Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

kinh phổ môn



                             KINH PHỔ MÔN

Đỉnh lễ Tam Bảo
          Tất thảy cung kính
  Dốc lòng kính lạy Phật Pháp Tăng
Thường ở khắp mười phương.
                             (3 lễ)

Nguyện hương
          Chúng con kính dâng lễ phẩm
Nguyện hương thơm bay tận mười phương
Cúi xin Phật rủ lòng thương
Chứng cho con có tâm hương cúng dàng
Hương cầu Đạo mở mang khắp cõi
Để chúng sinh được khởi Phật tâm.
                                      (1 vái)
Cúng dàng rồi tất cả cung kính.
Dốc lòng kính lạy Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương.
                                                (1 lễ)

Ca ngợi Đức Phật
Ơn Đức Phật sáng soi đuốc tuệ
Đạo cao siêu không thể nghĩ bàn
Hóa thân biến khắp không gian
Giáo lý mầu nhiệm khai quang sáng ngời
Đủ mười phương tiện độ đời cứu kính
Khắp loài phàm, Trời, Thánh, quy y
Tấm lòng hỷ xả từ bi
Cứu khổ, cứu nạn thật vì chúng sinh.
Tám mươi vẻ thân hình tột bậc
Đủ ba hai tướng tốt khác thường
Uy nghi cảm hóa mười phương
Khiến cho các cõi được nương tựa nhờ.
Con bao kiếp mê mờ chính Pháp
Nhờ thiện duyên nay được làm người
Lại may được gặp Phật rồi
Dốc lòng kính lạy xin Ngài xét soi.
Đường Thánh đạo con noi gương sáng
Lấy tâm từ xả oán trừ mê
Nguyện cho chúng sanh cùng về
Cực Lạc thế giới là quê muôn đời.
(Án Phạ Nhật La Vật)    (3 lần) 1 vái

Chắp tay đảnh lễ
1-    Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới quá, hiện vị lai Thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo.
2-    Chí tâm đảnh lễ: Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thfuf Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Họ Pháp Chư Tôn, Linh Sơn Hội Thượng Phật, Bồ Tát.                                                                            (1 lễ)
3-    Chí tâm đảnh lễ: Nam Mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát.
(1 lạy)
Sám hối
          Con nay khắp vì bốn ân ba cõi pháp giới chúng sanh, tất nguyện đoạn trừ tam chướng quy mệnh sám hối.
                                                ( 1 lễ)
Đệ tử chúng đẳng chí tâm sám hối:
Xưa kia con tạo bao nhiêu nghiệp ác
Đều do ba độc: tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý, phát sinh ra
Hết thảy, con nay cầu sám hối
 Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy
Thảy đều tiêu diệt được yên vui
Niệm niệm cùng khắp trong cõi Pháp
Rộng độ chúng sanh chẳng thoái lui.
                                                          (1 vái)
Sám hối phát nguyện  rồi, quy mệnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát cùng khắp bậc Tam Bảo.
                                                                   (3 lễ) 1 vái

Tán hương
Bình tọa ngồi chắp tay tụng

Lư hương vừa bén chiên đàn
Khắp trong cõi Pháp Đạo tràng thơm thay
Hải hội chư Phật đều hay
Theo mây chỗ dâng kết đài mây trong lành
Ân cần giãi tỏ lòng thành
Toàn thân chư Phật hiện hành độ cho
(Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát).
                                      (3 lần) 1 vái

TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN
Án lam, sa ha.                         (7 lần)

VĂN THÙ HỘ THÂN CHÂN NGÔN
Án sỉ lâm, bộ lâm                     (7 lần)

                   ĐẠI PHẬT ĐỈNH THỦ
                   LĂNG NGHIÊM CHÚ
Án A na lệ tỳ sá đề, bệ ra bạt đà ra đà rị, bàn đà, bàn đà lễ, bạt đà ra, bang ni phấn, hổ hấn đô lư úm phấn sa bà ha.                                       (3 lần)

AN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN
Nam mô tam mãn đá một đà nẫm, án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha.
                                                                   (3 lần)
PHẢ CÚNG DÀNG CHÂN NGÔN
Án nga nga nẵng, tam bà phạ phiệt nhật la hộc.                    
                                                          (3 lần)

THIÊN THỦ THIÊN NHÃN VÔ NGẠI ĐẠI BI TÂM ĐÀ LA NI
Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia, Nam mô A rị gia, bà lô yết đế, thước bát ra gia, bồ đề tát đá bà gia, ma ha tát đá bà da, ma ha ca lô ni ca gia. Án tát bàn ra phạt duệ số đát na đát tả. Nam mô tất cát lị đỏa y mông, a lị da, bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì, hê lị ma ha bàn đá sa mế, tát bà A tha đậu thâu bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá na ma bà già, ma phạt đặc đậu, đát điệt tha. Án A bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma la ma la, ma hê ma hê rị đà dựng, cu lô cu lô yết mông, độ lô độ lô phạt sà gia đế, ma ha phạt sà gia đế, đà la đà la, địa lị ni, thất Phật ra gia, giá ra giá ra, mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật, ra xá lị, phạt sa phạt sâm Phật ra sá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê lị, sa ra sa ra, tất lị tất lị, tô lô tô lô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế lị dạ, na ra cẩn trì, địa nị sắt ni na, bà dạ ma na sa bà ha, tất đà dạ sa bà ha, ma ha tất đà dạ sa bà ha, tất đà du nghệ, thất phàn ra gia, sa bà ha, na ra cẩn trì, sa bà ha,na ra na ra, sa bà ha, tất ra tăng a mục già dá a bà ha, sa bà ma ha a tất đà dạ, sa bà ha, giả cát ra a tất đà dạ sa bà ha, ba đà ma yết tất đá dạ, sa bà ha na ra cẩn trì bàn già ra gia, sa bà ha, ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha. Nam mô hát ra đát na đá ra dạ gia, nam mô a rị gia bà lô cát đế thước phàn ra gia sa bà ha, Án tất điện đô mạn dá ra bạt đà da, sa bà ha.
                                                          (3 lần)

NHƯ Ý BẢO LUÂN VƯƠNG ĐÀ LA NI
Nam mô Phật Đà Gia
Nam mô đạt Ma Gia
Nam mô Tăng Già Gia
Nam mô Quán Tự Tah Bồ Tát Ma Ha Tát, cụ  đại bi tâm giả, đát điệt tha, Án chước yết ra phạt để chấn đa mạt ni, ma ha bát đắng mế, rô rô rô rô, để sắt tra, thước ra a yết lị sa dạ, hồng phấn sa ha. Án bất đạp ma, chấn đa mạt ni, thước ra hồng. Án bát lại đà, bát đản mế hồng.

TIÊU TAI CÁT TƯỜNG THẦN CHÚ
Nẵng mồ tam mãn đá mẫu đà nẫm, a bát ra để, hạ đa xá, sa nẵng nẫm, đát điệt tha. Án già già, già hế già hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắt tra, để sắt tra, sắt trí rị, sắt trí rị, sa phấn tra, sa phấn tra, phiến để ca, thất lị duệ, sa phạ ha.

CÔNG ĐỨC BẢO SƠN THẦN CHÚ
Nam mô Phật Đà Gia
Nam mô Đạt  Ma Gia
Nam mô TĂng Già Gia
Án tất đế hộ rô rô, tất dô rô, chỉ rị ba, cát rị bà, tất đạt rị, bá rô rị, sa phạ ha.

PHẬT MẪU CHUẨN ĐỀ THẦN CHÚ
Khể thủ quy y Tô Tất Đế
Đầu diện đỉnh lễ Thất Câu Chi
Ngã kim xưng tán Đại Chuẩn Đề
Duy nguyệ từ bi thùy gia hộ.
Nam mô tát đá nẫm tam diểu tam bồ đà, câu chi nẫm, đát điệt tha, án chiết lệ, chủ lệ Chuẩn Đề sa bà ha.

THÁNH VÔ LƯỢNG THỌ QUYẾT ĐỊNH QUANG MINH VƯƠNG ĐÀ LA NI

Án lại ma ba cát ngõa đế, a ba la mật đạp, a ưu rị a nạp, tô tất lễ, thực chấp đạp, điệp tả ra tể dã, đát tháp nghiệt đạt dã, a ra ha đế, tam dược bất đạt dã, đát lễ dã tháp. Án tát rị ba, tang tư cát rị, bát rị thuật đạp, đạt ra mã đế, nghiệt nghiệt nại tang, mã ngột nghiệt đế, sa boa ngõa tỷ thuật đế, mã hát nại dã, bát rị ngõa rị sa hát.

DƯỢC SƯ QUÁN ĐỈNH CHÂN NGÔN
Nam mô bạc già phạt đế bệ sái xã, lũ rô bệ lưu ly, bát lạt bà, hát ra xà dã. Đát tha yết đa gia, a ra hát đế, tam diểu tam bột đà gia, đát điệt tha, Án bệ sái thệ, bệ sái thệ, bệ sái xã, tam một yết đế sa ha.
QUÁN ÂM LINH CẢM CHÂN NGÔN
Án ma ni bát minh hồng, ma hạt nghê nha nạp, tích đô đặc, ba đạt tích đặc ta nạp, vi đạt rị cát tát, nhi cán nhi tháp, bốc rị tất tháp, cát nạp bổ ra nạp, nạp bấc rị, đâu thắc ban nạp, nại ma lô cát thuyết ra da sa ha.

THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÂN NGÔN
Li bà li bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tỳ lê nễ đế, ma ha già đế, chân năng kiền đế, sa bà ha.

VÃNG SINH TỊNH ĐỘ THẦN CHÚ
Nẵng mồ  A di đá bà giạ, đá tha già đá giạ, đá địa giạ tha, a di lị đô bà tỳ, a di lị đá tất đam bà tỳ, a di lị đá tỳ ca lan đế, a di lị đá tỳ ca lan đá, già di lị già, già na, chỉ đá ca lệ sa bà ha.

          THIỆN THIÊN NỮ CHÚ
Nam mô Phật đà
Nam mô Đạt ma
Nam mô Tăng già.
Nam mô Thất lợi, ma ha đề tỵ gia, đát lễ dã tha, ba lợi phú lâu na giá lợi tam mạn đà đạt xá ni, ma ha tỳ ha la già đế, tam mạn đà tỳ ni già đế, ma ha ca lợi dã, ba nễ bar a ba nễ, tát lị phạ lật tha, tam mạn đà tu bát lê đế, phú lệ na, a lợi na, đạt ma đế ma ha tỳ cổ tất đế, ma ha di lặc đế, lâu bả tăng kỳ đế, hê đế tỷ, tăng kỳ hê đế, tam mạn đà a tha,a nâu bà ra ni.
(nam mô Ly Cấu Địa Bồ Tát Ma Ha Tát)                      (3 lần) 1 vái

NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG CHƯ PHẨM TÔN KINH
Hơn sáu muôn lời bảy quyển vàng,
Bao hàm diệu nghĩa rộng mênh mang,
Đề hồ khắp chốn thuần thơm dịu,
Cam Lộ toàn thân mát nhẹ nhàng.
Ngọc trắng bên răng tuôn xá lợi,
Sen hồng đầu lưỡi phóng hào quang,
Dù cho tạo tội hơn non núi,
Diệu pháp trì chưa tới mấy hàng.
(nam mô Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát)  (3 lần)

KỆ KHAI KINH
Pháp Phật cao sâu rất nhiệm màu,
Muôn đời khó gặp dễ hay đâu,
Con nay nghe thấy xin vâng giữ,
Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâ.,
( Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu  Ni Phật).                            (3 lần)

                   KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA
          PHẨM “ PHỔ MÔN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT”
1-    Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, hở áo vai hữu, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch rằng: “Bạch Đức THế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà gọi tên là Quán Thế  Âm?”
Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát:
Này thiện nam tử! nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu mọi cự khổ não, được nghe Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, rồi dốc lòng xưng danh Quan Thế Âm Bồ Tát, tức thời được Ngài quán xét tiếng phát âm, người ấy đều được giả thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, là do sức uy thần của Bồ Tát vậy.
Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài liền được chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sinh vì sự tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não ,san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu… khi vào trong biển lớn; giả sử bị mây mù, gió dữ thổi, thuyền bè kia trôi dạt vào nước La Sát, trong đónếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì những người ấy đều được thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhân duyên đó mà gọi tên là Quán Thế Âm.
2-    Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của kẻ kia cầm, liền gẫy ra từng đoạn, người ấy được giải thoát.
Nếu trong ba nghìn đại thiên thế giới, đầy rẫy quỷ Dạ Xoa, La Sát muốn đến hại người. Khi nghe người ấy xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì bọn quỷ dữ kia, còn chẳng dám lấy mắt ác nhìn người ấy, huống hồ chi lại làm hại được chăng.
Nếu lại có người hoặc có tội, hoặc vô tội mà bị gong cùm, xiềng xích, trói buộc thân mình, kịp xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các thứ kia thảy đều đứt nát rã, liền được giải thoát.
Nếu trong cõi tam thiên đại thiên đầy dẫy oán tặc, có một người chủ lái buôn, cùng với các người buôn khác, đem theo nhiều của báu, đi qua đường hiểm trở, trong đó có một người xướng lên rằng: “Các thiện nam tử! Đừng nên sợ hãi, các ông phải mau dốc lòng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy hay đem phép Vô Úy ban cho chúng sinh, nếu các ông niệm danh hiệu Ngài, sẽ được thoát khỏi oán tặc này”.Các người lái buôn nghe rồi, đều cất tiếng niệm rằng: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát”. Vì nhờ xưng danh hiệu Ngài nên liền được giải thoát.
3-    Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức uy thần mạnh lớn như thế.
Nếu có chúng sinh nào ham lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa khỏi giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc có sức uy thần lớn như thế, Ngài lại hay làm những việc lợi ích, cho nên chúng sinh thường phải một lòng nhớ niệm.
Nếu có người phụ nữ nào, ví dụ muốn cầu con trai, lễ bái cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh được con trai phúc đức trí tuệ. Ví dụ muốn cầu con gái liền sinh được con gái có tướng đoan trang, vì trước kia đã trồng cội đức, nên mọi người đều kính mến.
4-    Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.
Nếu có chúng sanh nào, cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, thì phúc đức chẳng luống mất, vì thế chúng sanh đều nên thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thụ trì danh tự sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dàng các thứ ăn, uống, áo mặc, giường nằm, thuốc thang! Ý ông nghĩ thế nào? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy có nhiều chăng?
Vô Tận Ý Bồ Tát thưa:” Bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều”. Đức Phật nói: Nếu lại có người thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ bái cúng dàng, thì phúc đức của hai người ấy bằng nhau không khác, dù trong năm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Người thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích thế đấy”
5-       Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Tại Sa Bà này? Và tại sao Ngài vì chúng sanh nói Pháp cùng sức phương tiện việc đó thế nào?
Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát! Này thiện nam tử! Nếu có chúng sanh  ở cõi nước nào, ưng hợp thân Phật để độ được, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Bích Chi Phật để độ được, liền hiện thân Bích Chi Phật vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Thanh Văn để độ được, liền hiện thân Thanh Văn vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Phạm Vương để dộ được, liền hiện thân Phạm Vương vì đó mà nói Pháp.
Ưng hợp thân Đế Thích để độ được, liền hiện thân Đế Thích vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Tự Tại Thiên để độ được, liền hiện thân Tự Tại Thiên vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Đại Tự Tại Thiên để độ được, liền hiện thân Đại  Tự Tại Thiên vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Thiên Đại Tướng Quân để độ được, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Tỳ Sa Môn để độ được, liền hiện thân Tỳ Sa Môn vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Tiểu Vương để độ được, liền hiện thân Tiểu Vương vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Trưởng Giả để độ được, liền hiện thân Trưởng Giả để độ được, liền hiện thân Trưởng Giả vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Cư Sĩ để độ được, liền hiện thân Cư Sĩ vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Tể Quan để độ được, liền hiện thân Tể Quan vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Bà La Môn để được, liền hiện thân Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di để đọ được, liền hiện thân Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân phụ nữ, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn để độ được, liền hiện thân phụ nữ vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân đồng nam, đồng nữ, để độ được, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân và phi nhân để độ được, liền hiện ra vì đó mà nói Pháp.
- Ưng hợp thân Chấp Kim Cương Thần để độ được, liền hiện thân Chấp Kim Cương Thần vì đó mà nói Pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát thành tựu công đức như thế, đã dung các thân hình, dạo đi các cõi nước, để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vì Đại Bồ Tát Quán Thế Âm đối với chúng sanh trong khi gặp nạn nguy cấp, sợ hãi, Ngài hay ban cho phép không lo sợ, cho nên cõi Sa Bà này đều được gọi Ngài là bậc “Thí Vô Úy”.
6-  Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: “Bạc Đức Thế Tôn! Con nay xin cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát”. Liền cởi chuỗi ngọc bằng các châu  báu, ở nơi cổ, giá trị trăm nghìn lạng vàng, trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát mà nói rằng: “Xin Ngài nhận  chuỗi ngọc trân bảo Pháp thí này”.
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát không nhận. Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế  Âm Bồ Tát: “Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này”
Bấy giờ Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: “Ông nên thương Vô Tậm Ý Bồ Tát đây và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân và phi Nhân…Mà nhận lấy cuỗi ngọc đó”.
Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát vì thương hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Nhân và phi Nhân…Mà nhận lấy chuỗi ngọc, chia làm hai Phần: Một phần dâng lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni; một phần dâng tháp Đức Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát, có sức thần tự tại như thế, dạo đi khắp cõi Sa BÀ.
Lúc đó Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát đọc kệ hỏi Đức Phật rằng:
Thế Tôn đủ tướng tốt,
Con nay lại xin hỏi,
Phật tử nhân duyên gì,
Tên là Quán Thế Âm!
Đấng đầy đủ tướng tốt.
Kệ đáp Vô Tận Ý:
Ông nghe hạnh Quán Âm,
Khéo ứng các nơi chốn,
Nguyện rộng sâu như biển,
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn,
Hầu nhiều nghìn ức Phật,
Phát nguyện lớn thanh tịnh.
Ta vì ông nói qua,
Nghe tên cùng thấy thân,
Tâm niệm luống không qua
Hay diệt mọi nỗi khổ.
Dù ai khởi ý hại,
Xô xuống hầm lửa lớn,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn,
Các nạn Quỷ, Cá, Rồng,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Song cồn không dìm được.
Hoặc ở đỉnh Tu Di,
Bị người xô rơi xuống,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Như mặt trời lơ lửng.
Hoặc bị người ác đuổi,
Ngã xuống núi Kim Cương,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Không mảy may xây xát.
Hoặc bị oán giặc vây ,
Dẫu cầm dao toan hại,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng đều khởi lòng lành.
Hoặc khổ nạn vì Vua,
Khi hành hình chịu chết,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc cầm tù, xiềng xích,
Tay chân bị gong cùm,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Bỗng nhiên được giải thoát.
Nguyền rủa và thuốc độc,
Muốn làm hại thân ấy,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Thân ấy hoàn ổn định.
Hoặc gặp bọ La Sát,
Rồng độc các quỷ dữ,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Thời đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh,
Nah vuốt nhọn đáng sợ,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Chúng vội vàng chạy thẳng.
Rắn độc và bọ cạp,
Hơi độc, khói, lửa đốt,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Nghe tiếng tự thoái, tán.
Mây, chớp giật, sấm sét,
Mưa đá tuôn hạt lớn,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Liền trời quang mây tạnh.
Chúng sanh bị khốn ách,
Vô lượng khổ bức thân,
Quán Âm sức trí diệu,
Hay cứu đời thoát khổ.
Đầy đủ sức thần thông,
Rộng tu trí phương tiện,
Các cỗi nước mười phương,
Đều hiện thân tất cả.
Mọi loài khắp đường ác,
Địa ngục, quỷ, súc sinh,
Khổ, già, bệnh, chết,
Dần dần đều dứt sạch.
Chân quán thanh tịnh quán,
Trí tuệ quán rộng lớn,
Bi quan và từ quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng.
Sáng thanh tịnh không nhơ,
Tuệ nhật phá tăm tối,
Hay dẹp nạn gió lửa,
Soi sáng khắp thế gian.
Bi thể răn như sấm,
Từ ý diệu như mây,
Mưa tuôn Pháp Cam Lộ,
Diệt trừ lửa phiền não.
Kiện tụng đến cửa quan,
Trong quân trận sợ hãi,
Nhờ sức niệm Quán Âm,
Oán thù tiêu tán hết.
Diệu Âm, Quán Thế Âm,
Phạm Âm, Hải Triều Âm,
Hơn tiếng thế gian kia,
Vì thế nên thuowngf niệm.
Niệm niệm chớ sinh nghi,
Quán Âm bặc Tịnh Thánh,
Hay làm nơi nương tựa,
Cho nạn chết khổ não,
Đủ hết thảy công đức.
Mắt từ nhìn chúng sanh,
Phúc tụ lớn như biển,
Cho nên cần đỉnh lễ.
Bấy giờ Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, đén trước Phật bạch rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát, đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thì phải biết công đức của người ấy, chẳng phải là ít”.
Khi Phật nói phẩm Phổ môn rồi, trong chúng có tạm vạn bốn nghìn chúng sanh, đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm” Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát”.
                                                              (1 vái)
                       CHÂN NGÔN VIẾT

Án đá lị, đá lị, đốt đá lị, đốt đốt đá lị, sa ha                       (3 lần)

              LỤC TỰ ĐẠI MINH CHÂN NGÔN

Án ma ni bát minh hồng                       (21 lần)

              TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này ông  Xá Lợi Tử! Tướng không của mọi pháp không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không them, không bớt; cho nên trong chân không, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh; cho cả cái già, chết, cũng không có cái hết già, chết; không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo, không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc, vì không chỗ chứng đắc.
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cung kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát Nhã Ba La Mật Đa mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần chú, là Đại Minh chú, là Vô Thượng chú, là Vô Đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.
  Vì vậy nói ra bài chú Bát Nhã Ba La Mật Đa. Liền nói bài chú rằng: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha, ma ha Bát Nhã ba La Mật Đa”.
                                                                   (3 lần)

Văn sám hối hồi hướng tụng kinh
Chúng đệ tử nặng nề nghiệp chướng,
Thân tâm thường vọng tưởng bời bời,
Bỗng nhiên nghĩ ngợi khắp nơi,
Xem văn mờ ý đầy cơi chất chồng.
Nhầm chữ nghĩa trái âm trong đục,
Đọc lẫn dòng lại tụng sai câu,
Lệ vào tà kiến không đâu,
Hoặc khi quẫn trí ngồi lâu lơ là.
Đương tụng niệm bỏ ra đi lại,
Nói chuyện riêng trễ nải linh tinh,
Tâm thời chẳng để vào kinh,
Ai mà nhắc nhở lại sinh giận hờn.
Nơi kính cẩn thường luôn cẩu thả,
Chốn tịnh nghiêm vương cả bụi nhơ,
Thân hình nghiêng ngó láo lơ,
Xốc xếch áo, mũ, dép dơ vứt bừa.
Kinh sách mở cấu cưa rách nát,
Tụng chẳng đều ào ạt cho xong,
Hương cắm xiêu vẹo chất chồng,
Lễ lạy đại khái cúng dâng chẳng thành.
Thật hổ thẹn việc hành đáng sợ,
Con cầu xin sám rửa lỗi lầm,
Từ bi thương xót phàm trần u minh.
Khiến công đức tụng kinh kết quả,
Được vẹn tròn hết cả ưu tư,
Hồi hướng tâm nguyện e như,
Hoặc khi dịch thuật dễ dư lỗi lầm.
Hoặc chú giải vô tâm thiếu sót,
Truyền thụ sai chẳng lọt thích âm,
Những lỗi in, cắt, viết nhầm,
Lại lỗi ghi, chép, ôm, cầm đổi thay.
Dù thầy, thợ con nay sám hối,
Nhờ sức thần tội lỗi tiêu tan,
Xe Pháp thường chuyển thế gian,
Hàm linh cứu vớt sinh sang Liên Trì.
Nguyện công đức chuyên vì tụng niệm,
Hồi hướng về chư thiện Thánh Hiền,
Già Lam, Hộ Pháp, Long Thiên,
Ba cõi song núi linh thiêng Tôn Thần.
Cầu xin được phúc nhân thụ hưởng,
Đạo Bồ Đề thẳng hướng không sai,
Nguyện cho chúng sinh mội mai,
Cùng vào Bể Tính Như lai Pháp mầu.

Kệ niệm Bồ Tát Quán Âm
Ngài Bồ Tát Quán Âm Đại Sỹ,
Danh hiệu là Giáo Chủ Viên Thông.
Mười hai nguyện lớn vô cùng,
Bến mê, bể khổ mở lòng cứu nhân.
Ứng theo tiếng nhất tâm cầu khẩn,
Liền hiện thân độ tận khắp nơi.
Hay ban Vô Úy tức thời,
Nghìn tay, nghìn mắt đời đời độ sinh.
Nam mô Viên Thông Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi, tầm thanh cứu khổ cứu , cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
                                                                   (3 lần) 1 vái
 Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát.                        (3 tràng) 1 vái
Giải kết, giải kết, giải oan kết
Nghiệp chướng bao đời đều giả hết
Rửa sạch lòng trần phát tâm thành
Nay trước Phật tiền cầu giải kết,
Giải kết, giải kết, giải oan kết,
Oan trái nghiệp xưa đều giải hết,
Trăm nghìn vạn kiếp giải oan thù,
Vô lượng vô biên được giải thoát.
Giải hết oan gia diệt hết tội,
Nguyện được vãng sinh Liên Trì hội,
Liên Trì hội lớn nguyện tương phùng,
Vô lượng Bồ Đề quyết chẳng lui.
Án Sỉ Lâm, Án Bộ Lâm diệt,
Kim tra, kim tra, tăng kim tra,
Ngô kim vị nhữ giải kim tra,
Chung bất dữ nhữ kết kim tra.
Án cường trung cường, cát trung cát,
Ma ha hội lý hữu thù luật,
Hết thảy oan gia lìa thân mình,
Trid tuệ mênh mông lên bờ Giác.
(nam mô giải oan kết Bồ Tát Ma Ha Tát).                               (3 lần) 1 vái

Quỳ gối chắp tay lễ tạ
1-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hiệu là Viên Thông; danh là Tự Tại, Ngài rộng lớn phát lời thệ nguyện.
(1 lễ)
2-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai đã dốc một lòng không quản ngại, Ngài thường ở nơi biển Nam độ nguyện.                        (1 lễ)
3-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trụ Sa Bà u minh cõi, nghe tiếng kêu cầu, Ngài liền cứu khổ nguyện.                                      (1 lễ)
4-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hàng tà ma trừ yêu quái, Ngài hay diệt những nỗi nguy hiểm  độ nguyện.                     (1 lễ)
5-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai cầm bình thanh tịnh cành dương liễu , tâm được ngài rưới Cam Lộ độ nguyện                    (1 lễ)
6-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai đại từ bi năng hỷ xả, Ngài thường thực hành sự bình đẳng độ nguyện.                                (1 lễ)
7-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trải ngày đêm không hề tổn hại, Ngài thệ diệt hết nạn Tam Đồ nguyện                                (1 lễ)
8-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hướng lên núi Nam cầu lễ bái giải thoát gong cùm xiềng xích độ nguyện.                       (1 lễ)
9-    Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai tạo nên thuyền Pháp bơi qua biển khổ, Nìa cứu hết chúng sinh độ nguyện.                      (1 lễ)
10-                       Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trước có Tràng phan, sau bảo cái, Ngài tiếp dẫn sang Tây Phương độ nguyện.                     (1 lễ)
11-                       Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai ở cảnh giới Phật Vô Lượng Thọ, Ngìa được Phật Di Đà thụ ký nguyện.                        (1 lễ)
12-                       Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai thân đoan nghiêm, không ai sánh kịp, quyết tu vẹn tròn mười hai đại nguyện.                    (1 lễ)



PHỤC NGUYỆN
          Chắp tay đọc
Nam mooA Di Đà Phật.
Hiện tiền đệ tử chúng con đọc tụng Đại Thừa Kinh, chú cùng lễ Phật, niệm Phật nguyện đem công đức này chuyên vì hồi hướng tây Phương trang nghiêm Tịnh Độ.
Nguyện từ vô thủy kiếp đến nay, tất cả kẻ oán người thân, Tổ bảy đời, Tổ lâu đời, rồi đời nay hoặc nhiều đời, các vị Thầy và chư Tăng, Cha, Mẹ, rộng đến mười phương cõi Pháp hết thảy chúng sinh, các bậc thiện tri thức, kẻ ác tám nạn ba đường khổ cho đến cỏ cây, công trùng, loài trứng sinh, thai nhi, thấp sinh, hóa sinh; hoặc vô tình giết hay cố tình, tất cả vạn loại.
Nguyện giải hết thảy mọi oan khiên, tiêu hết thảy mọi tội nghiệp, cùng chứng đạo Bồ Đề, cùng sinh về Cực Lạc.                                (1 lễ)
1-    Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư thích Ca Mâu Ni Phật.       (1 lễ)
2-    Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật                                                                   (1 lễ)
3-    Nam mô Liên Trì Hải Hội, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát.                       (1 lễ)

Tam tự quy
1-    Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh thấu hiểu đạo lớn, phát tâm vô thượng.                                                       (1 lễ)
2-    Con quy y Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh không thuộc Kinh Tạng, trí tuệ như biển.                                      (1 lễ)
3-    Con quy y Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh hòa hợp đại chúng, hết thảy không ngại.                                       (1 lễ)

LẠY CHỨ THÁNH HIỀN
Nguyện đem công đức này,
Hồi hướng về khắp cả,
Đệ tử và chúng sinh,
Đều trọn thành Phật Đạo.                                    (1 lễ)

                             VĂN CẦU AN
Chủ sám hối đọc: nam mô Quán Thế Âm Bồ  Tát
Hiện tiền Đệ tử ( chúng đẳng) chí tâm khẩn nguyện
Quán Âm thị hiện, thuyết pháp độ sinh
Gặp nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ
Bồ tát gia hộ, Đề tử ( chúng con)
Phúng tụng Đại Thừa Pháp Bảo Tôn Kinh
Cập lễ Phật, niệm phật. công đức chuyên vì cầu an giải hạn cho:…
(gia đình tín chủ, hay bệnh nhân, nạn nhân…) là ………..ở nhà số……tổ…….phường………..thị…………..tỉnh …………nước Việt Nam( hoặc đang điều trị tại…………………………………)

Đại chúng hòa: nguyện đem giải hết thảy tai ương nạn, ách, tật chướng, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, tận tiêu trừ, phúc thọ tăng duyên, bình yên gia cảnh, khỏe mạnh vui tươi, hết thảy mọi người, thân tâm an lạc.
 Nam mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát
                                                                                                                                                                                                                             (3 lần) 1 vái
 (Nếu muốn cầu siêu sau khi đọc xong văn cầu an, thì đọc tiếp văn dưới đâyJ
Chủ sám đọc: công đức lại vì hồi hướng (chư) hương linh (đẳng):
Nay có gia đình tín chủ là:……….cùng hết thảy con cháu ở nhà số……..tổ……….phường………..thị………..tỉnh………..
Nguyện cầu siêu độ cho vong hồn (bố hay mẹ…) là………chân linh. Mệnh vong ngày…tháng…năm……Phần mộ nay táng tại nghĩa trang…. Và khắp nội ngoại tiên linh.

Đại chúng hòa: Nguyện chư linh đẳng giải oan khiên
Tội chướng tiêu trừ tăng phúc duyên
Bát nạn Tam Đồ mau  giải thoát
Cùng sinh Tịnh Độ được an nhiên.
Nam mô sinh Tịnh Độ Bồ Tát Ma Ha Tát.
                                                                                      (3 lần) 1 vái
                   TUYÊN BIỂU
Thượng lai tụng Kinh, dĩ tất kim hữu Biểu Văn hợp thành tuyên đọc.
Tuân phụng Như Lai, thần tuân phụng Thích Ca Như Lai di Giáo. Đệ tử:…Thần, thành hoàng, thành khủng, khể thủ, khấu thủ, đại vì chúng nhân, bách bái, trần từ tuyên bạch thướng ngôn.
                             PHỤC DĨ

Chúng sinh khổ nạn, ắt kêu cầu Bồ Tát Quán Thế Âm.
Đệ tử chí thành, xin cung kính cúng dàng Thí Vô Úy.
Hiện thân biến bá, nghe bi âm tức đến cưu mang
Diệu tướng trang nghiêm, thấy Kim Điện đem tâm tín ngưỡng.
Quán thông tam giới, câu thệ nghuyện tựa bể nam
Tận độ tứ sinh, lòng bi mẫn cao tầy non Thứu.
Nhờ sức Đại Hùng, Đại Lực gột rửa oan khiên
Cộng tâm Đại Trí, Đại Bi giải trừ não chướng.
Duyên nay có tại Nước Việt Nam….Tỉnh….Thị…..Phường.Tổ….số nhà….Chúng con là………….Rửa lòng thanh tịnh, phát tâm vô ngại, kính cẩn cúi đầu đính lễ……thiên, cúng dàng chư Phật, chư Đại Bồ Tát chư Thánh Hiền chúng nhất tâm phúng tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Phổ Môn, xướng lễ Hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu cho …………………….hết thảy mọi người thân thuộc, oán thân đều trượng uy quang, cùng hưởng chữ thân tâm an lạc.

                                      NGỬA TRÔNG

Từ quang sáng láng, cứu chúng sinh thoát khỏi đường mê
Phạm tướng nguy nga, tiếp đệ tử rời nơi nhà tối.

                                      KÍNH DÂNG
          NAM MÔ Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Hồng Liên tọa hạ.
Bản Tự Thập Bát Long Thần Già Lam chân tể vị tiền.

                                                KÍNH MONG
Mười hai nguyện vương, tầm thanh cứu khổ độ khỏi luân hồi
Ba ngàn hóa Phật, phổ phóng từ quang cứu người hạn ách.
                                      ĐỘ CHO CHÚNG CON
Dù kiếp trước trot làm việc ác, nhờ công duyên sớm được sạch làu
Đến đời này đã biết sự lành, trượng
Kinh sám mau cùng hưởng thụ.
Mây Đại Vân vẩy mưa Pháp thấm nhuần
Vừng nhật tuệ ánh Đạo Vàng sáng láng.

                                      LẠI NGUYỆN    
Bình Tịnh Thủy sái đàn tràng thanh tịnh, tâm thiện nêu cao
Nước Dương chỉ rửa sạch chốn trần lao, lòng thành hiện tỏ.
Viên Thông Giáo Chủ, phù hộ độ cho quốc thái dân yên
Cứu khổ Hùng Sư, linh cảm được nhân phong vật thụ.
Bậc Bồ Tát Từ Bi Hỉ, Xả, độ chúng con kiến tính minh tâm
Đức Như Lai thệ nguyện hoàng thâm, dắt đệ tử me mà biết sáng.
Cần cầu lễ bía già tỏa giải trừ
Vô Tỷ Đoan Nghiêm, quả tu thành tựu.
Phẩm Phổ Môn một biến chu viên
Chú Minh Tâm bảy câu thành khẩn.
Giới Định Hương một triện kính dâng
Hồng danh niệm ba tràng công đức.
Giãi tấm lòng thành Biểu Văn Đại tấu.
Biểu Văn tuyên lại…..
Ngày….tháng….năm…..
Đệ tử chúng con chí thành bái lạy kính dâng
Thượng lai Văn Biểu tuyên đọc dĩ chu, kim đối Tam Bảo tiền, phụng bằng hỏa hóa.
Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát.
                                                                                                (3 lần) 1 vái

Hóa biểu: Thượng lai văn biểu tuyên đọc dĩ chu biểu đối Tam Bảo tiền phụng bằng hỏa hóa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét