Thứ Hai, 28 tháng 11, 2016

kinh nhân quả ba đời

 



Kinh Nhân Quả Ba Ðời









Việt Dịch: HT Thích Thiền Tâm

Nhà Xuất Bản Tôn Giáo Hà Nội.
PL. 2549 – DL.2005
 1



















 2

Mục Lục
Lời Nói Đầu --------------------------------------------------------- 3
Phần I  ----------------------------------------------------------------- 5
Kinh Phật Nói Nhân Quả Ba Đời  --------------------------------- 5
Phần II  --------------------------------------------------------------- 17
Một Số Câu Chuyện Về Nhân Quả  ------------------------------ 17
1/ Mạnh Phu Nhân: --------------------------------------------- 17
2/ Lai Tinh Hải: ------------------------------------------------- 18
3/Hạ Phùng Thánh: --------------------------------------------- 20
4/ Chuyện Vị Lão Tăng ---------------------------------------- 22
5/ Thái Thú Họ Ngưu:  ------------------------------------------ 24
6/ Giết Dê Hại Vợ:  ---------------------------------------------- 26
7/ Phạm Dâm Trả Quả:  ----------------------------------------- 26
8/ Bất Hiếu Đọa Làm Heo:  ------------------------------------- 27
9/ Vùi Trong Bếp Lửa: ----------------------------------------- 28






 3

Lời Nói Đầu
Thuở  xưa,  có  người  đến  hỏi  một  vị  Thiền  sư:
"Bậc tu hành đã ngộ lý Chân Không, có lạc vào vòng
Nhân  quả  đặng?"  Thiền  sư  đáp:  "Bậc  đại  tu  hành
chẳng lạc vào vòng Nhân quả". 
Vì  câu  trả  lời  này mà  khiến  cho Thiền  sư  phải
đọa  làm  kiếp  chồn  năm  trăm  năm,  sau  gặp  ngài  Bá
Trượng mới được giải thoát. 
Cũng do câu chuyện trên đây, nên các vị cổ đức
khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh
nói về Nhân quả tội phước, chú trọng phần giới hạnh,
cùng hiểu biết sự Luân hồi trong ba cõi sáu đường, sau
mới  nghiên  cứu  qua  kinh  cao. Nếu  trái  thứ  tự,  bước
đầu  tiên  đọc  những  kinh  như: Kim  Cang,  Pháp  Bảo
Đàn... nếu không phải  là người có nhiều căn  lành,  tất
dễ  sinh  lòng  khinh  mạn  và  lạc  vào  lối  chấp  không.
Thật  ra, Nhân quả không phải  là chuyện  thấp nhỏ, vì
từ  chúng  sinh  đọa  tam  đồ  cho  đến  chư  Phật  thành
Chánh  giác  đều  không  ngoài  Nhân  quả.  Do  sự  kiện
trên bút giả mới phiên dịch quyển kinh này. 
Vì kinh Nhân quả nói  tóm  tắt không mấy  trang
nên bút giả lại phụ thêm một ít câu chuyện tạm gọi là
"Nhân quả Luân hồi Tạp Lục".  4

Về việc Luân hồi Nhân quả ở Việt Nam  ta cũng
có nhiều, tiếc vì không ai ghi chép thành sách, nên tản
mác đi. Vì  thế, bút giả đành  tìm dịch các câu chuyện
bên Trung Hoa, và những việc này đều có thật. 
Cái  thông  bệnh  của  người  tu  Phật,  là  hay  luận
huyền  nói  diệu,  mà  việc  thường  nhỏ  lại  ít  khi  làm
được. Nhớ lại hồi xưa sư cụ Khánh Hòa còn tại thế, có
một Phật  tử  hỏi  về  đạo  lý  "vô  thỉ  vô  chung". Sư Cụ
mỉm cười đáp: "Hỏi chi xa vời vậy? Gắng ăn chay và
niệm Phật cho đều đều  là  tốt  lắm rồi!" Đại để, người
đã  lăn  lội  trong  nhiều  giáo  điển,  lại  không muốn  nói
diệu  huyền mà  chỉ  chú  trọng  đến  sự  thật  hành  thông
thường, là như thế. 
Kinh  Hoa  Nghiêm  nói:  "Lòng  tin  là  bước  đầu
của đạo, và mẹ của tất cả công đức". 
Mong  những vị  hữu  duyên, khi  xem  đến  quyển
sách  này,  bắt  đầu  tu  niệm  tin  có  tội  phước  báo  ứng,
việc chuyển kiếp Luân hồi, cùng sự linh hiển của Phật
Pháp.  Do  đó,  lần  lượt  tiếp  tục  xem  những  kinh  cao
hơn. Chừng ấy, lẽ không không sắc sắc, đường thị thị
phi phi, sẽ hỏi Phật đà mà tỉnh ngộ. 
Mùa An Cư Năm Canh Tuất 
Thích Thiền Tâm 
****** 5

Phần I
Kinh Phật Nói Nhân Quả Ba Đời
Một  hôm,  Tôn  giả A Nan Đà,  ở  trên  hội  Linh
Sơn  cùng  với  một  ngàn  hai  trăm  năm  mươi  đại  Tỳ
kheo câu hội. Khi ấy A Nan Đà Tôn giả, chắp tay đảnh
lễ Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi quỳ xuống thưa thỉnh
đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn rằng: 
- Bạch Thế Tôn! Đến thời Mạt pháp, tất cả chúng
sinh  ở  cõi  Nam  Diêm  Phù  Đề,  nhiều  kẻ  sinh  niệm
chẳng lành, không kính Tam bảo, không trọng cha mẹ,
không  có  tam  cang. Năm  giềng  rối  loạn,  nghèo  khó,
thấp  hèn,  sáu  căn  chẳng  đủ,  trọn  ngày  sát  sinh  hại
mạng cho đến nghèo giàu sang hèn không đồng nhau.
Do nhân duyên quả báo gì khiến nên như thế? 
Cúi  xin  đức  Thế  Tôn  từ  bi,  vì  chúng  con  giải
thích mọi sự việc. 
Phật bảo A Nan cùng các đại đệ tử: 
- Lành thay! Lành thay! Các ông hãy lắng nghe!
Ta sẽ vì các ông mà giải thích rành rẽ. 
Tất  cả  nam  nữ  ở  thế  gian  giàu  sang  hay  nghèo
hèn,  chịu  khổ  vô  cùng  hoặc  hưởng  phước  vô  lượng
đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo. Cho
nên tất cả chúng sinh, trước phải hiếu kính cha mẹ, kế 6

đó phải tin trọng ngôi Tam bảo, thứ ba nên bỏ giới sát
mà phóng sinh, và thứ tư cần ăn chay bố thí mới có thể
gieo giống ruộng phước về sau. 
Phật liền nói bài kệ Nhân quả rằng: 
Giàu sang đều bởi mạng 
Đời trước có tu nhân 
Ai thọ trì kinh này, 
Đời đời hưởng phước lộc. 
Thiện nam, tín nữ nghe ta nói: 
Suy nhớ kinh Nhân quả ba đời 
Nhân quả ba đời việc chẳng nhỏ, 
Phật nói lời Phật chớ chê khinh. 

1. Đời nay làm quan do nhân gì? 
Kiếp trước vàng ròng thếp tượng Phật 
Đời nay hưởng phước bởi nhân xưa 
Đai vàng, áo tía, cầu nơi Phật. 
Vàng trang nghiêm Phật, trang nghiêm mình. 
Làm đẹp Như Lai, đẹp tự thân. 
Đừng bảo làm quan là chuyện dễ,  7

Không tu phước ấy đến từ đâu? 

2. Cưỡi ngựa, ngồi kiệu do nhân gì? 
Kiếp trước làm cầu, bồi đắp lộ. 

3. Do nhân duyên gì mặc gấm vóc? 
Đời trước thí áo giúp Tăng Ni. 

4. Có ăn, có mặc do nhân gì? 
Xưa giúp kẻ nghèo cho ăn uống. 

5. Ăn mặc thiếu thốn bởi nhân chi? 
Kiếp trước một nửa không xả thí. 

6. Lầu cao nhà lớn do nhân gì? 
Xưa lên chùa am cúng thí gạo. 

7. Phước lộc đầy đủ cho nhân gì?  8

Xưa lập chùa am cất nhà mát
1
 
 
8. Tướng mạo xinh đẹp do nhân gì? 
Đời trước hoa tươi cúng dường Phật. 

9. Thông minh trí tuệ do nhân gì? 
Kiếp trước ăn chay, thường niệm Phật. 

10. Người thấy vui mừng do nhân gì? 
Xưa kết duyên lành cùng đại chúng. 

11. Chồng vợ bền lâu do nhân gì? 
Đời trước tràng phan nghiêm cúng Phật. 

12. Cha mẹ song toàn do nhân gì? 
Đời trước kính trọng người cô độc. 

                                                  
1
 Nhà dưỡng Lão, cô nhi 
 9

13. Không cha mất mẹ do nhân gì? 
Kiếp trước là người đánh bẫy chim. 

14. Con cháu đông nhiều do nhân gì? 
Đời trước mở lồng thả chim thú. 

15. Nuôi con không được do nhân gì? 
Xưa sinh con gái dìm cho chết?2
 

16. Đời nay không con do nhân gì? 
Kiếp trước bẻ gãy hại trăm hoa. 

17. Đời nay sống lâu do nhân gì? 
Kiếp trước mua vật phóng sinh nhiều. 

18. Đời nay mạng yểu do nhân gì? 
Kiếp trước xẻ thịt giết chúng sinh. 
                                                  
2
Thuở  xưa  từ Ấn Độ,  cho đến Trung Hoa,  những nhà nghèo
sinh con nhiều nuôi không kham nên dìm cho chết bớt con gái
lúc mới sinh ra. 
  10


19. Đời nay không vợ do nhân gì? 
Kiếp trước tham mưu gian vợ người. 

20. Đời nay ở góa do nhân gì? 
Kiếp trước buông lung khinh rẻ chồng. 

21. Làm thân tôi đòi do nhân gì? 
Kiếp trước quên ơn cùng phụ nghĩa. 

22. Đời nay mắt sáng do nhân gì? 
Kiếp trước cúng dầu đốt đèn Phật. 

23. Đời nay đui mù do nhân gì? 
Kiếp trước chỉ đường chẳng phân minh. 

24. Môi miệng sứt thiếu do nhân gì? 
Kiếp trước thổi tắt đèn cúng Phật. 
 11

25. Đời nay câm điếc do nhân gì? 
Xưa từng ác khẩu mắng cha mẹ. 

26. Đời nay lưng gù cho nhân gì? 
Kiếp trước chê cười người lễ Phật. 

27. Tay bị cong quẹo do nhân gì? 
Đời trước đều là người tạo nghiệp. 

28. Chân bị co rút do nhân gì? 
Kiếp trước ngăn đường đánh cướp người. 

29. Làm thân trâu ngựa do nhân gì? 
Xưa thiếu nợ người không chịu trả. 

30. Đọa làm heo chó do nhân gì? 
Kiếp trước lừa gạt phỉnh hại người. 

31. Đời nay nhiều bệnh do nhân gì?  12

Xưa đem rượu thịt bày cúng Phật. 

32. Đời nay không bệnh do nhân gì? 
Xưa thí thuốc men cứu bệnh nhân. 

33. Hằng bị lao tù do nhân gì? 
Kiếp trước làm ác chẳng nhượng người. 

34. Đời nay chết đói do nhân gì? 
Kiếp trước thường lấp hang rắn chuột 

35. Bị thuốc độc chết do nhân gì? 
Kiếp trước đăng lưới giết hại cá. 

36. Nổi trôi cơ khổ do nhân gì? 
Ác tâm lấn hiếp mưu hại người. 

37. Đời nay lùn bé do nhân gì?  13

Kiếp trước xem kinh để dưới đất
3


38. Nay thường thổ huyết do nhân gì? 
Xưa ăn thịt rồi đi tụng kinh4

39. Đời nay ngu điếc do nhân gì? 
Kiếp trước tụng kinh chẳng lắng nghe. 

40. Ghẻ lác phong điên do nhân gì? 
Xông hơi thịt cá trước bàn Phật. 

41. Thân có mùi hôi do nhân gì? 
Xưa bán hương thơm trọn dối gian. 

                                                  
3
 Ngồi dưới đất xem kinh, nên để kinh  trên một cái kệ, khinh
mạn cũng là nhân của tướng lùn bé. Lễ Phật, khiêm hạ là nhân
của tướng cao hơn. 

4
Ăn  mặn  rồi  muốn  tụng  kinh,  phải  súc  miệng  rửa  tay,  rửa
miệng sạch, và tụng chú như sau, tất được thanh tịnh không tội
lỗi: Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Um Soa Pha Va Suýt Đà, sạt
và đạt ma,  soa phạ va  suýt đa hàm  (7 biến) Aum!  Syabhava
sudaha, sarva drama svabhava suddhà hàma. 
 14

42. Đời nay chết treo do nhân gì? 
Kiếp trước đem dây săn bẫy thú. 

43. Quan, quả, cô độc do nhân gì? 
Xưa thường ganh ghét hiềm mắng người. 

44. Sét đánh lửa thiêu do nhân gì? 
Cân non, già, thiếu lòng gian xảo. 
45. Rắn cắn cọp ăn do nhân gì? 
Kiếp trước gây oan tạo đối đầu. 
Muôn việc mình làm lại mình chịu 
Thọ khổ Địa ngục oán trách ai? 
Đừng nói Nhân quả người không thấy. 
Xa trả con cháu, gần trả mình. 

46. Chỉ nhìn trước mắt người hưởng phước. 
Sẽ tin bố thí với trì trai. 
Kiếp trước tu nhân nay hưởng quả. 
Đời này tu tích để về sau.  15

Nếu ai hủy báng kinh Nhân quả 
Kiếp sau đọa lạc mất thân người. 
Kẻ nào thọ trì kinh Nhân quả. 
Chư Phật, Bồ tát đều chứng minh. 
Kẻ nào biên chép kinh Nhân quả, 
Truyền đời tu học đạo nhà hưng. 
Ai mà mang đội kinh Nhân quả, 
Tai hung hoạnh họa chẳng vào thân. 
Nếu người giản nói kinh Nhân quả 
Đời đời kiếp kiếp được thông minh 
Kẻ nào đề xướng kinh Nhân quả 
Đời sau người thấy sinh cung kính. 
Người nào ấn tống kinh Nhân quả. 
Kiếp sau sẽ được thân Đế Vương. 
Theo Kinh Nhân quả hỏi đời trước. 
Chính sự thọ hưởng của đời nay. 
Theo Kinh Nhân quả hỏi đời sau. 
Chính sự gây nhân của kiếp này, 
Nếu như Nhân quả không cảm ứng,  16

Do đâu Mục Liên cứu được mẹ? 
Người nào tin sâu kinh Nhân quả. 
Đồng sinh Tây phương cõi Cực lạc. 
Nhân quả ba đời nói không hết. 
Thiên long chẳng bỏ ý người lành. 
Nên ngôi Tam bảo ruộng phước lớn, 
Nhân tu tuy một, hưởng muôn ngàn. 
Gởi kho bền chắc không hư mất
5

Nhiều đời thọ dụng phước vô cùng. 
Muốn biết nhân đời trước, 
Xem sự hưởng đời nay, 
Muốn biết quả đời sau, 
Xem việc làm kiếp này. 
(Chung)
******
                                                  
5
 Gởi kho đây không phải đốt giấy tiền vàng bạc gởi vào kho,
mà ý nói tiền của thế gian không bền, khi chết rồi phải bỏ lại
tất  cả.  Chỉ  có  tu  phước  làm  lành  ăn  chay,  tụng  kinh,  tham
thiền, niệm Phật, là kho. 
 17

Phần II
Một Số Câu Chuyện Về Nhân Quả 
(Viết bởi Hòa Thượng Thích Thiền Tâm)
 Ai nói luân hồi chuyện vẩn vơ, 
Người, dê chuyển kiếp lẹ không ngờ
Đốt lò hương hỏi niệm xưa cũ, 
Nghe giọng triều âm tỉnh giấc mơ. 
1/ Mạnh Phu Nhân: 
Điền Canh Dã, quan Đề đốc tỉnh Quảng Tây, có
bà vợ  là Mạnh Phu nhân, bẩm  tính hiền  lương nhưng
chẳng may mất sớm. 
Khi Điền Công thuyền quan ở trấn Lương Châu,
đêm  trăng  ngồi  một  mình  nơi  Nha  dinh,  bỗng  mơ
màng như vào mộng thấy Phu nhân dung mạo cực đẹp,
từ trên ngọn cây phới phới bay xuống. Công mừng rỡ,
cùng nhau hỏi chuyện hàn huyên như  thuở sanh bình.
Phu nhân bảo: “Thiếp  vốn  là một  vị Thiên nữ do  túc
duyên  trước nên  nay  làm  bạn  với  tướng  công, duyên
trần  đã  mãn,  lại  trở  về  ngôi  cũ.  Nay  bởi  còn  chút
duyên thừa nên mới đến viếng thăm”. 
Công hỏi: “Tôi kết cuộc ở quan tước nào?”  18

Đáp: “Quan vị còn tăng không phải chỉ chừng ấy
mà thôi”. 
Hỏi: “Tôi thọ được bao lâu?” 
Đáp:  “Cơ  trời  khó  nói,  tướng  công  lúc  chết
không về nơi hương lý, không ở chốn quan nha, không
tại quán dịch bên đường, cũng không mất ở giữa chiến
trận, thời đến sẽ tự rõ”. 
Hỏi: “Sau khi  tôi chết, còn được  thấy nhau nữa
chăng?” 
Đáp: “Việc này đều bởi tướng công nếu cố gắng
tu, khi  sanh  lên cõi  trời  tất  sẽ được gặp, bằng không
chắc khó hy vọng”. 
Sau Điền Công  đi  chinh  phạt  giặc Miêu  trở  về
già, yếu chết dưới trướng binh. 
2/ Lai Tinh Hải: 
Lai Tinh Hải ngoại danh Lai Phục, người ở Tam
Nguyên  xứ Hiệp Tây. Ông  thi  đỗ Tiến  sĩ  khoa Đinh
Mùi, niên hiệu Vạn Lịch,  cha ông  là Lai Thiếu Sâm,
tánh  tình  điềm  đạm  khiêm  nhường,  cũng  là một  bậc
Tiến sĩ. 
Khi  Tinh Hải  chưa  sanh,  trong  làng  có một  vị
Tăng pháp danh Lai Phục, dốt chữ, chỉ nhờ người dạy
học  thuộc  lòng được phẩm Phổ Môn và Bát Nhã  tâm 19

kinh, ngoài ra không biết chi cả. Cách  làng hơn mười
dặm, có khoảng sông cạn đầy cát, đến mùa mưa nước
tràn ngập, người đi lại rất lấy làm khổ sở. Sư Lai Phục
không nề nhọc nhằn,  tự  thân đứng  ra đắp đường  làm
cầu,  có  ai  quyên  trợ  cũng  đều  từ  tạ. Do  đấy,  xa  gần
đều gọi sư là Phật Hòa thượng. Có người thấy sư khổ
hạnh, dốt nát, gọi là Chuyết Hòa thượng (Hòa thượng
quê  vụng).  Cũng  có  kẻ  hiềm  sư  không  chịu  đi  đám
tụng  Kinh,  nên  gọi  là  Lại  Hòa  thượng  (Hòa  thượng
làm biếng). Duy Tiến sĩ Lai Thiếu Sâm kính trọng sư,
nên gọi là Hữu Hạnh Hòa thượng. 
Sư  tánh  không  thích  cầu  cạnh  người, Lai Công
biết  ý,  thỉnh  thoảng  đến  chùa  nghe  sư  tụng  hai  thứ
kinh và cúng dường vải gạo cùng các thức ăn. 
Một hôm, Lai Công đang ngồi ở thính đường xử
việc chợt thấy Lai  Phục đi qua. Công vội vã đứng lên
đón rước, nhưng sư không đoái đến, đi thẳng vào nhà
trong; kêu hỏi cũng chẳng đáp. Công đang  lấy  làm  lạ
thì giây lát có tin truyền ra là Phu nhân sinh được một
đứa  bé  trai.  Thiếu  Sâm  vội  sai  người  đến  chùa  hỏi
thăm, mới  hay  sư  vừa  tọa  hóa. Công  biết  sư  đã  thác
sanh làm con mình, nên đặt ký danh là Lai Phục. 
Thuở  thiếu  niên,  Phục  cực  thông minh,  đọc  rất
nhiều sách,  tinh cả nghề  thuốc và bách công kỹ nghệ. 20

Lớn  lên  thi đỗ đi  làm quan các nơi, kẻ nghe biết đến
cầu  trị bịnh,  cứu  được  rất  nhiều  người. Khi  tuổi  lớn,
ông cáo bệnh về quê, thường bảo người rằng: “Ta vốn
là  kẻ  xuất gia, đi  trên đường hoạn  lộ đã  lâu;  e quên
mất tánh bản lai, biết làm sao?” 
Lúc sắp chết ông lại nói: “Nay ta muốn trở về để
nối thành công nhiệp cũ”. 
Nói xong liền qua đời. 
3/Hạ Phùng Thánh: 
Quan  tướng quốc đời Minh  là Hạ Phùng Thánh,
trong niên hiệu Sùng Trinh, cùng gia nhân từ miền quê
lên Kinh sư. Thuyền vừa đến mũi tầm ngư thuộc dòng
Cửu Giang, sóng to gió lớn chợt nối lên. Hạ Công vội
mặc triều phục cầm hốt ra trước thuyền khấn vái. Khi
ấy  người  trên  thuyền  thấy  giữa  hư  không  có  vị  thần
mặc  áo  lụa đỏ, xách  con quỷ đem  liệng xuống nước.
Liền đó, sóng gió dừng lặng. Công cho thuyền ghé vào
bờ,  thiết  lễ cúng nơi miếu Đại vương ở bên  sông, để
đáp ơn thần phò hộ. Do duyên sự này, từ đó về sau dân
chúng  càng  tin  tưởng,  đem  hương  đèn  dê  lợn  dâng
cúng nơi miếu mỗi ngày thêm nhiều. 
Năm  Sùng Trinh  thứ mười  ba, Kỳ Thân  vương
muốn  phục  hưng  đạo  tràng  Quy  Ngưỡng,  cho  rước 21

Tam Muội  Quang  Luật  sư  vào  đất  Sở.  Thuyền  qua
Cửu  Giang,  Luật  sư  mơ  thấy  một  vị  áo  mão  trang
nghiêm đến  thưa  rằng: “Tôi  là Tống Đại vương,  thủy
thần ở  sông Cửu Giang. Kiếp  trước  tôi cùng Luật  sư
và Hạ Tướng Công, ba người  là bạn đồng  tu ở chốn
thâm  sơn.  Luật  sư  không mê  là  chính  nhân,  nên  đời
này  là  bậc  cao  Tăng. Hạ  công  do  phước  duyên,  lên
đến  ngôi  tể  tướng. Còn  tôi,  vì một  niệm  sai  lầm,  trở
thành vị  thần hưởng huyết  thực. Trước đây, Hạ Công
bị  con  yêu  nơi  cây  đại  thọ ở mũi Tầm Ngư  nổi  sóng
muốn lật thuyền, tôi vì nghĩ đến tiền duyên nên ra tay
giúp đỡ. Không ngờ do  sự việc đó mà dân chúng  sát
sinh đến cúng  tế ngày càng  thêm nhiều, e rằng  tương
lai tất bị đọa vào Vô gián Địa ngục. Ngày mai Luật sư
đi ngang qua đây, xin ghé vào miếu  từ bi  thọ ký cho.
Lại xin công bố việc này cho bốn phương hay biết, để
về sau dân chúng đừng sát sanh cúng tế nữa. Như thế,
niềm hân cảm, mối thâm ân sẽ vô hạn!”. Sau khi tỉnh
dậy Luật sư ghi nhớ và nhất nhất làm y theo lời. 
Từ  đó  về  sau,  giang  thuyền  qua  lại  mũi  Tầm
Ngư, quanh năm đều được yên ổn, kẻ lữ hành chỉ dùng
trai  thực  hoa  quả  cúng  tế mà  thôi. Chuyện  này  cùng
với việc thần hồ Cùng Đinh Thác mộng cho vị sư con 22

vua  nước An  Tức  cầu  cứu  độ,  có  phần  tương  đồng.
(Trích lục Trì Bắc Ngẩu Đảm) 
4/ Chuyện Vị Lão Tăng 
Thế gian diễn hứa bi hoan sạ 
Dục nhập tham thiền vạn kiếp không. 
Thời  Trung  Hoa  Dân  Quốc,  cư  sĩ  Uông  Hiểu
Viên một hôm ra chợ, thấy vị lão Tăng đứng ngó sững
vào hàng thịt rưng rưng nước mắt, cư sĩ lấy làm lạ hỏi
duyên cớ. Lão Tăng đáp. 
Câu chuyện rất dài xin lược thuật phần đại khái.
Tôi nhớ được việc hai kiếp về trước. Đời thứ nhất, tôi
là một  tên đồ  tể. Hơn ba mươi  tuổi mãn phần, hồn bị
người  bắt  trói  đưa  đi. Minh  quan  trách  là  nghiệp  sát
nặng,  cho  quỉ  áp  giải  đến  ty Chuyển  luân  để  thọ  ác
báo. Lúc  bị  xô  xuống  con  sông đen  tối,  tâm  thức  tôi
hoảng hốt mơ màng,  thoạt  tiên  thật nóng như  lửa đốt
khó nhẫn, kế đó là cảm hơi mát mẻ; tỉnh ra thì mình đã
sinh  làm  kiếp  súc  vật  trong  chuồng  heo. Sau  khi  dứt
sữa,  thấy  thức  ăn  không  được  sạch,  lòng  cũng  biết
nhàm gớm nhưng vì đói quá gan ruột cồn cào, nên bất
đắc dĩ phải nhắm mắt nuốt vào. Sau lần lần thông tiếng
nói  của  loài  heo,  thường  cũng  hỏi  han  nhau,  trong
đồng  loại cũng  lắm kẻ nhớ biết kiếp  trước của mình, 23

song không  thể nói cho người hiểu được. Đại để đều
nhận  thức mình  sẽ bị giết, nên  có  lúc  rên  rỉ, đôi mắt
ướt,  là  tỏ dấu bi sầu. Loài heo  thân  thể  thô nặng, vào
mùa  hạ  rất  nóng  khổ  chỉ  tìm  đống  bùn  nằm  vùi mới
đỡ,  song  cũng không  thường  có được. Bởi  lông  thưa
và  cứng,  nên mùa  đông  lại  khổ  vì  lạnh,  thân  thể  giá
buốt, thấy loài dê chó lông nhuyễn dầy, hằng mơ ước,
xem  như  loài  thú  tiên.  Đến  lúc  bị  bắt  tự  biết  mình
không  khỏi,  nhưng  sợ  quá  nhảy  chạy  càn, mong  kéo
hưỡn mạng sống được phút nào hay phút nấy. Khi bị
trói  rút  bốn  chân  khiêng  đi,  dây  huyết  đau  đến  tận
xương. Lúc người bỏ  lên xe  chạy về,  thân hình  cùng
đồng  loại chồng chất đè  lên nhau, máu huyết ứ đọng,
gần như muốn đứt. Khi đến nhà lò, bị liệng xuống đất,
gan ruột tựa hồ tan nát. Nhìn thấy dao bén chảo vạc để
hai bên, lòng bắt run sợ, không biết đến khi bị giết sẽ
đau đớn như  thế nào? Lúc  thọc huyết,  thân  tâm  sảng
sốt  rụng  rời,  thấy  ánh  đao  chớp  lên  liền  nhắm  mắt
không dám nhìn  thẳng. Khi đồ  tể ấn  lưỡi dao vào cổ,
rung lắc mạnh cho huyết chảy xuống bồn, ban đầu còn
kêu  la,  sau  chỉ  rên  nhỏ  trong  cổ  họng,  cho  đến máu
chảy đến tắt hơi, sự đau khổ thật không thể hình trạng!
Bấy  giờ  hoảng  hốt mê  ly  như  say  như mộng,  chừng
tỉnh  dậy  thấy mình  đã  thành  hình  người. Minh  quan
xét  thấy  kiếp  trước  còn  có  nghiệp  lành,  nên  cho 24

chuyển  sinh  làm người,  tức  là  thân đời nay đây. Vừa
rồi tôi thấy loài heo bị giết thương nó đau đớn, nhớ lại
kiếp trước mình đã chịu khổ độc, rồi tiếc cho người đồ
tể tương lai cũng bị nỗi khổ đó, ba mối niệm giao cảm,
bất giác thương tâm không biết rơi lệ từ lúc nào!. 
Nói  xong,  quay mặt  bỏ  đi.  Lúc  ấy  người  xung
quanh  nghe  nói,  chỉ  trỏ  bàn  tán  phân  vân. Bác  hàng
thịt được biết câu chuyện,  sanh  lòng  sợ hãi,  từ đó về
sau đổi nghề đi bán rau đậu.  
(Trích lục Phật Học Chỉ Nam) 
5/ Thái Thú Họ Ngưu: 
Miền Tích Châu, có Uông Tả Viên tiên sinh, biệt
hiệu là Sĩ Khan. Trong liên hiệu Gia Khánh, Uông thi
đỗ Tiến sĩ, được bổ làm huyện lệnh ở Tứ Xuyên. Dưới
quyền  quản  lãnh  của  tiên  sinh  có  viên  Thái  thú  họ
Ngưu, vốn là hàng đồng niên và đã chiếm Á nguyên ở
bản tỉnh. 
Quan Thái thú này, bàn tay mặt là tay người, còn
bên  trái  lại  là móng  ngựa. Ông  nhớ  rõ  việc  ba  kiếp
trước, từng thuật với tiên sinh rằng: 
Đời trước tôi là một vị tướng, vì đánh giặc Miêu
tàn  sát  quá  nhiều,  nên Minh  quan  phạt  cho  chuyển
kiếp  làm ngựa. Khi sanh  ra đã đổi  thành  thân ngựa ở 25

trong  tàu,  tự  bị  thường  la  ré  nhảy  cắn,  không  ăn mà
chết. Minh  ty quở  là cưỡng  lệnh, đánh phạt,  rồi cũng
cho chuyển  sanh  làm ngựa như cũ. Lần này, vì  sợ bị
trách phạt, nên không giám cầu chết. Khi lớn lên được
một vị  tướng quan chọn  lựa để cưỡi. Viên  tướng này
tánh  tình nóng nảy hung bạo, nên  thân mình hằng bị
roi vọt, trăm điều thống khổ. 
Một hôm vị tướng đánh giặc thua quân địch đuổi
theo  rất  gấp. Tôi  chở  chủ  tướng  bôn  đào,  thoạt  chạy
đến một khe núi  rộng ước hơn  trượng, bờ bên kia đá
nhọn  dựng  chập  chồng.  Lúc  ấy  tôi  nghĩ:  “Nếu  nhảy
qua  mình  sẽ  phải  chết,  song  chủ  tướng  có  thể  đào
sanh. Như  không  vượt  qua,  tất  chủ bị  binh  giặc  theo
giết”. Nghĩ xong,  liều mình cố hết  sức nhảy qua khe
núi, bụng bị đá nhọn đâm, rách ruột mà chết. Vị tướng
nhờ đó mà thoát nạn. 
Sau  khi  tôi  chết, Minh  ty  khen  là  trung  nghĩa,
hứa cho chuyển thân người lại là văn quan, lên đến bậc
tứ phẩm. Trước khi lúc tôi sắp làm ngựa, quỉ tốt lấy da
ngựa khoác vào mình; đến khi trở lại làm người, lại lột
da ngựa ấy đi. Nhưng vì  tôi đã hai kiếp  làm ngựa, da
dính khắn vào  thân, quỷ dùng dao  lột da, đau đến  tận
xương  tủy. Khi  dao  rạch  đến móng  lại  càng  đau  đớn
không thể nhẫn, nhân mới lén lút giấu móng chân đằng 26

trước. Quỷ tốt cũng không để ý phát giác. Cũng ngờ vì
duyên cớ đó, mà lúc chuyển sanh, bàn tay trái lại thành
móng ngựa. 
Kể  chuyện  xong,  Thái  thú  bảo  Uông  Tả  Viên
rằng: “Lộc  vị  của  tôi  chỉ  đến  chừng  này, mạng  sống
cũng  chẳng  còn  bao  lâu,  đến  ngày  tháng  ấy...  sẽ  từ
trần”. Sau việc quả nhiên. 
(Dung ai bút ký)
6/ Giết Dê Hại Vợ: 
Lưu Đạo Nguyên làm quan huyện tại Bông Khê,
lúc giải chức trên đường về ở trọ nhà họ Tần. Đêm ấy
ông mộng thấy một thiếu phụ đến khóc thưa: “Tôi vốn
là vợ họ Tần nhà này. Vì lỡ tay đánh chết người thiếp.
Nên bị Minh quan xử phải đền mạng, lại phạt làm dê.
Nay  tôi đang ở  trong chuồng,  sáng sớm  sẽ bị giết để
đãi ông. Tôi chết vẫn không tiếc, nhưng vì trong bụng
hiện mang thai dê con. Nếu nó nhân đó mà chết theo,
thì tội lỗi càng thêm nặng”. 
Lưu Đạo Nguyên  đợi  đến  sáng  thuật  lại,  thì  dê
cái đã bị giết. Cả nhà nghe nói khóc rống, nhét dê con
trở vào bụng dê cái rồi đem đi chôn. 
7/ Phạm Dâm Trả Quả:  27

Trần Sinh ở Động Đình nhà rất nghèo, nên đem
vợ và  em  trai  di  cư đến Châu Kinh. Nơi đây  thương
khách tới lui tấp nập. Trần tánh hay chiều chuộng nịnh
bợ  lại  khéo mua  bán,  nên  chẳng mấy  năm  gia  tư  có
đến ngàn lượng vàng. 
Một  hôm,  ông  bỗng  vướng  bệnh  nằm  liệt  vài
ngày, rồi trỗi dậy bảo vợ và em rằng: “Ba người chúng
ta kiếp  trước đều  là Tu sĩ, chung nhau gian dâm một
thiếu  phụ,  rồi  giết  người  chồng.  Kẻ  cầm  giao  giết
chính  là  tôi. Nay Minh  vương  cho  quỷ  đến  bắt,  oan
trái  tất  phải  đền  trả.  Bây  giờ  tôi  đi  trước  còn  hai
người  chắc  chắn  cũng  không  thoát  khỏi  đâu”.  Nói
xong  tự  nhổ  râu  tóc,  lấy  dao  cắt  lưỡi mình;  lại  dùng
lấy  hai  ngón  tay móc  đôi  tròng mắt  lôi  ra,  giây  phút
liền tắt thở. 
Cô vợ và người em mấy ngày sau cũng chết. 
8/ Bất Hiếu Đọa Làm Heo: 
Hầu Nhị ở Kim Đơn vốn  là kẻ bất hiếu. Bà mẹ
đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu Nhị trông thấy nổi
giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà, vợ con khóc lóc can
gián,  y  cũng  không  nghe. Chẳng  bao  lâu  khắp mình
Nhị sinh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau nhứt cho đến lúc
y mãn phần.  28

Sau  khi  chết,  Hầu  Nhị  về  ứng  mộng  cho  con
thấy,  bảo  rằng:  “Cha  do  ngỗ  nghịch  bất  hiếu  nên  bị
phạt đọa làm heo ở nhà Trương Nhị nơi cửa Tuyên Võ
tại Kinh sư. Con nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu
để trễ e không kịp!”. 
Thức dậy đứa con y theo lời tìm đến nhà Trương
Nhị, quả có heo nái vừa sinh ra mấy heo con. Trong đó
một  heo  con  hình  thú mặt  người,  có  râu mép,  trạng
mạo  giống  cha mình. Đứa  con  thương  khóc  thuật  lại
duyên  cớ,  nguyện  đưa  ra mười  lạng  vàng  xin  chuộc
đem về. Nhưng Trương Nhị không nghe đem heo con
ra giết. 
Việc này xảy ra vào niên hiệu Khang Hy thứ 39
đời Thanh. 
9/ Vùi Trong Bếp Lửa: 
Bên  nhà một  phú  ông  ở Hoa Đĩnh  có  thân  cây
khô rất to. Ông sắp đốn, thì đêm lại mộng thấy một lão
nhân dẫn nhiều người tới, xin hãy thong thả chậm lại ít
hôm cho dời đi. Phú ông biết  trong cây có vật  lạ,  sai
người  trèo  lên  nhìn  xem,  thì  thấy  cây  đó  bọng  ruột.
Trong bọng cây có vô số rắn lạ nằm khoanh. Ông liền
bảo đầy tớ chất củi đổ dầu đốt cháy cây ấy. Lúc đó hơi
tanh hôi bay xa cả dặm, phú ông đắc ý vỗ tay cả cười.  29

Không  bao  lâu,  ban  đêm  phú  ông  thấy  có  đám
lửa to bay vào nhà. Ông gọi gia nhân thức dậy đến cứu
chữa, nhưng  lại  tịnh nhiện không có chi cả. Việc như
thế xảy ra nhiều lần rồi đều lặng lẽ, cả nhà không thấy
làm lạ. Đem nọ đứa tớ gái trộm củi đem nấu đồ riêng,
bỗng lửa phát cháy đỏ, phú ông và tất cả gia nhân đều
cho  là  trạng  thái  cũ,  nằm  nghỉ  luôn  không  thức  dậy.
Nhưng lần này nhà cháy thật, cả gia quyến đều bị vùi
thân trong lửa.
******

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét