ dục lạc
thế gian, thì chúng thường hay khuấy phá.
Thứ tư là tử ma. Tử ma là ma chết. Con người sau khi
chết thành loài ma quái yêu tinh khuấy nhiểu làm người
ta sợ hãi sanh bệnh v.v… Hoặc người đang tinh tấn tu
hành, bỗng bị vô thường xảy đến bệnh hoạn hay tai nạn
rồi ngã ra chết làm trở ngại dở dang sự tu hành đó cũng
thuộc về tử ma.
Nói tóm lại, bốn loại ma nầy, lực dụng của chúng đều
làm chướng ngại lớn trên bước đường tu tiến của hành
giả. Vì bọn chúng khuấy nhiểu mà làm cho người tu
hành khó được giải thoát.
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
249
Mục Lục
1. Nghi thức quá đường.  4
2. Tại sao không thờ Tổ Tỳ Ni Đa Lưu Chi ? 7
3. Kinh sách nào giúp người học Phật.  8
4. Vấn đề sát sanh hại vật.  10
5. Dọn cơm cúng vong như thế nào mới đúng?  14
6. Phật lên cung trời thuyết pháp bằng thân nào ?  15
7. Ý nghĩa chắp tay.  15
8. Ý nghĩa 2 câu chú Biến Thực biến thủy.  18
9. Tại sao đưa linh cữu còn ghé thăm nhà ?  19
10 Vấn đề bản ngã thật giả thế nào ?  24
11. Ý nghĩa Phật bước đi bảy bước.  27
12. Phúng điếu người chết có mắc nợ hay không? 29
13. Thờ Phật khác nhau giữa Nam Bắc Tông PG.  34
14. Ý nghĩa tràng hạt.  37
15. Ý nghĩa bánh xe chuyển pháp luân.  41
16. Chư Thiên thỉnh Phật thuyết pháp.  45
17. Vấn đề Quỷ Thần.  47
18. Sự khác biệt giữa Phật đản và Phật lịch.  50
19. Ý nghĩa những từ ngữ diễn tả Phật ra đời.  51
20. Cúng dường Tam bảo và trai tăng khác nhau.  53
21. Người tăng sĩ lấy họ Thích từ lúc nào ?  56
22. Sự khác biệt giữa Tứ đại và Thất đại.  59
23. Phóng sanh như thế nào mới đúng ý nghĩa ?  60
24. Sự khác biệt củaTam thừa.  62
25. Niệm Phật cầu vãng sanh có ích kỷ hay không ?  63
26. Ý nghĩa Vu Lan và Tự Tứ.  68
27. Chư tăng chú nguyện có siêu độ hay không ?  70
28. Danh xưng Quán Thế Âm và Quán Tự Tại.  77
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
250
29. Tịnh Độ Tông có truyền thừa Tổ vị không?  78
30. Sự khác biệt giữa chánh niệm và vô tâm.  80
31. Ý nghĩa chữ Vạn.  81
32. 12 loại cô hồn.  84
33. Tụng kinh ở nhà có cần chuông mõ không ?  85
34. Ngày ăn chay có nêm nếm đồ mặn được không?  86
35. Ý nghĩa kiết thất và đả thất.  87
36. Ý nghĩa tướng lưỡi rộng dài.  88
37. Chư thiên dâng hoa cúng dường.  89
38. Danh hiệu Đại Thế Chí và sự động đất.  92
39. Thờ Thích Ca mà chào Di Đà.  93
40. Làm sao cho mẹ con khỏi tội?  94
41. Nấu đồ mặn sau khi thọ bát về.  96
42. Làm sao cho mẹ con được vui?  97
43. Vì cạo tóc, người ta lầm tưởng xuất gia xá chào
có lỗi không ?
99
44. Xuất gia tu ở nhà vì lý do sức khỏe.  100
45. Ăn chay trường nấu đồ mặn có tội không ?  101
46. Ăn chay trường mua thịt cá nấu có sao không ?  102
47. Thờ Thích Ca mà niệm Di Đà.  103
48. Người xuất gia không lạy cha mẹ khi chết.  105
49. Thế nào mới là phạm ăn phi thời ?  106
50. Sau 49 ngày cầu siêu được không ?  107
51. Chết bất đắc kỳ tử có siêu không ?  109
52. Khi nhổ cỏ làm chết vật nhỏ có tội không ?  111
53. Ý nghĩa câu tạo tội như núi cả.  114
54. Có phải vì bệnh làm phiền trong chúng.  116
55. Ý nghĩa câu tình dữ vô tình.  118
56. Kiến Tư và trần sa hoặc khác nhau thế nào ?  120
57. Thọ Tam quy không sanh về cảnh giới ác.  121
58. Tụng kinh cầu siêu có thật siêu hay không ?  124
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
251
59. Giản biệt giữa tu phước và tu huệ.  126
60. Vô thường có phải là chủ thuyết bi quan không?  128
61. Có nên tụng kinh Kim Cang bát Nhã không ?  129
62. A tu la là gì ?  131
63. Hiện tượng lục chủng chấn động như thế nào ?  132
64. Ý nghĩa chuông trống bát nhã.  135
65. Nhứt nhơn hành đạo cửu huyền thăng.  138
66. Vấn đề chánh tín và mê tín.  140
67. Ngày kinh nguyệt tụng kinh được không ?  142
68. Ăn chay dùng trứng gà được không ?  144
69. Cúng heo quay trả lễ có mang tội không ?  146
70. Tụng kinh không có bàn thờ Phật được không ?  150
71. Niệm Phật thấy hình tượng Phật có lỗi không ?  154
72. Hạnh phúc gia đình bị đổ vở vì nóng nảy.  160
73. Lo âu vì sống đơn độc.  164
74. Ý nghĩa hoa sen.  170
75. Vấn đề xả tang cho cha mẹ.  177
76. Sự khác biệt giữa trí thức và trí tuệ.  178
77. Thế nào gọi là chuyển nghiệp ?  180
78. Sự khác biệt giữa A la hán và Bồ tát.  183
79. Vấn đề linh hồn và nghiệp báo.  187
80. Số mạng và nghiệp báo đồng hay khác ?  193
81. Vấn đề hộ niệm cho người sắp lâm chung.  197
82. Sau khi chết nghiệp còn hay mất ?  206
83. Người chết bất đắc kỳ tử, thì nghiệp quả sẽ ra
sao?
210
84, Tập tục đốt giấy tiền vàng mã.  213
85. Nguồn gốc Thần tài và Thổ Địa.  215
86. Vấn đề tuổi tác và duyên số trong hôn nhân.  219
87. Lễ đám cưới tại chùa.  225
88. Hiến cơ phận có lợi và hại như thế nào ?  227
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
252
89. Vấn đề ăn ngũ vị tân ?  230
90. Chích lý Tây quy.  233
91. Cha ăn mặn , con khát nước  235
92. Tại sao phải ăn chay trong những ngày trai giới ?  238
93. Tượng Phật có từ lúc nào ?  240
94. Tam đức là gì?  243
95. Ý nghĩa lá cờ Phật giáo.  244
96. Sự khác biệt giữa tượng Phật Thích Ca và Phật
Di Đà.
246
97. Bát kỉnh pháp là gì?  247
98. Bát nạn là gì?  248
99. Tại sao Bồ tát Ðịa Tạng tay mặt cầm tích trượng
và tay trái nắm hạt minh châu?
250
100. Tứ ma là gì?  251
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
253
CÚNG DƯỜNG PHÁP LÀ TỐI THƯỢNG NHẤT
The gift of truth surpasses all other gifts
***********
Phương Danh Ấn Tống
List of Virtuous Sponsors
******
Ẩn Danh  1000
Sư Cô Phước
Nghiêm  50
Tâm Tiên  30  Quang Thuận  20
Thanh Liên  20  Diệu Quang 4  50
Diệu Phi  50  Tâm Chiếu  20
Viên Hảo  50  Chân Mỹ Lộc  10
Chơn Thọ  50  Tâm Hải  50
Diệu Đức  20  Hatty  60
Quang Nghiêm  60  Diệu Huệ 1  20
Diệu Hải 2  20  Diệu An 2  20
Chân Mỹ Hóa  20  GĐ Tuấn Kiệt  50
Chân Hiền Đạo  10  Viên Như  20
Diệu Lý  20  Như Phẩm  25
Nguyên Phương  20  Diệu Lộc 2  50
Từ Hương  50  Giác Phú  10
Diệu Hương 2  20  Như Thuận  30
Tâm Đắc  30  Lệ Báo  20
Hoa Quang  20  Chị Út  20
Diệu Pháp  10  Diệu Phú  10
Viên Hiệp  40  Thùy Hoàn  20
Viên Thật  40  Diệu Lượng  20
Diệu Lạc  20  Diệu Ngọc(Bình)  20
Diệu Huệ 2  20  Như Anh  10
Diệu Hạnh  20  Hà Ngọc  50
Tâm Đạo  30  Thúy Phượng  100
Nhàn ngọc  50  Diệu Thiện  20
Diệu Huệ 5  50  Diệu Trinh  20
Nhật Thiện  20  Diệu Từ  30
Thế Niên  10  Tịnh Trang  20
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
254
Diệu Viên  50  Diệu Hải 3  5
Nguyên Dung  20  Lê văn Việc
Diệu Mãn  10  Pd Phổ Đức Huyền  50
Thanh Huyền  20  Diệu Đức  10
Phước Ngọc  20  Chơn Trì  20
Tắc Hương  20  Diệu Nhàn  20
Nguyên Sơn  20  Diệu Quang 20
Diệu Pháp ( Diên thọ)  20  Hạnh Hải  20
Viên Thành (PChiếu)  10  Lệ Thanh  20
Ngọc Bảo  20  Nguyệt Ánh  10
Tâm Hoàng  50  Nguyệt Điện  20
Nguyên Hồng  20  Ba Đàm Hoa  200
Duyên Ngọc  10  Ẩn danh  150
Thanh Cần  50  Đàm Hoa  50
Gia đình ẩn danh  115  Hồng Hoa  50
Ẩn Danh  100  Chí Phước  20
Diệu Châu 2  55  Chiếu Ngạn  20
Diệu Thảo  25  Chân Thanh  10
Huệ Hiền  35  Tâm Liên  20
Nguyên Yến  30  Diệu Hải 20
Thanh Huy  20  GĐ Minh Chiếu 50
Thanh Thể 20  Quảng Đài  20
Thông Ngọc  65  Diệu Sương 20
Viên Định 20  Diệu Ngọc 2  50
Diệu An 1  10  Diệu Phước  30
Diệu Hoàng  40  GĐ Nguyệt Đạo  100
Tràng Ngọc  20  Quảng Thọ  35
Diệu Lương  55  Tâm Ngộ  10
Nguyễn Trí Minh  20  Thanh Nhơn  10
Viên Nguyện  50  Thiện Minh  50
Diệu Thanh 1  20  Hạnh Thông  30
Huệ Ngọc  20  Diệu Huệ 4  20
Thu Ngọc  50  Vạn Hạnh 100
Trí Anh  50  Diệu Thơm  30
Nguyên Thuần  50  Từ Ngọc  50
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
255
Đức Ngọc  50  Huệ Tịnh 2  20
Hoa Lộc  30  Quách Kim Loan  50
Hạnh Thông  30  Hậu Ngọc  10
Tâm Hoa  100  Audrey  50
Chanel  50  Thanh Tịnh  20
Nguyên Sơn  20  Diệu Quang 20
Quảng yên  20  Viên Hoa  50
Đồng Giỏi  20  Như Lữ  50
__________________________________________________________
100 Câu Hỏi Phật Pháp
256
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Nguyện đem công đức này
Trang Nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có ngươì thấy nghe
Đều phát lòng Bồ Đề
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực Lạc
Nam mô A Di Đà
DELICATION OF MERIT
May the merit and virtue
Accrued from this work
Adorn the Buddha’s Pure Land
Repay the four great kindnesses above
And relieve the suffering of
Those on he three paths below
May those who see or hear of these efforts
Generate Bodhi-Mind
Spend their lives devoted to the Buddha Dharma
The Pure of Ultimate Bliss.
Homage to Amita Buddha
100 CÂU HỎI PHẬT PHÁP
TẬP 1
Biên soạn: Thích Phước Thái
Ấn hành lần thứ nhất
Chùa Quang Minh
2007
SÁCH ẤN TỐNG ĐỂ BIẾU TẶNG
KHÔNG ĐƯỢC BÁN
The book is strictly for free distribution, it is not for sale
Printed by: ALL-VILLA PRINT  Tel: 02 9724 7012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét